Những đồng tiền kể chuyện mình

Lịch sử tiền tệ Trung Hoa bắt bằng việc sử dụng vỏ sò trong giao dịch. Vỏ sò được dùng làm tiền chí ít là từ thời nhà Thương (nếu không phải từ thời nhà Hạ), với chữ trên giáp cốt văn dùng bộ bối để chỉ tiền tệ. Sang thời Chu vỏ sò thật được thay bằng vỏ sò đúc đồng. Liệu ở trên đất Việt thời đó đã biết dùng vỏ sò chưa? Rõ ràng là có bởi vì khu vực đất Điền ở Vân Nam đã phát hiện những chiếc thùng (thạp) đựng vỏ sỏ làm tiền. Đất Điền không hề giáp biển nên những vỏ sò này chắc chắn có nguồn gốc từ vùng ven biển, tức là từ Vịnh Bắc Bộ mà ra. Người Điền biết dùng vỏ sò thì hiển nhiên người Lạc Việt cũng phải biết dùng vỏ sò làm tiền tệ.

Dao tien 2Đao tiền thời Chu ở Việt Nam

Cuối thời Đông Chu tiền tệ Trung Hoa tiến thêm một bước. Vỏ sò đồng được thay bằng những loại tiền có hình công cụ lao động như bố tiền (tiền hình lưỡi mai đào đất), đao tiền (tiền hình con dao). Trên bố tiền và đao tiền đều có những kim văn ghi thông tin về những loại tiền này. Với định vị nhà Chu nằm ở tận lưu vực sông Hoàng Hà, thời Xuân Thu Chiến Quốc thiên hạ Trung Hoa còn cách đất Việt hàng ngàn km qua nhiều vùng đất lãnh thổ thì không thể hiểu tại sao ở Việt Nam, ở Lào lại có những bố tiền, đao tiền của nhà Chu được tìm thấy trong khảo cổ. Những đao tiền nhỏ hay to nặng tới 40 g cũng có thể thấy ở Việt Nam, với đầy đủ kim văn (đại triện) của thời Chu.

Hoan tien 2Bố tiền và Hoàn tiền thời Chu ở Việt Nam

Cuối thời Đông Chu xuất hiện loại tiền có hình tròn, nhưng lỗ tiền vẫn giữ dạng tròn, gọi là hoàn tiền hay viên tiền. Trên hoàn tiền có chữ đại triện, tương tự trên đao tiền. Những đồng hoàn tiền nhà Chu này cũng được tìm thấy ở Việt Nam.
Sự có mặt phong phú những loại tiền của thời Chu tại Lào, Việt Nam cho thấy khu vực này nằm trong phạm vi giao dịch buôn bán của Trung Hoa thời kỳ trước công nguyên. Mối liên hệ giữa nhà Chu và vùng đất Lào Việt cần được xem xét lại khi những hiện vật thời Thương Chu được tìm thấy khá nhiều tại đây.
Đồng tiền có lỗ vuông của Trung Hoa đầu tiên là đồng Bán lạng, viết bằng chữ Tiểu triện (Tần triện) đúc từ thời Tần. Một số sách cho rằng tiền Bán lạng được Tần Thủy Hoàng bắt đầu dùng khi thống nhất lục quốc. Thực ra tiền lỗ vuông Bán lạng lần đầu tiên được đúc bởi Tần Huệ Văn Vương Doanh Tứ. Đây là vị vua Tần đầu tiên xưng vương, có ý tranh ngôi thiên tử của nhà Chu nên việc cho đúc một loại tiền mới khác biệt cũng là hợp lý.
Tiền Bán lạng tồn tại tới đầu triều Tây Hán. Hiếu Cao Tổ Lưu Bang khi lên ngôi cho rằng đồng Bán lạng quá nặng, khó sử dụng nên cho đúc loại tiền có trọng lượng nhẹ hơn là tiền Ngũ thù. Sau thời Lữ Hậu thì những đồng tiền Bán lạng đủ cân đủ trọng lượng (12 thù) không còn được đúc nữa. Ở Bắc Việt tiền Bán lạng đôi khi được tìm thấy trong các địa điểm khảo cổ như ở di tích Cổ Loa (cùng với trống đồng Cổ Loa). Việc phát hiện tiền Bán lạng ở Việt Nam cho thấy đồng tiền này đã được lưu hành ở nước ta từ thời Tần.

Hoa tuyen 3
Hóa tuyền

Khi Vương Mãng tiếm ngôi nhà Hiếu đã có hàng loạt những cải cách tiền tệ, dẫn đến sự rối loạn trong xã hội. Vương Mãng chỉ ở ngôi 15 năm nhưng đã cho đúc khá nhiều loại tiền. Những đồng tiền này đều dùng Triện thư ghi trên mặt tiền. Đặc biệt Vương Mãng còn ra quy định bất kỳ ai ra đường cũng phải mang theo Bố tiền (tiền hình thuổng), nếu không thì bị xem là thiếu chứng minh hợp pháp. Các lữ quán, bến đò không nhận khách không mang theo bố tiền. Các quan khi ra vào cung điện cũng phải mang theo bố tiền.
Bố tiền và Hóa tuyền của nhà Tân được tìm thấy ở Việt Nam (và Lào) khá nhiều. Ví dụ cả bộ bố tiền 10 loại từ Tiểu bố nhất bách, Huyền bố nhị bách, Ấu bố tam bách đến Thứ bố cửu bách rồi Đại bố hoàng thiên đều thấy có tại nước ta. Rồi những đồng Hóa tuyền, Bố hóa của thời này cũng được phát hiện tại Việt Nam.

Bo tien 2Các loại bố tiền thời Vương Mãng thấy ở Việt Nam

Vấn đề là theo sử sách hiện tại thì khi Vương Mãng “làm loạn”, chiếm ngôi nhà Hán thì ở Giao Châu châu mục Đặng Nhượng cùng các thái thú Tích Quang, Đỗ Mục đã “đóng chặn bờ cõi để tự giữ”. Mãi tới khi Hán Quang Vũ lên ngôi, Sầm Bành dẫn quân xuống phương Nam thì Đặng Nhượng mới vào triều cống, nhận tước hầu của nhà Đông Hán. Nếu như vậy thì cả giai đoạn 15 năm trị vì của Vương Mãng (năm 9 – 23) Giao Châu không thuộc đất nhà Tân. Làm sao những đồng bố tiền – giấy thông hành thời Vương Mãng – lại tìm được nhiều đến vậy trên đất Giao Châu?
Sự có mặt đầy đủ các loại tiền thời nhà Tân trên đất Việt cho thấy không hề có chuyện các châu mục, thái thú Giao Châu của nhà Tây Hán chống lại Vương Mãng. Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục đã đóng ải tự giữ Giao Châu là chống lại sự bành trướng của Đông Hãn quốc xuống phương Nam. Kết cục là những kẻ sĩ Giao Châu này đã bỏ mình vì nước và Mã Viện của Đông Hán đã cho thu hết đồ đồng ở Giao Chỉ để đúc thành ngựa. Có lẽ chỉ những đồng bố tiền với vai trò tiền tệ quan trọng không thể thiếu trong xã hội nên mới được giữ lại.
Từ lúc Mã Viện chiếm Giao Châu tới suốt thời Nam Bắc triều khu vực Giao Châu nằm dưới ách nô lệ của người Hán. Đồng tiền được dùng chủ yếu của thời kỳ này là tiền Ngũ thù. Mãi tới khi Đường Cao Tổ Lý Uyên lên ngôi mới thay đổi tiền Ngũ thù sang loại tiền mới là đồng Khai Nguyên thông bảo. Kiểu tiền “thông bảo” tròn lỗ vuông từ đó duy trì qua các triều đại cho tới mãi triều Nguyễn sau này.
Đại Đường là một đế quốc với lãnh thổ rộng lớn từ Nam chí Bắc. Do đó cùng là tiền Khai Nguyên thông bảo nhưng có thể được đúc ở nhiều khu vực khác nhau. Việc này được thể hiện là ở mặt sau của đồng Khai Nguyên thông bảo có đúc chữ chỉ khu vực đúc tiền. Hoặc chữ ở mặt lưng đồng tiền có những ý nghĩa khác. Tại Việt Nam đã thấy một số loại tiền Khai Nguyên thông bảo với các chữ Kinh, Đàm, Nhuận, Tương, Tuyên, Quế, Lạc, Hồng, Ngạc, Lam, Quảng, Hưng, Duyện, Ích, Lương, Việt, Xương, Phúc, Công,…
Nhà Đường suy, các khu vực phiên trấn (các đạo) lần lượt tự xưng vương lập quốc. Bước vào thời kỳ Ngũ đại thập quốc, các triều đại trung ương và các quốc gia trong thời này đều có đúc những đồng tiền mang niên hiệu, tên gọi riêng. Đáng chú ý là có đồng tiền Đường Quốc thông bảo của nước Nam Đường, là đồng tiền không dùng niên hiệu của vua mà dùng tên quốc gia đặt cho đồng tiền của mình.
Thời Ngũ đại thập quốc kết thúc bởi nhà Tống. Không phải Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn mà là Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa mới là người thực sự đánh dẹp được nhà Bắc Hán năm 979, kết thúc thời kỳ Ngũ đại. Từ tháng 12/976 tới 11/984 Triệu Khuông Nghĩa lấy niên hiệu là Thái Bình Hưng Quốc. Đồng tiền được Tống Thái Tông đúc là đồng Thái Bình thông bảo, một đồng tiền chất lượng tốt, đúc cẩn thận, chữ viết đẹp.
Trên đất Giao Châu lúc này xuất hiện loại tiền Thái Bình hưng bảo với chữ Đinh ở mặt sau đồng tiền. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là đồng tiền của Đinh Bộ Lĩnh vì theo sử sách chép vua Đinh có niên hiệu là Thái Bình. Niên hiệu Thái Bình của vua Đinh được chép là từ năm 970 – 980.

 Thai Binh 2
Đại Hưng bình bảo và Thái Bình thông bảo

Như vậy xuất hiện một vấn đề. Trên đất Việt những năm 970 – 980 lưu thông 2 loại tiền cùng một tên gọi là Thái Bình. Một đồng Thái Bình thông bảo của nhà Tống. Một đồng Thái Bình hưng bảo có chữ Đinh ở mặt lưng. Có điều đồng Thái Bình hưng bảo đọc đúng theo chữ trên hiện vật qua hàng trăm đồng thì chữ đầu tiên là chữ Đại. Không hề có đồng “hưng bảo” nào có chữ Thái cả. Cổ vật không thể sai. Chỉ có sách sử sai mà thôi…
Từ so sánh sự phát triển các đồng tiền thời kỳ này có thể nhận ra:
–    Niên hiệu Thái Bình của Đinh Bộ Lĩnh thực ra là của Tống Thái Tông, người đã kết thúc cục diện chia năm xẻ mười của Trung Hoa như trên đồng Thái Bình thông bảo. Sử Việt chép là Đinh Bộ Lĩnh đã thống nhất 12 sứ quân. Các sứ quân ở đây phải hiểu là các tiết độ sứ theo chế độ phiên trấn từ thời Đường.
–    Đồng tiền có chữ Đinh phải đọc theo thứ tự và mặt chữ đúng là Đại Hưng bình bảo. Đại Hưng là tên nước. Tiền lệ  lấy tên nước đặt tên cho tiền hoàn toàn đã có vào thời kỳ này như ở đồng Đường Quốc thông bảo của nước Nam Đường.
–    Chữ Đinh không phải chỉ quốc tính (họ của vua) mà là chỉ khu vực lãnh thổ tiền được đúc, tương tự như những chữ Kinh, Tương, Duyện, Ích… ở mặt sau của đồng Khai Nguyên thông bảo. Đinh hay Tĩnh chỉ là một nghĩa, chỉ Tĩnh Hải quân thời Đường, tức là vùng Giao Chỉ.
Đại Hưng là nước nào? Tĩnh Hải quân tại sao lại đúc riêng tiền Đại Hưng?
Đại Hưng chính là nước Đại Việt thành lập bởi Lưu Cung năm 917, đóng đô ở Phiên Ngung thời Ngũ đại. Lưu Cung sau mấy năm lập quốc đã đổi tên nước thành Đại Hưng, sử Tàu nhập nhèm biến thành nước Đại Hán (Nam Hán). Nước Đại Hưng tồn tại từ Lưu Cung tới Lưu Sưởng gồm 4 đời vua, kéo dài hơn 50 năm, sau đó bị Tống Thái Tổ diệt năm 971. Kinh đô Phiên Ngung rơi vào tay nhà Tống. Nhưng…
Phần đất Tĩnh Hải của nước Đại Hưng, nơi đúc đồng tiền Đại Hưng bình bảo với chữ Đinh ở mặt lưng, thuộc về Tống nhưng vẫn giữ chế độ phiên trấn (tiết độ sứ). Đinh Liễn có tước phong của nhà Tống là Tĩnh Hải quân tiết độ sứ Giao Chỉ quận vương. Lê Hoàn cũng được phong Giao Chỉ quận vương…
Tiếp theo là đồng tiền Thiên Phúc trấn bảo, mặt sau có chữ Lê, được cho là của Lê Đại Hành (niên hiệu Thiên Phúc). Thực ra việc đúc một đồng tiền mang tên riêng, họ riêng chưa chắc thể hiện sự độc lập hoàn toàn của quốc gia. Một khu vực tự trị, hay tiết độ sứ hoàn toàn có thể đúc tiền mang tên riêng. Cũng vì thế mà trong bộ sưu tầm tiền cổ Việt Nam có khá nhiều đồng tiền xếp vào loại “vô khảo phẩm”, vì tên của chúng không tương ứng với một triều đại nào được biết trong sử sách hết. Những đồng tiền tương tự được phát hiện thường là ở khu vực phía Tây nước ta. Rất có thể những đồng tiền này thuộc về một quốc gia khác, không phải Trung Hoa, không phải Đại Việt. Vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ nước ta không bị nghìn năm Bắc thuộc, từ thời Tấn vẫn độc lập với tên nước là Lâm Ấp rồi Nam Chiếu. Những đồng tiền vô khảo ở đây có thể là tiền đồng của xứ Lâm Ấp.
Tiền cổ Việt Nam đúng là một kho báu vô cùng phong phú. Sự quí báu của những đồng tiền này không chỉ do chúng hiếm, đẹp, hay có giá trị vật chất cao. Giá trị của tiền cổ trước hết ở chính những thông điệp lịch sử mà cổ vật chứa đựng, truyền tải cho ngày nay.

Đồ đồng thời Thương Chu ở Việt Nam

Đồ đồng ở Việt Nam thường được nhắc đến là đồ đồng văn hóa Đông Sơn với những chiếc trống đồng “không lẫn đi đâu” được. Ở trung tâm của các vòng tròn trên mặt trống đồng có hình sao nhiều cánh. Nhiều nhà khảo cổ bảo đó là hình ngôi sao. Nhưng ngôi sao gì mà người Việt lại để nó ở ví trí trung tâm như vậy? Chính xác thì đó phải là hình ảnh của mặt trời, nguồn sống của muôn loài. Một chiếc trống đồng mới đây được trưng bày tại triển lãm Mỹ thuật cổ ngoạn 2014 tại Hà Nội cho thấy rõ điều này.

Trong dongMặt trống đồng bày trong triển lãm Cổ ngoạn 2014 ở Hà Nội

Hình ở giữa mặt trống vẽ rõ ràng là mặt trời tròn với những tia sáng nhỏ thẳng xung quanh. Các trống đồng khác vẽ mặt trời cách điệu hơn, với các tia sáng to rộng hơn nhưng không thể mặt trời biến thành ngôi sao được.
Bên cạnh đồ đồng Đông Sơn, ở Việt Nam còn có những hiện vật của một dòng đồ đồng khác. Các nhà khảo cổ quen gọi đó là đồ đồng “Hán – Việt”, ý nói là đồ văn hóa “Hán” nhưng sản xuất tại “Việt”. Có điều những đồ đồng này có niên đại còn trước cả thời Hán nhiều, tức là trước khi nước “Việt” ta bị đô hộ bởi người phương Bắc. Vậy người Việt lấy đâu ra những thứ đồ “Hán” này?

Lich

Một vài ví dụ về những đồ đồng phong cách “Hán Việt” tìm thấy ở Việt Nam. Một chiếc lịch đồng, dạng vật đựng giống như đỉnh 3 chân nhưng nhỏ hơn, được thấy ở Hà Nội. So sánh với đồ đồng Trung Hoa thì thấy ngay chiếc lịch này không khác chiếc lịch Bá Củ thời Tây Chu tìm thấy ở tận Bắc Kinh là bao. Hoa văn hoàn toàn giống. Chỉ khác biệt ở vài chi tiết như phần nắp.

Lich Ba Cu Lịch đồng ở Hà Nội

Lịch Bá Củ có chữ được coi là một trong những bằng chứng về thời Tây Chu ở Bắc Kinh (trích sách Đồ đồng Trung Quốc). Làm thế nào mà chiếc lịch như vậy lại có ở Việt Nam? Nhà Tây Chu nằm ở “Bắc Kinh” hay Việt Nam?

Nghien

Một đồ vật khác là loại nghiễn, đồ đựng nấu thức ăn ba chân với 2 phần trên dưới tách biệt. Chiếc nghiễn tìm thấy ở Giang Tây (Tân Can) có niên đại tới tận thời Thương (cách đây trên 3000 năm) đã là lạ vì đồ đồng Thương lại gặp ở Nam Dương Tử. Nhưng những chiếc nghiễn tương tự lại cũng có ở Việt Nam. Bảo tàng cổ vật Hoàng Long ở Thanh Hóa có sưu tầm một chiếc nghiễn ba chân thời kỳ này. Khác biệt là phần chân nghiễn thay vì các mặt thú “thao thiết” thì chiếc nghiễn ở Thanh Hóa lại thay bằng đầu voi, có ngà có tai đầy đủ.

0Nghien Chiếc nghiễn ở Bảo tàng Hoàng Long

Niên đại xác định trên hình cho chiếc nghiễn này cần lùi lại thêm 1000 năm nữa, tức là vào thời cuối Thương đầu Chu. Cho dù đây là đồ “Hán Việt”, nhưng không có nghĩa là phải đợi tới thời Hán (sau Công nguyên) thì mới có đồ đồng ở Việt Nam.

Giam Tang At HauMuộn hơn, đồ đồng thời Chiến Quốc như chiếc giám của Tăng Ất Hầu tìm thấy ở Hồ Bắc lại có một hiện vật giống y hệt gặp ở Việt Nam. Giám là đồ đựng nước hay đựng rượu lạnh kích thước tương đối lớn, đôi khi có thể dùng để soi gương. Giám Tăng Ất Hầu được trang trí vô cùng cầu kỳ, tinh xảo, thể hiện trình độ đúc đồng rất cao của thời kỳ này.

GiamChiếc giám đồng ở Hà Nội

Trong những đồ vật thời Thương Chu bắt gặp ở Việt Nam thì có thể nói tới bộ sưu tầm của ông Dương Phú Hiến, với chiếc ấm hình con vẹt, ấm vuông hình rồng, bộ chuông đồng … Ông Dương Phú Hiến hơi quá lời khi nói những đồ này có niên đại 5.000 năm tuổi (?!). Nhưng rất có thể chúng cũng trên 2000 năm tuổi rồi.
Tản mát trong dân gian, trong các hàng đồ cũ đôi khi cũng có thể thấy những đồ đồng của văn hóa “Hán Việt” tương tự. Như đôi bình đồng cổ này niên đại hẳn cũng vào thời Tây Chu được bày bán ở Hà Nội.

BinhThực ra chẳng có văn hóa “Hán Việt” nào cả. Đúng thì phải gọi là văn hóa Hoa Việt. Nhà Chu tiếp nối nhà Thương, Tây Chu đóng kinh đô ở Vân Nam, Đông Chu ở Hà Nội ngày nay nên những hiện vật thời Thương Chu có thể tìm thấy rải rác khắp nơi tại khu vực Lào – Việt. Đất của thiên tử Chu thì hiển nhiên phải có đồ vật của văn hóa Trung Hoa thời kỳ này ở đây. Chơi đồ đồng Thương Chu không cần phải sang Trung Quốc làm gì, cứ sang Lào và đến Việt Nam, cái gì cũng có…

Đồ đồng thời Thương Chu ở Lào

Sang Lào để xem cổ vật thời Thương Chu của Trung Hoa, nghe vậy ai cũng bảo là chỉ có mà đồ rởm, đồ nhái từ Tàu mang về. Thật giả khó phân, nhưng cầm sách Đồ đồng thau Trung Quốc (tác giả Lý Tùng, Phó viện trưởng Viện mỹ thuật Viêm Hoàng) sang Lào thì gặp rất nhiều cổ vật được kể trong các bảo tàng của Trung Quốc lại thấy bán ngoài chợ của Lào.

Đồ thời Thương Chu là đỉnh cao của nghệ thuật đồng thau phương Đông. Ở thời kỳ này những đồ đồng đều là những đồ vật thuộc về tầng lớp quí tộc, vua chúa, thể hiện thần quyền và quân quyền nên thường là những đồ to, nặng, tạo hình và hoa văn mang vẻ nghiêm trang, kỳ bí.

Một trong những đồ đồng Thương Chu có thể gặp ở Lào là những chiếc hủy quang đựng rượu. Quang là dạng cốc đựng rượu lớn, có 3 hay 4 chân, được trang trí bằng các hình chim thú. Trong Kinh Thi và những tài liệu cổ đại khác đều có nhắc đến dụng cụ đựng rượu hủy quang này. Những chiếc quang chỉ làm vào thời Thương và Tây Chu. Từ cuối Tây Chu trở đi hủy quang không còn được đúc nữa.
Quang
Điền hình gặp ở Lào là chiếc quang hình chim thú đời nhà Thương. Một chiếc quang giống như thế này được bảo quản ở Bảo tàng mỹ thuật Freer Hòa Kỳ, nhưng ở Lào lại có thể thấy có vài chiếc. Chiếc quang này được trang trí bằng hơn 30 hoa văn lập thể hình động vật. Phần nắp đậy phía trước là hình con quỳ long có sừng cong đang nhe răng. Phần sau lại là một quái thú mõm cá có sừng nhọn. Phần lưng hai bên là cảnh hổ và cá rượt đuổi nhau. Trên lưng là một loài bò sát có chân như thằn lằn nhưng có 2 râu dài tròn như ốc sên.

Trên phần cốc đầu trước là một con chim mỏ nhọn. Phần quai cầm là một con chim khổng lồ đang đứng, có mào lớn rộng, mỏ tù. Hai bên cốc có một loạt những hình động vật kỳ lạ như một con rắn đầu có tai, một con dạng như nòng nọc, nhưng cũng có đầu như đầu hổ, con tôm cong, con ốc. Với những hoa văn động vật lập thể, kỳ dị toàn chiếc quang toát ra một vẻ thần bí, nghiêm trang, có phần dữ tợn.

Trên chiếc quang có đủ các con vật trên trời (chim), dưới đất (thú, bò sát) và dưới nước (cá tôm). Sự có mặt của con người cũng không thiếu. Ở phần chân đế, 2 chân sau là 2 người thân rắn. Người có thân rắn trong truyền thuyết Trung Hoa là Nữ Oa và Phục Hy. Phục Hy và Nữ Oa được coi là những vị thần sáng tạo ra loài người. Hình Nữ Oa và Phục Hy trên chiếc quang như vậy сó lẽ là hình ảnh cổ nhất về hai vị này còn lưu lại được tới ngày nay. Chiếc quang là cả một thế giới sinh vật và con người thu nhỏ rất đầy đủ.

Dạng quang đựng rượu khác gặp ở Lào là hình các động vật bốn chân có sừng. Những loài vật này gần gũi, thực hơn, nhưng cũng không kém phần nghiêm trang, tinh tế. Trước hết phải nói đến chiếc quang hình con tê giác bằng đồng độc đáo. Con tê giác này có phần đầu rất lớn, một sừng to, cong, vươn ra phía trước. Sừng khác nhỏ hơn ở trên trán. Tai tê giác nhọn. Phần sau của nắp quang là hình mặt lợn, mõm rộng, tai cong.
Te giac 3
Con mắt của chú tê giác này to tròn, rất sống động. Cổ vật sau khi cạo phủi lớp đất gỉ bề mặt, lộ ra màu đồng thau óng ánh, như bước ra từ quá khứ 3000 năm trước.

Phần thân chiếc quang tê giác được trang trí bằng những hoa văn nổi. Dài theo thân quang ở mỗi bên là hình một con chim lớn, cách điệu, mỏ tù, đuôi dài, mào cong như con chim phượng trên chiếc quang chim thú ở trên. Phần ngực tê giác hai bên có hình con quì long nhỏ, có sừng, đang há miệng, quay đầu về phía con chim phượng.

Dạng quang hình động vật tương tự ở Lào còn gặp như hình con trâu, đuôi hình chim. Hay ở Thanh Hóa trong Bảo tàng cổ vật Hoàng Long cũng có chiếc quang hình con lợn có sừng tương tự.

Như vậy trên các chiếc quang đồng thời Thương Chu luôn bắt gắp họa tiết trang trí rồng – phượng đi đôi với nhau. Đây chẳng phải là hình ảnh Cha rồng Mẹ tiên trong truyền thuyết người Việt hay sao?

Điều lạ nữa là hình ảnh con tê lại gặp trong các cổ vật thời Thương Chu. Ví dụ như chiếc đôn đựng rượu Tiểu Thẩn Du đời Thương hiện bảo quản tại Bảo tàng nghệ thuật châu Á San Francisco mang hình con tê giác. Loài tê giác được thể hiện là loài tê giác một sừng Java rất rõ, với một sừng lớn ở phía trước và sừng nhỏ phía sau. Loài tê giác này này chỉ có phân bố hạn chế ở vùng phía Nam, không thể nào có ở khu vực Hoàng Hà (xem bản đồ). Vậy tại sao đồ đồng thời Thương lại biết thể hiện hình tê giác?

434px-Javan_Rhino_Range.svg
Bản đồ phân bố Tê giác Java (Rhinoceros sondaicus) hiện tại và trong quá khứ (theo Foose và Van Strien, 1997)

Như đã nói trong bài trước, con Tê trong sử sách còn gọi là con Tây. Đây là con vật tượng trưng cho phía Tây của Trung Hoa, là thần thú của nước Tề. Nước Tề nằm ở vùng có nhiều Tê giác và Tê tê là khu vực trung và hạ lưu sông Mê Kông. Sông Mê Kông trong Hoa ngữ là Khung giang, hay con sông Khương chảy qua nước Tề, đất phong của Khương Thái Công nhà Chu. Con tê cuối cùng của khu vực này ở Nam Cát Tiên mới bị chết nhưng hình ảnh tê giác trong văn hóa Việt – Lào – Căm pu chia thì không thể xóa được.

Tương tự như Tê giác, con Voi là con vật không hề có trong tự nhiên ở khu vực “Trung Nguyên” quanh Hoàng Hà. Thế nhưng đồ đồng thời Thương lại thể hiện hình voi như chiếc đôn Lễ Lăng, hiện được giữ ở bảo tàng tỉnh Hồ Nam. Những con vật đồ đồng này là những “bằng chứng sống” rằng văn hóa Thương không chỉ nằm ở vùng Hoàng Hà mà ở xa hơn nhiều về phía Nam nơi có hàng triệu con voi (Lào) hàng ngàn con Tê (Căm pu chia).

Năm 1989 ở Đại Dương Châu, huyện Tân Can, tỉnh Giang Tây đã phát hiện một lăng mộ lớn thời Thương với 880 món đồ, trong đó có 480 đồ đồng. Trong số đồ đồng này có cả đỉnh đồng vuông hình hổ cao tới 95cm. Các nhà khoa học Trung Quốc chẳng biết giải thích thế nào về hàng loạt đồ đồng với trình độ đúc điêu luyện xuất hiện ở Nam sông Dương Tử, đành suy đoán đây là khu mộ của một thủ lĩnh nào đó ở miền Nam (!?), có ý cho rằng phương Nam còn đang ở thời kỳ bộ lạc, văn hóa đồ đồng chỉ là chịu ảnh hưởng của nhà Thương…

Sự phong phú và quí giá của đồ đồng tại di chỉ Đại Dương Châu với niên đại Thương sớm, sớm hơn di chỉ ở Trịnh Châu hay An Huy cho thấy đây chính là khu vực đóng đô ban đầu của nhà Thương, trước khi Bàn Canh dời đô lên phía Bắc. Lăng mộ ở Tân Can rất có thể là lăng mộ của Thành Thang (vị vua Thương đầu tiên) hay một vị vua Thương khác trước thời Bàn Canh.

Am chan voi
Những đồ đồng đựng rượu thời Thương Chu ở Lào còn thấy như những chiếc hòa (ấm), đôn, tước … đồng. Như chiếc ấm bốn chân voi sau, có phần thân hai mặt là hình Thao thiết tai hổ, có mõm như mõm lợn. Nắp ấm cũng là hình Thao thiết nhưng miệng rộng như đang cười. Tay cầm của ấm là hình rồng 2 đầu. Trang trí bằng hình Thao thiết (con vật có đầu mà không có thân) là nét đặc trưng của đồ đồng thời Thương.

Phải giải thích thế nào về sự hiện diện của những cổ vật thời Thương Chu ở Lào? Đất Lào chưa hề bao giờ bị Trung Quốc đánh chiếm, sao lại có những cổ vật Trung Hoa từ thời Tam Đại vậy? Liệu có phải là do dòng người di cư từ Trung Quốc sang mang đến hay không? Di cư từ Trung Quốc vào Lào thì chủ yếu là người Thái và người Mông. Nhưng xét kỹ, người Thái di cư sang Lào cỡ khoảng đầu công nguyên dưới thời Tây Hán. Còn người Mông chạy giặc sang Lào thì còn muộn hơn nhiều, dưới thời nhà Thanh sau này. Thời Thương Chu trước thời điểm di cư của người Thái vào Lào cả ngàn năm có lẻ. Người Thái và người Mông thì lấy đâu ra các đồ tế tự của nhà Thương nhà Chu vậy?

Sự có mặt một cách phong phú các cổ vật đồ đồng Thương Chu ở Lào không chỉ cho thấy một trình độ đúc đồng và văn hóa cao ở vùng này vào 2.000 – 3.000 năm trước mà còn chứng tỏ nơi đây chính là một trong những trung tâm của thiên hạ thời Thương Chu. Điều này hoàn toàn ủng hộ sử thuyết Hùng Việt cho rằng đất Lào là nước Lỗ, là vùng đất phong của Chu Công, nằm cạnh đất của thiên tử Chu.

Họ Chu Việt Nam

Người Việt có truyền thống coi trọng tính cộng đồng nên họ của người Việt luôn luôn đứng ở vị trí thứ nhất trong họ tên. Trong khi đó người Âu Mỹ coi trọng cá thể nên tên đứng trước họ đứng sau.
Trong Bách gia tính thì họ Chu là một trong những họ phổ biến nhất tại Trung Quốc. Còn gia phả các dòng tộc họ Chu ở Việt Nam thì đều chỉ chép đến các vị tổ từ thời Lý Trần đổ lại. Truy nguyên nguồn gốc tộc tính họ Chu ở Việt Nam nay có thể làm được khi so sánh các phát hiện lịch sử mới với cổ sử Trung Hoa.
Về nguồn gốc của họ Chu Trung Hoa, sử sách có ghi lại như sau:
Họ Chu nguyên là họ Cơ của nhà Chu, vương triều cai trị Trung Hoa 874 năm. Khi Tần Trang Tương Vương chiếm Lạc Ấp diệt Chu năm 256; vương tử Cơ Tống (dòng dõi của Chu Bình Vương) mới dẫn con cháu rời khỏi Lạc Ấp và đổi sang họ Chu.
Sau này con cháu của Chu Noãn Vương di cư xuống phía nam, cũng đổi họ của mình thành Chu để nhớ về tổ tiên. Một nhánh nhỏ của họ Cơ tại nước Lỗ cũng di cư xuống phía Nam, sau này là tổ tiên của Chu Nguyên Chương, Thái tổ nhà Minh. Nhánh họ Chu này là dòng dõi của Chu Công Cơ Đán – người có công ổn định nhà Chu.
Như vậy họ Chu có một số dòng nhánh khác nhau, nhưng đều là xuất phát của họ Cơ của thiên tử Chu, đều là Chu lân chỉ, Chu lân giác, Chu lân đính cả. Muốn hiểu được ngọn nguồn của dòng họ này phải hiểu được nguồn gốc nhà Chu và định vị được vương triều này trong cổ sử.
Bài thơ Tuần thị châu Chân Đăng của Phạm Sư Mạnh thế kỷ 14:
Thiên khai địa tịch lộ Tam Giang
Kỳ tuyệt tư du ngã vị tằng
Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy
Quốc Tây cự trấn tráng Chân Đăng.
Dịch là:
Đất yên trời mở lộ Tam Giang
Tuyệt vời cảnh đẹp chưa từng ngang
Kiểu ngoài Bách Man về Cổ Lũy
Quốc Tây chống cự tráng Chân Đăng.
Châu Chân Đăng thời Trần sau đổi thành phủ Lâm Thao, nay là huyện Lâm Thao – Phú Thọ. Phú Thọ chính là lộ Tam Giang, nơi ba con sông lớn Đà, Lô, Thao gặp nhau. Phạm Sư Mạnh đã đi tuần ở vùng Phú Thọ nên mới làm bài thơ bắt đầu cảm hứng về vùng đất tổ linh thiêng này của Chu thiên tử: Trời khai đất mở lộ Tam Giang
Trong bài trước đã bàn việc Âu Cơ – Chu Văn Vương lập nước Văn Lang – Âu Lạc, đô đóng ở lộ Tam Giang, vùng hợp lưu ba con sông Đà, Lô, Thao tại Phong Châu – Vĩnh Phú. Tiếp đó Vũ Ninh – Chu Vũ Vương cùng Thánh Gióng diệt Ân Trụ, phân phong chư hầu Bách Việt rồi dời đô về Cảo Kinh (Kiểu Kinh). Tới thời Chu Bình Vương lại dời đô từ Kiểu Kinh quay về Lạc Ấp – Đông Đô, mở đầu thời kỳ Đông Chu trong lịch sử.
Lạc Ấp hay Đại ấp Lạc… Việt, chính là vùng Cổ Loa, còn gọi là Đông Đô, tên cũ của Hà Nội vẫn được ghi nhận tới nay. Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy là “hoàn” về Cổ Loa. Đây cũng là vùng mà cổ sử gọi là Tam Xuyên – Tam Giang, nơi cơn địa chấn lúc giao thời Đông và Tây Chu đã làm nên truyền thuyết Lão Tử – Huyền Thiên giúp An Dương Vương diệt Bạch Kê Tinh xây thành Cổ Loa.
Cuối thời Đông Chu, cháu của Tần Chiêu Tương Vương là Doanh Tử Sở tấn công diệt nhà Đông Chu. Đây là lúc “Quốc Tây cự trấn tráng Chân Đăng” trong câu thơ trên. Tần Chiêu Tương Vương mới chính là … Triệu Đà người Chân Định – Chân Đăng, cha của Trọng Thủy – Doanh Tử Sở, người đã ở rể nhà Chu – An Dương Vương tại Cổ Loa Thành.
Khi Lạc Ấp – Cổ Lũy mất về tay nhà Tần, vương tử nhà Chu là Cơ Tống đã đổi họ sang họ Chu để tưởng nhớ tiên tổ của mình. Rất có thể những người Việt mang họ Chu ở vùng miền Bắc Việt ngày nay giáp Cổ Loa (Mê Linh, Sóc Sơn, Bắc Ninh,…) là thuộc về nhánh Chu Bình Vương từ Lạc Ấp này.
Rất có thể vì mối lương duyên Mỵ Châu – Trọng Thủy hay giữa Doanh Tử Sở và con gái vua Chu mà Tần Trang Tương Vương khi diệt Chu đã rất “nhẹ tay” với con cháu hoàng tộc Chu. Con cháu nhà Chu chỉ đổi họ từ họ Cơ sang họ Chu, mà hầu như vẫn được sống ở nguyên tại chỗ. Họ Chu vì vậy vẫn tồn tại quanh vùng Cổ Loa xưa. Tương tự khi nhà Trần đoạt ngôi nhà Lý, hoàng tộc nhà Lý chỉ bị đổi sang họ Nguyễn chứ không bị tận diệt.
Nhánh thứ hai của họ Chu là con cháu Chu Noãn Vương di cư về phía Nam. Chu Noãn Vương Cơ Duyên là vị vua cuối cùng của nhà Chu khi bị Tần đánh diệt. Sau khi “cự trấn tráng Chân Đăng”, Chu Noãn Vương đã chạy về vùng … Nghệ An và lên thuyền đi ra biển … Mộ Dạ ở Diễn Châu – Nghệ An còn ghi lại truyền tích An Dương Vương chém Mỵ Châu rồi cầm sừng văn tê bảy tấc theo thần Kim Qui ra biển Đông… Đền Cuông ở Mộ Dạ là thờ Chu Noãn Vương vậy.
Nhánh thứ ba của họ Chu là con cháu Chu Công Đán, nước Lỗ, di cư xuống phía Nam. Chu Công Đán hay Chu Công là em của Chu Vũ Vương, người đã xây dựng Lạc Ấp – thành Cổ Loa. Chu Công là chúa nước Lỗ nên có tên Việt là Cao Lỗ. Cạnh Mộ Dạ hiện còn nhà thờ họ Cao ở Nho Lâm – Diễn Thọ, lấy Cao Lỗ là Tiền đại viễn tổ. Nước Lỗ hay Lão chính là nước Lào, giáp Nghệ An ngày nay.
Như vậy có thể những người họ Chu ở vùng Thanh Nghệ ngày nay là dòng nhánh của Chu Noãn Vương hay Chu Công, sau khi Loa Thành thất thủ đã theo thiên tử Chu di cư chạy xuống phía Nam.
Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương là con cháu nhánh họ Chu từ Chu Công. Như vậy nước Ngô do Chu Nguyên Chương ban đầu lập nên là một quốc gia người Hoa Việt. Chỉ khi Yên Vương Chu Đệ soán ngôi, dời kinh đô về Bắc Kinh thì triều Minh mới đổi lại dòng “máu trắng”, thành một nước do người Mông – Hán làm chủ. Chu Đệ Minh Thành Tổ tấn công nhà Hồ của nước Đại Ngu, bắt Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương ở Thiên Cầm – Hà Tĩnh, rồi tiến hành cuộc tàn phá qui mô, xóa sạch các vết tích về nguồn gốc Bách Việt của Trung Hoa ở nước ta. Đến đài Trang Vương ở tận Hương Sơn – Hà Tĩnh, chứng tích của vương triều Chu (Chu Trang Vương) ở Việt Nam cũng bị đập tan tành, chỉ còn trơ nền tới giờ.
Cuốc chiến Chu – Tần cách đây trên 2000 năm quả là đã quá lâu và bị màu thời gian cùng bàn tay ai đó bóp nặn đến nỗi các dòng tộc chân truyền của nhà Chu ở Việt Nam ngày nay không còn biết mình từ đâu mà ra. May thay, trời xanh có mắt. Họ Chu nay lại có thể nối nguồn với tiên tổ từ đất tổ sông Cả (sông Cơ) núi Hồng, với Đông Đô – Hà Nội.

 

Lan man chuyện quả bầu và mẹ Âu Cơ

Đi qua vùng Suối Giàng ở Yên Bái bắt gặp các cửa hàng chế tác đá tự nhiên. Khu vực Yên Bái có tiếng nhiều đá vân đẹp nguyên gốc lấy từ núi Hoàng Liên về. Trong số các đồ làm ở đây có loại quả bầu đá phong thủy, rất ít gặp ở các nơi khác. Không giống như bầu hồ lô mang nặng mùi Đạo Lão, quả bầu đá ở Nghĩa Lộ được làm đơn giản, rất dân dã, trông giống như quả bí ngô mọc trên nóc nhà của người dân tộc ở khu vực này.

Chẳng thấy sách nào cho biết quả bầu bí dạng này thì có nghĩa phong thủy là gì nên đành tự nhận xét. Với hình dạng đầy đặn, lại có màu xanh ngả vàng thì có thể hiểu quả “bầu bĩnh” này có thể giúp mang lại sự giàu sang, phú quí, nhiều vàng bạc cho chủ nhà.

Một cách hiểu khác quả bầu hay “bào” là hình tượng của người mẹ. Người Việt ai mà không biết chuyện mẹ Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, nở ra trăm trai Bách Việt. Vì thế người Việt gọi nhau là “đồng bào”, tức là cùng một bầu mà ra. Còn có từ “bầu đoàn” có lẽ cũng với nghĩa những người sinh từ cùng một mẹ, một bầu, một bào hay một bọc mà ra.

Về thăm đền thờ quốc mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương – Hạ Hòa – Phú Thọ gặp câu đối tại chính điện thờ:
溯鴻厖締結以來仙種永傳留國祖
歷家郡肇修而後人群緬墓播炎邦
Tố hồng mang/ đế kết dĩ lai/ tiên chủng vĩnh truyền lưu Quốc tổ
Lịch cô quận/ triệu tu nhi hậu/ nhân quần miễn mộ bá Viêm bang.

Diễn dịch lại nghĩa:
Nhớ thủa hồng mang gắn bó tới nay, nòi tiên mãi lưu truyền là Quốc tổ
Trải đất cô quận dựng sửa sau này, bầu dân luôn ngưỡng mộ khắp Viêm bang.

Theo thần tích đền Hiền Lương thì nàng Âu Cơ là con của Ngọc Nương phu nhân quê ở động Lăng Xương… Lăng Xương đọc khác là Lang Xương, hay vua Xương. Âu Cơ ở Lang Xương tức là… Cơ Xương. Cơ Xương chính là tên của Chu Văn Vương, người khởi đầu nhà Chu trong Hoa sử.

Âu Cơ lấy Lạc Long Quân, tên húy là Sùng Lãm … Cơ Xương đánh Sùng Hầu Hổ của nước Sùng, khởi đầu cơ nghiệp nhà Chu… Âu Cơ dẫn 50 người con lên núi dựng nước Văn Lang ở đất Phong Châu… Cơ Xương lập đô ở đất Phong, được gọi là Chu Văn Vương… So sánh 2 dòng sử Hoa – Việt thì thấy rõ mẹ Âu Cơ chính là Cơ Xương Chu Văn Vương, dân gian gọi là Lang Văn hay Lang Xương.

Âu Cơ nòi tiên bởi vì tiên là số 1, con số chỉ phương Bắc và màu đen. Màu đen hay màu ô = Âu. Gọi là Âu bởi vì Cơ Xương là Tây Bá hầu của nhà Thương ở đất Quảng Tây, nằm ở hướng Bắc của Lạc Việt. Mẹ Âu Cơ lấy cha Lạc Long lập ra nước Văn Lang. Đây cũng là truyền thuyết An Dương Vương đánh Hùng Vương lập nước Âu – Lạc, thống nhất 2 tộc người Âu ở Quảng Tây – Vân Nam và người Lạc ở Giao Chỉ. Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của cùng một nước, gọi theo tên vị vua khai sáng hoặc theo các tộc người mà thôi.

Xã Hiền Lương ở Hạ Hòa – Phú Thọ, tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ bay về trời, rất có thể là nơi mất của Chu Văn Vương. Hạ Hòa tên cũ là Hạ Hoa, không biết có phải chỉ thiên tử của Trung Hoa xưa không.

Den mau
Đền mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương – Hạ Hòa – Phú Thọ

Mẹ Âu Cơ sinh bầu trăm trứng, nở ra trăm trai, là tổ tiên của Bách Việt. Người “sinh” Bách Việt này là Cơ Phát, con của Cơ Xương. Sau khi Cơ Xương mất Cơ Phát kêu gọi các chư hầu nổi lên diệt Ân Trụ Vương. Trong truyền tích Việt còn ghi lại cuộc chiến này cuộc chiến chống giặc Ân của Hùng Vương với sự trợ giúp của Thánh Gióng:

Nhớ xưa đang thủa triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài…

Vũ Ninh hay vua Ninh, Ninh Vương là tên của Cơ Phát trước khi lên ngôi.

Cơ Phát sau khi thắng giặc Ân về núi Nghĩa Lĩnh đất Phong Châu, nơi Lang Văn Cơ Xương định đô trước đó, lập cột đá thề với tổ tiên, rồi lên ngôi thiên tử của Trung Hoa, xưng là Chu Vũ Vương, truy phong cho cha mình là Chu Văn Vương, bắt đầu vương triều Chu của Trung Hoa kéo dài gần 1000 năm.

Cũng ở núi Nghĩa Lĩnh, Vũ Vương đã phân phong cho các công thần đất đai ở các nơi. Các đất phong này về sau thành các nước chư hầu của nhà Chu, là các chi Việt khác nhau trong đại tộc Việt ban đầu. Đây chính là sự kiện sinh bọc đồng bào trăm trứng của mẹ Âu Cơ, được truyền là tại đền Hạ của khu di tích đền Hùng.

Hai đại công thần khai quốc của Chu Vũ Vương là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích. Chu Công Đán là em của Chu Vũ Vương, được phong ở đất Lỗ. Thiệu Công Thích cũng là người cùng họ Cơ, được phong ở đất Yên. Thực ấp của hai vị này là Lào Cai (Lão Cai – Lỗ Cai) và Yên Bái (Yên Bá). Đây là 2 vùng đất trong Quốc phong của Kinh Thi gọi là Chu Nam và Thiệu Nam.

Đất Phong Châu – Vĩnh Phú xưa thuộc lộ Tam Giang, là nơi ba con sông lớn gặp nhau. Sông Đà chảy qua Hòa Bình. Sông Thao chạy dọc Lào Cai, Yên Bái. Sông Lô đổ vào nước ta ở Hà Giang. Cảnh đẹp sông núi trời đất dọc 3 con sông này đúng như câu thơ của Phạm Sư Mạnh:
Thiên khai địa tịch lộ Tam Giang
Kỳ tuyệt tư du ngã vị tằng

Dịch là:
Đất yên trời mở lộ Tam Giang
Tuyệt vời cảnh đẹp chưa từng ngang


Hà Giang, Hòa Bình, Yên Bái tụ về linh địa Vĩnh Phú. Lô Giang, Thao Giang, Đà Giang hợp lưu ở Việt Trì. Việt Trì nghĩa là Bách Việt mãi vững bền…

Chu lân chỉ

Trên vùng đất tỉnh Hà Giang hiện nay còn lưu lại 2 hiện vật thời Trần, còn tồn tại qua thời gian tàn phá tứ đại khí và đập bia của giặc Minh. Đó là bia đá chùa Sùng Khánh và chiếc chuông đồng chùa Bình Lâm. Cả hai hiện vật này đều nằm ở huyện Vị Xuyên, cách không xa thành phố Hà Giang.

Chuong
Chuông chùa Bình Lâm

Trích phần dịch bài minh trên chuông chùa Bình Lâm:
Nước Đại Việt, châu Thượng Bà Động ở giáp giới Bắc trường Phú Linh. Vua thứ 5 nhà Trần kế theo các bậc hoàng đế anh minh cao quí lập họ Nguyễn ở Cổ Nhất từng có công làm sáng đức sáng hơn người; vậy báo rõ cho được vâng nhận các mỹ tự: Thọ kiên kiên trinh trinh phúc.
Nay để báo đáp, kẻ nối sau là thủ lĩnh Nguyễn Anh, vợ Nguyễn Thị Ninh cùng các ông già bà cả, thiện nam tín nữ, chứng minh đại sa môn sư chịu gánh việc khó, phát tâm đúc một quả chuông lớn vào giờ Ngọ, ngày Rằm tháng Ba năm Ất Mùi (1295) ở mái hiên Tiểu Thượng Niên, Viện Đại Bi trong thành; để lưu giữ mãi mãi ở chùa Bình Lâm, tiện cho việc cúng đường tam bảo…
Cốt sao làm rõ vết dấu dài lâu. Họ tộc vốn là gót lân nhà Chu, đã được phong lãnh địa ở địa giới phía Bắc, theo đó mà cháu con thừa hưởng đến muôn đời không dứt để nối tiếp mãi với trời đất, vậy nên mới làm bài văn này ghi lại…
Thiền tăng Mật Vân ở Lịch Sơn soạn vào ngày mùng Một, tháng Năm, năm Bính Thân, niên hiệu Hưng Long thứ tư (1296).

(Người dịch: Lại Văn Hùng – Viện Văn học, theo Bảo tàng Hà Giang)

Bài minh trên có một số thông tin đáng chú ý. Minh văn cho biết chuông chùa được đúc bởi sự phát tâm của vị thủ lĩnh họ Nguyễn là Nguyễn Anh, dòng dõi “Cổ Nhất Nguyễn”. Cổ Nhất có thể không phải là tên địa danh như dịch ở trên. Rất có thể “Cổ Nhất” nghĩa là vị “Cả một”, tức là người mở đầu dòng họ Nguyễn, là người có công lớn đã được nhà Trần phong mỹ tự “Thọ kiên kiên trinh trinh”.

Điều lạ nhất trong bài minh về dòng họ Nguyễn này là cụm từ “Chu lân chỉ”, tức là gót lân nhà Chu. Chữ này lấy từ Kinh Thi, Chu Nam, bài Lân chi chỉ. Nghĩa vẫn hay được chú giải là “chân con lân không đạp lên cỏ tưới, không dẫm lên côn trùng còn sống, là loài vật rất hiền lành…”. Có điều, giải thích vậy thì “trán lân” và “sừng lân” (2 bài thi Lân chi đính Lân chi giác trong Chu Nam) nghĩa là gì? Là con lân không húc sừng vào cây cỏ sao?!

Thực ra con lân chẳng hề hiền lành đến mức không dẫm lên côn trùng cây cỏ. Kỳ lân  là loài thần thú được pha trộn giữa hổ (con ly) và … tê giác. Cả hổ và tê giác đều là những con vật của phương Nam chính gốc. Loài tê giác Java một sừng ở Việt Nam vừa mới bị tuyệt chủng cách đâu không lâu. Thời xưa thì đất Việt Nam nổi tiếng là nơi có nhiều sừng tê.

Kỳ lân là thần vật, là biểu tượng của nhà Chu. Điều này chỉ ra nguồn gốc phương Nam của nhà Chu. Chu Nam là phong dao vùng đất của Chu Công, chú của thiên tử Chu, tức cũng là dòng dõi nhà Chu. “Gót lân” (“Lân chỉ”) nghĩa là nói đến dòng dõi đế vương thiên tử.

Hiểu chữ “lân chỉ” trong Kinh Thi thì mới giải nghĩa được đoạn minh văn trên của chuông chùa Bình Lâm. Họ Nguyễn phụ đạo châu Thượng Bà Động, vốn là dòng dõi đế vương (Chu lân chỉ). Không rõ dòng họ này có liên hệ tới tận thiên tử Chu không, nhưng có thể ở đây ám chỉ họ Nguyễn chính là họ Lý đã bị nhà Trần đổi họ và đẩy lên vùng biên giới phía Bắc này. Nguyễn Cổ Nhất có thể là một hoàng tộc nhà Lý đã thay họ, được phong đất ở vùng Hà Giang.

Tên gọi Hà Giang lần đầu tiên được nhắc đến là trên minh văn của quả chuông chùa Sùng Khánh khắc vào thời Lê Dụ Tông (năm 1705). Nhưng một số tài liệu còn nói đến tên Hà Dương. Ví dụ, trong câu đối tại đền Đôi Cô tại Cầu Má – Vị Xuyên:
Hà Dương Bắc Lệ Hòa Bình tam vị chủ
Thiên tiên thần nữ anh linh Đôi Cô từ.

Tên khác của vùng đất này trong lịch sử là châu Vị Xuyên. Rất có thể Giang = Dương = Xuyên, không phải nghĩa là sông, mà là tượng Nước, hay số 1 (Giêng), chỉ hướng Bắc. Hà Giang có nghĩa tương tự như Hà Bắc, vùng đất nằm phía Bắc của sông Lô. Điều này cũng ứng với từ “Bắc giới” được nhắc lại vài lần trong bài minh trên chuông chùa Bình Lâm.

Câu cuối cùng trên bài minh chuông chùa Bình Lâm nói đến “Lịch Sơn Thiền tăng Mật Vân”. Địa danh Lịch Sơn là ở Hà Giang. Đây có phải là nơi vua Thuấn đi cày thời cổ theo truyền tích không? Vùng biên cương phía Bắc này là một phần đất Nam Giao của vua Thuấn xưa.

Văn Nhân góp ý:
Tôi tán thành việc Bách Việt 18 dịch cụm từ “Chu lân chỉ” là “gót lân nhà Chu”.
Con Lân người Việt thường gọi đủ là Kỳ lân nghĩa là lân đất Kỳ. Đất Kỳ nơi có Kỳ sơn là đất gốc tổ nhà Châu thời Thái vương – Cổ công đản phủ dừng chân lập nghiệp. Như thế Chu lân và Kỳ lân là một.

Kỳ sơn thuộc Kỳ châu, Kỳ châu = Cùi chu = Quý  châu ngày nay.
Lân là con thú thần được con người tạo ra dựa trên hình tượng gốc là con Hổ.
Hổ ↔hỏa = lửa↔Ly.

Tứ linh của 4 phương Trung hoa là: long – ly – quy – phụng … không có con lân. Phương tây là Bạch hổ đối với phương đông là Thanh long (không phải rồng xanh hổ trắng).
Vậy Lân ở đâu nhảy ra mà trở thành thú linh thay cho Ly của nhà Châu phía Tây Trung hoa?
Phải chăng lại là thủ thuật ‘chữ nghĩa’, xóa thông tin mang trong bản thân từ ngữ?

Theo phép phiên thiết: Lân tri thiết ly.
Người ta đã thay tên Ly bằng phiên thiết ‘lân tri’. Lâu dần về sau rụng mất chữ tri chỉ còn lại mỗi chữ ‘lân’???
Ở vùng Côn Minh ngày nay người ta vẫn tôn sùng Hổ. Phải chăng đất ấy có liên quan căn cơ với Chu lân – Kỳ lân?

Bách Việt trùng cửu:
Nguyên gốc ba bài thơ trong Chu Nam, Kinh Thi là: Lân chi chỉ, Lân chi đính và Lân chi giác (gót Lân, trán Lân và sừng Lân). Nếu tên con vật này là Lân thì chữ “chi” 之 trong ba bài thơ trên là thừa và thậm chí có khi còn sai về ngữ pháp. Hoàn toàn có thể nói Lân chỉ, Lân đính hay Lân giác như trong quả chuông chùa Bình Lâm (Chu lân chỉ), mà không cần tới chữ “chi”.
Nay với giải thích của anh Văn Nhân thì phải đọc chính xác là”Lân chi” thiết Ly. Tên của 3 bài thơ trong Kinh Thi cần đọc là Ly chỉ, Ly đính và Ly giác. Tên con thần thú của nhà Chu này như vậy gốc là con Ly.

Lão Tử hóa … Việt kinh

Dinh Tho Ha
Đình Thổ Hà – xã Vân Hà – Việt Yên – Bắc Giang

Bên bờ sông Cầu, quê hương của những làn điệu quan họ, di sản văn hóa thế giới, có một ngôi đình làng cổ nổi tiếng. Đình Thổ Hà đã có trong danh sách xếp hạng di tích của Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thời Pháp. Đình này nổi bật bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc rất tinh xảo của xứ Kinh Bắc. Có điều khi xem đến vị thành hoàng được thờ ở đây thì mới thực sự là điều bất ngờ. Thành hoàng làng Thổ Hà tên là … Lão Tử, Thái Thượng Lão Quân. Trích thần tích chép từ văn bia Cung sao sự tích thánh tại  đình:
Đời vua Thục An Dương Vương phả lục chép rằng có một vị đại vương cấp bậc Thượng đẳng thần thuộc bộ Càn Hào. Sau khi Hùng Vương thứ 18 mất ngôi, vua An Dương Vương nối ngôi. Có một người từ Bắc quốc đến đạo Kinh Bắc, phủ Bắc Hà, huyện An Việt và ở nhờ chùa Đoan Minh Tự của trang Thổ Hà. Ngày đêm giảng kinh đọc sách, có sức màu nhiệm như thần, trong trang có nhiều con em theo học.
Một hôm Người bảo học trò rằng: ta sinh ra từ thủa Hồng Mông, trời đất mới mở mang, cho nên ta thông minh khác thường. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng giêng năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng.
Quanh vùng nơi ở của người không ai xảy ra tật bệnh, nên người trong trang thường bảo nhau rằng: đó là khí sinh thánh tổ, chẳng phải người thường, các nơi cũng đến xin làm thần tử. Từ đó danh vang thiên hạ, người đến theo học càng đông. Lúc bấy giờ trong nước có giặc Quỷ mũi đỏ, một vị quan thị hầu vua bị bệnh ngã nhào xuống đất và sau đó bệnh tật lan khắp mọi nơi, trong nước nhiều nơi mắc bệnh, người ốm người chết thiệt hại rất nhiều. Nhà vua vội truyền hịch đi các nơi: nếu ai trừ được giặc Quỷ vua sẽ gia phong tước lộc. Lão Tử liền vâng mệnh đến nơi có giặc Quỷ, người liền niệm chú rằng: “Đạo pháp bản vô đa, nam thần quán Bắc Hà, đô lai tam thất tự, tận diệt thế gian ma”. Đọc chú xong, Người lại thư phù vào gậy trúc và phóng đi bốn phương, các nơi đều yên ổn.
Quan địa phương tâu với triều đình, vua liền mời Lão Tử đến ban thưởng, mở tiệc khoản đãi và phong người là Đệ nhất nhân (người tài nhất). Lại cho ngài được hưởng thực ấp ở vùng An Việt huyện. Người bái tạ đức vua và trở về Thổ Hà trang. Về tới nơi Người liền cho xây dựng cung doanh trị sở. Khi xây xong Người cho mời các bô lão trong trang và tất cả học trò đến mở tiệc ăn mừng. Lúc sắp sửa ăn bỗng thấy đám mây năm sắc từ từ sa xuống đất, trong mây thấp thoáng có bóng người mặc áo đỏ, Lão Tử liền theo đám mây cưỡi rồng đỏ mà biến mất. Bấy giờ là năm Giáp Tý ngày 22 tháng 2 (đời vua An Dương Vương) Người đã hóa…
Mặc dù thần tích không hề nói Thái Thượng Lão Quân của làng Thổ Hà là Lão Tử nổi tiếng của Trung Hoa, nhưng tên của vị thành hoàng này hoàn toàn trùng với tên Lý Lão Đam – Lý Bá Dương. Lão Tử Trung Hoa lập công nghiệp rồi hóa thần ở Việt Nam, chuyện này phải giải thích sao đây?
Xem vào câu đối cổ trong đình Thổ Hà:
Đẳng Thích Già nhân tế quần sinh, phật pháp thiên cổ / thần tiên thiên cổ
Dữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh / Đạo Đức nhất kinh.
Dịch:
Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, phật pháp nghìn đời kiếp / thần tiên nghìn đời kiếp
Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một bộ kinh / Đạo Đức một bộ kinh.
Câu đối này dùng hình thức trình bày khá hiếm gặp. Trong một vế đối có đoạn được tách làm 2 một cách song song. Hình thức và nội dung này nêu bật quan niệm Tam giáo đồng nguyên: Đạo giáo của Lão Tử, Nho giáo của Khổng Tử và Phật giáo của Thích Ca sánh cùng nhau, song hành trong dân gian.
Một câu đối khác:
Huyền tham Thích điển công tỉ Vô Sơn, Đạo Đức nhất kinh truyền chí bảo
Quyết bản Khương công thuật khai Hoàng Thạch, thần tiên chung cổ hiển linh tung.
Dịch:
Huyền diệu vào tích Thích Ca, công đức như núi Vô Sơn, Đạo Đức kinh một bộ truyền báu vật.
Phù quyết gốc từ Khương Công, pháp thuật mở tảng Đá Vàng, thần tiên tự cổ xưa sáng dấu linh.
Câu đối nói tới sự hiện diện của Lão Tử trong phật điển. Đây là truyện “Lão Tử hóa hồ kinh”, kể rằng Lão Tử sau khi xuất quan ải đã đi sang Ấn Độ mở đầu phật giáo ở đó. Chuyện “Lão Tử hóa hồ” đã là đề tài tranh cãi của hai phái Đạo và Phật trong nhiều thời đại.
Vế sau ở câu đối trên còn nêu một điển tích khác, nói tới pháp thuật của Khương Thái Công Lã Vọng, người giúp Chu Vũ Vương nên nghiệp thiên tử ngàn năm. Khương Thái Công sau lại hóa hình là Hoàng Thạch Công, truyền sách binh pháp cho Trương Lương phò trợ Lưu Bang lập nhà Hiếu (Sử ký).
Qua những câu đối trên thì không còn nghi ngờ gì nữa: vị thành hoàng thờ ở Thổ Hà chính là Lão Tử, người mở đầu Đạo giáo, viết Đạo Đức kinh, cùng Khổng Tử dựng nên nền văn hóa tín ngưỡng Trung Hoa xưa. Thực ra đình Thổ Hà không chỉ là đình của làng mà đây là nơi từng được xuân thu quốc tế, tức là Thái Thượng Lão Quân ở đây là một vị thần mang tầm quốc gia của các triều đại Việt Nam xưa.
Theo Hoa sử thì Lão Tử sống muộn lắm cũng là vào đầu thời Đông Chu (thời Xuân Thu). Nhà Chu bị Tần Chiêu Tương Vương diệt vào năm 256 TCN. Còn nhà Thục của Việt Nam theo sử sách chép sớm lắm cũng chỉ bắt đầu từ năm 257 TCN. Từ thời Xuân Thu tới thời Thục An Dương Vương có cả vài trăm năm. Vậy làm thế nào Lão Tử của nhà Chu lại có thể giúp vua Thục ở nước Việt trừ yêu dẹp quỉ được?

Nam VietDong Chu

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.
Vế đầu câu đối trên cho biết Lão Tử, người mở đạo Giáo sống vào thời “Đông Chu” của Hoa sử. Còn vế dưới lại nói rõ “Nam Việt” là nơi “duy thử địa”, vùng đất duy nhất mà Lão Tử đã hóa thần tiên. Kết hợp hai vế đối này thì chỉ có cách hiểu hợp lý duy nhất là: nhà Chu của Hoa sử chính là nhà Thục của Nam Việt. Chỉ có vậy mới có thể giải thích vì sao Lão Tử Trung Hoa lại có mặt trong một triều đại ở Việt Nam.
Xem lại tiểu sử của Lão Tử được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên, nguyên văn như sau:
Lão tử giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử…
Thường được dịch là:
Lão Tử là người thôn Khúc Nhân, làng Lệ  huyện Khổ, nước Sở. Ngài họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy là Đam. Làm quản thủ thư viện nhà Chu. Khổng Tử đến Chu, hỏi Lão Tử về lễ…
Phần dịch trên đã không theo sát nguyên văn về quê hương của Lão Tử. Sử ký chép “Lão Tử người huyện Sở Khổ”, chứ không hề nói Lão Tử là người nước Sở. Đọc phần tiếp theo, Lão Tử “làm quản thủ thư viện nhà Chu”. Nhà Chu là thiên tử, là triều đại chính của thời Lão Tử nên trong đoạn văn không cần nêu “trong triều Chu” thì vẫn phải hiểu Lão Tử là người nước Chu, huyện Sở Khổ. Vì Lão Tử ở nước Chu nên Khổng Tử mới đến Chu tìm gặp.
Một sách khác là Lão Tử Minh chép về xuất xứ của Lão Tử, nguyên văn như sau:
Lão tử tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên.
Dịch:
Lão Tử tính Lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ. Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng này là một khu đất cao cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân tài đức.
Tương tự như Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử Minh cũng không nói Lão Tử người “Sở quốc” mà nói Lão Tử người “Sở Tương huyện”. Câu tiếp theo ở xuất xứ này lại một lần nữa nói tới nhà Chu. Rõ ràng phải hiểu Lão Tử là người nước Chu ở huyện Sở Tương.
Đoạn trên trong Lão Tử Minh còn có nói “Sở tự xưng vương”, thế mà “huyện Tương” lại “trở nên hoang vu”? Nước Sở xưng vương thì huyện Tương nước Sở phải thịnh vượng mới đúng chứ sao lại trở nên hoang vu?… Huyện Tương hoang vu bởi vì huyện này không nằm ở Sở, mà nằm ở Chu.
Chữ Sở trong Sở Khổ hay Sở Tương huyện có thể chỉ là từ chỉ phương hướng: Sở = Sủy = Thủy = nước là tượng của phương Bắc ngày nay. Như vậy lai lịch của Lão Tử theo Sử kýLão Tử Minh trùng với thần tích của đình Thổ Hà về việc có một nhà hiền triết đến từ phương Bắc. Mạnh dạn hơn nữa, có thể Sở Khổ hay Thủy Khổ phiên thiết cho chữ Thổ, chính là Thổ Hà, tên làng thờ Lão Tử ngày nay. Làng này có con sông Cầu chảy qua đúng như sách Lão Tử Minh chép.
Câu đối ở đình Thổ Hà:
Do Chu ngật kim, nhất kinh truyền đạo đức
Tại hà chi tứ, vạn cổ chấn anh linh.
Dịch:
Từ thời Chu tới nay, một bộ kinh truyền đạo đức
Cạnh sông Cầu bên bến, chục ngàn đời chấn linh thiêng.
Về hàng trạng của Lão Tử trong Lão Tử Minh chép:
Lão tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương.
Dịch:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.
Nhà Chu có vùng Tam Xuyên (ba sông) như trong sách dẫn trên. Tam Xuyên là đất Đông Chu, nơi Tần Thủy Hoàng sau khi diệt Chu đã lập quận Tam Xuyên. Nhưng: Tam Xuyên = Tam Giang. Tên này còn lưu trong tên thánh Tam Giang, tức Trương Hống – Trương Hát, hai vị thần bên dòng sông Như Nguyệt, con sông chảy qua làng Thổ Hà.
Thần tích ở đình Thổ Hà về Lão Tử:
Vua (Thục An Dương Vương) xây thành (Cổ Loa) có những u hồn và tà ma quấy nhiễu, cứ xây xong lại đổ. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo vua rằng: xin vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi Người sai Thanh giang sứ (tức thần Kim Quy) đến giúp, giết Bạch kê tinh trong núi Thất Diệu, lại đào được hài cốt Bạch kê đem đốt đi, từ đó yêu ma tan hết, lại đào thấy nhạc khí thời cổ (như chiêng trống đồng).
Có thể thấy truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa và cơn “địa chấn” lúc giao thời Tây – Đông Chu chỉ là một. Diễn biến việc này có thể như sau: Lão Tử sống vào cuối thời Tây Chu (Chu U Vương) sang tới đầu thời Đông Chu. Khi nhà Chu chuyển về phía Đông, tới vùng Tam Xuyên – Tam Giang, thì gặp trận động đất lớn. Thanh lang thành (Lạc Dương) bị rung chuyển. Lão Tử nhân đó nói là âm khí của thời Hạ Thương phát hại, nhằm răn khuyên thiên tử Chu. Truyền thuyết Việt chép thành vua Thục (vua Chủ) xây thành Cổ Loa bị đổ, phải nhờ Lão Tử phái Thanh Giang sứ giả (Thương sứ) tới giúp dẹp yêu quỉ thì thành mới xây được.

Cua vong

Cửa võng đình Thổ Hà

Câu đối ở cửa võng đình Thổ Hà:
Qui giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỉ
Long năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên.
Dịch:
Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỉ
Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên.
Thần tích, câu đối trong dân gian Việt chính là những “bộ kinh” còn truyền thiên thu về lịch sử Hoa Việt chói ngời. Nhà Chu từ lúc Khương Thái Công câu cá bên sông … Tô Lịch,  Chu Vũ Vương cùng … Thánh Gióng đánh giặc Ân, tới Lão Tử người … “huyện Thổ Hà” khai mở Đạo giáo, Chu Bình Vương dời đô về Cổ Loa… Tất cả đều còn lưu trong bia đá, bia gạch, bia gỗ, bia giấy, bia miệng … ở Việt Nam.

Văn nhân góp ý:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu, kinh đô phía đông nhà Chu gọi là Đông đô. Đông đô là tên gọi khác của Hà thành … vì thế … mới có …
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.

Suy nghĩ về khảo cổ và lịch sử Trung Quốc

Bản đồ lãnh thổ lịch sử Trung Quốc theo như quan niệm hiện nay:

M_Hist

Phần đen đậm là khu vực được cho là khởi nguồn của Trung Quốc. Thế nhưng có thể thấy ở đây có 2 khu:
– Khu thứ nhất là dọc sông Hoàng Hà với các địa điểm khảo cổ từ thời đồ đá như Ngưỡng Thiều, Bán Pha, Từ Sơn. Khảo cổ cho thấy đây là khu vực nông nghiệp trồng kê ở ruộng cạn.
– Khu vực thứ hai được biết qua di chỉ Hà Mẫu Độ ở phía Nam cửa sông Dương Tử. Đây là khu vực trồng lúa nay được coi là sớm nhất (7000 năm trước CN). Nhiều nhà khoa học đã nhất trí cho rằng khu vực này thuộc văn hóa Bách Việt, với tộc người là Monglonoid phương Nam. Khảo cổ ở phần
Nam Trung Hoa xa hơn hiện còn chưa nhiều, và ít khi được công bố vì…

Như vậy Trung Quốc đã cố tình nhận vơ cả khu vực trồng lúa nước ở Nam Dương Tử thành nguồn gốc của Hán tộc ở Hoàng Hà. Xét đời Thần Nông dậy dân trồng lúa, vua Nghiêu thúc trạch Nam Giao, vua Thuấn tuần du chết ở Thương Ngô (trung lưu Nam sông Dương Tử) thì không thể nói khác những vị vua tiền sử này phải là thuộc khu vực lúa nước Nam Dương Tử.
Hà Mẫu Độ ở Phúc Kiến Chiết Giang có thể là đất Cối Kê, nơi vua cùng dân con cháu Hạ Vũ lội nước, đắp đê để khai phá thời Hạ trung hưng.

Bản đồ tập hợp những địa điểm khảo cổ đồ đồng ở Trung Quốc:

KhaocoTQ2

Trung Quốc thường dựa vào địa điểm khảo cổ ở Ân Khư – An Dương đời Thương để khẳng định lịch sử nhà Thương là ở Hoàng Hà. Chữ viết trên giáp cốt cũng bắt đầu từ đây. Nhưng An Dương là khu vực Hậu Thương. Các di chỉ đồ đồng đời Thương còn có ở Bàn Long Thành và Tân Can ở tận phía
Nam sông Dương Tử. Những di chỉ này lại có phần sớm hơn cả ở Ân Khư. Một cách hợp lý thì đồng khí Thương phải phát triển từ khu vực đồ đá mới Hà Mẫu Độ ở Nam Dương Tử, chứ không phải từ Hoàng Hà.
Như vậy phải hiểu: nhà Thương bắt đầu từ khu vực sông Dương Tử rồi mới tiến lên Hoàng Hà, chứ không phải ngược lại. Trong lịch sử được ghi nhận là chuyện Bàn Canh năm lần bảy lượt dời đô, lập nên một triều đại tương đối riêng biệt là nhà Ân (tức là nhà Thương thứ hai).
Ở Ân Khư có những đồ đồng có hình mặt người và được xác định là kiểu người Nam Á. Như vậy Ân Khư là di chỉ của người Nam Á chứ không phải của Hán tộc, là dân Monglonoid phương Bắc.
Tân Can có thể là nơi đóng đô của Thành Thang khi mở đầu nhà Thương. Những kinh đô khác khi Bàn Canh dời đô dần dần lên hướng bắc là Bàn Long Thành (Long Thành có nghĩa là thành nơi vua ở), Trịnh Châu. An Dương là thủ đô của Trụ Vương nhà Ân.
Hán tộc nằm vào phức hợp đồng khí phương Bắc cùng với Hung Nô, Mãn. Tuy nằm ngay sát Ân Khư nhưng Hán tộc chẳng có liên quan gì đến đồ đồng đời Thương cả. Hán tộc chính là Đông Di, Nhung Địch trong Hoa sử, là những tộc người bị Trụ vương đuổi ra khi nhà Ân vượt Hoàng Hà.

Đền thờ Cao Lỗ ở Diễn Châu

NhathohoCao

Cách Mộ Dạ không xa, ở làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, Nghệ An có một ngôi đền thờ họ được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Đó là đền thờ họ Cao, tương truyền thờ Cao Lỗ, tướng của An Dương Vương. Cao Lỗ được gọi là Tiền viễn tổ của họ Cao từ Nho Lâm. Họ Cao nổi tiếng về truyền thống hiếu học, có nhiều nhân vật dòng họ có danh tiếng xưa và nay như Cao Bá Quát, Cao Sỹ Kiêm, Cao Đức Phát, …
Theo gia phả của họ thì họ Cao ở Nho Lâm có gốc là từ Cao Đại Tôn là ông Cao Thiện Trí vào khoảng năm 1360, lập làng Tùng Lâm, sau đổi thành Nho Lâm. Có điều không hiểu sao họ Cao lại nhận mình là xuất xứ từ vùng Bột Hải (?). Bột Hải nếu như ngày nay là vùng biển giáp với Triều Tiên ở tít phía Bắc Trung Quốc. Theo Bách gia tính thì họ Cao của Trung Quốc cũng có xuất xứ ở Bột Hải.
Kỳ lạ nữa là ông Cao Thiện Trí lấy vợ là Khổng Thị Tám, người… nước Lỗ chạy loạn sang Nghệ An (!). Thật hết biết các nước thời Chiến Quốc của Trung Hoa là ở chỗ nào.
Câu đối trước cửa đền thờ họ Cao:
Vạn phái thiên lưu nguyên Bột Hải
Kim hoa cổ thụ mạn Tùng Lâm.
Dịch:
Vạn chi lưu dời đều từ Bột Hải
Gốc cổ thụ xưa nay vẫn ở Tùng Lâm.

Dạ luyện sơn đầu ngô tổ triệu
Tranh hùng địa hậu ngạ tiên phù
(Không biết dịch thế nào)

Thẻ ngọc An Dương

Nguồn Đào Duy Anh:
Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa số 23:
“Chủ tịch phủ vừa giao cho chúng tôi một tài liệu mới nhận được sau ngày 1-12-1956 về một thẻ ngọc gọi là “An Dương ngọc giản” (thẻ ngọc An Dương), do nhà khảo cổ học Trung Quốc Dư Duy Cương ở Quảng Châu gửi tới. “Thẻ ngọc này … nguyên khổ 111×84. Nó hình trái tim, dày chừng nửa ngón tay trỏ, phía trên có một lỗ nhỏ, phía dưới có một lỗ to hơn. Về mặt phải, ở bốn góc, có bốn chữ “An Dương Hành Bảo”, chữ viết khá lớn: chữ thì viết theo lối “cổ trựu”, tức là lối cổ trựu văn từ đời Chu Tuyên Vương (thế kỷ thứ IX TCN); chữ thì viết theo lối “tiểu triện”, lối chữ thông dụng từ đời Chiến Quốc (thế kỷ thứ III TCN); chữ thì viết theo lối “đại triện”, lối chữ dùng từ đời Tần Hán (thế kỷ thứ II TCN)… “Bảng này viết đủ sáu mươi giáp tí, … và viết theo lối chữ giáp cốt
đời Ân (thế kỷ thứ XVIII TCN)… Nhà học giả họ Dư cho biết thêm tấm ấy đã tìm thấy ở Quảng Châu, … đã đào được hàng ngàn cái ngọc giản, miếng nào cũng khắc hơn một trăm chữ..

Nhận xét của Đào Duy Anh:
– “… Đối chiếu với những lối chữ cổ … ba chữ “Dương Hành Bảo” là chính xác. Còn chữ “An” thì còn ngờ…” – “Những chữ trên thẻ ngọc không phải là bằng chứng đầy đủ để tỏ rằng xã hội Lạc Việt đã biết dùng văn tự. Chữ đó toàn là chữ của Trung Quốc…
Chúng tôi cho rằng An Dương Vương Thục Phán chính là hậu duệ của vua nước Thục ở thời Chiến Quốc … có thể biết dùng lối chữ cổ trựu … và cả lối tiểu triện… Song sự có mặt của kiểu chữ đại triện thì hơi khó giải thích …”*
*Bài viết của Đào Duy Anh khá dài nên không tiện chép đầy đủ, chỉ trích những ý quan trọng nhất.

Bình luận:
Từ những năm 1950 chúng ta đã được gửi cho “Thẻ ngọc An Dương“, một bằng chứng rõ ràng về thời Thục Phán An Dương Vương, nhưng ngay học giả hàng đầu lúc bấy giờ như Đào Duy Anh cũng không dám tin vào bằng chứng này mà lại giải thích thành ra Thục Phán chạy từ nước Thục tận Tứ Xuyên mang theo đủ loại chữ viết từ đời Ân Thương vào nước ta…

Khảo cổ Việt Nam đã cho biết rõ ràng không hề có sự đột biến nào về văn hóa khảo cổ khi chuyển từ thời Hùng Vương sang An Dương Vương theo như niên đại chính sử hiện nay. Vậy làm sao mà Thục Phán với một nền văn hóa và chữ viết hoàn toàn xa lạ từ tận Tứ Xuyên có thể làm vua hàng chục
năm ở Việt Nam được?
Thẻ ngọc An Dương cho thấy:
– Thời đại của An Dương Vương bắt đầu sớm hơn nhiều so với sử sách đã ghi, ngang ngửa với thời bắt đầu của của nhà Chu (cuối nhà Ân).
– An Dương Vương dùng đủ loại chữ mà văn hóa Trung Hoa cổ có, từ chữ trên giáp cốt của Ân Thương, chữ thời Chiến Quốc và chữ đời Tần Hán.
– Chữ “An” trong “An Dương Hành Bảo” có thể không phải là “An”, như nghi ngờ của Đào Duy Anh. Thực ra đó là chữ “Âm”, tức Âm Dương Hành Bảo. Thẻ ngọc chép đủ can chi, chứng tỏ có liên quan trực tiếp đến thuyết âm dương.
Nhìn theo sử thuyết mới càng rõ ràng An Dương Vương hay Âm Dương Vương chính là Chu Văn Vương, một triều đại Hùng Vương Việt Nam (Hùng Chiêu Vương). Và chữ viết của Trung Hoa, kể cả chữ đời Ân Thương trên giáp cốt là thành tựu của người Việt.