Ngọc phả Hùng Vương ở đình Vân Luông, Việt Trì, Phú Thọ

Bảo Đại năm thứ 13, ngày 10, tháng 3, xã Vân Lung thừa sao.

NAM VIỆT HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ VĨNH TRUYỀN
Cháu chắt dòng dõi ức vạn năm hương lửa tôn sùng điển thờ

Kỷ Hồng Bàng

Xưa tại Đại quốc Trung Hoa, đô đóng ở thành Thiên Thọ Bắc, lăng phần mộ tổ trời táng ở núi Côn Lôn, cùng năm hồ, biển lớn, núi Nam hội chầu chính đường, ban đầu là từ cháu ba đời Viêm Đế dòng Thần Nông thị, từ Hy Hoàng tới đó, truyền ngôi quốc bảo chính thống Nam Bang, để lại cho con cháu đời sau vậy.

Đế Minh, thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ

Tại vị 130 năm, thọ 173 tuổi, sinh ngày 15 tháng 11 năm Giáp Tí, mất ngày 1 tháng 1. Sinh Đế Nghi năm Giáp Ngọ là con trưởng, sinh Lộc Tục năm Nhâm Ngọ là con thứ, phong làm Kinh Dương Vương cai trị quận Giao Chỉ, Nam Man.

Sử ký Việt Nam

Thời thượng cổ là Giao Chỉ, đổi thành Xích Quỷ, cùng tên nước Xích Quỷ, nay tên là nước Đại Việt An Nam. Kinh Dương Vương nhận vị từ ngày 15 tháng 2 năm Nhâm Tuất, tuân mệnh đi tuần ở núi Ngũ Lĩnh, gọi là động Bạch Hổ Vân Nam.

  1. Kinh Dương Vương
    Chi Càn

Tên húy là Lộc Tục. Tại vị 250 năm, thọ 271 năm. Sinh ngày 4 tháng 1 năm Nhâm Ngọ. Sau hóa sinh về biển Động Đình, cùng với con gái Đế quân sinh ra con trưởng là Sùng Lãm, phong làm Lạc Long Quân Hiền Vương, năm Bính Thìn bắt đầu trị Nam Man.
6 cung phi của Dương Vương sinh 24 nam hoàng tử, 12 nữ cônng chúa, dòng dõi hoàng tôn 36 chi, sinh cháu chắt 592 người. Trị nước thiên hạ chư hầu đều phục, Bách Man, Tứ Di đều quy thuận, các phương tám hướng đều hưởng phúc thái bình, nước không có thuế cao, dân không dối trá.
Hùng Dương Vương Cao hoàng Thái tổ Đức tông Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương thánh tổ Nam thiên Đại bảo Đức tông Thánh vương.

  1. Hùng Hiền Vương
    Khảm chi

Tên húy là Sùng Lãm. Tại vị 269 năm, thọ 506 năm, sinh ngày 5 tháng 5 năm Bính Thìn. Sau ngày 9 tháng 1 hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân. Hiền Vương lấy nàng Ẩu Cơ Âu Lạc, là con gái thứ của Đế Lai, ở tại núi Nghĩa Lĩnh, sinh một bào trăm trứng, nở ra điều lành trăm trai hoàng tử. Là thủy tổ của Bách Việt, nước Văn Lang, từ lúc sơ khai mở thánh tạo dựng cơ đồ.
9 cung phi sinh 118 hoàng tử, 19 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 137 chi, sinh cháu chắt 3599 người. Cai trị đất nước có khí trời báu vật tài thần, thiên hạ xưa nay không có, sinh trăm vương tử trị một nước trăm vùng chiếm giữ làm trăm họ.
Hùng Hiền Vương Cao hoàng Thái tổ Quốc tông Quang hưng Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Đại bảo Tiền hoàng đế Khai quốc Hồng đồ Nam triều Thượng thánh Tiền đại Đế vương Thánh vương.

  1. Hùng Quốc Vương
    Chi Cấn

Tên húy là Lân Lang. Tại vị 217 năm, thọ 767 năm, giờ Ngọ ngày 5 tháng 5 năm Canh Ngọ, cùng sinh trăm vương năm Canh Ngọ. Sau trăm vương cùng hóa vào giờ Thìn ngày 12 tháng 3. Các vị cùng tụ họp tại điện, 50 vương theo cha, 50 vương theo mẹ. Tương hợp can Tí Ngọ. Quốc Vương là chủ của trăm vương, truyền 18 vua trị nước.
12 cung phi sinh 33 hoàng tử, 18 công chúa, sinh con trai cả là Nghĩa Vương tiếp ngôi cai quản cơ đồ. 51 chi, cháu chắt 900. Giữa ban ngày lên trời hóa sinh bất diệt vào giờ Ngọ ngày 5 tháng 5, lên đỉnh núi, ngự trên mây năm sắc, bay lên không, hóa thần, vạn năm phụng sự.
Hùng Quốc Vương Thượng thánh tông Nguyên triều hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Thánh tổ Hùng Vương Nam Thiên thượng thánh Tiền hoàng đế khai quốc hồng đồ Đột Ngật Cao Sơn cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương.

  1. Hùng Nghĩa Vương
    Chi Chấn

Tên húy là Bảo Lang. Tại vị 300 năm, thọ 546 năm. Sinh giờ Mão ngày 6 tháng 1 năm Tân Mùi. Sau giờ Ngọ ngày 5 tháng 5 hóa là tiên, sinh bất diệt, thành Kim Tiên Thượng Giác, ở nơi cung ngọc, cai quản ba ngàn chúa tiên. Sinh con trưởng là Hy Vương tiếp ngôi truyền 8 vương trị vì.
14 cung phi của vua sinh 49 hoàng tử, 20 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 69 chi, cùng với cháu chắt 1591 người. Thời vua trị vì thiên hạ, thần dân trăm họ không chịu tô cao, không động đao binh, trọng sản xuất nông tang làm căn bản, bốn biển giàu có, thiên hạ vững mạnh. Mỗi suất người dân nộp 36 đồng tại điện.
Hùng Nghĩa Vương Thần tông Ân trạch Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Viễn Sơn Thánh vương Ân trạch Phổ huệ Thánh vương.

  1. Hùng Hi Vương
    Chi Tốn

Tên húy là Viên Lang. Tại vị 200 năm, thọ 599 năm. Sinh ngày 15 tháng 2 năm Đinh Mão, hưởng được tới ngày 20 tháng 5 thì mất. Sinh con trưởng là Diệp Vương, tiếp ngôi truyền 5 vua trị vì.
36 cung phi của Vương sinh 52 hoàng tử, 9 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 61 chi, sinh cháu chắt 1600 người. Thời Vương cại trị hưởng thái bình, dân không dối trá, thiên hạ vững mạnh, quân binh giữ yên. Theo như lệ trước. Mỗi suất đinh nộp 36 đồng.
Hùng Hi Vương Cao tông Trợ thắng Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Ất Sơn Thánh vương Trợ thắng Công bình Hoàng đế.

  1. Hùng Diệp Vương
    Chi Ly

Tên húy là Pháp Hải Lang. Tại vị 81 năm, thọ 580 năm. Sinh ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tí. Hóa về trời ngày 7 tháng 1. Sinh con cả là Huy Vương.
48 cung phi của Diệp Vương sinh 32 hoàng tử, 19 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 52 chi, cháu chắt 699 người. Vương trị thiên hạ tuân theo phép trước, nộp 36 đồng tiền. Do Vương cầu trời dùng lễ dối, quần thần dèm pha, trời sinh giặc phương Bắc xâm lược.
Hùng Diệp Vương Bảo tông Minh vương Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Bách Việt thần linh Nam thiên Đại bảo Nhân viên Minh vương Thánh vương.

  1. Hùng Huy Vương
    Chi Khôn

Tên húy là Long Tiên Lang. Tại vị 200 năm, thọ 692 năm. Sinh ngày 10 tháng 10 năm Tân Dậu. Sau vào ngày 15 tháng 7 hóa sinh ở trung điện thành tiên bất tuyệt. Lấy nàng Ngọc Tiêu ở Đảo Sơn làm hoàng chính phi, sinh con trưởng là Ninh Vương, tiếp vị truyền 5 vua trị vì.
Huy Vương truyền 7 vua trị vì. 60 cung phi sinh 23 hoàng tử, 36 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 59 chi, sinh cháu chắt 750 người. Thời Vương trị vì, thiên hạ thái bình, chư hầu thành phục, nhân dân không có trộm cướp, giặc giã, không thu thuế cao, mỗi suất đinh dân nộp ngân khố 18 đồng.
Hùng Huy Vương Thái tông Nhân minh Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Hiển đức Nhân minh Quang thiên Phổ hoá Thánh vương.

  1. Hùng Ninh Vương
    Chi Đoài

Tên húy là Thừa Vân Lang. Tại vị 100 năm, thọ 642 năm. Sinh ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Thìn. Về trời ngày 11 tháng 10. Sinh con trưởng là Chiêu Vương, tiếp ngôi truyền 5 vua trị vì.
29 cung phi của Ninh Vương sinh 31 hoàng tử, 16 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 47 chi, sinh cháu chắt 579 người. Trị thiên hạ thái bình, dân đinh nộp mỗi suất 24 đồng tiền vào ngân khố.
Hùng Vĩ Chiêu Vương Hiển tông Duệ trí Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Thánh văn Thần võ Duệ trí Chí đức Vương.

  1. Hùng Chiêu Vương
    Chi Giáp

Tên húy là Quốc Tiên Lang. Tại vị 80 năm, thọ 602 năm. Sinh ngày 12 tháng 8 năm Quý Tị. Về trời ngày 10 tháng 4. Uy Vương là con trưởng nối ngôi.
46 cung phi của Vương sinh 30 hoàng tử, 9 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 42 chi, sinh cháu chắt 559 người. Trị thiên hạ thái bình. Dân đinh theo vua trước nộp 36 đồng vào ngân khố.
Hùng Chiêu Vương Minh tông Thần công Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Thích long Nghĩa Lĩnh Thần công Dũng lược Thánh vương.

  1. Hùng Uy Vương
    Chi Ất

Tên húy Hoằng Hải Lang. Tại vị 90 năm, thọ 512 năm. Sinh ngày 15 tháng 11 năm Giáp Ngọ. Về trời ngày 6 tháng 11. Sinh Trinh Vương là con trưởng nối ngôi, truyền 3 vua trị.
40 cung phi của Vương sinh 29 hoàng tử, 30 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 59 chi, sinh cháu chắt 434 người. Trị thiên hạ bốn biển, dân đinh theo lệ triều trước nộp khố 36 đồng tiền.
Hùng Uy Vương Hùng tông Xuân vương Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Hùng đức Chiêu nhân Quang hiếu Xuân vương Thánh vương.

  1. Hùng Trinh Vương
    Chi Bính

Tên húy là Hưng Đức Lang. Tại vị 1 07 năm, thọ 5 14 năm. Sinh ngày 13 tháng 8 năm Canh Tuất. Về trời ngày 2 tháng 1. Sinh Võ Vương là con trưởng nối ngôi truyền 4 vua trị.
36 cung phi của Vương sinh 46 hoàng tử, 18 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 64 chi, sinh cháu chắt 409 người. Trị nước an bình, thần dân trăm họ không chịu thuế cao, không bị quân binh chiếm cứ. mỗi suất 9 đồng nộp khố.
Hùng Trinh Vương Đức vương Minh bảo Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Hiển liệt Thánh trí Thai yết(?) Minh bảo thánh vương.

  1. Hùng Võ Vương
    Chi Đinh

Tên húy là Hiền Đức Lang. Tại vị 96 năm, thọ 496 năm. Sinh ngày 14 táng 4 năm Bính Thân. Về trời ngày 15 tháng 11. Sinh Việt Vương là con trưởng truyền 3 vua trị.
35 cung pho của Vương sinh 50 hoàng tử, 6 công chúa , dòng dõi hoàng tôn 56 chi, sinh cháu chắt 305 người. Trị nước thanh bình, trăm nhà đều phục. Mỗi suất đinh nộp khố 6 đồng tiền.
Hùng Võ Vương Thánh tông Thượng giác Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Hoàng Đại giác Thần trí Thánh vương.

  1. Hùng Việt Vương
    Chi Mậu

Tên húy là Tuấn Lang. Tại vị 105 năm, thọ 502 năm. Sinh ngày 10 tháng 10 năm Kỷ Hợi, Về trời ngày 15 táng 11. Sinh Định Vương là con trưởng truyền 5 vua trị.
31 cung phi của Vương sinh 27 hoàng tử, 30 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 57 chi, sinh cháu chắt 541 người. Trị nước thái bình, dân không dối trá. Mỗi suất đinh nộp khố 100 đồng.
Hùng Việt Vương Huy tông Quang phúc Hoàng đế.
Mỹ tự truy phong
Hùng Vương Thiên tâm Quang phúc Vương tướng Linh ứng Thánh vương.

  1. Hùng Định Vương
    Chi Kỷ

Tên húy lầ Chân Nhân Lang. Tại vị 99 năm, thọ 386 năm. Sinh ngày 17 tháng 5 năm Bính Dần. Về trời ngày 25 tháng 10. Sinh Triều Vương là con trưởng truyền 3 vua trị.
18 cung phi của Vương sinh 18 hoàng tử, 22 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 40 chi, sinh cháu chắt 309 người. Trị nước thái bình, bốn phương yên tĩnh, dân đinh nộp thuế 1 bách tiền vào khố.
Hùng Định Vương Tông quốc Bảo hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Quốc bảo Tuyên đức Thần công Thượng trí Thánh vương.

  1. Hùng Triều Vương
    Chi Canh

Húy Cảnh Triều Lang. Tại vị 94 năm, thọ 286 năm. Sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu. Sau về trời ngày 9 tháng 9. Sinh con trưởng là Tạo Vương tiếp ngôi truyền 3 vua trị.
60 cung phi của Triều Vương sinh 40 hoàng tử, 16 công chía, dòng dõi hoàng tôn 56 chi, sinh cháu chắt 396 người. Trị nước thiên hạ thái bình. Dân đinh mỗi suất nộp 18 đồng vào khố.
Hùng Triều Vương Nhân tông Quang đức Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Nhân chiêu Quang đức Thần trí Đại nguyên Thánh vương.

  1. Hùng Tạo Vương
    Chi Tân

Tên húy Đức Quân Lang. Tại vị 92 năm, thọ 273 năm. Sinh ngày 15 tháng 12 năm Kỷ Tị. Sinh con trưởng là Nghị Vương, truyền 3 vua trị.
26 cung phi của Tạo Vương sinh 30 hoàng tử, 7 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 37 chi, sinh cháu chắt 390 người. Trị nước thái bình, trăm họ thần dân giàu đủ, đinh mỗi suất 200 đồng tiền nộp khố.
Hùng Tạo Vương Nghị tông Thiên bảo Quang triều Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Thánh tổ Nam Thiên Đại bảo Tiên triều Thánh vương.

  1. Hùng Nghị Vương
    Chi Nhâm

Tên húy là Bảo Quang Lang. Tại vị 160 năm, thọ 217 năm. Sinh ngày 15 tháng 8 năm Ất Dậu. Về trời ngày 11 tháng 8. Sinh con trai cả là Duệ Vương truyền 4 vua trị.
39 cung phi của Vương sinh 22 hoàng tử, 15 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 37 chi, sinh cháu chắt 291 người. Triị nước lâu dài tốt đẹp, dân đinh mỗi suất nộp 300, ruộng mỗi đầu thuế 10 đồng. 50 đinh lập 1 đội binh.
Hùng Nghị Vương Thụy tông Nam triều Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Hoàng bảo Thánh tổ Nhân hoằng Huệ đức Thánh vương.

  1. Hùng Duệ Vương
    Chi Quý

Tên húy là Huệ Đức Lang. Tại vị 115 năm, thọ 227 năm. Sinh ngày 3 tháng 3 năm Canh Thân. Sau vào ngày 5 tháng 5 hóa sinh cùng với con rể là Tản Viên Sơn, ban ngày lên trời, trên thượng điện thành tiên, sinh sinh bất tuyệt diệt, tung tích vạn cổ, là thánh vương thiên vương tối linh, kiêm đứng đầu thượng đẳng bách thần. Truyền 5 con trại cai trị. Đầu tiên truyền cho con trưởng là Kính Vương tiếp ngôi, trị được 3 năm thì mất. Sau truyền ngôi cho con thứ là Cảnh Nhiếp Lang, thống trị được 10 năm thì mất. Lại truyền cho cháu được 3 năm tại vị cũng mất. Vương truyền cho con rể Tản Viên giữ ngôi, theo mệnh vua cha mà ban lệnh chế, quyền định thiên hạ, trị vì được 10 năm. Cha con đồng tầm muốn thành tiên, giác ngộ phép thần thông, hưởng vạn năm thiên tiên bất diệt. Nên mới nhường ngôi cho Thục An Dương Vương, cũng là cháu chắt dòng dõi Hùng Vương, tông phái của hoàng đế trước đây, là cháu 19 đời của bộ chủ phụ đạo. Duệ Vương có 100 cung phi, đam mê tửu sắc, sinh 20 hoàng tử, 6 công chúa, dòng dõi hoàng tôn 26 chi, sinh cháu chắt 194 người. Đến lúc vận cáo chung họ Hùng, 10 nam 4 nữ đều mất, không có con nối dõi. Còn 2 nữ, một là Mị Châu Tiên Dung công chúa lấy Trử Đồng Tử, thành tiên bất diệt. Một là Mị Nương Ngọc Hoa công chúa, lấy Tản Viên Sơn Tinh, nhận ngôi là con rể, một vị vua tốt, trị nước được 10 năm thì nhường ngôi lại cho Thục An Dương Vương. Duệ Vương cùng Tản Viên Sơn cha còn cùng một ngày thành tiên, hóa sinh bất diệt, vạn thế xưa nay không từng có, là những bậc đại thánh minh quân của thiên hạ.
Từ đầu tính nước họ Hùng 18 đời truyền ấn phù quốc gia, 180 đại đế vương lên ngôi, nhất thống núi sông, xe sách trị nước, kiến dựng 120 thành điện.
Hùng Duệ Vương Thiên tông Minh vương Hoàng đế
Mỹ tự được truy phong
Hùng Vương Thần linh Hải đức Minh vương Nam triều Thánh vương.

Như vậy cộng các năm trị vì, 18 đời thánh vương di truyền, thánh tử thần tôn, triều đại đế vương, hưởng ngôi cộng là 2655 năm, thọ 8618 năm, sinh 986 chi hoàng tôn công chúa, sinh cháu chắt cộng là 14.370 người, trị ở nước Nam, đầu núi góc biển, vạn thế trường tồn, mãi mãi không ngừng.

THƯỢNG THẦN CUNG ĐIỆN
Viễn Sơn thánh vương (bài vị trái)
Đột Ngật Cao Sơn Hiển linh Thống thủy Điện an Hoằng tế Phổ hóa Minh túc Hậu ứng Quảng Huệ Uy hàm Diễn đức công Thánh vương (bài vị giữa)
Ất Sơn Thánh vương (bài vị phải)

TRUNG THẦN CUNG ĐIỆN
(bài vị trái)
Đột Ngật Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương (bài vị giữa)
(bài vị phải) 

HẠ THẦN CUNG ĐIỆN
(bài vị trái)
(bài vị giữa) Tên hiệu cũng giống như Trung Thần Cung
(bài vị phải) 

Ngày 15 tháng 1 năm Thiên Phúc thứ nhất. Thuộc thư ký Lê Đại Hành.

 

 

Vân Hương Tiên chủ thánh mẫu hành thuật tán văn

20190203_190706.jpgQuần tiên lục bàng cầu dật tích
Nữ trung tiên biến biến lưu phương
Phục giáng tuyết đảo huyền sương
Ly sơn lưu mạch dư hàng nhưỡng hoa.

Cao hoá đạo thừa nga ly tục
Hoa sơn đầu giá lộc thăng thiên
Du du nhất khứ nhi tiên
Kỷ hội tung tích lưu truyền tại nhân.

Cố vị hữu nhất thân kim cổ
Nữ nhi tiên nhi chủ nhi thần
Chỉ duyên hiếu thuận toàn chân
Cảm thiên chí đức động nhân chí thành.

Cố vạn thế tinh linh bất diệt
Dữ sơn hà nhật nguyệt vô biên
Lục kỳ tế duyệt di biên
Địa chung Thiên Bản sự truyền Vân Hương.

Duy tiên chủ Ngọc Hoàng chi tử
Thị quỳnh diên ngẫu truỵ ngọc bôi
Giáng sinh phụng mệnh khâm tai
Văn minh chi địa tài bồi chi gia.

Ngôi sơn hạ vân hoà thảo tĩnh
Hoà đao gia phúc khánh môn my
Hương phong thuỵ khí tiêu kỳ
Ngọc kim lệ chất ưng kỳ đĩnh sinh.

Thiên phú tính thông minh quả thất
Đàn nhi thi âm luật tinh thông
Ngâm thành xuân hạ thu đông
Thiên nhiên đại lã hoàng chung ca từ.

Quảng Hàn điện nhất chi đan quế
Nhất di tài thiên lý văn hương
Trần gia thư viện liên phương
Hoa di tín báo Đào lang duyên hài.

Nhất đế sở giáng lai tinh khách
Nhất thiên cung bất trích tiên nhân
Sắt cầm cộng khế túc nhân
Tam gia tình hảo lục thân hoan thừa.

Loại vĩnh tích tường trưng lân chỉ
Tam chu tinh song kỷ thái chiêm
Mộ xuân nhật trị trùng tam
Ngọc đình phản mệnh châu liêm không thuỳ.

Tuy linh sảng dĩ quy thiên thượng
Niệm thâm tình do hướng nhân gian
Hô ta hạc phát đà nhan
Cù lao vị báo thần hôn vị thù.

Canh hu ta cữu cô nhật dạ
Bão nhi tôn nan tả hoài tư
Hu ta lưỡng cá anh nhi
Vị chu tam tuế dĩ ly mẫu hoài.

Báo hu ta nhi hài thân lão
Đồng tâm nhân cầm tháo ly loan
An năng tương bạn tiên đàn
Tôn thư tả mại hạ sơn trợ bần.

Hựu an đắc tịch thần lai vãng
Mã thị canh nhật thượng thân tiền
Kỷ hồi yến hội quần tiên
Hồng bào vũ thấp kim điền châu linh.

Chư tiên nữ liên tình vy tố
Phụng sắc phong công chủ giáng trần
Biệt lai thúc hốt lưỡng xuân
Đại tường thích chí từ thân lai phòng.

Liêm cao quải vãn phong phi phất
Hộ trưởng quynh tà nhật tịch liêu
Bích gian chu chức ngọc tiêu
Trần phong kính hạp hương tiêu bút đài.

Sơ đổ vật bồi hồi hạt ký
Hốt tư nhân đảo truỵ nan cấm
Ninh tri chủ dĩ lai lâm
Ngọc câu bão khởi loan âm tiến từ.

Vị đốt đốt nữ nhi tại thử
Nguyện mẫu thân vô sự tương tư
Tĩnh khán hỷ hỷ bi bi
Ngô nhi hà xứ hà thì đắc lai.

Tín tức hạ trúc mai nhất thất
Hàn huyên trung giao tất lưỡng tình
Thuỷ tướng tâm sự đề minh
Trần hoàn trích mãn đế đình triệu quy.

Niệm cúc dục mẫn tư vị báo
Cố kim tư ngôn cáo quy ninh
Tam hồn tuy tạm hồi sinh
Dĩ phi cửu phách nan đình thử gian.

Gia nương cộng tiên ban danh liệt
Nhật hạ hoàn kim khuyết tương phùng
Vạn thuyền bất tận hung hung
Hốt gian hạc dĩ đằng không hà thì.

Lương nhân hà biệt ly thử hậu
Thiết hài nhi tuỳ phụ thượng kinh
Cô trai nhật nhật thường quynh
Sầu đôi kinh tứ muộn sinh văn phòng.

Thu dạ tĩnh hàn song vũ chích
Cảnh như liêu lữ khách tàn hồn
Bão sồ ám phất mỗi ngân
Cảm hoài nhị tuyệt thất ngôn ngẫu thành.

Đê ngâm bất cảm thanh văn ngoại
Bão tất không toạ đối tàn lê
Hốt văn thanh khấu sài phi
Khai môn địch diện vãn y hân tình.

Ty nhân hạnh thử sinh đa phúc
Phối dao tư tử dục thân hoan
Na kham giáp trướng sương hàn
Thiên biên lạc nhạn vân gian phi hoàng.

Kim bất tưởng tha hương tái ngộ
Nguyện tương thung dĩ phó khát trần
Văn ngôn giải thuyết ân cần
Hồng trang ước đoản thanh vân lộ trường.

Huống thượng hữu cao đường trĩ tử
Phủ dục kiêm ngưỡng sự vị hà
Tam sinh ân ái do đa
Giai kỳ bất viễn tinh hà tái đông.

My án thượng thung dung thiện đạo
Dĩ tu tề trung hiếu vy cương
Kinh thành liệu hoả lưu quang
Thần chung báo thự hiểu trang trí từ.

Niệm đường thượng nghiêm từ thần tịch
Vọng lang quân lân bích phân quang
Thiên thần hàn úc bất thường
Tình liên bán tử nghĩa thường tam sinh.

Thuyết bất tận đinh ninh chúc phó
Hoảng hốt gian giá vụ đằng vân
Thung tư hiển thánh ẩn thần
Sơn phong phượng giá hải tân kình xa.

Hữu thì tác lão bà khai tứ
Hữu thì vy nữ tử xuy tiêu
Y thuỳ hý mạn ương chiêu
Y thuỳ thành kính đảo cầu tất linh.

Thì kim bạch gia đình phụng sự
Vãng lai trung lịch kỷ xuân thu
Sinh thành đại đức dĩ thù
Lương nhân tuỳ diệc chân du hữu kỳ.

Tất hạ lưỡng thượng di tiên chủng
Y gia huynh diệc cộng hữu thành
Trần duyên tiệm giác khinh khinh
Vân du tứ hải phóng tình phiêu nhiên.

Lịch lãm tận sơn xuyên danh thắng
Lượng sơn lai nhất tịnh phù đồ
Thập phân cảnh trí ưu du
Tùng thương tế nhật mai cù ngạo sương.

Hương hoả dĩ thê lương kỷ lịch
Cổ chung hoàn tịch mịch đa niên
Bà tâm phủ cảnh tam thiền
Tùng biên kỷ khúc khấu huyền độc ca.

Hốt môn ngoại khách hà nhân giả
Ủng tiết mao tuấn mã lai tiền
Biến văn tả cảnh sổ liên
Khách tài xướng khởi chủ liên đáp từ.

Văn ưng đối ninh tri kính phục
Khấu lai do tướng dục vấn tân
Khách phương phủ thủ liễm thân
Đài đầu hốt dĩ vọng trần vô do.

Già lam lý tứ chu phản phúc
Lâm kính gian nhất mộc đáo hoành
Tự đề mão khẩu phân minh
Mã băng dĩ tẩu bàng kình chu tiêu.

Nhân tự ý tam cầu áo nghĩa
Mão khẩu gia mộc thị thần phong
Mã băng hợp thể thị phùng
Dĩ tẩu thị cáo khởi công tu hoàn.

Khách nguyên thị Khắc Khoan Phùng tính
Bắc sứ nhân phụng mệnh đồ kinh
Tế tư thần ý đinh ninh
Chi viên xướng tạo sử trình vịnh lưu.

Tiên tích biến chu du đề vịnh
Đế vương cư phục hạnh Đông đô
Trường An thành ngoại danh khu
Đông tân ngoạn nguyệt Tây hồ thưởng liên.

Phồn hoa xứ vô duyên nan ngộ
Du thưởng nhân đắc lộ y thuỳ
Phùng công tứ mẫu ngôn quy
Khanh tào thăng nhậm lại ty yếm phiền.

Nhân đới lưỡng đa niên thi khế
Sấn huân phong tu hễ hồ Tây
Phong quang đáo xứ phẩm đề
Nang thu thắng thưởng tụ huề kỳ hương.

Bộ nhất bộ đốn vong trần luỹ
Hành phục hành tiệm chí tiên châu
Hoè âm thâm xứ tửu lâu
Hoa lan tráp trúc hoàng lưu nhưỡng bồ.

Hoành biển tả Tây hồ phong nguyệt
Thập tự liên đối yết lưỡng doanh
Sơ liêm quải hạ ngọc quynh
Hồng y nương tử ỷ bình xuy tiêu.

Khách thi lễ nguyện cầu hưu giả
Chủ trí từ nhất toạ hà phương
Thi thần tửu thánh nhất đường
Quan ngư tục vận hựu trường liên ngâm.

Đông bích thượng nghiên tầm đề thoại
Hoạch lâu tiền thính tiên cuồng ca
Linh tâm tuệ tính lương đa
Nhất thì khuất đại gia kinh hoàng.

Tây lĩnh dĩ tà dương ảnh xạ
Khách trình thừa nguyệt dạ quy lai
Đào nguyên tái phỏng hậu hồi
Mang mang hồ thuỷ lâu đài toàn phi.

Hoè thượng thính mãn chi thiền táo
Thụ gian lưu lưỡng đạo triện đề
Tĩnh quan thi cốt thanh kỳ
Cựu du đốn ngộ tích thì phùng tiên.

Phùng công du du nhiên tưởng khởi
Thuyết đương niên phụng sử đồ trung
Phương tri không sắc sắc không
Thần tiên phi ảo tao phùng hữu duyên.

Tiên chủ tự Trường An biệt hậu
Nghệ An thành phục đáo sóc hương
Thanh sơn bích thuỷ thảng dương
Tử hồng hoa tín sinh hoàng điểu thanh.

Thích hữu nhất đình đình giai sĩ
Nhật vãn thung sơn lý xuất thân
Nguyên lai khế khoát tiền nhân
Tình duyên vị liễu hạ trần tái sinh.

Thể mạo tỷ thuỷ thanh ngọc nhuận
Khâm hoài đồng nguyệt ấn thuỷ hàn
Niên hoa phủ cập dịchquan
Tài cao bát đẩu học đàn ngũ xa.

Bất hạnh tảo liệu nga lưu thế
Thất như huyền kháng lệ vị hài
Thử gian học quán trung lai
Ninh tri lộ nhập thiên đài hoát đầu.

Sắc giới cẩn nan hào tố chí
Kỳ phùng lâm bất ký tiền duyên
Tha thì trùng quá sơn biên
Đào gian thích kiến hồng tiên lưu đề.

Lãng tụng quá đê mê trù trướng
Thán dị tài bất nhượng cổ nhân
Đa tri hậu ý ân cần
Tả biên thứ vận hiệu tần liên thư.

Bút nhất trịch thân như mộng giới
Dục tương thung tranh nại mạt do
Lạc huy ám xúc quy đồ
Nhất phiên phong vũ tam thu tình hoài.

Thâm viện tĩnh tần hạc ngâm hưng
Tình thiên khai tái đính tiền trình
Thi tiên y cựu đan thanh
Ngọc nhân bất kiến vy tình lương nan.

Sinh độc toạ bàn hoàn bất tận
Ngâm tái ngâm thi vận thiêm tân
Thuỳ tri thanh khí tương thân
Kim thanh vị khuyết ngọc chân dĩ truyền.

Vân nham lý kim liên từ động
Thạch kỷ trung thương phượng chiêm từ
Tái sinh cựu ước bất khi
Thiên công tác chủ địa kỳ vy môi.

Tử gia vãng kính tai thủ chức
Khuê môn tu tứ đức kiêm toàn
Xướng thù nguyệt hạ hoa gian
Kê minh tối kính thư quan dương hoà.

Hùng mộng ưng thừa gia vọng uỷ
Long môn đăng thệ sĩ tâm thù
Công đường dạ trị thâm thu
Kim lôi đối chước hương lô tịch hàn.

Chủ hạ giác tiềm thoan lệ tấn
Sinh thất kinh vấn tấn tình đầu
Tần my hân tận tiêu háo
Ngọc bôi vãng sự bích đào tiền duyên.

Lai hoàn vãng tự thiên tố định
Hợp nhi ly phủ cảnh nan bài
Hứa đa khoản khúc bồi hồi
Gia đan thuỳ cộng nhi hài hà y.

Sinh kiến thuyết hư hy lưu luyến
Chủ tuỳ phương giải khuyến thung dung
Tam canh lậu chích đồng long
Đái nhi bái biệt thượng không phi tường.

Môn ngoại hoảng du dương tiên nhạc
Thiên trung do thác lạc hồng vân
Hàn lâm tự cách tiên trần
Tích sầu vạn hộc thương thần liên chương.

Thân tuy tại ngọc đường kim mã
Chí không tuỳ hạc giá loan xa
Bệnh hài tảo thoát hoạn ba
Đào lâm cựu xứ yên hà thê thân.

Thị hạ tử thành nhân kế nghiệp
Thiên thượng nhân vọng khiếp tâm khoan
Chủ tòng quy thị ngọc ban
Nam du nhạc bĩ thiên nhan phán truyền.

Thừa thanh vấn phủ tuyên đan khổn
Công án hoàn tư dĩnh vị vong
Duy kỳ trắc giáng vô thường
Đạo dao tự tại dĩ thường túc duyên.

Phụng Ngọc Đế bệ tiền duẫn chỉ
Đới tiên nương nhị vị đồng hành
Dao chiêm thuỷ tú sơn thanh
Thanh Hoa Phố Cát hiệp linh lâm trần.

Diệu pháp lực thánh thần hiển hiện
Hoạ dâm nhi phúc thiện bất si
Nhất phương thâu phúc khổng giai
Tuế thì ca vũ lâu đài nguy nga.

Hoặc hữu chỉ vy tà đạo giả
Thỉnh triều đình triệt hạ linh từ
Vương uy thuỳ cảm trì vy
Khởi tri tiên pháp tối kỳ tối linh.

Tự linh điện nhất kinh hoang phế
Thử phương dân dịch lệ lưu hành
Ngưỡng thừa giáng kỳ phân minh
Cựu từ bất khởi sinh linh vô tồn.

Văn thần mệnh hương thôn lôi động
Khấu đế hôn đại chúng đồng từ
Cửu trùng phủ sát dân y
Mã Hoàng phong sắc miếu từ trùng tân.

Nhưng hoài nhất phương dân phụng sự
Hữu sự cầu nhẫm trước anh linh
Bình Nhung mặc trợ thiên binh
Đại vương đăng trật miếu đình tăng tu.

Chí kim biến hoàn khu hương hoả
Tiên phủ giai phật toạ đồng tôn
Linh thanh bá mãn càn khôn
Bảo dân hộ quốc công tồn thiên thu.

Phàm tiên tích cựu du thử địa
Vưu hiển linh trước dị bội thường
Ích do hiếu thuận can trường
Kim cương bất hoại tang thương đẳng nhàn.

Tự bất tất kim đan chử bạch
Tự bất hối ngọc dịch thiêu hồng
Tự năng thượng hạ thiên cung
Tự năng Ngọc nữ Kim đồng vãng lai.

Năng biến hoá đan đài tử phủ
Năng đạo dao ngọc vũ quỳnh lâu
Năng linh vũ tán vân thu
Năng tuần hổ báo, năng khu long xà.

Năng hoạ sát dâm tà ác loại
Năng phúc sinh hiếu nghĩa thiện nhân
Năng linh si mị tiềm thân
Năng linh bát bộ quỷ thần kính khâm.

Năng tiêu tán trùng âm hắc khí
Năng khoát khai đại địa hôn cù
Thượng năng dực tán hoàng đồ
Hạ năng bảo hữu minh đô thanh bình.

Dực Chẩn hạ hà thanh hải yến
Ngôi sùng gian địa viễn thiên trưởng
Tán văn cẩn thuật nhất chương
Nguy nguy đại đức hoàng hoàng hữu lâm.

Chiêm thiên ngưỡng thánh vô nhậm!

Sự sinh thành Bách Việt qua Ngọc phả Hùng Vương

Bài viết trong Tọa đàm TÌM VỀ CỘI NGUỒN SỬ VIỆT do Trung tâm Minh triết và Trung tâm Lý học phương Đông tổ chức ngày 7/9/2019.

Thời đại Hùng Vương được biết tới trong các ngọc phả, thần tích và truyền thuyết nên việc nghiên cứu về thời kỳ dựng nước của vua Hùng không thể không khảo sát một cách đầy đủ các ghi chép này. Ngọc phả Hùng vương là bản văn được những người có tâm đủ tầm thu thập trong dân gian và biên tập lại để lưu truyền. Đây là trường hợp đặc biệt của Việt Nam sau cả ngàn năm mất nước tức thời kỳ đứt đoạn không liên thông với quá khứ, Ngọc phả là những thông tin cô đọng, khách quan nhất mà tổ tiên người Việt muốn truyền đạt lại cho thế hệ sau.
Với sự trân trọng yêu quý vô cùng quá khứ gian khó mà tiền nhân đã trải qua, trong thời văn minh hiện đại chỉ với chút thông tin lịch sử lưu truyền quý giá ngày nay có thể so chiếu với nhiều thành tựu trong những lĩnh vực khoa học liên quan mà hiệu chỉnh. Rồi đây chắc chắn có ngày con cháu sẽ có được bộ sử chân xác của nòi giống.
Bản Ngọc phả Hùng Vương có ký hiệu R.285 do GS. Ngô Đức Thọ nộp lưu tại Thư viện quốc gia có tựa đề: Đại Nam Hùng Vương Sơn thánh tổ tiền thái tổ Cao Hoàng đế ký truyn ngọc phổ cổ tích lưu lai. Dịch là: Tích xưa lưu lại của Ngọc phả chép truyền Tiền Thái tổ Cao Hoàng đế Hùng Vương Sơn Thánh tổ nước Đại Nam.
Đây là một bản sao của cuốn Ngọc phả được lưu ở đền Hùng, soạn bởi Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố vào năm Hồng Đức thứ nhất (1470). Ngay trang đầu tiên của Ngọc phả đã đề đôi câu đối tương truyền của chúa Trịnh viết:
Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục ngâm thi.
Dịch:
Hỏi chuyện đã qua nên đọc sử
Tinh tường như vẽ muốn ngâm thơ.
Ý của câu đối rất rõ, bản Ngọc phả này chính là “sử”, muốn biết về quá khứ người Việt thì phải đọc cuốn “sử” này, mọi chi tiết đều tinh tường cả.

van-lai.png

Ngọc phả Hùng vương kể, sau khi Lạc Long Quân (gọi là Hiền Vương) lấy nàng Âu Cơ đã sinh ra một bào ngọc, được đặt trên mâm vàng tại núi Thứu Lĩnh. Lúc bào thai nở thành một trăm người con trai có Tứ đại Thiên vương hóa gió mưa sấm chớp tới bảo hộ. Khi các hoàng tử lớn lên lại được Bát bộ Kim cương các thần tướng tới giúp, tặng cho các bảo vật. Trăm hoàng tử đều có thần tài thánh trí. Các quan triều đình lúc ấy cũng không ai có thể phân biệt được người anh minh quyết đoán hơn, khó đặt được danh thần tên xưng. Nhà vua bèn lập đàn cầu trời thì được ứng nghiệm, có một lão tiên ông giáng hạ ở bến sông Việt Trì.
Vua hỏi Tiên ông:
– Nước sinh được trăm con trai, có trí tuệ cùng tài như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu thần xếp thứ tự luận anh em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho.
Lão ông đáp:
– Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại, xem hết trời đất, đi thăm thế giới, đến tận Nam Miên, thấy phong cảnh đẹp. Vua nay muốn đặt tên cho trăm con trai. Ta có một quyển sách thần có thể bói biết được tinh thần âm dương, gọi tên các phép tiên…
Lão thành tâm bốc một quẻ trong Thiên thư xem tới trời định thế nào. Trước là để xác lập vương tử, cùng với tên gọi cho trăm trai.
Nhờ cuốn Thiên thư (Sách trời) này mà Vua đã xác định được vị hoàng tử trưởng, lập làm thái tử. Còn lại 99 người anh em đều được đặt tên xưng danh là các vị Lang.
Xem tới đây ta mới hiểu ý nghĩa của “Thiên thư” – Sách trời trong cổ văn xưa. Sách trời phân định ở đây không phải là sách sử của Trung Quốc như vẫn nghĩ. Một đôi câu đối tại đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh nói về Thiên thư và Bách Việt:
天書定分正統肇明都百粵山河知有祖
光岳協靈故宮成萃廟三江襟帶尚朝尊
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Dịch:
Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

Theo Ngọc phả Hùng Vương, sau khi sắp đặt xong việc đặt tên cho các hoàng tử, Vua cha bèn dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ, xác định cương giới, các đầu núi góc biển, cử ra trăm quan trấn thủ, gìn giữ các phương. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Bắc, ba là Sơn Nam, bốn là Hải Dương, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Lạng Sơn Cao Bằng, mười ba là Quảng Đông Quảng Tây, mười bốn là núi Ngũ Lĩnh Vân Nam, mười lăm là Chiêm Thành, bộ chủ các xứ.
Nước 15 bộ, là Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Trinh, Nhật Nam, Tân Hưng, Cửu Đức, Văn Lang.
Thông tin về cương vực quốc gia lúc này thật đặc biệt. Phạm vi quốc gia gồm 15 xứ, trong đó ngoài những khu vực ở miền Bắc (Sơn Tây, Sơn Bắc, Sơn Nam, Hải Dương, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng Lạng Sơn) và Bắc Việt (Ái Châu, Hoan Châu, Bố Chính, Ô Châu) ngày nay, lại còn có các vùng phụ thuộc:

  • Quảng Đông Quảng Tây
  • Ngũ Lĩnh Vân Nam
  • Ai Lao
  • Chiêm Thành.

Như thế cương vực quốc gia lúc này đã bao trùm toàn cõi Đông Nam Á (Ai Lao, Chiêm Thành) và kể cả vùng phía Nam Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây). Dễ nhận thấy cương vực trên cũng trùng khớp với phạm vi bắt gặp của trống đồng thời Đông Sơn. Trống đồng là bằng chứng rõ ràng về một quốc gia tập hợp nhiều khu vực, đều do Hùng Vương làm chủ.
Ngọc phả Hùng Vương kể tiếp:
Vua mới phân định các xứ, cai quản vạn dân. Khi đó lệnh cho anh em trăm trai có tài thần báu quý, cai quản rõ ràng các nơi. Trăm nơi núi sông một mối, xe sách quy mô chế độ đồng nhất, bốn biển một nhà, xưng thần phụ thuộc…
Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng. Các vương tử gọi là Quan Lang. Các vương nữ gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính.
Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hoà mục trong chốn cửu trùng… Đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Đó là thuỷ tổ của Bách Việt.
Ngọc phả Hùng Vương cũng như Truyện họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái đều nói rõ, trăm người con trai Hùng Vương ấy là thủy tổ của trăm giống Việt – Bách Việt. Bách Việt theo đó chia làm 2 dòng. Một dòng 50 người con theo cha về biển làm Thủy Tinh. Một dòng 50 người con theo mẹ về núi là Sơn Tinh. Điều này rất quan trọng khi xét nền văn hóa khảo cổ thời kỳ này ta thấy có 2 dòng văn hóa song song. Một là văn hóa đồ đồng đỉnh vạc, với đặc trưng trang trí Rồng của vùng phía Đông Bắc. Hai là văn hóa trống đồng, với họa tiết Chim là chủ đạo, của khu vực Tây Nam.
Ngọc phả Hùng Vương kể tiếp:
Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn…
Bấy giờ Vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm các tộc, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương.
[Nguyên văn: Truy ân tiền liệt thổ phân đệ, nãi lập các bộ, Sơn tinh Thủy tinh, định vi tộc, cải vi bách tính, xưng vi bách quan, hiệu phong bách thần, phân liệt sơn đầu hải giác, hùng cứ nhất phương]

nhat-nguyet-tinh-than.png
Tiếp theo:
50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù mà truyền dẫn. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ đất đai, xác định cương giới. Tất cả đều có người trưởng phụ tá. Người chủ gọi là Bô (bố), bố gọi là Trá (cha), con trai gọi là Côn (con). Nam nữ theo phụ giúp, khi đó đều là những người tài giỏi. Hậu thế đổi thành quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. Các họ tông của các công thần khai quốc được cha truyền con nối, vạn đời coi giữ Nam Bang. Còn các nhánh tông phái của bộ chủ Hùng Vương đời đời trị nước, giữ mãi phương Nam.
Đoạn Ngọc phả này cho những thông tin cực kỳ quan trọng về thiên hạ Bách Việt từ Hùng Quốc Vương:

  • Cương vực của Bách Việt được chia phân thành các cõi, là các vùng đất ”bình phong”, chư hầu phiên thuộc. Tất cả đều có người trưởng phụ tá. Các vùng đất này được giao cho các anh em của Hùng Vương, các họ tông của các công thần khai quốc. Vùng nhỏ hơn thì cho các quan lang, thổ tù cai quản. Áp dụng hình thức thế tập cha truyền con nối để cai trị qua các đời. Nói cách khác đây chính là lúc bắt đầu hình thức phong tước kiến địa hay khởi đầu chế độ phong kiến trong lịch sử nước ta.
  • Vua Hùng ”định làm các tộc, đổi làm trăm họ”. Như vậy, cùng với việc đặt tên cho trăm hoàng tử, việc xác lập các dòng tộc và đặt họ theo cha cũng bắt đầu từ lúc này. Người Việt có trăm họ cũng là từ đây.
  • Vua Hùng ”đặt ra chức vụ trăm quan”. Tức là chế độ triều đình, lễ chế nhà nước được thiết lập, với hệ thống quan lại đầy đủ.
  • Vua Hùng ”phong tên cho trăm thần”. Cùng với thể chế triều đình, chư hầu, thời kỳ này còn khởi lập tín ngưỡng chính thức, xác lập những người có công, có đức mà phong làm thần để thờ phụng.

Ngọc phả Hùng Vương là bộ sử tóm tắt về thời kỳ dựng nước của người Việt. Những thông tin tiền nhân người Việt ghi nhận rõ ràng trong sử và sách lưu truyền lại đã xác định: Vào khoảng giữa thời kỳ Hùng Vương, nước ta đã bước sang chế độ phong kiến với mô hình vua Hùng làm chủ cả thiên hạ trăm cõi núi sông cùng hàng trăm các chư hầu phụ thuộc làm phiên dậu bình phong. Chế độ thế tập cha truyền con nối được áp dụng ở chính quyền trung ương cũng như ở các xứ chư hầu. Triều đình được tổ chức quy củ, có lễ nhạc với hệ thống trăm quan hoàn chỉnh. Nhân dân được đặt tên trăm họ. Xã hội được xác lập về tư tưởng – tín ngưỡng bởi tục thờ cúng tổ tiên. Cũng từ đó mà thiên hạ thái bình thịnh vượng. Đất đai Bách Việt bao trùm Đông Nam Á và Hoa Nam.
Thay cho lời kết, xin đọc đôi câu đối ở đình Bảo Đà ở Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ:
數千年王佐始終父子君臣開拯點
十五部天分草埜山河日月共長存
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch:
Mấy ngàn năm phụ đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.