Thánh Gióng là ai?

P1060325

Lời hát của phường Ải Lao trong lễ hội Gióng ở Phù Đổng:

Nhớ xưa đương thủa triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài…

Lễ hội Phù Đổng đã được tôn vinh công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, nhưng Thánh Gióng là ai thì vẫn mỗi người một ý. Điểm qua vài quan điểm về thánh Gióng của các chuyên gia ngày nay.
Tạ Chí Đại Trường trong cuốn Thần và người đất Việt đã cố công biến hết “người đất Việt” thành “thần”. Thánh Gióng bị cho là thần đá vì chữ Phù Đổng được thấy giống chữ pù – đống, trong tiếng Tày Thái nghĩa là đống đá… Một nhân vật lịch sử lâu đời như vậy mà bị cho “hóa thạch”, thật là bậy bạ hết chỗ nói… Thế mà vẫn có những “sử gia” thuộc vào hàng đáng kính viết lời giới thiệu quảng bá cho sách…
Khá khẩm hơn có tiến sĩ Đinh Hồng Hải mới xuất bản cuốn sách Các vị thần, nhưng cũng chỉ thấy mới “thần” mà không thấy “thánh”. Thánh Gióng ở đây được “xếp hạng” ngang hàng với Thần tài, Thần bếp…?! Tác giả đã “truy nguyên” hình tượng Phù Đổng Thiên Vương là được nhà Lý dựng nên vào thế kỷ 11, lấy nguyên mẫu từ Tỳ Sa Môn Thiên Vương, một vị hộ pháp của nhà Phật…!?
Nước ta “độc lập” kể từ nhà Lý, truyền tích, di vật để lại thì không từ thời Lý thì còn từ thời nào nữa. Nhưng chuyện Thánh Gióng được kể có từ thời nhà Ân, từ trên 3.000 năm trước. Lúc đó Phật tổ Thích Ca còn chưa ra đời thì làm sao Thánh Gióng lại là tướng nhà Phật được? Trong truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương cũng có chỗ nào nói đến Phật đâu mà có thể cho là chép từ Phật tích ra.
Các “Phật tử” du học ở Tây, ở Ấn về hơi ngộ nhận về ảnh hưởng của Phật Giáo đối với cổ sử Việt. Cũng như thiền sư Lê Mạnh Thát biến chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa thành chuyện… gì đó ở trong kinh Phật… Có biết đâu là có chuyện Lão Tử hóa Hồ… Đạo Lão của người Việt còn có trước Đạo Phật, và Đạo Phật có thể đã chịu ảnh hưởng của Đạo Lão ở một số mô típ và quan niệm.
Tư duy biện chứng hơn phải kể đến tác giả Tạ Đức trong cuốn Nguồn gốc người Việt người Mường. Tạ Đức cho rằng Thánh Gióng là hình ảnh của thần chiến tranh Xuy Vưu. Cuộc chiến chống giặc Ân là sự đụng độ của nước Quỷ Phương với Ân Cao Tông. Nước Quỷ Phương được cho là nước Xích Quỷ của người Việt cổ, được giải thích là nghĩa đen là “Quỷ đỏ” vì… Xuy Vưu ở một số nơi bên Hàn quốc được thờ với áo màu đỏ…
Quan điểm của Tạ Đức đúng ở chỗ cho rằng Thánh Gióng là một nhân vật lịch sử có thật trong trận chiến với nhà Ân. Có điều truyền thuyết cho biết Thánh Gióng đã đánh thắng giặc Ân, vua Ân chết trận ở Trâu Sơn, vua Hùng thứ sáu sau đó lên ngôi còn duy trì quốc gia dài dài… Cuộc chinh phạt nước Quỷ Phương của Ân Cao Tông có phần thắng thuộc về nhà Ân, chứ không phải thuộc về nước Quỷ Phương.
Tạ Chí Đại Trường đã nhận xét có lý rằng chuyện Thánh Gióng thắng giặc Ân là chỉ nhà Chu, vì Chu thiên tử mới là triều đại đã đánh đổ nhà Ân. Đây không phải sự sao chép hay học đòi, “tự sướng” của người Việt, mà là lịch sử thật sự. Chính Hùng Vương Vũ Ninh đã đánh thắng Ân Trụ Vương chứ chẳng phải ai khác.
Lễ hội làng Phù Đổng và truyền thuyết về người anh hùng Gióng vẫn còn mang đậm hơi thở lịch sử của 3.000 năm trước. Câu trả lời Thánh Gióng là ai nằm ngay ở trong những truyền thuyết lễ hội dân gian. Câu hát Ải Lào hội Gióng:

Nhớ đời thứ sáu Hùng vương
Ân sai hai tám tướng cường nữ nhung
Xâm cương cậy thế khoe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh.

Nu nhung

Nữ tướng Ân trong lễ hội Phù Đổng (Ảnh Nguyễn Hồng Quân).

Trong ngày hội Gióng 28 cô gái trẻ (vị thành niên, dưới 13 tuổi) đóng vai làm 28 tướng Ân, diễn lại trận đánh với Thánh Gióng. Một bên là một cậu bé 3 tuổi, ăn cơm cà của cả làng mà lớn nhanh như thổi, cầm gậy cưỡi ngựa ra trận. Một bên là 28 thiếu nữ… Có lẽ chẳng có lễ hội nào trên thế giới lâu đời, kỳ lạ và khó hiểu đến vậy.

Tác giả Văn nhân đã giải thích rõ tập tục trong lễ hội này. Số 2 trong Hoa ngữ còn gọi là Ơn, biến thành Ân. Hoặc trong thập can Ất là số 2 (Giáp – Ất). Ất biến ra Ân. Còn 8 là con số chỉ phương Đông (như trong từ Bát Hải – biến Đông). Phương Đông lấy tượng là màu xanh = thanh = thương. Phương Đông là phương của tình cảm – tình thương. 28 như vậy là tên gọi đã số hóa của nhà Ân Thương. Nhà Thương từ khi Bàn Canh dời đô vượt sông được gọi là nhà Ân, nghĩa là nhà Thương thứ hai.
28 nữ tướng Ân yểu điệu ám chỉ nhà Ân Thương còn đang ở thời kỳ mẫu hệ, kém văn minh so với nhà Chu. Sau cuộc chiến của Vũ Vương diệt Ân, lập nên nhà Chu, Trung Hoa bước vào giai đoạn quân chủ phong kiến chính thức. Chu Công tiếp đó đặt nên lễ nhạc, hình thành nền tảng phong hóa Trung Hoa cho hàng ngàn năm sau. Vũ Ninh, nơi Thánh Gióng thắng giặc Ân là tên của Chu Vũ Vương. Vũ Vương trước khi lên ngôi có danh là Ninh Vương Cơ Phát.
Đặc biệt sự có mặt của phường hát Ải Lào với người đội lốt hổ chỉ rõ mối liên hệ nguồn gốc của nhà Chu với tộc người Ai Lao Di ở vùng Vân Nam Quý Châu, tộc người lấy con hổ làm con thần thú của mình. Ải Lào thiết Âu. Hai khu vực Âu của người Ai Lao Di và Lạc (Hùng Vương thứ sáu = Hùng Lục Vương = Hùng Lạc Vương) nơi Thánh Gióng xuất thế, đã cùng nhau đánh đổ triều Ân, lập nên nước Âu Lạc. Hai dòng tộc của cha Lạc Long và mẹ Âu Cơ lại gặp nhau, hòa hợp trong một thời đại mới.
Cuối cùng, là Thánh Gióng không phải là ông Đổng, ông Khổng lồ, để có những “phát hiện” kiểu Thánh Gióng mang họ Đổng nhưng lại diệt thủy quái dựa theo thần tích đền Bộ Đầu (Thường Tín). Đền Bộ Đầu thờ Đổng Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh bị gộp chung với các di tích của Thánh Gióng ở Phù Đổng và Sóc Sơn thành di sản văn hóa thế giới. Ông Đổng là một nhân vật khác với Phù Đổng. Phù Đổng thiết Phổng hay Bổng, chính xác Thánh Gióng là thần Bổng. Cậu bé ba tuổi làng Phù Đổng đã lớn phổng, cưỡi ngựa nhổ tre đánh giặc rồi bay bổng về trời trên núi Sóc. Bắt đầu từ Ninh Vương Cơ Phát sinh Bách Việt, lịch sử Âu Lạc sang một trang mới, một thời đại bay bổng tuyệt vời của xã hội Việt.

… Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
Lên ba đương tuổi anh hài
Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lựa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời.

Long Hưng phi Kiền ngũ

Một trong những di tích hiếm hoi được cho là thờ tướng Phạm Tu thời Tiền Lý Nam Đế là đình làng Ngọc Than (Ngọc Mỹ, Quốc Oai, Hà Nội). Đình Ngọc Than là di tích từ thời Lê Trung Hưng, được xây dựng với quy mô khá đồ sộ. Theo ghi chép ở Ngọc Than thì hai vị thành hoàng được thờ ở đây là Tiền Lý Nam Đế và tướng của ông là Phạm Chí.

Câu đối cổ nhất nằm ở gian giữa tòa đại bái tại đình Ngọc Than ghi:
龍興飛乾五天德建元丁黎陳紀年始有號
鯤躍拱離三神符濟渡東西北効順静無波
Long Hưng phi kiền ngũ Thiên Đức kiến nguyên Đinh Lê Trần kỷ niên thủy hữu hiệu
Côn dược củng ly tam thần phù tế độ Đông Tây Bắc hiệu thuận tĩnh vô ba.

Ngoc ThanCâu đối này đọc qua thì khá trúc trắc, khó hiểu. Sách Văn hóa làng Ngọc Than dịch thành nghĩa như “năm tầng trời” (ngũ Thiên), “ba vị thần” (tam thần)… Tuy nhiên dịch vậy không ổn vì làm gì có 5 tầng trời (nếu là tầng trời thì phải là 9 – cửu trùng). Cũng làm gì có 3 vị thần nào (chỉ có 2 vị Lý Bôn và Phạm Chí được thờ ở đây).

Câu đối trên khó hiểu vì nó sử dụng hình tượng trong 2 quẻ của Kinh Dịch là quẻ Kiền và quẻ Ly, cùng với những dữ liệu lịch sử của thời Tiền Lý. Vế đối đầu được tách đoạn và diễn giải như sau:
– “Long Hưng phi kiền ngũ“. Long Hưng là quê của Lý Nam Đế (phủ Long Hưng – Thái Bình), hoặc chính là cách gọi Lý Nam Đế (Long Hưng = lang Hưng hay chúa Hưng).
Long Hưng phi kiền ngũ” là Hào ngũ (Hào thứ năm) của quẻ Kiền trong Kinh Dịch: “Phi long tại thiên, lợi, kiến đại nhân“. Hào ngũ của quẻ Kiền chỉ rồng bay lên, điềm tốt, “gặp đại nhân”, tức là nên công nghiệp lớn. Ý của đoạn này chỉ Lý Nam Đế là người đã Long Hưng, lập nên công nghiệp đế vương.
– “Thiên Đức kiến nguyên“: Thiên Đức là niên hiệu của triều Lý Nam Đế. Thiên Đức kiến nguyên nghĩa là mở đầu triều Thiên Đức.
– “Đinh Lê Trần kỷ niên thủy hữu hiệu“: Đinh – Lê – Trần, không có Lý vì Lý chính là Lý Nam Đế rồi. Đoạn này nói Lý Nam Đế là người mở đầu, khởi thủy cho các triều đại có niên hiệu độc lập (“hữu hiệu”) của nước ta.
Vế đối thứ hai tương xứng có thể diễn giải như sau:
– “Côn dược củng ly tam“: Cá côn nhảy ngưỡng kính Hào tam của quẻ Ly. Hào tam quẻ Ly viết “Nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tắt đại diệt chi ta, hung“. Tức là: ánh nắng ngả chiều, không có tiếng nhạc lời ca, phải chăng thảm họa đang rình rập, xấu lắm. Quẻ Ly ở Hào tam là hình tượng của ánh nắng. Cá côn ngưỡng “Ly tam” liệu có phải là cá côn cung kính trước ánh hào quang của thần?
– “Thần phù tế độ“: hiểu đơn giản là phép thần cứu vớt chúng sinh.
– “Đông Tây Bắc hiệu thuận tĩnh vô ba“: Đông – Tây – Bắc, thiếu hướng Nam, vì nhà Lý là hướng Nam rồi. Lý Bôn và Phạm Chí ở Ngọc Than được phong là Nam Hải đại vương. Vì có “Hải” ở đây nên mới có cá côn và khắp 3 hướng đều yên lặng không chút sóng (“tĩnh vô ba“).
Vế sau của câu đối sử dụng Hào tam của quẻ Ly để chỉ ánh sáng, ánh hào quang. Tác giả Nguyễn Quang Nhật trong loạt bài viết Dịch học Việt đã nhận định:
Quẻ Ly hết sực đặc biệt. Hào sơ, hào nhị: Ly là lý lẽ. Hào tam: Ly là ánh nắng. Hào tứ, hào ngũ: Ly là lửa khói. Hào thượng: Ly là lý (do). Ly âm gốc là lửa, tiếng Việt chỉ ánh sáng, mặt trời, lý lẽ.
Câu đối ở đình Ngọc Than xác nhận thêm nhận định này, rằng mỗi Hào của quẻ Ly mang một nghĩa khác nhau, nên mới có thể dùng chính xác “Ly tam” để chỉ ánh sáng.
Dịch câu đối ở đình Ngọc Than:
Long Hưng bay Kiền ngũ, Thiên Đức dựng nền, niên sử Đinh Lê Trần khai quốc hiệu
Cá côn kính Ly tam, phép thần cứu vớt, cùng thuận Đông Tây Bắc lặng sóng không.
Câu đối này khá gần với câu đối cũng về Lý Nam Đế ở Giang Xá (Hoài Đức):
洪惟南越肇基貉雄吳蜀以前赫濯殾靈天德紀元初一綂
歷考帝王世祀丁趙陳黎而後焜煌彞典萬春建國閌千秋
Hồng duy Nam Việt triệu cơ, Lạc Hùng Ngô Thục dĩ tiền, hách trạc tuấn linh, Thiên Đức kỷ nguyên sơ nhất thống
Lịch khảo đế vương thế tự, Đinh Triệu Trần Lê nhi hậu, hỗn hoàng di điển, Vạn Xuân kiến quốc kháng thiên thu.
Dịch câu đối:
Rộng suy Nam Việt mở nền, Lạc Hùng Ngô Thục thủa đầu, loáng bóng trúc thần, Thiên Đức kỷ nguyên ban sơ thống nhất
Xét lịch Đế Vương thứ tự, Đinh Triệu Trần Lê sau đó, chói vàng sách miếu, Vạn Xuân dựng nước sừng sững ngàn thu.
Lý Nam Đế ở Giang Xá được gọi với tên Cử Long Hưng. Còn ở Ngọc Than dùng “Long Hưng phi Kiền ngũ” để chỉ vị vua này. Long Hưng như vậy không phải chỉ là tên quê quán của Lý Nam Đế mà là tên gọi của vua, là vua Hưng hay chúa Hưng. Hưng Vương Lý Bôn là người được thờ ở khu vực Sơn Tây xưa.

P1110052

Đình Ngọc Than

Các sắc phong cho Lý Nam Đế ở đình Ngọc Than phong danh: “Quốc vương thiên tử cương minh linh đạt phổ hựu hiển ứng Lý Nam Đế Nam Hải tráng tiết sùng huân thịnh liệt thông minh…
Tất cả các sắc phong ở Ngọc Than đều là phong cho Lý Nam Đế. Như vậy người mang danh Nam Hải đại vương ở Ngọc Than là Lý Nam Đế, không phải tướng Phạm Chí. Câu đối ở đình cũng cho thấy người được thờ chính ở đây là Lý Nam Đế. Tướng Phạm Chí không được nhắc tới. Phạm Chí ở Ngọc Than có thể không phải là lão tướng Phạm Tu như ở đình Thanh Liệt.
Lý Nam Đế được phong là Nam Hải đại vương, đây là danh xưng đáng suy nghĩ. Tại sao lại là Nam Hải? Lý Nam Đế thì có đánh trận nào trên biển đâu? Còn Nam Hải là địa danh đất liền thì là chỉ quận Nam Hải thời Tần, là vùng đất Phiên Ngung – Quảng Đông. Nam Hải đại vương Lý Bôn là người đã nổi lên ở đất Nam Hải. Đây là một chỉ dẫn nữa cho nhận định Lý Bôn là Triệu Vũ Đế, người đã khởi nghĩa ban đầu ở Thái Bình (đất Bái, Thái Bình thiết Bái), lập đô ở Nam Hải (nơi Triệu Đà tiếp nhận vị trí của Nhâm Ngao).

Long ngheỔ rồng mẹ rồng con ở đình Ngọc Than.

Nơi thờ Long Hưng Lý Bôn ở Ngọc Than được trang trí bằng nhiều bức chạm rồng rất độc đáo. Những con rồng ở đây có hình dáng khá lạ, không dữ tợn mà tai to, thân ngắn. Không nhe nanh múa vuốt mà như có các ngón tay mềm mại. Mỗi bức chạm thường là một ổ 5 con, trong đó có 1 con mẹ lớn và các con rồng con xung quanh. Đặc biệt trong số đó có 1 con được thể hiện không có tai có vảy, hẳn là rồng con mới nở, chưa mọc lông mọc cánh, trông giống như một con thằn lằn lớn.
Ổ rồng 5 con, con lớn, con nhỏ có thể là thể hiện quan niệm Ngũ hành tương sinh, diễn tiếp không ngừng. Long Hưng Lý Bôn là người đã khai mở triều đại độc lập đầu tiên của nước Nam, để từ đó rồng mẹ sinh rồng con, các triều đại Đinh Trần Lê nối nhau duy trì quốc hiệu như trong câu đối tại đình Ngọc Than.

Mường Xoa

P1130803 (3)

Mường Xoa xứ sở tựa thiên đường
Quên lãng ngàn năm những đế vương
Khổng Tử, Chu Công khai lễ giáo
Khun Lô, Bố Cái dựng quê mường
Bầy voi rộn rịp bên triền thác
Chùm phượng rực hồng bến Mễ Khương
Tấp nập chợ đêm xem cổ vật
Ra về chẳng khỏi chút đeo hương.

—-

* Mường Xoa là tên gọi khác của Luang Prabang. Thời nhà Chu đây thuộc nước Lỗ, đất phong của Chu Công và quê hương của Khổng Tử. Tới thời nhà Đường, Bố Cái Phùng Hưng từ miền Tây Thanh Nghệ (Châu Đường Lâm, sau gọi là Châu Thường hay Thường Xuân của Thanh Hóa và khu vực Quế Phong – Quỳ Hợp của Nghệ An) đã làm cuộc Tây tiến, chiếm đất Điện Biên làm kinh đô Mường Then (Mường trời) của nước Nam Chiếu. Từ Mường Then Bố Cái – Khun Borom đã cử các con trai của mình đi chiếm các “chiếu” khác, trong đó Khun Lô chiếm chiếu Mông Xá, tức là Mường Xoa – Luang Prabang ngày nay.

Những cổ vật ở Luang Prabang còn “lưu hương” thời Thương Chu tại đây:

Don Tu DuongĐôn Tứ Dương thời Thương.

Sam cam

Ấm đựng rượu hình một loài chim nước (Sâm cầm?) thời Xuân Thu.