Phong Thần diễn nghĩa kể lại câu chuyện lập quốc của nhà Chu, từ lúc Trụ Vương suy đồi, Văn Vương cầu Khương Tử Nha, phò Vũ Vương hội chư hầu tiến đánh Triều Ca, dựng nên thiên hạ nhà Chu, phong hầu phong thần, đặt ra bách tính.
Trong huyền sử Việt câu chuyện Phong Thần này được “diễn nghĩa” theo một góc nhìn khác, mà người Việt ai cũng thuộc nằm lòng, bởi đó là các truyền thuyết về thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang, được kể chi tiết trong Ngọc phả Hùng Vương cùng các di tích hiện còn ở Việt Nam.
Hồi 1. Trụ Vương – Đát Kỷ
Trụ Vương là vị vua cuối cùng của nhà Ân Thương. Vua Trụ coi khinh quỷ thần, chọc ghẹo cả Nữ Oa, ham mê tửu sắc, bị con hồ ly tinh Đát Kỷ mê hoặc, giết hại hiền thần, dẫn đến triều chính rối loạn. Mệnh của nhà Ân Thương từ Thành Thang coi như sắp hết.
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Quốc Vương chưa tỏ sự lý của trời đất nên trong cung còn nhiều thuyết hoang đường, lấy đó làm cách cảm. Quần thần tấu thỉnh lên bệ hạ nên dùng một kế, chế lập ra một đàn tràng. Vua nghe theo lời tâu. Có một bà mo xưng có tài như thần. Vua sai bắt bà mo giam trong cung.
Sau đó vua sai lập một đàn tế riêng, dùng các lễ dối, voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Trời. Vua bảo triều thần:
– Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?
Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong không bằng lòng, xem đến các đồ lễ trên đàn thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo vua không có đức.
Vương mới nghiệm biết trời đất báo ứng ngay trước mắt. Đến năm Thân tháng Thân, thần khí âm dương rơi rụng. Mưa gió không điều hòa. Khí thời không chính. Đức của người làm vua không được thuần.
Vua mới cho sứ đưa bà mo đến bảo:
– Ngươi biết dò xét cơ trời. Nay trong nước có điềm chẳng lành. Ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào, về báo cho Trẫm biết.
Bà mo bèn làm phép, trong khoảng ba canh, tự nằm mộng đến trước cửa khuyết Ngọc Hoàng, quỳ tâu rằng:
– Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình. Nay trần thế đang có biến. Xin cho biết nguyên do như thế nào?
Ngọc Hoàng phán rằng:
– Ngươi mau trở về báo cho Vua biết. Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc, có cầu có nguyện tất được tòng tâm. Vua nay tự kiêu ngoa, truyền làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau tất sẽ có nạn giặc lớn!
Có thể thấy Hùng Vương ở đây là Trụ Vương. Bà mo là con yêu Đát Kỷ. Đã bày đặt ra những chuyện lừa dối cả Hoàng Thiên.
Mâu thuẫn giữa hai dòng Thương và Chu còn được kể đến trong cuộc chia tay Lạc Long – Âu Cơ trong huyền sử Việt.
Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.
Và trong đoạn kể về Hùng Vương cuối cùng:
Từ đó Tuyền Vương bỏ bễ không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục…
Hồi 2. Phượng gáy non Kỳ
Cơ Xương Văn Vương là Tây Bá Hầu, là vị hầu tước đứng đầu miền Tây của nhà Ân, cũng gọi là xứ Tây Kỳ. Tương truyền khi Văn Vương sinh ra có điềm phượng hoàng bay đến đậu trên núi Kỳ Sơn mà gáy, báo hiệu sự ra đời của bậc thiên tử, khởi đầu một triều đại mới thay cho nhà Ân đã tận số.
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Khi ấy có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ, là một thiếu nữ hiền đức, sống ở quê mẹ tại huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc của Giao Chỉ. Một hôm nàng Âu Cơ đi chơi ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, tư chất kiều diễm, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm chính phi hoàng hậu. Thề rồi tới khi Kinh Dương Vương hai trăm năm bảy tuổi, ở ngôi hai trăm năm mươi năm, thì phong Lạc Long Quân lên nối ngôi chính thống ra ở tại núi Nghĩa Lĩnh, kinh thành đô ở núi Phong, triều đại quản lý việc nước nhà, lấy đức cai quản nhân dân.
Mẹ Âu Cơ là dòng tiên, biểu tượng là chim phượng, là hình ảnh thể hiện trên mặt trống đồng, văn vật đặc trưng cho người Việt ở thời kỳ này. Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, đô đóng Phong Châu, tức là Cơ Xương Văn Vương.

Đền Hiền Lương ở Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi Âu Cơ bay về trời (Ảnh: Nguyễn Huân).
Hồi 3. Văn Vương cầu hiền
Khởi đầu sự nghiệp Cơ Xương Văn Vương đã hết lòng chiêu mộ hiền tài. Văn Vương đã đích thân tìm đến Lã Vọng, là một ông lão ngoài 80 tuổi, ngồi câu cá trên Bàn Thạch ở sông Vị. Văn Vương đón Lã Vọng về lập làm tể tướng, tức Khương Tử Nha.
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Hiền vương phán rằng:
– Chính sự lớn của triều đình cần có người anh tài. Trẫm vâng mệnh Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân, theo mệnh trời sinh được trăm con trai. Trẫm cùng trăm quan thành tâm thiết lập đàn chay, kính cẩn cầu khấn tâu lên Hoàng Thiên, đấng ngự hội tụ của vạn linh, để đặt định trăm danh hiệu.
Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn vừa xong, tự nhiên có cảm ứng, phương Tây có khí thần lại, mây rồng ngũ sắc, núi sông sáng rạng. Khi đó, có một cụ già tướng mạo trượng phu, râu tóc bạc phơ, dáng điệu tiên ông, đầu đội mũ trời gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi giày cỏ, tay cầm gậy tre, ra chơi ở bến sông Bạch Hạc Việt Trì, tại chùa Hoa Long. Ông già rửa chân bên sông, trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có quan trong triều là Tướng quân nguyên soái tiết chế trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu ở bên sông Việt Trì. Quan Nguyên suý trông thấy ông tiên đang xem phong thủy, mặt hướng nhìn các sông Bạch Hạc, Hoàng Hà, Manh Hà, chân đạp lên tảng đá hình lưng rùa. Triều quan sai sứ giả nghênh đón tiên ông lên lầu hỏi chuyện với Nguyên soái. Quan đem hết sự thể bộc bạch chân tình, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về cung điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung, dùng đại lễ, mở tiệc chúc mừng. Vua hỏi cụ già rằng:
– Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện, nhờ cụ chỉ giáo cho.
Tiên ông ha hả cười vang. Vua vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông:
– Nước sinh được trăm con trai, có trí tuệ cùng tài như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu thần xếp thứ tự luận anh em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho.
Cụ ông đáp:
– Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại, xem hết trời đất, đi thăm thế giới, đến tận Nam Miên, thấy phong cảnh đẹp. Vua nay muốnđặt tên cho trăm con trai. Ta có một quyển sách thần có thể bói biết được tinh thần âm dương, gọi tên các phép tiên.
Vua nói: Nước đã có thành tâm cầu đảo, đúng là cầu tất ứng.
Tiên ông nói: Lão thành tâm bốc một quẻ trong Thiên thư xem tới trời định thế nào. Trước là để xác lập vương tử, cùng với tên gọi cho trăm trai. Xem tướng trăm trai thì Vua sẽ cử được người tài lập làm con trưởng, phân định thứ bậc anh em. Tiên ông lấy bút viết ra, đặt tên cho các thần tướng, đặt lên chiếc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em, trăm trai đến hội ở chính điện. Mọi người đồng thanh cần phải có một huynh trưởng đứng đầu. Một người được gọi tên được lập làm Thái tử nối ngôi vua. Còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui.
Xếp đặt việc đặt tên đã xong, tự nhiên có một làn mây xanh bay đến trên không trung, Tiên ông biến hoá bay về Thượng giới.
Vua nói: Triều đình lòng kính cầu khẩn, trên đàn thành tâm được cảm ứng, thần đến từ phương Tây bày cách, mới biết lão Phật tiên ông hiển ứng giáng đàn giúp nước. Hôm nay lệnh các quan bái hạ. Trẫm lập một ngôi chùa tên là Từ Sơn Tuyên Quang Hoà Thượng Vạn Đức Thiền Sư. Ban bố cho trăm quan thường xuyên cầu khấn, cầu Phật ứng cho.
Ông lão cầm gậy trúc, đứng trên bàn đá bên sông Nhị, dùng Thiên thư (sách trời) để phân định thứ bậc họ Hùng, rõ ràng là chuyện của Lã Vọng câu cá ở Vị Thủy.

Chùa Hoa Long ở ngã ba sông Việt Trì.
Hồi 4. Văn Thái sư đánh Tây Kỳ
Sau khi Cơ Xương đánh chiếm nước Sùng của Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ, Trụ Vương liên tiếp sai quân tiến đánh Tây Kỳ. Cầm đầu quân đội của Trụ Vương là Văn Thái sư, là một người tài giỏi, có nhiều phép thuật.
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Thời Việp Vương, người giàu vật nhiều nên mới có sàm thần tấu lời, không tin bà mo, đùa lễ giả với trời. Thời này không có phong tục kính lễ. Vua Ân muốn xâm lăng đất nước. Vào năm Giáp Tí bỗng thấy biên giới phía Bắc có thư gửi cấp báo. Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ phía Bắc tiến sang, giáo giáp kín trời, tinh kỳ rợp đất. Quả đúng như lời bà mo đã nói.
Tướng giặc Ân trong cách diễn nghĩa của người Việt là Thạch Linh thần tướng. Sau đó Phù Đổng Thiên Vương giáng xuất, đánh nhau với Thạch Linh thần tướng ở vùng Yên Việt.

Đền thờ Thạch Linh thần tướng ở Hạ Lát, Tiên Sơn, Việt Yên, Bắc Giang (Ảnh: Nguyễn Huân).
Hồi 5. Vũ Vương khởi binh
Văn Vương mất, con là Vũ Vương nối nghiệp. Với sự giúp đỡ của Khương Tử Nha, Vũ Vương đã hiệu triệu 800 chư hầu, hẹn nhau hội quân ở Mạnh Tân, tiến đánh Trụ Vương.
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Sứ giả đến làng Phù Đổng, huyện Tiên Du. Làng ấy có người nhà giàu tuổi đã 79. Trước nhà có mảnh vườn trồng các loại trà hoa. Bà lão cũng đã 59 tuổi. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa hái chè, thấy một dấu chân to lớn. Bà lấy làm lạ, bèn gọi chồng đến, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Trưởng ông bảo vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên lúc đó khí trời của thần cảm ứng. Bà lão thấy cảm động trong người, mắt hoa, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí đầy tháng bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Trưởng ông qua đời lúc 80 tuổi. Chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con. Lên ba tuổi đặt tên là Đổng Thiết, ăn uống lớn phổng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong võng, mẹ cậu nghe sứ giả đi tìm người có đại tài dẹp loạn. Bà mẹ nói vui với sứ giả rằng:
– Lão sáu mươi tuổi mới sinh được một đứa con trai. Nay đã ba tuổi, chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ.
Sứ giả đi qua. bỗng nhiên Đổng Thiệt ngồi dậy, mở miệng nói:
– Xin mẹ gọi sứ giả quay lại, con có việc cần nói. Mong mẹ đón lại sử giả về đây.
Thần vương nói với sứ giả rằng:
– Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều tâu với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây roi sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta để đánh giặc Ân. Vua không phải lo gì nữa!
Sứ giả nghe lời nói của Đổng Thiết, trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu Vua mọi việc. Vua triệu tập quần thần trăm quan để bàn. Triều đình liền can ngăn rằng:
– Triều đình hiện nay oai trời rộng lớn, tướng mạnh tướng nhiều. Dù giặc Ân xâm chiếm phương Nam, cũng đã có người can đảm đối đầu. Huống hồ đứa trẻ ba tuổi sao có thể đánh giặc được. Vả lại việc binh là việc quốc gia đại sự, liên quan đến an nguy của hoàng gia, chớ nên xem nhẹ. Xin bệ hạ thận trọng lựa chọn người có đại tài, cử làm đại tướng. Không nên chỉ nghe lời nói bên ngoài mà không thấy tận mắt vậy.
Vua nói:
– Trẫm theo mệnh trời, trị nước yêu dân, tin việc thần nhân trước đây đã báo ứng. Đích thực là Tiền thánh Đế quân đã hiển linh về báo để giúp nước. Trẫm tin như lời đó thật không phải là sai, không nên nghi ngờ.
Vua sai các tướng tìm các đồ sắt đủ 50 trăm cân, truyền cho trăm thợ rèn để rèn thành ngựa sắt cao mười tám thước, có đủ năm tạng, roi sắt dài mười thước, nón sắt rộng ba thước. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần Vua sai quan Tiết chế dẫn 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Đổng Thiết cười rằng:
Vua theo đúng hẹn,
Vận nước lâu bền.
Quân giặc phải tan,
Một ngày giúp nước,
Thiên cổ danh vang.
Rồi Đổng Thiết nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: “Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả”. Dân làng nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát cậu bé đã ăn xong để lên đường đi lập công giúp nước, đền đáp công ơn của cha mẹ, làng xóm và ơn Vua.
Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính Ngọ, Đổng Thiết cười vang một tiếng, duỗi tay vươn vai, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp, thân mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc. Đổng Thiết lạy tạ mẹ rằng:
– Mẹ là bậc thánh trên trời. Con là Thần vương. Một ngày lập công to lớn, vạn năm hương lửa vô cùng!
Thần Vương nhảy lên ngựa sắt, cầm roi sắt, đội nón sắt, thét vang như sấm chớp, rằng:
– Ta là Thần tướng, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Phù Đổng Thiên vương ở đây cũng là Khương Tử Nha, người cầm đầu quân đội nhà Chu và các chư hầu, xông pha diệt Trụ.

Phù Đổng Thiên Vương và các thần tướng ở đền Thượng núi Sóc.
Hồi 6. Phá Ân diệt Trụ
Cuộc chiến giữa Trụ Vương và Vũ Vương diễn ra rất ác liệt. Phía quân Chu được nhiều thần linh đến trợ giúp. Sau nhiều trận đánh, quân nhà Chu đã chiếm được Triều Ca. Trụ Vương lên Lộc Đài phóng hỏa tự vẫn.
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Ngựa sắt nhảy mạnh, bay lên không mà phi, lập tức tới nơi Vua ngự. Thần vương cầm roi sắt chỉ huy tiên phong, lệnh khiến các quan hành quân tiếp ứng, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt, đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên núi. Quân Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống rồi chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng roi sắt đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch quân Ân.
Tương truyền con ngựa đá của Thạch Linh thần tướng bị chém rơi đầu, nay còn dấu tích ở thôn Cựu Tự, núi Chu Sơn tại Quế Võ, Bắc Ninh, với hình một con rồng có cánh (Phi Liêm) bằng đá lớn.

Tượng Phi Liêm bằng đá ở Chu Sơn.
Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể:
Giếng Việt ở núi Trâu Sơn, quận Vũ Ninh; đời Hùng Vương thứ ba, Ân Vương cử binh Nam xâm, đóng quân ở núi Trâu Sơn; Hùng Vương cầu Long quân giúp, Long quân bao tìm khắp thiên hạ, nếu được người kỳ tài thì dẹp được giặc; đến kỳ cầu được Đổng Thiên Vương cỡi ngựa sắt đi đánh, tướng sĩ nhà Ân đều tan vỡ. Ân Vương chết ở dưới núi, làm Địa Phủ Quân; dân lập đền thờ, bốn mùa cúng tế nhưng lâu năm suy dần bỏ thành chùa hoang.
Trụ Vương chết, được phong làm Vua của Địa phủ. Rất có thể tục cúng cô hồn tháng 7, khi Diêm vương mở Quỷ Môn Quan cho các cô hồn đi ăn đồ lễ, chính là bắt đầu từ cuộc chiến Chu – Thương này. Đây là ngày lễ tưởng niệm đến những người đã mất trong cuộc chiến, mà không được siêu thoát hay phong thần. Có lẽ chính tháng 7 là tháng mà Trụ Vương đã chết cháy ở Lộc Đài.
Đoạn khác trong Truyện giếng Việt:
… hòn ngọc Long Tụy, nói đó là ngọc châu, từ thuở Trời Đất mới khai tịch, đã có một cặp Trống Mái từ đời Hoàng Đế trải đến đời Ân truyền làm thế bảo; trong trận đánh Trâu Sơn, Ân Vương đeo nó mà chết.
Vua Ân dùng ngọc rồng, đối lập hình ảnh với Văn Vương phượng gáy Kỳ Sơn. Ân Thương và nhà Chu là hình tượng của 2 dòng Tiên – Rồng, Âu Cơ – Lạc Long của huyền sử Việt.
Một cách kể khác trong Ngọc phả Hùng Vương là sự kiện Âu Cơ sinh trăm trứng, có Tứ đại thiên vương, Bát bộ kim cương đến phù giúp. Quá trình “mang nặng đẻ đau” trăm người con trai này là cuộc chiến diệt Trụ, lập ra thiên hạ trăm chư hầu.
Bấy giờ nàng Âu Cơ là chính phi, vào năm Nhâm Thân tháng Giêng ngày 4 có thai, điềm rồng đẹp ứng, mây lành năm sắc, hương trời đầy phòng. Trong 3 năm 3 tháng 10 ngày ở tại Ngũ Lĩnh. Trong cung điện hàng ngày thường có mây lành năm sắc, ánh rồng sáng lạn. Tới đầy tuần sinh nở, vào năm Canh Ngọ ngày 5 tháng 12 mặt trời chiếu đúng giờ Ngọ, cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, mây rồng đầy nhà, ánh sáng loé lên. Trong trướng, hoàng phi sinh ra một bọc trăm trứng, trong như ngọc châu, hương lạ thơm nức. Sơ sinh ở núi Nghĩa Lĩnh, đất tổ Phong Thứu, dưới lọng ngọc đầu núi bên đầm sen.
Hiền Vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường, là điều lạ của quốc gia trước nay trong thiên hạ. Vua bèn triệu hội đồng bách quan văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ Ngọ hôm ấy ở giữa thành nội Kính Thiên ba tiếng thiêng vang lên rung trời chuyển đất, núi sông cây cỏ muôn vật đều kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên các lâu đài điện các. Dưới núi làn nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm đội gió mưa về chầu. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện Kính Thiên, đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên Thượng đế, Tứ phủ vạn linh.
Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân Kính Long điện ngọc. Rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc khăn rồng, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa, cùng cầm long đao, lệnh rằng: Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc cho Nam Miên, Hiền Vương quản nước, bọc rồng trăm trứng nở ra trăm trai trị nước. Trời lệnh sai các đại thần vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.
Hiền vương mới nhận long bài, truyền các quan văn võ ngước lên trời vái vọng, rồi dập đầu lạy tạ.
Thần vương nói: Bào ngọc trăm trứng, thần oai rạng thiêng, điềm rồng giáng sinh. Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt bào ngọc lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, tức là chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà Thượng ở ngọn Thứu Lĩnh, đặt ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. Bào này sẽ sinh ra trăm trai thần tướng. Hiền Vương hãy thành tâm cầu trời, tới tháng Giêng bào sẽ nở. Nói xong Tứ đại thần vương lại làm gió mưa mây sấm, bay lên không biến hóa.
Hiền vương thành tâm cầu trời. Thế là vào ngày rằm tháng giêng, mây lành bay phủ khắp đất trời, núi sông rừng biển, nở ra trăm con trai. Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng.
Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Một ngày ba lần làm các trò vui như du ngoạn hoa lá hồ sen, được một trăm ngày. Đầy trăm ngày vào ngày 20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn:
Trời sinh bậc thánh
Trị nước sinh vua
Thanh bình bốn biển
Thiên hạ vững yên.
Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng. Hiền Vương đến ngự thấy các vị thần tướng nhà trời đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp sắt, chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ, tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu đối nhau. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi lên, bay vây quanh núi Nghĩa Lĩnh, trên điện núi non mất hình, sông suối tràn dâng sóng vỗ, không ai biết được chuyện gì xẩy ra. Sau ba giờ bầu trời lại tạnh sáng. Đó là 8 vị tướng xưng là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật Thượng Đế sai đến thăm nom 100 vị vương tử, nay đã trưởng thành các bậc thánh thần đôn hậu minh mẫn. Tám tướng phụng mệnh đưa các hoàng tử đến lạy mừng vua cha, trị bình trong nước. Trời ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một cặp ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Sách trời, một chiếc thước ngọc, đặt trên mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền Vương vâng mệnh vào điện đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ứng ban để trị yên thiên hạ.
Hiền Vương thấy 100 con trai bỗng nhiên trở nên cao lớn, thân cao bảy thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng hai bên phải trái, hầu triều lạy mừng vua cha. Hiền Vương nhận việc của Tám tướng tấu về, một trận mưa gió chấn động, sấm chớp sáng lòa, trên không biến hóa khải hoàn về Trời.

Chùa Thiên Quang ở Nghĩa Lĩnh, nơi thai giữ bào ngọc trăm trứng.
Hồi 7. Trảm tướng phong thần
Tiêu diệt Trụ Vương xong, Khương Tử Nha về Tây Kỳ, lập đàn Phong Thần, chém những tên gian thần của triều Ân để tế lễ, rồi phong cho các tướng lĩnh tử trận của cả hai bên thành các vị thần. Tín ngưỡng thờ thần của Trung Hoa bắt đầu trở nên chính thống từ đó.
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa, thần vương cởi bỏ bộ áo hoa lau, cưỡi ngựa bay lên không mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá.
Núi Sóc Sơn chính là đỉnh Phong Thần của nhà Chu. Núi có tên Vệ Linh cũng hàm nghĩa này. Đây là nơi Khương Tử Nha đã đăng đàn trảm tướng phong thần, khởi đầu tín ngưỡng thờ thần cho cả thiên hạ Trung Hoa. Thôn Yên Tràng ở chân núi Vệ Linh còn có tục diễn cảnh chém 3 tướng Ân của Phù Đổng trước khi bay về trời.
Một cách kể khác về việc phong bách thần, đặt bách tính được kể trong đoạn:
Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm các tộc, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù mà truyền dẫn. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ đất đai, xác định cương giới. Tất cả đều có người trưởng phụ tá. Người chủ gọi là Bô (bố), bố gọi là Trá (cha), con trai gọi là Côn (con). Nam nữ theo phụ giúp, khi đó đều là những người tài giỏi. Hậu thế đổi thành quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. Các họ tông của các công thần khai quốc được cha truyền con nối, vạn đời coi giữ Nam Bang. Còn các nhánh tông phái của bộ chủ Hùng Vương đời đời trị nước, giữ mãi phương Nam.
Nhà bia bát giác đền Thượng ở Sóc Sơn.
Hồi 8. Phong hầu kiến địa
Chu Vũ Vương lên ngôi Thiên tử, đặt tên trăm họ, phong cho các anh em của mình, các vị khai quốc công thần các vùng đất đai phụ thuộc, phân chia chư hầu trấn giữ các nơi, sau thành các nước như Lỗ, Yên, Tề, Tấn, Tần, Ngô, Sở, …
Ngọc phả Hùng Vương kể:
Vua nói: Triều đình lòng kính cầu khẩn, trên đàn thành tâm được cảm ứng, thần đến từ phương Tây bày cách, mới biết lão Phật tiên ông hiển ứng giáng đàn giúp nước. Hôm nay lệnh các quan bái hạ. Trẫm lập một ngôi chùa tên là Từ Sơn Tuyên Quang Hoà Thượng Vạn Đức Thiền Sư. Ban bố cho trăm quan thường xuyên cầu khấn, cầu Phật ứng cho.
Trăm trai trăm tên. Con trưởng tên tục là Hùng Lân, sau đổi là Hùng Quốc Vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Yêu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hạn Lang, Khoán Lang, Trị Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Trâm Lang, Tróc Lang, Sát Lang, Lãng Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Kiềm Lang, Trường Lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Siêm Lang, Triệu Lang, Ích Lang, những người trên theo cha về biển.
Hương Lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Dị Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế Lang, Mã Lang, Thiệu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Kỹ Lang, Thỏa Lang, Phái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Thập Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Tổ Lang, ? Lang, gồm những người theo mẹ lên núi.
Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, thành người chủ ở các phương, thông minh mẫn tiệp, trí dũng kiêm toàn, tài lạ đẹp đẽ, lòng hiếu mạnh mẽ, sức thần mắt rồng, thiên tư như mặt trời. Anh em đều có tài lớn, giúp nước ở chính triều đường, định vị thứ đứng đầu trăm quan.

Phù điêu những người con của Âu Cơ ở chùa Hoa Long.
Vua cha bèn dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ, xác định cương giới, các đầu núi góc biển, cử ra trăm quan trấn thủ, gìn giữ các phương. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Bắc, ba là Sơn Nam, bốn là Hải Dương, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Lạng Sơn Cao Bằng, mười ba là Quảng Đông Quảng Tây, mười bốn là núi Ngũ Lĩnh Vân Nam, mười lăm là Chiêm Thành. Bộ chủ các xứ. Nước 15 bộ, là Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Trinh, Nhật Nam, Tân Hưng, Cửu Đức, Văn Lang.
Vua mới phân định các xứ, cai quản vạn dân. Khi đó lệnh cho anh em trăm trai có tài thần báu quý, cai quản rõ ràng các nơi. Trăm nơi núi sông một mối, xe sách quy mô chế độ đồng nhất, bốn biển một nhà, xưng thần phụ thuộc. Ơn hiếu nghĩa đức, sáng lòng nhân, trí tuệ, xuất thánh sinh hiền, không gian không ác, giúp đỡ mà trị, lấy đạo làm sáng, lấy giáo hóa làm đẹp. Vạn dân hân hoan, trăm họ ca hát, thiên hạ thái bình. Vua quân đổi đức, trị nước hưng thịnh, triều đình chuyên chính, dân theo cổ, lễ phục, tạo nhạc, mưa thuận gió hòa, nông tang lạc nghiệp. Nước có vua trưởng, là phúc của xã tắc. Dân coi triều đình là cha mẹ. Triều đình coi dân như con đỏ. Địa lợi nhân hòa, binh mạnh nước giàu, không động đao thương. Thiên hạ cùng hưởng niềm vui thái bình. Vua tôi cùng tốt, làm theo điều nghĩa, để tới vạn đời. Thế nước tăng thịnh, thật là to lớn, khó gì so bằng. Sau này có cung phi ở các bộ, sinh thêm hơn năm mươi người trai gái, tới lúc trưởng thành đều có tư chất tốt đẹp.
Sau đó Long Quân nhường ngôi, chọn con trưởng Thái tử tên Hùng Lân Lang, đổi thành Hùng Quốc Vương, nối ngôi thay triều, ra quản vạn dân, ngự chính ở cung kiền tại núi Nghĩa Lĩnh. Nay Hùng Vương xe sách thống nhất cai quản thiên hạ. Còn các người em vua 99 người…
Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hoà mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng. Hưởng ngôi trị nước dài lâu. Đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Đó là Thuỷ tổ của Bách Việt.
Câu đối ở đình Bảo Đà ở Dữu Lâu, Việt Trì:
數千年王佐始終父子君臣開拯點
十五部天分草埜山河日月共長存
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch:
Mấy ngàn năm phụ đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.
