Nhân Thọ xá lợi tháp và văn bia tháp xá lợi mới phát hiện tại Bắc Ninh

1. Nhân Thọ xá lợi tháp và việc xây dựng tháp xá lợi tại Giao châu năm 601
              Trong vòng 4 năm, từ năm 601 (Nhân Thọ 1) đến năm 604 (Nhân Thọ 4), Tùy Văn Đế Dương Kiên đã ba lần phân phát xá lợi và tổ chức xây dựng bảo tháp an trí xá lợi tại hơn 100 châu thuộc bản đồ đế quốc. Đây là một phần trong chính sách phục hưng Phật giáo của người sáng lập vương triều nhà Tùy, với ý đồ sử dụng Phật giáo như một công cụ để thu thập nhân tâm, tái ổn định tình hình chính trị, xã hội Trung Quốc sau một thời kỳ biến động kéo dài. Đây cũng là một dịp để nhà Tùy xác lập cương giới, khẳng định lại quyền thống trị đối với những phần lãnh thổ đã chinh phục trực tiếp hoặc kế thừa một cách gián tiếp từ các vương triều đi trước. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, hoạt động phân phát xá lợi và hệ thống bảo tháp xá lợi được xây dựng dưới niên hiệu Nhân Thọ (thường được giới nghiên cứu biết đến dưới thuật ngữ Nhân Thọ xá lợi tháp) đã sớm nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của rất nhiều học giả Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
              Hoạt động xây dựng Nhân Thọ xá lợi tháp không chỉ là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử chính trị, mỹ thuật và Phật giáo Trung Quốc. Trên thực tế, nó đã có những liên hệ và ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị và Phật giáo Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ VI – đầu thế kỷ VII. Bởi lẽ, trong số hơn 100 châu huyện được nhà Tùy lựa chọn để phân phát xá lợi, có cả các châu Giao, Phong, Trường, Hoan, Ái,… những nơi vốn thuộc quyền kiểm soát của chính quyền nhà Tiền Lý. Tuy nhiên, tại Việt Nam, tính đến thời điểm hiện tại, ngoài một số giới thiệu hết sức ngắn gọn của học giả Lê Mạnh Thát trong phần chú thích bản dịch Thiền uyển tập anh ngữ lục (xuất bản lần đầu tiên năm 1976) (Lê Mạnh Thát, 1999) và của GS. Hà Văn Tấn trong sách Chùa Việt Nam (xuất bản lần đầu tiên năm 1993) (Hà Văn Tấn, 2010), các tư liệu và kết quả nghiên cứu xung quanh vấn đề này vẫn chưa được biết đến một cách rộng rãi.
              Chính vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này, trước tiên, chúng tôi muốn hệ thống lại những tư liệu cơ bản cũng như giới thiệu một số thành quả nghiên cứu của giới sử học Trung Quốc và Nhật Bản xung quanh hoạt động xây dựng Nhân Thọ xá lợi tháp dưới thời Tùy Văn Đế. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn đưa ra một số nhận định góp phần nhận diện văn bia tháp xá lợi mới được phát hiện gần đây tại Bắc Ninh. Từ đó, bài viết cũng muốn làm rõ hơn một số vấn đề liên quan đến chính quyền Lý Phật Tử và lịch sử Phật giáo ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ VI – đầu thế kỷ VII.
              Các nghiên cứu từ trước đến nay về Nhân Thọ xá lợi tháp nhìn chung đều được triển khai trên cơ sở các ghi chép trong sách Tập thần châu Tam bảo Cảm thông lục 集神州三宝感通錄 (dưới đây gọi tắt là Cảm thông lục),Quảng hoằng minh tập廣弘明集, Tục cao tăng truyện 續高僧傳 (đều do sư Đạo Tuyên 道宣 biên soạn vào thời Đường, trong đó Quảng hoằng minh tập được hoàn thành năm Lân Đức nguyên niên – 664, Tục Cao tăng truyệnhoàn thành năm Trinh Quán 19 – 645). Theo các nguồn tư liệu đó, Nhân Thọ xá lợi tháp được xây dựng trong ba lần với qui mô và thời điểm như sau:
·         Lần thứ nhất vào năm Nhân Thọ 1 (601), tổ chức trên phạm vi 30 châu. Vua Tùy xuống chiếu vào ngày 13 tháng 6, hạ thổ xá lợi vào ngày 15 tháng 10.
·         Lần thứ hai vào năm Nhân Thọ 2 (602), trên phạm vi 50 (có tài liệu cho là 53) châu. Vua Tùy xuống chiếu vào ngày 23 tháng Giêng, hạ thổ xá lợi vào ngày 8 tháng 4.
·         Lần thứ ba vào năm Nhân Thọ 4 (604), trên phạm vi hơn 30 châu. Vua Tùy xuống chiếu vào tháng Giêng, hạ thổ xá lợi vào ngày 8 tháng 4.
              Về nguồn gốc xá lợi được Tùy Văn Đế phân phát cho các địa phương, theo Cảm thông lục và Quảng hoằng minh tập, khi Tùy Văn Đế còn chưa lên ngôi (tiềm long), có một vị sa môn Bà La Môn đến nhà, đưa ra một bọc xá lợi và nói rằng: “Đàn việt [thí chủ] có lòng tốt, nên lưu lại (bọc xá lợi này) để cúng dường”, sau đó không biết đi đâu mất. Sau Tùy Văn Đế và sư Đàm Thiên lấy chỗ xá lợi đó ra đếm thì thấy lúc nhiều lúc ít. Sư Đàm Thiên giải thích rằng theo lời vị sa môn kia, chỗ xá lợi đó là “pháp thân” của nhà Phật nên không thể đo đếm được theo cách thông thường. Tùy Văn Đế bèn làm một chiếc hòm thất bảo để cất giữ những xá lợi đó[1]. Câu chuyện mang nhiều màu sắc tâm linh nói trên ít nhiều đã được nhào nặn dưới bàn tay của giới tăng lữ Phật giáo, nhưng nếu gạn bỏ đi những phần mang tính nhuận sắc, chúng ta thấy rằng các xá lợi được Tùy Văn Đế đưa về các địa phương dưới danh nghĩa là “pháp thân” – xá lợi của Phật, không phải là xá lợi của một vị danh tăng, danh ni nào đó.
              Trong ba lần xây tháp và phân phát xá lợi, hệ thống tư liệu về hoạt động năm 601 là đầy đủ nhất. Theo Cảm thông lục, Tùy Văn Đế đã xuống chiếu về việc phân phát xá lợi và xây dựng bảo tháp an trí xá lợi vào ngày 13 tháng 6 năm 601. Nội dung bài chiếu cũng như tên các châu được phân phát xá lợi khi đó được ghi chép cụ thể trong sáchQuảng hoằng minh tập.
              Sử liệu 1: Quảng hoằng minh tập, quyển 17, Phật đức thiên đệ tam chi tam
門下仰惟、正覺大慈大悲、救護群生、津梁庶品、朕歸依三寶重興聖教、思與四海之内一切人民俱發菩提共修福業、使當今現在、爰及來世、永作善因、同登妙果、宜請沙門三十人、諳解法相、兼堪宣導者、各將侍者二人、并散官各一人、薰陸香一百二十斤、馬五匹、分道送舍利、往前件諸州起塔、其未注寺者、就有山水寺所、起塔依前山、舊無寺者、於當州內清靜寺處建立其塔、所司造様送往當州、僧多者三百六十人、其次二百四十人、其次一百二十人、若僧少者、盡見僧、為朕、皇后、太子廣、諸王子孫等、及内外官人、一切民庶、幽顯生靈、各七日行道并懺悔、起行道日打剎、莫問同州異州、任人布施、錢限止十文已下、不得過十文、所施之錢以供營塔、若少不充役正丁、及用庫物、率土諸州僧尼、普為舍利設齋、限十月十五日午時、同下入石函、總管刺史已下縣尉已上、息軍機停常務七日、專檢校行道及打剎等事、務盡誠敬、副朕意焉、主者施行、仁壽元年六月十三日,内史令豫章王臣暕宣。
Tạm dịch:
Kẻ môn hạ kính ngưỡng nghĩ rằng: đức đại từ đại bi của bậc Chính Giác cứu giúp cho chúng sinh, là cầu nối cho vạn vật. Trẫm nay qui y tam bảo, trùng hưng thánh giáo, muốn cùng tất thảy nhân dân trong bốn bể, cùng phát nguyện bồ đề, cúng tu phúc nghiệp, để cho đương kim hiện tại, cùng với vị lai, vĩnh tạo thiện nhân, cùng đạt quả phúc. Nên mời 30 vị sa môn thông tuệ Pháp tướng [tức Phật pháp], kiêm kham truyền đạo, mỗi vị dẫn theo tùy tùng 2 người, tản quan 1 người, đem theo huân lục hương 120 cân, ngựa 5 con, chia ra các đạo hộ tống xá lợi đến các châu trên đây dựng tháp. Đối với các nơi không ghi chú tên chùa, chọn nơi chùa có sơn thủy, dựng tháp dựa vào núi phía trước. Những nơi vốn không có núi, dựng tháp tại chùa ở nơi thanh tịnh trong châu. Sở ty tạo “dung” [thiết kế] gửi cho các châu. Nơi có nhiều sư lấy 360 người, mức tiếp theo là 240 người, mức nữa là 120 người. Nếu có ít sư, huy động tất cả các sư hiện có. [Các sư] phải vì Trẫm, Hoàng hậu, Thái tử [Dương] Quảng, các vương tử vương tôn, quan viên nội ngoại, tất thảy dân thường, sinh linh hai cõi u huyền, mỗi nơi hành đạo, sám hối trong vòng 7 ngày. Vào ngày hành đạo tiến hành “đả sát”, không kể người trong châu ngoài châu, đều phải bố thí. Tiền (bố thí) phải dưới 10 văn, không được quá 10 văn. Lấy tiền bố thí cúng cho việc tạo tháp. Nếu thiếu không được sung chính đinh, dùng đồ trong quan khố. Tăng ni các châu đều phải làm trai lễ cho xá lợi. Hạn vào giờ Ngọ ngày 5 tháng 10, các nơi cùng đưa (xá lợi) vào hòm đá và hạ thổ. Từ chức tổng quản, thứ sử trở xuống đến chức huyện úy trở lên, đều phải nghỉ việc quân cơ, tạm dừng thường vụ trong 7 ngày, chuyên tâm đôn đốc việc hành đạo và “đả sát”, hết sức thành kính, không được phụ ý trẫm. Nhất nhất phải thi hành. Nhân Thọ nguyên niên, tháng 6 ngày 13. Nội sử lệnh Dự Chương vương thần [Dương] Giản tuyên đọc.
              Quảng hoằng minh tập cũng ghi danh sách 30 châu được phân phát xá lợi và tổ chức xây dựng tháp. Tương ứng với chiếu thư của vua Tùy, có thể thấy danh sách này được chia làm 2 nhóm. Bên cạnh 17 châu có ghi rõ tên chùa, ví dụ Ung châu Tiên Du tự 雍州仙遊寺, có 13 châu chỉ ghi tên châu mà không ghi tên chùa, trong số đó có Giao châu. Như vậy, đối với Giao châu, vua Tùy không chỉ định địa điểm cụ thể, mà để cho Giao châu lựa chọn chùa xây tháp. Tiêu chuẩn lựa chọn là chùa phải ở nơi có danh sơn danh thủy, tháp phải được xây dựa vào núi phía trước, hoặc với những châu không có núi thì phải là chùa ở nơi thanh tịnh. Tiếp theo chiếu thư của Tùy Văn Đế,Quảng hoằng minh tập dẫn sách Xá lợi cảm ứng ký 舍利感應記 của Vương Thiệu 王邵 ghi lại những nơi có tấu báo về việc xuất hiện “cảm ứng” khi xây tháp. “Cảm ứng” ở đây là các hiện tượng kỳ lạ, mang tính siêu nhiên xuất hiện cùng với việc an trí xá lợi. Ví dụ theo Xá lợi cảm ứng ký, tại chùa Tiên Du ở Ung châu, vào ngày xây tháp, trời vốn mây mù có mưa, nhưng đến khi đưa xá lợi xuống thì trời quang mây tạnh, đến khi cho xá lợi vào hòm thì trời lại đổ mưa[2]. Trong danh sách “cảm ứng” đó cũng có tên Giao châu, nhưng không thấy chép hiện tượng “cảm ứng” cụ thể mà chỉ đơn giản ghi việc Giao châu khởi dựng tháp tại chùa Thiền Chúng (交州於禪眾寺起塔). Qua ghi chép này, chúng ta có thể biết được Giao châu đã lựa chọn chùa Thiền Chúng làm nơi xây tháp năm 601 và báo lại sự kiện đó với nhà Tùy.
              Quảng hoằng minh tập cũng ghi chép rất cụ thể về trình tự tiến hành các nghi lễ. Tại kinh đô Đại Hưng (sau này là Trường An), Tùy Văn Đế đích thân mở hòm thất bảo, lấy ra 30 xá lợi đặt lên hương án trên ngôi báu, rồi cùng các sa môn đốt hương lễ bái. Sau đó, xá lợi được đặt vào 30 chiếc bình vàng nạm lưu ly 琉璃盛金瓶, dùng huân lục hương nhào thành “bùn” (nê), bôi lên nắp bình để phong lại, hẹn với ba mươi châu cùng vào giờ chính Ngọ ngày 15 tháng 10 cho vào hòm đồng, hòm đá 銅函石函, nhất loạt khởi dựng bảo tháp. Các sa môn sứ giả khi đến địa giới các châu, trước tiên phải lệnh cho các nhà trong châu dọn dẹp hết những thứ uế tạp để nghênh đón xá lợi. Quan viên từ chức tổng quản, thứ sử trở xuống đều phải đi bộ dẫn đường. Sư sãi[3] tại địa phương đều phải trang phục chỉnh tề, đem cờ quạt hương hoa đến cúng dường, hoặc cầm hương hoa, hoặc đốt hoặc rải, vây quanh tán tụng bằng âm Phạn. Khi đến nơi, vị sa môn sứ giả của nhà Tùy hướng đến các sư sãi hô lên rằng: “Chí tôn lấy đức bồ tát đại từ vô biên vô bờ thương xót chúng sinh dồn vào tinh túy của xương cốt [cốt túy]. Vậy nên phân phát xá lợi cùng thiên hạ tạo lấy thiện căn”, sau đó dẫn giảng các loại kinh văn. Các sư sãi đều phải chắp tay, quì gối phải xuống đất. Sa môn sau đó lại đọc kinh sám hối. Trước khi hạ thổ xá lợi, sa môn giơ cao chiếc bình đựng xá lợi cho các sư sãi tham dự xem một vòng[4].
              Khi chôn xá lợi, người ta thường chôn kèm bia đá có minh văn. Hiện nay, người ta đã tìm thấy 12 minh văn liên quan đến việc xây dựng Nhân Thọ xá lợi tháp tại Trung Quốc, trong đó có 6 minh văn về lần xây dựng năm 601, 3 minh văn về lần xây dựng năm 602, 3 minh văn về lần xây dựng năm 604.
Bảng 1: Các minh văn liên quan đến Nhân Thọ xá lợi tháp đã phát hiện được tại Trung Quốc

(dựa trên thống kê của Hida Romi – Oshima Sachio, 2012, có bổ sung thêm một số thông tin)

STT
Địa điểm
Thông tin
1
Ung châu Tiên Du tự
雍州仙遊寺
Niên đại
601 (Nhân Thọ 1)
Nơi lưu giữ
Bảo tàng Tiên Du tự
Ảnh thác bản
Ảnh thác bản chưa công bố. Ảnh văn bia có trên website kênh truyền hình Phượng Hoàng – Trung Quốc
Kích thước
khoảng 50x50cm
2
Kỳ châu Phượng Tuyền tự
岐州鳳泉寺
Niên đại
601 (Nhân Thọ 1)
Nơi lưu giữ
Bảo tàng huyện Phù Phong
Ảnh thác bản
Bắc đồ[5] (t9), tr.143
Kích thước
32x34cm
3
Đồng châu Đại Hưng Quốc tự
同州大興國寺
Niên đại
601 (Nhân Thọ 1)
Nơi lưu giữ
Uỷ ban quản lý văn vật huyện Đại Chi tỉnh Thiểm Tây
Ảnh thác bản
Thiểm Tây bi thạch tinh hoa, tr.30
Kích thước
Chưa có thông tin
4
Thanh châu Thắng Phúc tự
青州勝福寺
Niên đại
601 (Nhân Thọ 1)
Nơi lưu giữ
Bảo tàng Thành phố Thanh châu
Ảnh thác bản
Bắc đồ (t9), tr.144
Kích thước
63x77cm (trán bia: 31x27cm)
5
Kinh thành Đại Hưng huyện Long Trì tự
京城大興縣龍池寺
Niên đại
601 (Nhân Thọ 1)
Nơi lưu giữ
Không rõ
Ảnh thác bản
Bắc đồ (t9), tr.142
Kích thước
35x30cm
6
Tín châu Kim luân tự
信州金輪寺
Niên đại
602 (Nhân Thọ 2)
Nơi lưu giữ
Bạch Đế thành Tây Bi Lâm
Ảnh thác bản
Bắc đồ (t.9), tr.153
Kích thước
43x46cm
7
Lộ châu Phạn Cảnh tự
潞州梵境寺
Niên đại
602 (Nhân Thọ 2)
Nơi lưu giữ
Không rõ
Ảnh thác bản
Chưa có thông tin
Kích thước
Chưa có thông tin
8
Đặng châu Đại Hưng Quốc tự
鄧州大興国寺
Niên đại
602 (Nhân Thọ 2)
Nơi lưu giữ
Bảo tàng Thành phố Khai Phong
Ảnh thác bản
Bắc đồ (t.9), tr.156
9
Tử châu Hoa Lâm tự
梓州華林寺
Niên đại
604 (Nhân Thọ 4)
Nơi lưu giữ
Sưu tập tư nhân Nhật Bản
Ảnh thác bản
Nakamura Nobuo (2004)
10
Nghi châu Thần Đức tự
宜州神德寺
Niên đại
604 (Nhân Thọ 4)
Nơi lưu giữ
Bảo tàng Diệu huyện
Ảnh thác bản
Thiểm Tây bi khắc tinh hoa, tr.32
11
Liêm châu Hoa Thành tự
廉州花成寺
Niên đại
604 (Nhân Thọ 4)
Nơi lưu giữ
Không rõ
Ảnh thác bản
Bắc đồ, tr.166
12
Kinh thành Diên Hưng tự
京城延興寺
Niên đại
601 (Nhân Thọ 1)
Nơi lưu giữ
Bảo tàng Hàm Dương
Ảnh thác bản
Hàm Dương bi thạch, tr.18
2. Khảo sát về văn bia tháp xá lợi mới phát hiện tại Bắc Ninh
2.1. Nội dung minh văn
              Ngày 29 tháng 8 năm 2012, sau khi nhận được tin từ Bắc Ninh, chúng tôi đã có dịp cùng GS.Phan Huy Lê, PGS.TS.Tống Trung Tín, TS.Nguyễn Văn Sơn đến Bảo tàng Bắc Ninh và trực tiếp quan sát văn bia dưới sự hướng dẫn của Giám đốc Bảo tàng Bắc Ninh TS. Lê Viết Nga và một số cán bộ của bảo tàng.

Ảnh: Thác bản bia Bắc Ninh (chụp tại Hội nghị Thông báo Khảo cổ học 2012)

              Minh văn tổng cộng có 133 chữ, được chia làm 13 dòng (có thể tạm chia thành 1 dòng tiêu đề, 10 dòng chính văn, 2 dòng chú thích), mỗi dòng về cơ bản có 13 chữ. Nguyên văn như sau:
1      舍利塔銘
2      維大隋仁壽元年歳次辛酉十月
3      辛亥朔十五日乙丑
4      皇帝普為一切法界幽顯生靈謹
5      扵交州龍編縣禅衆寺奉安舍利
6      敬造靈塔願
7      太祖武元皇帝元明皇后皇帝皇
8      后皇太子諸王子孫等並内外羣
9      官爰及民庶六道三塗人非人等
10     生生世世值佛聞法永離苦空同
11     昇妙果
12     敕使大德慧雅法師吏部羽騎尉
13     姜徽送舎利扵此起塔
Phiên âm:
1            Xá lợi tháp minh văn
2            Duy[6] Đại Tuỳ Nhân Thọ nguyên niên tuế thứ Tân[7] Dậu thập nguyệt
3            Tân Hợi sóc[8] thập ngũ nhật Ất Sửu
4            Hoàng đế[9] phổ vi nhất thiết pháp giới u hiển sinh linh cẩn
5            ư Giao Châu Long Biên huyện Thiền Chúng tự phụng an xá lợi
6            kính tạo linh tháp nguyện[10]
7            Thái tổ Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng hậu[11], Hoàng đế, Hoàng
8            hậu, Hoàng thái tử[12], chư vương tử tôn đẳng, tịnh nội ngoại quần
9            quan, viên cập[13] dân thứ[14], lục đạo tam đồ[15], nhân, phi nhân đẳng
10          sinh sinh thế thế trị phật văn pháp, vĩnh ly khổ không, đồng
11          thăng diệu quả
12          Sắc sứ Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ kị uý
13          Khương Huy[16] tống xá lợi ư thử khởi[17] tháp
Tạm dịch:
Bài minh tháp xá lợi
Đại Tùy niên hiệu Nhân Thọ nguyên niên (601) nhằm năm Tân Dậu, tháng 10, ngày sóc Tân Hợi, ngày 15 Ất Sửu,
Vì sinh linh u hiển của tất cả các cõi pháp giới, Hoàng đế [tức Tùy Văn Đế] kính cẩn kiến tạo linh tháp, phụng an xá lợi tại chùa Thiền Chúng, huyện Long Biên, Giao châu, nguyện cho:
Đức Thái tổ Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng hậu, Hoàng đế, Hoàng hậu, Hoàng thái tử, các vương tử vương tôn, cùng quan viên nội ngoại, đến cả kẻ thứ dân, lục đạo tam đồ, nhân, phi nhân, đời đời kiếp kiếp được gặp Phật nghe pháp, vĩnh viễn thoát ly khổ đau, cùng đạt quả phúc.  
Sắc chỉ sai Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ kị úy là Khương Huy đưa xá lợi đến đây xây tháp.
2.2. So sánh văn bia tháp xá lợi Bắc Ninh với các bia Nhân Thọ xá lợi tháp đã phát hiện tại Trung Quốc
              Dưới đây, chúng tôi thử tiến hành so sánh về mặt nội dung và hình thức tấm bia mới tìm thấy tại Bắc Ninh (để tiện phân biệt, tạm gọi là bia/minh văn Giao châu) với các bia Nhân Thọ xá lợi tháp có niên đại năm 601 đã được tìm thấy tại Trung Quốc. Trong 6 tấm bia của Trung Quốc, có 5 bia có liên quan trực tiếp đến sự kiện 601 là bia Ung châu Tiên Du tự, Kỳ châu Phượng Tuyền tự, Đồng châu Đại Hưng Quốc tự, Thanh châu Thắng Phúc tự, Kinh thành Đại Hưng huyện Long Trì tự, 1 bia có nội dung liên quan gián tiếp là bia Kinh thành Diên Hưng tự.
(1) So sánh về mặt nội dung
              Trước tiên, về mặt nội dung, có thể thấy bia Giao châu có minh văn về cơ bản giống với các bia Nhân Thọ xá lợi tháp có niên đại 601 đã phát hiện được tại Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy một số khác biệt như sau:
              Thứ nhất, trong minh văn Giao châu, dòng đầu tiên ghi tiêu đề “Xá lợi tháp minh” 舎利塔銘. Trong khi đó, một số minh văn Trung Quốc lại ghi là “Xá lợi tháp hạ minh” 舎利塔下銘  (Ung châu, Kỳ châu, Thanh châu, Đại Hưng huyện), riêng minh văn Đồng châu không ghi tiêu đề. Vị trí khắc dòng tiêu đề này cũng khác nhau tùy theo từng bia, minh văn Ung châu và Thanh châu ghi ở dòng đầu, minh văn Kỳ châu và Đại Hưng huyện ghi ở dòng cuối cùng.

Thứ hai là sự phân bố các chữ trên một dòng. Về cơ bản, minh văn Ung châu, Kỳ châu và Đồng châu có bố cục mỗi dòng 11 chữ, minh văn Thanh châu và Đại Hưng huyện mỗi dòng có 12 chữ. Trong khi đó, minh văn Giao châu có bố cục mỗi dòng 13 chữ.

              Thứ ba là sự khác biệt về địa điểm xây tháp. Theo văn bia Giao châu, địa điểm được chọn để xây tháp xá lợi tại Giao châu là “Thiền Chúng tự”, tức là phù hợp với ghi chép của sách Xá lợi cảm ứng ký của Vương Thiệu dẫn trong Quảng hoằng minh tập. Tuy nhiên, bia Giao châu ghi cụ thể hơn là chùa Thiền Chúng nằm tại “Giao châu Long Biên huyện”. Xung quanh địa danh “Long Biên”, gần đây, một số nhà nghiên cứu dẫn ghi chép của Lê Quí Đôn trong sách Vân đài loại ngữ và phần chú thích của học giả Trần Văn Giáp cho rằng địa danh “Long Biên” vốn bắt nguồn từ chữ “Long Uyên”, mà việc đổi tên này chỉ có từ thời Đường do kị húy tên gọi của Đường Cao Tổ Lý Uyên. Giả thuyết này phủ định sự tồn tại của địa danh “Long Biên” trước thời Đường và đặt nghi vấn đối với niên đại 601 của tấm bia phát hiện tại Bắc Ninh. Tuy nhiên, đây là một quan điểm không chính xác. Địa danh “Long Biên” trên thực tế đã xuất hiện từ trước thời Đường. Các sách Tống thư do Thẩm Ước (441─513) hay Nam Tề thư do Tiêu Tử Hiển đời Lương (Nam triều) biên soạn vào thế kỷ VI đã nhiều lần nhắc đến địa danh huyện “Long Biên” thuộc quận Giao Chỉ, đặc biệt trong sự kiện cuộc nổi dậy của Lư Tuần. Lư Tuần vốn là thái thú nhau với nhà Tấn thất bại ở Quảng Châu đã chạy xuống “Long Biên” và bị Thứ sử Giao châu là Đỗ Tuệ Độ dùng hỏa công đánh bại phải tự tử. Theo Tống thư, Đỗ Tuệ Độ sau đó được nhà Tấn phong chức “Long Biên huyện hầu” 龍編縣侯[18]. Như vậy, chúng ta thấy rằng tên gọi “Long Biên” đã xuất hiện từ đầu thế kỷ V, do đó, địa danh “Long Biên” không mâu thuẫn gì với niên đại 601 ghi trên tấm bia[19].
              Một đặc trưng nữa của minh văn Giao châu là trong khi các minh văn khác chỉ có dòng tiêu đề và phần chính văn, riêng minh văn Giao châu và Thanh châu có thêm chú thích ở phần cuối. Phần chú thích đó như sau:
Minh văn Giao châu:
Nguyên văn chữ Hán
敕使大德慧雅法師吏部羽騎尉姜徽送舎利扵此起塔
Phiên âm:
Sắc sứ Đại đức Tuệ Nhã pháp sư Lại bộ Vũ kị úy Khương Huy tống xá lợi ư thử khởi tháp
Ảnh: Thác bản minh văn Thanh châu trong sách Bắc đồ

Minh văn Thanh châu
              Nguyên văn chữ Hán
敕使大德僧智能   侍者曇辯
                               侍者善才
敕使羽騎尉李德諶
長使邢祖俊
司馬李信則
錄事參軍丘文安
司功參軍李俈
孟弼書
Phiên âm:
Sắc sứ Đại đức tăng Trí Năng                           Thị giả Đàm Biện
                                                            Thị giả Thiện Tài
Sắc sứ Vũ kị úy Lý Đức Kham
Trưởng sử Hình Tổ Tuấn
Tư mã Lý Tín Tắc
Lục sự Tham quân Khâu Văn An
Tư công Tham quân Lý Cáo
Mạnh Bật thư
              Như vậy, ngoài dòng tiêu đề và phần chính văn, minh văn Giao châu có thêm phần chú thích ghi tên hai sứ giả[20] là “Đại đức Tuệ Nhã pháp sư” và “Vũ kị uý Khương Huy”. Minh văn Thanh châu cũng ghi tên hai sứ giả (sắc sứ) là “Đại đức Trí Năng” và “Vũ kị uý Lý Đức Kham”. Đối chiếu với chiếu thư của Tùy Văn Đế (đã dẫn ở phần trên), có thể xác định Tuệ Nhã và Trí Năng là 2 trong số 30 sa môn được Tùy Văn Đế giao cho hộ tống bình xá lợi về các địa phương. Về chức Vũ kị úy, cần lưu ý rằng Vũ kị uý là chức “tản quan” chỉ có vào thời Tuỳ, đến niên hiệu Võ Đức thời Đường mới được đổi thành “Tướng sĩ lang”[21]. Như vậy, chức “Vũ kị úy” của Khương Huy trong minh văn Giao châu và “Lý Đức Kham” trong minh văn Thanh châu đều phù hợp với nội dung cử một viên tản quan hộ tống sa môn trong chiếu thư của Tùy Văn Đế.
              Như vậy, riêng với phần chú thích, minh văn Giao châu có một số điểm tương đồng với minh văn Thanh châu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta thấy minh văn Giao châu cũng có những nét đặc trưng riêng. Thứ nhất, trong khi minh văn Thanh châu chỉ ghi chức vụ của Lý Đức Kham đơn giản là “Vũ kị úy”, minh văn Giao châu lại ghi một cách tường tận hơn là “Lại bộ Vũ kị úy”. Thứ hai, minh văn Giao châu không ghi tên hai người thị giả (tùy tùng), cũng không ghi tên các viên chức địa phương tham gia nghi lễ (trưởng sử, lục sự …) như trong minh văn Thanh châu. Thứ tư, trong khi minh văn Thanh châu có ghi tên người viết chữ là “Mạnh Bật”, minh văn Giao châu lại không có phần này. Trong khi đó, minh văn Giao châu lại có thêm dòng chữ “tống xá lợi ư thử khởi tháp” (đưa xá lợi đến đây dựng tháp).
(2) Về tình trạng phát hiện
              Theo bài viết gửi cho Hội nghị Thông báo Khảo cổ học của TS. Lê Viết Nga (Bảo tàng Bắc Ninh), văn bia được ông Nguyễn Văn Đức (thôn Xuân Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành) tìm thấy từ năm 2004 trong lúc đào đất làm gạch ở khu vực cách chùa làng Xuân Quan khoảng 20m. Bia bao gồm 2 phần úp khít vào nhau (tạm gọi là nắp và thân bia) được kết dính bằng “một chất gì đó” mà phải cậy bằng mai đào đất mới tách đôi ra được. Phần nắp và phần thân cùng có kích thước 45x46cm, phần nắp đậy dày 4cm. Mặt dưới phần nắp tạo gờ nổi xung quanh (có lẽ để tránh phần nắp tiếp xúc trực tiếp với mặt chữ và để trát hợp chất), mặt trên tạo “góc bạt chéo hình trụ”. Bia được tìm thấy cùng một hòm đá cũng bao gồm phần nắp và phần thân. Hòm có kích thước 45x46cm, phần nắp dày 8 cm, phần thân cao 20cm. Phần phía trên nắp cũng tạo góc bạt chéo hình trụ. Bên trong hòm có “tạp chất màu thâm đen”. Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Đức, bia đá và hòm đá được đặt trên một phiến đá.

Như đã trình bày ở phần trước, hiện nay tại Trung Quốc đã phát hiện được 12 minh văn liên quan đến việc xây dựng Nhân Thọ xá lợi tháp. Tuy nhiên, theo khảo sát tư liệu của chúng tôi, chỉ có 2 trường hợp được phát hiện thông qua khai quật khảo cổ học.

Trường hợp thứ nhất là khai quật khảo cổ học tại tháp xá lợi chùa Tiên Du thuộc Ung châu (Tây An, Thiểm Tây) năm 1998. Tháp này nhiều khả năng đã được tu sửa dưới thời Đường. Ở địa cung dưới chân tháp đã phát hiện 1 hòm đá vuông mỗi cạnh khoảng 58cm, cao 40cm, bên trái hòm đá đặt một tấm bia làm bằng đá xanh, một mặt khắc minh văn “Xá lợi tháp hạ minh” năm Nhân Thọ 1 (601) thời Tùy, một mặt khắc minh văn “Tiên Du xá lợi tháp minh” năm Khai Nguyên 4 (716) thời Đường. Bốn phía hòm đá khắc hình 10 tiên nữ cầm các loại nhạc cụ. Bên trong hòm đá có một hòm đồng dài 11,7cm, phía trước rộng 5,48cm, cao 8,4cm, phía sau rộng 3,9cm, cao 6,2cm. Bên trong hòm đồng lại có 1 bình lưu ly cao 4,65cm. Bên trong bình có 10 hạt xá lợi (Lưu Á Vận, 1998).
Trường hợp thứ hai là khai quật nền tháp chùa Thần Đức ở Nghi châu (nay nằm trong phần đất của chùa Diệu Huyện, Thiểm Tây) năm 1964. Tháp này được xây dựng năm Nhân Thọ 4 (604). Hòm đá đựng xá lợi được tìm thấy bên dưới nền tháp, xung quanh được quây bằng gạch. Bốn phía và phía trên hòm đá lại được chặn bởi các phiến đá hình chữ nhật. Thành nắp hòm được trang trí hoa lá, thân hòm khắc cảnh A Nan và các đệ tử đau buồn sau khi Phật Thích Ca lên Niết Bàn cũng như hình Tứ Đại Thiên Vương, Kim Cương Lực Sĩ. Hòm đá có hình vuông mỗi cạnh 103cm, cao 119cm. Nắp hòm cao 52cm, phía trên có khắc 9 chữ “Đại Tùy hoàng đế xá lợi bảo tháp minh”. Điều đáng chú ý là bia được đặt bên trong hòm đá. Phần nắp hòm bên trong được cắt gọt giật cấp sâu 10cm, rộng 52,5cm. Bia khắc minh văn được đặt lọt trong phần giật cấp đó. Bên trong hòm đá có các hòm đồng nạm vàng đựng xá lợi và một số bảo vật như vòng vàng, hòm đồng đựng tóc, bình đồng đựng tro cốt (Dương Hoằng, 2006).

Hình: Cấu trúc hòm đá và bia đặt trong hòm đá của chùa Thần Đức (Dương Hoằng, 2006)

Như vậy, có thể thấy về mặt hình dáng, hòm đá tìm thấy tại Bắc Ninh và hòm đá tìm thấy tại chùa Tiên Du và chùa Thần Đức tuy có kích thước khác nhau nhưng hình dáng tương đối giống nhau, đặc biệt là phần nắp có góc bạt chéo. Qua so sánh, có thể suy đoán hòm đá tìm thấy tại Bắc Ninh chính là hòm đá đựng xá lợi.

              Khai quật ở chùa Tiên Du cho thấy cấu trúc 3 lớp hòm đá – hòm đồng – bình lưu ly,  phù hợp với cách thức an trí xá lợi năm 601 chép trong Quảng hoằng minh tập. Trong trường hợp của chùa Thần Đức, chúng ta thấy chỉ có 2 lớp hòm là hòm đá và hòm đồng nạm vàng, không có bình lưu ly. Đây có thể là do cách đặt xá lợi của năm 604 có khác biệt so với năm 601. Qua tài liệu văn bản và kết quả khai quật tại chùa Tiên Du, có thể cho rằng cấu trúc hòm đá – hòm đồng – bình lưu ly – xá lợi là qui chế chung của năm 601. Như vậy, nếu khai báo của ông Nguyễn Văn Đức là chính xác, tức là trong hòm đá tại Bắc Ninh chỉ còn một lớp “tạp chất màu thâm đen” mà không có hòm đồng và bình lưu ly nạm vàng, thì nhiều khả năng hòm đá ở Bắc Ninh đã từng bị khai quật, lấy đi xá lợi và sau đó được chôn lại.
              Về bia đá, trong trường hợp của chùa Thần Đức, chúng ta thấy minh văn 604 được đặt nằm gọn trong hòm đá. Trường hợp của chùa Tiên Du cho thấy bia đá của năm 601 nằm riêng rẽ so với hòm đá (nếu hòm đá được tìm thấy là hòm đá gốc của thời Tùy), tương tự như ở Bắc Ninh. Bia đá Bắc Ninh có phần nắp. Bia đá của chùa Tiên Du do đã được khắc thêm một mặt vào thời Đường, nên chúng ta không rõ tấm bia gốc vào thời Tùy có phần nắp hay không. Tuy nhiên, tại Trung Quốc cũng có một trường hợp bia có nắp tương tự như bia Bắc Ninh. Bia đá của chùa Thắng Phúc (minh văn Thanh châu) hiện nay vẫn còn lưu giữ được phần nắp, có góc bạt chéo hình trụ tương tự như bia Bắc Ninh.
2.3. Vấn đề niên đại của minh văn Giao châu
              Trên cơ sở so sánh về mặt nội dung cũng như các hiện vật liên quan, có thể thấy bia tháp xá lợi mới phát hiện tại Bắc Ninh có nhiều điểm tương đồng với các bia Nhân Thọ xá lợi tháp năm 601 hiện còn lưu giữ được tại Trung Quốc. Tuy nhiên, xung quanh niên đại 601 được ghi trên bia Bắc Ninh, trong giới học giả Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
              Quan điểm thứ nhất phủ định niên đại 601 cũng như giá trị lịch sử của bia và cho rằng đây là một tấm bia giả cổ, mới được chế tác gần đây.
              Quan điểm thứ hai cho rằng bia được khắc vào thế kỷ VII, tuy nhiên vào thời điểm muộn hơn năm 601, có thể vào năm 604.
              Quan điểm thứ ba cho rằng bia được khắc vào năm 601, cùng thời điểm với niên đại “Nhân Thọ nguyên niên” ghi trên bia.
              Để tìm được câu trả lời cuối cùng, cần có nghiên cứu liên ngành với sự tham gia của nhiều chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là các ngành khoa học tự nhiên. Dưới đây chúng tôi sẽ thử xem xét các khả năng nêu trên từ góc độ của một người nghiên cứu tư liệu chữ viết.
              Trước tiên, theo chúng tôi, xác suất xảy ra khả năng thứ nhất, tức bia mới được làm giả cổ là rất thấp. Khi so sánh với các văn bia đã được tìm thấy tại Trung Quốc, chúng ta thấy bia Bắc Ninh có nhiều điểm tương đồng về cả nội dung và hình thức. Mặt khác, bia Bắc Ninh cũng mang những nét đặc thù riêng, ngay cả so với bia Thanh Châu là minh văn có nhiều điểm tương đồng nhất. Điều này cho thấy ít nhất bia Bắc Ninh không phải là bản sao rập khuôn của bất kỳ một mẫu văn bia nào đã được biết đến trước đó. Hơn nữa, để làm giả được tấm bia như thế này, người làm giả phải có trình độ hiểu biết rất sâu sắc về Hán văn, lịch sử thời Tùy – Đường cũng như sưu tầm được tư liệu từ nhiều nguồn tản mác khác nhau. Ví dụ như việc sử dụng dị thể rất hiếm gặp của các chữ “tân”, “nguyện”, “thứ” hay “khởi”. Bản thân tên gọi chùa “Thiền Chúng” vốn không được ghi trong sắc chỉ của vua Tùy mà chỉ xuất hiện trong phần tấu báo “cảm ứng” của các địa phương, do đó nếu muốn làm giả, người làm giả cũng phải tra cứu tư liệu rất kỹ. Hơn nữa, người làm giả cũng phải có hiểu biết rất sâu về hệ thống quan chế của nhà Tùy (ví dụ chức Vũ kị úy là hàm tản quan của nhà Tùy), v.v… Bởi những lý lẽ nêu trên, ít nhất từ góc độ nghiên cứu văn bản học, chúng tôi cho rằng khả năng giả cổ của bia Bắc Ninh là rất thấp[22].
              Để trả lời cho quan điểm thứ hai, chúng ta phải xem xét vấn đề trong bối cảnh mối quan hệ giữa nhà Tùy và chính quyền Lý Phật Tử khi đó.
              Có thể nói người đại diện cho quan điểm thứ hai là học giả Lê Mạnh Thát (1976). Lê Mạnh Thát có lẽ là nhà nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam đề cập đến hoạt động xây dựng Nhân Thọ xá lợi tháp trong phần chú thích bản dịch sách Thiền uyển tập anh ngữ lục (do Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn xuất bản lần đầu tiên năm 1976). Xuất phát từ một sự thực lịch sử là vào năm 601, nước ta vẫn đang là một nước độc lập dưới quyền lãnh đạo của Lý Phật Tử, ông cho rằng Tùy Văn Đế không thể ban xá lợi qua Giao châu vào năm 601. Qua câu chuyện Tùy Văn Đế hỏi sư Đàm Thiên về tình hình phát triển của Phật giáo tại Giao châu được chép trong Thiền uyển tập anh, Lê Mạnh Thát cho rằng ngay cả sau khi Lưu Phương đã tiêu diệt chính quyền của Lý Phật Tử vào năm 602, “Tùy Văn Đế còn đang lo về việc Giao châu đã được giáo hóa theo Phật giáo hay chưa”, và vì vậy, “Giao châu làm gì mà được chọn làm một chỗ thanh tịnh giữa 30 chỗ khác của Trung Quốc” để xây dựng bảo tháp năm 601[23].
              Nói tóm lại, Lê Mạnh Thát phủ định việc nhà Tùy đưa xá lợi và xây dựng bảo tháp tại Giao châu năm 601. Lê Mạnh Thát cho rằng việc đưa xá lợi đến Giao châu chỉ có thể được tiến hành vào năm 604, với việc vua Tùy ban 5 hòm xá lợi cho Pháp Hiền để xây dựng bảo tháp tại chùa Pháp Vân ở Luy Lâu và các chùa khác tại các châu Phong, Hoan, Trường, Ái như ghi chép trong Thiền uyển tập anh. Suy rộng ra, nếu đứng trên quan điểm của Lê Mạnh Thát, tấm bia tìm thấy tại Bắc Ninh, nếu thực sự là bia thời Tùy, chỉ có thể được đưa đến Giao châu vào năm 604, sau cuộc xâm lược của Lưu Phương. Hơn nữa, Lê Mạnh Thát cũng không công nhận địa điểm xây tháp xá lợi tại Giao châu là chùa Thiền Chúng, mà cho rằng địa điểm chính xác phải là chùa Pháp Vân[24].
              Để giải quyết vấn đề này, chúng ta sẽ phải xem xét thực chất mối quan hệ giữa chính quyền của Lý Phật Tử và nhà Tùy khi đó. Trước tiên, chúng tôi cũng tán thành ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu đi trước cho rằng trước cuộc xâm lược của Lưu Phương, nước ta đã là một nước độc lập[25]. Tuy nhiên, câu chuyện dưới đây về Thứ sử Quảng châu Lệnh Hồ Hy chép trong Tùy thư hé lộ cho chúng ta thấy một số vấn đề liên quan đến mối quan hệ thực chất giữa nhà Tùy và nhà Tiền Lý.
              Sử liệu: Tùy thư, Q.56, Liệt truyện 21, Truyện Lệnh Hồ Hy
熙奉詔、令交州渠帥李佛子入朝、佛子欲為亂、請至仲冬上道、熙意在羈縻、遂從之、有人詣闕訟熙受佛子賂而捨之、上聞而固疑之、既而佛子反問至、上大怒、以為信然、遣使者鎖熙詣闕(中略)行軍總管劉方擒佛子送於京師、言熙實無贓貨、上乃悟、於是召其四子、聽預仕焉、
              Tạm dịch:
(Lệnh Hồ) Hy phụng chiếu lệnh Giao châu cừ súy là Lý Phật Tử vào triều. Phật Tử muốn làm loạn, xin đến trọng đông mới lên đường. Hy ý muốn ràng buộc theo kiểu kimi nên đồng ý. Có người đến cửa khuyết tố cáo Hy nhận hối lộ của Phật Tử. Hoàng thượng nghe được nên có ý nghi ngờ. Đến khi tin Lý Phật Tử làm phản đến nơi, Hoàng thượng nổi giận, lấy (chuyện tố cáo cũ) là thật, sai sứ giả bắt giam Hy đưa về cửa khuyết. [Lược một đoạn] Đến khi Hành quân Tổng quản Lưu Phương bắt được Lý Phật Tử đưa về kinh sư, nói Hy quả thực không ăn của đút, Hoàng thượng mới ngộ ra, mời bốn người con (của Hy), cho phép được làm quan.
              Câu chuyện của Lệnh Hồ Hy cho thấy mặc dù vào năm 601, chính quyền của Lý Phật Tử đã là một chính quyền độc lập, song nhà Tùy không thừa nhận sự độc lập đó mà vẫn coi Giao châu là đất cũ của Lương – Trần và là một bộ phận trong lãnh thổ của nhà Tùy. Điều này cũng thể hiện qua việc nhà Tùy chuẩn theo lời tấu của Lệnh Hồ Hy tiến hành đổi tên một số đơn vị hành chính đang nằm dưới sự kiểm soát của Lý Phật Tử như Hoàng châu thành Phong châu, Lợi châu thành Trí châu, Đức châu thành Hoan châu[26]. Việc đổi tên này chứng tỏ nhà Tùy nghiễm nhiên coi các châu này nằm dưới quyền quản lý của mình.
              Chính quyền Quảng Châu của Lệnh Hồ Hy vào thời điểm đó đóng vai trò là đầu mối liên lạc giữa chính quyền trung ương của nhà Tùy với Lý Phật Tử, song chỉ muốn “ràng buộc [Giao châu] theo kiểu kimi”. Về phía nhà Tiền Lý, mặc dù thực chất đã là một chính quyền độc lập, song cũng như nhiều vương triều khác trong lịch sử Việt Nam, Lý Phật Tử rõ ràng “đóng vai” một thần tử của chính quyền Trung Hoa, và để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Tùy, đã xin hoãn việc lên đường vào chầu vua Tùy đến giữa mùa đông năm 601.
              Mối quan hệ phức tạp khi đó giữa nhà Tùy và chính quyền Lý Phật Tử còn được thể hiện qua một tư liệu khác là mộ chí của Tô Hiếu Từ 蘇孝慈墓誌. Tô Hiếu Từ là người Phù Phong 扶風 (Thiểm Tây), làm quan cho ba triều Tây Ngụy, Bắc Chu và Tùy, chết năm 601 khi đang làm chức Hồng châu Tổng quản洪州總管của nhà Tùy. Mộ chí của Tô Hiếu Từ được khắc năm 603, được phát hiện tại Bồ Thành (Thiểm Tây, Trung Quốc) từ năm 1888 (Thanh Đạo Quang 14), hiện đang được lưu giữ tại Nhà văn hóa Bồ Thành. Điểm đáng chú ý trong nội dung tấm mộ chí này là việc Tô Hiếu Từ trước khi chết đã được vua Tùy phong làm “Giao châu đạo hành quân tổng quản” để chinh phạt Giao châu[27]. Mặt khác, theo Tùy thư, Hồng châu Tổng quản Tô Từ chết vào ngày Quí Sửu (tức ngày 1) tháng 6 năm Nhân Thọ 1 (601)[28]. Như vậy, nhờ mộ chí của Tô Hiếu Từ, chúng ta phát hiện được một sự thật rất quan trọng. Đó là không phải đợi đến năm 602, mà ngay từ thời điểm trước tháng 6 năm 601, nhà Tùy đã chuẩn bị cho việc tấn công Giao châu. Tuy nhiên, cuộc hành quân này trên thực tế đã bị hoãn, có lẽ là do cái chết đột ngột của Tô Hiếu Từ vào đầu tháng 6. Đến ngày 13 tháng 6, Tùy Văn Đế xuống chiếu ra lệnh phân phát xá lợi cho Giao châu. Điều đó có nghĩa là việc phân phát xá lợi của vua Tùy vào tháng 6 năm 601 không chỉ đơn thuần là một hoạt động tôn giáo, mà còn có âm mưu sâu xa là nhằm kiểm tra lại sự thần phục của Giao châu đối với nhà Tùy.

Ảnh: Thác bản mộ chí Tô Hiếu Từ

              Trong bối cảnh chính trị – ngoại giao như vậy, chúng tôi cho rằng vào giữa tháng 10 năm 601, chính quyền của Lý Phật Tử có thể chấp nhận một đoàn sứ giả gồm 1 sa môn, 2 tùy tùng là tăng lữ, 1 viên võ quan của nhà Tùy đến Giao châu với mục đích tổ chức một nghi lễ Phật giáo. Điều này có lẽ cũng không khó khăn đối với một người đứng đầu chính quyền mà tên gọi đã phản ánh sự sùng bái Phật giáo rất sâu đậm – Lý Phật Tử. Hơn nữa, về mặt chính trị, việc không đón tiếp đoàn hộ tống xá lợi của vua Tùy vào thời điểm tháng 10 có thể dẫn đến nguy cơ phá hỏng kế hoạch kéo dài thời gian để chuẩn bị kháng chiến của nhà Tiền Lý.
              Một lý do nữa khiến chúng tôi nghĩ rằng việc xây tháp tại Giao châu và cho khắc minh văn thực sự được tiến hành vào năm 601, không phải vào năm 604 là vì ngày tháng trên minh văn ghi rõ là năm “Nhân Thọ nguyên niên”. Như chúng ta đã biết, hoạt động phân phát xá lợi không chỉ được tiến hành vào hai năm Nhân Thọ 1 và 2 (601, 602) mà còn được tiến hành cả vào năm Nhân Thọ 4 (604). Như đã trình bày ở phần đầu, năm 604, vua Tùy xuống chiếu phân phát xá lợi vào tháng Giêng, ước hẹn cùng các địa phương hạ thổ xá lợi vào ngày 8 tháng 4 cùng năm. Hiện nay, tại Trung Quốc đã phát hiện được một số minh văn liên quan đến sự kiện năm 604 như các minh văn Tử châu, Nghi châu, Liêm châu (tham khảo Bảng 1). Các minh văn này đều ghi rõ thời điểm “Nhân Thọ tứ niên” (604). Như vậy, nếu giả sử vào năm 601, nhà Tùy không đưa xá lợi đến được Giao châu và chỉ làm được điều này vào năm 604, sau khi Lưu Phương đã kiểm soát được Giao châu, minh văn khắc kèm với hoạt động phân phát xá lợi đó theo lẽ thông thường sẽ phải được khắc niên hiệu “Nhân Thọ tứ niên” giống như các địa phương khác, hoàn toàn không cần thiết phải quay ngược lại thời gian để khắc lại niên hiệu “Nhân Thọ nguyên niên” như trên tấm bia tìm thấy tại Bắc Ninh.
              Hơn hết, về mặt tư liệu, như đã trình bày ở phần trước, Giao châu không chỉ được liệt kê trong danh sách phân phát xá lợi năm 601 mà tên chùa Thiền Chúng của Giao châu còn xuất hiện trong danh sách “cảm ứng” do các địa phương tấu lên với triều đình trung ương của nhà Tùy. Trong khi đó, địa điểm Pháp Hiền cho xây dựng các tháp xá lợi năm 604 theo Thiền uyển tập anh là chùa Pháp Vân và một số chùa khác tại Phong châu, Trường châu, Ái châu, Hoan châu. Điều này cho thấy việc xây dựng tháp xá lợi tại chùa Thiền Chúng vào năm 601 là có thực và là một sự kiện hoàn toàn khác biệt so với việc Pháp Hiền tổ chức xây dựng tháp xá lợi tại chùa Pháp Vân năm 604.
2.4. Tiểu kết – Đánh giá về bia Bắc Ninh:
              Khi xem xét bối cảnh lịch sử đương thời cũng như nội dung các tư liệu hiện còn lưu giữ được, có thể nói xác suất để xảy ra khả năng thứ nhất và thứ hai là rất thấp, hay nói cách khác, việc coi niên đại khắc trên bia Bắc Ninh chính là niên đại thực của tấm bia vẫn là khả năng có tính hiện thực và thuyết phục cao nhất ở thời điểm hiện tại.
              Với tình hình tư liệu hiện nay, có thể tạm thời xác nhận đây là văn bia hiện còn lưu giữ được có niên đại cổ nhất Việt Nam. Niên đại 601 của văn bia này sớm hơn 17 năm so với tấm bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn có niên đại năm 618 đã được GS.Đào Duy Anh phát hiện tại Thanh Hóa năm 1960. Bia Bắc Ninh thuộc cùng nhóm các văn bia liên quan đến chuỗi sự kiện Tùy Văn Đế cho phân phát xá lợi và xây dựng bảo tháp trong niên hiệu Nhân Thọ đầu thời Tùy. Chính vì vậy, chúng tôi kiến nghị gọi tên tấm bia này là bia/minh văn Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp 交州仁寿舎利塔銘.
              Sự thống nhất về câu chữ trong minh văn cho thấy bên cạnh thiết kế tháp xá lợi, qui cách tổ chức nghi lễ, chính quyền trung ương của nhà Tùy đã biên soạn trước nội dung minh văn để phân phát cho các địa phương. Mặt khác, kích thước bia, kiểu chữ khắc lại có sự khác biệt tùy từng địa phương. Việc tìm thấy minh văn Giao châu giúp tái khẳng định ý kiến của học giả Nhật Bản Kegazawa Yasunori cho rằng nhà Tùy chỉ đóng vai trò biên soạn nội dung minh văn, còn việc khắc bia được giao về các địa phương (Kegasawa Yasunori, 2011). Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho rằng bia Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp đã được khắc tại Việt Nam.
3. Tháp Nhân Thọ xá lợi ở Giao châu và mối quan hệ với dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi
              Như đã trình bày ở trên, với Giao châu, Tùy Văn Đế không chỉ định địa điểm xây tháp mà để cho chính quyền Giao châu tự lựa chọn. Vậy tại sao chùa Thiền Chúng, một ngôi chùa mới xây dựng vào thời điểm đó lại được lựa chọn?
              Điều này trước tiên bắt nguồn từ mối liên hệ trực tiếp giữa Tỳ Ni Đa Lưu Chi – sư phụ của Pháp Hiền với chính sách phục hưng Phật giáo của Tùy Văn Đế. Như các học giả Nguyễn Lang (1974) và Lê Mạnh Thát (1976) đã đề cập, theo các sách Lịch đại tam bảo ký[29]Tục Cao tăng truyện, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã từng đến nhà Tùy và được chính vua Tùy mời dịch các kinh Tượng đầu tinh xá và Đại thừa phương quảng tổng trì dưới tên hiệu là Diệt Hỷ. Theo Lịch đại tam bảo ký và Thích thị thông giám, Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch xong kinh Tượng đầu vào tháng 2, và dịch xong kinh Tổng trì vào tháng 7 năm Khai Hoàng 2 (582).
              Sử liệu: Lịch đại tam bảo ký, Q.12
象頭精舍經一卷                 開皇二年二月譯
大乘方廣總持經一卷         開皇二年七月譯
右二部二卷、北天竺烏場國三藏法師毘尼多流支、隋言滅喜。既聞我皇興復三寶。故能不遠五百由延。振錫巡方來觀盛化至止。便召入令翻經。即於大興善寺譯出。給事李道寶般若流支次子曇皮二人傳譯。大興善寺沙門長安釋法纂筆受為隋言。并整比文義。沙門彥琮並皆製序。
              Tạm dịch:
Tượng đầu tịnh xá kinh 1 quyển (dịch tháng 2 năm Khai Hoàng 2 – 582)
Đại thừa phương quảng tổng trì kinh 1 quyển (dịch tháng 7 năm Khai Hoàng 2 – 582)
Hai bộ hai quyển kinh trên do Tam tạng pháp sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tiếng Tùy gọi là Diệt Hỷ, người nước Ô Dương Bắc Thiên Trúc dịch. Sư nghe tin Hoàng thượng ta [tức Tùy Văn Đế] hưng phục Tam bảo… (Tùy Văn Đế) bèn mời vào lệnh cho dịch kinh. Dịch tại chùa Đại Hưng Thiện. Cấp sự Lý Đạo Bảo, con thứ của Ban Nhược Lưu Chi là Đàm Bì hai người truyền dịch. Sa môn chùa Đại Hưng Thiện Trường An Thích Pháp Toản chấp bút thành tiếng Tùy và chỉnh lý văn nghĩa. Sa môn Ngạn Tông viết lời tựa cho cả 2 bộ kinh.
              Ở đây, chúng ta cần lưu ý một điểm rất quan trọng là Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã tham gia vào hoạt động dịch thuật của chính quyền trung ương nhà Tùy sau khi đã có một thời gian hoạt động tại Giao châu.
              Theo những ghi chép của Thiền uyển tập anh, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đến kinh đô Trường An của nhà Trần từ năm 574 (Thái Kiến 2). Gặp lúc Chu Võ Đế phá diệt Phật pháp, ông bèn theo lời khuyên của Tăng Xán xuống phía Nam. Ông lưu lại chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu trong 6 năm, dịch xong kinh Tượng đầu. Sau đó, ông đến chùa Pháp Vân tại Việt Nam vào tháng 3 năm 580 (Chu Đại Tượng 2, Canh Tí). Tại đây, ông thu nạp đệ tử Pháp Hiền và dịch xong kinh Tổng trì (tức Đại thừa phương quảng tổng trì)[30].
       Trước đây, các tư liệu nêu trên đã được học giả Nguyễn Lang chú ý đến khi ông viết bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, đứng từ quan điểm nghiên cứu Phật giáo, Nguyễn Lang chủ yếu quan tâm đến vấn đề kinh Tổng trì như vậy đã được dịch tại Việt Nam (như sách Thiền uyển tập anh chép) hay Trung Hoa (như các tài liệu Trung Quốc, mà tiêu biểu là Thích thị thông giám chép). Nguyễn Lang cũng đặt nghi vấn không rõ thời điểm Tỳ Ni Đa Lưu Chi lần đầu tiên đến Việt Nam là vào năm 580 (như Thiền uyển tập anh chép) hay sau năm 582, sau khi đã dịch kinh Phật ở kinh đô Đại Hưng của nhà Tùy (theo ghi chép của Thích thị thông giám)[31].
              Các nghi vấn mà Nguyễn Lang đưa ra xuất phát từ vấn đề ông quan niệm rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi chỉ đến Việt Nam sau khi đã tham gia hoạt động dịch thuật kinh Phật ở nhà Tùy. Từ đó dẫn đến việc ông không giải thích được tại sao theo Thiền uyển tập anh, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đến Việt Nam từ năm 580 mà theo các nguồn tài liệu của Trung Quốc, đến năm 582, Tỳ Ni Đa Lưu Chi lại có thể dịch kinh ở kinh đô Đại Hưng, do đó Nguyễn Lang buộc phải đi đến lựa chọn một trong hai tư liệu, hoặc Thiền uyển tập anh hoặc Thích thị thông giám, và phủ định tư liệu còn lại. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ, có thể thấy các ghi chép của Thiền uyển tập anh và Thích thị thông giám hoàn toàn không có điểm gì mâu thuẫn với nhau. Nếu đặt các sự việc theo trục thời gian, cần phải hiểu rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đến Việt Nam từ năm 580, đúng như ghi chép của Thiền uyển tập anh, ở lại chùa Pháp Vân một thời gian, sau đó khi được tin Tùy Văn Đế tiến hành chính sách phục hưng Phật giáo, ông đã quay trở lại Trung Quốc. Trong thời gian quay lại Trung Quốc đó, ông đã được mời tham gia hoạt động dịch kinh sách tại kinh đô Đại Hưng và hoàn thành công việc dịch 2 bộ kinh Tượng đầu và Tổng trì vào tháng 2 và tháng 7 năm 582. Nếu giải thích theo hướng này, chúng ta cũng giải quyết được vấn đề của kinh Tổng trì mà Nguyễn Lang thắc mắc. Có thể cho rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch kinh Tổng trì ở cả Việt Nam và Trung Quốc. Ông bắt đầu công việc dịch thuật tại chùa Pháp Vân ở Giao châu theo đúng ghi chép của Thiền uyển tập anh, và sau đó chính thức hoàn thành công trình này khi ông quay trở lại Trung Quốc và được mời tham gia vào công việc dịch thuật tại chùa Đại Hưng Thiện. Sau đó, ông lại quay trở lại chùa Pháp Vân và mất ở đây vào năm 594.
              Như vậy, chúng ta thấy rằng sau một thời gian hoạt động tại chùa Pháp Vân ở Việt Nam, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã quay trở lại Trung Quốc và tham gia trực tiếp vào các hoạt động phục hưng Phật giáo của Tùy Văn Đế ngay tại kinh đô Đại Hưng. Chắc chắn là khi quay trở lại Trung Quốc, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã mang theo những tri thức mà ông nắm được về hoạt động Phật giáo tại Giao châu. Danh tiếng của Tỳ Ni Đa Lưu Chi cũng như mối liên hệ của vị danh tăng này với chính quyền nhà Tùy là một trong những lý do dẫn đến việc chính quyền Lý Phật Tử lựa chọn chùa Thiền Chúng để xây dựng tháp xá lợi năm 601.
              Đệ tử của Tỳ Ni Đa Lưu Chi – Pháp Hiền chắc chắn cũng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng tháp xá lợi năm 601. Như đã trình bày ở phần trước, đối với Giao châu, Tùy Văn Đế không chỉ định vị trí xây tháp mà để cho Giao châu lựa chọn, và ngôi chùa được chọn là chùa Thiền Chúng. Tại Hội nghị Thông báo Khảo cổ học năm 2012, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Hà khi bàn về bia xá lợi 601 cũng đã nhắc đến Pháp Hiền với tư cách là “trụ trì” của chùa Thiền Chúng (Nguyễn Quang Hà, 2012)[32]. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng không chỉ là “trụ trì”, Pháp Hiền còn chính là người sáng lập chùa Thiền Chúng. Nguyên văn văn bản của Thiền uyển tập anh viết rất rõ: ” Khi (Tỳ Ni Đa Lưu) Chi tịch rồi, sư thẳng vào núi ấy, tu tập thiền định, hình như cây khô, vật, ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm xiết. Nhân đó, sư lập chùa [sáng tự], dạy dỗ học trò. Tăng chúng đến ở thường hơn 300″[33].
              Tóm lại, chúng ta thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà chùa Thiền Chúng lại được lựa chọn để xây dựng tháp xá lợi của nhà Tùy vào năm 601. Chùa Thiền Chúng được lựa chọn vì:
              Thứ nhất, chùa Thiền Chúng nằm trong dòng thiền của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, một vị cao tăng đã từng tham gia dịch thuật kinh sách ở kinh đô nhà Tùy và có mối liên hệ mật thiết với chính sách phục hưng Phật giáo của Tùy Văn Đế.
              Thứ hai, sau khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi chết, đệ tử của ông là Pháp Hiền đã hoằng dương pháp môn của dòng thiền này, sáng lập ra chùa Thiền Chúng và biến nó trở thành một trung tâm Phật giáo lớn, mà theo Thiền uyển tập anh, số lượng tăng chúng thường cư trú lên đến hơn 300. Số lượng tăng chúng đông đảo này thỏa mãn điều kiện huy động sư sãi (nhiều nhất là 360 người, các mức tiếp theo là 240 hoặc 120 người) để tham gia nghi lễ xây tháp xá lợi của nhà Tùy.
              Thứ ba, Pháp Hiền không chỉ tinh thông pháp môn của Tỳ Ni Đa Lưu Chi mà còn là một người đã có kinh nghiệm trong việc xây dựng tháp xá lợi tại Giao châu. Theo Thiền uyển tập anh, sau khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi viên tịch, chính Pháp Hiền đã “làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ”. Đó là vào “năm Giáp Dần, đời Tùy Khai Hoàng năm 14 (594)”[34], tức là 7 năm trước khi Tùy Văn Đế xuống chiếu cho xây dựng tháp xá lợi tại Giao châu.
5. Các tháp xá lợi được xây dựng tại Việt Nam dưới thời Tùy – Đường
              Trên đây, chúng tôi đã so sánh văn bia Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp với các minh văn tương tự tìm thấy tại Trung Quốc. Trên cơ sở những nhận thức mới đạt được qua nghiên cứu so sánh, chúng tôi muốn tổng hợp và đánh giá lại một số di tích và hiện vật tháp xá lợi có niên đại từ nửa cuối thế kỷ VI đến hết thế kỷ IX tại Việt Nam (tương đương với thời Tùy – Đường).
5.1. Các tháp xá lợi được xây dựng vào thời Tùy
              Tháp xá lợi đầu tiên được xây dựng trong giai đoạn này có lẽ là tháp an trí xá lợi của thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, do đệ tử của ông là sư Pháp Hiền xây dựng tại chùa Pháp Vân vào năm 594. Đến năm 601, Pháp Hiền tiếp tục tham gia việc xây dựng tháp xá lợi tại chùa Thiền Chúng, thuộc huyện Long Biên, Giao châu. Theo Thiền uyển tập anh, sau khi Lưu Phương tiêu diệt chính quyền Lý Phật Tử, dưới sự tiến cử của Lưu Phương, vua Tùy đã chuyển đến Giao châu 5 hòm xá lợi. Pháp Hiền đã xây tháp an trí 5 hòm xá lợi này tại chùa Pháp Vân (Giao châu) và các châu Phong, Trường, Ái, Hoan. Như vậy, riêng tại chùa Pháp Vân ở Giao châu đã tồn tại hai tháp xá lợi, một của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, một của nhà Tùy.
              Sang đến thời Lý, một trong hai tháp xá lợi này đã được khai quật. Theo Đại Việt sử lược, năm Giáp Tuất (1034), “sư ở chùa Pháp Vân tại Cổ châu tâu lên rằng: trong chùa phát ra mấy đạo tia sáng, theo tia sáng mà đào thì thấy một hòm bằng vàng, một hòm bằng đá, trong hòm đá có hòm bạc, trong hòm bạc có hòm vàng, trong hòm vàng có bình lưu ly, trong bình có xá lợi”[35]. Ở đây, chúng ta thấy xuất hiện bình lưu ly, tức là có điểm tương đồng với qui chế an trí xá lợi năm 601, nhưng mặt khác, lại có thêm một lớp hộp bạc. Kết hợp với các thông tin về tháp xá lợi của chùa Pháp Vân nêu trên, chúng tôi cho rằng nhiều khả năng xá lợi được khai quật năm 1034 là xá lợi do Pháp Hiền cho hạ thổ năm 604 dưới thời Tùy.
5.2. Các tháp xá lợi được xây dựng vào thời Đường
              Trong hai năm 1985-1986, Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật di chỉ Nhạn tháp (thôn Nhạn Tháp, xã Hồng Long, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Tại di chỉ này đã phát hiện được hòm vàng có hoa văn đựng xá lợi, dài 12cm, rộng 8cm, cao 8cm. Hòm vàng này lại được đặt trong lòng một hòm đồng trơn, 12cm, rộng 8cm, cao 8cm. Hòm đồng nằm trong một thân cây khoét rỗng cao 1,37m, chôn ở chính tâm lòng tháp[36].
              Qua các ghi chép khảo cổ học, chúng ta thấy cách thức chôn xá lợi tại Nhạn Tháp chỉ có 3 lớp: thân cây, hòm đồng, hòm vàng, khác với qui cách chôn hòm xá lợi của thời Tùy (ít nhất phải có 1 lớp hòm đá). Ngoài ra, tại di tích này cũng tìm được một số viên gạch có chữ, trong đó có minh văn “Trinh Quán lục niên” 貞観六年 (627). Tổng hợp các nguồn thông tin nêu trên, chúng tôi cho rằng đây là một tháp xá lợi thời Đường.
              Liên quan đến lòng thân cây khoét rỗng, trước đây GS. Hà Văn Tấn từng đặt vấn đề: cách thức chôn như vậy “gợi chúng ta nhớ đến tục chôn người chết trong những quan tài khoét bằng thân cây trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Các tháp Xá Lị vẫn được coi là tháp mộ, khác với các tháp kỷ niệm. Phải chăng ở đây, có sự tiếp hợp giữa Phật giáo với những truyền thống bản địa lâu đời ?” (Hà Văn Tấn, 1993). Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Kosugi Yasuo (1934), từ thời Lục Triều tại Trung Quốc, khi xây dựng tháp Phật, người ta thường lập một trụ gỗ nhỏ ở trung tâm để đánh dấu vị trí xây tháp, gọi là “đả sát”. Cách xây dựng này kéo dài đến tận thời Tùy – Đường. Hai chữ “đả sát” cũng xuất hiện trong chiếu thư xây dựng Nhân Thọ xá lợi tháp của Tùy Văn Đế mà chúng tôi đã giới thiệu ở phần đầu bài viết. Như vậy, cách thức xây dựng “đả sát” muộn nhất đã được truyền đến Giao châu từ năm 601, thân cây khoét rỗng mà chúng ta tìm được tại di chỉ Nhạn Tháp có lẽ cũng là một dạng “đả sát” của tháp xá lợi và không có nhiều liên hệ đến văn hóa Đông Sơn.
              Ngoài ra, liên quan đến hai hạt xá lợi màu trắng phát hiện trong hòm xá lợi ở Nhạn Tháp, chúng tôi cũng muốn lưu ý đến cách phân biệt xá lợi trong sách Pháp uyển chu lâm do sư Đạo Thế soạn vào năm Tổng Chương 1 (668) thời Đường. Theo đó, xá lợi vốn được chia làm 3 loại, thứ nhất là xá lợi xương, có màu trắng, thứ hai là xá lợi tóc, có màu đen, thứ ba là xá lợi thịt, có màu đỏ[37]. Nếu theo cách phân biệt này, hai viên xá lợi của Nhạn Tháp thuộc loại xá lợi xương.
              Ngoài di chỉ Nhạn Tháp, gần đây, trong quá trình điều tra các viên gạch có chữ Hán tại Hoàng thành Thăng Long, chúng tôi phát hiện được một viên gạch Đại La có minh văn như sau:
1            □和四年十一匚
2      塔元安 佛匚
3      善崇善寺匚
4      □會寺僧匚
5      塔左匚
Phiên âm:
1            […] Hòa tứ niên thập nhất […]
2            tháp nguyên an Phật […]
3            thiện Sùng Thiện tự […]
4            […] hội tự tăng […]
5            tháp tả […]
              Viên gạch nói trên không có ghi số hiệu khai quật, có lẽ đã bị bỏ sót trong quá trình chỉnh lý hiện vật. Dòng đầu tiên ghi niên hiệu “.. Hòa tứ niên”. Chữ đầu tiên bị mất một phần (có lẽ do bị cuốc vào khi khai quật). Tuy nhiên, nếu dựa vào 2 nét bên dưới còn sót lại, kết hợp với niên đại Đại La, chúng tôi cho rằng chữ này chỉ có thể là chữ “Nguyên” 元. Nếu suy đoán của chúng tôi là đúng, dòng niên đại trên viên gạch là tháng 11 năm Nguyên Hòa 4, tức năm 809 thời Đường. Năm 809 là năm dưới thời An Nam Đô hộ Trương Chu[38].
              Dòng thứ hai đáng tiếc cũng bị mất các chữ cuối. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có từ “tháp nguyên an Phật …”, tức là “tháp vốn an (trí) Phật …”. Đặc biệt, sau chữ “an” người viết để trống một chữ để thể hiện sự kính trọng rồi viết tiếp chữ “Phật”. Mạch văn, khuyết tự thể hiện ý kính trọng và chữ “an” khiến chúng tôi ngờ rằng chữ tiếp theo là chữ “tượng” hoặc “xá lợi”.
              Việc tìm thấy viên gạch có minh văn nêu trên không chỉ giúp khẳng định giả thuyết trước đây của chúng tôi cho rằng phủ thành An Nam dưới niên hiệu Nguyên Hòa thời Đô hộ Trương Chu đã nằm tại vị trí 18 Hoàng Diệu, mà còn hé lộ cho chúng ta sự tồn tại của một tòa tháp, nhiều khả năng là tháp xá lợi được xây dựng vào đầu thế kỷ IX ở An Nam. Tháp xá lợi này có liên hệ nào đó đến một ngôi chùa cùng thời có tên là chùa Sùng Thiện.
Ảnh: Thác bản viên gạch phát hiện được tại Di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long
              Đến nửa cuối thế kỷ IX, theo ghi chép của sách An Nam chí, tương truyền An Nam Đô hộ Cao Biền đã cho xây dựng tháp trên núi Đông Cứu (tức núi Thiên Thai, Gia Lương, Bắc Ninh)[39]. Theo Trần Cương Trung thi tập, khi sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu sang Việt Nam vào năm 1293 vẫn còn thấy tháp đá do Cao Biền xây dựng nằm bên trái “Phú Lương giang Thượng Kiều thị”[40], mà hiện nay chúng ta không rõ ở đâu.
              Kết luận
              Sự kiện phát hiện văn bia Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp năm 601 tại Bắc Ninh có ý nghĩa vô cùng quí giá. Qua nghiên cứu so sánh với các văn bia Nhân Thọ xá lợi tháp đã phát hiện được tại Trung Quốc, chúng tôi cho rằng với điều kiện tư liệu hiện tại, có thể cho rằng đây chính là văn bia được chế tác năm 601 cùng với sự kiện Tùy Văn Đế cho xây dựng bảo tháp xá lợi năm Nhân Thọ 1 (601) tại Giao châu.
              Với niên đại 601, văn bia Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp tìm thấy tại Bắc Ninh đã thay thế văn bia Đại Tùy Cửu Chân Bảo An đạo tràng chi bi văn (bia Trường Xuân) có niên đại năm 618 ở Thanh Hóa, trở thành văn bia có niên đại cổ nhất Việt Nam.
              Đây là nguồn tư liệu kim thạch văn quí giá, bên cạnh bia Trường Xuân và tấm bia được cho là tìm thấy tại khu vực Vạn Xoan trước đây[41], giúp nghiên cứu về tình hình chính trị, quan hệ ngoại giao, lịch sử Phật giáo tại Việt Nam giai đoạn thời Tiền Lý. Trên cơ sở khảo sát minh văn Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp, kết hợp với một nguồn tư liệu từ trước đến nay chưa được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến là mộ chí của Tô Hiếu Từ, chúng tôi đã chi ra được một số vấn đề quan trọng về lịch sử chính trị giai đoạn này. Thứ nhất, không phải đợi đến năm 602 mà ngay từ thời điểm tháng 6 năm 601, nhà Tùy đã ý thức về sự tồn tại của chính quyền độc lập của Lý Phật Tử và có ý đồ xâm lược Giao châu. Trong bối cảnh đó, việc vua Tùy xuống chiếu cử sứ giả hộ tống xá lợi đến Giao châu xây tháp vào ngày 10 tháng 6 năm 601 không đơn thuần là một hoạt động tôn giáo, mà còn ẩn chứa một ý đồ chính trị sâu xa là nhằm kiểm tra sự thần phục của Lý Phật Tử đối với nhà Tùy. Cũng cần đánh giá việc Lý Phật Tử tổ chức đón tiếp đoàn sứ giả của vua Tùy vào năm 601 như một bước đi về mặt chính trị – ngoại giao nhằm kéo dài thời gian để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Tùy diễn ra sau đó.
              Ngoài ra, minh văn cũng giúp chúng ta có được nhận thức hoàn chỉnh hơn về hoạt động xây dựng tháp xá lợi và các tín ngưỡng liên quan trong giai đoạn thuộc Tùy – Đường.
              Văn bia Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp cũng là một tài liệu quan trọng bổ sung cho nghiên cứu lịch sử giao thông thời Bắc thuộc. Chiếu thư Tùy Văn Đế phát ra vào ngày 13 tháng 6, ước hẹn các địa phương cùng hạ thổ xá lợi vào ngày 15 tháng 10. Như vậy, nhà Tùy đã phải cân nhắc quãng thời gian cần thiết để sứ giả hộ tống xá lợi di chuyển từ kinh đô Đại Hưng (Trường An) đến các địa phương, xa nhất là Giao châu. Nói cách khác, quãng thời gian 124 ngày (từ 13 tháng 6 đến ngày 15 tháng 10) là quãng thời gian tối đa để di chuyển từ Trường An đến Giao châu. Trước đây, qua nghiên cứu về trường hợp của khởi nghĩa Dương Thanh, chúng tôi đã tính toán di chuyển từ Trường An đến An Nam Đô hộ phủ mất khoảng 59-70 ngày nếu di chuyển bằng đường biển và dịch trạm, khoảng 124 ngày nếu di chuyển với tốc độ thông thường (Phạm Lê Huy, 2012).
              Trên phương diện địa lý học lịch sử, văn bia Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp là một tư liệu có giá trị tham khảo cao trong việc xác định vị trí chính xác của các tòa thành Luy Lâu và Long Biên thời Bắc thuộc. Văn bia được tìm thấy ở thôn Xuân Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, chỉ cách di tích thành cổ Lũng Khê – “Luy Lâu” khoảng 2km về phía Tây. Đây là một cứ liệu quan trọng góp phần nghiên cứu xác định vị trí huyện Long Biên thời Nam triều và Tùy cũng như quan hệ giữa thành Long Biên và thành Luy Lâu mà giới khoa học Việt Nam đã thảo luận lâu nay[42].
              Đây là bia có nắp đầu tiên tìm thấy ở VN, thuộc loại hình bia tháp xá lợi, được chôn dưới chân tháp. Từ trước đến nay, giới khoa học Việt Nam đã tìm thấy nhiều bia có nắp trong các đình, chùa, đền từ thời Lê về sau, thường gắn vào tường. Trong bối cảnh đó, bia Giao châu Nhân Thọ xá lợi tháp cung cấp thêm tư liệu để nghiên cứu về quá trình ra đời và phát triển của loại hình bia có nắp ở Việt Nam.
              Không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, tấm bia này cũng là nguồn tư liệu quí giá giúp nâng cao hiểu biết của giới học giả Trung Quốc và Nhật Bản về hoạt động xây dựng Nhân Thọ xá lợi tháp nói riêng cũng như chính sách Phật giáo của nhà Tùy nói chung. Cụ thể, nó giúp xác nhận lại địa điểm xây dựng tháp xá lợi tại Giao châu (chùa Thiền Chúng), cách thức triển khai (triều đình trung ương gửi mẫu văn bản, chính quyền địa phương tự khắc bia), cũng như cung cấp một số thông tin mới về sứ giả hộ tống (trong trường hợp Giao châu là Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ kị úy Khương Huy).
Tài liệu tham khảo
Kosugi Kazuo, Về việc an trí xá lợi Phật tại các tháp Phật thời Lục triều, Hiệp hội Học thuật Đông phương, 1934
Đào Duy Anh, Cái bia cổ ở Trường Xuân với vấn đề nhà Tiền Lý, Tạp chí NCLS, 50(5), 1963
Trần Quốc Vượng – Vũ Tuân Sán, Bàn thêm về thành Thăng Long thời Lý – Trần, Tạp chí NCLS, 4, 1966.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Lá Bối, 1974 (NXB Văn học in lại năm 2000)
Trần Anh Dũng – Nguyễn Mạnh Cường, Tháp Nhạn ở Nghệ Tĩnh qua hai lần khai quật, Tạp chí Khảo cổ học, 3, 1987
Hà Văn Tấn, Chùa Việt Nam, NXB KHXH, 1993 (NXB Thế giới in lại năm 2010)
Lưu Á Vận, Phát hiện khảo cổ tháp xá lợi chùa Tiên Du, Trung Quốc văn vật báo, số ngày 22 tháng 11 năm 1998.
劉呆運「仙游寺舍利塔的考古発見」(『中国文物報』1998年11月22日)
Lý Á Tân, Bí ẩn tháp Pháp Vương, Tạp chí Kiều, 1, 1999
李亜新「法王塔之謎(下)」(『橋』1999年第一期)
Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh (in lại bản của Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn 1976), 19999
Kegasawa Yasunori, Việc cắt giảm học hiệu và Cúng dường xá lợi năm Nhân Thọ nguyên niên (601) thời Tùy, Tạp chí Sử họcTra Surudai, 111 (2), 2001
氣賀澤保規「隋仁寿元年(601)の学校削減と舎利供養」(『駿台史学 』111(2)、2001年
Lê Thị Liên, Buddhism in Vietnam during the 1st millennium A.D. from archaeological evidence,  Transactions of the International Conference of Eastern Studies, No.48 (2003)
Nakamura Nobuo, Khảo sát về minh văn Nhân Thọ xá lợi tháp – Xung quanh minh văn Đại Tùy hoàng đế Tử châu xá lợi tháp, Tập san Nghiên cứu Mỹ thuật, 25, 2004
中村伸夫「仁寿舎利塔銘に関する一考察–羅振玉旧蔵<大随皇帝梓州舎利塔銘>をめぐって」(『芸術研究報』37、2004年
Dương Hoằng, Địa cung tháp xá lợi và đồ đựng xá lợi Trung Quốc thời Bắc Triều – Tùy – Đường, Tạp chí Lịch sử và Văn hóa (Đại học Tohoku Gakuin), 40, 2006
楊泓「中国北朝・隋・唐時代の舎利塔地宮と舎利容器」『(東北学院大学論集)歴史と文化』第40号、2006年
Phạm Lê Huy, Về một số thủ lĩnh An Nam thời thuộc Đường, Tạp chí NCLS, 401(9)-402(10), 2009
Nishimura Masanari, Khảo cổ – Cổ đại học Việt Nam, NXB Doseisha, 2011
西村昌也『ベトナムの考古・古代学』(同成社、2011年)
Phạm Lê Huy, Diện mạo và vị trí địa lý An Nam Đô hộ phủ thời thuộc Đường, Tạp chí NCLS, 429(1) – 430(2), 2012
Phạm Lê Huy, Nghiên cứu giao thông thời Đường qua trường hợp An Nam Đô hòmhủ, Kỷ yếu Hội thảo Giao hưởng Cổ đại II, Đại học Meiji, 2012
Hida Romi, Oshima Sachio, Ono Eiji, Tùy Nhân Thọ xá lợi tháp nghiên cứu dự thuyết (Chú thích và nghiên cứu tác phẩm Tập thần châu Tam bảo Cảm thông lục với tư cách là một nguồn sử liệu mỹ thuật – 5): Xá lợi Cảm ứng lục, Nhân Thọ xá lợi tháp thiên (phần đầu)), Nghiên cứu Mỹ thuật Nara, 12, 2012
肥田路美、大島幸代、小野英二「美術史料として読む『集神州三宝感通録』 : 釈読と研究(5)舎利感通篇、仁寿舎利塔篇(前半)(美術史料として読む『集神州三宝感通録』 : 釈読と研究(5)舎利感通篇、仁寿舎利塔篇(前半))(『奈良美術研究』12、2012年
Nguyễn Quang Hà, Về tấm bia thời Tùy (601) mới phát hiện, Hội nghị Thông báo Khảo cổ học, 2012
Lê Viết Nga, Về hai cổ vật niên đại thời Tùy tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, Hội nghị Thông báo Khảo cổ học, 2012
Nguyễn Đạt Thức, Về niên đại của Bia tháp Xá Lị, chùa Thiền Chúng, huyện Long Biên, Giao Châu, Hội nghị Thông báo Khảo cổ học, 2012
Phạm Lê Huy, Khảo cứu lại khởi nghĩa Dương Thanh (819-820), Tạp chí NCLS (sắp đăng)
Phụ chú: Xung quanh việc tìm kiếm các tư liệu về Nhân Thọ xá lợi tháp và các kết quả điều tra khảo cổ học tại Trung Quốc, chúng tôi đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn của TS. Kawakami Mayuko (cán bộ nghiên cứu Đại học Kyoto), ThS. Nguyễn Văn Tuấn (Viện Hán Nôm). Ngoài ra, chúng tôi cũng nhận được sự hỗ trợ rất lớn của các cán bộ Viện Khảo cổ học, Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, Bảo tàng Nghệ An trong quá trình điều tra các hiện vật liên quan. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các đồng nghiệp nêu trên.

 


[1] 「皇帝昔在潛龍、有婆羅門沙門來詣宅、出舍利一裏曰、檀越好心、故留與供養、沙門既去、求之不知所在、其後皇帝與沙門曇遷、各置舍利於掌而數之、或少或多、並不能定、曇遷曰、曾聞婆羅門說法身過於數量非世間所測、於是始作七寶箱、以置之」(『廣弘明集』卷第十七)。
[2]「雍州於仙遊寺起塔、天時陰雪、舍利將下日便朗照、始入函、雲復合」(『集神州三寶感通錄』卷上)。
[3] Nguyên văn: “tứ bộ chúng” 四部衆, chỉ các đệ tử của nhà Phật là tỳ khâu, tỳ khâu ni, cư sĩ nam (ưu bà tắc), cư sĩ nữ (ưu bà di).
[4]「皇帝於是親以七寶箱、奉三十舍利、自内而出置於御座之案、與諸沙門燒香禮拜、願弟子常以正法護持三寶、救度一切眾生、乃取金瓶琉璃各三十、以琉璃盛金瓶、置舍利於其内、薰陸香為泥、塗其蓋而印之、三十州同刻十月十五日正午入於銅函石函、一時起塔、諸沙門各以精勤、奉舍利而行、初入州境先令家家灑掃覆諸穢惡。道俗士女傾城遠迎、總管刺史諸官人、夾路步引、四部大眾容儀齊肅、共以寶蓋旛幢華臺像輦佛帳佛輿香山香缽種種音樂、盡來供養、各執香華或燒或散。圍繞讚唄梵音和雅、(中略)沙門對四部大眾作是唱言、至尊以菩薩大慈無邊無際哀愍眾生切於骨髓、是故分布舍利共天下同作善因、又引經文種種方便。訶責之教導之、(中略)大眾一心合掌右膝著地、沙門乃宣讀懺悔文曰、(中略)舍利將入函、大眾圍遶填噎、沙門高奉寶瓶巡示四部」(『廣弘明集』卷第十七)。
[5] Bắc đồ: Bắc Kinh đồ thư quán lịch đại thạch khắc thác bản vựng biên 北京図書館歴代石刻拓本彙编。
[6] Chữ “Duy” được sử dụng khá phổ biến như lời mở đầu trong Hán văn. Cách viết “duy” + niên hiệu có thể thấy trên rất nhiều minh văn thời Tùy – Đường, ở Việt Nam tiêu biểu là chuông Thanh Mai đúc năm 798. Một số bài viết dịch chữ “duy” là “trước (năm Nhân Thọ nguyên niên…)” là không chính xác.
[7] Chữ Tân được viết dưới dạng dị thể .
[8] Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu: một số bài viết nhầm Tân Hợi là can chi của tháng 10. Thật ra đây là một cách viết rất phổ biến vào thời Tùy Đường, trước khi nêu can chi của một ngày cụ thể, viết can chi của ngày sóc (tức ngày mùng 1). Trong trường hợp này, ngày sóc (ngày mùng 1) của tháng 10 năm Nhân Thọ nguyên niên có can chi là ngày Tân Hợi, ngày 15 (thập ngũ nhật) là ngày Ất Sửu. Điều này có thể kiểm chứng dễ dàng qua bảng tính can chi.
[9] Hoàng đế tức Dương Kiên, Hoàng hậu tức Độc cô thị.
[10] Chữ “nguyện” được viết dưới dạng dị thể hoặc .
[11] Thái Tổ Võ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng hậu chỉ bố mẹ của Tùy Văn Đế là Dương Trung và Lữ thị. Theo Tùy thư (Q.1, Cao Tổ kỷ thượng), tháng 2 năm 581 (Khai Hoàng 1), Tùy Văn Đế truy tôn cha (hoàng khảo) là Võ Nguyên Hoàng đế, đặt miếu hiệu là Thái Tổ, mẹ là Nguyên Minh Hoàng hậu. 「(開皇元年二月)乙丑、追尊皇考為武元皇帝、廟號太祖、皇妣為元明皇后」(『隋書』卷一、高祖上、開皇元年二月乙丑条)。
[12] Hoàng thái tử vào thời điểm này là Dương Quảng (sau là Tùy Dạng Đế). Trước đó, vào tháng 10 năm 600 (Khai Hoàng 20), Tùy Văn Đế phế Hoàng thái tử Dương Dũng và các con làm thứ dân, sang tháng 11 lấy Tấn vương Dương Quảng làm Hoàng Thái tử. 「乙丑,皇太子勇及諸子並廢為庶人」、「晉王廣為皇太子」(『隋書』 卷二、 高祖下、 開皇二十年十月乙丑条、十一月戊子)。
[13] Viên cập (爰及): chữ này cũng xuất hiện trong sắc chỉ của Tùy Văn Đế.
[14] Chữ “thứ” được viết dưới dạng dị thể .
[15] Lục đạo là “Thiên đạo”, “Nhân đạo”, “A tu la đạo”, “Súc sinh đạo”, “Ngạ quỉ (quỉ đói) đạo”, “Địa ngục đạo”. Ba đạo đầu là “tam thiện đạo”, ba đạo sau là “tam ác đạo”, cũng gọi là “tam đồ” (súc sinh, ngạ quỉ, địa ngục).
[16] Một số báo cáo trình bày trong Hội nghị Thông báo Khảo cổ học đọc nhầm là “Vi” 微. Tuy nhiên, qua quan sát trên văn bia và thác bản, có thể nhận thấy đây là chữ Huy 徽.
[17] Chữ “khởi” được viết dưới dạng dị thể .
[18]「交阯郡 龍編 武寧 望海 句漏(後略)」(『南齊書』卷十四、志六、州郡上、交州)。「封慧度龍編縣侯食邑千户」(『宋書』卷九十二、列傳五十二、杜慧度)。Ngoài ra, địa danh Long Biên cũng xuất hiện nhiều lần trong sách Tấn thư và Tùy thư (đặc biệt là sự kiện Lý Phật Tử sai Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên để chống quân Tùy). Tuy nhiên, do cả hai bộ chính sử này đều được tổ chức biên soạn dưới thời Đường nên ở đây chúng tôi không sử dụng chúng làm căn cứ để chứng minh cho sự tồn tại của địa danh “Long Biên” trước thời Đường.
[19] Tại Quảng Tây (Trung Quốc) trước đây đã phát hiện được một viên gạch có chữ “Vĩnh Hòa lục niên thái tuế Canh Tuất Mạc Long Biên hầu chi mộ” 永和六年太歲庚戌莫龍编侯之墓. Quan điểm phố biến hiện nay coi chức “Long Biên hầu” này chỉ địa danh “Long Biên” của Giao Chỉ thời Đông Tấn. Xin tham khảo thêm Hán Ngụy Nam Bắc triều mộ chí vựng biên, NXB Thiên Tân, 1993, tr.19.
[20] Với hai chữ “sắc sứ” 敕使 trong minh văn Giao châu, có thể có hai cách đọc. Thứ nhất là đọc “sắc sứ” như một danh từ (chỉ sứ giả cầm theo sắc chỉ của nhà vua, giống minh văn Thanh châu) hoặc đọc tách “sắc, sử”, chữ “sứ/sử” ở đây đóng vai trò như một động từ nghĩa là “sai”, ghép với đoạn phía sau “tống xá lợi ư thử khởi tháp”, nghĩa là “sắc sai Tuệ Nhã, Khương Huy đưa xá lợi đến đây dựng tháp”. Chúng tôi nghiêng về cách đọc thứ hai.
[21] 「其散官文騎尉為承議郎、屯騎尉為通直郎、雲騎尉為登仕郎、羽騎尉為將仕郎」(『舊唐書』卷四十二、職官一)。
[22] Xung quanh vấn đề này, một số nhà nghiên cứu cũng đặt vấn đề nghiên cứu từ góc độ chữ húy. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, trên văn bia không tồn tại chữ húy. Hơn nữa, nếu văn bia được chế tác theo các mẫu văn bia trước đó thì việc rập khuôn chữ húy có thể xảy ra, do đó chữ húy không phải là yếu tố quyết định để khẳng định niên đại của văn bia.
[23] Lê Mạnh Thát (1999), chú thích 4 truyện Thiền sư Pháp Hiền, tr.502.
[24] Theo Tùy thư, cuộc khởi nghĩa của Lý Phật Tử nổ ra vào tháng 12 năm 602 (Nhân Thọ 2). 「交州人李佛子舉兵反,遣行軍總管劉方討平之」(『隋書』卷二、高祖下、仁壽二年十二月癸巳条)。
[25] Về vấn đề này, xin tham khảo thêm Đào Duy Anh (1963).
[26] 「熙以州縣多有同名者、於是奏改安州為欽州、黃州為峯州、利州為智州、德州為驩州、東寧為融州、上皆從之」(『隋書』卷五十六、令狐熙傳)。
[27] 「仁壽元年遷授使持節總管吉江虔饒袁撫七州諸軍事洪州刺史(中略)時桂部侵擾[交]川擁據、詔授公交州道行軍總管、方弘九伐、遽縶千里、遘疾薨于州治」(蘇孝慈墓誌)。Thác bản có thể tham khảo trong sách Bắc đồ (q.9. tr.159).
[28] 「六月癸丑、洪州總管蘇孝慈卒」(『隋書』卷二、高祖下、仁壽元年六月癸丑条)。
[29] Lịch đại tam bảo ký 歷代三寶紀: sách do Phiên kinh học sĩ thời Tùy là Phí Trường Phòng 費長房 dâng lên năm Khai Hoàng 17 đời Tùy.
[30]「龍編古州郷法雲寺比尼多流支(中略)陳朝大建六年壬午初至長安會周武帝破滅佛法、欲往于鄴、(中略)師辭去卓錫廣州制止寺、大抵六年、譯得象頭報業差別等経、迨周大祥象二年庚子三月、來于我土此寺居焉復譯出摠持経一卷」(『禅苑集英』比尼多流支)。
[31] Nguyễn Lang (2000), Chương V: Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tr. 112.
[32] Thiền uyển tập anh bản 1715 chép ngôi chùa của Pháp Hiền là chùa “Chúng Thiền”, nhưng chúng tôi cũng tán thành quan điểm của Nguyễn Quang Hà (2012) cho rằng đây chỉ là chép nhầm từ chùa “Thiền Chúng”.
[33]「時人嚮風來、學者不可勝數、剏寺授徒居僧常三百餘人、南方禅宗於此為盛」(『禅苑集英』法賢)。
[34] 「法賢闍維収五色舎利起塔時開皇十四年甲寅也」(『『禅苑集英』比尼多流支)。
[35] 「古州法雲寺僧上言寺中放光數道隨光掘之得石函一函内有銀函銀函内有金函金函内有瑠璃瓶瓶中有舍利」(『越史略』卷中、天成七年四月甲戌条)。
[36] Các thông tin liên quan đến Nhạn Tháp được chúng tôi khai thác từ tư liệu khảo cổ lưu trữ tại Thư viện Viện Khảo cổ. Xung quanh các hiện vật khai quật được tại Nhạn Tháp, xin tham khảo thêm Trần Anh Dũng (1987), Lê Thị Liên (2003). Hòm xá lợi của Nhạn Tháp hiện nay đang được lưu giữ trong kho của Bảo tàng Nghệ An với số liệu BTNA 2734/KL785. Chúng tôi đã khảo sát và chụp ảnh hòm xá lợi và các hiện vật của Nhạn Tháp trong chuyến điều tra ngày 4 tháng 9 năm 2012. Do bản quyền tư liệu thuộc về Bảo tàng Nghệ An, chúng tôi không đăng hình ảnh trong bài viết này.
[37]「舎利有其三種、一是骨舎利、其色白也、二是髪舎利、其色黒也、三是肉舎利、其色赤也」(『法苑珠林』卷四十)。
[38] Về An Nam dưới thời Trương Chu, xin tham khảo Phạm Lê Huy (2009, 2012).
[39] 「東究山、一名東皐山、在嘉定縣、唐刺史高聯建塔于其上」(『安南志』卷一、山川)。
[40] 「髙駢既定交州、遂於富良江上橋市之左、立石塔巋然猶存」(『陳剛中詩集』卷二)。
[41] Tấm bia có niên đại thời Lương này đã được học giả Vũ Tuân Sán (1966) đề cập trong bài viết nghiên cứu về hoàng thành Thăng Long, nhưng do bia đã thất lạc nên thông tin chưa được kiểm chứng.

[42] Về cuộc thảo luận xung quanh di chỉ Lũng Khê và các thành cổ Luy Lâu – Long Biên, xin tham khảo Nishimura (2011).

Ghi chú: Bài viết được đăng trên Tạp chí Khảo cổ học, số 1, 2013 (『考古学』雑誌〈越南〉、第1号、2013年). Do một số vấn đề về kỹ thuật, bài viết đăng trên Tạp chí là phiên bản cũ của bài viết, có chứa một số lỗi nhập liệu và thiếu phần mộ chí của Tô Hiếu Từ. Vì vậy, tác giả đăng tải bài viết chính xác ở đây để đính chính và bổ sung những phần còn thiếu sót.

Góp phần nhận thức minh văn thời Lưu Tống phát hiện tại nghè thôn Thanh Hoài (Thuận Thành, Bắc Ninh)

Tư liệu từ nguồn của Pham Lê Huy:
Tham luận Hội nghị Thông báo Hán Nôm 2014
 
Phạm Lê Huy
Khoa Đông phương học, Trường ĐHKHXH&NV
Mở đầu
          Tháng 10 năm 2013, ThS. Nguyễn Phạm Bằng và các cán bộ của Bảo tàng Bắc Ninh đã phát hiện một tấm bia cổ tại Nghè thôn Thanh Hoài (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Tấm bia bao gồm 2 bài minh khác nhau. Bài minh ở mặt trước, theo khảo sát của ThS. Bằng có niên đại năm Kiến Hưng thứ 2, nhiều khả năng là năm 314. Tuy nhiên, nhiều chữ trong bài minh mặt trước này đã bị mờ nên không có nhiều thông tin. Bài minh ở mặt sau có ghi niên đại năm Nguyên Gia thứ 27 (450) thời Lưu Tống (Tống Nam Triều).
          Liên quan đến tấm bia này, ThS. Nguyễn Phạm Bằng và một số học giả khác đã có những khảo cứu hết sức quan trọng về niên đại và nội dung[1]. Trong bài viết này, trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu đó, chúng tôi xin được bổ sung một số ý kiến góp phần nhận thức sâu hơn về minh văn ở mặt sau tấm bia.
1. Nhận thức về cách ghi niên đại trong minh văn
          Trong phần minh văn ở mặt sau bia, chúng ta có thể đọc được hai niên đại. Niên đại thứ nhất là “Nguyên Gia chấp thất niên thập nguyệt thập nhất nhật” 元嘉廿七年十月十一日. Niên đại thứ hai là “Tống Nguyên Gia chấp thất niên, thái tuế Canh Dần thập nhị nguyệt Bính Thìn sóc chấp ngũ nhật Canh Thìn” 宋元嘉廿七年太歲庚寅十二月丙辰溯廿五日庚辰.
a. Về niên đại ngày 25 tháng 12 năm Nguyên Gia thứ 27
          Xung quanh niên đại thứ hai, một số học giả đề xuất cách dịch như sau:
Nguyên Gia năm thứ 27, sao Thái Tuế đóng tại Canh Dần, trước ngày 25 (ngày Canh Thìn) tháng 12 (tháng Bính Thìn)
          Trong cách dịch này, chữ “sóc” được dịch là “trước”, can chi “Bính Thìn” được ghép với tháng 12.
          Tuy nhiên, chữ “sóc” trong trường hợp này phải hiểu là ngày mùng một. Can chi “Bính Thìn” cần được ghép với chữ “sóc”. “Bính Thìn sóc” tức là “ngày mùng một của tháng 12 là ngày Bính Thìn”.
          Đây là cách ghi ngày tháng khá phổ biến trong các tư liệu Trung Quốc, đặc biệt là tư liệu chính sử. Cách ghi này thường có cấu trúc “X niên, Y nguyệt, [Can chi A] sóc, [Can chi B] nhật”. Việc ghi thêm can chi của ngày sóc (Can chi A) nhằm giúp người đọc có thể tính toán ngày Can chi B là ngày thứ bao nhiêu trong tháng.
          Có thể kiểm chứng cách đọc trên qua Bảng tính can chi (Bảng 1) và lịch thời bấy giờ. Theo Bảng 1, chúng ta thấy ngày Bính Thìn ở ô số 53. Nếu lấy đó là ngày mùng 1 thì 24 ngày sau, tức ngày 25 đúng là ngày Canh Thìn (ô số 17) – hoàn toàn trùng hợp với ghi chép trong văn bia. Ngoài ra, theo cơ sở dữ liệu lịch của Học viện Phật giáo Pháp Cổ (Đài Loan)[2], trong lịch Nguyên Gia thời Lưu Tống, ngày mùng 1 tháng 12 năm Nguyên Gia thứ 27 đúng là ngày Bính Thìn.
          Như vậy, đoạn ghi chép ngày tháng này cần được dịch chính xác thành:
Năm Nguyên Gia thứ 27, thái tuế Canh Dần, tháng 12 có ngày sóc Bính Thìn, ngày 25 tức ngày Canh Thìn, …
Bảng 1: Bảng tính Can Chi
1 (Giáp Tý)
甲子
2 (Ất Sửu)
乙丑
3 (Bính Dần)
丙寅
4 (Đinh Mão)
丁卯
5 (Mậu Thìn)
戊辰
6 (Kỷ Tị)
己巳
7 (Canh Ngọ)
庚午
8 (Tân Mùi)
辛未
9 (Nhâm Thân)
壬申
10 (Quí Dậu)
癸酉
11 (Giáp Tuất)
甲戌
12 (Ất Hợi)
乙亥
13 (Bính Tý)
丙子
14 (Đinh Sửu)
丁丑
15 (Mậu Dần)
戊寅
16 (Kỷ Mão)
己卯
17 (Canh Thìn)
庚辰
18 (Tân Tị)
辛巳
19 (Nhâm Ngọ)
壬午
20 (Quí Mùi)
癸未
21 (Giáp Thân)
甲申
22 (Ất Dậu)
乙酉
23 (Bính Tuất)
丙戌
24 (Đinh Hợi)
丁亥
25 (Mậu Tý)
戊子
26 (Kỷ Sửu)
己丑
27 (Canh Dần)
庚寅
28 (Tân Mão)
辛卯
29 (Nhâm Thìn)
壬辰
30 (Quí Tị)
癸巳
31 (Giáp Ngọ)
甲午
32 (Ất Mùi)
乙未
33 (Bính Thân)
丙申
34 (Đinh Dậu)
丁酉
35 (Mậu Tuất)
戊戌
36 (Kỷ Hợi)
己亥
37 (Canh Tý)
庚子
38 (Tân Sửu)
辛丑
39 (Nhâm Dần)
壬寅
40 (Quí Mão)
癸卯
41 (Giáp Thìn)
甲辰
42 (Ất Tị)
乙巳
43 (Bính Ngọ)
丙午
44 (Đinh Mùi)
丁未
45 (Mậu Thân)
戊申
46 (Kỷ Dậu)
己酉
47 (Canh Tuất)
庚戌
48 (Tân Hợi)
辛亥
49 (Nhâm Tý)
壬子
50 (Quí Sửu)
癸丑
51 (Giáp Dần)
甲寅
52 (Ất Mão)
乙卯
53 (Bính Thìn)
丙辰
54 (Đinh Tị)
丁巳
55 (Mậu Ngọ)
戊午
56 (Kỷ Mùi)
己未
57 (Canh Thân)
庚申
58 (Tân Dậu)
辛酉
59 (Nhâm Tuất)
壬戌
60 (Kỷ Hợi)
癸亥
 b. Về niên đại ngày 11 tháng 10 năm Nguyên Gia 27
          Liên quan đến dòng niên đại thứ nhất, một số học giả đưa ra cách dịch như sau:
元嘉廿七年十月十一日省事王法齡宣
Vào ngày 11 tháng 10 niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 27), sau khi xem xét sự tình, dựa theo điển lệ thờ cúng của quốc gia (?)
          Tuy nhiên, đoạn “tỉnh sự vương pháp linh tuyên” dịch là “sau khi xem xét sự tình, dựa theo điển lệ thờ cúng của quốc gia” dường như có phần hơi khiên cưỡng. Bản thân các tác giả cũng đặt dấu chấm hỏi cho đoạn này.
          Quan sát văn bia, chúng ta thấy rằng: đoạn văn trên không được viết nối với dòng trước mà được viết thành một dòng riêng, căn vào lề dưới của bia. Điều này đặt ra nghi vấn, phải chăng đây là một dòng niên đại chú thích cho đoạn văn phía trước?
          Đoạn văn phía trước là phần đầu của minh văn, mở đầu bằng chữ “giáo”. Chữ “giáo” này chắc chắn là chữ mở đầu của bài minh, phân lập với nội dung “cố Tướng quân Giao Châu mục liệt hầu Đào Hoàng” sau đó.
          Chúng tôi muốn lưu ý rằng từ thời Hán đến thời Tấn, “giáo” là một hình thức mệnh lệnh, tương tự như “sắc” 敕 hay “phù” 符, của tầng lớp vương hầu. Sách Văn tâm điêu long được biên soạn vào cuối thế kỷ V cho biết “giáo tức là hiệu. Nói ra mà dân theo. Ban bố ngũ giáo. Vì vậy, vương hầu xưng giáo”[3]. Sách Tư trị thông giám (Q.53) phần Hán kỷ cũng chú thích “mệnh lệnh của quận thú đưa ra gọi là giáo”[4]. Trong các sách Tấn thư hay Bắc sử cũng ghi lại rất nhiều trường hợp Thứ sử các châu ban bố mệnh lệnh, gọi là “hạ giáo (viết)” 下教曰.
          Như vậy, có thể suy đoán phần đầu bài minh có kết cấu như bên dưới, trong đó chữ “giáo” mở đầu cho mệnh lệnh, chữ “tuyên” là tuyên đọc văn bản mệnh lệnh đó:
教 ………………………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
                                                                     元嘉廿七年十月十一日省事王法齡宣
            “Tỉnh sự” (trong trường hợp này cần đọc là “Sảnh sự”) vốn là tên một chức quan thuộc cấp của Thứ sử. Tấn thư cho biết vào thời Tấn, dưới Thứ sử có đặt các chức “Công tào”, Sảnh sự”[5]. Nếu hiểu “Sảnh sự” là một chức quan, cần xem “Vương Pháp Linh” là một tên riêng.
          Trên cơ sở những suy luận nói trên, chúng tôi đề xuất cách dịch đoạn văn bản này như sau:
Lệnh (giáo) rằng ….
(trích dẫn nội dung mệnh lệnh – giáo)
Ngày 11 tháng 10 năm Nguyên Gia thứ 27, Sảnh sự là Vương Pháp Linh tuyên đọc.
          Vấn đề tiếp theo là Sảnh sự Vương Pháp Linh tuyên đọc mệnh lệnh của ai? Nói cách khác, ai là người ban “giáo” (mệnh lệnh)? Điều này sẽ được giải đáp khi chúng ta tìm hiểu nửa sau của bài minh.
2. Lan Lăng Tiêu sứ quân – Tiêu Cảnh Hiến và Tây tào thư tá Đào Chân Chi
a. Kiến Uy Tướng quân, Lan Lăng Tiêu sứ quân là ai?
          Các nghiên cứu trước đây chưa chú thích “Kiến Uy Tướng quân, Lan Lăng Tiêu sứ quân” là ai. Chúng tôi cho rằng nhân vật này chính là Tiêu Cảnh Hiến 蕭景憲 – người giữ chức Thứ sử Giao Châu vào thời điểm năm Nguyên Gia thứ 27.
          Trong các sách Đại Việt sử lượcĐại Việt sử ký toàn thư hay An Nam chí lược không thấy nhắc đến Giao Châu Thứ sử Tiêu Cảnh Hiến. Tuy nhiên, Tống thư (truyện Lâm Ấp quốc, truyện Tông Xác) cho biết năm Nguyên Gia thứ 22 (443), khi Thứ sử Giao Châu Đàn Hòa Chi đánh Lâm Ấp, Tiêu Cảnh Hiến khi đó là “Phủ Tư mã” được Đàn Hòa Chi phong làm phó tướng của Tông Xác. Tiêu Cảnh Hiến lãnh ấn tiên phong, tiến đánh thành Khu Túc. Vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại 范陽邁 sai đại soái Phạm Phù Long 范扶龍 giữ thành Khu Túc, ngoài ra còn cử quân tiếp viện theo hai đường thủy bộ đến tiếp ứng. Tiêu Cảnh Hiến đã phá “ngoại cứu” – tức quân cứu viện, tập trung quân tinh nhuệ đánh thành. Đến tháng 5, Tiêu Cảnh Hiến phá được thành, chém được Phạm Phù Long. Nhờ đó, quân Tống phá được Lâm Ấp, khiến vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại phải bỏ trốn, cướp được rất nhiều vàng bạc, châu báu[6].
          Nhờ chiến công này, Tiêu Cảnh Hiến đã được vua Tống ban chiếu phong làm “Trí tiết, đốc Giao Châu, Quảng Châu chi Uất Lâm – Ninh Phố nhị quận chư quân sự, Kiến Uy Tướng quân, Giao Châu Thứ sử”[7]. Theo Tống thư phần Bản kỷ, Tiêu Cảnh Hiến được phong làm Giao Châu Thứ sử vào tháng 12 năm Nguyên Gia thứ 23 (434)[8]. Việc phong chức này cũng nhằm rút Đàn Hòa Chi về nước để dẹp loạn ở Dự Chương. Tiêu Cảnh Hiến làm Giao Châu Thứ sử đến tháng 5 năm Hiếu Kiến 2 (455) thì được thay bằng Hoàn Hành[9]. Tuy nhiên, đến tháng 12 cùng năm, Tiêu Cảnh Hiến được phong lại làm Giao Châu Thứ sử và tiếp tục giữ chức này đến tháng 8 năm Hiếu Kiến 3 (456)[10].
          Như vậy, thời điểm năm Nguyên Gia thứ 27 nằm trong khoảng thời gian Tiêu Cảnh Hiến làm Giao Châu Thứ sử lần thứ nhất (434-455). Tước “Kiến Uy Tướng quân” trên văn bia cũng trùng khớp với tước “Kiến Uy Tướng quân” của Tiêu Cảnh Hiến chép trong Tống thư.
          Chữ “Lan Lăng Tiêu” trong văn bia cũng phù hợp với Tiêu Cảnh Hiến. Lan Lăng Tiêu là tên gọi dòng họ Tiêu ở Lan Lăng (Giang Tô). Dòng họ Tiêu di cư đến đất Lan Lăng vào loạn Vĩnh Gia (đầu thế kỷ IV), sau đó phát triển thành một sĩ tộc có thế lực suốt từ thời Nam Bắc triều đến thời Đường. Vào thời điểm năm Nguyên Gia thứ 22, Tiêu Tư Thoại 蕭思話 – một danh tướng thuộc dòng họ Lan Lăng Tiêu đang rất được trọng dụng trong triều. Năm Nguyên Gia 30, Tiêu Tư Thoại thậm chí đã leo lên chức Thượng thư Tả bộ xạ trong triều. Do đó, việc Tiêu Cảnh Hiến được cất nhắc làm Giao Châu Thứ sử, ngoài chiến công ở Lâm Ấp, có thể một phần cũng nhờ sự nâng đỡ của Tiêu Tư Thoại. Thời điểm Tiêu Tư Thoại chết – năm Hiếu Kiến thứ 2[11], cũng chính là thời điểm Tiêu Cảnh Hiến bị rút chức Giao Châu Thứ sử để thay bằng Hoàn Hoành.
          Trên cơ sở xác định được nhân vật “Lan Lăng Tiêu sứ quân” là Tiêu Cảnh Hiến, chúng ta cũng hiểu sâu hơn về bài minh. Đoạn này có cấu trúc như sau:
惟宋元嘉廿七年太歲庚寅十二月丙辰溯廿五日庚辰建威
將軍蘭陵蕭使君遠存高範崇勵種德明
教如上
          Về mạch văn, mặc dù “minh giáo như thượng” là một câu, nhưng đến chữ “minh” lại được ngắt dòng, chữ “giáo” được chuyển sang đầu dòng sau. Tiêu Cảnh Hiến vào thời điểm này là Giao Châu Thứ sử, có đủ tư cách để đưa ra mệnh lệnh – “giáo”. Việc ngắt dòng trước chữ “giáo” là để thể hiện ý kính trọng đối với Tiêu Cảnh Hiến. “Minh giáo như thượng” do đó phải dịch là “mệnh lệnh như trên”, “như trên” ở đây chính là chỉ mệnh lệnh – giáo mà Sảnh sự Vương Pháp Linh tuyên đọc ở phần đầu của minh văn.
b. Về nhân vật Đào Chân Chi:
          Trong các khảo sát trước đây, một số học giả đọc tên Tây tào thư tá là “Đào Chân”. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nhiều khả năng tên của viên quan này là “Đào Chân Chi”.
          Hiện nay, chưa xác định được một tư liệu nào khác liên quan đến nhân vật “Đào Chân” hay “Đào Chân Chi”. Tuy nhiên, nội dung minh văn cũng cung cấp cho chúng ta một số thông tin hữu ích.
          Thứ nhất, chức vụ của Đào Chân Chi là “Tây tào thư tá”. Vào thời Lưu Tống, “Tây tào thư tá” là một chức quan cấp dưới của Thứ sử, vốn bắt nguồn từ chức quan “Công tào thư tá” vốn có từ thời Hán. Như vậy, có thể suy đoán Đào Chân Chi là Tây tào thư tá – thuộc cấp của Giao Châu Thứ sử Tiêu Cảnh Hiến.
          Một điểm cần đáng lưu ý nữa là Đào Chân Chi cũng có họ Đào như Đào Hoàng. Mối liên hệ giữa Đào Chân Chi và Đào Hoàng cũng được đề cập trong minh văn. Trong bài minh có câu “Chân Chi bản chi mạt diệp”. Trong Thi thư (Đại nhã, Văn Vương) hay Tả thị (Trang) có cụm từ “bản chi bách thế”, trong đó “bản chi” (本枝 hoặc 本支) chỉ một dòng họ (bao gồm cả chi chính và chi phụ)[12]. Như vậy, câu “Chân Chi bản chi mạt diệp” có thể hiểu là “(Đào) Chân Chi là con cháu đời cuối (mạt diệp) của dòng họ (Đào)”. Đây là lý do Đào Chân Chi tham gia vào việc tu sửa miếu Đào Hoàng.
3. Minh văn và Ý nghĩa:
          Dựa trên kết quả nghiên cứu của ThS. Nguyễn Phạm Bằng và các học giả đi trước, kết hợp với việc quan sát văn bia và thác bản, chúng tôi xin được bổ sung, đính chính một số chữ (in đậm) và tái lập nội dung minh văn như sau:
Nguyên văn chữ Hán
1        教故将軍交州牧烈侯陶璜□□□粹稟德淵□□□□□□
2        愛在民每覽其銘記意實嘉焉□□廟堂彫毀示有基陛既□
3        祀所建寧可頓□宜加修繕務存褒□使准先舊式時就營緝
4                        元嘉廿七年十月十一日省事王法齡宣
5        惟宋元嘉廿七年太歲庚寅十二月丙辰溯廿五日庚辰建威
6        將軍蘭陵蕭使君遠存高範崇勵種德明
7        教如上西曹書佐陶珎之監履修復庶神□有憑珎之本枝末
8     葉□戶□搆誠感聿修斯記垂遠矣
          Trên cơ sở kết quả khảo sát ở phần trên, chúng tôi xin được đưa ra bản dịch như sau:
(Giao Châu Thứ sử Tiêu Cảnh Hiến) dạy (giáo) rằng: Cố Tướng quân Giao Châu mục, liệt hầu Đào Hoàng… thuần nhất, nguồn đức… , (để) ơn trong dân. Mỗi lần xem bia, ý thực tốt đẹp… Miếu đường hủy hoại, chỉ thấy nền bậc. Đã dựng cúng tế, thà rằng… Phải cho tu sửa, việc để… Lệnh theo phép cũ, thời nên dựng lại.
            Năm Nguyên Gia thứ 27, tháng 10, ngày 11. Sảnh sự Vương Pháp Linh tuyên đọc.
Ấy là năm Nguyên Gia thứ 27, thái tuế ở Canh Dần, tháng 12 có ngày sóc Bính Thìn, ngày 25 tức ngày Canh Thìn, Kiến Uy Tướng quân, Lan Lăng Tiêu sứ quân (Tiêu Cảnh Hiến) biết đức đã lâu, muốn khuyên mầm đức, dạy rõ như trên. Tây tào thư tá Đào Chân Chi giám sát tu sửa. Các thần chứng giám. Chân Chi là đời cuối trong họ,…, lòng thành tu sửa, bài ký để lại.
          Có thể tóm lược ý nghĩa của văn bia như sau:
          Ngày 10 tháng 11 năm Nguyên Gia thứ 27 (450), quan Sảnh sự của Giao Châu là Vương Pháp Linh tuyên đọc mệnh lệnh (giáo) của Giao Châu Thứ sử Tiêu Cảnh Hiến. Theo đó, Tiêu Cảnh Hiến ca ngợi công lao của cố Tướng quân Giao Châu Thứ sử Đào Hoàng. Mỗi lần đọc bài minh ký (ở mặt trước bia), Tiêu Cảnh Hiến đều lấy làm cảm kích. Tuy nhiên, miếu đường của Đào Hoàng đã bị hư hại, chỉ còn nền bậc. Tiêu Cảnh Hiến lệnh cho dựng lại theo phép cũ, để tuyên dương công trạng của Đào Hoàng.
          Đến ngày 25 (Canh Thìn) tháng 12 năm Nguyên Gia thứ 27, Tây tào thư tá Đào Chân Chi – thuộc cấp của Tiêu Cảnh Hiến trên cơ sở mệnh lệnh của họ Tiêu giám sát việc tu sửa. Trước sự chứng giám của các thần, Tào Chân Chi vốn là người trong họ Đào Hoàng, cho làm bài ký để lưu lại cho đời sau.

[1] Nguyễn Phạm Bằng, Văn bia cổ nhất Việt Nam mới phát hiện và vấn đề niên đại của nó, Thông báo Hán Nôm học 2013. Đồng tác giả,Phát hiện văn bia cổ nhất Việt Nam, Chuyên san KHXH&NV Nghệ An, số 7/2014.
[2] http://authority.ddbc.edu.tw/
[3] 「教者效也、言出而民效也、契敷五教、故王侯稱教」(『文心雕龍』卷四)。
[4] 「郡守所出命曰教」(『資治通鑑』卷五十三、漢紀).
[5]「案漢武初置十三州、刺史各一人(中略)歷漢東京及魏晉、其官不替、屬官有功曹、都官從事、諸曹從事、部郡從事、主簿、錄事、門下書佐、省事 、記室書佐、諸曹書佐守從事、武猛從事等員」(『晉書』卷二十四、職官志)。
[6]「景憲等乃進軍向 區粟城、陽邁遣大帥范扶龍大戍區粟、又遣水步軍徑至、景憲破其外救、盡銳攻城,五月、剋之、斬扶龍大首、獲金銀雜物不可勝計」(『宋書』卷九十七、林邑國)。
[7]「上嘉將帥之功、詔曰、「(前略)龍驤司馬蕭景憲協贊軍首、勤捷顯著、總勒前驅、剋殄巢穴、必能威服荒夷、撫懷民庶、可持節、督交州廣州之鬱林寧浦二郡諸軍事、建威將軍、交州刺史」(『宋書』卷九十七、林邑國)。
[8] 「十二月丁酉、以龍驤司馬蕭景憲為交州刺史」(『宋書』卷五、元嘉二十三年十二月丁酉条)。
[9]「五月戊戌、以湘州刺史劉遵考為尚書右僕射、前軍司馬垣閎為交州刺史」(『宋書』卷六、孝建二年五月戊戌条)。
[10]「十二月癸亥、以前交州刺史蕭景憲為交州刺史」(『宋書』卷六、孝建二年十二月癸亥)。「八月戊戌、以北中郎諮議參軍費淹為交州刺史」(『宋書』卷六、孝建三年、八月戊戌条)。
[11] 「戊戌,鎮西將軍蕭思話卒」(『宋書』卷六、孝建二年七月条).
[12] Tham khảo Đại Hán Hòa từ điển, Q.6, tr.29.

Họ Phạm ở miền núi Ấn sông Trà

Lịch sử cổ đại và trung đại Việt Nam có những vấn đề mà nếu chỉ dựa vào hệ thống thư tịch chính thống thì không thể làm rõ được. Thế nhưng những vấn đề này lại được ghi được kể rất đầy đủ trong dòng sử dân gian truyền từ đời này qua đời khác. Trường hợp lịch sử nước Lâm Ấp là một điển hình.
Tìm hiểu về nước Lâm Ấp hãy xem Gia phả Phạm Công tộc tại Mộ Đức – Quảng Ngãi. Thông tin được chép trong tộc phả họ Phạm chỉ bao gồm 3 khổ chữ ngắn ngủi nhưng đã cung cấp những dữ liệu cực kỳ quan trọng, là chìa khóa mở cánh cửa tìm lại lịch sử cả ngàn năm của quốc gia Lâm Ấp – Nam Chiếu. Xin dẫn nguyên văn phần lịch sử họ Phạm Đằng Trong trong bản gia phả này:
Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân – Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) – tức là Nam Trung bộ ngày nay.
Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 TCN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 T CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa (xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay). Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải, châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An, diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766).
Thấy xứ Lâm ấp phải lo chống đối với nhà Đường ở phía Bắc, nên thừa cơ hội này, người Chà Và (Java, Inđônêxia ngày nay) gồm các bộ tộc Dừa và bộ tộc Cau kéo sang xâm chiếm xứ Lâm Ấp và lập nên Vương quốc Chiêm Thành vào năm 705. Phạm Chính, con của Phạm Trung, cháu nội của Phạm Chí, khi thất bại trở về, đành phải chịu nhận vùng đất quanh thành Châu Sa làm xứ tự trị của dòng họ Phạm. Hiện nay, tại núi An Điềm, xã Bình Chương, huyện Bình Sơn , còn có đền thờ vị Triệu tổ họ Phạm là Đại lang Phạm Duy Hinh.

Những dòng gia phả họ Phạm ở trên đã chịu không ít chỉ trích về tính xác thực của nó do những thông tin đưa ra về xứ Lâm Ấp hoàn toàn không giống với chính sử hiện này về quốc gia gọi là tiền thân nước Chiêm Thành này. Họ Phạm ở Quảng Ngãi đã “nhận vơ” nguồn gốc của mình, hay đã chép nhầm do thiếu hiểu biết? Tất cả đều không phải. Thông tin của gia phả họ Phạm cực kỳ chính xác, chính xác đến bất ngờ. Xin lần theo câu chuyện họ Phạm bắt đầu từ đất Đằng Châu, Hưng Yên.

VỊ THẦN Ở ĐẰNG CHÂU
Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh…
Truyền thuyết xứ Đằng Châu được nhắc đến trong Việt điện u linh kể về một vị thần đã hiển linh trước Lê Long Đĩnh làm nửa sông mưa, nửa sông tạnh, rồi lại báo mộng đế vương… Long Đĩnh sau khi lên ngôi mới thăng Đằng Châu làm Thái Bình Phủ, phong thần làm Khai Thiên Thành Hoàng Đại Vương. Đền Đằng Châu ở Kim Động (nay thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên) còn gọi là đền Vua Mây, thờ sứ quân Phạm Phòng Ất (Phạm Bạch Hổ), tương truyền là một trong 12 sứ quân thời Đinh Tiên Hoàng.

Dang ChauĐền thờ vua Mây ở Kim Động, Hưng Yên.

Lĩnh Nam chích quái thay cho Lê Long Đĩnh đã ghi là Lý Công Uẩn lúc chưa lên ngôi có thực ấp ở Đằng Châu và thần Đằng đã hiển linh trước vua Lý. Sự khác biệt nhân vật với Việt điện u linh này có lẽ là do nếu tính từ loạn 12 sứ quân thời Đinh Bộ Lĩnh tới Lê Long Đĩnh thì mới chỉ có hơn chục năm, khó có thể một sứ quân, tướng của Đinh Bộ Lĩnh lại kịp “hóa thần” hiển linh cả một vùng như vậy.
Trong đền vua Mây ở Hưng Yên có câu đối:
伯主雄圖十二山河輿古壘
神髙靈氣半分星雨此前江
Bá chủ hùng đồ, thập nhị sơn hà dư cổ lũy
Thần cao linh khí, bán phân tinh vũ thử tiền giang.

Dịch:
Xưng bá đất anh hùng, mười hai non nước nơi thành cũ
Danh thần hiện linh khí, nửa phần mưa nắng chốn sông này.

Đối chiếu gia phả họ Phạm: Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân – Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) – tức là Nam Trung bộ ngày nay…
Việc Lý Thành, con Lý Thân cùng với Phạm Duy Hinh, con Phạm Duy Minh trấn thủ đất Nam Hà cho thấy vị thần xứ Đằng Châu không phải xuất phát vào thời Đinh – Lê – Lý sau này, mà có nguồn gốc từ tận thời Tần, thời của Lý Ông Trọng làm phò mã nhà Tần. Phạm Duy Minh ở Đằng Châu như vậy chính là vị thần Đằng hay vua Mây được kể đến trong Việt điện u linhLĩnh Nam chích quái.
Lý Thành thay Lý Ông Trọng cai quản vùng rừng núi Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, trong tộc phả họ Phạm gọi là “Ái Châu”. Phạm Duy Hinh tiếp nghiệp cha, cai quản vùng duyên hải ven biển miền Trung, gọi là xứ Lâm Ấp.
Nam Tề thư, Man – Đông Nam Di chép: Nam Di – nước Lâm Ấp ở phía Nam Giao Châu, đi đường biển 3.000 dặm. Phía bắc liền với Cửu Đức. Đó là huyện Lâm Ấp cũ thời Tần…
Các nhà nghiên cứu đặt dấu hỏi, thế nào mà nước Lâm Ấp lại là “huyện Lâm Ấp cũ thời Tần” được?
Ghi chép này của Nam Tề thư hoàn toàn đúng. Biên giới phía Nam của nhà Tần khi thống nhất lục quốc đã tới miền Bắc Hộ (miền nhà cửa quay về phía Bắc). Khu vực Nam Trung Bộ ngày nay nằm trong quận Lang Gia thời Tần, đã được gọi là đất Lâm Ấp.

THÀNH CHÂU SA
Tộc phả họ Phạm tiếp: Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trc CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa (xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).
Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm,
Thông tin vị vua lập nước Lâm Ấp đầu tiên vào thời Đông Hán là Lý Khu Kiên = Khu Liên đã cho thấy Khu Liên mang họ Lý, chính là Lý Bí, người đã “quay về phương Nam mà xưng cô, khởi mở đất Lâm Ấp” (“Nam diện ung dung, thác thủy tương truyền Lâm Ấp địa”) như trong câu đối ở đình Giang (Viên Nội, Ứng Hòa, Hà Nội).
Khu Liên mất, họ Phạm kế vị tại xứ Lâm Ấp và đóng đô tại thành Châu Sa, nay là huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một thông tin rất giá trị. Các chuyên gia văn hóa lịch sử Chăm hiện không xác định được kinh đô của Lâm Ấp nằm ở đâu. Chỉ biết dưới thời Phạm Dương Mại thứ sử Giao Châu Đàn Hòa Chi và Chấn Vũ tướng quân Tông Xác của nhà Tiền Tống đã đánh được thành Khu Túc, tiền đồn phía bắc của Lâm Ấp, rồi tiến vào Tượng Phố, phá cung thất của vua Lâm Ấp. Người thì cho rằng quốc đô Sư tử của Lâm Ấp là thành Trà Kiệu ở Quảng Nam. Nhưng ở Trà Kiệu chỉ có các vết tích của thời kỳ muộn hơn của vương quốc Chiêm Thành, chứ không có vết tích rõ ràng các thành trì của thời Lâm Ấp.
Theo Tùy thư, Liệt truyện 18, Lưu Phương thì từ Khu Túc tới kinh đô Lâm Ấp phải đi mất 8 ngày. Các học giả ước tính khoảng cách từ Khu Túc tới quốc đô Lâm Ấp như vậy ở vào quãng 300km. Dựa trên tính toán bóng nắng ghi trong thư tịch thành Khu Túc được xác định nằm ở khoảng giữa Quảng Trị. Từ giữa đất Quảng trị thêm 300km nữa về phía Nam chính là vị trí của thành Châu Sa ở Quảng Ngãi, chứ không phải Trà Kiệu ở Quảng Nam. Châu Sa ở trên đất Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh, rõ ràng là Tượng Phố thời trước vì Tịnh = Tượng.
Chau SaDi tích thành Châu Sa tới nay vẫn còn, được mô tả theo tư liệu của Bảo tàng Quảng Ngãi như sau.
Thành Châu Sa (còn có tên là thành Hời) nằm về phía bắc hạ lưu sông Trà Khúc, thuộc xã Tịnh Châu (huyện Sơn Tịnh), phía đông thành giáp xã Tịnh Thiện, phía bắc giáp núi Đồng Dinh, phía nam giáp sông Trà Khúc và phía tây nam giáp núi bàn cờ.
Thành gồm có hai vòng thành chạy theo trục chính Bắc – Nam. Thành nội có bình đồ chữ nhật nối liền với thành ngoại có bình đồ hình càng cua không khép kín. Thành nội có cạnh dài là đoạn chạy theo hướng Đông Tây dài 550m, cạnh ngắn chạy theo trục Bắc Nam dài 540m.
Quanh thành có hào nước rộng 20-25m. Thành nội mở 5 cửa đông, bắc, tây, nam và tây nam. Các cửa đông, nam và tây nam đều có công trình kiến trúc bằng gạch nhô lên cao, có thể là những vọng lâu. Quan sát cửa nam, nơi được đào đắp, gia cố công phu hơn các cổng thành còn lại, trong tổng thể khu thành và địa hình chung quanh, cho phép đoán định đây là cửa chính của thành Châu Sa.

Thành ngoại, kết hợp giữa các đoạn đào đắp với địa hình tự nhiên, khéo léo tận dụng các đồi núi thấp và các sông con, rạch nước, ao đầm vốn chằng chịt trong vùng. Thành ngoại chỉ đắp ba cạnh ở các phía tây, đông và bắc, trong đó cạnh thành tây và đông đắp kiên cố, cạnh thành bắc chủ yếu dựa vào núi non. Phía nam, nhìn ra sông Trà Khúc, không có bờ thành.
Điểm đặc biệt của thành Châu Sa là khoảng giữa thành nội và thành ngoại, về mạn nam, có hai gọng thành hình càng cua đối xứng qua trục nam bắc. Gọng thành phía tây, bắt đầu từ góc tây nam thành nội, dài gần 700m, còn phía đông, bắt đầu từ góc đông nam, dài chừng 500m.
Thành Châu Sa hiện là một tòa thành bằng đất, độ nguyên vẹn vẫn còn tới 80%. Điều này cũng hoàn toàn khớp với các sử liệu cho biết quân Tùy vào thành (không công phá thành), phá hủy cung thất (bằng tre gỗ), thu tượng miếu chủ bằng vàng (Tùy thư), “thành vua nước đó dùng gỗ làm rào” (Cựu Đường thư), “đường hiểm trở không thông được” (Tân Đường thư). Nói một cách khác cho đến đầu thế kỷ VII dường như ở quốc đô Lâm Ấp chưa có kiến trúc gạch.
Như vậy thì sau thành Cổ Loa ở miền Bắc Việt thành Châu Sa là một tòa thành cổ đắp bằng đất được hình thành từ thời Tần. Thành Châu Sa không phải được bắt đầu xây dựng dưới thời các vua Chiêm Thành từ thế kỷ 9 như vẫn nghĩ. Đây quả là một cổ thành độc đáo, còn khá nguyên vẹn của Việt Nam.
Bản thân địa bàn tỉnh Quảng Ngãi vốn có tên là Chiêm Lũy động hoặc Cổ Lũy động. Trước cửa thành cổ Châu Sa nay vẫn còn địa danh thôn Cổ Lũy bên bờ sông Trà Khúc. “Cổ Lũy” của vị thần Đằng Châu họ Phạm hóa ra lại là nằm ở Quảng Ngãi. Những cái tên Chiêm Lũy, Cổ Lũy càng cho phép khẳng định Châu Sa và tỉnh Quảng Ngãi chính là thành đô, là trung tâm của nước Lâm Ấp trong 500 năm tồn tại với 19 đời vua họ Phạm.

Ngoi mat he

Đầu ngói mặt hề ở Cổ Lũy (Tư Nghĩa). Hiện vật chứng tỏ mối liên hệ giữa khu vực này với thành Luy Lâu ở miền Bắc.

Có thể Châu Sa thiết Chà, tức là chỉ kinh đô của người Chà, người Chiêm hay người Hời. Hoặc Chà = Cha, cũng giống như ở Cổ Loa là thành của vua Chủ, Cổ Lũy của người Hời là thành của vua “Cha”.
Thành Châu Sa là quốc đô của Lâm Ấp, nơi mà Tùy quân Lưu Phương đã chiếm, phá cung thất, thu 18 pho tượng vàng. Vì thế sẽ rất rõ ràng rằng các hiện vật thời kỳ sơ sử ở Quảng Ngãi sẽ rất phong phú, thể hiện đúng một trung tâm văn hóa chính trị ở phương Nam. Trước hết ở đây phải nói đến là khu vực khảo cổ Sa Huỳnh, nền văn hóa đồng đại với văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc Việt. Địa điểm Sa Huỳnh nằm ngay ở phía Nam tỉnh Quảng Ngãi. Cùng niên đại này, ở đây còn phát hiện những chiếc trống đồng Đông Sơn loại Heger I, tức là loại trống to đẹp nhất. Trống đồng phát hiện ở chính Quảng Ngãi chứ không phải ở Quảng Nam, nơi có thành Trà Kiệu. Liên hệ trực tiếp giữa quốc gia thời sơ sử ở đây với miền Bắc Việt rất rõ ràng. Rất có thể chính Sa Huỳnh – Quảng Ngãi là trung tâm của nước Hồ Tôn phía Nam nước Văn Lang trong truyền thuyết.

VUA NAM CHIẾU
Tộc phả họ Phạm tiếp: … Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An, diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766).
Theo chính sử thì khởi nghĩa của Phùng Hưng phải sau khởi nghĩa của Mai Thúc Loan tới hơn 60 năm. Nhưng thông tin trong dân gian lại cho biết bố Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh theo Mai Thúc Loan khởi nghĩa. Cháu Phùng Hưng là Phạm Thị Uyển là Mai Hoàng Hậu, đã tử tiết trên sông Tô Lịch khi giữ thành Tống Bình (Hà Nội). Việc tộc phả họ Phạm ở Quảng Ngãi cho biết Mai Thúc Loan cùng cha con Phùng Hưng và họ Phạm chống lại quan quân nhà Đường là hoàn toàn có khả năng.
Quan trọng hơn dòng tộc phả ở trên cho biết chính họ Phạm vua Lâm Ấp với kinh đô tại Châu Sa là những người đã theo Mai Thúc Loan và Phùng Hưng chống nhà Đường.
Ở Quảng Ngãi còn có di tích gọi là “Long đầu hý thủy” (đầu rồng giỡn nước). Núi Long Đầu hiện tọa lạc tại xã Sơn Long, Sơn Tịnh (tức là ngay gần thành Châu Sa). Đây là danh thắng thứ 2 của Quảng Ngãi sau “Thiên Ấn niêm hà” (dấu ấn trời đóng), là núi Thiên Ấn bên sông Trà Khúc. Khu vực này do vậy được gọi là miền Ấn – Trà. Ca dao xứ Quảng:

Sông Trà sát núi Long Đầu
Nước kia chảy mãi rồng chầu ngày xưa.

Thắng cảnh núi Long Đầu và Thiên Ấn càng cho thấy nơi đây là nơi “rồng chầu”, “trời giáng ấn”, là quốc đô cổ ở phương Nam.

Long dau

Núi Long Đầu ở cạnh cầu Trà Khúc 1 với miếu thờ thần.

Liên quan đến núi Long Đầu là truyền thuyết về vua Nam Chiếu. Sách Đại Nam nhất thống chí, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, phần viết về núi sông tỉnh Quảng Ngãi, có đoạn: “Núi Đầu Rồng: Tức Long Đầu, ở cách huyện Bình Sơn 31 dặm về phía Nam, hình thế khuất khúc, sống núi từ núi Sâm Hội chạy về nam, đến vực sông Trà Khúc thì dừng, hình như rồng thần hút nước nên gọi tên thế. Trên núi có miếu cổ thờ Long Vân tướng quân; sườn núi có 3 đường đi lên, sâu như giếng. Tương truyền hồi Cao Biền nhà Đường cưỡi diều giấy đến đây yểm đoạn long mạch, hoang đường không tin được. Trong tập “Mười cảnh Quảng Ngãi” có một đề là Long Đầu hý thủy (Đầu rồng vờn nước), tức là núi này”.
Long Vân tướng quân hẳn là Vua Mây họ Phạm và Long chỉ vua, Vân nghĩa là Mây.
Tóm tắt truyền thuyết vua Nam Chiếu trên sông Trà như sau:
Tương truyền vua Nam Chiếu xuất thân từ một gia đình nghèo khó trên bờ sông Trà dưới chân núi Long Đầu. Bà mẹ là nàng Thiệu Khôi đi tắm sông bị một con rái cá lớn hãm hiếp, sinh ra Chiếu. Chiếu ngày thường tụ tập trẻ con chia phe đánh trận. Lũ trẻ chăn trâu tôn Chiếu làm vua. Tiếng đồn vang khắp cả miền Ấn – Trà (núi Ấn – sông Trà)….
Cao Biền sang phương Nam, phát hiện núi Long Đầu có “cửu phúc hồi hoàn” và “hàm rồng sâu thẳm” đã tìm cậu bé Chiếu nhờ bỏ hài cốt của cha mình vào miệng rồng. Nhưng Chiếu đã lặn xuống và thay bằng xương con rái cá, là cha của mình… Từ đó Chiếu mỗi ngày một thông minh vượt bực, tụ họp anh hùng hào kiệt bốn phương, đuổi quân Đường ra khỏi Giao Chỉ…
Cao Biền sau đó biết việc, liền trở về Giao Chỉ, mượn tay nàng Thiệu Khôi trảm long sông Trà Khúc rồi tiến quân đánh Nam Chiếu. Vua Nam Chiếu từ lúc đó không còn chống đỡ quân giặc được nữa, cuối cùng bị Cao Biền bắt và hành hình…

Câu chuyện trên mang đầy màu sắc “phong thủy”, lại ná ná giống sự tích của Đinh Bộ Lĩnh cũng vào thời Đường. Thêm vào đó các sử gia không thể hiểu nổi vì sao ở tận xứ Quảng lại có chuyện về vua Nam Chiếu. Nam Chiếu được cho là bắt nguồn từ vùng Vân Nam dưới thời Đường, cách sông Trà Khúc mấy ngàn cây số… Truyền thuyết liệu chỉ có là truyền thuyết?…
Truyền thuyết Cao Biền trảm long sông Trà Khúc khi liên hệ với tộc phả họ Phạm lại chỉ ra một sự thật: khởi nguồn của Nam Chiếu chính là ở vùng Quảng Ngãi, hay Chiêm Lũy động. Nam Chiếu là thời kỳ phục hưng của nước Lâm Ấp dưới thời Đường. Trước đó khu vực Tây và Nam Giao Chỉ gọi chung là vùng đất Lâm Ấp, xứ Nam Hà gồm 2 châu, hay nước Nam Triệu như trong Truyện Nam Chiếu, Lĩnh Nam chích quái đã kể.
Mặt khác so sánh 2 câu chuyện cũng cho thấy vua Nam Chiếu ở Trà Khúc là khởi nghĩa của Mai Thúc Loan và Phùng Hưng. Chính 2 cuộc khởi nghĩa nối tiếp nhau bắt đầu từ miền Trung Việt này mới làm nên quốc gia Nam Chiếu hùng mạnh thời nhà Đường.
Đoạn cuối của tộc phả họ Phạm ở Quảng Ngãi: Thấy xứ Lâm Ấp phải lo chống đối với nhà Đường ở phía Bắc, nên thừa cơ hội này, người Chà Và (Java, Inđônêxia ngày nay) gồm các bộ tộc Dừa và bộ tộc Cau kéo sang xâm chiếm xứ Lâm Ấp và lập nên Vương quốc Chiêm Thành vào năm 705. Phạm Chính, con của Phạm Trung, cháu nội của Phạm Chí, khi thất bại trở về, đành phải chịu nhận vùng đất quanh thành Châu Sa làm xứ tự trị của dòng họ Phạm. Hiện nay, tại núi An Điềm, xã Bình Chương, huyện Bình Sơn, còn có đền thờ vị Triệu tổ họ Phạm là Đại lang Phạm Duy Hinh.

Nha tho ho PhamNhà thờ họ Phạm tại Bình Chương, Bình Sơn, Quảng Ngãi.

Đoạn tộc phả trên cho biết nước Chiêm Thành trong giai đoạn tiếp theo được lập nên do các bộ tộc Dừa và Cau xâm chiếm vùng đất của Lâm Ấp. Như vậy lịch sử miền Trung Bộ đã đổi dòng từ đây, từ một quốc qua của người Nam Á (họ Phạm từ miền Bắc Việt) đã chuyển thành một quốc gia của người nói tiếng Nam Đảo (người Chăm).
Nhà thờ triệu tổ họ Phạm Đàng Trong là Đại thiên lang Phạm Duy Hinh nay vẫn còn tại An Điềm, Bình Chương, Bình Sơn, Quảng Ngãi, cách thành cổ Châu Sa không xa. Câu đối ở nhà thờ họ Phạm khẳng định họ Phạm ở đây có nguồn gốc từ phía Bắc.
萬古矜基源北地
一方立業在南天
Vạn cổ căng cơ nguyên Bắc địa
Nhất phương lập nghiệp tại Nam thiên.

Lịch sử Lâm Ấp – Nam Chiếu khép lại và lắng đọng trong những dòng tộc phả và di tích thành cổ ở đây. Dòng máu rồng từ núi Long Đầu và dấu Thiên Ấn của Ngọc Hoàng trên sông Trà vẫn mãi là những tượng đài thiên nhiên của lịch sử mảnh đất phương Nam này.

Bia cổ nói…

Trích dẫn: http://danviet.vn/105247p1c32/phat-hien-tam-bia-co-nhat-viet-nam.htm

Phát hiện tấm bia cổ nhất Việt Nam

Trong lúc khai thác đất để làm gạch ở khu đồng phía sau chùa Xuân Quan (thôn Xuân Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), ông Nguyễn Văn Đức bất ngờ tìm thấy hai cổ vật bằng đá vô cùng độc đáo. Từ đó đến nay, tròn 8 năm, những cổ vật này mới xác định được danh tính…

Cổ vật “lưu lạc” dân gian

Ông Nguyễn Văn Đức kể, năm 2004, trong lúc đào đất để làm gạch, ở độ sâu chừng 2m, bất ngờ máy xúc chạm phải vật lạ. Lúc đưa lên thì đó là hai tấm bia úp khít vào nhau và kết dính bởi một chất liệu đặc biệt. Ông và một vài công nhân đã phải rất vất vả, dùng mai mới tách đôi ra được. Bởi vậy nên mặt ngoài tấm bia vị nứt, vỡ một vài vị trí.

Mặt bên trong hai tấm bia sạch bong, không hề có gì bám vào, kể cả nước. Cùng với 2 tấm bia là một đỉnh đá (hay còn gọi là liễn) hình vuông, có nắp đậy, bên trong chỉ còn chút đất đen. Sau khi đào được các di vật đá trên, ông Đức đem bộ bia đá và nắp đá đậy trên đỉnh đá về nhà, còn lại ông mang ra gửi chùa làng (Huệ Trạch tự).

Ngay sau đó, ông Đức có nhờ vài người biết chữ Hán đến đọc xem tấm bia kia ghi những gì nhưng họ cũng chỉ đọc được một vài chữ. Một thời gian sau, việc đào được cổ vật của gia đình ông lắng xuống và trôi vào quên lãng.

250912_thoi-su_bia_dan-viet

Bộ Bia và Liễn đá hiện được bảo quản trong bảo tàng Bắc Ninh.

Phải đến hơn 8 năm sau, cuối tháng 8.2012, trong lúc xuống địa bàn để sưu tầm các cổ vật còn lưu lại trong nhân dân, tổ công tác thuộc phòng Nghiên cứu Sưu tầm Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh bất ngờ được nghe câu chuyện về tấm bia cổ năm xưa, đang được lưu giữ tại thôn Xuân Quan và một hiện vật giống như đỉnh đá tại Huệ Trạch tự. Khi các cán bộ bảo tàng tới nơi,
gia đình ông Đức vui vẻ trao tặng lại bảo tàng.

Sau những nghiên cứu ban đầu, bảo tàng Bắc Ninh đi đến nhận định bất ngờ: Đây là hai cổ vật bằng đá có niên đại từ năm 601, nếu thông tin được kiểm chứng, đây sẽ là bia đá cổ nhất từng được phát hiện tại Việt Nam và có giá trị rất lớn về mặt văn hóa lịch sử. Sự việc trên cũng thu hút được nhiều chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu lịch sử.

Các chuyên gia cho rằng, mô hình bia một tháp như vậy giống với những bia mộ tháp thời Tùy (Trung Quốc) đã từng được phát hiện trước đó (1 chiếc ở Thanh Hóa và một vài chiếc ở Trung Quốc). Nhận định này cũng trùng khớp với nội dung trên bia đá có tên “Xá lợi minh tháp”, cũng như niên đại 601 thời nhà Tùy.

Nội dung bia, nguyên văn:
Duy Đại Tuỳ nhân thọ nguyên niên tuế thứ Tân Dậu thập nguyệt Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu. Nội dung cơ bản ghi lại việc Tùy Dạng Đế cho người đưa xá lợi vào bảo tháp được xây dựng trong chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng) thuộc huyện Long Biên đất Giao Châu xưa.

Đi tìm dấu tích chùa Thiền Chúng

Ông Lê Viết Nga – Giám đốc Bảo tàng Bắc Ninh cho biết: “Chúng tôi đã tra cứu nhiều thư tịch cổ, duy nhất chỉ còn lại “Thiền Uyển tập anh” Quyển Hạ (trang 102) có ghi về 1 chùa mang tên là “Thiền Chúng” như sau: “Thiền sư Định Không (? – 808) ở chùa Thiền Chúng, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức, nhưng ở phần chú cuối trang lại ghi “Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong “Quảng hoằng minh tập” có ghi chùa Thiền Chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao Châu”. Như vậy đã phần nào chứng thực được nội dung tấm bia về sự việc xảy ra đúng vào năm 601. Dấu tích chùa Thiền Chúng chính xác ở đâu giờ vẫn còn là câu hỏi?

Nhiều nhà khoa học đưa ra giả thiết, tháp chùa Thiền Chúng sau nhiều năm bị đổ nát đã chìm vào sự quên lãng. Chùa tan, tháp đổ nên sau đó các cổ vật chìm trong lòng đất, đến nay tình cờ người dân phát hiện được. Do các cổ vật nói trên được phát hiện từ 8 năm trước- năm 2004, lớp đất vùi bên trên người dân dùng để đóng gạch hết, nên khi các cán bộ bảo tàng tới khảo sát địa điểm phát hiện cổ vật thì đã không còn gì? Phải chăng, tại địa điểm
phát hiện ra hai hiện vật bằng đá này trước đây từng tồn tại một ngôi chùa?

Trao đổi với phóng viên, ông Lê Viết Nga cho biết, bảo tàng sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thông tin sau đó sẽ tính đến phương án xin được cấp phép khai quật thám sát. Những thông
tin cụ thể về tấm bia cổ dự kiến sẽ được đưa ra tại Hội nghị Thông báo Khảo cổ học năm 2012 vào ngày 27 và 28.9 tới đây.

Hiện hai cổ vật vẫn được lưu giữ cẩn thận tại bảo tàng tỉnh Bắc Ninh trong khi chờ các nhà khoa học có thêm các nghiên cứu, đánh giá và khẳng định.

—————

Bình luận:

Theo chính sử năm 602 Tùy quân Lưu Phương mới tấn công thu phục Hậu Lý Nam Đế ở miền Bắc Việt Nam. Vậy mà năm 601 ở Giao Châu lại có chuyện vua Tùy cho người đưa xá lợi vào chùa?! Theo văn bia này thì rõ ràng miền Bắc Việt lúc đó đã thuộc về nhà Tùy từ lâu. Đây là bằng chứng cho thấy không hề có triều Hậu Lý Nam Đế ở Bắc Việt vào thời điểm này. Cuộc tấn công của Lưu Phương nhằm vào Hậu Lý Nam Đế thực ra chính là cuộc tấn công tiêu diệt Lâm Ấp năm 605 của nhà Tùy. Lâm Ấp ở miền Trung Việt mới là phần “hậu” của Lý Nam Đế, tồn tại hơn 400 năm từ khi Lý Khu Kiên – Lưu Huyền Đức lập “nước Nam ta”.

Bia cổ nói … tiếp (tập 3)

Báo Thanh Niên tháng 10/2012 đưa tin “Tấm bia đá khắc minh văn ở Bắc Ninh đã “đốt cháy” diễn đàn của hội nghị thông báo khảo cổ học năm nay”. Đúng hơn có lẽ phải nói tấm bia mới phát hiện này còn “đốt cháy” cả sách sử hiện tại vì những thông tin ngược sử chéo ngoe của nó về thời nhà Tùy ở Việt Nam.
Nhân Thọ xá lợi tháp
Tấm bia “Xá lợi tháp minh” mới phát hiện ở xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, được xác nhận là thuộc nhóm minh văn “Nhân Thọ xá lợi tháp” của nhà Tùy, liên quan đến sự kiện xây dựng tháp xá lợi tại chùa Thiền Chúng ở Giao Châu. Trong vòng 4 năm, từ năm 601 (Nhân Thọ 1) đến năm 604 (Nhân Thọ 4), Tùy Văn Đế Dương Kiên đã ba lần phân phát xá lợi và tổ chức xây dựng bảo tháp an trí xá lợi tại các châu thuộc bản đồ đế quốc. Do cùng được xây dựng dưới niên hiệu Nhân Thọ, hệ thống tháp xá lợi này thường được biết đến dưới tên gọi “Nhân Thọ xá lợi tháp”.
Lần phát xá lợi thứ nhất vào năm Nhân Thọ nguyên niên, trên phạm vi 30 châu. Chiếu thư của Tùy Văn Đế về việc này được chép trong Quảng hoằng minh tập nói rõ lý do của việc phát xá lợi:
Trẫm nay qui y tam bảo, trùng hưng thánh giáo, muốn cùng tất thảy nhân dân trong bốn bể, cùng phát nguyện bồ đề, cúng tu phúc nghiệp, để cho đương kim hiện tại, cùng với vị lai, vĩnh tạo thiện nhân, cùng lên diệu quả. Nên mời 30 vị sa môn thông tuệ Pháp tướng [tức Phật pháp], kiêm kham truyền đạo, mỗi vị dẫn theo tùy tùng 2 người, tản quan 1 người, đem theo huân lục hương 120 cân, ngựa 5 con, chia ra các đạo hộ tống xá lợi đến các châu trên đây dựng tháp”.
Nghĩa là năm 601 Tùy Văn Đế đã qui y Phật giáo, đổi niên hiệu từ Khai Hoàng sang Nhân Thọ và tổ chức xây tháp phát xá lợi trên toàn lãnh thổ nhà Tùy.
Theo Quảng hoằng minh tập thì trong số các châu nhận xá lợi đợt đầu có cả Giao Châu, tuy không chỉ định ở chùa nào cụ thể, tức là Giao Châu tự lựa chọn nơi dựng tháp.
Tấm bia mới phát hiện ở Bắc Ninh cho biết “Giao Châu Long Biên huyện” là nơi đã xây tháp nhập xá lợi trong đợt đầu tiên vào năm Nhân Thọ nguyên niên, tức là 601. Câu hỏi lớn đặt ra là năm 601 Giao Châu còn đang là quốc gia độc lập do Hậu Lý Nam Đế làm chủ. Đại Việt sử ký toàn thư ghi “Vua sai con của anh là [Lý] Đại Quyền giữ thành Long Biên, Biệt súy là Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên (bấy giờ vua đóng đô ở Phong Châu)”. Năm 601 Lý Đại Quyền còn đang ở Long Biên, làm thế nào mà Tùy Văn Đế lại xuống chiếu cho xây tháp nhập xá lợi vào Long Biên như là một nơi “thuộc bản đồ đế quốc” Tùy được?
Chùa Thiền Chúng
Vấn đề làm các nhà sử học, khảo cổ học trong Hội thảo đau đầu là chẳng biết chùa Thiền Chúng được nhắc tới trong tấm bia cổ nằm ở chỗ nào. Chùa Huệ Trạch ở Trí Quả, nơi tìm thấy tấm bia và hộp xá lợi, là chùa mới có từ thời Trần và văn bia ở đây chẳng hề đả động gì đến chuyện xây xá lợi tháp dưới thời Tùy cả.
Chùa Thiền Chúng là một ngôi chùa được nhắc đến nhiều lần trong Thiền uyển tập anh, một tập hợp các ghi chép cổ về các vị thiền sư Phật giáo Việt Nam. Theo sách này thì vị trụ trì của chùa những năm này là Pháp Hiền (?- 626), học trò của Tì Ni Đa Lưu Chi.
Nguyên văn bản dịch theo Thiền uyển tập anh về sư Pháp Hiền:
Sau khi Tì Ni Đa Lưu Chi tịch diệt, sư bèn đến núi Thiên Phúc tu tập thiền định, quên hết cả vật lẫn bản thân mình, chim rừng bay đến vây quanh, dã thú tới đùa rỡn. Người đương thời hâm mộ danh tiếng đến học đạo với sư đông không kể xiết. Nhân đó, sư dựng chùa Chúng Thiện nhận tuyển dạy học trò. Tăng đồ đến lưu học tại chùa có khi đông đến hơn ba trăm người. Dòng thiền Nam phương hưng thịnh từ đó. Thứ sử nhà Tùy là Lưu Phương tâu về triều. Tùy Cao tổ từ lâu đã nghe tiếng người nước Nam này sùng chuộng đạo phật, đã có các bậc cao tăng đức vọng, bèn sai sứ đem xá lỵ Phật và năm hòm sắc điệp sang ban cho sư để xây tháp cúng dàng. Sư bèn chia xá lỵ cho chùa Pháp Vân ở Luy Lâu và các chùa có tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái để dựng pháp thờ.
Truyện trên chép Pháp Hiền nhận xá lỵ và năm hòm sắc diệp rồi chia cho các nơi, trong đó có chùa Pháp Vân ở Luy Lâu, tức là chùa Dâu. Xem ra thì việc này là vô lý. Xá lợi do vua xuống chiếu ban ra, có pháp sư cùng tản quan hộ tống, mỗi châu chỉ được 1 hòm, lấy đâu ra tới 5 hòm và làm gì có chuyện sư địa phương tự tiện chia xá lợi cho các nơi. Chùa Thiền Chúng và chùa Pháp Vân nằm cùng trong một huyện Long Biên. Như vậy thành ra riêng Giao Châu có tới 2 tháp xá lợi?!
Thực ra chẳng có chùa Thiền Chúng nào cả. Chùa này tên gọi như trong đoạn trên thì là Chúng Thiện. Chúng Thiện thiết Chiền. Thì ra đây chỉ là tên phiên thiết của một ngôi “chiền”, tức là ngôi chùa gọi theo tiếng Nôm mà thôi.
Ngôi “Chiền” nơi Pháp Hiền trụ trì và nhập xá lợi chính là chùa Dâu hay chùa Pháp Vân ở Thuận Thành – Bắc Ninh. Chùa Dâu là ngôi chùa cổ từ thời Sĩ Nhiếp, nằm cách Trí Quả, nơi đào được văn bia chưa đầy 1km. Chẳng có chuyện chia xá lợi nào cả vì chỉ có 1 ngôi chùa ở đây. Cũng chỉ có một hòm xá lợi năm sắc chứ không phải 5 hòm mà chia đi các nơi.
Văn bia Hòa Phong tháp bi ký tại chùa Dâu khẳng định đây chính là nơi sư Pháp Hiền trụ trì và nhập xá lợi:
“Nước Việt ta từ thời Tùy Cao đế, đã dốc tâm nơi Phật đạo, sùng mộ người áo nâu, sai sứ giả đem hòm xá lỵ ủy cho Lệnh sử họ Lưu kén đất Giao Châu xây cất. Khi đó có đại sư Pháp Hiền nói rằng: đây thực là chốn đại thắng danh lam. Bèn xây tháp ở bên trong phụng thờ một hòm xá lỵ để truyền mãi mãi, khiến muôn vạn năm sau, xuân thu bất diệt.
Cổ Châu Phật bản hạnh, văn bản khắc Nôm hiện còn lưu tại chùa Dâu, cũng ghi rõ sự kiện này:

Thời ấy có ông Lưu Chi
Tâu rằng nhà Tùy Cao đế niên gian
Năm hòm xá lỵ Bụt quan
Giữa huyện Siêu Loại là chiền Cổ Châu
Danh lam bảo tháp phù đồ
Cao dự nghìn trượng khỏe phò thánh cung.

Chiền Cổ Châu” chính là chùa Thiền Chúng được khắc trong tấm bia cổ “Xá lợi tháp minh” mới tìm được.
Chùa Dâu ở Long Biên (Luy Lâu) trước đó do Tì Ni Đa Lưu Chi trụ trì. Đây có lẽ là “ông Lưu Chi” được nhắc đến ở trên. Vị sư này lưu lạc từ Tràng An, Hồ Nam từ lúc còn thời Trần của Trần Bá Tiên rồi sang Giao Châu vào thời Bắc Chu (năm 580). Thời đó Giao Châu còn đang là thủ đô của nhà Tiền Lý, thật khó hiểu vị sư này làm sao có thể đi lại dễ dàng giữa các nước và nhanh chóng được thành một trụ trì chùa lớn nhất nước ta như vậy?
Càng khó hiểu hơn khi xá lợi được nhập vào chùa Dâu ngay khi Lý Phật Tử còn đang xưng đế ở đất Giao Châu? Các nhà sử học nước ta … sẽ có cách giải thích, thời gian này triều đình của Lý Phật Tử chắc “có quan hệ đặc biệt” với nhà Tùy nên mới có chuyện xây tháp nhập xá lợi như vậy… (?!) “Quan hệ” gì đến mức có thể xây tháp thờ xá lợi Phật, cúng Thái Tổ Vũ Nguyên hoàng đếNguyên Minh hoàng hậu (bố và mẹ của Tùy Văn Đế), nếu không phải Giao Châu đã là đất của nhà Tùy?
Tùy tướng Lưu Phương
Thiền uyển tập anh cho biết “Thứ sử nhà Tùy là Lưu Phương tâu về triều” cho nhập xá lợi ở Giao Châu. Bia Hòa Phong tháp bi ký tại chùa Dâu thì chép vua Tùy “sai sứ giả đem hòm xá lỵ ủy cho Lệnh sử họ Lưu kén đất Giao Châu xây cất”. Rõ ràng “Lệnh sử họ Lưu” ở đây chính là thứ sử Giao Châu Lưu Phương.
Nghĩa là trước khi xá lợi được nhập về Giao Châu năm 601 thì Lưu Phương đã là thứ sử Giao Châu. Chuyện này cũng thật kỳ vì Lý Phật Tử đang là vua ở đây, sao lại còn có thứ sử Giao Châu của nhà Tùy? Chức thứ sử Giao Châu của Lưu Phương cho thấy Giao Châu đã là “châu” của nhà Tùy từ năm nảo năm nào rồi.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Nhâm Tuất, năm thứ 32 [602]… Dương Tố nhà Tùy tiến cử Thứ sử Qua Châu là Lưu Phương người Trường An, có tài lược làm tướng. Vua Tùy xuống chiếu lấy Tố làm Giao Châu đạo hành quân tổng quản, thống lĩnh 27 doanh quân sang xâm chiếm. Quân lệnh của Phương rất nghiêm, ai phạm tất chém. Nhưng Phương tính nhân ái, binh sĩ người nào ốm đau đều thân đến thăm viếng nuôi dưỡng, quân lính ai nấy đều mến đức và sợ uy. Đến núi Đô Long gặp giặc cỏ, Phương đánh tan hết, rồi tiến quân sang đến cạnh dinh của vua, trước lấy họa phúc mà dụ. Vua sợ xin hàng, bị đưa về Bắc rồi chết.
Đoạn trên có lẽ hơi lẫn lộn. Người được vua Tùy phong làm tổng quản quân đội Giao Châu là Lưu Phương chứ không phải Dương Tố. Chức “Giao Châu đạo hành quân tổng quản” cho thấy… Giao Châu đã là đất của nhà Tùy. Có vậy mới có đạo quân Giao Châu. Cũng tương tự sau đó Lưu Phương khi đi đánh Lâm Ấp ở phía Nam được phong chức “Hoan Châu đạo hành quân tổng quản” thì Hoan Châu là đất nhà Tùy chứ không phải đất Lâm Ấp.
Giao Châu đã là đất của nhà Tùy từ lâu, năm 601 Tùy Văn Đế đã cho dựng tháp nhập xá lợi ở chùa Pháp Vân. Vậy Giao Châu đạo hành quân tổng quản Lưu Phương “hành quân” đi đánh Hậu Lý Nam Đế ở đâu? Chắc hẳn là ở Phong Châu, nơi Hậu Lý Nam Đế đóng đô như Đại Việt sử ký toàn thư chú.
Có thể thấy thời đó miền Bắc Việt được chia làm 2 vùng. Giao Châu là phần phía Đông, trị sở ở Long Biên, do thứ sử Lưu Phương cai quản, thuộc đất nhà Tùy. Còn Phong Châu không chỉ là vùng Phú Thọ mà là cả vùng đất Tây Bắc ngày nay. Đây là đất của con cháu nhà họ Lý, được truyền thuyết gọi là Lý Bát Lang (vua đời thứ tám?), người đã chống cự với quân Tùy, cùng với Lý Phổ Đỉnh ở thành Ô Diên Hạ Mụ. Ranh giới giữa Giao Châu và Phong Châu lúc đó là bãi Quân Thần, ở Từ Liêm – Hà Nội ngày nay, nơi Lý Phật Tử và Triệu Việt Vương đặt mốc giới Tây Đông theo truyền thuyết.
Di tích về Lý Bát Lang nay còn gặp ở một số nơi thuộc xứ Đoài như ở Chu Quyến (Ba Vì), Hạ Mỗ, hay Ngọc Mạch (Từ Liêm).

cong-den
Đền thờ Lý Bát Lang ở Chu Quyến (Ba Vì)

Ở phía Nam Lưu Phương được Tùy Văn Đế phong làm Hoan Châu đạo hành quân tổng quản, tấn công Lâm Ấp năm 605. Khi dẫn quân đến Tỷ Cảnh (Hoan Châu) thì Cao Tổ băng hà, Dạng Đế lên ngôi… (Tùy thư, Liệt truyện 18 Lưu Phương).
Như vậy đất Tùy Văn Đế phía Nam đã đến dãy Hoành Sơn, tới châu Hoan (Tỷ Cảnh), châu Ái (Hai Âm).
Vị tướng tài Lưu Phương, thứ sử Giao Châu, người đã dụ hàng con cháu Lý Nam Đế ở Phong Châu và tiến đánh Phạm Phạn Chí của Lâm Ấp thắng lợi, sau đó bị bệnh mất trên đường trở về.
Dưới thời Tùy Văn Đế ở Giao Châu có đủ cả nhân chứng (thứ sử Lưu Phương, sư Pháp Hiền), vật chứng (bia Xá lợi tháp minh, chùa Dâu) để chứng tỏ vùng đất này đã nằm trong nhà Tùy từ thời trước. Sử sách về nhà Tiền Lý, rồi Lâm Ấp rõ ràng cần phải xem xét lại hoàn toàn trước những minh chứng lịch sử mới được “khai quật” như vậy.

Bia cổ nói… tập 2

Trích văn bia “Hòa Phong tháp bi ký” tại chùa Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh), bản dịch in trong cuốn Chùa Dâu – Cổ Châu, Pháp Vân, Diên Ứng tự của Nguyễn Quang Khải (NXB Tôn giáo, 2011):
Nước Việt ta từ thời Tùy Cao đế, đã dốc tâm nơi Phật đạo, sùng mộ người áo nâu, sai sứ giả đem hòm xá lỵ ủy cho Lệnh sử họ Lưu kén đất Giao Châu xây cất. Khi đó có đại sư Pháp Hiền nói rằng: đây thực là chốn đại thắng danh lam. Bèn xây tháp ở bên trong phụng thờ một hòm xá lỵ để truyền mãi mãi, khiến muôn vạn năm sau, xuân thu bất diệt. Ngày tháng trôi đi, mưa dập gió dồi, rêu phong ngói vỡ, dẫu cũ ít còn.
May gặp ngài Vũ Hà Đoan, tự Huệ tiến, làm quan đến chức Nội trù tiểu thủy các đội Tri đội nhất phiên Thị Nội giám, tước Kiên Thọ hầu, …., xem “Cổ Châu thực lục” mà khâm sùng Tam bảo; xem nền cũ tháp xưa mà cảm khái hoài vọng. Vì thế bèn tu hạnh Bồ đề, phát tâm công đức, bỏ công đón thợ, đổi vàng mua gạch mong cầu phúc quả về sau…
May nhờ chư Phật ban cho trăm phúc, được tiết trời đẹp trời tháng 8 năm Đinh Tỵ (1737) bắt đầu khởi công trùng tu tháp cổ như cũ. Đến ngày tốt tháng 5 năm Mậu Ngọ (1738) thì công trình hoàn thành. Tầng tháp vòi vọi, trên có biển đề “Hòa Phong tháp”, chính là tên tháp vậy…

Thap Hoa Phong

Tháp Hòa Phong và bia tứ diện ở chân tháp

Tấm bia trên lập vào năm 1738 thời vua Lê Ý Tông, cho những thông tin thật lạ. Mở đầu bia ghi rõ ràng: “Nước Việt ta từ thời Tùy Cao Đế…“. Tùy Cao Đế tức là Tùy Văn Đế Dương Kiên, hiệu Cao Tổ, người lập nên nhà Tùy ở Trung Hoa năm 581. Văn bia đã gọi Tùy Cao Đế là vua của nước Việt ta. Triều Tùy của nước Việt ta, gọi chính xác là Việt Tủy, là một triều đại của người Việt.
Thông tin ghi trên tấm bia cổ mới tìm thấy ở Thuận Thành – Bắc Ninh “ghi lại việc Tùy Dạng Đế cho người đưa xá lợi vào bảo tháp được xây dựng trong chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng) thuộc huyện Long Biên đất Giao Châu xưa“. Tác giả bài báo trên đã lẫn giữa Tùy Dạng Đế và Tùy Văn Đế. Bia lập vào thời gian “Đại Tuỳ nhân thọ nguyên niên tuế thứ Tân Dậu thập nguyệt Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu” là năm 601, là năm dưới triều Tùy Văn Đế Cao Tổ, chứ không phải Tùy Dạng Đế. Tùy Dạng Đế giết cha chiếm ngôi năm 605, sau sự kiện trên vài năm.
Đối chiếu 2 tấm bia thì có thể xác nhận chùa Thiền Chúng nơi Tùy Văn Đế cho nhập xá lỵ và xây tháp chính là chùa Dâu ngày nay. Tháp Hòa Phong cuối thời Lê đã được xây trên “nền cũ tháp xưa” của thời Tùy. Trong Cổ Châu Phật bản hạnh, văn bản khắc Nôm năm Cảnh Hưng thứ 13 (1752) hiện còn lưu tại chùa Dâu cũng ghi rõ sự kiện này:

Thời ấy có ông Lưu Chi
Tâu rằng nhà Tùy Cao đế niên gian
Năm hòm xá lỵ Bụt quan
Giữa huyện Siêu Loại là chiền Cổ Châu
Danh lam bảo tháp phù đồ
Cao dự nghìn trượng khỏe phò thánh cung.

Chùa Dâu – Luy Lâu là trung tâm Phật giáo cổ nhất của phương Đông, còn trước cả các trung tâm ở Kiến Nghiệp hay Lạc Dương. Trong Thiền uyển tập anh có dẫn lời pháp sư Đàm Thiên khi vị pháp sư này đàm đạo với vua Tùy Cao Tổ:
Xứ Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới 20 ngôi bảo tháp, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 quyển kinh rồi“.
Hẳn là cuộc đàm đạo trên với pháp sư Đàm Thiên đã dẫn đến việc vua Tùy Cao Tổ cho nhập xá lỵ Phật vào Giao Châu và xây bảo tháp ở Luy Lâu. Năm 601 cũng là năm Tùy Văn Đế đổi niên hiệu từ Khai Hoàng thành Nhân Thọ, từ tên là người sáng lập triều đại sang quan tâm đến nhân mệnh của mình, chắc hẳn lòng đã hướng về Phật, cho nhập xá lỵ về đất tổ người Việt ở Giao Châu cũng hợp lý.
Vấn đề rắc rối là theo Việt sử thì từ khi Lý Bôn khởi nghĩa, đánh đuổi Tiêu Tư, lập nước Vạn Xuân năm 544 tới năm 602 Lý Phật Tử bị Tùy quân Lưu Phương thu phục, nước ta gần 60 năm độc lập, đô đóng ở Long Biên, tức là Luy Lâu. Vậy làm thế nào mà Tùy Cao Tổ có thể “đàm thiên luận địa” về Phật pháp ở vùng Giao Châu, lại còn cho nhập xá lỵ vào chùa Dâu, là nơi kinh đô của nhà nước Vạn Xuân năm 601???
Những tấm bia cổ đã cho một sự thật sáng tỏ. Giao Châu thời Tùy Cao Tổ đã từ lâu nằm trong đất của nhà Tùy hay triều Việt Tủy. Những cuộc đụng độ giữa nhà Lương, Trần Bá Tiên với Tiền Lý Nam Đế, rồi Tùy quân Lưu Phương với Hậu Lý Nam Đế thực ra là đụng độ với… quân Lâm Ấp. Hoa sử vốn chẳng có sách nào ghi nhận sự có mặt của Tiền, Hậu Lý Nam Đế và Triệu Việt Vương ở thời kỳ này cả. Còn sử Lâm Ấp ghi “Dưới thời Phạm Phạn Chi, năm 598, nhà Tùy chiếm đóng Lâm Ấp và phân chia thành ba châu: châu Hoan (Tỷ Cảnh), châu Ái (Hai Âm) và châu Trong (Khương)“. Năm 598 ở Giao Châu theo chính sử đang là nước của Lý Phật Tử, nhà Tùy đi đằng nào mà chiếm đóng 3 châu của Lâm Ấp ở miền Trung Việt?
Luy Lâu – Long Biên là đất kinh đô từ thời Sĩ Vương. Câu đối ở đền Sĩ Vương tại Tam Á:
Khởi trung nghĩa công thần tâm kì / bỉ hà thì thử hà thì / an đắc lục bách tải di dung năng nhiếp Lâm Ấp
Thị sự nghiệp văn khoa cử tích / trị diệc tiến loạn diệc tiến / tối củ tứ thập niên chính sách chửng biểu Giao Châu.
Tạm dịch:
Với tấm lòng trung nghĩa công thần, lúc này cũng như lúc khác, sáu trăm năm đức khoan dung để lại giúp dựng cơ đồ Lâm Ấp.
Nhờ sự nghiệp văn hóa khoa cử cũ, thời bình cũng như thời loạn, bốn mươi thu qui củ chính sách làm rạng tỏ Giao Châu.
Từ thời Sĩ Vương tới Tùy Văn Đế khu vực chùa Dâu – Luy Lâu này luôn có sự kết nối với Lâm Ấp. Thời “Tiền Lý” nước ta thực ra bắt đầu từ Khu Liên – Lưu Bị khởi dựng nước Nam – Lâm Ấp, truyền tới tận 600 năm sau mới khép lại dưới thời nhà Tùy.