Năm 257 TCN Tần Vương phát động 50 vạn quân đánh chiếm đất Lục Lương của An Dương Vương, lập làm ba quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Tượng Quận là vùng đất Vân Nam, hay vùng đất Tây Âu, nơi Tần đã giết được quân trưởng của Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nam Hải là vùng đất của Thục An Dương Vương đời cuối ở miền Bắc Việt ngày nay. An Dương Vương thất cơ, cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển theo thần Kim Quy, sau được các nơi tôn thờ là Nam Hải Đại Vương.
Chiếm được vùng đất căn cơ cố tổ của họ Hùng, tới thời Tần Thủy Hoàng, phò mã hiệu úy Lý Thân được cử trấn giữ quận Nam Hải, tiếp tục mở rộng thành Cổ Loa, tòa thành có từ thời Thục Vương, thành một công trình đồ sộ quy mô lớn nhất vùng Đông Nam Á. Thủy Hoàng còn cho mở một con đường từ kinh đô nhà Tần thông ra biển Nam Hải, tức biển Đông ngày nay và vài lần theo con đường đó Đông du ra biển, nêu dương công đức của nhà Tần.
Thủy Hoàng cử đạo sĩ người nước Yên là Lư Sinh vượt biển Nam Hải đi tìm thuốc trường sinh. Yên Lư Sinh hẹn gặp Thủy Hoàng ở đình Phụ Hương bên bờ biển, rồi không từ mà giã, lên ngọn núi Yên Tử hóa tiên không trở lại. Vị Nam Hải Thiên Tuế Ông này chỉ còn lưu lại trên đỉnh Yên Tử mờ sương một tảng đá có hình người.
Những cuộc Đông du của đại đế Tần Thủy Hoàng và công trình thiên niên kỷ thành Cổ Loa đã tiêu tốn hàng triệu sức lao động của nhân dân. Để đáp ứng được nhu cầu này nhà Tần cho cho bắt tất cả các thanh niên đến tuổi đều phải đi dân phu, ai không tuân theo sẽ bị xử theo pháp luật nhà Tần, tức là chỉ có con đường chết.
Phò mã Lý Ông Trong mất, vị quận thủ thay thế ở đất Nam Hải là Nhâm Ngao. Trong khi đó, vùng Chân Định hay Long Xuyên xưa được giao cho một viên quan lệnh là Triệu Đà. Triệu Đà từng nhìn thấy Tần Thủy Hoàng đi tuần du ven biển Đông và rất ngưỡng mộ một đại trượng phu như vậy.
Là một viên quan lệnh địa phương, Triệu Đà có trách nhiệm bắt các dân phu phục vụ công trình xây dựng ở Cổ Loa cũng như cho các chuyến đi của Tần Thủy Hoàng. Một lần khi áp giải dân phu, dọc đường dân phu bỏ trốn nhiều, lại gặp trời mưa nên đoàn người bị lạc đường. Triệu Đà biết theo luật nhà Tần nếu đưa dân phu đến muộn và thiếu chắc chắn người đầu tiên bị xử tội chính là vị quan áp giải, nên khi đến vùng đầm nước Dạ Trạch, Triệu Đà cho thả hết dân phu rồi dẫn nhau lên núi ẩn náu, trốn tránh sự truy sát của nhà Tần.
Toàn bộ đám dân phu tử tội tôn người tuấn kiệt là Triệu Đà lên làm thủ lĩnh, bắt đầu cuộc “khởi nghĩa” kháng Tần. Quân khởi nghĩa ngày thì ẩn náu trong đầm lầy hay rừng rú, đêm thì ra cướp bóc, vì tất nhiên, không cướp bóc thì lấy gì mà ăn. Quân Tần gặp phải chiến tranh du kích của người Việt do vậy thường xuyên bị quấy phá, không cách nào dẹp được. Thế lực của Triệu Đà ngày càng lớn, hình thành nhiều vùng căn cứ khác nhau.
Trong quá trình khởi nghĩa ban đầu, tương truyền rằng Triệu Đà đã thấy rồng vàng bay lên bên bờ sông Hồng mà lập đồn quân ở Long Hưng (Xuân Quan), cạnh đầm Dạ Trạch. Cũng truyền thuyết Việt kể Triệu Việt Vương khi ở đầm Dạ Trạch đã được một thần nhân cho một chiếc móng rồng để làm mũ đâu mâu, đánh đâu thắng đó.
Triệu Đà là người quê gốc ở đất Phong Châu, đất tổ Hùng Vương, làm quan ở huyện Chân Định, tức vùng Thái Bình – Nam Định ngày nay. Tại đây ông đã kết duyên với bà Trình Thị Lan Nương, con gái một gia đình khá giả ở trong vùng. Trước đó, ông còn có quan hệ tình cảm với một vị gọi là Quận Phu nhân, cho sống cùng với con trai là Thạch công ở xã Luật Ngoại, đất Chân Định xưa (nay là huyện Kiến Xương, Thái Bình).
Khi Triệu Đà bất đắc dĩ cầm đầu dân phu khởi nghĩa ở đầm Dạ Trạch, 2 vị phu nhân tích cực tham gia tích trữ lương thực, chiêu mộ dân binh, trở thành 2 căn cứ kháng chiến phục vụ cho quân khởi nghĩa. Cứ như vậy trong vòng mười năm.
Khi Tần Thủy Hoàng mất, loạn lạc các nơi nổi lên. Ở vùng nước Sở tại Hồ Nam có nhà họ Hạng, dòng dõi vương tôn quý tộc Sở khởi nghĩa. Ở vùng Quế Lâm và Phiên Ngung, lúc này có họ Lê, là một hậu duệ Hùng Vương, tức là dòng dõi Thục An Dương Vương chiếm giữ. Thế cục thiên hạ uy hiếp trực tiếp đến vùng đất Nam Hải, nên buộc vị quận thủ Nam Hải lúc này là Nhâm Ngao phải tính kế tìm cách tự bảo vệ mình.
Nhâm Ngao bèn phải giảng hòa với quân khởi nghĩa của Triệu Đà, mà lúc này đã lan rộng với các căn cứ từ Thái Bình (Chân Định), Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) và núi Vũ Ninh (Quế Võ, Bắc Ninh). Triệu Đà nhân lúc Nhâm Ngao thất thế đã chiếm luôn quận Nam Hải mà tự xưng là Chúa công, mà sau được các thần tích và sắc phong ở Thái Bình gọi là Nam Hải Đại vương.
Từ bàn đạp là quận Nam Hải, quân Triệu đã tích cực chuẩn bị cho cuộc tranh hùng thiên hạ, mở lò rèn, đúc nên hàng vạn mũi tên đồng trong thành Cổ Loa, với lẫy nỏ đồng được cải tiến, có sức mạnh vượt trội, cùng với hàng loạt những rìu hình “lưỡi cày” cất trong trống đồng Cổ Loa.
Từ Nam Hải Triệu Đà đã hợp quân với Sở tấn công Ung Châu, thủ phủ của quận Quế Lâm. Con trai của thừa tướng Tần Lý Tư là Lý Do trấn thủ tại Ung Châu đã thất thủ, tử trận trọng trận này.
Có thể, trong việc chiếm Quế Lâm còn có sự tham gia của đội quân Hậu Hùng Vương họ Lê là Chàng Út Ngọ Lôi Mao, nên sau đó họ Lê được phong đất tại Quảng Tây và lấy con gái của Triệu Đà. Đội quân họ Lê này sau đó tiếp tục tấn công chiếm được vùng Quảng Đông, chuyển về lập căn cứ ở Phiên Ngung.
Quân khởi nghĩa kháng Tần chia làm 2 hướng tấn công vào Tần đô. Quân Sở đi theo hướng Bắc, gặp nhiều khó khăn vì phải đương đầu với quân chủ lực của nhà Tần do đại tướng Chương Hàm chỉ huy. Quân của Triệu Đà vòng theo hướng Nam, dễ dàng lấy lại được vùng Tượng quận xưa của Tây Âu, rồi tấn công vào đất Ba Thục.
Năm 206 TCN, sử ghi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà giết các trưởng lại nhà Tần, lập tức chiếm Quế Lâm và Tượng Quận rồi xưng là Nam Việt Vương. Cái tên Triệu Việt Vương bắt đầu có từ đây.
Cuộc phân tranh thiên hạ giữa Sở và Triệu còn kéo dài trong nhiều năm. Đã có lúc quân Sở tấn công vào quê hương bản quán của quân Triệu là đất Nam Hải, được các thần tích Việt gọi là giặc Lương. Quân Triệu thiệt hại nặng nề trong trận này. Quận phu nhân và con trai Thạch công của Triệu Việt Vương tử trận trên sông Lịch Bài ở Kiến Xương. Trình phu nhân may mắn hơn, trốn thoát khỏi vòng vây để về hội ngộ với vua Triệu.
Cuối cùng thì thiên hạ được định đoạt về tay họ Triệu. Triệu Đà xưng là Hoàng đế, tức Triệu Vũ Đế, phong Trình Thị là Hoàng hậu. Vị con rể họ Lê ở Phiên Ngung thì được phong là Triệu Vương.
Khi Triệu Đà mất, rồi Trình Hoàng hậu nhiếp chính cũng không được lâu. Năm 190 TCN Trình hoàng hậu qua đời. Triệu Vương ở Phiên Ngung bèn tự lập mình là Đế, dựng cờ tả đạo, đi xe hoàng ốc, sánh ngang với vua Hán. Ngôi mộ Triệu Mạt cùng với ấn Văn Đế hành tỷ tìm thấy ở Quảng Châu là minh chứng cho sự biệt tách Nam Bắc này.
Cuộc đời của Triệu Đà xuất thân là một thường dân áo vải đất Phong Châu, lưu lạc làm quan lệnh Chân Định, khởi nghĩa kháng Tần ở Dạ Trạch và Vũ Ninh, chiếm được quận đô Nam Hải là Cổ Loa, tiêu diệt các quan lại nhà Tần ở Quế Lâm, Tượng Quận, thuần phục được Tây Âu, Mân Việt, mà xưng Vũ Đế. Hành trình lang ba lang bang nhưng đã thống nhất, ổn định được thiên hạ sau nhà Tần, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong sử Việt, chuyển từ thời phong kiến phân quyền cho các chư hầu sang phong kiến tập quyền trung ương thống nhất.
Câu đối về Triệu Vũ Đế ở đình Xuân Quan (Long Hưng điện):
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch nghĩa:
Một lệnh dẹp không Tần, mở ra vạn dặm vời Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, nền móng muôn năm khởi đế vương.
Phủ việt của Nam Hải đại vương Triệu Vũ Hoàng đế ở đền Đồng Xâm.
Sự tích mẫu tử A Dung và Thạch thần hộ quốc ở 2 xã Luật Nội và Luật Ngoại của đất Chân Định xưa chứa đựng những thông tin hết sức kỳ lạ, tưởng chừng như vô lý về thời kỳ Triệu Việt Vương. Chuyện kể bắt đầu từ một vị lệnh doãn huyện Chân Định thời Triệu Đà là dòng dõi Hùng Vương, tức là ở quãng thời gian ít nhất là thế kỷ 3 trước Công nguyên. Thế nhưng, vợ và con của ông lại đánh giặc Lương cho Triệu Việt Vương. Nếu theo sử sách chính thống ngày nay Triệu Việt Vương hay Triệu Quang Phục ở vào quãng thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên, tức cách thời Triệu Đà ít nhất là 800 năm. Vậy Triệu Việt Vương ở Chân Định là ai, làm vua vào thời kỳ nào trong sử Việt?
Đình Luật Nội
Thần tích làng Luật Nội, nơi thờ Thạch Thần Đại tướng quân, nay thuộc xã Quang Lịch, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình chép:
Hùng Tuệ, Lệnh doãn huyện Trực Định nhân chuyến thăm thú hạt huyện, ông tới xã Luật Nội và quyết định xây một dinh sở để Phu nhân Thánh mẫu dưỡng nhàn. Bấy giờ, ông đã 50 tuổi, Phu nhân tuổi cũng ngoài 40. Sau một đêm nằm mộng gặp thần nhân, Phu nhân có thai sinh ra một người con trai khôi ngô tuấn tú, mệnh danh là Thạch Công. Năm lên 16 tuổi thân cao sáu thước, sức khỏe trăm người không địch nổi. Tuệ Công làm sớ tâu lên Triệu Việt Vương. Vương cả mừng, phong cho thân mẫu là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận Phu nhân, tặng 10 hốt vàng, sắc chỉ cho về quê Luật Ngoại viết tên tự hiệu, hưởng lộc trăm năm.
Nước ta bị họa giặc Lương, vua trao cho Thạch Công chức Tổng đốc Kinh lược đốc lĩnh thủy bộ chư quân vụ, kiêm tri Tiết chế bình Lương tặc Đại thần quan Thạch thần Đại tướng quân. Trên đường ra trận, Tướng quân ghé về thăm mẹ, thân mẫu đã chiêu tập được gần 600 tráng đinh trong hạt. Không may trong một trận đánh không cân sức, mẫu tử phải nhảy xuống sông tự vẫn để bảo tồn danh tiết. Nghe tin Triệu Việt Vương vô cùng thương tiếc phong cho Thánh mẫu Phu nhân, Thánh tử Thạch thần Hộ quốc Đại vương.
Còn thần tích Luật Ngoại, là nơi thờ Thánh mẫu (Luật giang linh từ) kể: Thục chúa nghe vua Duệ không có con trai nối dõi, mới dẫn quân mã đến đánh, một trận lấy được nước Nam. Đóng đô ở thành Cổ Loa, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Giữ nước cộng được 50 năm thì có người Chân Định Bắc quốc, họ Triệu tên là Đà, dẫn mười vạn hùng binh tiến thẳng đến nước Nam đánh Thục Vương. Qua ngoài 3 năm, tất cả 105 trận thì Thục Dương Vương mất. Khi ấy Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở An Quảng.
Người phát động hàng chục vạn quân diệt Thục Vương mang họ Triệu thì phải là Tần Vương, vì nhà Tần vốn mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ được phong đất ở Triệu Thành. “Triệu Đà” trong thần tích này là chỉ vua Tần. Câu chuyện ở Chân Định như vậy bắt đầu dưới thời nhà Tần.
Thần tích Luật Ngoại kể tiếp: Lại nói, khi đó nước ta truyền rằng ở động Nghĩa Lĩnh, tổng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao (nay là tại Cổ Tích) có một vị phụ đạo quan lang, là dòng dõi thủy thần trong trăm trứng của Hùng Vương, họ Hùng, tên là ông Tuệ, trấn ở đầu sông (tức nay là sông Đà và sông Nhị Hà), lấy người con gái của vị tiến quan miền núi, tên là nàng A Dung, có nhan sắc tuyệt thế, mặt như kính ngọc không chút bụi, miệng cười như hoa nở…
Lại nói, khi ấy ông Tuệ tinh thông võ nghệ, lại có thuật lạ tài kỳ. Lúc đó Triệu Việt Vương nghe tin ông Tuệ mạnh sánh trăm người, thân dài chín thước, sức có thể bát núi, thường lên rừng đuổi hổ, được nhân dân địa phương đều xưng là thiên tướng giáng trần. Ngay hôm đó Vua mới lệnh cho sứ thần đem chiếu đến triệu Ông vào kinh, hỏi xem tài lạ thuật kỳ. Khi đó ông Tuệ tuân chiếu theo sứ thần đến yết kiến Đế, làm lễ bái tạ, trình tấu văn võ thao lược, binh pháp Thái Công, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Đế bèn phong làm quan doãn huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam Hạ. Ngày hôm đó ông Tuệ liền đi nhận chức.
Người làm quan huyện Chân Định thời Tần chính là Triệu Úy Đà như được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên. Úy Đà được kể là người Chân Định, thời Tần làm quan huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau thay Nhâm Ngao làm Nam Hải úy, khi Tần Thủy Hoàng mất đã giết các quan lại nhà Tần mà xưng là Nam Việt Vương.
Các bài văn tế và sớ tấu của đình Luật Ngoại đều gọi vị Hùng Tuệ Công là “Nam Hải Đại vương“. Một nơi khác ở Kiến Xương thờ Hùng Tuệ Công là thôn Thượng xã Cao Mại (nay là xã Quang Hưng), cũng gọi ông là thần Nam Hải tạo lực. Đồng thời, sắc phong ở đền Đồng Xâm (xã Hồng Thái, cùng huyện Kiến Xương) cho Triệu Vũ Hoàng Đế cho biết tên thờ của Triệu Vũ Đế là “Nam Hải Tôn ninh“. Người làm chủ Nam Hải vào cuối thời Tần thì rõ ràng là Triệu Vũ Đế.
Bái sớ của đình Luật Ngoại.Một mảnh sắc phong của đền Đồng Xâm có ghi: Gia phong Triệu Vũ Hoàng Đế Nam Hải Tôn ninh.
Chuyện lạ là khi Bà A, vợ của Hùng Tuệ Công sinh được người con trai Thạch Công có tướng lạ, Triệu Việt Vương cho gọi đến xem, khen Thạch Công. Nhưng thay vì phong tước cho Thạch Công, Triệu Việt Vương lại sắc phong cho bà mẹ là Quận Phu nhân, còn cho vàng để về làm nơi hưởng lộc trăm năm. Điều này chỉ có thể hiểu nếu Triệu Việt Vương chính là chồng của Bà A, tức ông Hùng Tuệ. Tước vị Quận phu nhân chỉ ra rằng đây là một trong những bà vợ của vua, mang họ Quận.
Quận phu nhân được Tuệ Công cho lưu lại ở Luật Ngoại, “giúp người già, trợ nhà nghèo, đem tài sản mà chiêu kết khách khứa. Những nơi như cầu chính, đường lớn đều được sửa chữa, không nơi nào là không làm“. Hành động này thực chất là chuẩn bị cơ sở cho cuộc khởi nghĩa lâu dài của Tuệ Công. Bà A là một nữ tướng, chứ không phải chỉ là một vị phu thê sinh con đẻ cái bình thường.
Trong thần tích Luật Ngoại, khi hai mẹ con Bà A và Thạch Công đánh giặc lại không hề thấy xuất hiện người cha Tuệ Công, vốn là người có hùng tài đại lược và là quan huyện của khu vực này. Thay vào đó chỉ thấy Triệu Việt Vương phát quân dẹp tan giặc Lương. Chỉ có thể hiểu là Tuệ Công sau khi để vợ và con ở đất Chân Định, gây dựng căn cứ tại đây, đã dẫn quân đi nơi khác, đánh chiếm các vùng đất của nhà Tần mà xưng Vương (Triệu Việt Vương). Điều này hoàn toàn trùng khớp với hành trạng của Triệu Úy Đà được kể trong Sử ký Tư Mã Thiên ở trên, từ việc dời huyện Long Xuyên đến Nam Hải làm quan rồi đánh dẹp nhà Tần.
Trong thời gian loạn lạc, khi Tuệ Công đang dẫn quân đi nơi khác, “giặc Lương” đã tiến đánh vùng căn cứ khởi nghĩa ban đầu của Triệu Việt Vương, nơi có Bà A và Thạch Công đang trấn giữ, dẫn tới việc cả 2 mẹ con đều cầm vũ khí, lên ngựa ra trận mà tử chiến bên sông Lịch Bài.
Câu đối đình Luật Ngoại ca ngợi hình ảnh thánh mẫu cưỡi ngựa trắng, múa bảo kiếm diệt giặc rất đẹp:
紅裙赴敵忠義最家兒戰壘時揮双宝劍
白馬朝天灵聲自終古怒濤猶咽大江流
Hồng quần phó địch, trung nghĩa tối gia nhi, chiến luỹ thì huy song bảo kiếm
Bạch mã triều thiên, linh thanh tự chung cổ, nộ đào do yết đại giang lưu.
Dịch nghĩa:
Hồng quần chống giặc, trung nghĩa thật nữ gia, chiến lũy còn rung hai kiếm báu
Ngựa trắng chầu trời, linh thiêng tự xưa nay, sóng giận bởi nghẹn dòng sông rộng.
Tuệ Công khi đã trở thành Triệu Việt Vương, bèn quay về dẹp tan giặc, nhưng vợ và con của vua đã tử tiết bên sông trên đất Chân Định.
Một điều nữa xác nhận vị trí của Quận Phu nhân là bà được truy phong là Quốc mẫu Vua Bà Đệ nhất Thiên Tiên. Chỉ có thể là vợ của một vị đế vương mới được nhận danh phong như vậy. Đình Luật Ngoại nay được xây dựng với 2 lầu gác cao ở 2 bên, đề Long lâu và Phượng các (Lầu rồng, Gác phượng). Chỉ có nơi thờ các bậc vương giả mới có thể dùng những chữ như vậy.
Qua thần tích và di tích thờ Bà A Thánh mẫu và Thạch Thần Đại tướng quân ở Kiến Xương có thể rút ra một số thông tin đặc biệt quan trọng về thời kỳ khởi nghĩa của Triệu Vũ Đế:
– Triệu Vũ Đế là dòng dõi họ Hùng, quê gốc ở vùng Phong Châu – Phú Thọ.
– Triệu Vũ Đế ở vùng Thái Bình được gọi là Triệu Việt Vương. Phân biệt với vị Triệu Quang Phục sau này, hy sinh ở cửa biển Đại Ác bên Nam Định. Rất có thể ở các nơi khác, nhất là vùng Long Biên hay Hưng Yên, tên gọi Triệu Việt Vương cũng là chỉ Triệu Vũ Đế.
– Vùng Chân Định (Thái Bình – Nam Định) xưa là khu vực ban đầu khởi nghĩa của Triệu Việt Vương – Triệu Vũ Đế. Sự tích Việt chép là vùng đầm Dạ Trạch. Khu vực này cách nay hơn 2000 năm đúng là một vùng đầm phá ven biển. Cái tên “Đầm” còn lưu ở ngay trong tên gọi địa phương Đồng Xâm hay Đường Thâm, đều là những từ phiên thiết của chữ Đầm.
– Người vợ ban đầu của Triệu Vũ Đế là Quận phu nhân, đã cùng chồng gây dựng căn cứ kháng chiến và tử trận cùng với người con trai trước khi ông thành nghiệp đế vương. Do đó bà không được gọi là Hoàng hậu, nhưng được tôn phong là Vua Bà.
Câu đối ở đình Luật Ngoại sánh Quốc mẫu Vua Bà A với Hai Bà Trưng:
浩氣塞滄渙節烈一門皇趙日
芳名傳國母頡頏千古二徵間
Hạo khí tắc thương hoàn, tiết liệt nhất môn Hoàng Triệu nhật
Phương danh truyền quốc mẫu, hiệt hàng thiên cổ Nhị Trưng gian.
Dịch nghĩa:
Chí lớn trùm sóng khơi, tiết liệt một nhà thời Vua Triệu
Danh thơm truyền quốc mẫu, vút bay ngàn thủa sánh Hai Trưng.
Bộ chấp kích trong đình Luật Ngoại thờ Quốc mẫu Vua Bà.Đình Luật Ngoại với Lầu rồng Gác phượng.
Thần tích xã Luật Ngoại, Quan Lịch, Kiến Xương, Thái Bình.
Chính bản ngọc phả về công thần của Việt Vương Bà A Phu nhân Trang Thục Công chúa và Thạch Thần Đại vương do Quận công tước bộ Lễ quốc triều phụng soạn (bộ thứ ba).
Xưa nước Việt ta xét trục Ly Khảm núi sông phân ngang theo sao Dực Chẩn, Bắc quốc ban đầu nằm thẳng hướng phân theo sao Đẩu Ngưu. Từ Kinh Dương Vương ngự trị Nam Bang, gặp bà Tiên Vụ Nương, ở tại thành Phong Châu (tức nay là sông Bạch Hạc, sông Nhị Hà). Vua dạy dân cày cấy, đào giếng làm ruộng, bốn phương an bình. Nước không có tục dối trá, dân được yên vui. Khi đó Đế sinh được Lạc Long Quân kế ngôi. Xã tắc trải qua 400 năm thì Đế truyền ngôi lại cho Hùng Quốc Vương, Hùng Hy Vương, Hùng Hoa Vương, Hùng Huy, Hùng Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Uy Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Võ Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Định Vương, Hùng Triêu Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghị Vương tới Hùng Duệ Vương.
Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, trong sửa văn đức, ngoài phòng biên phương, dốc ý hưng bình để yên Trung Quốc. Khi Vua tuổi thọ đã cao, sinh được 20 hoàng tử và 6 công chúa đều theo nhau về tiên hương. Chỉ còn 2 con gái, tên là công chúa Tiên Dung, gả cho Chử Đồng Tử ở xã Đa Hòa, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu. Còn người thứ hai tên là công chúa Mị Nương Ngọc Dung được gả cho Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hóa. Khi đó, Thục chúa nghe vua Duệ không có con trai nối dõi, mới dẫn quân mã đến đánh, một trận lấy được nước Nam. Đóng đô ở thành Cổ Loa, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Giữ nước cộng được 50 năm thì có người Chân Định Bắc quốc, họ Triệu tên là Đà, dẫn mười vạn hùng binh tiến thẳng đến nước Nam đánh Thục Vương. Qua ngoài 3 năm, tất cả 105 trận thì Thục Dương Vương mất. Khi ấy Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở An Quảng.
Lại nói, khi đó nước ta truyền rằng ở động Nghĩa Lĩnh, tổng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao (nay là tại Cổ Tích) có một vị phụ đạo quan lang, là dòng dõi thủy thần trong trăm trứng của Hùng Vương, họ Hùng, tên là ông Tuệ, trấn ở đầu sông (tức nay là sông Đà và sông Nhị Hà), lấy người con gái của vị tiến quan miền núi, tên là nàng A Dung, có nhan sắc tuyệt thế, mặt như kính ngọc không chút bụi, miệng cười như hoa nở. Tuổi quãng 18 mà có vẻ chim sa cá lặn, đúng là diện mạo nguyệt thẹn hoa nhường. Tứ đức không thiếu, tam tòng gìn giữ. Vợ chồng một nhà trung hậu, nối được nghiệp của một gia tộc có tiếng trên đời.
Lại nói, khi ấy ông Tuệ tinh thông võ nghệ, lại có thuật lạ tài kỳ. Lúc đó Triệu Việt Vương nghe tin ông Tuệ mạnh sánh trăm người, thân dài chín thước, sức có thể bát núi, thường lên rừng đuổi hổ, được nhân dân địa phương đều xưng là thiên tướng giáng trần. Ngay hôm đó Vua mới lệnh cho sứ thần đem chiếu đến triệu Ông vào kinh, hỏi xem tài lạ thuật kỳ. Khi đó ông Tuệ tuân chiếu theo sứ thần đến yết kiến Đế, làm lễ bái tạ, trình tấu văn võ thao lược, binh pháp Thái Công, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Đế bèn phong làm quan doãn huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam Hạ. Ngày hôm đó ông Tuệ liền đi nhận chức.
Qua hơn một năm, một hôm, ngày mồng 10 tháng 3 Ông quay về cùng với vài chục gia thần, đi xem phong cảnh, xem xét động tĩnh trong nhân dân. Lúc ông đến xã Luật Nội, nhân dân làm lễ bái hạ, thì mặt trời đã gác núi, trời đã sắp tối. Ông cùng quân sĩ lưu ở trong ấp. Đến sáng ngày Ông ra xem vùng đất này, trông thấy địa thế rồng uốn khúc khuỷu, nước chảy quanh co, trống chiêng la liệt, gò đống dẫn mạch, tất cả đều quay về chầu vào chính cục. Quan huyện thả phóng tầm mắt, bèn truyền nhân dân lập một cung sở ở tại nơi đất có thế cục quý. Được một tháng làm xong thì giao cho A Phu nhân ở đó mà giúp người già, trợ nhà nghèo, đem tài sản mà chiêu kết khách khứa. Những nơi như cầu chính, đường lớn đều được sửa chữa, không nơi nào là không làm.
Khi ấy vị quan tuổi đã ngoài năm mươi, phu nhân tuổi chưa đến bốn mười, nhưng lại chưa được trải lúc sinh con, vì thế thường không vui. Một hôm Ông mới than rằng:
Nhà ta vốn là dòng dõi đế vương, 122 năm trị nước Nam, tới như vợ chồng ta tự cố gắng không hề có mảy may làm ác. Thế mà vợ chồng ta lại chưa có người kế tự, sau khi trăm tuổi biết ai là người hương khói. Chi bằng ta hãy cố gắng tìm kiếm nơi đền thiêng mà cầu đảo, cầu khấn để có con trai nối dõi.
Nói xong lại nghe rằng đền Phù Đổng Thiên Vương ở thôn Phù Minh, xã Phù Đổng, tổng Tiên Du, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc, có ngôi đền rất linh ứng, cầu gì được ứng, xin nguyện sẽ được theo ý, nước khấn dân cầu có nhiều linh ứng. Hôm đó ngày mồng 9 tháng 4 mới soạn lễ chay đến thẳng nơi đền làm lễ tâu rằng:
Vợ chồng thần ở nơi trần thế chưa có con trai nối dõi.
Chúc xong thì ở lại trong đền để cầu mộng. Đến nửa đêm phu nhân nửa tỉnh nửa mê thấy trong đền sáng rạng, lại thấy có một người từ trên điện xuống, đứng trước điện nói rằng:
Vợ chồng các người đúng là chăm làm việc thiện nên thiên đình cảm được đức đó. Thượng đế trên thiên đình ban cho một vị nam tử tên là Thạch Thần Đại tướng quân đầu thai nhập vào phu nhân làm con trai. Hãy mau mau quay về lập một bức tượng đá ở nhà, ngày đêm thắp hương đèn mà cầu. Ta tất sẽ ứng cho. Chớ tiết lộ! Chớ tiết lộ! Hãy cẩn thận! Hãy cẩn thận!
Dứt lời bay lên không mà biến đi. Lại nghe trên không trung có tiếng nhạc nổi lên rất to, tiếng vang liên hồi bên tai, đột nhiên tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Lại làm lễ tạ rồi quay về nhà, làm một tượng đá, thắp hương cầu chúc.
Qua một tháng quả nhiên phu nhân có mang. Mang thai 11 tháng tới mùa xuân giờ Dần ngày 15 tháng Giêng thì sinh (năm Giáp Tý). Ở nơi sinh khi đó có khí lành bao phủ, hương thơm đầy nhà, khi sinh có tướng mạo đường đường, uy nghi lẫm liệt, mặt như mặt trời lúc sớm, sau lưng lại có dòng chữ: “Thạch Thần Đại tướng quân”, bụng to, rốn sâu, chân có 7 chòm lông màu đỏ, thực có tướng kỳ dị.
Cha mẹ đều yêu quý, nuôi dưỡng. Đến khi lên ba tuổi đã hiểu âm luật. Thân phụ mới đặt tên là Thạch Công. Rồi ngày qua tháng lại, xuân sinh hạ trưởng, khi Ông được 16 tuổi thân dài 6 thước, có dũng khí trăm người không địch. Khi ấy quan huyện thân phụ làm sớ tâu lên Hoàng đế Triệu Việt Vương. Đế nghe vậy bèn gọi ông Thạch đến nói chuyện, biết được tướng mạo đúng như sớ tấu. Đế chắp tay nói:
Trời vì ngôi báu của ta mà sinh ra vị hiền tài trợ giúp. Ta thật may mắn vậy.
Bèn gia phong thân mẫu là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận phu nhân. Ban cho 10 nén vàng cho về ở Luật Ngoại để khi trăm tuổi thờ phụng tên húy tự đúng như sắc chỉ. Không được di dịch.
Hôm đó mồng 5 tháng 5 Phu nhân tuân mệnh Đế trở về cung sở ở xã Luật Ngoại, mở tiệc khao tiếp phụ lão nhân dân. Ba ngày sau nói với phụ lão nhân dân rằng:
Dân chúng cùng với ta vốn là ơn sâu đức dày, đâu phải chuyện mới ngày một ngày hai. Nay ta có ba nén vàng đem cho phụ lão nhân dân để dựng một nơi đền dựa Mão hướng Dậu mà làm nơi phụng thờ ta, cứ tuân theo lời của ta, không được thay đổi.
Lại nói, khi đó đất nước có quân Lương vào cướp bóc của cải ở Cao Bằng, Tụ Long, châu Bảo Lạc tới 12 động châu trang trại của đạo Hưng Hóa, chiếm 4 phần 10 của thiên hạ. Các quan địa phương không thể chống cự. Hôm đó, quan địa phương mới dân sớ tấu lên Đế. Đế nghe vậy rất lo lắng việc này, mới triệu tập trăm quan văn võ tại chính sân rồng để nghị luận chống giặc. Trăm quan văn võ triều đình dương mắt nhìn nhau, bó tay không có kế sách nào khả thi. Thế là lúc đó ông Thạch tâu thẳng với Đế rằng:
Thần xin được thay thánh giá tự tìm các tướng tài, xin cho 12 vạn tinh binh, 100 con ngựa tốt, 1000 chiến thuyền thì giặc Lương có thể dẹp được. Không quá một tháng đầu tướng giặc sẽ treo dưới trướng.
Tâu xong, Đế rất vui mừng. Hôm đó ngày mồng 1 tháng 7 tuyển chọn được 8 vạn quân, 13 viên danh tướng, bèn gia phong ông Thạch là Tổng đốc kinh lược, đốc lĩnh các việc quân thuỷ bộ, kiêm là quan đại thần tiết chế bình giặc Lương Thạch Thần Đại tướng quân. Phong xong, Ông phụng lệnh Đế, dẫn quân mã tiến công.
Khi đó Ông tiện đường quay về đến Luật Ngoại bái tạ thân mẫu. Phu nhân bỗng nhiên nổi chí tang bồng, phấn khích lòng hồ thỉ, coi giặc Lương nhẹ như lông hồng. Hôm đó bà cùng con trai Thạch công lấy các nghĩa binh mạnh khỏe ở xã Luật Ngoại là 100 người, Luật Nội là hơn 200 người làm gia thần tay chân. Lại lấy 36 người ở Nam Đường Lũ Khu, 150 người ở xã Thân Thượng, 56 người ở 2 thôn Đông Đoài của Hương Nghĩa, 20 người ở Bạt Trung Ngoại, 80 người ở Cao Bạt làm gia tướng.
Hôm ấy chia quân làm hai đạo. Một đạo tiến thuyền theo đường Ái Châu. Lúc đó Quận phu nhân tay cầm song kiếm, cưỡi ngựa trắng. Thạch Công tay cầm đao sắt, cưỡi ngựa hồng, cùng tiến vào đồn giặc ở bến Hương Xá Đông Yên, phủ Khoái Châu, sau lại ở châu Tự Nhiên ra vào giao chiến với giặc Lương. Qua hơn 5 tháng, cộng 35 trận, chém 100 đầu danh tướng, thắng bại chưa phân.
Khi ấy, mẹ con mới thu quân mã trở về Chân Định. Quận phu nhân thiết lập một đồn dinh ở xã Luật Ngoại để kiên trì chống giặc. Hôm đó, Thạch Công cũng truyền nhân dân Luật Nội lập một đồn chống giặc. Trải qua một tháng, quân mã hy sinh quá nửa. Mẹ con biết khó thoát mới ngẩng mặt lên trời than rằng:
Trời hại ta, không phải mắc tội vì chiến đấu.
Mới thấy trời đất mờ tỏ, mưa to gió lớn, giữa ngày mà như đêm. Mẹ con chạy tới bến bãi sông Lịch Bài, thấy một cây gỗ lớn ở đó. Cây gỗ hổng nửa bên trong. Mẹ con nhập thẳng vào lỗ hổng. Được một khắc, nước lớn dâng cao, mẹ con cùng mất. Hôm đó ngày mất là ngày 15 tháng 8.
Lại nói, khi ấy có vị Đại úy Nguyễn Đạt thấy hai vị đã hóa bèn làm biểu tấu lên Đế. Đế mới dẫn ba quân chia binh làm ba đạo, đồng thời tiến đánh, phá tan tướng giặc, thế như chẻ tre, bẻ củi khô, truy bắt các tướng giặc như sấm nổ, sét giật. Các tướng cùng quân sĩ đều bị chết đuối. Sông không thể chảy. Đồ khí giới vứt như gò núi. Quân giặc đại loạn bỏ chạy. Đế bắt sống chủ tướng, một xe không quay được, một ngựa không còn. Cả vùng sạch bóng giặc.
Đế lại rất thương cảm Quận phu nhân cùng với con trai là Thạch Công, một nhà mẹ con đã tận trung. Hôm ấy xa giá đến nơi hóa bên sông, truyền cho phụ lão hào mục Luật Nội, Luật Ngoại ra bến sông kéo cây gỗ lớn, chia làm hai đoạn, lập thành hai bức tượng, dựng hai miếu để phụng thờ. Đế lại gia phong sắc chỉ:
Một vị Bà A Thánh mẫu Phương Dung Quận phu nhân (cho Luật Ngoại phụng thờ).
Một vị Thạch Thần Hộ quốc Đại vương (cho xã Luật Nội xã phụng thờ).
Lại nói, sau khi hai vị đại vương mất có nhiều anh linh, quốc đảo ân cầu rất hiển ứng nên các đời đế vương đều truy phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, cùng hưởng với nước nhà, mãi theo cách thức đó vậy. Cho đến triều Lê, Thái tổ Cao Hoàng đế mệnh đại thần là quan Thái úy Nguyễn Kim dẫn quân đi thảo phạt các tướng Liễu Thăng, Mộc Thạch, Hoàng Phúc. Quân đi qua hai xã, thấy miếu thờ đại vương sáng rạng, hương khói không ngừng, mới chúc rằng:
Hai vị tôn thần xin âm linh bảo vệ quốc gia, bình thảo được giặc.
Chúc xong, bỗng thấy trên điện xuất hiện một nữ nhân, một nam nhân, tự xưng:
Một là Quận phu nhân Bà A phu nhân và một là Thạch Thần Đại vương, chính là những danh tướng của Việt Triệu Hoàng đế. Mẹ con trung thần có một không hai. Nay thấy nước nhà có cầu đảo, mẹ con bầy tôi xin theo quan tướng đi chinh phạt. Xin báo để quan tướng biết.
Đêm đó quan Nguyễn Thái úy khấu đầu bái tạ, rồi cử binh tiến thảo giặc ở thành Lạng Sơn. Liễu Thăng thua chạy, chạy thẳng về thành Lạng Sơn. Chém được chủ tướng cùng các quân sĩ. Hôm ấy quan Thái úy dẫn quân sĩ khải hoàn trở về, làm biểu tấu lên Đế. Đế nghe việc thần thiêng đã âm phù giúp nước, dẹp yên giặc, bèn gia phong thêm mĩ tự ba chữ:
Gia phong Vua Bà A Phương Dung Trinh Thục Phu nhân.
Gia phong Thạch Thần Linh ứng Hộ quốc Tế thế Đại vương
(chuẩn cho hai xã Nội Ngoại cùng phụng thờ)
Phong sắc các lệ của hai vị đại vương:
Chính lệ ngày 15 tháng 10, lễ cúng tam sinh, rượu hoa cúc, ca hát ba ngày thì ngừng.
Cấm chữ húy là A, Thạch hai chữ nhất thiết cấm. Các màu vàng và trắng khi nhân dân làm lễ không được mặc, nhất thiết cấm.
Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất, tháng giữa đông ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ, bề tôi Nguyễn Bính phụng soạn.
Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ năm mồng 1 tháng 10, Quản giám tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng sao tuân theo đúng như bản chính trước đây.
Các kỳ sinh nhật của hai vị cứ theo như ngày tháng năm trong tích mà làm lễ, dùng lễ tam sinh, ca hát ba ngày thì dừng.
Trong ngày hóa việc ca hát nhất thiết cấm, chỉ tổ chức đánh cờ ba ngày thì dừng.
Sinh thời Triệu Việt Vương Thánh mẫu khâm phụng được phong mỹ tự là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận Phu nhân (Sau khi hoá phong Thánh mẫu Vua Bà A Quận phu nhân).
Thái tổ triều Lê gia phong Quốc mẫu Vua Bà A Phương Dung Trinh Thục Phu nhân Thượng đẳng phúc thần.
Nguyên bản ngọc phả ở miếu trước đây lưu giữ để phụng thờ, sau do biến loạn bị hỏng, nên mới dám tìm phụng sao bản chính của xã Luật Nội vào thời Việt Nam dân chủ cộng hoà, năm Nhâm Thìn tháng 5 ngày tốt.
Văn tế cầu phúc xuân thu
Cung duy!
Đại vương
Vụ tinh dục tú
Thái nhạc chung anh
Đức hoằng khôn tải
Công đại khiêm chinh.
Lịch giang kiếm kích ba trừng, nhất môn nghĩa liệt
Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với các nấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới. Một triều đại mới lập nên kèm theo việc định cư người dân ở các vùng đất mới dưới một chế độ quản lý mới. Đây cũng là những mốc phát triển cương vực của nước ta trong thời đại Hùng Vương.
Những cuộc di cư, phân chia đất đai lãnh thổ được nói tới khá rõ ngay trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả. Trước tiên đó là cuộc chia tay lịch sử giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.
Người con trưởng là Hùng Quốc Vương theo mẹ Âu Cơ lập nước Văn Lang, lên ngôi vua: Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ.
Như thế, các vị sơn thần và thủy thần đều là những người con cùng bọc đồng bào đã chia ra trăm nơi đầu non góc bể trấn giữ, rồi mới hóa thần. Dấu vết của cuộc “đại phong thần” thời Hùng Vương này còn in đậm lưu truyền tới ngày nay qua các di tích thờ phụng các vị sơn thần thủy thần trải khắp từ miền trung du đất tổ Phong Châu tới vùng đồng bằng sông Hồng ven biển. Lần theo các di tích đền miếu còn lại và những sự tích lưu truyền có thể phục dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những cuộc chiến và di cư ở mỗi giai đoạn dựng nước.
GIAI ĐOẠN SƠN TRIỀU HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ
Câu đối ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh khái quát về giai đoạn “có tổ” của người Việt: Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn. Dịch: Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.
Hữu Hùng Đế Minh mở vạn bang chư hầu thiên hạ
Huyền sử Việt bắt đầu bằng Truyện Họ Hồng Bàng có Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên mà sinh ra Lộc Tục… Còn Đại Việt sử ký toàn thư mở đầu bằng câu “Thủa Hoàng Đế mở muôn nước”, nói tới cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên với Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, được huyền sử Việt chép là Đế Minh.
Ba vị quốc tổ Hùng Vương được thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và khắp các nơi trên vùng đất tổ Phong Châu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn Tây) là:
Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh Vương;
Viễn Sơn Thánh Vương;
Ất Sơn Thánh Vương.
3 vị Sơn Thánh là 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời Hồng Bàng, có trước thời Lạc Long Quân nên tương ứng đó là các vị Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục như kể trong Truyện họ Hồng Bàng.
Cuộc chiến lập ra thiên hạ Họ Hùng đầu tiên được lưu truyền rõ nhất trong sự tích vùng núi Tây Thiên.Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên đã hội quân ở Đại Đình dưới chân núi Tam Đảo, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng đầu tiên là Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất. Công Cha như núi Thái Sơn ở Nghĩa Lĩnh – Phong Châu. Nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) của Tam Đảo chảy mãi không ngừng.
Tam vị Thánh Tổ họ Hùng được thờ rộng khắp trên miền đất tổ Phong Châu mà trung tâm là núi Hùng Nghĩa Lĩnh ở Việt Trì, mở ra miền ngược ở Thanh Ba, Hạ Hòa, Yên Bái, hay sang phía Đông qua sông Lô tới Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.
Xuôi sông Hồng, di tích thờ Hùng Vương Thánh Tổ ở đồng bằng phía Nam không nhiều, nhưng có thể kể đến: đình Đống Long ở xã Hòa Lâm, Ứng Hòa, Hà Nội thờ Đột Ngột Cao Sơn; đền Khả Phong ở Kim Bảng, Hà Nam thờ vua Hùng Cao Sơn, các đền ở xã Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình thờ vọng quốc tổ Hùng Vương. Ở nội thành Hà Nội từng có đền thờ vua Hùng, nay là đền Dâu (Thuận Mỹ) tại phố Hàng Quạt. Ngoài ra đáng kể là một số các đình ở ngay giữa khu phố cổ Hà Nội như đình Kim Ngân thờ Hiên Viên Hoàng Đế với tư cách là tổ bách nghệ.
Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn
Tiếp theo thời kỳ Sơn triều mở nước của 3 vị Thánh tổ Hùng Vương là thời kỳ của Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, gặp và lấy mẫu Thần Long Động Đình. Chuyện này cũng là việc Tản Viên Sơn Thánh cùng vui với các loài thủy tộc ở bộ Gia Ninh và kết thân với Thủy Tinh Động Đình thủy phủ. Kinh Dương Vương và Tản Viên Sơn Thánh đều được gọi là Nam Thiên Thánh Tổ, chỉ cùng một nhân vật trong lịch sử trời Nam.
Là vị Thánh tổ của trời Nam nên số lượng nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh trải khắp miền Bắc, nhưng tập trung nhất là ở vùng Sơn Tây. Nơi đây các di tích thờ Thánh Tản dày đặc thành từng cụm, được biết dưới tên Ngũ thần cung Tản Viên, cũng là vùng Ngũ Lĩnh nơi Kinh Dương Vương đi tuần phương Nam.
Ngũ hành cung Tản Viên hình thành một khu vực “kinh đô” của thời kỳ Kinh Dương Vương, được truyền thuyết gọi là Ngũ Lĩnh. Mỗi một “Lĩnh” hay một “thần cung” là một khu vực, trong đó lại bao gồm nhiều các “hành cung”, nay là các đền, đình, di tích thờ Tản Viên Sơn.
Thượng Thần cung: là cụm di tích đền Thượng, đền Hạ, đền Trung ở núi Tản Viên. Đây là nơi thờ các bậc tiên tổ Thái Bạch Kim Tinh, Ma Thị Cao Sơn, Quốc mẫu Đinh Phi.
Hạ Thần cung: là khu vực thấp của vùng Bể Cạn (Hạc Hải) xưa, với các di tích như đình Thụy Phiêu, Văn Khê. Đây là nơi diễn ra cuộc giao chiến Sơn Tinh với Thủy Tinh.
Trung Thần cung: là vùng “hạ điền” (ruộng hè) xưa, gần với ngã ba Bạch Hạc, được thần tích gọi là vùng Cổ Đằng, Tam Vật Lại. Vùng này là nơi Thánh Tản dạy dân cày cấy, đánh cá, chăn nuôi…
Tây Thần cung: là vùng giáp sông Đà với các di tích Ngọc Nhị, Bằng Tạ, Khê Thượng. Đây cũng là nơi có bãi Trường Sa (bãi dâu Tang Ma), chốn Sơn Tinh cứu sống con rắn thần Thủy Tinh và cũng là chuyện Kinh Dương Vương gặp Thần Long Động Đình.
Đông Thần cung: nổi tiếng được biết là đền Và, cùng với đền Ngự Dội ở bên kia sông Nhị. Đây là nơi yết triều của Kinh Dương Vương.
Nam Thần cung: là vùng Thánh Tản đi săn ở xứ Mường Mang Sơn, Quang Diệu.
Bắc Thần cung: vùng phía bên kia sông Hồng, với những di tích như đền Thính, đền Tranh ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
Từ vùng kinh đô Ngũ Lĩnh này Kinh Dương Vương – Tản Viên đã khai mở quốc gia về các hướng Đông Tây Nam Bắc, cùng với “Tứ phủ Công đồng đi tuần trong nhân gian“, thực sự đã làm nên một cuộc “Đẻ Đất Đẻ Nước” trong lịch sử nước Xích Quỷ thời đầu Kinh triều.
Ở vùng phía Nam sông Hồng, di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh có thể kể đến khu vực Ứng Hòa, Hà Tây cũ; quần thể đền Tam Thôn gồm đền Kê Thượng, đền Kê Hạ và Miễu Sơn ở xã Ninh Vân của Hoa Lư, Ninh Bình. Việc thờ Thánh Tản ở vùng Hà Nam và Nam Định thường là thờ cùng trong bộ ba Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
Một điểm đặc biệt của khu vực đồng bằng Nam sông Hồng là tục thờ thần Hậu Tắc, nhất là ở vùng hành cung tịch điền thời Lý Trần tại xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định. Về Hậu Tắc có câu chuyện bà Khương Nguyên sinh con ra bỏ trong rừng, được muông thú che chở nuôi nấng, chính là một cách kể khác của truyền thuyết về Kỳ Mạng Tản Viên Sơn Thánh. Hậu Tắc được nhà Lý tôn là Thiên Tổ Địa Chủ Xã Tắc Đế Quân, là vị Đế Tổ sánh ngang thời với Kinh Dương Vương mở nước.
Ngũ Lĩnh và Động Đình.
GIAI ĐOẠN KINH TRIỀU LẠC LONG QUÂN
Câu đối ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình): Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh. Dịch: Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.
Cuộc tranh đoạt giữa Lạc Long Quân và Đế Lai
Sau thời Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã đi nốt chặng đường khởi dựng nhờ hòa hợp 4 tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc trong chuyện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân nhờ sự hỗ trợ của dòng tộc bên mẹ ở Động Đình (biển Đông) đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng Hữu Hùng phương Bắc là Đế Lai.
Truyện Họ Hồng Bàng mô tả cuộc chiến này: “Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.”
Cuộc chiến cách nay 4000 năm này đã khởi đầu thời kỳ thị tộc phụ đạo và còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua Cha của Thoải phủ, đã tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.
Nếu vùng Phong Châu là vùng đất tổ với tục thờ các vị Hùng Vương Sơn Thánh thì vùng đồng bằng Nam sông Hồng lại là khu vực đậm đặc các di tích thờ các vị thủy thần của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống khai phá miền biển Động Đình. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết Lạc Long Quân “hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân” nên đức vua cha Bát Hải Động Đình của Thủy phủ chính là Lạc Long Quân. Đền thờ chính của Bát Hải Động Đình là đền Đồng Bằng ở Thái Thụy, Thái Bình. Gắn liền với vua cha Bát Hải là Ngũ vị Tôn quan, mà điển hình nhất là Quan Đệ Tam ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên, Hà Nam) và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương.
Trong Truyện Hồ Tinh thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây trong Hà thư. Dòng tộc của Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là Thục (từ “thục” trong tiếng Nôm có nghĩa là “chín”, đồng âm với số 9, chỉ hướng Tây).
Câu chuyện về Thánh Tam Giang ở Ngã Ba Bạch Hạc thi tài giữa thần Thổ Lệnh và Thanh Khanh cũng chính là giữa Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Thổ Lệnh được thờ ở vùng Thường Tín, Phủ Lý với tên Trung Thành Phổ Tế Đại Vương, với sự tích gắn với Ngã Ba Bạch Hạc rất rõ như kể ở đền Đa Chất (Phú Xuyên).
Xuyên suốt từ Ngã Ba Hạc ra tới cửa Ba Lạt là tục thờ Linh Lang Đại Vương tuy bị chép vào nhiều thời kỳ khác nhau, từ thời Hùng chống Thục ở Vụ Bản, Nam Định, tới thời Lý, rồi thời Trần. Thực ra tất cả chỉ có 1 vị Linh Lang thời Hùng Vương đã đánh Thục thắng lợi như trong thần tích ở Duyên Trường, Vụ Bản, Nam Định. Linh Lang chính là Lạc Long Quân, người đã thắng trận chiến tranh giành quyền lực với dòng lên núi của Đế Lai. Linh Lang là vua của Thủy phủ Động Đình, lấy hồ Dâm Đàm làm kinh đô của Thủy quốc. Các di tích thờ Linh Lang chạy dọc theo sông Cái từ Hồ Tây – Thanh Trì – Lý Nhân ra đến tận Thái Bình và cửa Ba Lạt.
Thế tộc Tản Viên.
Một vị thủy thần phổ biến khác là Quý Minh, thường chép là Hữu kiên thần trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh với xuất xứ từ vùng bãi dâu Tang Ma bên sông Đà, có mang danh là Lãng Nhạc Quý Minh, chỉ rõ là dòng Thủy thần. Nhiều nơi Quý Minh được phong là Đông Hải Đại vương cũng chứng tỏ điều này. Ngay cái tên Trần Quý Minh như ở đền Nội Lâm tại Hoa Lư cũng mang nghĩa là vị thần trấn Đông (vì Trần là Đông A), hay thủy thần vùng ven biển Đông. Tương tự chuyện Linh Lang đánh Thục, Quý Minh chống Thục là cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân chống lại dòng Đế Lai. Quý Minh có thể chính là Lạc Long Quân hoặc người em thứ 3 cùng bọc, tức là Quan Đệ Tam Thoải phủ.
Phổ biến ở Hà Nam và Nam Định thờ vị thủy thần Câu Mang Đại Vương, cũng là một trong Ngũ phương Đế của Đạo Giáo. Ngũ đế của Đạo Giáo có thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thượng đế, Đông Hải quân. Có thể thấy thần Câu Mang hay Cao Mang tương đương với Đông Hải Quý Minh.
Còn nhiều hình thức thờ các vị Thủy thần khác ở vùng đồng bằng Nam sông Hồng bởi đây là khu vực của Thủy quốc Động Đình vào thời 4000 năm trước, khi nước sông và biển đang rút dần, mở ra vùng đầm phá, nơi con người có thể sinh sống, làm nghề đánh cá, sống lênh đênh trên sông nước. Đặc điểm chung của các thủy thần thời này là có xuất thế là Rắn hoặc Rồng, từ cùng một bọc 2, 3 hay 5 trứng, nở ra các vị tướng có công chống giặc Thục hoặc giặc Hồ, hoặc có sự tích giúp dân hộ đê hoặc cầu mưa. Không ít nơi kể chuyện ông Dài ông Cụt, khi có 1 vị thủy thần anh em đó bị mất đuôi.
Sự kiện rồng Lạc “cụt đuôi” có thể giải thích chính là trong truyện về Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử như một giai đoạn ngắt quãng của Lạc triều khi cướp công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng làm chủ một phương, rồi bay về trời. Di tích thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở Nam sông Hồng chủ yếu gần ven sông như khu vực bãi Tự Nhiên ở Thường Tín, đền Lảnh Giang ở Duy Tiên, Hà Nam và một số di tích lân cận, tới tận Ý Yên, Nam Định..
Những vị thủy thần ở vùng Nam sông Hồng có thể kể đến 5 anh em Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Xuyên, Quảng Tế, Quảng Hóa ở khu vực Duy Tiên – Cầu Giẽ – Chương Mỹ, hay Tam Lang Long Vương từ trên khu Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) xuống Vụ Bản (Nam Định), các vị thủy thần trong đình Công Đồng ở làng Tiên Lý (Bình Lục, Hà Nam), đình Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín)…
Cuộc chiến về lại đất Lạc của Thục Chúa
Dòng tộc Đế Lai di dời về phía Tây, trải qua gần ngàn năm tới thời “Hùng Vương 18” đã trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Chúa phát động một cuộc đại chiến mà các Ngọc phả về Tản Viên Sơn ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với quân Thục lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương.
Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Thái tổ Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của dòng sơn thần theo Mẹ lên núi của người Việt.
Âu Cơ được thờ chính ở đền Hiền Lương tại Hạ Hòa, Phú Thọ, và một vài nơi khác ở miền xuôi như đền Thuận Mỹ ở Hà Nội, đình Ngọc Trục ở Đại Mỗ, Hà Tây xưa.
Cuộc chiến Âu – Lạc là nền tảng lịch sử cho việc thờ các vị Lạc tướng Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.
Trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh thì Tả kiên thần Cao Sơn còn được gọi là Nộn Nhạc Cao Sơn, là Sơn thần nên chỉ thỉnh thoảng bắt gặp một số di tích thờ ở vùng Nam sông Hồng. Làng Trung Kính Thượng tại Hà Nội thờ Hùng Nộn Công là một hình thức của Nộn Nhạc Cao Sơn Đại vương. Một số di tích ở Ninh Bình thờ Cao Sơn là Lạc tướng Vũ Lâm cũng có thể được nhận định là ở thời kỳ này.
Các vùng di tích Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
Vùng Phong Châu gặp nhiều di tích thờ Cao Sơn và các vị tướng chống Thục hơn bởi vì nơi đây đã diễn ra cuộc đụng độ giữa dòng Hùng Vương và Thục Vương trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Ví dụ:
Ở Quế Nham (Đồng Quế, Sông Lô, Vĩnh Phúc) thờ 4 vị đại vương là danh tướng theo Sơn Thánh đánh Thục.
Ở Hương Lan (Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ) thờ 3 vị Chàng Chấu Linh Lang đại vương, là tùy tòng hầu kiệu của Duệ Vương.
Ở Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ) thờ Tả hữu kiên thần Cao Sơn, Quý Minh và Cương Trực tướng quân.
Sự kiện Hùng chống Thục thời Cao Sơn Đại vương diễn ra 1000 năm sau cuộc chiến chống Thục thời Quý Minh – Linh Lang, khi đại diện của dòng Thục của Đế Lai xưa là Âu Cơ quay trở lại, đánh bại dòng Lạc từ Lạc Long Quân Sùng Lãm (Sùng cũng nghĩa là Cao nên Cao Sơn còn có tên Nguyễn Sùng), lập nên nước Văn Lang đóng đô ở Việt Trì.
GIAI ĐOẠN THỤC TRIỀU AN DƯƠNG VƯƠNG
Câu đối ở nghi môn đình Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì): Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn. Dịch: Mấy ngàn năm giúp đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.
Cuộc chiến đánh giặc Ân dựng nước Văn Lang
Lễ hội làng Phù Đổng kể Hùng Vương thứ 6 đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Dẫn đầu quân đội nhà Ân lúc này là “28 tướng cường nữ nhung” với các thủ lĩnh là Thạch Linh Thần tướng và Ma Cô Tiên (Ma Lôi), hậu phi của vua Ân. Theo Truyện Giếng Việt, Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương được truyền thuyết Việt gọi là vua Hùng đời cuối (Hùng Duệ Vương), chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng “Bách thần nguyên tự”, phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên Hùng – Thục để ngàn đời hương hỏa.
Thục Vương còn được kể dưới tên Lang Liêu trong Truyện Bánh Chưng, chỉ thủ lĩnh của người Liêu – Lão (Ai Lao Di). Nhờ có lòng hiếu kính tổ tiên, Lang Liêu đã lên nối mệnh trời, lập cột đá ở Nghĩa Lĩnh thề trung thành với họ Hùng của Đế Minh, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ gìn đất nước. Trước đây ở Việt Trì có di tích phủ Lang Liêu ở làng Dữu Lâu, nay được được phục dựng lại.
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể rằng Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời được cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương chính là vua Lang Liêu trong truyền thuyết. Bắt đầu từ đây xã hội Việt bước vào thời kỳ phong kiến phân quyền, hay thời kỳ “Trị bình kiến phu” (trị quốc, bình thiên hạ, kiến lập chư hầu) như chép trong Ngọc phả.
Khu vực phía Nam sông Hồng tuy không phải nơi xuất phát của Phù Đổng Thiên Vương nhưng cũng là nơi xuất tích của khá nhiều vị tướng cùng thời, theo Thánh Dóng diệt giặc Ân. Có thể kể đến anh em Minh Gia, Minh Tôn ở Hiển Khánh (Vụ Bản, Nam Định), Quan lang Hoàng Đào ở Hổ Sơn (Vụ Bản, Nam Định), 3 vị đại vương ở An Lạng (Văn Lý, Lý Nhân, Hà Nam), Cốt Tung ở Liễu Trì, Hạ Lôi, Lý Tiến ở Hà Nội…
Các vị thần nước Âu Lạc
Trong thời kỳ dựng nước Văn Lang đã xuất hiện một số nhân thần được tôn thờ ở vùng Nam sông Hồng. Trước hết đó là Nam Hải Đại vương tức An Dương Vương, như ở Cố Đê, Vụ Bản, ở Lạc Na, Hồng Quang, Nam Trực (Nam Định) hay các nơi thờ vợ, con của An Dương Vương ở Thái Bình.
Tướng quân Cao Lỗ, người giúp An Dương Vương chế tạo nỏ thần cũng được thờ ở một số nơi tại vùng Nam sông Hồng, như ở đình Từ Châu, Liên Châu, Thanh Oai.
Vị thần khác thời kỳ Âu Lạc là Đồng Cổ Sơn thần được thờ rải rác từ Hà Nội (Nguyên Xá, Đông Xã), Nam Định (Vụ Bản) đến Thanh Hóa với sự tích về trống đồng trấn áp giặc Chiêm Hồ và hiển linh giúp vua Lý trong sự kiện Tam Vương.
Một vị nhân thần kỳ lạ đáng kể ở thời kỳ Thục An Dương Vương là Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử Lý Nhĩ Đam mà sự tích ghi quê ở Thúc Lực, Kim Chân tại Hà Nam (Kim Bảng). Thái Thượng Lão Quân được thờ ở đình Phù Vân tại Phủ Lý, chùa Bà Đanh thuộc Kim Bảng, Hà Nam, hay ở động Thiên Tôn Hoa Lư, với sự tích là đã giúp An Dương Vương trừ yêu diệt quỷ xây thành Cổ Loa hoặc chống “giặc” Xích Tị bằng phép thư phù (chữa bệnh dịch).
GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT THIÊN HẠ
Câu đối ở đình Xuân Quang tại Văn Giang, Hưng Yên: Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ. Dịch: Một lệnh dẹp không Tần, vạn dặm mở đầu dứt Mân Lạc Hai ngôi sánh cùng Hán, nghìn năm gây nền vững đế vương.
Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Triệu Trọng Thủy
Truyện Rùa Vàng kể, cuối thời nhà Thục, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Hoàng thế tôn của Triệu là Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Đông Ngàn Cổ Loa của An Dương Vương. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển, chấm dứt thời kỳ tồn tại hơn 800 năm của nước Văn Lang – Âu Lạc. Từ đó bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất thiên hạ của nhà Triệu.
Sử ký Tư Mã Thiên chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương đánh bại Chu Noãn Vương năm 257 TCN, khởi đầu triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, truyền thuyết Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.
Vùng Phú Thọ có cụm di tích thờ hai vị tướng là Hồ Thiên Hương và Đinh Công Tuấn chống lại họ Triệu ở bên sông Thao.
Ở vùng phía Nam sông Hồng không có di tích thờ Trọng Thủy hoặc Mỵ Châu như vùng Cổ Loa. Tuy nhiên, có một số di tích ở vùng Hà Nam, Nam Định thờ các vị tướng của nhà Thục chống lại cuộc xâm lăng của nhà Triệu như ở đền Vĩ ở Cao Viên, Thanh Oai thờ tướng Vũ Chiêu Tâm. Ở Vụ Bản, Nam Định có các tướng của Thục là Cao Đệ và Trì Chân chống lại giặc Triệu.
Về sự hiện hữu của nhà Tần trên đất Việt còn có di tích thờ Đức thánh Chèm là Lý Ông Trọng ở Ninh Sơn, Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, là nơi Lý Ông Trọng đã tử tiết.
Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Vũ Đế
Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu khắp nơi lại nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, lúc này một đình trưởng huyện Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hán Hiếu (Hảo hán).
Lịch sử Việt gọi Hiếu Cao Tổ là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), năm 206 TCN đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm các quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế. Sau khi Cao Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa lại chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) chiếm giữ vùng phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là Lữ Gia. Cuộc đối kháng 2 miền Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.
Cụm di tích thờ Triệu Vũ Đế ở Gia Viễn, Ninh Bình tại các đình Trùng Thượng, Trùng Hạ, Thần Thiệu. Một số di tích thờ Triệu Việt Vương ở Nam Định cũng có thể là thờ Triệu Vũ Đế. Đền Nhự Nương thời Hoàng hậu Trình Thị, vợ của Triệu Vũ Đế tại Nam Trực, Nam Định.
Đặc biệt là cụm di tích ở Mạo Phổ, Lương Lỗ, Thanh Ba và thị xã Lâm Thao, Phú Thọ thờ Triệu Ông Út hay Út Ngọ Lôi Mao, là Việt Tây Vương sau thời Tần. Đây chính là vua Văn Vương nhà Triệu của nước Nam Việt có kinh đô ở Phiên Ngung.
Thay cho lời kết
Các di tích tín ngưỡng dân gian ở nước ta thực sự là kho tư liệu phong phú, đa dạng, độc đáo, đặc sắc, không gì thay thế được đối với những nghiên cứu tìm về lịch sử nguồn cội của dân tộc, từ thời kỳ xa xưa nhất khi xã hội và con người Việt mới hình thành, từng bước từng bước dựng nên non sông vững bền bởi những công sức của các bậc tiền nhân mà đã hóa thành những vị thần trong lòng dân tộc. Đó là cuốn đại sử thi được viết nên từ những di sản vật thể và phi vật thể trong dân gian qua suốt chiều dài lịch sử.
Tìm hiểu, so sánh đối chiếu, tổng hợp khái quát vào kho tàng sử liệu dân gian cho phép phát hiện, nhận diện ra từ những chi tiết lịch sử đến cả tiến trình phát triển xã hội trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử thật sự của dân tộc bị khuất lấp trong lớp bụi mờ của thời gian nhưng không mất đi, mà lịch sử đó vẫn đang sống cùng với nhân dân trong từng di tích, từng sự tích, từng lễ hội ở mỗi làng quê miền xuôi cũng như miền ngược. Bảo tồn di tích, nhìn nhận lại quá khứ là sự thôi thúc đối với mỗi người dân đất Việt, để hướng đến tương lai một cách tự tin hơn, vững chắc hơn.
Trên cơ sở phân tích các thần tích, ngọc phả và đối chiếu các di tích thờ cúng các vị thần ở nước ta, thời đại Hùng Vương có thể được diễn đạt qua 4 giai đoạn như trong sơ đồ sau.
Bốn giai đoạn của thời đại Hùng Vương.
Tài liệu tham khảo
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, Thích Tâm Hiệp. NXB Lao động, 2022.
Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, NXB Lao động, 2022.
Lĩnh Nam chích quái. Trần Thế Pháp; Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận chính. Bản in của NXB Văn học, 1990.
Sự tích các vị thần linh thờ ở đền làng huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Bùi Văn Tam. NXB Khoa học xã hội, 2015.
Di sản văn hóa đình đền Mạo Phổ. Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân. NXB Lao động, 2022.
Sự tích các thành hoàng làng Thăng Long – Hà Nội. Đỗ Thị Hảo (chủ biên). NXB Chính trị quốc gia, 2020.
Hà Nội di tích và văn vật. Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội. Sở văn hóa và thông tin Hà Nội, 1994.
Thần tích thần sắc Hà Nam. Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh (chủ biên). NXB Khoa học xã hội, 2004.
Thần tích Hà Nội. Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội. Nguyễn Thị Oanh. NXB Hà Nội, 2019.
Sử ký Tư Mã Thiên. Phan Ngọc dịch. NXB Văn học, 2006.
Mỗi một ngôi làng tồn tại cùng với cái tên của mình, cố nhiên đều mang theo ý nghĩa mà những người khai hoang lập làng ấp gửi gắm, đồng thời, nó cũng gắn liền với những biến cố lịch sử, những thăng trầm của làng quê ấy. Tên làng không đơn thuần chỉ là cái tên gọi. Nó chứa đựng phần nào bản sắc, phần nào nguồn cội của những người con đã lớp lớp tiếp nối bước ông cha trên mảnh đất này.
Chính bởi vậy, nó trở nên thiêng liêng và cháu con lớn lên luôn gìn giữ ngay cả khi chiến tranh, nghèo khó. Họ không bỏ tên làng như một yếu nghĩa rằng, họ không quên những ước muốn mà tổ tiên và ông cha bao đời ký thác, không quên làng quê, gốc rễ của mình.
Ngày nay, trong quá trình hội nhập, những giá trị văn hóa dân tộc cũng đang được từng bước kế thừa, phát huy. Nét đẹp trong văn hóa làng xã từ đình, chùa, đến hội làng, v.v. đang được phục hồi. Trong sự đổi mới, người ta nhắc nhau về những tên làng xưa cũ với tình cảm đặc biệt và ấm áp. Có những tên làng đã cùng tồn tại với lịch sử phát triển và những biển đổi thăng trầm của dân tộc qua hàng ngàn năm. Làng – Nước, có làng mới có nước. Đất lề, quê thói.
Mạo Phổ là một vùng đất như vậy. Mạo Phổ là một làng cổ thuộc huyện Thanh Ba, nằm bên tả ngạn sông Thao, cạnh thị xã Phú Thọ. Ngôi làng xưa có mỹ danh Mạo Phổ, tục gọi là làng Miễu. Mạo 瑁 trong chữ Nho có nghĩa là ngọc mạo, xưa các bậc thiên tử cầm để hội họp chư hầu. Phổ có nghĩa là rộng khắp. Mỹ danh Mạo Phổ cũng đã nói lên tầm quan trọng đặc biệt của địa phương này.
Địa linh sinh nhân kiệt. Điều đặc biệt của làng Mạo Phổ nằm chính ở các vị thánh thần được thờ tự trong các di tích của làng. Trải qua bao nhiêu thời kỳ chiến tranh, loạn lạc, nhưng người dân nơi đây vẫn gìn giữ được đầy đủ đình, đền, chùa, miếu trong ngôi làng của mình. Đình đền làng là nơi người dân làng kính nhớ các vị Đại vương và Thánh mẫu, là những người có công trạng lớn với đất nước và khai dân lập ấp ở nơi đây.
Đình đền làng Mạo Phổ thờ Thánh mẫu hiệu Trung Hòa, húy Duyên và 3 vị thánh ông là các con của Thánh mẫu:
Hiệu Đệ nhất Quan lang, húy Bút.
Hiệu Đệ nhị Quan lang, húy Lôi.
Hiệu Đệ tam Quan lang, húy Mao.
Thánh mẫu Duyên Hòa là thứ phi của vua Hùng thứ 17, sinh được 3 vị Đức ông, trưởng thành làm tướng đánh giặc Thục, lập nhiều công lớn. Các vị Đại vương này cũng là những người đã chiêu dân lập ấp, dựng nên một vùng đất trù phú đắc địa, nơi có sông Thao cuộn khúc giang loan, long mạch dẫn tụ về mà hình thành khu quần cư Mạo Phổ – Hạ Mạo tại thị xã Phú Thọ xưa.
Đình đền làng Mạo Phổ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, có giá trị như 6 đạo sắc phong, khám thờ, kiệu, những bức cổn chạm khắc rồng phượng bằng gỗ có niên đại cuối Lê đầu Nguyễn… Hằng năm, vào 4 dịp kỳ cầu, người dân làng tổ chức lễ hội với phần tế lễ, rước kiệu và những trò chơi dân gian đặc sắc. Đình đền Mạo Phổ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa kiến trúc cấp quốc gia năm 1993.
Khu di tích đình đền Mạo Phổ được xây dựng từ thời Hậu Lê với quy mô kiến trúc chia làm 2 phần: đình và đền. Đình và đền nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, hướng về phía Đông nhìn ra bãi bên bờ sông Thao. Hiện nay, ngôi đình cũ đã được những người con của làng quê Mạo Phổ đã phát tâm tu sửa, kiệu nâng toàn bộ kiến trúc đình lên cao cho trang nghiêm hơn, rộng rãi hơn, xứng đáng hơn với tầm vóc của các vị thần thánh tại đây.
Miếu Đức bà Mạo Phổ là nơi thờ phụng Thánh mẫu Duyên Hòa, trước đây được lập ở một nơi riêng biệt. Trong quá trình xây dựng đường đê đi qua làng, miếu cũ đã được dời đến nơi mới trong cùng khuôn viên với đình và đền làng. Trong miếu còn lưu được di tượng của Thánh mẫu linh thiêng và uy nghiêm.
Không chỉ đình đền miếu được người dân Mạo Phổ làm lại cho trang nghiêm hơn mà vào dịp này, nhờ một nhân duyên hiếm có, nội dung bản ngọc phả làng Mạo Phổ bị thất lạc trước đây đã được đưa về đúng với nơi thờ tự của nó. Với điềm chim Phượng ngậm chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ khi các vị Đại vương Bút Lôi Mao ra đời cho phép liên hệ với dòng Phượng theo mẹ Tiên Âu Cơ lên núi, sáng tạo ra những chiếc trống đồng vang vọng như tiếng sấm, trên đó khắc đúc hình người đội lông mao, là sự xưng danh dân tộc trường tồn từ thời Hùng Vương.
Bên cạnh đó, thần tích làng Hạ Mạo, là làng kết chạ anh em với làng Mạo Phổ, cũng được khai thác dịch và khảo cứu. Bản thần tích gốc của làng Hạ Mạo vốn được người dân con cháu họ Lê ở làng gìn giữ hơn cả tính mạng của mình. Khi có chiến tranh giặc giã đến tàn phá làng, thần tích được người dân mang theo chạy giặc vào rừng, cất giữ mà lưu truyền ngàn năm.
Sự tích các vị thần được thờ ở Mạo Phổ và Hạ Mạo đã soi tỏ cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc ta. Đó là giai đoạn cuối của thời Hùng Vương, qua thời Thục Vương đến khi nhà Triệu lập quốc Nam Việt với kinh đô ở Lưỡng Quảng. Những thông tin vô cùng quý giá từ ngọc phả cùng di tích và tục thờ thần ở Mạo Phổ là minh chứng rõ ràng cho lịch sử hào hùng của người Việt trong giai đoạn này.
Sự tích Mạo Phổ – Hạ Mao còn cung cấp những thông tin hết sức thú vị và quan trọng về tộc tính họ Lê được sách phong rất sớm vào thời Hùng Vương. Có thể nói, đây là ghi nhận chính thức được biết sớm nhất về vị tổ họ Lê ở thời gian trên 2.200 năm trước. Đồng thời, những vị tổ họ Lê đó cũng là những vị tiền hiền khai sáng, lập nên khu vực dân cư đông đúc ven bờ sông Thao xưa, mà nay là thị xã Phú Thọ.
Cuốn sách Di sản văn hóa đình đền làng Mạo Phổ được ra mắt quý vị từ tấm lòng kính ngưỡng và tri ân đến tiền nhân, nguồn cội của người con làng Mạo Phổ. Cùng với những tư liệu chữ Nho vừa được tìm thấy và phiên đọc, cuốn sách cũng giới thiệu tác phẩm Duyên Hòa Thánh mẫu diễn ca, là bài thơ lục bát dài do một người con họ Lê đất Mạo Phổ đã xúc cảm sáng tác về Thánh mẫu nhân dịp xã đón nhận bằng Di tích Lịch sử Văn hóa Kiến trúc cấp quốc gia năm 1993.
Vận nước, mạng mạch của quốc gia, xã tắc được vững bền chính là bởi từ những hạt giống lành như thế nơi mỗi lòng người làng quê được ươm mầm nuôi dưỡng. Xin trân trọng kính dâng cuốn sách quý này lên anh linh các vua Hùng và tiên tổ dân tộc Việt Nam, thắp lên một nén nhang tìm về nguồn cội và bản sắc của đất nước.
Đối chiếu sự tích Mạo Phổ và Hạ Mạo
Sách in khổ 14,5×20,5 cm, giấy dày, bìa cứng, tổng số 212 trang.
MỤC LỤC
Lời giới thiệu
BẢN KHAI THẦN TÍCH THẦN SẮC
Bản khai thần tích thần sắc làng Mạo Phổ
Bản khai thần tích thần sắc làng Hạ Mạo
SỰ TÍCH VÀ LỊCH SỬ CÁC VỊ THẦN Ở MẠO PHỔ VÀ HẠ MẠO
Ngọc phả làng Mạo Phổ
Thần tích xã Hạ Mạo
Lịch sử thời hậu Hùng Vương qua thần tích ở Mạo Phổ và Hạ Mạo
CÁC SẮC PHONG LÀNG MẠO PHỔ
Sắc 1: Hợp phong Bản cảnh Thành hoàng năm Tự Đức thứ 33
Sắc 2: Hợp phong Bản cảnh Thành hoàng năm Đồng Khánh thứ 2
Sắc 3: Hợp phong Lôi Công và Mao Công năm Duy Tân thứ 5
Sắc 4: Phong Trung Hòa Duyên Nương Phu nhân năm Khải Định thứ 2
Sắc 6: Phong cho Lôi Công năm Khải Định thứ 2
Sắc 7: Phong cho Mao Công năm Khải Định thứ 2
Sắc 8: Phong cho Bút Công năm Bảo Đại thứ 19
Sắc 9: Phong cho Lôi Công năm Bảo Đại thứ 19
Sắc 10: Phong cho Mao Công năm Bảo Đại thứ 19
Sắc 11: Phong Duyên Hòa Thánh Mẫu thời Bảo Đại thứ 19
HOÀNH PHI, CÂU ĐỐI CÁC DI TÍCH Ở MẠO PHỔ VÀ HẠ MẠO
Tại đền Đức Ông Mạo Phổ
Tại đình làng Mạo Phổ
Tại miếu Đức Bà Mạo Phổ
Tại chùa Khánh Long
Tại đình Hạ Mạo
VĂN TẾ THẦN Ở MẠO PHỔ
Văn tế mồng 9
Văn tế mồng 10
DUYÊN HÒA THÁNH MẪU DIỄN CA
DI TÍCH VÀ TỤC THỜ CÁC VỊ LONG THẦN Ở PHONG CHÂU, NGÃ BA HẠC
Các di tích thờ thủy thần ven hai bờ Sông Thao
Các di tích thờ thủy thần ven sông Đà huyện Thanh Thủy và huyện Tam Nông
Sau 18 đời vua Hùng, chính sử nước ta được ghi chép bằng một loạt những diễn biến chồng chéo rất khó phân định, từ việc An Dương Vương kế tục Hùng Vương năm 257 Trước Công nguyên, rồi nhà Tần đánh Lĩnh Nam đến Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 208 Trước Công nguyên. Tất cả xảy ra chỉ trong vòng chưa đầy 50 năm!
Mới đây, một bản thần tích do họ Lê lưu giữ ở thị xã Phú Thọ đã cung cấp thêm nhiều chi tiết giá trị, giúp bổ sung và làm sáng tỏ dòng chảy lịch sử nước ta sau thời Hùng Vương.
1.
Làng Mạo Phổ, thuộc xã Lương Lỗ, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, thờ vị Thánh mẫu Duyên Hòa. Theo ngọc phả, bà là vợ của Hùng Vương thứ 17. Một đêm bà nằm mộng thấy một con chim phượng ngậm một chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ vang rền. Từ đó bà có mang.
Khi sắp sinh, bà lại nằm mơ gặp một lão tiên đến ban cho một chiếc rọ có 5 con cá chép hồng. Bà chọn được 3 con cá. Sau đó bà sinh được ba người con trai tướng mạo dị thường, thông minh tài trí. Ba người con khi lớn lên đã cùng với Tản Viên Sơn Thánh giúp vua Hùng đánh giặc Thục, rồi về hóa ở quê mẹ bên bờ sông Thao.
Cạnh làng Mạo Phổ là làng Hạ Mạo, thuộc thị xã Phú Thọ, có thần tích kể về 5 vị thành hoàng cùng tên với làng Mạo Phổ. Nhưng khác với ngọc phả Mạo Phổ do Hàn lâm đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn, thần tích của làng Hạ Mạo là một dạng ghi chép của gia tộc họ Lê tại đây về các vị thành hoàng, cũng là vị tổ họ đã lập trang ấp tại Hạ Mạo.
Thần tích họ Lê ở Hạ Mạo kể rằng: Xưa Hùng Vương đời thứ 17 sinh người con trai thứ tên là Hùng Ánh, thiên tư dũng lược, diện mạo lạ thường, thông minh nhanh hiểu biết, vượt trội hơn người. Khi ấy phong tục còn chất phác. Các con vua đều gọi là quan chàng, cho nên có tên là quan Chàng Ánh. Đến khi Duệ Vương nối ngôi, phong Chàng Ánh làm Vương tử, ban cho họ Lê. Khi giặc Thục đến xâm lăng, Chàng Ánh chỉ huy quân binh, có công chống Thục. Sau giặc Thục đánh Duệ Vương, thế nước nhà Hùng mất. Chàng Ánh rất hận mới luyện binh tuyển tướng, cẩn thận giữ gìn cương giới, bèn tự xưng là Hậu Hùng Vương, không thần phục An Dương Vương. Xưng là nước Việt Tây, nay là Quảng Tây.
Chi tiết Chàng Ánh được phong ban họ Lê, chiếm giữ đất Quảng Tây là một bằng chứng rằng việc hình thành các dòng họ ở nước ta đã có từ thời Hùng Vương. Việc ban họ gắn liền với phong đất và quyền thế tập cha truyền con nối. Đây chính là ý nghĩa khái niệm chế độ “phong kiến”, tức là phong tước và kiến địa.
Lê Hùng Ánh là vị tổ họ Lê sớm nhất được biết trong thư tịch cho tới nay.
2.
Thần tích Hạ Mạo kể tiếp: Vợ Vương là con gái Đông Chu Quân có mang 3 năm, sinh một bầu năm con trai, đến khi trưởng thành đều có tướng mạo khác thường. Hùng Vương Chàng Ánh rất vui mừng, nhân theo cổ tục khi đó đặt là Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư, Chàng Út mà gọi.
Vào cuối thời Chu, đất nhà Chu chia thành 2 vùng là Tây Chu và Đông Chu. Vị vua Chu cuối cùng là Chu Noãn Vương đã bị Tần Chiêu Tương Vương diệt ở đất Tây Chu năm 256 TCN. Đất Đông Chu khi đó trở thành nơi nương náu của các quý tộc nhà Chu và được cai quản bởi một vị hoàng tộc Chu gọi là Đông Chu Quân.
Thông tin Hậu Hùng Vương lấy con gái của Đông Chu Quân khi so sánh với ngọc phả làng Mạo Phổ thì tương ứng việc Thánh mẫu Duyên Hòa nằm mộng thấy điềm chim phượng ngậm bút ngọc bay tới trong tiếng sấm nổ, sinh ra 3 người con đặt tên là Bút Lôi Mao. Chim phượng là biểu tượng cho dòng Tiên theo mẹ Âu Cơ lên núi, cũng tương đương với nhà Chu vì khi Chu Văn Vương khởi nghiệp đã thấy điềm chim phượng hoàng năm sắc đậu ở ngọn núi Kỳ Sơn mà gáy báo tin.
Hình ảnh lông phượng mang hàm nghĩa những người con là dòng dõi của mẹ Âu Cơ hay của nhà Chu. Tiếng sấm tượng trưng cho quẻ Chấn trong Hậu thiên bát quái, là quẻ chỉ hướng Đông. Còn chiếc Bút tượng trưng cho nét “văn”.
Tên gọi Bút Lôi Mao do vậy có thể giải nghĩa là dòng dõi của Đông Chu Văn Quân, vị quân chủ đã quản lý vùng đất Đông Chu chống lại quân Tần. Vì quân Tần đến từ vùng đất Thục nên truyền thuyết Việt gọi đây là giặc Thục.
Hậu Hùng Vương chủ đất Việt Tây, lấy vợ là con gái của Đông Chu Quân, đã không thần phục vua Thục mà tự mình lập nước riêng, xưng là Việt Tây quốc vương. So sánh với chính sử thì việc Hùng Ánh lập quốc ở Quảng Tây tương ứng với việc họ Triệu chiếm đất Tần xưng là Vũ Vương. Cái tên Lôi Mao cũng tương ứng với hình ảnh những chiến binh đội lông chim (Mao) trên mặt trống đồng, là loại trống còn gọi là trống sấm (Lôi), gặp phổ biến nhất ở vùng Bắc Việt và Quảng Tây. Lông chim cũng là họa tiết trang trí phổ biến trên mặt các trống đồng của thời kỳ Đông Sơn.
3.
Thần tích Hạ Mạo kể tiếp: Gặp lúc có tướng Tần Triệu Đà dẫn quân chiếm phương Nam, Hùng Vương (tức là Chàng Ánh) bèn lệnh Chàng Út dẫn ba ngàn quân giúp Triệu Đà đánh Thục chiếm nước thành công. Triệu Đà lên ngôi là Vũ Đế, nhưng vẫn cắt Quảng Tây cho Việt.
Vì Chàng Út có công nên 4 người anh nhường cho em, bỏ đi ẩn ở vùng sông cuộn núi dừng bên sông Thao. Hùng Vương băng hà, Chàng Út kế vị, xưng là Việt Tây Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Vũ Đế cho lệnh sách phong. Ba năm tang lễ xong, Vương cho hoàng hậu họ Triệu giám quản đất nước, còn tự thân đi cầu tìm bốn người anh.
TriệuVũ Đế trong thần tích này không phải là Vũ Vương lập quốc ở Quảng Tây, mà là người đã diệt nhà Tần lên ngôi Đế. Vị Hoàng đế của thiên hạ này có sách phong cho Chàng Út làm Vương ở đất Việt Tây.
Đây là thông tin hết sức mới lạ về nguồn gốc nhà Triệu của nước Nam Việt, cho phép giải mã được những khúc mắc lịch sử hiện tại về thời kỳ Hậu Hùng Vương.
Có thể tóm tắt lại diễn biến của thời kỳ này theo những thông tin mới thu nhận từ thần tích Hạ Mạo như sau:
Hùng Vương thứ 18 là dòng Tiên Phượng theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, tương ứng với vị vua Chu cuối cùng là Chu Noãn Vương. Tác phẩm thơ Thiên Nam ngữ lục có đoạn về thời gian này như sau:
Kể từ Hùng tổ trị dân Lên ngôi sánh với thánh nhân Đào Đường Tới nay Chu mạt Noãn Vương Ông cha con cháu giữ giàng trị dân… Ấm bao nhiêu, rét bấy nhiêu Vườn Chu ải giậu, Tần trèo đãng hoa.
Giặc Thục tấn công và diệt Hùng Vương là nước Tần. Một chư hầu của Hùng Vương mang họ Lê không thần phục Tần đã cát cứ đất Quảng Tây mà xưng vương. Đây là vị Vũ Vương, tức là vị vua đầu triều, của nước Nam Việt. Vũ Vương có người vợ là con gái của Đông Chu Văn Quân, tức là dòng dõi nhà Chu.
Khi Triệu Đà khởi nghĩa chống Tần, Vũ Vương cử quân đội giúp Triệu Đà định được thiên hạ. Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, xưng là Triệu Vũ Đế. Triệu Vũ Đế phong cho Vũ Vương họ Lê làm vua đất Việt Tây như một chư hầu.
Con Út của Vũ Vương họ Lê là người có công trong việc diệt Tần lập quốc, được Triệu Vũ Đế gả con gái cho, là Triệu hậu. Út Ngọ Lôi Mao lên nối ngôi cha ở Quảng Tây tức là Triệu Văn Vương trong lịch sử. Họ Triệu của nước Nam Việt lấy theo họ bên ngoại (theo Triệu Vũ Đế) từ đây.
4.
Thần tích Hạ Mạo kể tiếp: Được mười năm hoàng hậu họ Triệu sinh được con trai là Chàng Uyên, thông minh sáng suốt. Sau khi Chàng Út cùng 4 anh hóa Chàng Uyên tiếp ngôi, hiệu xưng là Minh Vương.Khi Hán bình định Nam Việt cùng với Việt Tây, Minh Vương thất thủ mà chết. Con trưởng tên là Hùng Tuấn với Vương hậu cùng chết theo. Con trai thứ Hùng Hòa không chịu nhục, cõng thi thể của cha chạy về chôn ở núi Toàn Dương. Sau ba năm chôn cất xong, dẫn con cái đến thôn Thượng Minh cùng với nhân dân bốn họ cùng sống. Nhưng vì tránh tên Minh Vương nên đã đổi thành xã Hạ Mạo, đổi thôn thành xã từ đó.
Người nối ngôi Triệu Văn Vương ở nước Nam Việt theo Sử ký Tư Mã Thiên đúng là Triệu Minh Vương. Người con đầu của Minh Vương là Triệu Ai Vương đã cùng mẹ là Cù Hậu bị chết khi nhà Tây Hán tấn công Nam Việt. Ai Vương như thế tương ứng với tên Hùng Tuấn trong thần tích Hạ Mạo. Còn người con thứ của Minh Vương đã chạy về vùng Phong Châu Phú Thọ là Triệu Vệ Dương Vương, tương ứng trong thần tích gọi là Hùng Hòa.
Tộc tích họ Lê ở Hạ Mạo đã ghi lại đầy đủ thông tin nguồn gốc về nhà Triệu nước Nam Việt. Đó là từ Triệu Vũ Vương họ Lê và vợ là con gái Đông Chu Quân xưng vương ở Quảng Tây. Tiếp nối là Văn Vương lấy vợ là con gái Triệu Đế nên từ đó dùng chữ Triệu để đặt tên triều đại. Triệu Minh Vương nối ngôi, tới Triệu Ai Vương thì bị nhà Tây Hán tấn công, giết chết. Triệu Vệ Dương Vương đem thân tộc gia quyến chạy về quê gốc ở vùng Phong Châu, ẩn cư lấy lại họ Lê. Từ đó chiêu dân lập ấp, hình thành trang ấp ở khu vực thị xã Phú Thọ ngày nay. Họ tộc này cùng 4 họ gia thần khác lập đền thờ Mẫu tổ là bà Duyên Hòa ở làng Mạo Phổ và đền đình thờ các đại vương tổ họ Lê làm thành hoàng ở 2 làng Mạo Phổ và Hạ Mạo.
Câu đối với đình Hạ Mạo còn ghi lại câu chuyện ly kỳ thời Hậu Hùng Vương này:
Hùng Lạc ký truyền nay, diệt Thục bình Ngô rạng ở sử
Việt Tây ngôi nhường nối, điềm rồng thế núi bãi thành trang.
Hình người và lông chim trên trống sao vàng
Trang đầu” Thần từ sự tích” của làng Hạ Mạo với thông tin về ban tộc tính họ Lê cho Hùng Ánh.
Long vị Lôi Mao Đại vương ở đền Mạo Phổ.Cung thờ Ngũ vị Đại vương đình Hạ Mạo.Hình Giao long và Người đội lông chim trên lưỡi rìu thời Đông Sơn.Phả đồ thời kỳ Hậu Hùng Vương theo thần tích Hạ Mạo và chính sử.
Xưa Hùng Vương đời thứ 17 là Hùng Huy Vương sinh người con trai thứ tên là Hùng Ánh. Hùng Ánh thiên tư dũng lược, diện mạo lạ thường, thông minh nhanh hiểu biết, vượt trội hơn người anh. Huy Vương yêu quý muôn lập làm người nối ngôi. Chàng Ánh cố gắng nhường cho anh. Khi ấy phong tục còn chất phác. Các con vua đều gọi là quan chàng, cho nên có tên là quan Chàng Ánh. Đến khi Duệ Vương nối ngôi, phong Chàng Ánh làm Vương tử, ban cho họ Lê. Khi giặc Thục đến xâm lăng, Chàng Ánh chỉ huy quân binh, có công chống Thục. Từ đó Chàng Ánh nắm quyền triều chính. Duệ Vương về sau trở nên biếng nhác, chìm đắm trong hoan lạc, không quan tâm đến chính sự, việc binh quốc gia buông lỏng. Chàng Ánh hết sức can ngăn nhưng Duệ Vương không nghe. Chán ngán, Chàng Ánh đi ra bộ ngoài, không muốn tham dự vào chính sự quốc gia. Sau giặc Thục đánh Duệ Vương, thế nước nhà Hùng mất. Chàng Ánh rất hận mới luyện binh tuyển tướng, cẩn thận giữ gìn cương giới, bèn tự xưng là Hậu Hùng Vương, không thần phục An Dương Vương. Xưng là nước Việt Tây, nay là Quảng Tây. Vợ vương là con gái Đông Chu Quân có mang 3 năm, sinh một bầu năm con trai vào giờ Ngọ ngày 14 tháng 3 năm Mậu Thân. Đến khi trưởng thành đều có tướng mạo khác thường, mũi cao, mắt xếch. Một người trên đầu có 7 chấm đỏ, sau lưng có 27 nốt ruồi đen. Một người một tay dài quá gối, mắt xếch tới tai. Một người mắt phượng mũi rồng. Một người mặt vuông tai to, râu đen, tóc xanh, thân dài 10 thước. Năm chàng đều là những người phi thường. Hùng Vương rất vui mừng, hoàng hậu chưa đặt tên nên nhân theo cổ tục khi đó đặt là Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư, Chàng Út mà gọi. Gặp lúc có tướng Tần Triệu Đà dẫn quân chiếm phương Nam. An Dương Vương có nỏ thần, quân Triệu gặp nhiều thất bại. Hùng Vương (tức là Chàng Ánh, Hậu Hùng Vương ở Việt Tây) sai Chàng Hai đến quân Tần nói với Triệu Đà rằng: – An Dương có thù với chúng tôi. Nay phụng nghe đại quân đánh Thục, nước tôi tuy nhỏ cũng xin dẫn ba ngàn quân trợ giúp. Tôi vì báo thù mà trợ giúp ngài định quốc. Tôi lại có mưu này có thể phá được nỏ thần, muốn được tâu với ngài để trù liệu. Triệu Đà nghe có quân giúp định quốc rất vui mừng, liền nói: – Cách nào có thể phá được nỏ thần? Chàng Hai nói: – Nếu thông hôn cho con với ái nữ Mị Châu thì có thể phá được. Đà bèn cử sứ về nước sai con trai Trọng đến thông hiếu kết nghĩa, sau lại cầu hôn với An Dương để cho Trọng làm con rể, ở đó trộm lấy phá hủy lẫy nỏ. Trọng về báo, phát sứ sang Việt. HùngVương bèn lệnh Chàng Út dẫn ba ngàn quân giúp Triệu Đà đánh Thục chiếm nước thành công. Triệu Đà lên ngôi là Vũ Đế, nhưng vẫn cắt Quảng Tây cho Việt. Sau 6 năm Hùng Ánh Vương lâm bệnh. Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư cùng nhau nói rằng: – Báo thù và mở rộng đất nước đều là công của Chàng Út. Có thể nhường lại nước cho Chàng Út. Chúng ta tạm tìm chỗ không xa mà đến lánh. Bèn cùng 4 người làm đồ đệ để đi. Bốn tiểu hầu phao lên rằng muốn tìm thuốc, đi tới Triệu. Trong nước họ Triệu thấy có một nơi sông uốn khúc, núi dựng lại quanh co, gặp lúc trời sắp tối. Bỗng thấy năm đám mây nổi lên, trong có Rồng vàng ẩn hiện. Nhân lấy đó là điềm lành để ở, dựng một lầu cao. Bốn Chàng cùng với các đồ đệ cùng đi là Lưu Chính Hoà, Nguyễn Văn Nhân, Đỗ Khắc Cần, Đặng Văn Dư đều xây nhà rồi dẫn con cái đến ở đó, mở ruộng vườn, lập cơ nghiệp lâu dài. Đến khi Hùng Ánh Vương lâm chung, bốn Chàng đã đi, bèn ban tên Chàng Út Lôi Mao, cho tự cai quản. Ngày 15 tháng 8 Hùng Vương băng hà, Chàng Út phát tang, kế vị, xưng là Việt Tây Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Vũ Đế cho lệnh sách phong. Ba năm tang lễ xong, Vương cho hoàng hậu họ Triệu giám quản đất nước, còn tự thân đi cầu tìm bốn người anh. Vương đi khắp thiên hạ đến nơi dòng sông uốn khúc thì gặp được các anh. Gặp nhau rất vui mừng bèn cho mở đãi tiệc lớn ở trên lầu gác. Sau này thôn có lầu được gọi là thôn Thượng Minh. Lại sai các thủ hạ đến làng đó để đón bốn anh về Việt Tây. Các anh cùng muốn nhường nên bất đắc dĩ báo với vua Triệu. Vũ Đế mới ban sắc rằng: – Cha truyền con nối là lễ thế tập. Không quên gốc nước, quân dân quyến luyến là đáng trách. Ngôi trời rất trọng yếu, đâu chỉ là việc lập ra như đồ giả chơi. Quan trọng là phải trở về. Quốc vương Việt Tây tạ thế, có để lại 5 con đều là đức hiền minh. Khi Út Ngọ Lôi Mao thừa cảnh tốt trên có bốn anh đều là bậc thánh trí. Huynh đệ cùng nhường nhau, không nên như Thái Bá bỏ đi. Đàn sáo tương ứng, cùng hòa phép chính, người và vua cùng hưởng, cùng quản việc nước, cùng các vua tướng, theo như sách mệnh là Chàng Cả Đại vương, Chàng Hai Đại vương, Chàng Tam Đại vương, Chàng Tứ Đại vương, Chàng Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Tuân sắc ban. Từ đó năm vương cùng nhau quản lý việc nước. Được mười năm hoàng hậu họ Triệu sinh được con trai là Chàng Uyên, thông minh sáng suốt. Tới khi trưởng thành năm vương được cử đi sứ trong nước. Năm vương cùng đi đến nơi chốn cũ ở thôn Thượng Minh, tới chỗ nhà cửa trước kia là còn là nơi gà chó trâu bò nay đã thành làng xóm. Bèn lên lầu mà xem cảnh ngày mai tươi sáng. Ở đó được ba năm các thủ hạ cứ cuối mỗi năm ngày 10 tháng 12 đem một con gà cùng với bánh chưng, trầu cau, rượu ngon, năm cặp đũa trúc làm lễ. Năm vương ở lầu thường thường như vậy. Đến tháng 4 năm Giáp Dần, các vương cùng nhau đi thăm lại nền cũ đất họ Hùng, quay về thấy buồn thảm. Bèn cùng nhau lên núi đi tuần dạo. Đến núi Toàn Dương bỗng thấy có một hang lớn mở ra, mây khói bốc lên. Năm vương đồng thời nhập vào hang không ra nữa. Đó là ngày 15 tháng 5. Do vậy Nguyễn Văn Nhân trở về. Từ ấy lấy làm lệ thường, cứ đúng ngày làm giỗ kỵ, gọi là thánh kỵ. Vào cuối năm thì dâng gà lên lầu như xưa vậy. Ban đầu Chàng Uyên tiếp ngôi, hiệu xưng là Minh Vương. Khi Hán bình định Nam Việt cùng với Việt Tây, Minh Vương thất thủ mà chết. Con trưởng tên là Hùng Tuấn với Vương hậu cùng chết theo. Con trai thứ Hùng Hòa không chịu nhục, cõng thi thể của cha chạy về chôn ở núi Toàn Dương. Sau ba năm chôn cất xong, dẫn con cái đến thôn Thượng Minh cùng với nhân dân bốn họ cùng sống. Nhưng vì tránh tên Minh Vương nên đã đổi thành xã Hạ Mạo, đổi thôn thành xã từ đó. Bởi vậy cho tu sửa lầu đãi tiệc thành miếu thờ năm vương, hàng tháng ngày rằm mồng một đều có lễ dâng. Thường không có quy định lệ tế như thế nào, chỉ có ngày giỗ và ngày cuối năm thì cúng gà. Cho đến triều Lý Thái Ninh năm thứ hai ngày 30 tháng 12, cháu 24 đời họ Lê là Tôn Hưng cùng với các họ Nguyễn Trọng Chính, Đỗ Văn Khả, Lưu Đình Côn, Đặng Ngọc Câu lên miếu làm lễ tiết, bỗng thấy một trận mưa to gió lớn khói đen bốc lên không rõ dài ngắn. Ở trong miếu mùi hương lạ phát ra ngào ngạt, sáng như ban ngày. Tôn Hưng cùng các hương trưởng sợ hãi, không dám quay về, mà sai người giữ miếu làm 5 kiện oản cùng các thức hương, trầu cau để dâng lên ban trên. Đến khoảng quá nửa đêm bỗng trên miếu có ánh sáng thần chiếu rực, bỗng nhiên xuất hiện năm người đều có mũi rồng mắt xếch, mặt đỏ như mặt trời mới mọc, đầu đội mũ ngọc, thân khoác áo bào xanh, người đeo đai đỏ, người đeo đai xanh lam, dàn thàng hàng cao phía Tây ngồi trên ban thượng. Khi ấy các hương trưởng đều cùng phủ phục dưới đất, không dám ngửng lên nhìn. Bỗng nghe thấy lời trên miếu nói: – Chúng ta phụng sắc của Thượng Đế cai quản dân chúng. Phút chốc hóa thành năm con rồng vàng bay lên không biến mất. Mây mưa tùy theo mà nổi lên. Mọi người đều sợ hãi, không biết từ đất nào hiện ra. Khi đó thấy người giữ miếu bước lên cao ngồi mà nói: – Ta cùng năm tướng nhà nuôi là Lê Hùng Hòa, thường đi theo tùy giá các vương. Khi các thiên tướng giáng loạn, tà mà quấy nhiễu nhân dân, Thượng Đế sắc năm vương hàng năm đi khắp thiên hạ, quản thúc trăm thần, để yên dân cư. Vốn các ngươi là con cháu người xưa, ta cố thỉnh giáng lâm. Năm vương đã giáng lâm, đó là nhờ sức ta cố thỉnh, là phúc vạn đời của các ngươi vậy. Từ nay, phải lập chỗ cho năm vị thần vương cẩn thận. Sự việc đầu năm đi thám xét thiên hạ, tất muốn quay lại nơi đây. Há chẳng là việc phúc lành lớn sao? Cuối triều Trần thiên hạ đại loạn, quân Ngô xâm lược, chiếm kinh ký. Chúng biết nước Nam khó cai trị nên những nơi xưa đều phá sạch thành đất bằng. Ở Thăng Long người ta thường chôn vàng đắp đất để làm mộ cổ, nên chúng sai người sở tại đến khai quật, được nhiều vàng. Những nơi cũ và nhân dân đều giết sạch, các mộ phần bị phá sạch. Khi đó những người dân trong xã chạy lưu vong hết, họ Lê tập hợp được 200 người, đem hết các phần mộ tổ tiên đi. Tộc trưởng Phúc Kiến muốn lấy trống rồng của năm vị, gieo quẻ xin 5 lần không được, bèn sắp xếp đưa người trong tộc cùng với các gia phả, sự tích chạy vào trong rừng núi. Khi giặc đến nơi thì hương ấp không còn ai theo phục. Lần đó Thái tổ thua ở chân núi Tiên Du, chạy về phía Tây đến đền thần của bản xã thì trời tối. Chỉ còn có 1 đệ tử đi theo, bèn than lớn rằng: – Trời làm ta vong, ta chạy làm gì. Bèn vào trong đền thần để tạm trú. Thấy một người lạ quần áo thật lớn, theo cửa giữa của miếu ra nghênh đón Thái tổ, theo vào ngồi trên miếu. Người này nhường cho Thái tổ ngồi bàn trên, tự mình ngồi bàn dưới. Thái tổ trong tâm biết là thần vậy. Người này dâng lời rằng: – Trời sinh ra Chân nhân chính vì sinh linh mà trừ giặc tàn bạo. Sao lại tự chịu khuất nhục vậy? Thái tổ nói: – Trẫm đoán là Trời không giúp Trẫm để an dân. Nay khi thiên hạ đại loạn, Trẫm cùng với các tướng tảo trừ loạn, đã tận lực đánh ngoài trăm trận, diệt trừ loài ác để an thiên hạ. Nhưng lại sinh ra Liễu Thăng cường tráng như vậy. Nếu trời định giúp Trẫm, đã sinh ra Trẫm sao lại còn sinh ra Liễu Thăng? Thiên hạ làm sao có thể bình, yên được dân sinh. Nên mới thốt ra lời than thở. Đại vương nói: – Đó là Trời sở dĩ cùng Chân nhân cầu cho Nam Việt, không phải tự tiện mà sinh Liễu Thăng, nên nước Nam chưa được yên ngưng. Thăng là con của thần tiên phong của Thượng Đế, giáng sinh sau, thân dài mười thước, oai trấn vạn người. Người Minh còn phải nhường oai hùng đó. Đó là một chớp cánh phục sinh. Lại xâm lược phương Nam sáu lần, quân hơn trăm vạn, đều là vì tìm diệt Chân nhân. Vua Minh còn chưa yên tâm, vội vã lệnh cho triều đình nhà Minh mà không có ai đối lại được. Một lần đến mà không được không phải do tự tiện, từ đó mà tăng quân. Chúng có 40 vạn tinh binh. Còn Chân nhân chỉ có 500 người, nay bại cũng không phải là lạ. Vua nói: – Như lời Đại vương thì Trời sẽ giúp Trẫm diệt chúng phải không? Đáp rằng: – Tất nhiên. Vua nói: – Có kế gì tốt để làm? Đáp rằng: – Quân của chúng chạy không dừng. Một ngày đi ba bốn dăm. Nay đóng quân ở bờ Nam sông Đà. Đến ngày nọ sẽ qua sông. Đó là khi có thể nhờ vào chỗ hiểm của sông sâu, một trận chiến có thể diệt hết giặc. Xin Chân nhân chớ lo lắng, sau có thể được thỏa chí. Vua nói: – Ta được Trời giúp vậy. Xin Đại vương hãy giúp cho Trẫm. Vương nói: – Vâng vâng. Đại vương bèn cho sứ đến núi Tản Viên truyền thông điệp xin được cùng đồng lòng giúp nước, cho xuất các loại hổ báo, rắn rồng vào trận. Thần núi Tản Viên phát sứ đến hẹn đến ngày 12 trong tháng cùng chiến. Vương đồng ý. Lại cử sứ đến đền Ma Y tướng quân nhờ Ma Y giúp nước. Việc xong, Ma Y tướng quân sai sứ mang một chiếc áo đến cho vua Lê mặc. Đại vương dâng kiếm thần mà nói: – Liễu Thăng cưỡi hai con phượng cao 5-6 trượng. Ở chỗ trú ẩn đó có một cây Đường lệ lớn. Chân nhân tới đó thì lên đứng ở phía đầu cành. Liễu Thăng sẽ không thấy. Khi xe phượng đi qua, Chân nhân hãy chém đầu Liễu Thăng. Thần sẽ dẫn quân cùng với thần núi Tản Viên đánh phía sau. Một trận có thể diệt sạch. Vua Lê lo lắng. Đại vương nói: – Chân nhân chớ lo. Mặc chiếc áo này vào thì không ai nhìn thấy cả. Chém được tướng đó thì quân đó thành không đầu. Thần sẽ cùng đến giúp đánh quyết thắng, không lo. Khi đó các tướng bại trước đó đã động lòng dẫn quân đến hội tập được hơn ba ngàn người. Vua Lê bèn mặc áo Ma Y, cầm kiếm thần đến bờ bắc sông Đà, lên đứng ở trên đầu cây gỗ lớn. Đến quá trưa, quân Ngô vượt sông, bỗng thấy đầu Liễu Thăng rơi xuống đất. Quân giặc đại loạn. Bỗng gió lớn nổi lên ở phía Nam từ núi Tản Viên thổi xuống. Lại thấy rắn lớn hổ mạnh cùng trăm thú trong núi rất nhiều không đếm xuể tiến thẳng tới. Quân Ngô bỏ chạy. Trong một lúc đều rơi xuống sông Đà. Nước sông do thế tắc không chảy được. Quân Lê thấy một tướng lạ mặc áo xanh đốc chiến, giết quân Ngô không còn một tên. Đến khi Vương toàn thắng, thì không thấy vị tướng áo xanh ở đó nữa. Vua trở về Thăng Long lên ngôi Hoàng đế, lập hiệu Thuận Thiên, bèn lệnh cho quận công Trần Hãn dẫn quân đến tu sửa miếu điện, dựng nên ba tầng thượng, trung, hạ điện, đều có ba gian. Tháng 5 thì làm xong, phụng mệnh làm lễ tam sinh đến tạ, ban một đạo sắc cho bản xã thờ phụng. Cứ mỗi năm tháng Giêng phát tiền công làm ca xướng một bữa, lệ thường trong năm như vậy. Do đó về sau ngày 18 tháng Giêng là ngày lệ thờ từ đó. Năm Hồng Đức thứ 4, thiên hạ gặp hạn hán lớn từ tháng 6 đến tháng 8 không có mưa. Triều đình sai sứ đi cầu mưa ở núi Hùng, Tản Viên cùng các đền thờ thần thượng đẳng, tuy có được một chút mưa nhưng không đủ để tưới hết mùa màng. Tháng 8 ngày mồng 2 sai sứ quan đến đền thần ở xã cầu đảo. Bỗng thấy một trận mưa lớn mù mịt như cầu mong, trên từ sông Hạc dưới đến cửa biển Tô Lịch dài ngàn dặm. Lúa ngô tự mọc. Đến mồng 10 sai quan theo lệnh chỉ đến tế ở điện, ca hát một bữa mừng lúa thóc được mùa. Đến mồng 6 tháng 11 sai sứ quan mang lễ vật tam sinh cùng một đạo sắc đến bài trí ở miếu điện tại xã. Đến mồng 10 thì tế tạ cầu mùa được thành, ca hát một bữa. Từ đó bản xã lại có ngày mồng 10 tháng 8 cùng với tháng 11 có ca hát hai lệ phỏng theo đó. Năm Chính Hòa thứ 8, Đình quân công vâng mệnh xây dựng đường thị đi qua nơi miếu, thấy có một cây Kim giao rất lớn, cao 6-7 tầm, mới gọi đến hương trưởng và rằng: – Lầu Kính Thiên của triều đình có một cây cột lớn, hôm trước bị cháy mất. Bộ Công cầu tìm chưa được. Nay đây có một cây có thể dùng được, ta muốn lấy khoảng 10 tiền công phát để các người mua đồ thờ phụng thần, mà triều đình cũng được tiện dùng. Khi đó chánh tổng Lê Đức Sổ đáp rằng: – Xã hèn chúng tôi từ khi có cây gỗ này đến nay qua đã không biết bao đời không dám dùng tới đao búa. Lũ hèn chúng tôi sợ không bán cho Đại quan được. Quận công nói: – Các ngươi không bán thì ta cũng lấy để dùng cho triều đình, không phải để cho riêng ta thì sao lại không thể được. Bèn lệnh cho đồ đệ chặt cây gỗ, nhưng cây gỗ tuyệt nhiên không suy chuyển gì. Quận công sợ hãi, mổ lợn bày việc tế, lại khấn rằng triều đình tha thiết muốn dùng, xin Đại vương đừng từ chối. Bỗng thấy cây gỗ tự ngả xuống. Bèn đem về đến bến kinh thành. Hoàng đế đích thân ra cầu chú rằng: – Đại vương sinh là Thiên tử, mất làm phúc thần. Nay lầu Kính Thiên của Trẫm thiếu một cây cột lớn, cầu tìm không được. Nay Quận công thấy miếu của Đại vương có một cây Kim giao thích hợp. Tuy tự tiện nhưng không thiếu thiện tâm. Xin Đại vương có thể tự hiến để giúp triều đình. Bỗng thấy cây gỗ chuyển động ba lần. Vua sai Quận công gọi một người dẫn tới tòa hồng, nhẹ như lá vậy. Đế lệnh Quận công bố trí lễ lớn tam sinh cùng một đạo sắc đến miếu thần ở bản xã để tế tạ, nói với hương trưởng ngọn ngành như vậy. Tích của xã Hạ Mạo. Vâng sao nguyên bản. Lý trưởng Lê Văn Kính.
Có rất nhiều học giả Tây có, ta có, Tàu có, cho đến nay vẫn cho rằng sách vở xưa các cụ chép đã nhầm chữ “Lạc” thành chữ “Hùng”, nên kết luận Hùng Vương là Lạc Vương, hay các vua Hùng mang họ Lạc… Bài viết này xin tổng quan lại nhận định về dòng giống Lạc Hùng của người Việt trong suốt tiến trình lịch sử là gì.
Tên gọi “Lạc” đầu tiên được nhắc đến trong sử Việt là Lộc Tục Kinh Dương Vương làm vua phương Nam, lấy tên nước là Xích Quỷ. Chữ “Lộc” ở đây chính là đọc sai của “Lạc”, mà bằng chứng trực tiếp là sau đó Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc – Long quân, thủ lĩnh của vùng Lạc và Long. Nếu mẹ Rồng Động Đình đã là Long thì hiển nhiên cha Tiên phải là Lạc.
Lộc Tục tức là Lạc tộc, chỉ dòng tộc ở vùng đất phương Nam xưa thời lập quốc Xích Quỷ. Phương Nam xưa là phương của cây kim chỉ Nam, vốn luôn chỉ về địa cực, chứ không phải phương Xích đạo như ngày nay. Phương này trong Ngũ hành thuộc về hành Thủy (nước). Do đó tên nước Xích Quỷ thực ra là cách phiên thiết của chữ Thủy = Sủy, chỉ phương Nước mà thôi. Lạc cũng vốn phát âm là Nác, mà tiếng Nghệ Tĩnh ngày nay vẫn đang nói để đọc từ Nước. Lạc nghĩa là Nước, là Thủy, là phương Nam xưa.
Chính điện đình Triệu Phú (Hùng Sơn, Phú Thọ)
Câu đối ở đền Hùng, Phú Thọ:
Khải ngã Nam Giao, Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc
Hiển vu Tây Thổ, Tản Lô nhất đái thọ tân từ.
Dịch nghĩa:
Mở đất Nam Giao, Hồng Lạc nghìn thu xưng đế quốc
Sáng vùng Tây Thổ, Tản Lô một dải mãi lưu đền.
Dòng Lạc tộc của Kinh Dương Vương đã kết hợp với dòng Long tộc Động Đình mà sinh ra Lạc Long Quân. Con Rồng là biểu tượng của phương Đông trong Tứ linh, xuất xứ từ vùng ven biển Động Đình, tức biển Đông. 2 dòng Lạc ở vùng trung du Bắc Bộ và dòng Long ở ven biển Đông đã hợp nhất dưới thời vua cha Lạc Long Quân. Từ đó chữ Lạc cũng dùng chung với nghĩa Lạc Long, chỉ 2 vùng đất này ở miền Bắc Việt.
Phương hướng trong cổ sử Hoa Việt
Dòng Lạc Thị từ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân được thờ tập trung ở vùng Thuận Thành, Gia Bình (Bắc Ninh) với những di tích tiêu biểu như lăng Kinh Dương Vương ở Á Lữ (Thuận Thành), đình Đại Bái thờ Lạc Long Quân, đền Bình Ngô thờ Hùng Vương…
Lạc Long Quân khi nhận ngôi của Kinh Dương Vương đã phải làm một cuộc “cách mạng”, giành quyền cai quản từ dòng phía Tây là Đế Lai. Nhờ dựa vào những người anh em “cùng một bọc trứng” rồng của mẹ Thần Long mà Lạc Long Quân đã trở thành đức Vua cha Bát Hải, đứng đầu Thủy phủ Động Đình.
Câu đối ở đền Đồng Bằng, nơi thờ đức Vua cha Bát Hải Động Đình:
Bình Thục trứ nguyên huân, mỹ tai Hồng Lạc sơn hà, bi kệ trường minh Đào Động miếu Lịch triều long tự điển, tế thử Á Âu phong hội, sương uy do tại hải môn thu. Dịch nghĩa: Dẹp Thục nên công đầu, đẹp thay núi sông Lạc Hồng, bia kệ sáng dài Đào Động miếu Trải triều thịnh điển lề, đến nơi phong hội Á Âu, uy sương còn mãi hải môn thu.
Hình Rồng ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình)
Những người anh em phò trợ Lạc Long Quân được kể dưới nhiều cái tên. Đó là Thổ Lệnh và Thạch Khanh, hai vị thần Tam Giang ở bến Việt Trì. Đó cũng là 5 anh em của Trung Thành Phổ Tế Đại vương được kể ở vùng Thường Tín, Phủ Lý. Bên Hồ Tây thì đó là Uy Linh Lang và Đoài Hồ Thất giáp, lục bộ thủy phủ đã diệt con Cửu vĩ Hồ (người Hồ ở hướng Tây). Trong tín ngưỡng Tứ phủ thì đó là Ngũ vị tôn quan, lập nên Ban công đồng của Tứ phủ.
Trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn thì Lạc Long Quân và những bộ tướng Thủy phủ được kể bằng các tên là Quý Minh như ở Ghềnh Bợ (Ba = Quan Đệ tam Thoải phủ) hay 5 vị thủy thần ở La Phù bên bãi Trường Sa của Đà giang. Đây cũng là các “Lạc tướng” dưới trướng của Lạc Vương (Long Quân), vì hiển nhiên các vị này cùng họ với Lạc Long Quân. Công nghiệp lớn nhất của họ là “phù Hùng đánh Thục”, tức là giúp Lạc Long Quân (vua cha Hùng Vương) đánh dòng phía Tây (Thục) của Đế Lai, lập nên nước Hồng Bàng hay Việt Thường.
Lạc triều từ Lạc Long Quân (hoặc từ Lộc Tục Kinh Dương vương) trải 18 đời (con số ước lệ) đều gọi là Hùng Vương, lấy theo tên của Thái tổ Hữu Hùng Đế Minh. Đến đời Hùng Vương thứ 18 là Duệ Vương thì thiên hạ họ Hùng đã trải rộng vượt bờ Hoàng Hà. Trên vùng đất Lạc lúc này có thủ lĩnh là Lạc tướng Cao Sơn mà truyền thuyết chép mang tên Sùng Lãm. Sùng có nghĩa là Cao. Truyền thuyết Trung Hoa gọi là Bắc Bá hầu Sùng Hổ của thời Ân Thương.
Chính điện đình La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ)
Hậu duệ của dòng theo Đế Lai đi về phía Tây (lên núi) lúc này là Âu Cơ hay Cơ Xương, là Tây Bá hầu của nhà Ân. Cơ Xương phát động cuộc đại chiến, tiến đánh Sùng Hầu Hổ ở đất Lạc, truyền thuyết gọi là Thục đánh Hùng Duệ Vương. Lạc tướng Cao Sơn cùng với những dòng tộc khác trên đất Lạc là Tản Viên Nguyễn Tuấn và Quý Minh Nguyễn Hiển chống lại sự tấn công của quân Thục ở vùng thượng du sông Đà, sông Thao (Mộc Châu, Quỳnh Nhai). Quân Thục của Cơ Xương giành phần thắng, đất Lạc bị dòng Âu Cơ chiếm. Cơ Xương dời đô từ Kỳ Sơn về Phong Châu (Phú Thọ), hợp nhất 2 vùng đất Âu (tức Ai Lao, hay vùng cao nguyên Vân Quý) và đất Lạc (tức vùng Nam Giao – Giao Chỉ thời Nghiêu Thuấn Vũ), gọi là nước Âu Lạc.
Cơ Xương băng, con trai là Cơ Phát đã phát động các chư hầu làm cuộc tổng tấn công nhằm vào Trụ Vương. Vua Ân chết ở Lộc Đài vào mùa thu, hóa thành Vua Địa phủ. Ngày vua Ân chết trở thành ngày Xá tội vong nhân, khi mà cánh cửa Dương gian và Địa phủ mở ra để Âm Dương có thể quy về hòa hợp.
Thục Vương Cơ Phát (Thục Phán) lên ngôi Thiên tử, xưng là Vũ Vương, truy phong cho cha là Văn Vương, nên lấy tên nước là Văn Lang. Cơ Phát dời lại đô về phía Tây ở Cảo kinh. Vùng đất Lạc ở phía Đông trở thành nơi tế tự tổ tiên họ Hùng và Văn Vương trên núi Nghĩa Lĩnh.
Vũ Vương băng, Thành Vương nối ngôi còn nhỏ, Chu Công Đán cùng Thiệu Công Thích nhiếp chính. Hậu duệ của nhà Ân là Vũ Canh cùng với ba vị giám thúc nổi loạn. Chu Công xuất thân Đông chinh, bắt đám “ngoan dân” của nhà Ân về an trí tại đất Lạc. Thượng thư có mấy thiên nói về viên việc này:
Thiệu cáo (lời của Thiệu Công với Thành Vương và Chu Công): Qua bảy ngày, Giáp tí, Chu Công bén sớm ra dùng thư để ra lệnh cho dân Ân… Dân Ân đều tới làm. Sau đó Thiệu Công đã trình bày sự việc và xin vua (Thành Vương) xá tội cho dân Ân ở đất Lạc.
Lạc cáo (lời đối thoại giữa Chu Công và Thành Vương): Duy thánh ba ngày rằm, Chu Công bắt đầu dựng nền, làm ấp lớn ở nước miền Đông là đất Lạc… Hỡi người do vua sai khiến! Dân Ân chịu lời dạy dỗ, muôn năm cũng vẫn xem mãi ông vua, cháu ta mà mến đức. Ngày Mậu Thìn nhà vua ở ấp mới làm lễ tế chưng hàng năm, tế Văn Vương 1 trâu, Vũ Vương 1 trâu…
Đa sĩ (lời Chu Công nói với các quan nhà Ân):Duy tháng ba, Chu Công bắt đầu ở ấp mới là Lạc, bèn bá cáo với các quan của vua Thương cũ… Bảo cho các ngươi, các quan nhà Ân được hay! Ta không giết các ngươi. Lúc này ta chỉ lại ra lệnh. Nay ta làm ấp lớn ở đất Lạc này. Ấy là ta vì không có chỗ tiếp đãi bốn phương. Và cũng vì các quan các ngươi chạy bạy làm việc, gần vớ nhiều kẻ biết nhường nhịn của ta… Các ngươi hãy nhận lấy ruộng đất của các ngươi! Các ngươi hãy yên ổn ở lại mà làm việc!…
Vùng đất Lạc lúc này ngoài dòng tộc của Lạc Long Quân xưa (Cao Sơn và Quý Minh) đã có thêm dòng tộc của Âu Cơ Văn Vương và của dòng nhà Ân Thương (Việt Thường) đến lập Lạc ấp. Việc yên định hậu duệ của nhà Ân ở đất Lạc là mối lo của các đời vua Chu từ Thành Vương đến Khang Vương, tới Tất Cônghọ Phan mới thành toàn được vùng Đông đô này:
Tất mệnh (lời Khang Vương truyền cho Tất Công): Than ôi! Cha Thái sư! Vì Văn Vương, Vũ Vương ra đức lớn với thiên hạ nên được nhận ngôi của nhà Ân. Nhờ Chu Công giúp đỡ vua trước, yên định được việc nhà. Khó nhọc với đám dân ngoan ngạnh của nhà Ân, dời họ sang ấp Lạc gần kề nhà vua, họa hóa theo lời dạy bảo. Trải qua ba kỷ (mỗi kỷ 12 năm), đời đổi, thói dời… Sự yên nguy của nước chỉ là trông bọn dân Ân ấy. Không cương, không như đức mới thực tu! Duy Chu Công cẩn thận được ban đầu. Duy Quân Trần thỏa hiệp được khoảng giữa. Duy ông thành toàn được đoạn cuối.
Vế đối có chữ Lạc Đô ở đình Tân Khai
Câu đối ở đình Tân Khai ở trung tâm Hà Nội gọi đích xác nơi này là “Lạc Đô”:
Đại La thành nhất đái giang sơn, Long Đỗ chí kim do thắng tích
Tứ vọng tự lũy triều hương hỏa, Lạc Đô chung cổ độc anh thanh.
Dịch nghĩa:
Thành Đại La một dải núi sông, Long Đỗ tới nay còn thắng tích
Bốn đền trấn các triều hương lửa, Lạc Đô tự cổ dậy tiếng thơm.
Thời Chu U Vương vùng Tam Xuyên (tức là vùng Tam Giang trên đất Lạc) gặp trận động đất lớn là điềm âm thịnh dương suy. Thái sử nhà Chu là Lão Tử Lý Bá Dương đã đăng đàn trên núi Thất Diệu, nhắc lại ân oán của 2 nhà Hạ và Thương (cùng là dòng Lạc Long) ở đây để răn dạy vua Chu. U Vương sủng ái Bao Tự, hóa thân của dãi rồng từ thời Hạ, dẫn đến mất nước. Nhà Chu buộc phải dời đô về Đông, tức là về vùng đất Lạc của tổ tiên họ Hùng xưa, đóng đô ở Đông Ngàn Cổ Loa, gọi là Lạc Dương. Dương là hướng mặt trời lên, chỉ phương Đông.
Câu đối ở nghi môn đền mẫu Bạch Kê trên núi Thất Diệu:
Hồng Lạc di phong trang thể thế
Tiên Long dư duệ khải hồng cơ.
Dịch nghĩa:
Di tích Lạc Hồng đẹp hình thế
Dòng dõi Tiên Long mở cơ đồ.
Câu đối ở miếu Bạch Kê
Cuối thời Chiến Quốc, nước Tần ở phía Tây trên đất Ba Thục trở nên hùng mạnh. Tần Vương (cũng gọi là Thục Vương) đánh chiếm đất Chu của họ Hùng, sát nhập vùng đất Lạc với lãnh thổ phía Tây của nhà Tần nên cũng được gọi là nước Âu Lạc. Tần Thủy Hoàng xưng Đế, thống nhất thiên hạ Trung Hoa.
Chế độ hà khắc của Tần không được lâu. Một người từ vùng đất Phong Bái, tức là đất Lạc, là Lưu Bang đã dựng cờ khởi nghĩa ở vùng núi Châu Sơn Vũ Ninh. Nước Vạn Xuân lập ra rồi lại tách làm 2 phần sau khi Lữ Hậu mất. Nước Nam Việt có địa bàn nằm trên vùng đất Lạc Long xưa, nên Triệu Vũ Đế được coi là dòng Lạc Hùng như câu đối ở điện Xuân Quan bên sông Hồng:
Bạt địa nguy thôi phương tích bất tùy Tần Hán khứ
Xung thiên để trụ anh tiêu trường yết Lạc Hùng lai.
Dịch là:
Bạt đất mênh mông, danh tiếng thơm bất khuất thời Tần Hán
Động trời cột trụ, chí anh hùng giữ mãi buổi Lạc Hùng.
Nhà Triệu truyền 5 đời tới Triệu Vệ Dương Vương thì thất thủ bởi cuộc tấn công của nhà Hiếu vào Phiên Ngung. Vua Triệu cùng với thừa tướng Lữ Gia đem gia quyến lên lâu thuyền chạy về phía Tây, về đất Lạc xưa ở cửa biển Đại Ác. Không may, vua và Lữ Gia đều bị bắt giết. Nhưng các vị hoàng phi nhà Triệu mang họ Lữ tiếp tục ngược sông Đáy, chạy về vùng Phong Châu, làm nên cuộc khởi nghĩa Trưng Vương. Trưng Vương là dòng “Lạc Hùng chính thống“, khởi nghĩa trả thù cho chồng là “Lạc tướng Chu Diên“, đọc lời thề ở Hát Môn.
Câu đối ở đền Đồng Nhân thờ nhị vị Trưng Vương, nói rõ Trưng Vương đã tiếp nối dòng Lạc, dựng nước Đinh:
Tiếp Lạc, khai Đinh, quan miện xưng vương tam tải sử
Khu Tô, kháng Mã, sơn hà hoàn ngã vạn niên phương.
Dịch là:
Tiếp Lạc Hồng mở Đinh Tây, áo mũ xưng vua ba mùa lưu sử sách
Đuổi Tô Định chống Mã Viện, núi sông thu lại vạn xuân truyền danh thơm.
Câu đối trên đá ở đền Đồng Nhân
Câu đối ở đình Nôm, thờ thánh Tam Giang, một vị đại tướng của Trưng Vương, lấy cháu gái của Triệu Vũ Đế là Triệu Mỵ Nương, nói tới Trưng Vương thu được 65 thành và đóng đô ở “Đông Lạc”:
Lục thập thành Đông Lạc đại đô, Hán thị sơn hà ki khả chuyển
Bách thiên tải Nam triều danh tích, Trưng gia nghĩa liệt khải năng ma.
Dịch nghĩa:
Sáu mươi thành đô lớn Đông Lạc, thời Hán núi sông mà lay chuyển
Trăm ngàn năm tích nổi Nam triều, nhà Trưng công nghĩa chẳng từ.
Khởi nghĩa Trưng nữ Vương thất bại, nhưng hậu quân của Nam Việt nhà Triệu vẫn tiếp tục duy trì ở vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ dưới tên Nam Triệu (Nam Chiếu) của Triệu Ông Lý. Lạc Dương thời Chu Thục trở thành Giao Chỉ với thủ phủ ở Long Biên.
Tới thời Đường, Lạc Điêu ngự sử Cao Biền được cử sang An Nam bình định Nam Chiếu. Chữ “Lạc Điêu” thực ra là Lạc Diên mới đúng, là đọc chệch của từ Lạc Dương. Cao Biền đuổi quân Nam Chiếu ra khỏi vùng đất Lạc Dương, xây thành Đại La.
Hội đình Kim Lan
Câu đối ở đình Kim Lan, thờ Cao Vương Biền:
Châu lĩnh ngật đồi ba, Hồng Lạc sơn hà lưu thắng tích
Nhị hà bồi xuân sắc, Thăng Long cố chỉ ánh Đại La.
Dịch nghĩa:
Đất ngọc sóng vờn vun, non nước Lạc Hồng lưu thắng tích
Sông Nhị đắp xuân sắc, nền cổ Thăng Long sáng Đại La.
Dòng dõi Lạc Vương, Lạc Hầu, Lạc Tướngsau khởi nghĩa Trưng Vương còn chưa dứt, bởi tới khi chúa Nguyễn Hoàng dựng nghiệp, Gia Long, Minh Mệnh lập lại đế quốc Đại Nam thì vẫn nhận mình là dòng dõi Hùng Vương, như được ghi trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả.Chúa Nguyễn Hoàng nay được thờ là ông Hoàng Mười với sự tích cho rằng là con của Vua cha Bát Hải giáng thế. Vua cha Bát Hải là Lạc Long Quân nên sự tích này ý chỉ họ Nguyễn là dòng dõi của Lạc triều xưa.
Trang ngọc phả đề Hùng Vương năm 32
Nhà thờ họ Nguyễn ở Kẻ Xốm (Vân Nội, Phú Lương, Thanh Oai), nơi lưu giữ Cổ Lôi ngọc phảtruyền thư và Bách Việt triệu tổ cổ lục, luôn coi mình là dòng dõi Kinh Dương Vương. Đình Bình Đà thờ thủy tổ Lạc Long Quân với bức giá tượng cổ Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ. Khu vực Thanh Oai này cũng là “quê mẹ” Bồng Lai của hoàng tử Linh Lang, tức là Lạc Long Quân trong truyền thuyết. Như thế 2 cuốn phả tộc họ Nguyễn trên thực chất là ghi chép lịch sử người Việt từ góc độ của dòng Lạc theo cha, khác với những truyền thuyết chép từ góc độ của dòng lên núi theo mẹ Âu Cơ nước Văn Lang xưa.
Có thể họ Nguyễn = Nguyên, là số 1, chỉ phương Nam xưa trong Hà thư, hành Thủy. Tức là Nguyễn cũng tương đương với Lạc.
Cấm cung đình nội Bình Đà
Lịch sử hơn 4.000 năm, từ khi Lạc tộc khai phá phương Nam, Lạc Long Quân mở nước về miền biển Đông, Thục Vương dời đô về Lạc ấp, Tần Vương thống nhất Âu Lạc, Triệu Vũ Đế khởi binh, Trưng Vương nêu cao ngọn cờ Lạc Hùng chính thống, Cao Vương xây thành Đại La, cho tới các vua Nguyễn hưng thịnh nước Đại Nam. Dòng máu Lạc Hồng chưa hề ngừng chảy trong con tim mỗi người dân Việt.
Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với cácnấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới.
1. Cuộc chiến mở nước giữa Hoàng Đế và Xi Vưu (5000 năm trước)
Lịch sử Việt được bắt đầu bằng Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên… Hoa sử ghi là cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên đánh thắng Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê nhờ sự giúp đỡ của Cửu Thiên Huyền Nữ. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, sử Việt chép là Đế Minh.
Cuộc chiến lập nước Họ Hùng đầu tiên này được lưu truyền trong sự tích của Tây Thiên Quốc Mẫu ở vùng núi Tam Đảo. Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên hay Cửu Thiên Huyền Nữ là họp quân ở Đại Đình dưới chân núi Tây Thiên, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất, công Cha như núi Thái Sơn – Nghĩa Lĩnh, nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) chảy không ngừng.
Đền Hạ Tây Thiên, một trong những nơi tụ quân của Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu
2. Cuộc chiến mở đầu chế độ thị tộc phụ đạo giữa Lạc Long Quân và Đế Lai (4000 năm trước)
Thời kỳ mở đầu của họ Hùng cho tới khi Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình ở phía Đông đã hòa hợp các tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân với sự hỗ trợ của dòng bên mẹ ở Động Đình phía Đông đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng phương Bắc là Đế Lai. Truyện Họ Hồng Bàng mô tả:
Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.
Cuộc chiến khởi đầu thời kỳ lịch sử cha truyền con nối của Lạc Long Quân với dòng Đế Lai còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua cha của Thoải phủ trong Tứ phủ, tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.
Trong Truyện Hồ Tây thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây. Dòng Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là dòng Thục.
Hoa sử chép chuyện này là nhà Hạ Hậu (Hạ Khải) đã bỏ chức Tắc từ Hậu Tắc, làm cho con của Hậu Tắc là Bất Truất phải chạy vào vùng Nhung Địch. Hậu Tắc như vậy chính là Đế Lai trong truyền thuyết Việt. Ông cũng là tổ của nhà Chu sau này.
Chồng kiệu Uy Linh Lang và Lục bộ thủy phủ trong ngày hội đình Nhật Tân
3. Cuộc chiến về lại đất Lạc của dòng Âu (trên 3000 năm trước)
Dòng Đế Lai – Hậu Tắc chạy về phía Tây, tới thời Hùng Duệ Vương thì trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Vương phát động một cuộc đại chiến mà truyền thuyết Việt ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với Thục Vương lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương.
Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Hoàng Đế, tức Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của người Việt.
Cuộc chiến này là căn cứ lịch sử cho việc thờ các vị Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.
Hoa sử chép đây là chuyện Tây Bá Hầu Cơ Xương đánh chiếm nước Sùng của Sùng Hầu Hổ nhà Ân Thương, rồi dời về lập Phong kinh. Hiền Vương Cơ Xương mất, con trai là Cơ Phát truy tôn cha là Chu Văn Vương. Do đó, đất nước lúc này có tên là Thục (Chu) Văn Lang (Văn Vương).
Ban thờ Âu Cơ ở Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ)
4. Cuộc chiến khởi lập chế độ phong tước kiến địa của Âu Lạc (khoảng 3000 năm trước)
Truyền thuyết Việt kể Hùng Vương thứ Sáu đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Cầm đầu quân đội nhà Ân lúc này là 28 tướng “nữ nhung” với tên Thạch Linh Thần tướng hay Ma Cô Tiên (Ma Lôi). Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương (Hùng Duệ Vương) chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên để ngàn đời hương hỏa.
Thục Vương lúc này còn được gọi là Lang Liêu, tức thủ lĩnh của người Liêu – Lao (Ai Lao Di). Lang Liêu lên nối mệnh trời, lập cột đá thề trung thành với họ Hùng của Hoàng Đế Hiên Viên, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ đất nước.
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể là Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương bắt đầu thời kỳ phong kiến phân quyền hay thời Trị bình kiến phu (trị quốc bình thiên hạ kiến lập chư hầu).
Hoa sử kể đây là cuộc chiến của Ninh Vương Cơ Phát nhà Chu, với Khương Thái Công Lã Vọng là Thừa tướng đã diệt Trụ Vương, lên ngôi Thiên tử của Thiên hạ, phân phong các chư hầu, đặt ra lễ chế, tín ngưỡng, hình thành Thiên hạ Trung Hoa của nhà Chu kéo dài hơn 800 năm.
Tượng thờ Ma Bà trên núi Châu Sơn
5. Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Trọng Thủy (năm 257 TCN)
Cuối thời nhà Thục của An Dương Vương, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Loa Thành Đông Ngàn của Vua. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. Thục An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển. Chấm dứt thời đại nước Văn Lang – Âu Lạc. Cũng là bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất của nhà Triệu.
Hoa sử chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương cử cháu là Tử Sở làm con tin ở nước Triệu (Châu), rồi đánh bại Chu Noãn Vương, khởi đầu Vương triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, sử Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.
Bộ Tần giản bằng đá ngọc phát hiện trên đất Việt
6. Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Đà (năm 206 TCN)
Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu đều nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Một đình trưởng đất Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm được Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả cuối cùng của cuộc phân tranh này là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hiếu.
Lịch sử Việt gọi Lưu Bang là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm 3 quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế.
Lưu Bang mất, Lữ Hậu tiếm quyền. Sau khi Lữ Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) ở phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là họ Lữ. Cuộc đối kháng Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.
Long Hưng điện, nơi Triệu Vũ Đế thấy rồng bay trên sông Nhị
7. Khởi nghĩa Trưng nữ Vương dòng Lạc Hùng chính thống (sau năm 110 TCN)
Thần tích Việt cho biết, khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra ngay sau khi nhà Triệu nước Nam Việt ở Phiên Ngung thất thủ và Trưng Vương là dòng dõi “Lạc Hùng chính thống”. Trưng Vương khi khởi nghĩa đã lập đàn tế Tản Viên Sơn Thánh ở Hát Môn, nhưng vị thần hiện lên phù trợ lại là Lạc Long Quân. Trong các di tích thờ các tướng lĩnh của Trưng Vương cũng thường rất hay gặp những vị thần hiển linh phù giúp là Lạc Long Quân, Cao Sơn Quý Minh, Ma Cô Tiên… Tức là các vị thuộc dòng Lạc từ thời phân chia Âu – Lạc xưa.
Bản thân ông Thi Sách được gọi là Lạc tướng Chu Diên hay Quốc vương Thiên tử Đông Hán đại vương, đều chỉ dòng Lạc ở phía Đông. Mối liên quan giữa Trưng Vương và dòng Lạc Long rất rõ. Và như thế đã ám chỉ, nhà Hiếu (Tây Hán) đối nghịch thuộc về dòng Âu xưa.
Đền Hai Bà Trưng và Đàn Thần Hiện ở Nỗ Châu (nay là Phương Châu, Việt Trì)
Tóm lại, khởi đầu từ 1 nguồn gốc Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã phân tách thành 2 dòng. Một dòng Lạc Long theo cha xuống biển phát triển về phía Đông. Một dòng Âu Thục theo mẹ lên núi phát triển về phía Tây. Những cuộc đụng độ giữa 2 dòng Rồng – Tiên, Hùng – Thục, Âu – Lạc này là đã đánh dấu mốc phát triển của xã hội Việt từ thấp đến cao, từ chế độ công xã lên thị tộc, rồi phong kiến phân quyền sang phong kiến tập quyền trung ương. 2 dòng tộc như 2 mặt Âm Dương, vừa hòa hợp, vừa đối nghịch, xoay vần mà tạo nên sự phát triển của xã hội Hoa Việt thời kỳ đầu dựng nước.
(Bản thần tích được dịch từ bản chép tay lưu ở đền Thánh mẫu tại Thanh Lãng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc)
Xem xưa Vệ Dương Vương bị thua tướng Hán là Lộ Bác Đức. Về sau con cháu lạc trong nhân dân. Phu nhân là chắt của Vệ Vương. Phu nhân lấy chồng người huyện Chu Diên (không rõ tính danh), sinh được 5 con trai. Chồng mất sớm, Phu nhân dắt các con đến lánh ở chùa Quảng Hữu xã Thanh Lãng. Được vài năm thì Phu nhân qua đời, chôn ở khu đất tại thôn Minh Lương.
Khi ấy năm người con trai đã lớn, lại có nhiều tài sức, đã hội cùng Trưng Vương khởi binh. Năm chàng trai là người bản huyện cầm đầu quân kỳ. Trưng Vương đều sai đem quân chia thành các đạo cùng đánh tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long. Mỗi trận đều thắng. Quân của Trưng Vương lại bị nhiều thương tật. Chàng Cả lấy lòng vàng trứng ngỗng điều chế thành thuốc chữa. Quân binh lại được mạnh khỏe. Nhân đó phong Chàng Cả (húy 2 chữ) làm Hoàng Dược Nghĩa Dũng Tướng quân.
Đồng thời phong Chàng Hai (húy 2 chữ) làm Nhung Vụ Tướng quân, Chàng Ba (húy 2 chữ) làm Đốc Vận Hướng Mễ Tướng quân, Chàng Bốn (húy 2 chữ) làm Tướng quân, Chàng Năm (húy 2 chữ) làm Tướng quân. Tặng cho mẹ là Triệu Thị Khoan Hoà Phu nhân.
Đến khi Mã Viện đem quân đến, cuộc chiến của Trưng Vương bất lợi, tự thấy thế cùng, không chịu khuất nhục. Năm tướng quân trong đêm chôn cất Trưng Vương ở núi Hy Sơn, rồi dẫn quân vừa đánh
Vừa lui, quay về đến thôn Minh Lương chỗ mộ của Phu nhân, đều cùng bái khóc khấn rằng:
– Nếu mẹ có linh xin dẫn các con tìm gặp Trưng Vương ở dưới đất. Lại xin lấy cái chết để không phụ chí chống giặc phương Bắc.
Dứt lời cùng rút kiếm tự vẫn, hiển linh ở đó. Xã thôn lập đền thờ phụng, có cầu tất ứng.
Trần Nhân Tông khi thân chinh dẫn đại quân thảo phạt tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, đêm ấy Nhân Tông nằm mộng thấy thần nhân
một mẹ năm con, xưng là cháu vua. Con xưng là tướng của Trưng Vương, hiện ở ba xã của Yên lãng, xin được giúp nước dẹp giặc phương Bắc để rửa hận trước đây. Đến khi tới sông Bạch Đằng, đại phá quân Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi, Phần Ấp. Khải hoàn trở về hỏi lại, dân xã tấu thấy sự việc hợp đúng như mộng. Bèn đều gia phong là Thượng đẳng thần.
Trải qua các triều đại tặng mĩ tự Triệu Thị Khoan Hòa Phu nhân, Yên Lãng và Minh Lương thờ phụng (Vị này chỉ có dân thôn phụng thờ nên trước khai là Khoan Hòa thần, ba xã Yên Lãng, Xuân Lãng, Hợp Lễ cùng thờ, có nhiều sai lệch, nay xin theo như thực mà cải chính).
Hoàng Dược Nghĩa Dũng Tướng quân (trước khai là Thành hoàng Hộ quốc chi thần, nay theo thực mà cải chính), Yên Lãng thờ phụng.
Đốc Vận Hướng Mễ Tướng quân (trước khai là Thành hoàng Hùng lược chi thần, nay theo thực mà cải chính), Xuân Lãng phụng tự
Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), Hợp Lễ phụng thờ.
Nhung Vụ Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), ba xã cùng thôn Minh Lương phụng thờ.
Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), Yên Lãng phụng thờ./.
Bình luận:
Bản thần tích này có chỗ ghi là do xã Hợp Lễ chép, có một số điểm khác với thần tích của xã Thanh Lãng. Đặc biệt là đoạn đầu nói về nguồn gốc của Thánh mẫu. Trong ngọc phả Thanh Lãng nói Thánh mẫu là “dòng vua Thục An Dương Vương lấy cháu sáu đời vua Triệu Vũ Đế là vua Vệ Dương Vương“. Sau đó khi ẩn náu ở chùa Quảng Hữu, cảm với Áp thần bản thổ mà sinh ra năm con.
Trong khi đó thần tích của Hợp Lễ lại chép: Xem xưa Vệ Dương Vương bị thua tướng Hán là Lộ Bác Đức. Về sau con cháu lạc trong nhân dân. Phu nhân là chắt của Vệ Vương. Phu nhân lấy chồng người huyện Chu Diên (không rõ tính danh), sinh được 5 con trai. Chồng mất sớm, Phu nhân dắt các con đến lánh ở chùa Quảng Hữu xã Thanh Lãng.
Thần tích của Hợp Lễ có lẽ đã muốn “cải chính” chỗ “vô lý” trong sự tích về Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa, vì nếu Thánh mẫu là vợ của vua Triệu Vệ Dương Vương thì:
1. Hóa ra khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra ngay sau khi nhà Triệu mất nước, tức là dưới thời Tây Hán, chứ không phải Đông Hán như sử sách đang chép.
2. Thánh mẫu họ Triệu, tại sao lại còn lấy vua Triệu?
Thực ra ngọc phả của Thanh Lãng mới là gốc và hoàn toàn đúng. Khởi nghĩa của Trưng Vương thực sự đã nổ ra ngay sau khi nhà Triệu mất nước, và bởi chính các hoàng phi nước Nam Việt lãnh đạo. Còn điểm thứ hai, Thánh mẫu mang họ Triệu bởi vì… Thục An Dương Vương mang họ Triệu. Kết hợp 2 thần tích trên thì thấy rõ, Triệu Thị Khoan Hòa là chắt của… An Dương Vương đời cuối, lưu lạc trong dân gian, rồi lấy vua Vệ Dương Vương. Vệ Dương Vương vốn không phải là họ Triệu, mà chỉ có tên triều đại là Triệu mà thôi.
An Dương Vương đời cuối mang họ Triệu thì không gì khác chính là nhà Tần. Tổ của nhà Tần là Tạo Phụ, đánh xe cho Chu Mục Vương rồi được phong ở Triệu thành, nhân đó lấy Triệu làm họ. Khi Tần Thủy Hoàng mất, Triệu Cao cùng với công tử Hồ Hợi giả truyền thánh chỉ, đoạt ngôi Hoàng đế, rồi cho giết tất cả các hoàng tử và công chúa của Tần Thủy Hoàng. Tuy nhiên, có thể trong số con cái của Thủy Hoàng vẫn còn người sống, nhất là vị Bạch Tĩnh công chúa, người đã được gả cho Lý Thân ở vùng Bắc Việt ngày nay.
Ngoài ra, dòng họ Triệu của nhà Tần còn chưa tận khi đó, vì sau Tần Nhị Thế còn có Tử Anh là một dòng dõi của nhà Ngoài ra, dòng họ Triệu của nhà Tần còn chưa tận khi đó, vì sau Tần Nhị Thế còn có Tử Anh là một con cháu của Tần lên ngôi. Khi Lưu Bang chiếm được Quan Trung, Hạng Vũ vào cung Tần diệt hết con cháu của nhà Tần, nhưng chắc chắn sẽ vẫn còn dòng dõi của Tần lưu lạc trong dân gian, nhất là ở khu vực phương Nam, vốn nằm ngoài sự kiểm soát của Hạng Vũ…