Sách mới: Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải

Sách LONG HƯNG TRIỆU VŨ ĐẾ, TƯ LIỆU VÀ LUẬN GIẢI.
Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân,
Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt

Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.

Trong các sách vở lịch sử ngày nay, vị hiền quân Triệu Đà đang phải chịu những nỗi “oan ức” khó giải về thân thế và sự nghiệp của ông. Nhưng có một sự thật không thể bác bỏ đó là vua Triệu được thờ một cách tôn kính ở rất nhiều ngôi đền lớn trên miền Bắc nước ta từ hàng trăm năm nay như một vị Đế vương khai cơ hiển hách của nước Nam người Việt.

Cuốn sách Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải đã tiếp cận vấn đề nhà Triệu từ những các di tích, di sản văn hóa ở khắp các vùng trên miền Bắc, kết hợp với những phát hiện khảo cổ mới trong những năm gần đây để đưa ra những luận giải có tính đột phá làm rõ thân thế, sự nghiệp không chỉ cho vua Triệu Đà, mà cả thời kỳ nhà Triệu nước Nam Việt.

Triệu Đà xuất thân áo vải, làm quan huyện ở Kiến Xương – Thái Bình, giương cờ khởi nghĩa kháng Tần ở núi Châu Sơn – Bắc Ninh, thấy rồng bay lên ở Long Biên mà thành nghiệp chiếm thành Cổ Loa rồi thống nhất thiên hạ, lên ngôi là Triệu Vũ Đế. Nối tiếp cơ nghiệp của ông là Triệu Quang Phục, chống giặc ở đầm Dạ Trạch, xưng Đế ở Phiên Ngung, lập nên tuyên ngôn Nam quốc sơn hà, đối lập với nhà Tây Hán. Nhà Triệu truyền 5 đời tới Vệ Dương Vương thì kết thúc ở cửa Đại Nha bên bờ biển Nam Định – Ninh Bình.

Lời bài ca trù tế thánh ở đền Đồng Xâm như tóm tắt công nghiệp nhà Triệu:

Nam Hải Kiến Xương cơ, hùng tranh Hán Bắc
Phiên Ngu Chân Định đỉnh, đế thủy Viêm Nam.

Cuốn sách không chỉ là một khảo luận lịch sử độc đáo mà còn là tài liệu hướng dẫn giá trị về văn hóa tín ngưỡng đối với các vị vua nhà Triệu đã khai cơ mở nước Nam người Việt. Khảo cổ các lớp thành Cổ Loa, niên đại các đồ đồng Đông Sơn tìm thấy ở nước ta, con Rồng đá bên Giếng Việt miền Châu Sơn, tấm bia Xá lợi tháp minh ở Luy Lâu… là những bằng chứng vật chất rõ ràng của thời kỳ Nam Việt. Nguồn tư liệu thành văn rất phong phú về phả tích, sắc phong, hoành phi, câu đối, văn tế các vua Triệu được dịch và giới thiệu kỹ lưỡng tại mỗi đền miếu ở từng vùng văn hóa tín ngưỡng liên quan.

Không dừng lại ở khảo cứu các vị vua nhà Triệu, cuốn sách còn luận giải những giai đoạn lịch sử liên quan khác là thời kỳ Thục An Dương Vương và thời Tiền Lý Nam Đế bằng những tư liệu điền dã phong phú và nhận định tổng hợp sâu sắc. Long Hưng Triệu Vũ Đế là cuốn sách không thể thiếu với bất kỳ con dân nước Nam nào quan tâm đến quá khứ hào hùng mở nước trị dân của các bậc tiền nhân người Việt.

Sách in khổ 16×24 cm, dày 568 trang, gồm các phần chính:

Lời nói đầu

  1. Những nỗi oan của vị vua mang tên Triệu Đà
  2. Cổ Loa thành trên Lạc quốc
  3. Chân Định Kiến Xương cơ      
  4. Vũ Ninh dấy nghĩa
  5. Long Biên ngày kháng Tần
  6. Nam quốc sơn hà
  7. Đại Nha hải khẩu
  8. Nam Việt Úy Đà diễn nghĩa
  9. Di tích và lễ hội về nhà Triệu và các nhân vật cùng thời
  10. Thống kê các di tích thờ Triệu Đà, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương
  11. Sắc phong và văn tế vua Triệu

Tài liệu tham khảo

Phả chép về một vị Đại vương thời Triệu Vũ Đế (Thần tích làng Ninh Sơn, tổng Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông)

Phả chép về một vị Đại vương thời Triệu Vũ Đế

Chi Cấn, bộ Trung đẳng.

Đất Việt xưa trời Nam khởi vận, núi sông chia cương vực theo sao Dực Chẩn, xe sách cuốn nối, các vùng đất An Nam đẹp tựa đuôi chim, phân cách thẳng hướng sao Đẩu Ngưu. Nam tới Minh đô Giao Chỉ, xếp vào hàng thư lễ. Sách Ngũ đế đức thời vua Nghiêu chép rằng Việt Thường Thị dâng một con rùa thần ngàn tuổi, lưng có chữ khoa đẩu, ghi lại từ khi khai mở đến nay. Vua Nghiêu sai chép làm lịch rùa. Sách Thượng thư Đại truyện chép thời Chu Thành Vương Việt Thường Thị vào cống chim trĩ trắng, một con trĩ đen, một cặp ngà voi. Quốc thống đến nay bền lâu vậy. Tuy vậy đến nay kể cũng đã xa xôi, Ngoại kỷ, Bản kỷ, Tiền biên, Hậu tục cho tới gần thời bây giờ mà tính đã vài ngàn năm. Quốc thống có lúc chia lúc hợp, chính trị có lúc được lúc mất. Phong tục thuần hậu hay ngang ngạnh khó mà luận được.

Lúc quốc sơ họ là Hồng Bàng, ban đầu nhận mệnh vua là Kinh Dương, là hậu duệ họ Thần Nông. Ban sơ Đế Minh phong vua là Kinh Dương Vương trị phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy tiên nữ Động Đình, sinh ra Lạc Long Quân, kế nối quốc thống Kinh Dương, có điềm sinh trăm trai, thực là thủy tổ của Bách Việt. Như khi khởi đầu của trời đất nếu đã có người nuốt trứng dẫm vết mà sinh ra Thương Chu, tất có thuyết sinh trăm trứng. Trưởng tử của Lạc Long lấy tên là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, dựng nước Văn Lang, bèn chia thành 15 bộ để thống trị, định ra tên quan để nhận chức, thường xăm hình lên thân mình để tránh các loài thủy tộc, dịch tiếng nhiều lần để thông hiếu với Trung châu. Truyền rằng bách thần sông núi thường có thể xuất thế, khó biết rõ ở nơi nào. Như thế mà truyền 18 đời, trải 2600 năm, tất phong tục trở nên đôn hậu, cũng có thể nghĩ đến vậy.

Sau này vua ỷ mình có sức thần mà không tu sửa việc võ nên mất. Lại truyền tới Thục An Dương Vương thắng được Văn Lang, do không tu đức để yên dân chúng, khinh suất tin vào con rể nên cuối cùng đã bại. An Dương có trí dũng nên Triệu Vũ không địch lại nổi. Tuy nhiên, Thục vì một nữ nhân mà có uy chiếm Văn Lang, lại cũng vì một nữ nhân mà bị họ Triệu thôn tính. Truyền rằng Vua bắt đầu thế nào thì kết thúc cũng như vậy, là lẽ đó vậy. Thục đế vong.

Trải tới thời đầu Tây Hán, ở trang Thụy Hương, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây người trong trang có một nhà họ Lý tên Phụng, lấy vợ là Đào Thị Thanh. Gia cảnh túng quẫn, nhưng tấm lòng vẫn đều có đức dày. Khi ấy vợ chồng cùng đến phủ Ninh Sơn ở trang Ninh Sơn ở lại đó, lấy việc kiếm củi làm nghề sinh nhai hàng ngày, dần dân trở nên giàu có. Tuổi đã gần 50 mà còn chưa có con trai. Một hôm nghe nói ở Ninh Sơn có một ngôi đền rất thiêng, thường có báo ứng, vợ chồng ông bèn sắm sửa lễ nghi vào trong đền làm lễ cầu khấn. Đêm đó Thái bà nằm mộng bỗng thấy có một người cao lớn đường đường, thân khoác áo hồng, đứng trước án mà nói:

– Gia đình khanh có đức dày. Trời đã định cho ta đầu nhập làm con, xuất thế giúp nước. Ngày sau sẽ được nhờ, xin chớ lo lắng.

Nói xong liền biến mất. Bỗng thấy một ánh sao hào quang rơi thẳng xuống miệng, bèn nuốt lấy. Bà sợ hãi tỉnh dậy, kể lại cho ông nghe. Ông nói rằng đó tất là điềm lành. Đến sáng ngày vợ chồng ông làm lễ tạ. Từ đò trở về cố hương ở Từ Liêm ở. Lại thấy bà Đào Thị có mang thai. 

Đến năm Giáp Tý tháng Giêng ngày mùng 9 sinh hạ được một người con trai, thiên tư cao lớn, thể mạo khôi kỳ, cao tới 2 trượng. Ông biết đó là thiên tướng giáng sinh, thần linh xuất thế bèn đặt tên là Trọng. Khi ông lên 7 tuổi học lực tinh thông, đọc hiểu binh thư, tài về võ lược. Mỗi khi ra nơi can trường thì có cái dũng vạn người không đương. Đến khi tuổi 20 cha mẹ đều mất. Sau 3 năm chịu tang ông bèn vào Tần làm quan, làm đến chức Tư lệ Hiệu úy, dẫn quân đánh giặc Hung Nô ở Lâm Thao. Quân Hung Nô thua to bỏ chạy. 

Đến khi Triệu Vũ Đế họ Triệu tên Đà, người Hán đất Chân Định, khi Tần loạn chiếm cứ Lĩnh Biểu, mưu lấy Âu Lạc. Xe mui vàng, cờ cắm trái tự xưng đế một phương, cũng là bậc có khí lược anh hùng. Thế rồi Triệu Đà gọi ông Lý Trọng cho tướng cầm quân phương Nam, dẫn quân đánh Thục. Ông Trọng nhận mệnh. Tức thì ông Trọng đem quân thủy bộ năm nghìn quân tiến đến huyện Ninh Sơn, phủ Quốc Oai, đạo Sơn tây (Ninh Sơn sau đổi thành An Sơn), đóng quân tập trung ở trang Ninh Sơn. Ông đến bái yết đền thần, cho gọi phụ lão trang Ninh Sơn đến nói: 

– Cha mẹ ta vốn ngày trước nghèo nàn, đến ở trang này, lấy nghề hái củi sinh sống. Cho nên ta chính là thần của bản trang giáng sinh xuất thế. Vì vậy ta đến đóng ở đây để xem tình trạng thế nào, không phải là quân lạ xâm phạm, xin đừng sợ.

Khi đó phụ lão nghe vậy rất vui mừng, đều làm lễ bái hạ, xin làm gia thần. Ngay hôm đó ông bèn truyền binh sĩ cùng nhân dân lập nên một đồn để sau này chống quân Thục. Rồi ông tìm người trong trang khỏe mạnh, được 50 người làm gia thần thủ túc. Ngày hôm sau thấy có sứ giả mang thư lệnh đến, gọi ông dẫn quân đánh đạo Bắc của giặc Thục. Ông bèn hôm đó giết mổ làm cỗ trâu, tế cáo trời đất sông núi bách thần, rồi cất quân tiến đến đạo Kinh Bắc, thành Cổ Loa, hội bàn kế tấn công. Ngày hôm đó cùng quân Thục đánh một trận lớn. Quân Thục thua to, chém được chính tướng cùng với các tì tướng và quân sĩ vài ngàn đầu. Giặc thua chạy không biết đi đâu. Từ đó họ Triệu là Đế, thần dân được yên bình. Lập nước quy mô. Ông mới than rằng:

– Sinh mệnh của hàng vạn người đều dựa vào đây, mà ta sở dĩ phá giặc Thục là do trời đã giúp ta vậy.

Ông bèn nói với gia thần trang Ninh Sơn rằng:

– Sau này ta trăm tuổi để cho việc thờ tế có 10 nén vàng, ngày sau hãy mua thêm đất đai cho việc thờ cúng.

Khi ấy đang trời mùa xuân vào ngày đầu thượng tuần tháng Hai thấy có sứ giả của Triệu đem thư tới, trong đó nói rằng khi giặc Thục đã thua chạy, hôm đó đã dâng tấu lên Triệu Vương, vua ban chiếu gọi ông về phụng mệnh. Vua mở tiệc mừng lớn, gia phong tướng sĩ các cấp, bèn cho ông nhận thực ấp ở huyện Ninh Sơn. 

Ông bái tạ, phản hồi về nơi ở tại Ninh Sơn (sau thuộc phủ Ứng Thiên thành Thăng Long). Ngay hôm đó ông truyền cho phụ lão và nhân dân trong trang tu sửa đền miếu, làm cho nghiêm trang. Ông bày tiệc mời phụ lão nhân dân Ninh Sơn đến. Đang lúc yến tiệc bỗng thấy trời đất nổi lên một đám mây vàng lớn, hình như dải lụa đỏ từ trên trời rơi thẳng xuống trước miếu. Lại thấy ông theo mây mà đi, tức hóa vậy. Khi đó là ngày mùng 10 tháng 8 giờ Ngọ. Nhân dân kinh sợ bèn làm lễ dâng biểu tấu lên triều đình. Vua sai quay về làm lễ tế, lại cho trang Ninh Sơn làm nơi hộ nhi để phụng thờ.

Đến khi Cao Biền đánh Nam Chiếu có hiển linh phù trợ. Biền cho tu sửa miếu đền để thờ. Từ đó trở thành thường lệ.

Đến thời Tống niên hiệu Thái Bình sai Hầu Nhân Bảo dẫn 20 vạn quân, thủy bộ cùng tiến, chia đạo xâm chiếm nước Nam. Khi ấy Lê Đại Hành tự dẫn đại quân mười vạn chống cự, tiến đến huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên thì gặp đạo quân thủy tiến đến. Đế bèn đóng quân ở bên bến sông. Đêm đó cần khấn ở đền thần để thần âm phù dẹp giặc Hầu, sẽ phong thêm là Trung đẳng phúc thần. Rồi vua xuất chiến, quân Nguyên quả nhiên thua, tướng Nhân Bảo cùng quân tùy tùng đều giết ngay. Lại bắt được đại tướng Biện Phụng Huân, dẫn về kinh, khải hoàn. Sau đó khi đãi tướng sĩ nhân đó nói rằng:

–  Giặc Nguyên dẹp sạch cũng có thần trợ giúp vậy.

Bèn phong thêm cho bách thần. Phong Lý Trọng Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương võ Bảo cảnh Hiển ứng Anh linh Hùng kiệt Đại vương. Màu áo hồng đỏ khi làm lễ đều cấm.

Lại nói, từ đó về sau có nhiều linh ứng, nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự. Thời Trần Thái Tông giặc Nguyên đến xâm phạm, kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh cầu đảo bách thần ở các đền. Qua một đêm Đại vương đã có hiển ứng, âm phù. Đến khi dẹp được giặc Mã Nhi, Thái Tông bèn bao phong mỹ tự là Linh ứng Anh triết Hiển hữu.

Đến khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, rồi có được thiên hạ, Thái Tổ bèn phong thêm là Phổ tế Anh linh. Sắc chỉ ban cho trang Ninh Sơn tu sửa đền miếu để thờ phing. Tốt thay! Lành thay!

Vâng khai sinh hóa các lễ và các húy tự nhất thiết cấm là Phụng, Thanh, Trọng. Đồng ý cho trang Ninh Sơn phụng thờ.

Ngày sinh thần là mùng 9 tháng Giêng. Lễ chính dùng trên là cỗ chay, dưới là cỗ trâu, xôi, rượu, bánh dày, ca hát, đấu vật các trò, ba ngày thì ngừng.

Ngày hóa là mùng 10 tháng 8. Lễ chính dùng trên là cỗ chay, dưới là trâu đen, xôi, rượu, bánh dày.

Niên hiệu Thành Thái năm thứ 10 tháng 3 nhuận ngày 19 xã Ninh Sơn vâng sao chính bản từ chính thể có niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất của Hàn lâm bộ Lễ Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính đã vâng soạn, niên hiệu Vĩnh Hữu thứ 6 Quản giám Bách linh Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền chính bản cũ.

Xã Ninh Sơn vâng sao chính bản sự tích.

Lý trưởng Nguyễn Huy.

Triệu Việt Vương

Tôi viết bài thơ Triệu Việt Vương

Chống Tần Chân Định kiến cơ xương

Núi Châu mây hiển che quân chủ

Sông Nhị rồng lên hiệu bốn phương

Dạ Trạch hùng uy tan giặc dữ

Phiên Ngung hoàng ốc tiết mao dương

Tiên đồng thoát trảo về nơi biển

Nam Việt vạn xuân mãi ngát hương.

Sự thực về “Triệu Đà” ở Thanh Oai…

Làng Quảng Minh, Mỹ Hưng, Thanh Oai thờ một vị Đại vương họ Triệu và thường được các “tín đồ” của Cổ Lôi ngọc phả dẫn rằng đây là nơi thờ Triệu Đà, made in Vietnam chính cống, bởi trong Cổ Lôi ngọc phả kể về một vị Nguyễn Cẩn (hay Thận), là con của Hùng Dực Công (em của Hùng Duệ Vương), sau làm con nuôi của Triệu Cao và đổi sang họ Triệu, rồi làm vua nước Nam Việt…

Các cụ làng Quảng Minh có vẻ cũng thích thú việc thành hoàng quê mình là vị Hoàng đế khai quốc Triệu Đà nên khá tin vào câu chuyện trên. Nhưng thực ra Cổ Lôi ngọc phả không hề có chữ nào nói về Triệu Đà cả, vì như họ đã ghi đây là ông Nguyễn Cẩn hoặc Nguyễn Thận, chưa từng chép tên Đà. Tức là bản thân vị họ Triệu được nhắc đến trong Cổ Lôi ngọc phả không phải là Triệu Đà.

Nay thử xét kỹ xem thực sự Triệu Công chính vị ở Quảng Minh là ai?

Sắc phong thời Lê niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 6 (năm 1711) của làng Quảng Minh ghi phong cho các vị:

  • Linh quảng Thánh thần Triệu chính vị Đại vương,
  • Tả Hoàng hậu,
  • Hữu Phi nhân,
  • cùng Tán trị Thánh thần Đại vương.

Câu đối ở đình Quảng Minh:

文謨武烈動王功著雄朝光史筆

左母右姨啟聖德留梓里豎碑銘

Văn mô võ liệt động vương, công trứ Hùng triều quang sử bút

Tả mẫu hữu di khải thánh, đức lưu tử lý thụ bi minh.

Tạm dịch là:

Mưu văn tài võ động tới vua, công nổi triều Hùng rạng bút sử

Trái mẹ phải dì khởi sinh thánh, đức lưu quê ấp dựng bài bia.

Như vậy, làng Quảng Minh thờ một vị họ Triệu ở ngôi giữa và bên trái thờ mẹ, bên phải thờ dì (em của mẹ) và có thể cùng một vị Tán trị Thánh thần không rõ thông tin.

Bản khai thần tích thần sắc của Quảng Minh cho biết vị Triệu Công này đã cùng Tản Viên Sơn Thánh giúp Hùng Duệ Vương chống quân Thục. Sự việc này xem ra vị Triệu Công ở Quảng Minh tương đồng với vị Nguyễn Cẩn trong Cổ Lôi ngọc phả, là dòng dõi vua Hùng. Tuy nhiên, để xác nhân chân tướng của vị Triệu Công ở vùng Thanh Oai này thì cần tham khảo… bản ngọc phả họ Lê ở Hạ Mạo (nay thuộc TX Phú Thọ, Việt Trì).

Ngọc phả Hạ Mạo phối hợp với thần tích của làng Mạo Phổ bên cạnh cho biết vị vua Triệu, cháu của Hùng Duệ Vương cùng Sơn Thánh chống Tần là Út Ngọ Lôi Mao hay Triệu Quang Phục. Đây không phải là Triệu Đà, người xưng Vũ Đế, bởi Triệu Vũ Đế không phải dòng dõi quý tộc Hùng Vương và khởi nghĩa ban đầu là ở đất Chân Định, không phải ở vùng Phong Châu. Triệu Vũ Đế thực ra là cũng là vị Cao Tổ họ Triệu, nên Cổ Lôi ngọc phả chép thành Triệu Cao. Triệu Quang Phục Nguyễn Cẩn là “con nuôi” của Triệu Cao Tổ là chính xác.

Triệu Quang Phục có cha là Triệu Túc, hay Hậu Hùng Vương (em Hùng Duệ Vương) trong ngọc phả Hạ Mạo. Mẹ của ông là Duyên Hòa Thánh mẫu thờ ở Mạo Phổ, là con gái Đông Chu Quân, tức triều vua Hùng đời cuối. Triệu Quang Phục đã cùng với Triệu Đà (được kể thành Sơn Thánh) khởi nghĩa chống Tần thắng lợi. Triệu Đà xưng là Vũ Đế, còn Triệu Quang Phục sau đó xưng vương, tức là Triệu Việt Vương. Triệu Vũ Đế gả con gái cho Triệu Quang Phục nên từ đó nước Nam Việt theo họ Triệu (chi tiết giống Nguyễn Cẩn theo Triệu Cao làm con nuôi và đổi họ).

Như vậy, vị Triệu công chính vị ở Quảng Minh hay Nguyễn Cẩn trong Cổ Lôi là Triệu Quang Phục, người sau này trở thành Nam Việt Vương. Đây là một vị khác, không phải Vũ Đế Triệu Đà ở Đồng Sâm (Thái Bình), người là Cao Tổ đã xưng Đế cả thiên hạ Trung Hoa sau khi diệt Tần thắng Sở. Vị “tả Hoàng hậu” họ Trần ở Quảng Minh tương ứng với con gái Đông Chu Quân, vợ của Hậu Hùng Vương Triệu Túc.

Câu chuyện về các vị vua Triệu, đế và vương khá lẫn lộn, nên cần suy xét, đối chiếu kỹ càng, tránh để tình trạng như hiện nay, Quảng Minh thay vì thờ Triệu Việt Vương lại cho là Triệu Đà. Còn Đồng Sâm thay vì thờ Triệu Vũ Đế lại treo biển ghi thành ông Nguyễn Cẩn của Cổ Lôi.

Sắc phong làng Quảng Minh năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1711).
Nghi môn đình Quảng Minh.
Ban tiền tế đình Quảng Minh.

Thánh từ ngọc phả đền Bắc (Văn Lãng, Trực Tuấn, Trực Ninh, Nam Định)

Ngọc phả Hoàng đế Triệu Việt Vương (phụ Hùng triều Quý Minh Đại vương)

Thuộc chi Càn, bộ thứ nhất, Thượng đẳng thần

Bản chính của bộ Lễ quốc triều

Xưa nước Việt bang Nam ta kể từ Thánh Tổ Đại bảo Tiền Hoàng đế triều Hùng khởi tạo cơ đồ to lớn, trải xem chỗ tiện lợi của thế sông núi mà xây dựng thành đô ở thắng địa Phong Châu, trùng tu đền miếu nơi đất cường Nghĩa Lĩnh. Đời đời cha truyền con nối đều xưng là Hùng. Ngọc lụa xe sách, núi sông một dải thống nhất. Đó là tổ của Nam Việt vậy.

Trải qua 18 đời truyền tới vua Duệ Vương. Vua là người có hùng tài đại lược, tư chất thánh triết. Nối tổ tông gây dựng 17 đời cơ đồ  thịnh trị. Trong sửa sang văn đức, ngoài phòng bị biên cương, dốc chí hưng bình để yên ổn đất nước. Chăm lo lấy đức dậy dân. Trên đời ai cũng khen là bậc hiền quân vậy.

Thời ấy nước ta có một gia đình ở đạo Sơn Tây, phủ Gia Ninh, huyện Gia Hưng, động Lăng Sương, họ Nguyễn tên Khiết, vợ là Cao Thị Đức. Gia thế vốn hùng mạnh có tiếng, nhưng tuổi đã ngoài 50 mà vẫn chưa từng có con. Vợ chồng lấy làm phiền muộn không vui.

Nhân gặp tiết trời xuân hòa khí, nơi nơi hoa nở đầy vườn. Người người đua nhau thưởng ngoạn. Ông bèn cùng anh ruột là Cao Hành (ông Hành tuổi cũng cao mà chưa có con). Hai ông dẫn gia nhân 10 người mang theo một bình rượu, một cây đàn cùng đi chơi lên núi Tản. Lên đến sườn núi gặp một ông lão mày râu bạc trắng, đầu đội mũ bách tinh, tay cầm gậy trúc, theo sau vài người hầu mang theo một bình rượu cùng một chiếc la bàn, vừa đi vừa ngâm thơ. Hai ông thấy cho là Tiên ông trên Bồng Lai hoặc là thần linh ở núi Tản hiện lên. Hai ông vội vàng đến trước mặt quỳ lạy và thưa rằng:

  • Nhà chúng thần đức bạc, anh em đều đã cao tuổi mà nối dõi tông đường còn muộn. May mà gặp được Tiên ông ở đây, giám xin mở rộng lòng thương, làm phước cho lũ thần thỏa lòng mong mỏi. Thực là ơn Tiên ông vạn lần vậy.

Ông lão nghe xong cười nói rằng:

  • Ta vốn chẳng phải Tiên, cũng chẳng phải Thánh. Vốn là nhân lúc rảnh rỗi dạo gót chốn đời. Nay các ngươi gặp ta cũng là có phúc, không phải thường tình. Ta đã xem thấy ở sườn núi kia có ngôi đất lành bên trái, bên phải có rồng chầu nước tụ, huyệt ở hướng Nhâm Bính, có thể phát rất nhanh. Nếu táng mộ vào đấy chẳng quá vài năm sẽ sinh ba người con quý. Ta sẽ cho các ngươi hưởng phúc này. Vậy kíp về thu thập hài cốt tiên nhân, ngày mai vào giờ Dần mang đến đây, ta sẽ táng cho.

Hai ông mừng lắm, lạy tạ rồi trở về nhà, vội rước hài cốt thân mẫu cùng lễ vật, rạng ngày hôm sau mang lên sườn núi, đã thấy ông lão ngồi ở chỗ đó từ lâu. Hai ông làm lễ bái yết. Ông lão chiếu la bàn, điểm huyệt ngay chỗ đã gặp ông hôm qua. Táng xong, hai ông định gặp để lễ tạ thì không thấy ông lão đâu nữa.

Từ đó hai ông trở lại quê nhà. Chẳng bao lâu ông Hành sinh được một người con trai là Sơn Thánh. Ông Khiết cũng sinh được hai người con trai (vào ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Dần), thể diện khác thường, hình dung dĩnh ngộ. Ông Khiết mừng lắm, bèn đặt tên người con trưởng là Sùng Công, người con thứ là Hiển Công.

Đến khi trưởng thành năm 12 tuổi thì hai cha mẹ đều mất cả. Lúc ấy hai ông cùng với ông Tùng đều nhờ vào vị thần nữ Cao Sơn họ Ma làm con nuôi. Đến khi bà họ Ma mất, giao phó địa phần núi non ruộng đất cho ba ông. Ông Tùng phân định từ núi Nộn sang bên trái giao cho ông Sùng, phong làm Tả kiên thần. Từ núi Nhạc về bên phải giao cho ông Hiển, phong làm Hữu kiên thần (Xét ông Tùng với ông Sùng và ông Hiển là anh em chú bác, có dáng như trong 50 người con cùng một bọc theo mẹ lên núi mà lại thác sinh vào thời này. Ông Tùng nhờ vào bà họ Ma làm con nuôi, sau được Thái Bạch Tinh Quân cho gậy thần, Long Đình Đế cho sách ước. Từ đó đã đưa lại phúc đức cho thế gian, đền đáp được ơn sâu của mẹ nuôi. Bà họ Ma cho con là chí hiếu, nên đã lập chúc thư, giao cả núi sông đồng ruộng cho ông Tùng. Đến khi bà họ Ma mất, ông Tùng giao cho hai em. Từ đó uy danh vang dội. Người đương thời tôn ông là Tản Viên Sơn Thánh vậy). Từ đó uy danh cả ba ông lừng lẫy sang cả Bắc quốc.

Lại nói, lúc đó  vua Duệ Vương sinh được hai mươi ngươi con trai, các hoàng tử đều xa chơi nơi Bồng Đảo. Chỉ còn hai công chúa, người lớn là Công chúa Tiên Dung đã kết duyên với Chử Đồng Tử. Công chúa thứ hai là Mỵ Nương, vườn xuân khóa kín, nhụy ngọc chưa mở, túc khế lương duyên còn chưa định đoạt.

Vua bèn dựng lầu bên bờ sông Bạch Hạc, đất Việt Trì đề ba chữ “Lầu kén rể”, ban chiếu truyền cho thần dân thiên hạ, ai là người thông minh tài trí, đức độ anh hùng, Trẫm có thể nhường ngôi báu thì sẽ hứa gả công chúa Mỵ Nương cho.

Ngày ấy dưới sông thuyền bè đua bơi, trước lầu ngựa xe rầm rập. Ngọn bút mưa thành rồng bay rắn lượn. Sao trên trời chừng như rơi xuống mặt sông. Trận võ khép vòng vây mà hổ báo kinh hồn. Chớp giật sấm ran lừng góc biển. Một phen tụ tập cả nước anh hùng bốn bể. Song đều là những tay bậc thường thường, không phải toàn tài, không đáng xứng tên. Thơ đào yêu còn chưa có được tiếng đàn ngân lên thích hợp. Người thời ấy có bài thơ vịnh rằng:

Một trường cả nước đều rung động

Bốn bể anh hùng mở mắt trông

Chưa biết vườn xuân ai mở khóa

Chờ xem ai đó đấng anh hùng.

Ba ngày sau, Sơn Thánh nghe tin ấy, bèn cùng với hai em vào cung ứng tuyển. Vua Duệ Vương thấy Sơn Thánh có nhiều tài lạ chước giỏi, bèn gả công cháu Mỵ Nương cho Sơn Thánh.

Sơn Thánh rước Công chúa về sơn động yên vui. Để hai em (tức là ông Sùng và ông Hiển) ở lại giúp vua. Vua thấy hai em Sơn Thánh tướng mạo đường đường, lại có tài năng, bèn phong cho ông Sùng chức Tả đô đài Đại phu, ông Hiển chức Hữu đô đài Đại phu. Ban cho phụ chính trong triều. Hai ông bái tạ nhận mệnh, nhận chức ở triều. Qua được vài năm, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự, dân chúng no đủ, bốn bề yên lặng. Hai ông dâng biểu xin đi chu du thiên hạ, trải xem sông núi. Vua đồng ý.

Hai ông bái tạ, xa giá đi dạo dãy núi Hoành Sơn, sông ngòi ngoạn thưởng điều thú vị của ngư ông. Có lúc tản bộ vào sườn núi, hứng gió mát ở nơi khoáng dã. Có lúc đi thăm bến nước, đón trăng trong ở giữa dòng sông. Một hôm hai ông đi đến đạo Sơn Nam, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Xối Đông. Hai ông thấy thế đất hữu tình, bèn lập hành cung ở đó. Xong việc, lại cử giá đi chu du.

Khi ấy ông Hiển đi qua xã Quần Lãng, kết hôn với con gái họ Trần. Rồi cùng họ nhà vợ và gia thần lập riêng một trại gọi là trại Nam Lãng. Việc xong rồi, ông trở về xã Quần Lãng. Hôm đó phụ lão thấy ông đi qua bèn làm lễ bái tạ.

Lúc đó ông thấy đất Quần Lãng có sông núi diễu quanh, rồng hổ bao bọc, cả một dải đất như hình rồng uốn lượn, phong cảnh khôi kỳ. Ông mới truyền cho gia thần và nhân dân thiết lập một tòa du cung để làm nơi thưởng ngoạn ở đó. Nhân dân vâng mệnh, thiết lập xong (Thời ấy ông đi đến nơi nào thấy có thắng cảnh đều thiết lập hành cung. Về sau khi ông hóa nhân dân phụng thờ, cộng được 372 nơi, có sự tích riêng), ông ở lại đất Sơn Nam qua được thời gian 1 năm.

Lúc đó Thục chúa xa nghe Duệ Vương đã thượng thọ mà không có con nối dõi, bèn dẫn trăm vạn hùng binh, tám ngàn ngựa khỏe, năm trăm thuyền chiến, chia thành 5 đường đồng loạt đến xâm chiếm để cướp lấy nước. Một đạo theo đường Thập Châu, Hoàng Tùng tiến vào. Một đạo theo đường châu Tụ Long, châu Bảo Lạc tiến vào. Một đạo theo đường châu Quỳnh Nhai, Tuyên Quang tiến vào. Một đạo theo đường Ái Châu, Sơn Nam tiến lên. Một đạo quân thủy từ cửa biển Hội Thống ở Hoan Châu mà tiến. Dựng cờ lớn ở Mộc Châu.

Thư ở biên giới cấp báo về triều, một ngày tới 5 lần. Vua Duệ Vương nghe tình hình nguy cấp, bèn triệu con rể là Sơn Thánh cùng các tướng lại bàn kế chống giặc (Ngày ấy ông Hiển đang ở đất Sơn Nam, vâng chiếu triệu về kinh nghị luận mưu kế). Sơn Thánh tâu rằng:

  • Thần xin thay nhọc Thánh thượng, tự chọn tướng tài. Quân Thục chẳng qua một ngày bình được.

Vua nghe xong phong cho Sơn Thánh chức Ngũ đạo Đại tướng quân, lĩnh ấn Nguyên soái, kiêm Trưởng thủy bộ tam quân, cho được tùy tài tổ chức. Khi đó ông Hiển cố sức xin được lĩnh trách nhiệm ở mặt Ái Châu và Sơn Nam. Sơn Thánh đồng ý, phong làm Hữu tướng quân.

Cũng ngày ấy Sơn Thánh cùng các tướng bái tạ nhận lệnh, đều cất quân chia đường mà tiến. Khi ấy ông Hiển tiến binh qua đất Quần Lãng, chọn lấy người khỏe mạnh được 16 người để làm gia thần thủ hạ. Xong rồi ông mang đại quân đánh  một trận được toàn thắng. Trong khi đó còn các nơi khác Sơn Thánh cùng các tướng hiệp lực đại chiến một trận. Quân Thục thua to, tan vỡ. Vua Thục chạy về nước. Dư đảng đều dẹp được.

Ông Hiển lập tức khải hoàn bái tạ bệ kiến. Ngày đó vua luận công lao để phong thưởng, phong cho ông Hiển làm Đại bảo Minh quốc công, thực ấp vạn hộ. Ông cố từ, không nhận, làm biểu tấu lên triều đình, xin đi khắp nơi để xem sông núi là đủ vinh dự nhất vậy.

Vua biết ông Hiển đối với nước có công lớn, nên phong làm Quý Minh Đại vương, sắc phong sinh thần, được đi chu du thiên hạ, chọn lập sinh từ ở các xứ, để làm nơi vạn năm hưởng hương hỏa phụng thờ. Ông làm lễ bái tạ, rồi loan giá đi chơi khắp thiên hạ. Phàm là những cung doanh khi trước dựng ở nơi nào thì ông đều lập sinh từ ở đó.

Một hôm ông đi về xã Quần Lãng. Ông mở cuộc vui chung, triệu tập phụ lão nhân dân đến mời uống rượu. Ông bèn bảo rằng:

  • Ta vẫn có một hành cung ở địa giới đất này. Thảng hoặc sau này ta trăm tuổi, dân chúng hãy sửa sang cung sở, viết thần hiệu của ta là Quý Minh Đại vương để phụng thờ.

Nhân dân đều bái tạ lĩnh mệnh. Ông Hiển ở đất Sơn Nam thường qua chơi nơi cung sở xã Quần Lãng, giáo hóa nhân dân, tăng lợi trừ hại. Lấy nhân nghĩa lễ trí dậy bảo cho dân tục. Từ đó nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu, đều là nhờ đức của ông Hiển vậy.

Lại nói, vua Duệ Vương không có con nối dõi bèn mời con rể là Sơn Thánh lại để nhường ngôi báu. Sơn Thánh cố từ không nhận, tâu rằng:

  • Cơ đồ 18 đời Hùng, lòng trời đã định. Nay có Thục chúa, tuy là bộ chủ Ai Lao, nhưng cũng là dòng bên ngoại họ Hùng, nên nhường nước cho Thục chúa là hơn. Thần có phép tiên biến hóa, xin cùng Bệ hạ thoát khỏi chốn trần ai, bay lên làn mây, chẳng cũng vui lòng lắm sao?

Vì vậy Duệ Vương mới mời Thục chúa lại nhường ngôi cho. Đoạn vua cùng với Sơn Thánh đang giữa ban ngày bay lên trời. Lúc đó ông Hiển đang ở đất Sơn Nam, nghe tin Duệ Vương đã hóa, bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

  • Cơ đồ họ Hùng đã thuộc về tay người khác rồi.

Than xong, ông mang theo gia thần vài người trở về gia quán (tức động Lăng Sương). Đến nơi, ông Hiển lên núi Tản Lĩnh. Vừa tới đỉnh núi bỗng nhiên thấy trời đất mù mịt, mưa gió lớn nổi lên. Ông đã hóa vậy (hôm đó là ngày 12 tháng 9). Khoảnh khắc mây tan mưa tạnh, trời đất quang đãng. Thấy mối đùn lên thành một gò đất cao.

Sự dứt, các gia thần trở về kể sự việc ấy cho mọi người nghe. Ngày ấy xã Quần Lãng được tin, nhân dân tuân theo lời dặn của ông, tức thì sửa sang hành cung thành đền miếu, viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau có nhiều anh linh hiển ứng, phần nhiều có công âm phù hộ quốc. Cho nên nối đời đế vương đều bao phong mỹ tự và sắc chỉ, vạn cổ hưởng thờ, cùng với trời đất tồn tại mãi mãi. Đẹp đẽ thay!

Phong là Tản Viên Sơn Đệ tam vị Hữu đô đài Quý Minh Đại vương (Đại vương húy là Hiển, tự là Tuấn).

Cho phép đạo Sơn Nam, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Quần Lãng phụng thờ (đền chính ở động Lăng Sương).

Ngày sinh thần mùng 10 tháng Giêng (lễ nghi dùng cỗ chay, trà quả, xôi lợn, cỗ trâu, bánh dày, ca hát, đấu vật một ngày).

Ngày thần hóa vào 12 tháng 9 (lễ dùng như ngày sinh thần).

Kiêng kỵ tên húy ba chữ Hiển, Quý Minh nhất thiết cấm, cùng chữ Tuấn đều phải tránh âm.

Lại nói, vua Thục lấy được nước, tức là Thục An Dương Vương, ở ngôi 50 năm. Rồi Triệu Vũ Đế lấy được nước, nước ta thuộc nhà Tây Hán. Trải qua Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Tề, Lương. Đến nhà Lương sai Dương Tư sang làm Thứ sử. Tư là người dùng hình nặng, phép dữ, chính ngược hại dân.

Thời đó nước Việt ta khắp nơi lầm than, chưa có thời nào cực khổ như vậy. Khi đó ở đạo Sơn Tây, phủ Tam Đới, huyện Chu Diên, có một nhà họ Triệu, tên là Túc, vợ là Lý Thị Đàm. Trước kia tiên tổ vốn làm quan ở triều nhà Triệu. Đến khi nội thuộc qua sáu triều đại bèn về ẩn dật chốn làng quê, lấy nghề lương y, nho học để mưu sinh. Đến đời ông Túc vợ chồng đều hiền lành chất phát, làm phúc cứu người, càng tăng thêm lòng phúc hậu, gắng sức tu nhân. Phàm là những việc cứu nghèo tạo phúc, đều cố hết sức mình mà làm vậy. Người địa phương đều khen ngợi là một nhà kẻ sĩ có lòng tốt. Lúc đó ông tuổi đã 40 mà điềm lộng chương còn chậm, giấc mộng kỳ lân chưa thấy báo ứng.

Một hôm bà họ Lý ngồi tựa lan can thiếp đi như ngủ, mơ màng trong mộng, thấy một ông quan áo mũ chỉnh tề, hai tay ôm một đứa bé trao cho bà nói rằng:

  • Nhà họ Triệu phúc hậu, trời đã chiếu cố, cho nên Hoàng Thiên sai ta mang đứa bé này cho vào nhà ngươi làm con. Mai sau sẽ dựng nước diệt giặc, tiếng tăm khắp thiên hạ. Chỉ hiềm phúc quả chưa tròn nên chưa lâu dài lắm.

Đang trong mộng bà ôm lấy đứa bé mừng rỡ, bỗng nhiên bừng tỉnh, mới biết là chiêm bao. Bèn kể lại chuyện với ông Túc. Ông nói:

  • Nếu quả là như trong giấc mộng của bà thì tất nhiên là điềm lành.

Từ đó vợ chồng uyên ương chung gối, loan phượng sánh vai, vui tiếng chuông ngân trống dục, hứng vị vần thơ cung đàn. Ít lâu sau quả thấy phu nhân có mang, đầy mười một tháng, vào năm Giáp Dần, ngày mùng 6 tháng 3 sinh hạ được một người con trai. Lúc giờ sinh khí lành bay man mác, gió đưa hương ngào ngạt. Thấy được một con trai thuần phong tuấn tú, ứng vào lời nói của thần tướng. Mặt mũi khôi ngô y như đứa bé đã nhận được trong mộng. Ông Túc cả mừng, nghĩ thầm, đứa con sau này ắt hưng phục nghiệp nhà nên mới đặt tên là Quang Phục.

Ngày qua tháng lại được 12 tuổi đã tỏ ra thiên tư minh mẫn, tính bẩm anh thông. Cho đến năm 15 tuổi thì oai phong cường tráng, trí dũng kiêm tài, thao lược tinh thông, văn chương quán triệt. Thật là bậc tuấn kiệt trong đời vậy.

Triệu Quang Phục trước mắt nhìn thấy quan thứ sử nhà Lương là Dương Tư tàn bạo với dân, hình phạt hà khắc. Ông đau lòng vì dân chúng lầm than, bèn lui tới với những người có mưu trí, triệu tập dân ly tán, tìm dõi người hào kiệt trong thiên hạ. Chẳng bao lâu số quân ứng nghĩa đã được vài ngàn người. Song lúc đó những bậc nam nhi thao lược, tướng tá anh tài chưa quy về một mối, chưa biết ai là người quân trưởng, còn phải đợi thời cơ mới phát động được.

Một hôm ông nghe ở đất Thái Bình thuộc xứ Long Biên có người tên là Lý Bôn dấy binh ở châu Cửu Đức, cũng có chí chống quân Lương. Ngay hôm đó ông mang binh mã, mưu lược đi tìm gặp ông Bôn. Ông Bôn thấy ông tướng mạo đường đường, phong tư lẫm liệt, kỹ năng thao lược, văn võ kiêm toàn. Ông Bôn mừng lắm, nghĩ thầm:

  • Chắc là trời khiến người này đến giúp vận nước đây.

Tức thì cho làm chức Điều xuyết binh nhung, dẫn quân tiên phong cùng với ông đại chiến với quân Dương Tư một trận. Quân Tư thua to, bỏ thành chạy về nước Bắc. Sau đó không lâu quân Lâm Ấp lại vào cướp bóc. Ông Bôn bèn lập đàn phong ông Phục làm Tả tướng quân, Phạm Tu làm Hữu tướng quân. Khiến mang quân đánh phá, Lâm Ấp.

Ông Bôn lên ngôi Hoàng đế, ấy là vua Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở thành Long Biên, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt trăm quan, định đô ấp, phong thưởng cho công thần cao thấp khác nhau. Ông Phục được phong làm Quốc tể Long Lĩnh hầu, lĩnh ấn Đại tướng quân, tại triều phụ chính. Vua tôi hợp đức, đất nước thanh bình. Trải qua 6 năm ông Phục có nhiều công với nước. Vua rất yêu kính, thăng thưởng nhiều lần, các quần thần không ai bì kịp.

Lại nói, thời vua Lý Nam Đế ở ngôi trải qua 7 năm. Vua nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên đem quân xâm lược phía Nam để phục thù trận thua ngày trước. Khi quân Lương đến, vua đóng quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tiến. Bỗng một sớm lũ lớn tràn về. Quân của Bá Tiên ùa theo dòng nước mà tiến. Quân của vua tan vỡ. Vua mới ủy quyền cho Đại tướng Triệu Quang Phục giữ nước. Vua ẩn vào động Khất Liêu, rồi mất.

Từ đó ông Phục tìm khắp thiên hạ nơi nào có chỗ hiểm trở thì thiết lập đồn doanh để chống quân Lương. Một hôm ông về đến đạo Sơn Nam Thượng, phủ Khoái Châu, huyện Đông An, bãi Tự Nhiên. Ông bèn lập doanh trại ở đầm Nhất Dạ (Đầm ấy trước kia là nhà của Chử Đồng Tử, tự nhiên thành bãi. Đến khi Chử Công hóa, một đêm thành đầm, nên có tên ấy), cùng với quân Lương chống cự. Sau quân Lương sai tướng Dương Sàn dẫn quân đến tiếp viện rất đông. Qua nhiều trận giao chiến quân ông bị thiệt hại.

Ngày ấy ông lại đi tìm mọi nơi trong thiên hạ, nơi nào dân giàu có, lại có địa hình hiểm trở để xây dựng những doanh trại làm nơi phòng bị. Một hôm ông xa giá đi qua đạo Sơn Nam Hạ, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Quần Lãng, thấy có sông ngòi quanh co, có thể lập được đồn. Ông bèn dừng quân ở đó, nhân làm lễ cầu khấn ở đền thờ Quý Minh Đại vương, xin được âm phù hộ quốc. Khấn xong đêm ấy ông nằm mộng thấy một người đầu đội mũ bách tinh, mình mặc áo hồng bào, tay cầm thẻ bài vàng, bảo rằng:

  • Hoàng Thiên đã định cho họ Triệu làm vua, hưởng nước ngoài 20 năm. Nay khanh nên trở về đầm Dạ Trạch, lập đàn kỳ đảo. Thiên đình sẽ sai Chử Công mang móng rồng xuống giao cho khanh. Tất sẽ bình được giặc Lương vậy.

Nói xong thì biến mất. Khi tỉnh dậy, sáng ngày ông làm lễ bái tạ. Đoạn rồi truyền quân cùng nhân dân xây dựng một đồn ở bên sông để phòng ngự. Việc xong, ông lại trở về cung sở (tức đầm Nhất Dạ). Nhớ lại sự việc trong mộng bèn trai giới thanh khiết, lập đàn kỳ đảo. Sau thấy một người cưỡi rồng vàng ở trên trời xuống bảo rằng:

  • Nơi đất linh thiêng này chốn ta đã thoát trần trước đây.

Nói rồi trút một cái móng rồng đưa cho, dặn đem để lên chỏm mũ đầu mâu, khi ra trận hướng về phía địch thì sẽ được toàn thắng. Nói xong cưỡi rồng bay lên. Từ đó ông được móng rồng, đánh bại quân Lương, chém được tướng Dương Sàn. Quân Lương chạy về Bắc. Ông bèn thống nhất thiên hạ, tự lập làm vua, hiệu là Triệu Việt Vương, đóng đô ở thành Long Biên.

Lại nói, ông Phục từ khi gặp Quý Minh Đại vương ở trong mộng, khi ở Dạ Trạch lại thường mộng thấy một người áo mũ chỉnh tề, y như người đã gặp trong mộng Quần Lãng, thường cùng vua (tức ông Phục) đối thoại, bảo ông rằng:

  • Ta cùng Ngài tuy âm dương hai ngả, song ngày sau hưởng lộc cùng một địa phương.

Nhân tặng vua một bài thơ rằng:

Âm dương hai cõi đã chẳng nề

May được tương phùng giữa thú quê

Ngày sau cùng hẹn về Quần Lãng

Là nơi thờ hưởng muôn nghìn thu .

Đến khi vua lên ngôi nhớ lại lời thơ này, nghĩ thầm:

  • Có lẽ sau này ta là phúc thần ở Quần Lãng chăng?

Bèn sai sứ giả sắm sửa lễ vật, về tận đất Quần Lãng để bày tế tại đền thờ Quý Minh Đại vương. Tế xong lại ban cho nhân dân vàng ròng 5 hốt, giao cho nhân dân mở rộng ruộng vườn làm của công. Lệnh cho các khoản binh dịch đóng góp, tô thuế đều được miễn cả. Từ đó đất Quần Lãng trở nên trù phú, địa ấp phong nhiêu, đều nhờ công đức của vua vậy.

Lại nói, vua ở ngôi 21 năm. Trong khi đó có người con anh vua Tiền Lý Nam Đế tên là Phật Tử mang quân từ động Dã Năng đến (Phật Tử là con của Thiên Bảo. Vua Nam Đế đánh quân Lương rồi mất. Thiên Bảo mang chúng quân chạy vào động Dã Năng, tự xưng là Lang Vương. Sau đến Phật Tử lên, đến đánh). Lúc đó vua nghĩ Phật Tử là cháu con chú con bác của Nam Đế nên không nỡ tuyệt. Bèn chia nước làm hai để cùng trị. Cắt bãi Quân Thần (Thuộc huyện Từ Liêm, xã Thượng Cát, Hạ Cát. Từ Thượng Cát về phía Tây nhường cho Phật Tử. Từ xã Hạ Cát về phía Đông thuộc vua).

Vua bèn rời đô sang Ngọc Ninh. Phật Tử đóng đô ở Ô Diên, cùng chia phân để trị. Được hơn 1 năm, một hôm Phật Tử cùng con trai là Nhã Lang bàn mưu kế rằng:

  • Ta xem Việt Vương quân thắng nước mạnh, phần nhiều là có thuật lạ. Hắn có con gái là Cảo Nương cùng lứa tuổi với con. Chi bằng ta đưa thư cầu hôn con gái vua, sai con ở rể, xem ý ra sao. Sau ta thừa cơ bất ngờ dẫn quân đến đánh, chắc không phải khó nhọc mà thống nhất thiên hạ vậy.

Bàn rồi sai sứ giả đem thư cầu hôn sự với Vua. Vua bèn thu nạp. Phật Tử chọn ngày lành đem đồ sính lễ và Nhã Lang đến. Vua bèn lưu Nhã Lang tại nước nhà. Vương rất hài lòng, khen Nhã Lang là con rể tốt. Tình vợ chồng của hai con ngày càng mật thiết. Nhã Lang dụ được Cảo Nương lấy trộm được móng rồng, trở về trình với Phật Tử. Phật Tử tức thì đem quân đến đánh. Vua dở móng rồng thấy bị mất, bèn lên ngựa chạy thẳng đến cửa biển Đại Nha, Vua quay lại thấy quân Lý đuổi gấp. Vua thấy tình thế khó thoát bèn nhảy xuống biển mà hóa. Sau ngày hóa rất có anh linh. Nhân dân địa phương (tức cửa Đại Nha, nay thuộc xã Lục Bộ) lập đền thờ phụng, lấy đó làm đền chính.

Từ ngày Vương hóa, nhân dân xã Quần Lãng sinh ra tật dịch, súc sản bất an. Nhân dân lo lắng, xem xét lập đàn kỳ đảo. Đêm hôm ấy mộng thấy Triệu Việt Vương cùng với Quý Minh Đại vương hội du ở nơi đền. Triệu Vương gọi nhân dân, bảo rằng:

  • Nay ta đã hóa. Ta phụng mệnh Thiên đình là Chúa tể nơi đây. Dân chúng hãy viết thần hiệu là Triệu Việt Vương Hoàng Đế để phụng thờ.

Nói đoạn, nhân dân bỗng nghe một tiếng trống đồng lảnh tai, phút chốc tỉnh giấc. Sáng ngày nhân dân tụ họp ở nhà hội quán, nghe nói lại mộng triệu, thấy có lý, lấy làm sợ hãi. Tức thì trùng tu cung điện, viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau nhân dân khang thái, súc sản bình an. Hai vị Đại vương có nhiều linh ứng.

Lại nói, Phật Tử được nước, xưng là vua Hậu Lý. Chưa bao lâu sau nội thuộc nhà Tùy. Đến đời Đường sai Cao Biền làm quan đô hộ nước ta. Lúc đó có giặc Nam Chiếu khởi binh ở cửa bể Nam Hải. Biền phải thân chinh đi đánh. Một hôm Biền tiến quân qua xã Quần Lãng, bèn vào làm lễ kỳ đảo ở đền thờ hai vị Đại vương, khấn rằng:

  • Nhờ được âm phù hộ quốc, chờ ngày thanh bình sẽ có gia phong sắc chỉ để biểu lộ sự anh linh.

Khấn xong cất quân tiến thẳng, đánh một trận lớn, bình được giặc Nam Chiếu. Biền hồi binh khải hoàn, nhớ lại khi ở đạo Sơn Nam xã Quần Lãng hai vị Đại vương quả nhiên có công hộ quốc. Bèn tặng phong sắc chỉ, sai quan mang sắc về bày tế. Lại ban cho nhân dân ngân tiền 60 quan, truyền cho nhân dân mở rộng cung điện để phụng thờ.

Từ đấy về sau rất có anh linh, khấn tạnh, cầu mưa đều có linh nghiệm. Cho nên nối đời đế vương gia phong sắc chỉ và mỹ tự, vạn đời tế lễ, muôn năm hương khói. Sự tồn tại cùng với trời đất lâu dài, công đức ngày càng to lớn vậy. Đẹp đẽ thay!

Nhất tôn phong Hoàng đế Triệu Việt Vương,

Nhất phong Tản Viên Sơn Đệ tam vị Hữu kiên thần Đô đài Đại phu Quý Minh Đại vương.

Chuẩn y cho đạo Sơn Nam phủ Thiên Trường huyện Tây Chân xã Quần Lãng phụng thờ.

Những điều lệ thần sinh, hóa, lễ khánh hạ, cũng  những chữ kiêng kỵ vâng kê như sau:

Ngày sinh thần vào mùng 6 tháng 3 (lễ vật dâng: trên cỗ chay, dưới xôi, lợn. Ngày chính tế dùng trâu, đánh cờ, hát xướng một ngày).

Ngày hóa thần là 14 tháng 8 (lễ vật dùng như ngày sinh thần).

Lễ Khánh hạ ngày 10 tháng 4 (Lễ vật dùng: trên tiến cỗ chay, dưới dùng xôi, lợn, rượu. Ngày chính dùng trâu, ca hát năm ngày thì dừng).

Kiêng kỵ chữ húy hai chữ: Túc, Phục đều cấm.

Triều vua Vĩnh Hựu năm thứ 2 tháng Giêng ngày lành chức Quản giám Bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền, tuân y bản cũ của triều trước sao chép.

Những câu đối hay ở đền Độc Bộ, Ý Yên, Nam Định thờ Triệu Việt Vương Hoàng Đế

Câu 1

邾山正統皇風遠
鵶海安濤帝德深

Châu Sơn chính thống hoàng phong viễn
Nha Hải an đào đế đức thâm.

Dịch nghĩa:

Núi Châu chính thống dòng vua mãi
Yên sóng biển Nha đức đế sâu.

Câu 2

獨木破梁兵南國同胞皆赤子
頹波障海口浮沙托植囿青春

Độc mộc phá Lương binh, Nam quốc đồng bào giai xích tử
Đồi ba chướng hải khẩu, Phù Sa thác thực hữu thanh xuân.

Dịch nghĩa:

Độc mộc phá quân Lương, nòi giống nước Nam cùng máu đỏ
Sóng dồn che cửa bể, Phù Sa hoa cỏ hóa xuân xanh.

Câu 3

朱鳶鍾秀氣帝烈凜千秋梁寇掃除安殿內
慕澤顯神機王勳留萬古龍爪威儀聖蹟傳

Chu Diên chung tú khí, đế liệt lẫm thiên thu, Lương khấu tảo trừ an điện nội
Mộ Trạch hiển thần cơ, vương huân lưu vạn cổ, long trảo uy nghi thánh tích truyền.

Dịch nghĩa:

Đầm Mộ Trạch rạng tỏ danh thần, tên vua vạn thế sáng soi, nghiêm vuốt rồng truyền lưu tích thánh
Đất Chu Diên đúc nên hào khí, oai đế ngàn thu oanh liệt, trừ quân Lương đất nước yên bình.

Câu 4

夜澤雄飛百戰山河餘宇宙
海門龍遠億年祠廟鎮波濤

Dạ trạch hùng phi, bách chiến sơn hà dư vũ trụ
Hải môn long viễn, ức niên từ miếu trấn ba đào.

Dịch nghĩa:

Dạ Trạch hùng bay, trăm trận núi sông còn vũ trụ 
Rồng xa cửa biển, muôn năm đền miếu chặn sóng đào. 

Câu 5

天子威儀天子庙
帝王凜烈帝王祠

Thiên tử uy nghi Thiên tử miếu
Đế vương lẫm liệt Đế vương từ.

Dịch nghĩa:

Miếu Thiên tử Thiên tử uy nghi 
Đền Đế vương Đế vương lẫm liệt.

Câu 6

弌胞破出双神將
同日飛升二大王

Nhất bào phá xuất song thần tướng
Đồng nhật phi thăng nhị đại vương.

Dịch nghĩa:

Một bầu phá nở hai thần tướng
Cùng buổi bay lên lưỡng đại vương.

Câu 7

独木破梁兵名謄北國
龍編居帝位威振南天

Độc mộc phá Lương binh, danh đằng Bắc quốc
Long Biên cư đế vị, uy chấn Nam thiên.

Câu 8

天上瓊飛三花曾記南塘夢
人間玉牒小月猶傳北直謠

Thiên thượng Quỳnh phi, tam hoa tằng ký Nam Đường mộng
Nhân gian ngọc điệp, tiểu nguyệt do truyền Bắc Trực dao.

Dịch nghĩa:

Quỳnh phi thượng giới, ba đóa còn ghi mộng Nam Đường
Lá ngọc nhân gian, trăng nhỏ bởi truyền chuyện Bắc Trực.

Câu 9

黑虎梦醒符聖瑞
黃龍脱爪顯神机

Hắc hổ mộng tỉnh phù thánh thuỵ
Hoàng long thoát trảo hiển thần cơ.

Dịch nghĩa:

Hổ đen tỉnh mộng phù điềm thánh
Rồng vàng tháo vuốt tỏ cơ thần.

Câu 10

龍矛脱爪僊童去
鴉海翻濤佛子來

Long mâu thoát trảo tiên đồng khứ
Nha hải phiên đào Phật Tử lai.

Dịch nghĩa:

Giáo rồng tháo móng tiên đồng đi
Dậy sóng biển Nha Phật Tử đến.

Câu 11

龍編若果凶神爪
鴉海何能鎮惡濤

Long Biên nhược quả hung thần trảo
Nha Hải hà năng trấn ác đào.

Dịch nghĩa:

Long Biên quả nếu không thần trảo
Nha hải sao còn trấn sóng hung.

Câu 12

前面三江龍水拜
後垂二嶺虎瑰朝

Tiền diện tam giang long thuỷ bái
Hậu thuỳ nhị lĩnh Hổ Khôi triêu.

Dịch nghĩa:

Trước mặt ba sông dòng nước bái
Sau trùm hai núi Hổ Khôi chầu.

Câu 13

帝位卄餘年帝德留傳千古重
聖恩多潤澤聖威長在萬秋興

Đế vị chấp dư niên, đế đức lưu truyền thiên cổ trọng
Thánh ân đa nhuận trạch, thánh uy trường tại vạn thu hưng.

Dịch nghĩa:

Ngôi đế hơn hai mươi năm, đức đế truyền lưu ngàn xưa trọng
Ơn thánh nhiều lần thấm đẫm, oai thánh mãi còn vạn thu vang.

Câu 14

天定其書南國山河南國帝
地留其跡大鴉風水大鴉神

Thiên định kỳ thư, Nam quốc sơn hà Nam quốc đế
Địa lưu kỳ tích, Đại Nha phong thuỷ Đại Nha thần.

Dịch nghĩa:

Trời định sách đó, núi sông nước Nam, vua nước Nam
Đất lưu tích đó, gió nước Đại Nha, thần Đại Nha.

Câu 15

祠廟巍峨鴉海樓臺新宇宙
南天正統龍編城郭舊江山

Từ miếu nguy nga, Nha Hải lâu đài tân vũ trụ
Nam thiên chính thống, Long Biên thành quách cựu giang sơn.

Dịch nghĩa:

Đền miếu nguy nga, lâu đài Nha Hải vũ trụ mới
Trời Nam chính thống, thành quách Long Biên núi sông xưa.

Câu 16

神龍蜜献擊賊大勝梁兵回帝位
獨木長期進攻消耗力量鎮龍城

Thần long mật hiến kích tặc, đại thắng Lương binh hồi đế vị
Độc mộc trường kỳ tiến công, tiêu hao lực lượng trấn Long thành.

Dịch nghĩa:

Rồng thần mật hiến cách đánh giặc, đại thắng quân Lương lên ngôi đế
Độc mộc trường kỳ tiến công, tiêu hao lực lượng trấn thành Long.

Rồng hiện Nhất Dạ Trạch

Thần tích làng Nhuế Dương ở Khoái Châu, Hưng Yên kể về quá trình khởi nghĩa của Triệu Quang Phục: Ngả Việt ta tại Long Biên có người Thái Bình, họ Lý tên là ông Bôn, theo trời thuận người thừa thời thế mà khởi nghĩa. Nhưng đang khi đó chưa có nam nhi nào có tài thao lược. Ông Bôn tích trữ binh lương, thần phong chưa động. Tin thay! có Thiếu Khang dẹp loạn tất có Thần Mĩ dẹp loạn cùng. Rồng lên ở trên đầm không có ý với mây mà mây tự nhiên bay đến.

Đương khi ấy ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một nhà họ Triệu tên Túc. Tổ tiên nhà đó vốn họ Việt, giúp Triệu Võ Đế (tức Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Ba bốn đời đều làm quan lớn cho triều Triệu Vũ Đế.  Đến ông Túc cũng là bậc nho y có tiếng trên đời, lấy vợ là Trưng Thị Đàm.

Triệu Quang Phục có tổ tiên đã theo Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Họ Triệu nhiều đời làm quan lớn, cho đến ông Triệu Túc. Triệu Túc theo như Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lại là Thái phó của Lý Bôn, tức là một vị tướng quan trong trong cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế.

Cũng Thần tích Nhuế Dương kể, khi Triệu Việt Vương mất lại thấy Tạp bộ Đại phu ở xã Đại Lan bản huyện cũng tự đến tận nơi cung sở chính, lập làm đền miếu, vâng chép thần hiệu Triệu Việt để phụng thờ.

Đại Lan nay là xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên, nơi có đền thờ Triệu Vũ Đế ở Long Hưng điện. Tập sử ký Xuân Lan (thần tích Xuân Quan) cho biết: Triệu Việt Vương, tên húy là Quang Phục, sinh ở làng Lan Cứu (nay là xã Xuân Lan), là hậu duệ của Cổ Tiên Thánh Đế (tức Triệu Đà).

Như vậy, Triệu Quang Phục là dòng dõi Triệu Vũ Đế, sinh ở Xuân Quan. Cho dù các thần tích khác như thần tích Nhuế Dương cho biết Triệu Quang Phục quê ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây, nhưng rất có thể Xuân Quan là một trong những nơi Triệu Quang Phục đã lớn lên thủa ban đầu.

So sánh với Thần tích Hạ Mạo (TT. Phú Thọ) khi mà Hậu Hùng Vương đã cử người con Út đến giúp Triệu Đà chống Tần thì Hậu Hùng Vương sẽ là Triệu Túc, Lý Bôn là Triệu Đà, còn Út Ngọ Lôi Mao là Triệu Quang Phục.

Theo các thần tích việc Lý Bôn được Triệu Quang Phục như rồng gặp mây, như minh chúa gặp tướng tài (vua Hạ Thiếu Khang được bề tôi là Thần Mi giúp diệt loạn Hậu Nghệ, trung hưng nhà Hạ). Triệu Quang Phục là Tả tướng của Lý Bôn, được phong thực ấp ở đạo Sơn Nam.

Thần tích Nhuế Dương chép: Quang Phục vâng mệnh bái tạ, đi đến nhận việc ở Sơn Nam, ngắm xem đất đai có hình thắng hiểm trở để  lập cung doanh mà ở. Một hôm đi đến nơi đất đầu xã Nhuế Dương, xứ Nhất Dạ Trạch, huyện Đông An Khoái Lộ. Bốn bề đất Nhuế Dương, trước có sông lớn, ba mặt đầm nước, núi không cao mà đất bãi như gìn giữ. Nước có sâu mà nguồn giếng êm chảy. Trái phải xung quanh có rồng hổ ôm chầu, thật đúng là nơi đất hiểm yếu. Ngay hôm đó bèn truyền quân xây dựng cung doanh vài mươi gian. Chính cung dựa Càn hướng Tốn. Quang Phục ở đó.

Đến khi giặc Lương quay trở lại, tấn công nước Vạn Xuân. Lý Nam Đế vào động Khuất Lão, giao quyền quản lý Long Biên lại cho Tả tướng Triệu Quang Phục. Quang Phục tự thấy Long Biên bốn mặt có giặc, bèn rút hết quân về nơi chốn cũ ở Nhuế Dương, trong đầm Nhất Dạ huyện Đông An mà ở, cùng với quân Lương cự chiến, qua một năm mà không phân thắng thua.

Như vậy, Nhuế Dương chính là nơi Triệu Quang Phục đã đóng đồn quân chính trong trận chiến đầm Nhất Dạ. Gần Nhuế Dương, cùng tổng Phù Khê của huyện Khoái Châu xưa có làng Bùi Xá, cũng là nơi thờ Triệu Quang Phục. Thần tích Bùi Xá rất đặc biệt, khi cung cấp nhiều chi tiết mới lạ về cuộc khởi nghĩa đầm Dạ Trạch:

Còn Quang Phục ở huyện Đông An, thấy trong huyện có đầm Nhất Dạ tại đất xã Vĩnh Hưng (tức xã An Vĩnh). Đầm này chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ lác mọc rậm rạp. Bốn bề bùn lầy sình trũng. Bên trong có một chỗ nhỏ có thể ở. Quang Phục bèn lập đồn lớn ở trong đầm.

Thường khi dẫn quân đánh quân Lương thì thấy có một lão ông, râu tóc dài khỏe, thân thể kỳ dị, cao hơn 9 thước, cầm một cái dùi sắt, theo khói sương trong đầm mà lên, tiếng như chuông lớn, hình như sắt trắng, đánh quân Lương thua to.

Sự việc xong ông lão lại cùng với Quang Phục đi dạo, nói cười vui vẻ như anh em cùng một bọc đến chơi vậy. Phàm khi Quang Phục có việc bị quân Lương tập kích thì đều đến báo trước thời gian. Nếu Quang Phục gạn hỏi họ tên, duyên cớ thì đều không báo sự thực.

Một hôm Quang Phục đi đến cung sở ở xã Bùi Xá. Nhân dân đang làm lễ đón mừng thì bỗng thấy lão ông từ bên ngoài đi đến. Quang Phục bèn mời vào trong ngồi. Lão ông nói rằng:

–   Tôi vốn là thanh khí chốn bèo nước, là dòng dõi một bầu trăm trứng họ Hùng trước đây, cũng là phúc thần của Bùi Xá. Tôi là Đông Hải Đại vương, là người con thứ 10 trong số 50 người con về biển, họ Hùng tên Chiểu, ở giữ biển Đông nên gọi là Đông Hải Đại vương. Sau lại kiểm giữ đầm Nhất Dạ ở Sơn Nam, làm thần ở Bùi Xá trong đầm Dạ Trạch.

Trong đầm Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã được thần đầm là Đông Hải Đại vương, một vị thủy thần dòng dõi Lạc Long Quân xuống biển giúp và báo tin cho.

Quang Phục theo đó mà chọn ngày trai giới, lập đàn dâng lễ cáo tế trời đất, cầu đảo bách thần. Ba ngày đèn hương không dứt. Bỗng thấy trời đất mù mịt, mây gió nổi lên. Có một vị thần tướng cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, đứng trên đàn. Ông Phục đại bái ở trước. Thần tướng mới nói rằng:

– Ta là Quý Minh Đương Lai,  cho khanh một vật để làm nỏ thần báu vật trời ban. Cho dù có giặc mạnh cũng không phải lo lắng vậy.

Thì ra người trao móng rồng cho Triệu Quang Phục không phải là Chử Đồng Tử mà là Quý Minh Đại vương, vị Hữu kiên thần Tản Viên Sơn Thánh. Quý Minh Đại vương còn có tên là Lãng Nhạc, là vị thủy thần trong Tam vị Tản Viên.

Thần tích Bùi Xá có bài thơ nói về chuyện này:

Sơn thuỷ tòng lai tương biệt thú
Như hà sơn thuỷ đắc đồng nguyên
Giả lệnh tại đương thì giả
Cảm vấn chư công đắc minh.

Dịch nghĩa:

Sông núi theo đi mà chia biệt
Tại sao sông núi lại cùng nguồn?
Nếu là thủ lĩnh đương thời đó
Dám hỏi các ngài rõ không?

Bài thơ ám chỉ việc 50 người con theo cha xuống biển là Thủy thần, 50 người con theo mẹ làm Sơn thần thời Lạc Long – Âu Cơ. Cùng nhau chia biệt nhưng đều là con cùng một bầu cha mẹ, cùng một nguồn.

So vào việc Triệu Quang Phục nhận được móng rồng từ các vị thủy thần Đông Hải Đại vương và Quý Minh Đại vương thì có thể ở đây ám chỉ Triệu Quang Phục là dòng theo mẹ lên núi. Một dẫn chứng khác là đền thờ Triệu Quang Phục ở xã An Vĩ (Khoái Châu) còn có tên là đền Vua Rừng.

Triệu Quang Phục là dòng Tiên theo mẹ lên núi cũng tương ứng với thần tích Hạ Mạo cho biết vua Triệu là dòng dõi họ Hùng, có biểu tượng là lông chim phượng hoàng (Lôi mao), tức là dòng Tiên (chim phượng).

Dòng dõi Tiên họ Triệu đã được sự giúp đỡ phò trợ của dòng Rồng xuống biển mà có được báu vật đâu mâu làm lẫy nỏ thần, dẹp tan giặc loạn. Ở Bùi Xá còn thường kể câu chuyên là cây gạo trước đình khi nở hoa thì ở làng đối diện thế nào cũng có nhà cháy. Cây gạo chính là hình tượng của Rồng như trong chuyện bảy cây gạo ở Nhật Chiêu bên hồ Tây. Hoa gạo nở cũng là lúc móng rồng phát huy uy lực, hướng vào đâu là tan giặc ở đó.

Câu đối ở đình Phù Sa (Yên Mô, Ninh Bình):

兜鍪聖武興南李
獨木神兵走北梁

Đâu mâu thánh vũ hưng Nam Lý
Độc mộc thần binh tẩu Bắc Lương.

Dịch nghĩa:

Đâu mâu võ thánh dấy Nam Lý
Độc mộc binh thần đuổi Bắc Lương.

Ở đây chiếc móng rồng làm đâu mâu tương đương với việc dùng thuyền độc mộc để đánh quân Lương. Phải chăng khả năng dùng thuyền nhẹ chính là năng lực của “rồng”, của dòng tộc người xuống biển, đã giúp Triệu Quang Phục chiến thắng giặc Lương trên mặt nước đầm Dạ Trạch?

Sau khi có được móng rồng bảo bối, giặc được dẹp tan, Triệu Quang Phục lên ngôi tự xưng vương là Triệu Việt Vương. Vương lại về thành Long Biên ở. Trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, dốc lòng hưng bình để yên Trung Quốc. Cảnh tượng thái bình ở đời rạng rỡ. Bèn xa giá đi chu du khắp thiên hạ. Núi Nhân dạo bộ, biết sông hỏi bến. Núi sông tụ Thần Phù, Yên Tử, Cao Đê, mặt trời hồng, mây trắng, trăng gió cuốn Hoa Quật, Long Biên. Trên dưới núi xanh nước biếc. Phàm đến nơi nào thấy sơn thủy hữu tình đều lập hành cung, cho miễn binh dao để ngày sau làm nơi hộ nhi (Thần tích Nhuế Dương).

Đoạn này nói đến quá trình cai quản đất nước của vua Triệu. Thiên hạ thái bình cũng nhờ có móng rồng vậy, tức là có được sự giúp đỡ của dòng Rồng Lạc xuống biển. Vua Triệu đi khắp nơi, xây dựng nhiều hành cung, nay là các di tích để lại ở nước ta. Số di tích thờ Triệu Việt Vương còn lại cho đến ngày nay được thống kê lên tới hơn 100 nơi trải từ Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hà Nội, Bắc Ninh tới tận Thanh Hóa, Vĩnh Phúc.

Sau đó chính sử thường kể là chuyện Lý Phật Tử, dòng dõi Lý Nam Đế, cùng con trai là Nhã Lang đem quân đến đánh vua Triệu. Triệu Việt Vương nghĩ đến tình xưa với Lý Nam Đế (Triệu Võ Đế) nên đã chia đất nước làm hai, cùng trị với Lý Phật Tử. Nơi cắt giới được gọi là bãi Quân Thần.

Tuy nhiên, Thần tích Bùi Xá lại kể bãi Quân Thần lại là do Lý Phật Tử chia nước với Nhã Lang: Phật Tử lên ngôi tự lập là Hậu Lý Nam Đế. Nam Đế nghĩ đến chữ nghĩa cha con, quân thần bèn cắt giới từ Thượng Cát, huyện Từ Liêm về phía Tây cho Nhã Lang ở. Từ Thượng Cát về phía Đông Nam Việt ở, gọi là Quân Thần.

Với cách kể như vậy thì Nhã Lang là dòng dõi của Triệu Quang Phục mới đúng. Họ Lý là Quân (Đế), họ Triệu làm Thần (Vương) (Thần tích Bùi Xá). Hậu Lý Nam Đế chiếm được thiên hạ mà xưng đế. Hậu duệ của họ Triệu là Nhã Lang lùi về phía Tây Bắc Việt, chiếm giữ xưng vương. Bãi Quân Thần ở Thượng Cát (Từ Liêm) là ranh giới chia đôi vùng Bắc Việt thành 2 phần. Phần Đông do Hậu Lý Đế nắm giữ. Phần Tây do Nam Triệu Vương nắm giữ. Nam Triệu sau này gọi thành Nam Chiếu, là con cháu Triệu Vũ Đế như Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái, hay Tập sử ký Xuân Lan kể.

Khu vực vùng đầm lầy tả ngạn sông Hồng là nơi khởi đầu cuộc khởi nghĩa của Triệu Việt Vương. Triệu Quang Phục dòng dõi vua Hùng mẹ Tiên lên núi, trước là theo Triệu Vũ Đế Lý Bôn chiếm thành Long Biên, sau rút về đóng quân giữa đầm Dạ Trạch ở Nhuế Dương, rồi gặp các vị thủy thần cưỡi rồng tháo móng, chế thành vũ khí, tạo ra thuyền độc mộc, dẹp được giặc. Triệu Quang Phục xưng Vương, đi khắp nơi xây dựng đất nước. Con cháu họ Lý là Hậu Lý Nam Đế dẫn quân đến đánh. Triệu Việt Vương tử tiết ở cửa biển Đại Nha. Con cháu vua Triệu rút về phía Tây Bắc Việt, cắt giới Quân Thần ở Từ Liêm, xưng là Nam Triệu, sau là Nam Chiếu.

Thần tích về Triệu Việt Vương ở làng Nhuế Dương, tổng Phù Khê, huyện Khoái Châu, Hưng Yên

Ngọc phả chép về vua Việt ta là Triệu Việt Vương

Chi Càn, thứ nhất, bộ quốc tế

Xưa ngả Việt ta trời Nam mở vận, núi sông phân ngang theo sao Dực Chẩn. Nước Bắc ban đầu phong thẳng hướng phân theo sao Đẩu Ngưu. Từ triều Hùng Kinh Dương Vương thừa mệnh phân phong của vua cha là dòng dõi đế vương nước Việt ta, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng. Ngọc lụa xe sách, núi sông thống nhất, chính là tổ của ngả Việt ta vậy. Đến khi nhà Hùng được 18 đời mới giao lại vận nước cho Thục An Dương Vương. Dương Vương trị nước được 50 năm lại có người Chân Định nước Bắc họ Triệu tên Đà dẫn quân đến đánh nên nhà Thục mất. Triệu Đà được nước truyền 5 đời hơn trăm năm.

Từ đó ngả Việt ta thuộc về Hán, Ngô, Đường, Tống, Tấn, Tề, Lương. Đến thời Lương Võ Đế cho Tiêu Tư làm thái thú ngả Việt ta. Tư là người hình pháp khắc nghiệt, sai dịch nặng nề. Triệu dân tang thương, người người đồ thán. May sao trời có lòng, nước Nam có vua Nam ở. Ngả Việt ta tại Long Biên có người Thái Bình, họ Lý tên là ông Bôn, theo trời thuận người thừa thời thế mà khởi nghĩa. Nhưng đang khi đó chưa có nam nhi nào có tài thao lược. Ông Bôn tích trữ binh lương, thần phong chưa động.

Tin thay! có Thiếu Khang dẹp loạn tất có Thần Mi dẹp loạn cùng. Rồng lên ở trên đầm không có ý với mây mà mây tự nhiên bay đến. Đương khi ấy ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một nhà họ Triệu tên Túc. Tổ tiên nhà đó vốn họ Việt, giúp Triệu Võ Đế (tức Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Ba bốn đời đều làm quan lớn cho triều Triệu Vũ Đế.  Đến ông Túc cũng là bậc nho y có tiếng trên đời, lấy vợ là Trưng Thị Đàm. Gia thế tuy giàu mạnh nhưng vợ chồng đều là những người trung hậu, nửa điểm hại người đều không có ý, một hào tư lợi cũng không có lòng. Địa phương nơi đó đều nói là nhà tích thiện tất có nhiều điều may mắn.

Một tối trời quang đãng, thái bà nằm ở phòng hoa, mơ màng thiếp đi. Bỗng thấy một ông lão dắt lên trên trời, ôm được một con rồng vàng. Đến lúc trở về nhìn trời lại thấy sao Thái dương rơi vào người Thái bà. Bỗng nhiên tỉnh lại. Đem giấc mộng kể với ông Triệu. Ông nói:

  • Ta xem gia phả các đời của nhà ta có tổ tiên tìm được một nơi đất quý, trước là phát 4 đời công khanh, hơn ba trăm năm lại phát đế vương từ nơi đất đó. Nay nàng nằm mộng như vậy tất con rồng đó là điềm đế vương, lại rơi vào thân, tất sẽ sinh được người con đế vương.

Thế là Thái bà có mang. Từ khi mới mang thai cho đến lúc mãn nguyệt ở nơi Thái bà nằm thường trên mình có vầng ánh sáng đỏ chiếu rọi. Đến năm Giáp Dần ngày 10 tháng 3 thì sinh hạ được một người con trai. Đang lúc sinh khí lành bốc lên, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày, ông Triệu đặt tên là Quang Phục.

Quang Phục khi 15 tuổi đã có khí tiết lớn, thường than rằng:

  • Là con người trên phải như Hán Tổ, Đường Tông, dưới phải như Tống Dương, Đường Tiết mà lập công nêu danh, chiêu tập nhân dân, tạo nên đức lớn, để lưu danh thơm cho hậu thế. Chứ không thể để lại tiếng xấu trăm năm mà làm uổng phí kiếp sinh ra trong trời đất.

Đến tuổi 20 cha mẹ đều mất, ông bèn làm lễ chôn cất. Trong lúc chịu tang đã âm thầm nuôi chí lạ, trữ lương luyện binh, chiêu nạp chúng bạn, dốc lòng đãi sĩ, hết sức cầu hiền, tập hợp chúng nhân được hơn vạn người. Ông thường nói rằng:

  • Người Bắc Tiêu Tư xâm chiếm nước ta, nếu không đuổi được về Bắc thì chết vì hận vậy.

Sau nghe ông Lý Bôn khởi binh ở Long Biên, anh hùng thiên hạ phần nhiều đến quy phục, ông bèn dẫn chúng quân đến theo. Ông Bôn thấy người này có văn võ dồi dào, có tài an dân ngự chúng, bèn vui mừng nói:

  • Chúng ta đều là ngang sức ngang tài, chỉ tiếc là gặp nhau hơi muộn.

Bèn ngay hôm đó bái làm Tả tướng, cùng với người anh cùng họ là Lý Phật Tư truyền hịch đi các hào kiệt ở các chư phủ huyện, cùng các quan phụ đạo, đồng lòng mở nước, vì nghĩa dẹp hung tàn. Nếu sau này yên định được đất nước sẽ cùng hưởng điều tốt lành. Khi ấy người đến ứng mộ ở các chi quân mã cộng được 20 vạn người. Bèn chia thành các đạo tiến thẳng đến cùng với Tiêu Tư giao chiến một trận, thế mạnh như chẻ tre, oai lớn như đốt củi khô nỏ. Tiêu Tư thua to, chạy về nước Lương.

Ông Bôn lên ngôi, tự xưng là Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở Long Biên, quốc hiệu Vạn Xuân, mở tiệc mừng lớn, rồi phong cho các tướng sĩ các cấp. Bèn phong Lý Phật Tử là chủ bộ Sơn Tây, thực ấp ở Sơn Tây. Triệu Quang Phục là chủ bộ Sơn Nam, thực ấp là Sơn Nam.

Quang Phục vâng mệnh bái tạ, đi đến nhận việc ở Sơn Nam, ngắm xem đất đai có hình thắng hiểm trở để  lập cung doanh mà ở. Một hôm đi đến nơi đất đầu xã Nhuế Dương, xứ Nhất Dạ Trạch, huyện Đông An Khoái Lộ. Bốn bề đất Nhuế Dương, trước có sông lớn, ba mặt đầm nước, núi không cao mà đất bãi như gìn giữ. Nước có sâu mà nguồn giếng êm chảy. Trái phải xung quanh có rồng hổ ôm chầu, thật đúng là nơi đất hiểm yếu. Ngay hôm đó bèn truyền quân xây dựng cung doanh vài mươi gian. Chính cung dựa Càn hướng Tốn. Quang Phục ở đó. Ngày sau gọi phụ lão nhân dân Nhuế Dương đến, khuyến khích nông tang, nam học hành, nữ may dệt, thêm điều tiện lợi, trừ bớt điều hại. Nhân dân Nhuế Dương đều yêu mến, hân hoan.

Được vài năm Đế lại triệu hồi về cùng với họ Lý. Khi đó Quang Phục cùng với Đế Bắc đuổi Tiêu Tư, Nam dẹp Lâm Ấp, đặt nên cảnh thái bình như cuốn sách trâu trắng. Trời tự có số mệnh. Lý Đế ở ngôi được khoảng 10 năm, Lương Võ Đế lại sai Bá Tiên, Dương Sàn dẫn 20 vạn quân sang đánh để rửa mối hận trước đây. Khi ấy Lý Đế đóng quân ở hồ Điển Triệt. Quân Lương không dám tiến gần. Một hôm nước hồ dâng cao chảy vào giữa hồ. Bá Tiên đốc quân theo dòng nước mà tiến. Quân của Đế thua, Đế bèn ủy phó cho Tả tướng Triệu Quang Phục giữ nước, còn mình vào động Khuất Liêu, sau đó ít lâu bị bệnh lam chướng mà mất.

Quang Phục tự thấy Long Biên bốn mặt có giặc, bèn rút hết quân về nơi chốn cũ ở Nhuế Dương, trong đầm Nhất Dạ huyện Đông An mà ở, cùng với quân Lương cự chiến, qua một năm mà không phân thắng thua.

Một hôm Quang Phục lập đàn cầu đảo trời đất bách thần. Được một lúc thì thấy có một ông lão, râu tóc xanh tốt, cưỡi rồng từ trên trời hạ xuống, tháo móng rồng giao cho Quang Phục và dặn:

  • Quốc gia hưng vong là ở số trời. Nay ta cho khanh vật này dùng làm đâu mâu, đặt vào trong lẫy nỏ. Cứ hướng vào đâu là giặc tất phải cúi rạp dẹp ra.

Dặn xong, ông Phục bái hỏi họ tên. Người đó cười nói:

  • Ta chính là Chử Đồng Tử đây.

Rồi lại cưỡi rồng bay lên không mà đi. Quang Phục làm lễ bái tạ, rồi lệnh tạo lẫy nỏ đâu mâu, gọi là thần nỏ vuốt rồng. Một trận đánh đã chém được tướng Lương là Dương Sàn. Quân Lương thua to, chạy về nước Bắc. Quang Phục cho đó là điềm trời bèn lên ngôi, tự lập là Triệu Việt Vương.

Ở cung Nhuế Dương mở tiệc mừng lớn khao hưởng tướng sĩ. Cùng với nhân dân Nhuế Dương ăn uống, lại miễn cho Nhuế Dương binh dong, tô thuế để làm dân thang mộc. Lại cho tiền bạc để mua thêm ruộng vườn để ngày sau giữ hương lửa vậy. Sau Vương sai người cùng quận là Nhã Lang đang là Tạp bộ Đại phu giữ đầm Nhất Dạ, Đông An.

Vương lại về thành Long Biên ở. Trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, dốc lòng hưng bình để yên Trung Quốc. Cảnh tượng thái bình ở đời rạng rỡ. Bèn xa giá đi chu du khắp thiên hạ. Núi Nhân dạo bộ, biết sông hỏi bến. Núi sông tụ Thần Phù, Yên Tử, Cao Đê, mặt trời hồng, mây trắng, trăng gió cuốn Hoa Quật, Long Biên. Trên dưới núi xanh nước biếc. Phàm đến nơi nào thấy sơn thủy hữu tình đều lập hành cung, cho miễn binh dao để ngày sau làm nơi hộ nhi.

Một ngày nọ lại trở về Nhuế Dương thăm xem cung điện. Khi ấy người ở Nhuế Dương tranh nhau mang trâu rượu đón tiếp, làm lễ mừng lớn. Vương ở lại Nhuế Dương mấy chục ngày rồi lại trở về ở thành Long Biên.

Lại nói, khi ấy tướng cùng tộc với Tiền Lý Nam Đế là Lý Phật Tử thấy Triệu Quang Phục xưng vương, bèn vào động Dã Năng ở 15 năm. Đến khi ấy dẫn quân đến đánh Triệu Việt Vương. Mỗi khi ra trận, Việt Vương lại dùng nỏ thần. Quân Phật Tử đều sợ hãi mà chạy. Trong tướng sĩ của Phật Tử có người hiểu biết nói với Phật Tử rằng:

  • Thần xem Triệu Việt Vương tất nỏ thần có lẫy có thuật lạ. Nếu không lo việc này thì quân ta càng đánh càng thua. Chi bằng hãy treo giáp ngừng quân để dùng mưu mà lấy. Thần nghe nói con gái Triệu Việt Vương là Gạo nương cùng với con của minh công là Nhã Lang xấp xỉ cùng tuổi. Nay có kế này Ngài có thể sai sứ cầu hòa và câu hôn sự. Việt Vương mà đồng ý thì tất sẽ cho Nhã Lang vào Triệu ở rể, rồi tùy ý mà hành động, tất thiên hạ có thể dựng lại về nhà họ Lý vậy.

Phật Tử vui mừng bèn viết thư rồi chọn hậu lễ thỉnh hòa và cầu hôn. Triệu Vương nghĩ Phật Tử là dòng tộc Tiền Nam Đế, không nỡ tận tuyệt, bèn đồng ý. Phật Tử lại đưa sinh lễ xin cho Nhã Lang vào làm con tin. Từ đó Việt Vương chia nước làm hai mà cùng trị. Chỗ phân cắt giới là bãi Quân Thần ở Thượng Cát, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây. Từ Thượng Cát về phía Tây Phật Tử trị. Từ Thượng Cát về Nam Việt Vương trị. Vương sau lại yêu mến Nhã Lang, gọi là rể hiền, tin tưởng cho ra vào mà không nghi ngờ gì.

Một hôm Việt Vương nằm ở gác Đông, bỗng mơ màng như mộng, thấy Chử Công Đồng Tử tiến lại. Việt Vương trong mộng chay ra ngoài sân nghênh đón. Thấy Đồng Tử vén tay áo lên lấy ra một bức thư giao cho Việt Vương. Vương bèn mở ra xem, chỉ thấy trong có 6 chữ là:

  • Việc thời Thục An Dương Vương.

Vương định nghênh bái đón tiếp thì bỗng nhiên tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Vương tưởng trong mơ là thấy lại mộng cũ gặp ông Chử Đồng Tử, cho nên không để ý. Đến khi Vương ở ngôi được khoảng 23 năm. Con trai của Phật Tử là Nhã Lang ngầm dụ Gạo nương rằng:

  • Xưa kia hai cha của chúng ta từng là thù địch, nay lại kết giao Tấn Tần, theo đó mà tránh được nỗi khổ của chiến tranh. Ngày ấy  khi cha nàng cùng với cha ta giao chiến, cha nàng có phép thần gì mà có thể thường đẩy lùi được quân của cha ta vậy

Gạo nương bèn lấy nỏ thần vuốt rồng ra cho xem. Nhã Lang bèn tráo đổi lấy cắp đâu mâu vuốt rồng. Nhân đó nói với Gạo nương rằng:

  • Tuy tình vợ chồng không thể mất nhưng nghĩa cha con cũng không thể xa rời. Ta muốn về thăm thân, chưa biến ngày nào cùng nàng gặp lại.

Nàng nói:

  • Vạn nhất mà hai nước thất hỏa, khi đó chồng Bắc vợ Nam làm sao mà gặp lại?

Nhã Lang nói:

  • Nếu có như vậy nàng hãy giấu lông ngỗng trong người, chạy đến đâu thì rắc lông ngỗng ở đường. Ta nhận được dấu đó sẽ đến gặp lại.

Thế rồi Nhã Lang giấu vuốt rồng trở bề báo với Phật Tử. Phật Tử vui mừng, bèn cất quân đến đánh Việt Vương. Vương vẫn chơi cờ vây mà cười rằng:

  • Phật Tử không sợ nở thần của ta sao Không nghĩ đến nghĩa hôn nhân hay sao?

Phật Tử nói:

  • Phật há lại sợ thần hay sao?

Bèn dẫn quân bức đến. Việt Vương mang nỏ ra mới biết là đã mất vuốt rồng, thế cùng lực tận, không biết làm thế nào. Bèn đặt Gạo nương lên ngựa, sau cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha ở xã Lục Bộ, huyện Giao Tủy. Còn Phật Tử cứ theo lông ngỗng mà truy sát đến. Trước là cửa biển, sau là quân truy kích. Việt Vương đang lúc quẫn bách thì thấy Chử Công Đồng Tử cưỡi hạc bay đến trước Việt Vương hô to:

  • Vương không nhớ ta đã ứng trong mộng cho 6 chữ sao? Nữ tử sau ngựa chính là giặc đó.

Việt Vương tự biết, than rằng:

  • Hối không kịp rồi.

Bèn rút gươm chém Gạo nương. Vương tự mình nhảy xuống cửa biển Đại Nha mà mất (khi đó là ngày 12 tháng 8). Vương từ khi mất thường có nhiều linh ứng. Nơi mà Vương hóa xã Lục Bộ lập đền ở trên cửa biển để thờ phụng. Còn xã Nhuế Dương, huyện Đông An từ khi Vương mất nhân dân đều mang bệnh tật không yên, thường mơ thấy một người thân mặc áo xanh tay cầm cờ vàng nói rằng:

  • Ta là thiên sứ xuống báo cho dân các ngươi xây dựng cung miếu để thờ Triệu Việt Vương.

Người dân không biết như thế nào. Lại thấy Phật Tử lên ngôi tự lập là Hậu Lý Nam Đế. Con trai Nhã Lang đến nơi dân truyền rằng Việt Vương đã hóa. Dân phải lập miếu phụng thờ. Lại thấy Tạp bộ Đại phu ở xã Đại Lan bản huyện cũng tự đến tận nơi cung sở chính, lập làm đền miếu, vâng chép thần hiệu Triệu Việt để phụng thờ. Từ đó bệnh tật đều yên hết. Cảm tất thông, cầu tất ứng. Nên nhân dân phụng thờ nghiêm cẩn.

Lại nói khi Hậu Lý Nam Đế ở ngôi được 20 nằm thì hàng Tùy mà mất. Trải qua Mai Hắc Đế, Phùng Bố Cái, Khúc Tiên Chủ, Khúc Trung Chủ, Khúc Hậu Chủ, Dương Chính Công, Tiền Ngô Vương, Hậu Ngô Vương, Mười hai sứ quân cùng nhau tranh giành, cát cứ các nơi. Sinh dân do đó thật lầm than. Lại có người ở Hoa Lư động, châu Đại Hoàng họ Đinh tên Bộ Lĩnh khởi binh dẹp trừ 12 sứ quân. Khi dẫn quân đánh Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu Đinh Bộ Lĩnh tự đến xã Nhuế Dương  cầu ở nơi đền miếu Việt Vương. Việt Vương cũng có hiển ứng âm phù. Khi dẹp được 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tự lập là Đinh Tiên Hoàng đế, bèn truy phong Việt Vương Hoàng đế, ban cho mĩ tự sắc chỉ về Nhuế Dương, trùng tu miếu điện để thờ phụng. Xuân thu sai quan đến tế. Bốn mùa hương lửa cùng quốc gia hưởng yên. Thịnh sao!

Truy tôn Triệu Việt Vương Khai quốc Dực vận Quảng tế Thần võ Nguyên công Chí  Thánh Triệu Hoàng đế. Cho xã Nhuế Dương phụng thờ.

Lại nói, từ đó về sau trải đời Lý 8 nhánh, Trần 12 vua cùng với Hoàng gia ta khai sáng hồng đồ thường có hộ quốc cứu dân, cầu mưa cầu nắng, đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều đế vương gia phong mĩ tự để làm vạn năm hương lửa vô cùng. Tốt thay, đẹp thay!

Vâng khai sinh hóa các lễ cùng với các chữ húy hai chữ Quang Phục, màu áo vàng nhất thiết cấm khi làm lễ không được mặc.

Sinh thần ngày mồng 10 tháng 3 (lễ dùng trên mâm chay, dưới cỗ trâu, xôi, rượu, ca hát ba ngày).

Ngày hóa thần 12 tháng 8 (lễ dùng trên chay bàn bánh chè oản hương hoa. Dưới cỗ trâu xôi rượu, đấu vật ba ngày).

Ngày khánh hạ là mồng 10 tháng Giêng (lễ dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát một ngày).

Xuân thu hai kỳ lệ được ban cho tiền đồng 60 quan, sai quan đến tế, làm lễ tam sinh, ca hát một ngày.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất tháng đầu xuân ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các đại học, thần, Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ nhất tháng giữa thu nguyệt ngày tốt, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền tuân theo chính bản vâng sao.

Bát phẩm thư lại, thần, Hoàng Công Độ vâng chép.

Thần tích làng Bùi Xá, tổng Phù Khê, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên

Phả lục công thần thời Tiền Lý Nam Đế họ Triệu tên Phục, sau là Triệu Việt Đại Vương.

Xưa nước Việt ta mở cơ đồ Nam phục, phân giới theo sao Ngưu Đẩu. Triều Hùng mở vận, thánh tổ ứng đồ. Nước biếc một dòng, khởi vận thánh đế minh vương. Núi xanh vạn dặm, dựng nền cung điện thành đô. 18 đời truyền hơn hai ngàn năm thịnh trị. Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng. Ngọc lụa, núi sông vạn dặm thống nhất, chính là tổ của Bách Việt vậy. Truyền đến đời Duệ Vương không có người kế tự, bèn nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. Dương Vương có nước trị được 50 năm. Có người Chân Định họ Triệu tên Đà dẫn quân đến xâm chiếm. Nhà Thục mất. Triệu Đà chiếm được nước, cha truyền con nối 5 đời làm vua.

Từ đó nước Việt ta thuộc về Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương. Khi ấy nước Việt ta có ông Lý Bôn, có tài văn võ của bậc đế vương, có chí dẹp loạn khôi phục non sông, thừa vận theo trời thuận người mà khởi dưỡng chí lớn, chọn tìm tướng tài. Tin thay! đã có vua tất sẽ có bề tôi. Rồng lên ở đầm không có ý với mây mà mây tự đến.

Đương khi đó tại huyện Châu Diên phủ Tam Đới đạo Sơn Tây có một người xử thế theo kinh sách, lo liệu việc nhà bằng hiếu đễ. Người đó họ Triệu tên Túc, cùng với bà Lê Thị Minh kết duyên cầm sắt, xướng hợp uyên ương, ba sinh hương lửa, một mối phong quang êm đềm, dư giả vậy. Gia thế vốn giàu có. Vợ chồng cùng là những người trung hậu, giúp nghèo cứu yếu, tích đức làm việc nhân, nửa điểm hại người cũng không làm, một ý tham lợi nhỏ cũng không theo. Phàm là việc giúp người tạo phúc, đều cố hết sức lực để làm. Nhân dân địa phương ai ai cũng nói là gia đình tích thiện tất sẽ có nhiều may mắn.

Khi ấy vợ chồng ông đều đã ngoài 40 tuổi mà chưa thấy có sinh nở nên cùng nhau đến đền thiêng trên núi Tam Đảo để cầu đảo. Đêm đó ông nằm mơ thấy ánh sáng tràn đầy nhà, chốc lát có rồng vàng trườn tới. Ông bắt được một con rồng vàng. Đến khi tỉnh lại mới biết là một giấc mộng Hoàng Lương bên gối. Rạng ngày ông làm lễ bái tạ, trở về nhà.

Từ đó bà Lê Thị thấy trong người có mang. Mang thai được 12 tháng đến mùa hè năm Mậu Thìn ngày 1 tháng 5 giờ Thân thì sinh hạ một người con trai, thân hình đẹp đẽ chỉnh tề, khí chất khôi ngô kỳ lạ. Trong lúc sinh khí lành tụ thành hình, hương thơm bay ngào ngạt, cuốn bám đầy phòng. Sương mù rạng rỡ ở nơi nằm. Người cha rất vui mừng cho đó là trời ban cho, bèn đặt tên là Quang Phục.

Ngày qua tháng lại, đến khi trưởng thành thì tìm thầy đi học. Học được vài năm thì đã hiểu thấu văn chương, trí tuệ hơn người, tinh thông võ bị, tài năng cái thế, cùng với lục giáp, thần phù không gì là không tinh thông. Đang khi còn đi học, thầy dạy thường nói rằng:

–   Gia đình người này đúng là có được điều phúc lớn, sinh được một người con trai tốt như vậy. Ngày sau sẽ là người trải trời rải đất, bày lập thời đại kinh kỷ, là người quý của nước Nam vậy.

Đến năm Ngài 12 tuổi thì sách vở của trăm nhà không gì là không nắm được. Mỗi khi bàn luận cùng với bạn bè cùng trang lứa, bằng hữu đều sợ phục. Ngài thường than rằng:

–   Làm người phải như các bậc thánh hiền thời cổ, sáng lập công danh, không thì cũng là chốn sa trường da ngựa bọc thây, mới đúng là bậc đại trượng phu. Đâu thể chỉ yên phận với việc nghiên bút được.

Từ đó không quan tâm đến sản nghiệp mà nuôi chí lớn. Thường hận là nước Nam phải phụ thuộc vào người ngoài, không tự quản thủ (khi ấy Lương sai Tiêu Tư là thái thú ở Việt ta). Bèn ngày đêm tích trữ binh lương, âm thầm nuôi chí lạ, chỉ còn tìm thánh quân đợi thời mà phát động. Một hôm ngài Quang Phục nghe có ông Lý Bôn ở đất Quảng Đông Long Biên, có chí lớn lao, anh hùng trí dũng, có khí tượng lớn của bậc đế vương, chiêu tập binh mã khôi phục đất đai. Ngài bèn chọn ngày dẫn quân tìm đến bái yết. Ông Lý thấy người này văn võ toàn tài, bèn nói:

– Ta cùng ngươi khó phân tài cao thấp, nhưng có được tướng tài không khi nào là muộn cả.

Ngày hôm đó bèn bái Quang Phục là Đại tướng quân, chọn ngày lập đàn cầu đảo trời đất, bách thần, đãi hưởng quân sĩ, rồi chia quân thành các đạo cùng tiến thẳng đến quân Lương. Đánh một trận lớn. Quân Lương thua to. Tiêu Tư chạy về nước Lương. Ông Lý lên ngôi, tự lập là Tiền Lý Nam Đế. Phong Triệu Quang Phục làm Đại tướng quân. Quân thần hợp đức, thiên hạ thái bình. Vạn dân no đủ vui ca. Bốn biển thấy cảnh tượng thái hòa. Nhà Lý làm Đế, họ Triệu làm bề tôi.

Được quãng 8-9 năm, nhà Lương lại cử Tiêu Tư làm tiên phong, Bá Tiên làm Đại tướng, dẫn quân 20 vạn đến đánh để rửa mối hận trước đây. Nam Đế bèn cùng với Quang Phục cự chiến, mấy trận không phân thắng thua. Nam Đế bèn cho Quang Phục dẫn một đại quân trở về giữ huyện Đông An, phủ Khoái Châu. Còn Nam Đế giữ vùng Dã Năng. Quân Lương lại tiến đánh. Nam Đế lại chạy về động Khuất Liêu, bị phát bệnh lam chướng mà mất.

Còn Quang Phục ở huyện Đông An, thấy trong huyện có đầm Nhất Dạ tại đất xã Vĩnh Hưng (tức xã An Vĩnh). Đầm này chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ lác mọc rậm rạp. Bốn bề bùn lầy sình trũng. Bên trong có một chỗ nhỏ có thể ở. Quang Phục bèn lập đồn lớn ở trong đầm.

Ngài lại đi khắp nơi trong huyện (tức huyện Đông An) tìm nơi đất nào có hình thế tiện lợi để lập cung mà ở. Một hôm đi đến xã Bùi Xá tổng Đại Quan, thấy hình rồng rắn bao bọc, núi sông quanh co, bèn lập một ở nơi đó để năm tháng có thể nhàn du thưởng ngoạn.

Việc xong lại đóng đồn quân ở đầm Dạ Trạch, thường cùng tướng Lương là Trần Bá Tiên cự chiến vài chục trận. Quân Lương đều thua. Thường khi dẫn quân đánh quân Lương thì thấy có một lão ông, râu tóc dài khỏe, thân thể kỳ dị, cao hơn 9 thước, cầm một cái dùi sắt, theo khói sương trong đầm mà lên, tiếng như chuông lớn, hình như sắt trắng, đánh quân Lương thua to.

Sự việc xong ông lão lại cùng với Quang Phục đi dạo, nói cười vui vẻ như anh em cùng một bọc đến chơi vậy. Phàm khi Quang Phục có việc bị quân Lương tập kích thì đều đến báo trước thời gian. Nếu Quang Phục gạn hỏi họ tên, duyên cớ thì đều không báo sự thực. Một hôm Quang Phục đi đến cung sở ở xã Bùi Xá. Nhân dân đang làm lễ đón mừng thì bỗng thấy lão ông từ bên ngoài đi đến. Quang Phục bèn mời vào trong ngồi. Lão ông nói rằng:

–   Tôi vốn là thanh khí chốn bèo nước, là dòng dõi một bầu trăm trứng họ Hùng trước đây, cũng là phúc thần của Bùi Xá (xem tích Lạc Long Quân lấy tiên nữ Âu Cơ, sinh hạ một bầu trăm trứng, nở ra điềm trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt đời. Đến khi trưởng thành Vua bèn phong hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ. 50 người con theo cha về biển làm thủy thần. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần). Tôi là Đông Hải Đại vương, là người con thứ 10 trong số 50 người con về biển, họ Hùng tên Chiểu, ở giữ biển Đông nên gọi là Đông Hải Đại vương. Sau lại kiểm giữ đầm Nhất Dạ ở Sơn Nam, làm thần ở Bùi Xá trong đầm Dạ Trạch. Sau này cùng ngài được cùng hưởng trong dân nên mới đến báo tin. Nay là lúc nghiệp làm vương tất sẽ thành. Ngài nên chọn ngày trai giới cầu đảo với Trời. Tất Hoàng thiên sẽ cho Quý Minh Đại vương là Hữu kiên thần của Tản Viên Sơn Thánh, cưỡi rồng đến để cho ngài móng rồng làm đồ quý thiên ban, tất nghiệp vương có thể thành. Còn quân Lương không thể vây được. Nếu được như vậy thì cùng phụng thờ vị Quý Minh Đương Lai, có việc lành dữ như thế nào thì tôi cùng với Quý Minh tất báo cho, lại càng tăng thêm điều tốt. Từ nay, tôi có việc trên thiên đình, không thể cùng nhau gặp mặt như ngày trước.

Nói xong, ông lão bay lên không mà đi. Ngài Quang mới biết đó là thủy thần cùng mình đi dạo, nay đến giảng dạy cho. Bèn gọi nhân dân Bùi Xá đến hỏi. Dân đều nói trước đây quả có phụng thờ Đông Hải Đại vương. Nguyên là vì dân nghèo không thể sửa chữa được đền miếu nên trải qua thời gian đã bị hỏng nặng. Ông Phục nghe lời bèn khấn rằng:

–   Nếu quả đúng như lời, thần xin sửa chữa đền miếu để cùng phụng thờ.

Bèn chọn ngày trai giới, lập đàn dâng lễ cáo tế trời đất, cầu đảo bách thần. Ba ngày đèn hương không dứt. Bỗng thấy trời đất mù mịt, mây gió nổi lên. Có một vị thần tướng cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, đứng trên đàn. Ông Phục đại bái ở trước. Thần tướng mới nói rằng:

– Ta là Quý Minh Đương Lai (Xét xưa cha của ông Quý họ Nguyễn, mẹ họ Tạ, nằm mộng thấy hai con hổ nhập vào, có thai mà sinh một bọc hai con trai. Người anh tên Sùng công, là Cao Sơn Đại vương. Người em tên Hiển công, là Quý Minh Đại vương. Tản Viên Sơn cùng là ba người anh em, là con chú con bác. Sau gọi là Tả hữu lưỡng kiên thần), cho khanh một vật để làm nỏ thần báu vật trời ban. Cho dù có giặc mạnh cũng không phải lo lắng vậy.

Bèn tháo móng rồng mà trao cho ông Phục. Ông làm lễ bái tạ. Quý Minh cưỡi rồng biến mất. Ông Quang Phục rất mừng, bèn lệnh cho chế tạo nỏ thần vuốt rồng, tự lập là Triệu Việt Đại vương, hướng nỏ vào đâu thì quân Lương đều tự khắc dạt ra, không dám đến gần.

Do cảm đức lớn của đức Đông Hải, Quý Minh và từ lời không thể đổi của đức Đông Hải nên Ngài cho trùng tu miếu điện ở xã Bùi Xá, viết thần hiệu hai vị Đông Hải, Quý Minh để phụng thờ (thời cổ người còn thuần phác, theo sự việc thật mà đến, nên có chữ Đương Lai, có lẽ là theo nghĩa thứ hai là đến), để sau này khi ngài trăm tuổi làm nơi hương lửa hưởng thần. Cho phép Bùi Xá dùng tô thuế, phục dịch, mua thêm ruộng công để làm dân thang mộc, cùng phụng thờ hai vị Đông Hải, Quý Minh. Bốn mùa tám tiết hương lửa theo như nghi thức. Người đời sau có thơ rằng:

Sơn thuỷ tòng lai tương biệt thú

Như hà sơn thuỷ đắc đồng nguyên

Giả lệnh tại đương thì giả

Cảm vấn chư công đắc minh.

Dịch nghĩa:

Sông núi theo đi mà chia biệt

Tại sao sông núi lại cùng nguồn?

Nếu là thủ lĩnh đương thời đó

Dám hỏi các ngài rõ không?

Vua từ đó lấy làm đắc chí, mới đi chu du thiên hạ, xem sông hỏi bến, tản bộ núi rừng. Lúc thì thổi sáo đánh đàn, thơ sách đối với trời đất, phượng hát loan ca, thanh sắc Bồng Lai, chủ trương ba lá vượt bồng, năm hồ trăng gió, dấu tiên tại đình thuyền câu, hai gương cảnh tượng xe mây nếp cũ. Nước xanh, núi đẹp đều tụ lại với đất trời. Thánh ở Tây, thần ở Bắc, ra vào chốn phong cảnh trời Nam. Theo dấu tiên ông mà đi khắp quê nhà nước cũ. Núi sông Thần Phù, Yên Tử, Cao Đê, mặt trời hồng, đám mây trắng, gió trăng cuốn Hoa Quật, Long Biên. Trên dưới non xanh nước biếc. Ở ngôi được khoảng 10 năm, thiên hạ thái bình, xem thấy lũ cướp đều lánh xa, bọn giặc đều yên. Không người nào không thỏa lòng sinh. Không vật nào không yên mà không dưỡng. Công thành, trị định. Việc cơ yếu thành hòa hợp, hưng khởi mà trị. Cũng đều do có nỏ rồng trời ban xếp đặt vậy.

Vua từ khi có được báu vật của trời đâm ra thêm kiêu ngạo, lại đam mê yến tiệc, không lo việc quốc chính. Thiên tai báo nguy cũng là điềm báo trước. Thiên mệnh đến mức trọng thì không thể dùng trí lực mà tranh giành được. Người em của Tiền Lý Nam Đế là Lý Phật Tử với con trai tên Nhã Lang có tấm lòng đế vương, kiêm tài văn võ, tích trữ quân lương để khôi phục họ Lý, trí mưu đều lớn, dũng lược hơn người, dẫn quân đến đánh Triệu Việt Vương, mấy trận đều bị thua.

Nhã Lang trong lòng biết vua Triệu có báu vật trời ban, tuy có trí dũng cũng không thể vây được, bèn nói với cha rằng:

–  Thần xem nước Triệu tất có cơ thần, thuật lạ. Nay nếu hết sức mà công đánh tất sẽ hao tướng mất quân, cũng không thể thành công được. Chi bằng hãy dùng mưu mà lấy. Thần sẽ cầu hôn với con gai vua Triệu là Quả Nương, rồi thần vào ở rể làm con tin, tất sẽ biết được thực hư vậy.

Phật Tử đồng ý, bèn mang lễ cống đến giảng hòa với vua Triệu, nói:

–  Xưa Vương cũng là danh thần của Nam Đế ta. Nay Vương có con gái Quả Nương cùng với Nhã Lang đồng tuổi. Dám xin cầu để kết nghĩa Tấn Tần, mà tăng thêm tình thân vậy.

Triệu Vương đồng ý. Khi ấy có các đình thần ra sức can gián, nhưng cuối cùng Vương không nghe, nói:

–  Ta có nghĩa với Tiền Lý Đế, lại có thần nỏ vuốt rồng, ai làm gì được?

Một hôm Vương nằm ở Bùi Xá miếu sở phụng thờ hai vị Đông Hải, Quý Minh, bỗng mơ thấy hai vị đến ban cho Vương một bài thơ. Vương trong mộng mở ra xem, thấy trong có 4 câu thơ:

Nhị thập niên gian tắc du vương

Thiên hạ dĩ định khả tri tường

Nam bang hồi Lý gia Phật tử

Long trảo hoàn quy tại Nhã Lang.

Dịch nghĩa:

Hai mươi năm đó đã xưng Vương

Thiên hạ định rồi, biết rõ ràng

Nước Nam về tay Lý Phật Tử

Móng rồng quay trả ở Nhã Lang.

Khi ấy Vua ở ngôi đã được 20 năm. Một hôm Nhã Lang tráo đổi, lấy trộm vuốt rồng, rồi quay về báo với Phật Tử. Phật Tử bèn dẫn quân đến đánh. Triệu Vương thua chạy. Phật Tử lên ngôi tự lập là Hậu Lý Nam Đế. Nam Đế nghĩ đến chữ nghĩa cha con, quân thần bèn cắt giới từ Thượng Cát, huyện Từ Liêm về phía Tây cho Nhã Lang ở. Từ Thượng Cát về phía Đông Nam Việt ở, gọi là Quân Thần.

Sau khi Vương mất ở nơi yên nghỉ cuối cùng thì nhân dân xã Bùi Xá cảm ơn đức bèn viết thần hiệu mà lập miếu thờ phụng, giữ được hương lửa vạn đại vô cùng. Từ đó về sau trải Đinh, Lê, Lý, Trần bốn họ khai sáng cơ đồ, thường có việc hộ quốc bảo dân nên có nhiều đế vương gia phong mỹ tự để muôn năm cùng an hưởng với nước nhà. Tốt thay!

Xã Bùi Xá phụng thờ.

Tiệc lớn cùng với các chữ húy Đông, Hải, Quý, Minh, Quang, Phục cùng màu đỏ và tía là húy kỵ.

Chính lệ sự thần ngày 1 tháng 5.

Ngày 2 tháng 2 là tiệc lớn mở sắc.

Năm Hồng Phúc thứ nhất ngày tốt tháng giữa xuân, niên hiệu vua Lê Anh Tôn.

Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ nhất ngày tốt đầu xuân niên hiệu vua Lê Ý Tông.

Chánh hội Hoàng Văn Tiệp, Thư ký Lê Văn Chấn, Lý Trưởng Lê Văn Trong ký.

Ngọc phả chép về Triệu Việt Vương Hoàng Đế ở Độc Bộ – Kiên Lao

Dịch từ bản khai thần tích làng Độc Bộ, tổng Thanh Khê, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định và làng Kiên Lao, tổng Kiên Lao, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Ngọc phả chép về Triệu Việt Vương Hoàng Đế (Chi Càn, Bộ thứ nhất, Thượng đẳng thần)

Phụ cùng với Hiếu túc Anh nghị Đại vương và Vĩ tích Hồng hy Đại vương (Chi Cấn, Bộ thứ hai, Trung đẳng thần)

Chính bản của bộ Lễ quốc triều

Xưa đất Việt ta trời Nam mở đất phân ngang núi sông theo sao Dực, sao Chẩn. Nước Bắc được phong thẳng hướng sao Đẩu, sao Ngưu làm chốn chia phân. Từ triều Hùng mở vận hơn hai ngàn năm, Dương Vương nắm quyền đến cuối được 50 năm, Triệu Đà có nước, năm đời làm vua. Từ đó đất Việt ta nội thuộc Tây Hán. Trải qua Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Tề, Lương tổng cộng hơn ba trăm năm.

Đến thời Lương sai Tiêu Tư làm thái thú đất Việt ta. Tư là người tham lam, bạo ngược, xâm chiếm Trung Nguyên, sưu dịch nặng, cướp  bóc nhiều. Dân chúng chịu cảnh khổ cực ưu phiền kéo dài. May mà lòng người ghét loạn, ý trời cho bình an. Khi ấy có người đất Long Hưng, Thái Bình, họ Lý tên Bôn, khởi nghĩa lớn ở châu Thái Bình. Nhưng đang khi đó chưa có được người nào là nam nhi có tài thao lược để kết làm bạn cùng hưng vong. Cho nên gió thần khởi nghĩa còn chưa phát động. Tin thay! Đã có quân tất sẽ có thần. Rồng gầm bên suối không có ý tới mây, mà mây lại vì thế mà kéo đến.

Chính ở đất Việt ta tại huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một người ở địa phương họ Triệu tên Túc, vợ là Lý Thị Đàm. Ông Triệu nhà vốn thường làm việc thiện đức, phát chẩn cứu người nghèo, ba đời hương khói đều là bậc phong lưu lâu dài, có dư giả vậy. Một hôm phu nhân nằm nghỉ ở hiên nhà phía Tây, mơ màng nằm mộng. Bỗng thấy thân cưỡi rồng vàng bay thẳng lên trời. Hoàng thiên ban cho một Tiên đồng. Đến khi trở về tới nửa đường thì gặp một người đầu đội mũ sao, tay cầm quả đào, cưỡi con lân đỏ theo phương Nam mà đến, chỉ phu nhân nói rằng:

  • Gia đình nhà ngươi có được phúc tốt sao, lấy được một tiên đồng về. Ngày sau sẽ giữ nước yên dân, lưu tiếng ngàn năm. Đáng tiếc là phúc này chưa vẹn. Người con này không thành được lâu dài.

Phu nhân nghe lời, bỗng nhiên tỉnh giấc, kể với ông Triệu. Ông rất mừng nói:

  • Phúc của nhà ta chính là điều này.

Từ đó lo chia tài sản tạo phúc, chu cấp cho khách khứa, giúp xây dựng hưng công. Qua khoảng một năm phu nhân quả nhiên có mang. Đến kỳ mãn nguyệt vào năm Giáp Dân mùa xuân ngày mồng 6 tháng Giêng sinh được một người con trai, diện mạo khác thường, quả đúng như hình tiên đồng đã thấy. Ông Triệu rất mừng, cho rằng người con này tất sẽ khôi phục làm rạng rỡ nghiệp nhà, bèn đặt tên là Quang Phục.

Năm thứ hai phu nhân lại sinh được một người con gái, mày chia lá liễu, má rạng hoa đào, đúng là bậc nữ sắc khuynh thành. Ông Triệu bèn đặt tên là Đào nương. Đến khi trưởng thành thường theo anh trai Quang Phục cùng đi học ở chỗ Dương Đường tiên sinh. Học được mấy năm thì Quang Phục đã đọc hết kinh sử, biết rộng chuyện xưa nay. Đào nương thì cầm kỳ thi họa, không gì là không biết, cũng là bậc kỳ lạ trong giới nữ.

Lại nói, khi đó ở xã Kiên Lao, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, đạo Sơn Nam, có một nhà họ Nguyễn tên Bình, cũng là bậc hiểu biết thơ sách, lấy hiếu thảo đối xử trong nhà, nhưng không may gặp cảnh gian truân. Bố mẹ (tức là bố mẹ của ông Nguyễn Bình) mất sớm. Ông bèn gói ghém gia tài, một mình một cảnh đi khắp núi sông. Khi đi đến xã Châu Diên, ông (Nguyễn Bình) thấy nhân dân còn sơ dã, phong tục thuần hậu. Ông bèn dừng ở lại ở nơi quán trọ trong xã, xin ăn ở nhờ mọi người, học đọc sách vở. Được quãng một tháng tầm nhìn cao xa thì có thừa mà bút giấy thì lại thiếu.

Một hôm, ông Triệu (tức ông Triệu Túc) đi dạo chơi, thấy Nguyễn Bình có văn chương ứng đối, hiểu biết sâu rộng. Ông bèn đến hỏi tên tuổi, quê quán. Ông Nguyễn kể lại tình cảnh cô độc, nghèo nàn nơi quán trọ. Ông Triệu liền cho về nhà để nuôi dưỡng, cho cùng với Quang Phục lên lớp cùng học. Từ đó Nguyễn Bình có chỗ để không lo cảnh đói rét, ra sức học tập. Vài tháng sau đã tiến bộ mọi mặt. Ông Triệu thấy vậy thì rất yêu mến, bèn cho lấy Đào nương làm vợ. Thế là ngày lành tháng tốt đã định lễ, duyên lứa đẹp đẽ. Ông Nguyễn dẫn Đào nương cùng trở về quê gốc ở xã Kiên Lao. Sự việc tiếp theo thế nào xin xem đoạn dưới phân giải.

Lại nói, khi Quang Phục khoảng 15 tuổi, đặc biệt đã có chí lớn. Ông (ông Phục) thường nói với các bạn bè rằng:

  • Làm người có mắt mũi râu tóc, được trời cho sinh ra trên đời, phải như các bậc thánh hiền thời xưa trước mà lập nên công nghiệp lớn, không thì lúc ở sa trường phải da ngựa bọc thây sao cho đúng khí tiết của bậc đại trượng phu. Sao có thể yên vui mãi với việc nghiên bút được?

Thế là kết thành một đảng hơn vài trăm người, nuôi hoài chí lớn. Năm đó cả cha mẹ của ông (ông Phục) đều mất. Ông làm lễ chôn cất. Sau ba năm chịu tang xong thì Quang Phục đã vào tuổi 18. Nghe tiếng ông Lý Bôn có đại lược hùng tài, võ ngang văn dọc, thật là có khí tượng lớn của bậc đế vương. Ông bèn đem theo binh thư tìm đến.

Ông Lý thấy người này văn võ kiêm toàn, thông minh hơn người, rất vui mừng nói:

  • Ông Trời đã vì ta mà sinh ra người hiền giúp sức, gặp được đâu đã muộn.

Ngay hôm đó bèn lập đàn bái Quang Phục làm Tả tướng, Phạm Tu làm Hữu tướng, lĩnh binh tiến đánh Tiêu Tư. Tư bỏ thành mà chạy. Ít lâu sau có Lâm Ấp vào cướp bóc, lại dẹp yên được.

Ông Lý lên ngôi Hoàng đế, là Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở thành Long Biên, xếp đặt trăm quan, yên định đô ấp, dựng nước hiệu là Vạn Xuân (ý muốn truyền nước cho tới vạn năm vậy). Thế rồi gia phong cho các công thần, tướng tá thêm các cấp, bèn bái Quang Phục là Tiết chế sứ đạo Sơn Nam. Ông Phục vâng mệnh đến quản lý ở Sơn Nam, lấy nhân nghĩa, lễ nhường nhịn mà giáo huấn cho nhân dân. Qua vài năm ở trong đạo được đầy đủ, ngày nào cũng cẩn thận trung chính. Tiếng vang đến triều, Nam Đế thường có thưởng thêm cho.

Lại nói, ông Nguyễn Bình dẫn Đào nương trở về sống ở quê tại xã Kiên Lao. Ông chuyên tâm lấy việc dạy học làm nghề. Được mấy năm, vợ chồng hòa hợp, cầm sắt sánh duyên. Một ngày, Đào nương nằm mơ thấy hai con gấu thoáng thoáng mờ mờ nhảy múa ở trước sân. Từ đó thấy chuyển dạ mà có mang. Vào năm Giáp Thân mùa xuân ngày mồng 10 tháng 2 sinh được một bọc, nở ra được hai người con trai, đều có dáng vẻ tuấn tú, khí phách hiên ngang, khác xa người thường lắm lắm. Ông Nguyễn rất mừng khi thấy phúc lại thêm phúc, bèn đặt tên người con trưởng là ông Phúc, người con thứ là ông Lộc.

Ngày qua tháng lại đã trải qua 7 năm. Thương thay, người xưa nói không sai, bất hạnh không bao giờ đến một mình. Ông Nguyễn bỗng nhiên bị bệnh mà mất. Đào nương đau thương đến mức quên ăn quên ngủ, phát thành bệnh nặng, thuốc uống không đỡ, cầu thần không nghiệm. Nương rồi cũng mất ở mộ chính. Từ đó anh em ông Phúc tuổi nhỏ đã mồ côi, nghèo túng, thiếu thốn đồ dùng hàng ngày, thường khóc than rằng:

  • Xưa nói con của lương y thì chết vì bệnh tật, mà ngay chúng ta rút cục lại khốn khổ vì bệnh nghèo túng vậy.

Một hôm anh em nghe là có bác ruột (tức ông Quang Phục) đến nhận trị Sơn Nam. Anh em dắt nhau cùng tới nơi phủ đường quỳ bái, xưng họ tên. Quang Phục biết chuyện rất đau lòng, cho hai người ở cùng với mình, dạy cho học văn. Đến năm hai ông (ông Phúc, ông Lộc) lên 10 tuổi, văn chương hiểu rộng, trí có thể cầm đầu đám đông, tinh thông võ bị, tài năng hơn người. Ông Phục rất yêu mến.

Khi Nam Đế ở ngôi được khoảng 7 năm, nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên làm thứ sử đất Việt, Dương Sàn làm Tư mã, cất quân sang xâm lấn phương Nam. Đế cho gọi Quang Phục về triều định kế đánh dẹp. Ông Phục vâng mệnh cùng với hai người cháu (ông Phúc, ông Lộc) quay về triều. Hôm ấy, Đế bái Quang Phục là Đại tướng quân, cùng với Đế đóng đồn quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tới gần. Một sớm nước hồ đột ngột dâng cao, chảy vào giữa hồ. Bá Tiên dẫn quân theo dòng nước tiến vào. Quân Đế thua to, Đế để quyền lại cho Đại tướng Triệu Quang Phục giữ nước. Còn Đế tự mình vào động Khuất Liêu mà mất.

Từ đó Quang Phục dẫn hai vạn quân, lấy đầm Nhất Dạ (Dạ Trạch thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu, là nơi trước đây triều Hùng ông Chử Đồng Tử cùng với công chúa Phương Dung bay lên trời), bèn xưng là Dạ Trạch Vương. Trải qua 4 năm, ông (ông Phục) vì quân Lương không rút nên bèn lập đàn tràng cầu đảo trời đất. Sau thấy có thần nhân cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, tháo móng rồng giao cho, lệnh để ở trên mũ đâu mâu, hướng vào đâu thì giặc đều tan vỡ hết. Khi ấy Bá Tiên trở về nước, giao lại cho tướng Dương Sàn chống cự, cùng với Quang Phục giao chiến một trận. Ông Phục đánh bại hết quân Lương, chém được tướng Dương Sàn. Quân Lương thua to, phải chạy về Bắc.

Ông Phục vào ở trong thành Long Biên, tự xưng là Triệu Việt Vương. Bèn ban cho hai người cháu (ông Phúc, ông Lộc) quan tước. Phong cho ông Phúc là Tả đô đài, ông Lộc là Hữu đô đài. Khi ấy hai ông tự xin được về quê  bái yết gia tiên. Vương đồng ý. Hai ông bái tạ trước Vương, rồi cùng đi xe trở về quê quán xã Kiên Lao. Nhân dân sợ hãi, đều làm lễ bái hạ. Hôm ấy hai ông truyền mổ trâu làm lễ tế gia đường tổ tiên, mở tiệc mừng lớn. Việc xong hai ông ban cho nhân dân mười nén vàng, truyền nhân dân lập một nơi hành cung cạnh dân để làm nơi hai ông đi về có nơi trú ngụ. Nhân dân vâng mệnh xây dựng (cung này ở tại khu vực đất cao trong dân, hình đất có chính cục dựa Quý hướng Đinh, phân châm Bính Tý, Bính Ngọ, bên phải có một dòng suối nhỏ chảy bao xung quanh bên ngoài).

Việc xong hai ông lại quay xe về triều nhận chức. Vua tôi cùng hợp đức, chính sự được cải thiện nâng cao. Không lâu sau, có người con của anh Nam Đế tên Lý Phật Tử (Phật Tử là con của Thiên Bảo. Khi Tiền Lý Nam Đế lánh nạn quân Lương mà mất, anh là Thiên Bảo dẫn đầu chúng đảng vào động Dã Năng ở, xưng là Đào Lang Vương. Đến khi Đào Lang mất, Phật Tử nhận thủ lĩnh quân chúng) từ động Dã Năng dẫn quân đến đánh. Tất cả 5 lần liên tiếp quân Phật Tử đều thua. Vương nghĩ Phật Tử là con cháu của Tiền Lý Nam Đế nên không nỡ tuyệt đường, mới chia nước thành 2 cùng trị, lấy cát giới là bãi Quân Thần. Phật Tử ở nước phía Tây, dời đô về thành Ô Diên. Việt Vương ở nước phía Đông, đóng đô ở thành Vũ Ninh.

Khi ấy Vương có một người con gái tên là Cảo Nương, tuổi độ 16, nhan sắc tuyệt trần. Vương rất yêu quý. Lúc đó Phật Tử lập kế cầu hôn giảng hòa. Vương đồng ý. Ông Phúc, ông Lộc nhiều lần can gián, nhưng Vương không nghe. Thế là Phật Tử sai con trai là Nhã Lang vào trong quân ở rể. Vương rất tin tưởng, gọi Nhã Lang là rể hiền. Từ đó Nhã Lang cùng với Cảo Nương tình cảm tốt đẹp. Một hôm Nhã Lương ngầm dụ Cảo Nương lấy mũ đâu mâu móng rồng mà đen giấu đổi móng rồng đi. Ngày hôm sau Nhã Lang lấy cớ về thăm nhà, báo lại cho cha (Lý Phật Tử), cất quân đến đánh Vương. Vương lấy mũ đâu mâu móng rồng ra cùng giao chiến, không có tác dụng. Vương mới biết là móng rồng đã mất. Bèn lên ngựa chạy dài về đến cửa biển Đại Nha. Khi ấy quân Lý tiến đến rất gấp. Vương biết khó thoát được mới than rằng:

  • Ta đã cùng rồi.

Vương nhảy xuống cửa biển mà hóa (lúc đó là ngày 14 tháng 8).

Ông Phúc, ông Lộc bèn quay về xã Kiên Lao, mổ trâu dê  làm lễ tế Triệu Việt Vương, truyền nhân dân viết thần hiệu là: Triệu Việt Vương Hoàng đế, để phụng thờ. Khi ấy hai ông nói với nhân dân rằng:

  • Chúng ta cùng với nhân dân đã thành nghĩa cũ, không phải ngày một mà quên được. Bởi chúng ta có nơi hành cung để phụng thờ vua ta, ví như chúng ta sau này trăm tuổi, nhân dân hãy tuân theo mệnh chúng ta, chớ có thay đổi.

Khi ấy nhân dân bái tạ nhận mệnh. Hai ông lại truyền binh sĩ cùng nhân dân thiết lập một cung hội đồng ở trong dân, ở trên đó. Lại răn nhân dân rằng:

  • Cứ mỗi năm ngày 10 tháng 2 là ngày sinh nhật hai anh em ta, phải nghi lễ vâng đón tên thần của chúng ta, cùng hai người chúng ta về cung hội đồng, ca hát vui vẻ. Đấy là tất cả việc cho hai anh em ta.

Nhân dân vâng mệnh xây dựng. Việc xong, hai ông ở lại nơi đó, dạy dân cày cấy. Dân được lợi nhiều.

Lại nói từ đó Phật Tử chiếm được nước, chính là Hậu Lý Nam Đế. Khi ấy Nam Đế biết rõ hai ông Phúc Lộc là những anh hùng trùm thế, muốn mời ra giúp việc triều chính. Bèn sai sứ thần về xã Kiên Lao dụ các ông phụ giúp vương thất. Gạ gẫm mấy lần, hai ông không theo. Một hôm hai ông tự nói rằng:

  • Trung thần không thờ hai vua, sao có thể cam chịu nhục mà phụ người được. Kinh Thi rằng: Minh triết (Sáng suốt). Kinh Dịch rằng: Kiến cơ (Xem chính). Không đi tất sẽ như người Kỷ giữ ở chợ vậy.

Dứt lời, hai anh em dẫn vài gia thần đến thẳng Ái Châu, tới xã Nam Trịnh, huyện Yên Định, phủ Thiệu Thiên. Hai ông thấy địa thế có sông núi hữu tình. Nhân xã đó có một ngôi chùa, là một danh lam rất cổ, trải qua năm tháng đã xuống cấp. Hai ông mới nói với người trong làng cho ở tại chùa đó. Người làng đồng ý. Từ đó hai ông đổi tên, một là ông Túc, một là ông Tục.

Hai ông ở lại trong chùa, thành tâm hương khói tiến cúng. Qua vài năm, quyên góp mười phương trùng tu lại chùa. Công đức xong, hai ông lại chu du bốn biển, ngắm thưởng danh sơn, thắng cảnh. Một hôm đi tới núi Tam Điệp, hai ông bỗng nhiên bị cảm phong hàn, cùng một lúc đều mất (lúc đó là ngày 12 tháng 11). Trong một chốc, mối đùn thành gò lớn (tới nay gọi là xứ Gò Đôi). Từ ấy nhân dân qua lại buôn bán có cúng tiến nhiều vàng bạc, cầu đảo có nhiều linh ứng.

Lại nói từ sau khi hai ông đã hóa ở xã Kiên Lao nhân dân đều mắc tật dịch, súc vật ốm chết. Nhân dân làm lễ cầu đảo ở nơi miếu Triệu Việt Vương để xua đuổi tai ương. Tối đó nhân dân đều nằm trong miếu, mơ thấy Triệu Việt Vương ngồi nghiêm trên điện. Trăm quan văn võ ngồi đầy các bên. Lại thấy hai ông đường đường cùng các quân hầu, cờ xí voi ngựa đều như lúc còn sống, tiến thẳng đến trước miếu, bái yết rồi ngồi vào. Nhân dân vô cùng sợ hãi, làm lễ kính bái. Thấy hai ông nói rằng:

  • Chúng ta cùng vâng mệnh trời nắm quyền ở dân, vì dân ta mà là phúc thần. Thế mà nay chúng ta còn chưa có miếu thờ riêng. Vậy có phải là rất vô lễ hay không? Không nhận mệnh của chúng ta thì đừng có lời cầu xin gì nữa.

Lời nói còn chưa hết, nhân dân bỗng nghe một tiếng trống đồng vang lên đập vào trong tai, đột nhiên tỉnh lại, mới biết sự việc này. Tất cả đều sợ hãi. Mới nhớ lại những lời ngày trước hai ông đã dặn, lập tức lập miếu ở bên cạnh đền Triệu Việt Vương, viết thần hiệu của hai vị. Một là Túc công Đại vương, một là Tích công Đại vương, cùng phụng thờ. Từ đó tật dịch đều yên ổn. Người vật đều mạnh khỏe.

Trải tới thời Đường Cao Biền làm An Nam đô hộ. Khi đó có giặc Nam Chiếu khởi binh ở ven biển, quấy nhiễu đất Sơn Nam. Cao Biền dẫn quân đến đánh. Một hôm, thuyền quân theo sông Tiểu Hoàng xuôi tới xã Kiên Lao, huyện Giao Thủy. Lúc ấy mặt trời đã khuất sau núi. Ông (Cao Biền) thấy trên bờ có hai người, thân cưỡi ngựa ô, tay cầm thương vàng, tiến thẳng đến miếu bên bờ sông thì mất bóng. Theo sau thấy sóng đào hung dũng, gió bụi dương oai. Ông lấy làm lạ bèn dừng thuyền lên bờ, gọi nhân dân đến hỏi tên thần. Nhân dân kể lại sự tích. Nghe xong ông liền truyền binh sĩ cùng nhân dân làm lễ tế. Ông thân khấn rằng:

  • Nếu như có linh thiêng xin nhận lễ hưởng của tôi và âm phù cho xã tắc, dẹp giặc yên loạn. Đến sau này khi thanh bình sẽ tặng phong sắc chỉ để tỏ rõ linh thiêng.

Khấn xong, ông nằm ở trong miếu. Đến cuối canh ba nằm mơ thấy hai người đến nhanh bái chào, xưng tên họ, tự xin theo quân diệt giặc. Ông tỉnh lại biết là thần mộng, cho ghi vào sách vàng để xem nghiệm về sau. Sáng ngày lại làm lễ tế ở đền Triệu Việt Vương. Sự việc xong cất quân thẳng tiến, đầu thuyền chiêng trống vang như tiếng sấm sét vạn dăm, trên đường cờ xí hai bên bờ như hình rồng rắn. Quân của Vương như thế có thuận trời, thế mạnh như chẻ tre, oai chấn động như bẻ củi khô gỗ mục.

Đến khi dẹp được Nam Chiếu, ông Biền cho quân khải hoàn, gia phong tướng sĩ. Nhân nhớ lại sự việc ở Kiên Lao, tặng phong sắc chỉ cho Triệu Việt Vương Hoàng đế Thượng đẳng thần, tặng phong Túc công vi Hiếu túc Anh nghị Đại vương, Tích công vi Vĩ tích Hồng hy Đại vương. Cho xã Kiên Lao nghênh đón sắc về dân, tu sửa miếu điện để phụng thờ.

Từ đó về sau cầu mưa cầu gió đều có nhiều linh ứng. Trải bốn họ Đinh, Lê, Lý Trần sáng lập cơ đồ, ba vị Đại vương đều có nhiều công âm phù xã tắc, nên các đời đế vương có gia phong sắc chỉ, hương khói không ngừng.

Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn

Quản giám bách thần lễ điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền y chính bản vâng chép.

Hoàng triều năm Vĩnh Hữu thứ hai ngày tốt giữa thu.