Dấu chân Trâu vàng và tiếng chuông Thiên Đế

Lĩnh Nam chích quái kể rằng, xưa ở núi Tiên Du (Bắc Ninh) có tinh Trâu vàng nửa đêm thường tỏa ra ánh sáng. Có nhà sư lấy tích trượng yểm lên trán Trâu, Trâu vàng bỏ chạy, đến địa phận Văn Giang, qua các xã Như Phượng, Như Loan, Đại Lạn, Đa Ngưu. Trâu lại từ trong bến ra sông Cái, đến Ninh Giang, đi men phủ Lý Nhân, theo ven sông Cái tới sông Tô Lịch, chỗ ấy chính là Tây Hồ. Trên đường Trâu chạy, khắp nơi biến thành khe, ngòi, rãnh, lạch.

Truyền thuyết về Trâu vàng đã đi vào tâm thức bao đời của người Việt, thể hiện trong bao nhiêu địa danh thôn làng, sông hồ, mang chữ Ngưu trong tên gọi. Vậy con Trâu vàng Kim ngưu là gì mà lại linh thiêng vậy?

Chuyện kể về sự tích Hồ Tây rằng vào thời Lý có ông Khổng Lồ đúc một quả chuông lớn, khi đánh lên tiếng chuông vang xa. Con Trâu vàng đang nằm nghe thấy tiếng chuông liền chạy đến. Rồi ông Khổng Lồ ném chiếc chuông xuống Hồ Tây. Con Trâu vàng nhảy theo, ẩn mình trong hồ. “Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”. Ông Khổng Lồ, người đã gõ lên tiếng chuông thức giấc Trâu vàng là ai?

Trâu đá chùa Kim Ngưu ở thôn Cổ Miếu, núi Tiên Du.

1. Núi Tiên Du ở Bắc Ninh là nơi tu hành của Khâu Đà La, là vị tu sĩ Bà Là Môn đã truyền đạo vào nước ta những thế kỷ đầu Công nguyên. Trên núi nay còn có chùa Kim Ngưu tại thôn Cổ Miếu xã Phật Tích, huyện Tiên Du. Quanh chùa còn phát hiện được những bức với tượng linh vật đá từ thời Lý, trong đó có tượng hình Trâu đang quỳ chầu. Ngôi chùa Linh Quang ở cùng xã đó tương truyền là nơi Khâu Đà La tu hành và nay còn thờ ông tại đây. “Nhà sư lấy tích trượng yểm lên trán trâu”ở núi Tiên Du như thế chính là vị tu sĩ Khâu Đà La.

Trên đỉnh núi Tiên Du có những bàn đá lớn gắn với truyền thuyết tiều phu Vương Chất gặp các vị tiên đánh cờ ở núi này. Ngọn núi này cũng là nơi có chùa Phật Tích, với hai hàng linh vật bằng đá thời Lý nổi tiếng. Vị tiên giỏi cờ theo truyền thuyết Việt là Đế Thích, người có kỳ thuật cao siêu và có phép cải tử hoàn sinh như trong truyện “Hồn Trương Ba, xương da hàng thịt”. Đế Thích cũng được biết là hình tượng của vị thần Shiva, một trong những thần chủ quan trọng nhất của Bà La Môn giáo. Do đó, giáo sĩ Khâu Đà La ở núi Phật Tích, người đã truyền đạo Bà La Môn vào miền Bắc Việt thời đầu Công nguyên đã được tôn thờ dưới hình tượng Đế Thích trong văn hóa Việt.

Con Trâu vàng từ núi Phật Tích chạy qua sông Đuống, sang bên kia bờ sông là thành cổ Luy Lâu, trung tâm của Giao Châu thời Bắc thuộc. Nơi đây là nơi có ngôi chùa Dâu cổ kính, gắn với sự tích về Khâu Đà La và Phật Bà Man Nương sinh ra Tứ Pháp Vương Phật. Bên ngoài sân chùa Dâu, dưới chân tháp Hòa phong là một con Cừu đá. Có thể thấy, con Cừu này không gì khác chính là hình tượng của con Trâu vàng đã chạy theo tu sĩ Khâu Đà La từ núi Tiên Du tới.

Phép phiên thiết Nho văn cho ta một bất ngờ lớn. “Kim ngưu” đọc thiết âm là “Cừu”. Tên gọi con “Cừu” thực chất là chỉ con Trâu vàng. Thời đầu Công nguyên, nước ta chưa có loài “cừu” theo cách hiểu như ngày nay sinh sống.

Ban thờ Khâu Đà La ở chùa Linh Quang, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, Bắc Ninh.

2. Từ chùa Dâu, Trâu vàng theo dòng sông Dâu xưa chạy ra vùng đất Văn Giang. Ở Văn Giang nay còn có dòng sông mang tên Kim Ngưu với các di tích liên quan. Bên dòng sông này, tại thôn Cầu Váu của xã Vĩnh Khúc, huyện Văn Giang có đền thờ Đế Thích với tên là Thiên Đế tự. Sự tích ở đây chép rằng Thiên Đế đã giáng trần, cưỡi Bò vàng, bắn cung, diệt trừ quỷ Càn Sát và 15 loại quỷ trừ hại cho dân. Khu vực này tới nay vẫn lưu giữ tục lệ không ai được cưỡi Bò là vì vậy.

Khám thờ trong nội cung của đền Thiên Đế ở Cầu Váu có bức tượng gỗ tạo hình Thiên Đế đang cưỡi trên một chú Bò màu nâu đỏ, rất sinh động. Câu đối ở đền này nhắc lại sự tích trên:

Sáng lòa chớp đỏ ngờ cung ảnh

Mù mịt mây vàng tưởng xe trâu.”

Thiên Đế Đế Thích là hình tượng của thần Shiva nên con vật cưỡi của Thiên Đế là con Bò thần Nandin. Trong Bà La Môn giáo Bò thần Nandin được cho rằng có khả năng truyền ý nghĩ cho thần Shiva. Nó có nhiệm vụ đưa linh hồn người chết qua con sông và dẫn đường cho linh hồn người quá cố lên thiên đường. Con Trâu vàng – Kim ngưu – Cừu chính là con Bò thần Nandin của Khâu Đà La – Thiên Đế – thần Shiva. Đây là dấu vết rất sớm của việc du nhập và truyền đạo Bà La Môn vào nước ta và đã tôn giáo, tín ngưỡng này đã ăn sâu vào văn hóa Việt qua gần 2.000 năm.

Trâu vàng từ Văn Giang chạy sang vùng đất Hưng Yên. Chặng đường của Trâu vàng cũng được đánh dấu bằng những nơi có sự tích về Đế Thích. Đó là ở thôn Liêu Hạ (xã Tân Lập, huyện Mỹ Hào) với chuyện Đế Thích đã giáng trần đánh cờ rồi hoàn hồn tái sinh cho kỳ thủ Trương Ba. Rồi ở xã Cẩm La (huyện Ân Thi) với sự tích Đế Thích trừ yêu quỷ từ thời Hùng Tạo Vương. Vùng này cũng là nơi mà tục thờ Tứ Pháp rất phổ biến, thờ Pháp Vân, Pháp Điện, Pháp Vũ, Pháp Lôi, cùng với Thạch Quang Phật.

Ở Phố Hiến, trung tâm của tỉnh Hưng Yên còn có ngôi chùa Chuông cổ kính. Xưa kia chùa có một quả chuông đồng rất lớn. Tương truyền khi đánh quả chuông ở chùa thì Trâu vàng sẽ chạy đến…

Thiên Đế cưỡi Bò ở điện Cầu Váu, Văn Giang.

3. Trâu vàng tiếp tục đi men phủ Lý Nhân sang đất Hà Nam. Tới đây câu chuyện liên quan tới một vị tướng thời nhà Đường. Sách “Thăng Long cổ tích khảo” chép rằng: “Tương truyền đời Đường, Cao Biền làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ, đi các nơi có núi sông danh thắng của ta để yếm diệt long mạch. Khi Biền đào sông yểm mạch núi Long Đội. Sơn Thần núi ấy biến thành hình con Trâu toả ánh vàng bơi theo sông Đường Giang lên phía Bắc, ẩn ở vùng Hồ Tây thành Đại La.”

Cao Biền là tướng nhà Đường được cử sang dẹp quân Nam Chiếu ở Bắc Việt. Nam Chiếu khi đó là một quốc gia theo đạo Bà La Môn (Hindu giáo) nên đã được hình tượng hóa bằng hình ảnh Trâu vàng – Kim Ngưu. Khu vực Đọi Sơn có lẽ từng là một căn cứ quan trọng của Nam Chiếu. Cao Biền dẫn quân đổ bộ bằng đường biển từ vùng Thái Bình – Nam Định tiến đánh Nam Chiếu, trước hết là đánh vùng Lý Nhân Hà Nam này, sau đó mới tiến chiếm thành Đại La.

Bài thơ trong Lĩnh Nam chích quái nói về việc này:

Trâu vàng còn ẩn mãi trong hồ

Dấu vết khó tìm dẫu nước khô

Đại Việt Nam yên nhờ thánh chúa

Cao Biền hạ bút hận không bờ.”

Lại nói về ông Khổng Lồ thời Lý đúc chuông, được biết là vị Lý triều quốc sư Nguyễn Minh Không, với tên hiệu là Không Lộ thiền sư. Thần tích về thánh Nguyễn Minh Không cho biết, mẹ của ông là bà họ Dương đi cầu tự, đã nằm mộng gặp được Thái Thượng Lão Quân. Lão Quân chỉ cho bà Dương nuốt một con Bò vàng (“Hoàng ngưu”) để có được đứa con Phật (“Phật tử”). Từ đó bà có mang, sinh ra thánh Không Lộ.

Như vậy ông Khổng Lồ đánh chuông là một kiếp giáng sinh của Thiên Đế Đế Thích qua điềm mộng Bò thần vào thời Lý. Bài minh trên chiếc chuông ở đền Thiên Đế tại Cầu Váu viết, khi chuông đánh lên thì “Phật văn lâm giáng, quỷ kiến diệt vong” (Phật nghe mà giáng tới, Quỷ thấy sẽ diệt vong).

Tiếng chuông của Thiên Đế là tiếng chuông hoằng dương đạo pháp, xua trừ tà quỷ, tích thiện gặp lành, truyền khắp nước Nam, theo dấu chân dẫn đường của con Trâu vàng – Kim ngưu. Xuất phát từ núi Tiên Du ở Bắc Ninh, Trâu vàng mang theo đạo Bà La Môn giáo của Thiên Đế Khâu Đà La đã lan sang các vùng Hưng Yên, Hà Nam, rồi quay về Hà Nội mà ẩn trong lòng Hồ Tây. Tín ngưỡng thờ “Trời” (Thiên Đế) đã ẩn sâu dấu dưới những lớp văn hóa khác trong tâm thức người Việt. Chỉ cần thỉnh lên tiếng chuông của Trời Phật thì con Trâu vàng, tinh thần của đạo, sẽ lại hiển hiện trên nhân gian.

Bài đăng trên báo Lao động cuối tuần.

Bài ký trên bia Vạn cổ ở đình thôn Thượng, xã Dương Hà, Gia Lâm, Hà Nội

IMG_1513

BIA GHI MUÔN ĐỜI

Bài minh chung trên bia về sáng lập việc phụng thờ.
Thôn Thượng xã Dương Hạ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, các quan viên là Ngô Tiến Lộc, Phạm Kỳ Mưu, Lâm Viết Quý, Nguyễn Tiến Tài cùng cả thôn trên dưới lớn nhỏ kính cẩn dựng bia đình muôn đời.
Tạo bia ra để làm gì? Muốn để sự sáng truyền đến các đời, sẽ được sừng sững như núi Hằng núi Tung, nên mới lập bia. Nhìn tới thôn ta, là thôn ở một bên của đất đẹp Đông Ngàn, vùng Kinh Bắc nổi danh. Trời mở mái ngọc, đất tạo bãi vàng, bốn bề bằng phẳng, một cõi phì nhiêu. Sông Thiên Đức trong xanh, một dải ôm lấy vùng đất. Cây cối xanh tốt sum suê. Lại có một chỗ vừa cao vừa bằng, trên đó có ngôi đình cổ. Đình thờ Đao Lợi Thiên Vương, ngự ở trên mây. Tích trước có trong sách điển các chư Phật Thích và trong hình vẽ Hoa Tạng.
Thiên Vương là chủ tể của cõi trời 33, quyền trên muôn ngàn vạn thánh, từ bao nhiêu kiếp tới nay. Thôn ta thật may mắn có thắng cảnh nên được hương lửa phụng thờ thần đó, tôn kính không gì so được, danh tiếng to lớn không ai bằng. Cho nên bản tổng khi cầu phúc, trừ tai, cầu mưa không được, thường cùng các thành hoàng thôn xã cung đón tới nơi, xin được phù hộ mà quyết việc, mới tỏ sự thánh như trời đất. Đại vương được cả bản tổng cầu thỉnh, kính nghênh như lễ, oai chấn một phương, danh rạng điển thờ từ xưa tới nay, đem may đuổi họa, hiển ứng trùng trùng.
Một lần không rõ nguyên do tại sao, người và vật trong thôn không được yên ổn. Nên những người trong hội phụ trách phụng thờ làm lễ tế cầu. Khi đó bỗng trong thôn tự nhiên có một vị trượng phu, dung nhan cổ lạ, lời nói phi phàm, nói rằng:
–   Ta ở một bên trên thôn của các ngươi, ngự trên tầng mây che đó. Nay xem các người đều không biết đến điều đó, lễ nghi lại quá sơ sài.
Tất cả già trẻ trong thôn đều cùng bái tạ mà cầu xin sự thương xót rằng:
– Chúng con dân nghèo đất hẹp, lỡ mắc cúng tế sơ sài. Muôn điều xin được xá tội ngu ngốc đó, chuyển điều dị thành điều lành.
Liền nghe lời trên phán rằng:
– Vậy chốn đình làng là nơi Ta tạm dừng xe mây, riêng một thế giới, từ xưa chật hẹp. Ta muốn có một nơi nhìn được bao quát, quanh năm tùy ý điều khiển, sinh khí đầy đặn, trở thành một dải phì nhiêu. Trước có loài cây Vải, nay đang cằn cỗi. Các ngươi hãy nhân đó lấy giống mà trồng rộng rãi. Khi tế tự thì lấy mà biện lễ, tất sẽ được sung túc.
Phán dứt, liền theo khói một nén hương mà bay lên.
Toàn dân đều cùng quỳ chầu trời lễ bái. Nhân đó cẩn thận làm đúng theo lời phán. Người người mắt nhìn, miệng theo, bảo nhau cố gắng lấy những cây cũ mà trồng thêm ra.
Quả nhiên, tăng cùng ngày tháng, lớn với thời năm, vẻ đẹp phủ kín vườn tược bát ngát. Vẻ hồng khoe như sự lạ chốn vườn lãng uyển. Người người từ đó được hưởng thời yên bình. Việc tế tự do đó mà đầy đủ. Cầu thần thần ứng, cầu phúc phúc đến. Trên có thể làm dài mạch nước. Dưới có thể dân sống yên lành. Đến chục năm từ đó đều lấy quả vải để làm lễ phụng sự thần vạn năm.  Nhân đó mà làm văn khế, khắc vào tấm đá, gói ý lớn này thành bài minh rằng:
Bên cạnh thôn ta
Một bãi đất phẳng
Cây cối tốt tươi
Xanh dòng Thiên Đức
Giữa khu gò cao
Là đình Thiên Vương
Tuân theo lời phán
Làm để giúp dân
Giúp dân thế nào?
Trồng nhiều cây vải
Gốc nó rậm rạp
Lá xanh mơn mởn
Quả ngọt vị lồng
Sắc hồng phấn mịn
Để dâng cúng thần
Lòng thần cảm động
Dân muốn cầu phúc
Phúc đến muôn nơi
Trên dài mạch nước
Dưới nền phúc tràn
Muốn truyền mãi mãi
Bèn lập minh bia.

IMG_1275

Thời gian:
Hoàng triều Cảnh Trị vạn vạn năm, năm thứ 5 Bính Ngọ, giữa mùa thu, ngày lành.
Quan viên Ngô Tiến Vinh, Nguyễn Văn Sâm, Đào Văn Hán cùng ký.
Nguyễn Trí, Thạch Văn Khoa, Nguyễn Hưng Tường, Lâm Đắc Lộc ký.
Hương lão Phạm Tuấn Ngạn, Nguyễn Tiến Phú, Ngô Văn Quảng ký
Lâm Duy Quyên, Đào Văn Chính, Thạch Công Ngạn ký
Xã thôn trưởng Thạch Công Tín, Lê Văn Hoa, Nguyễn Kỳ, Phạm Văn Liên, Ngô Hữu Thành, Võ Trí Hữu bàn ký.
Đào Đình Luận, Lâm Viết Thọ, Nguyễn Văn Châu ký.
Người già thọ, người có uy tín trong các giáp, toàn thôn trên dưới lớn bé cùng nhau ký.
Quốc Tử Giám giám sinh Phạm Kỳ Mưu, tên hiệu Đình Chất, vâng soạn
Thần là tướng phụ trách trong xá, chức lại Ngô Hữu Thanh vâng truyền.

IMG_1327

 

Nhận diện tín ngưỡng thờ Tứ Pháp

Tứ Pháp là Vân Vũ Lôi Điện, hay 4 Bà Dâu Dàn Tướng Đậu, tín ngưỡng phổ biến ở vùng Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội, là các vị thần phụ trách việc làm mưa. Chữ “Bà” ở đây theo ngôn ngữ phương Nam nghĩa là Thần hay thủ lĩnh tinh thần. Do đó 4 Bà trong tín ngưỡng Tứ Pháp tương đương với Tứ đại Thiên vương, trong văn hóa Trung Hoa cũng là những vị thần cai quản Phong Điều Vũ Thuận.

Tứ đại Thiên vương ở chùa Láng, Hà Nội.

Trong đạo Bà La Môn, Tứ đại Thiên Vương hộ trì ở 4 châu quanh núi Tu Di, nơi có cõi trời 33 của Đế Thích nên có sự sắp xếp sau:
Trung tâm: Núi Tu Di với Vua Trời Đế Thích. Trong chuyện Tứ Pháp là Thạch Quang Phật, phần cốt lõi của cây Dung thụ, nơi Khâu Đà La đã gửi đứa con của Man Nương. Tên chùa thờ là Kim Ngưu.

Tây phương: Tây Ngưu Hóa Châu do Quảng Mục Thiên Vương chủ trì. Trong văn hóa Trung Hoa tên là Thuận, với hình tượng là Rồng. Trong Tứ Pháp là Vân. Rồng đi với Mây. Tên chùa thờ là Diên Ứng (Dâu).
Đông phương: Đông Thắng Thần Châu do Trì Quốc Thiên Vương chủ trì. Trong văn hóa Trung Hoa tên là Điều, hình tượng là Đàn tỳ bà. Trong Tứ Pháp là Lôi. Đàn đánh ra tiếng Sấm. Tên chùa thờ là Phi Tướng (Tướng).
Nam phương: Nam Thiện Bộ Châu do Tăng Trưởng Thiên Vương chủ trì. Trong văn hóa Trung Hoa tên là Phong, hình tượng là cây Kiếm. Trong Tứ Pháp là Điện. Kiếm nhọn (phong) tạo ra Sét. Tên chùa thờ là Trí Quả (Dàn).
Bắc phương: Bắc Câu Lô Châu do Đa Văn Thiên Vương chủ trì. Trong văn hóa Trung Hoa tên là , cầm Ô. Trong Tứ Pháp cũng là . Ô để làm Mưa. Tên chùa thờ là Thành Đạo (Đậu).
Diễn ý tên chùa: Bà Pháp Vân là khởi đầu nên thường được rước để cầu mưa, nên mới là Diên Ứng (ứng nghiệm lâu dài). Bà Pháp Vũ là kết quả mong đợi để được mưa nên gọi là Thành Đạo (Đậu). Bà Pháp Lôi là tiếng đàn, tiếng sấm, là để cổ vũ, nghe mà không thấy nên gọi là Phi Tướng. Bà Pháp Điện thể hiện ánh sáng, trí tuệ nên là Trí Quả.
Nhìn (Quảng Mục), Nghe (Phi Tướng), Làm (Tăng Trưởng) rồi mới Thành (Đậu) ra mưa. Thứ tự là: Vân -> Lôi -> Điện -> Vũ.
Tu Phap - Thien Vuong
Mô hình Tứ Pháp – Thiên Vương.
Ở khu vực Bắc Ninh, còn có vị Trưởng của Tứ Pháp là Đại Thánh Pháp Thông, ở chùa Huệ Trạch (Dàn Chợ). Thần tích ở đây chép, vị này hiển linh nói:
Ta là Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật, Ngọc Hoàng sai ta coi giữ tứ Pháp trưởng, Phong Vũ chi Thần, làm chủ tể địa phương này.
Ở lễ hội vùng này khi rước kiệu Tứ Pháp đến chùa Dàn (thờ Pháp Lôi) thì kệu không dừng, phải rước đến Dàn Chợ, nơi có Pháp Thông thì mới được.
Kỳ lạ hơn, Pháp Thông lại không phải từ gốc cây “dung thụ” mà ra. Đây là một Nương Tử 18 tuổi ở vào thời Lý, học trò của Từ Đạo Hạnh:
Đến năm 14 tuổi … Nương Tử không nghe từ đó phát tóc xuất gia, trai giới ăn theo Phật. Một ngày nghe tin ở chùa Phật Tích có một vị thiền sư tên là Từ Đạo Hạnh rất là cao tăng đạo đức. Nương Tử xin vào học đạo thiền sư. Nương Tử vốn đã biết trước tất cả những kinh nhà Phật, lên chỉ học trong vài tháng, đã đại tinh thông những tài lạ. Gọi gió, gọi mưa, có phép hay làm, sấm, chớp, biến tướng tàng hình, đi và đến mọi người không thể biết. Thật là một người Nương Tử siêu việt. Đạo sỹ, thiền sư rất yêu mếm kính trọng, cho nên Nương tử tự đặt tên là Pháp Thông.
Tại sao học trò của Từ Đạo Hạnh lại là Pháp trưởng trong Tứ Pháp?
Điều này sẽ trở nên dễ hiểu nếu biết Từ Đạo Hạnh là một kiếp thân của Đế chủ cõi trời 33, tức là Vua Trời Đế Thích. Còn Tứ Pháp là 4 vị Bà (trong ngôn ngữ phương Nam, Bà chỉ các vị Thần, không phải là nữ), hay Tứ đại Thiên vương, dưới trướng của Đế Thích. Do đó đệ tử của Đế Thích thay mặt thầy làm trưởng Tứ Pháp là hợp lẽ.
IMG_5756
Hoành phi Hiện Đế hóa Thần ở chùa Láng.
Câu đối ở tiền tế chùa Láng nơi thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh:
西方活佛丹青玉殿儼卅三天帝
柴峒神機妙應蓮花顯十八聖王
Tây phương hoạt Phật đan thanh, ngọc điện nghiễm táp tam thiên đế
Sài động thần cơ diệu ứng, liên hoa hiển thập bát thánh vương.
Dịch:
Phương Tây Phật sống sáng ngời, điện ngọc trang nghiêm, cõi trời ba ba đế chủ
Động Sài cơ thần ứng diệu, hoa sen rực rỡ, bậc vua họ Lý thánh vương.

Các câu đối về Thiên Đế

Toàn bộ các câu đối trong ghi chép ở đền Cầu Váu (Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên), nơi thờ Vua Trời Đế Thích.

IMG_4923

Câu 1

休言巨小諸神,上帝獨尊無與對
勿論邇遐萬姓,下天一等赤欽崇
Hưu ngôn cự tiểu chư thần, Thượng Đế độc tôn vô dữ đối
Vật luận nhĩ hà vạn tính, hạ thiên nhất đẳng xích khâm sùng.
Dịch:
Thôi lời các thần nhỏ to, Thượng Đế độc tôn không ai sánh
Chớ kể vạn họ gần xa, dưới trời đều một dạ kính sùng.

Câu 2

祿是總災是除,封域順成*永保
樂主和禮主敬,古今上下同由
*豐年也
Lộc thị tổng tai thị trừ, phong vực thuận thành* vĩnh bảo
Nhạc chủ hoà lễ chủ kính, cổ kim thượng hạ đồng do.
* phong niên dã
Dịch:
Lộc thì cộng, nạn thì trừ, bờ cõi thuận bền giữ mãi
Nhạc để êm, lễ để kính, xưa nay trên dưới đều theo.

Câu 3

福降自天,上下四民永保
禮虔享帝,同由一念順安
Phúc giáng tự thiên, thượng hạ tứ dân vĩnh bảo
Lễ kiền hưởng đế, đồng do nhất niệm thuận an.
Dịch:
Phúc ban từ Trời, trên dưới tứ dân gìn giữ mãi
Lễ thành cúng Vua, đồng tâm cùng niệm sự yên bình.

Câu 4

默化神機,十二仙娥安眼
包藏妙用,三千世界一壺
Mặc hoá thần cơ, thập nhị tiên nga an nhãn
Bao tàng diệu dụng, tam thiên thế giới nhất hồ.
Dịch:
Ngầm hóa cơ thần, mười hai tiên nga lành mắt
Dấu kín dùng hay, ba ngàn thế giới chung bầu.

Câu 5

人欲壽者求,得門而入
帝至尊無對,過廟則趍
Nhân dục thọ giả cầu, đắc môn nhi nhập
Đế chí tôn vô đối, quá miếu tắc tri.
Dịch:
Đế chí tôn không ai bì, miếu xưa tất đông đúc
Người muốn sống lâu nên khấn, đến nơi cửa mà vào.

Câu 6

勝會衣冠,燦爾天河斗列
高楼鼓吹,恍然雲洞樂喧
Thắng hội y quan, xán nhĩ thiên hà đẩu liệt
Cao lâu cổ xúy, hoảng nhiên vân động nhạc huyên.
Dịch:
Hội đẹp áo mũ, sáng thế Thiên Hà sao đẩu
Lầu cao cổ súy, bỗng nhiên nhạc nổi động mây.

Câu 7

上帝降衷,仁義禮智
下民遂欲,富貴壽康
Thượng đế giáng trung, nhân nghĩa lễ trí
Hạ dân toại dục, phú quý thọ khang.
Dịch:
Thượng đế ban lành Nhân Nghĩa Lễ Trí
Hạ dân toại nguyện Phú Quý Thọ Khang.

Câu 8

同然福集堂基永孚休慶
油爾雲浮幢盖保合泰和
Đồng nhiên phúc tập đường cơ vĩnh phu hưu khánh
Du nhĩ vân phù tràng cái bảo hợp thái hòa.
Dịch:
Cùng là góp phúc ở nếp nhà, niềm tin tốt mãi
Ùn ùn mây nổi như lọng che, yên hòa giữ gìn.

Câu 9

維岳降神經有見
自天顯聖外無聞
Duy nhạc giáng thần kinh hữu kiến
Tự thiên hiển thánh ngoại vô văn.
Dịch:
Từ núi thần giáng, từng đã thấy
Từ trời thánh hiện, khác chưa nghe.

IMG_5073

Câu 10

億年顯跡金牛上
萬古靈祠義冑西
Ức niên hiển tích Kim Ngưu thượng
Vạn cổ linh từ Nghĩa Trụ Tây.
Dịch:
Muôn năm tích rạng bờ Kim Ngưu
Vạn đại đền thiêng Tây Nghĩa Trụ.

Câu 11

滅鬼一弓方顯聖
出人半局始知天
Diệt quỷ nhất cung phương hiển thánh
Xuất nhân bán cục thủy tri thiên.
Dịch:
Trừ quỷ một cung nơi hiển Thánh
Xuất trần nửa cuộc mới biết Trời.

Câu 12

三級璦臺䀡起敬
兩擎砥柱仰弥高
Tam cấp ái đài chiêm khởi kính
Lưỡng kình để trụ ngưỡng di cao.
Dịch:
Ngọc đài ba bậc xem mà kính
Hai bên cột trụ ngưỡng càng cao.

Câu 13

色空理悟曇而聖
生化機玄帝又天
Sắc không lý ngộ Đàm nhi Thánh
Sinh hóa cơ huyền Đế hựu Thiên.
Dịch:
Biết lẽ sắc không, Phật mà Thánh
Diệu kỳ sinh hóa, Đế cũng Trời.

Câu 14

耕𨯳群方歌日出
管絃萬户詠風薫
Canh tạc quần phương ca nhật xuất
Quản huyền vạn hộ vịnh phong huân.
Dịch:
Cấy cày các chỗ ca ngày mới
Đàn sáo bao người ngợi gió thơm.*
*夏節 Hạ tiết

Câu 15

碁局收餘𪽋勝著
寶香焚處現真身
Kỳ cục thu dư lưu thắng trước
Bảo hương phần xứ hiện chân thân.
Dịch:
Cuộc cờ sắp hết còn nước thắng
Hương quý đốt lên hiện thân tiên.

Câu 16

慧日凝祥張氏墅
慈雲普蔭下亭*花
*遼下亭
Tuệ nhật ngưng tường Trương thị thự
Từ vân phổ ấm Hạ đình* hoa.
* Liêu Hạ đình
Dịch:
Chở che mây ái hoa đình Hạ*
Ngày sáng đẹp lành nhà họ Trương.
* Đình Liêu Hạ

Câu 17

真香閃爍慈雲現
碁局圓神慧日高
Chân hương thiểm thước từ vân hiện
Kỳ cục viên thần tuệ nhật cao.
Dịch:
Cờ thế vẹn tinh cao lúc trí
Hương tiên lấp lánh hiện mây lành.

Câu 18

金峯勝地鍾靈氣
上界仙宮現法身
Kim phong thắng địa chung linh khí
Thượng giới tiên cung hiện pháp thân.
Dịch:
Cõi trên cung thánh ngời thân phép
Non giữa đất lành đúc khí thiêng.

Câu 19

錫類人褱多范子
侯棋世界少張公
Tích loại nhân hoài đa Phạm tử
Hầu kỳ thế giới thiểu Trương công.
Dịch:
Góp lành người mong nhiều Phạm tử
Tướng cờ thế giới hiếm Trương công.

IMG_4977

Câu 20

改命機神仙跡古
好生德洽歲花新
Cải mệnh cơ thần tiên tích cổ
Hảo sinh đức hợp tuế hoa tân.
Dịch:
Thần kỳ thay mệnh xưa tiên tích
Đức rộng hiếu sinh tuổi mới thêm.

Câu 21

藜杖儘空三界鬼
檀香普濟萬家春
Lê trượng tẫn không tam giới quỷ
Đàn hương phổ tế vạn gia xuân.
Dịch:
Gậy cỏ sạch không ba giới quỷ
Hương đàn giúp khắp vạn nhà xuân.

Câu 22

除妖先及吞山𩴳
佑德無穷献果張
Trừ yêu tiên cập thôn sơn Sát
Hữu đức vô cùng hiến quả Trương.
Dịch:
Không cùng ơn giúp Trương dâng quả
Trước kịp trừ yêu Quỷ nuốt non.

Câu 23

慈雲普蔭天三界
慧日輝煌智六通
Từ vân phổ ấm thiên tam giới
Tuệ nhật huy hoàng trí lục thông.
Dịch:
Mây từ ấm khắp ba ngàn giới
Ngày tuệ rạng ngời sáu trí thông.

Câu 24

𩴳讋天威寧論魃
仙蒙惠德況扵生
Sát triệp thiên uy ninh luận bạt
Tiên mông huệ đức huống ư sinh.
Dịch:
Sát sợ oai Trời không gây hạn
Tiên trùm ơn huệ lại thêm sinh.

Câu 25

扇火紅光千怪滅
真香馥郁萬祥生
Phiến hỏa hồng quang thiên quái diệt
Chân hương phúc úc vạn tường sinh.
Dịch:
Quạt lửa ánh hồng ngàn quái diệt
Hương thần tỏa khắp vạn dân lành.

Câu 26

添龄無数今張子
驅害曽刊古弄林
Thiêm linh vô sổ kim Trương tử
Khu hại tằng san Cổ Lộng Lâm.
Dịch:
Thêm vô số tuổi đây Trương tử
Đuổi họa chất chồng Cổ Lộng Lâm.

Câu 27

恩霑法雨三千界
喜倍天僊十二娥
Ân triêm pháp vũ tam thiên giới
Hỉ bội thiên tiên thập nhị nàng.
Dịch:
Ơn thấm ba ngàn giới mưa phép
Mừng thêm mười hai nàng tiên trời.

Câu 28

鏡朗照肝洪造鑄
香薰改命朶雲慈
Kính lãng chiếu can hồng tạo chú
Hương huân cải mệnh đóa vân từ.
Dịch:
Kính sáng chiếu tâm nên vận lớn
Hương thơm thay mạng đám mây lành.

Câu 29

仙升佛降今如見
國擣民祈古以來
Tiên thăng Phật giáng kim như kiến
Quốc đảo dân kỳ cổ dĩ lai.
Dịch:
Tiên lên Phật xuống nay như thấy
Nước cúng dân cầu xưa tới giờ.

IMG_5088

Câu 30

光芒赤電疑弓影
靉靆黃雲想犢車
Quang mang xích điện nghi cung ảnh
Ái đãi hoàng vân tưởng độc xa.
Dịch:
Sáng lòa chớp đỏ ngờ cung ảnh
Mù mịt mây vàng ngỡ xe trâu.

Câu 31

紫極常居雨露申休潭地軸
青雲可躡鈞韶傾耳到天門
Tử cực thường cư, vũ lộ thân hưu đàm địa trục
Thanh vân khả nhiếp, quân thiều khuynh nhĩ đáo thiên môn.
Dịch:
Thường ở cực tía, mưa móc ơn thần thấm khắp đất
Thể cưỡi mây xanh, nhạc thánh lắng nghe tận cửa trời.

Câu 32

曲奏霓裳天上月
人皆絃管陸中仙
Khúc tấu nghê thường Thiên thượng Nguyệt
Nhân giai huyền quản Lục trung Tiên.
Dịch:
Đàn hát cùng người Tiên tại đất
Nghê thường tấu khúc trăng trên trời.

Câu 33

江村絃管多春色
帝座鈞天響廟廷
Giang thôn huyền quản đa xuân sắc
Đế tọa quân thiên hưởng miếu đình.
Dịch:
Thôn xóm sáo đàn khen xuân sắc
Ngôi Đế ngang Trời vọng miếu đình.

Câu 34

告舍人曰吾入相
自天子所我出車
Cốc xá nhân viết ngô nhập tướng
Tự thiên tử sở ngã xuất xa.
Dịch:
Người xã Cốc rằng: Tôi nhập tướng
Thánh từ Trời nói: Ta ra xe.

Câu 35

高棋伯仲張公智
誨奕叨承*上帝仁
*滥也添也
Cao kỳ bá trọng Trương Công trí
Hối dịch thao thừa* Thượng Đế nhân.
* lạm dã thiêm dã
Dịch:
Phép răn nhiều ít lòng Thượng Đế
Cờ cao lớn nhỏ trí Trương Công.

Câu 36

士樂觀光為相為將
象徵大順出馬出車
Sĩ lạc quan quang vi tương vi tướng
Tượng trưng đại thuận xuất mã xuất xa.
Dịch:
Sĩ vui thoáng chỗ vì Tướng vì Vua
Voi bày thế thuận ra Ngựa ra Xe.

Câu 37

世無乾𩴳弓常静
人並張公命可囬
Thế vô Càn Sát cung thường tĩnh
Nhân tận Trương Công mệnh khả hồi.
Dịch:
Đời không Càn Sát cung thường tĩnh
Người đến Trương Công mệnh còn hồi.

Câu 38

亮工德仰金峯峻
福善心如鏡水平
Lượng công đức ngưỡng kim phong tuấn
Phúc thiện tâm như kính thủy bình.
Dịch:
Việc chính đức trông cao ngọn núi
Điều phúc tâm như mặt nước gương.

Câu 39

陟降在帝左右
威福承天聪明
Trắc giáng tại đế tả hữu
Uy phúc thừa thiên thông minh.
Dịch:
Lên xuống bên Vua trái phải
Oai phúc theo Trời sáng trong.

IMG_5090

Bài ký bia đền linh xã Liêu Hạ

IMG_5037

 Cử nhân Bách Sơn Khương Văn Định xã Vĩnh An bái soạn.

Vào năm Long Thụy thứ hai triều Lý có ông Trương Ba là người xã Liêu Hạ, ba đời tu thiện, tính thích uống rượu và chơi cờ rất giỏi, khắp nước không ai thắng nổi. Từ nước Bắc tới có ông Kỵ Như, cũng là một người chơi cờ rất giỏi. Ông Trương vui mừng, tiếp đón kết giao tình, cùng dẫn về nhà, thỏa chí thích tài. Hai ông hiểu rõ huyền cơ của Tạo hóa (Sách báu ở Trì La có Vua Trời nói rằng cờ là sự biến hóa của huyền cơ), lấy sự vui mừng mà bằng lòng. Bảy năm hai ông kết bạn kim lan. Một hôm, ông Trương nói với ông Kỵ Như rằng:
– Chúng ta chơi cờ cao như vậy, ở Hạ giới không ai là đối thủ. Trộm nghe Vua Trời là danh cờ của Thượng giới. Tôi định muốn được lên đường mây, gõ cửa trời, bái cung Vua, nguyện hầu chuyện cùng cho tỏ tường cái duyên tiên đời trước, cho tận cái hào khí thủa nay vậy.
Sau đó mấy hôm, hai ông đang ngồi chơi cờ thì thấy có một ông già thân gầy như cây mai, râu trắng như tuyết, đội nón lá, quần áo thủng lỗ chỗ, hình dung rất kỳ dị, bẩn thỉu. Ông già chống gậy đến thẳng trước nhà, nói:
– Tôi mới về làng, đường xa hiểm trở, xem hai ông đấu cờ, tôi cũng rất hứng thú, muốn được thử một ván.
Kỳ Như mới nhường chiếu để ông già và Trương Ba đấu cờ. Mới được vài nước ông già đã thắng rõ. Ông Trương mới chắp tay mà nói rằng:
– Lão Tiên từ đâu đến đây? Phép cờ tối cao. Xin được biết tính danh, nguyện cầu thầy dạy cho.
Ông già chậm rãi nói:
– Nhà ta chính ở cung trời 33 trên Thượng giới (tức là Đế Thích, tính danh này chỉ có người biết mới hiểu).
Ông Trương và Kỵ Như nghe vậy thất kinh, trong lòng biết là Vua Trời Thượng giới xuống đấu cờ, quả đúng như nguyện ước. Hai ông bẻ mía ngọt, chuối xanh ở trong vườn về dâng lên, dập đầu lạy 5 lạy. Vua Trời lấy từ trong tay áo ra bó hương có ba nén là trầm hương, giáng hương và chân hương tặng cho hai ông mà nói:
– Lúc khác mà gặp nạn thì đốt ngay hương này lên, ta sẽ đến cứu giúp.
Dứt lời không thấy đâu nữa. Hai ông lạy tạ, rồi lấy hương quý cất đi.
Sau này hai ông ốm mất, người nhà mới nhớ đến việc hương thần, liền đem đốt lên. Vua Trời cưỡi mây hạ xuống, gọi Tam phủ công đồng đến tìm hồn hai ông về hồi sinh trên cõi dương. Chữa thuốc không đến một khuê (là thuốc tiên). Lại sửa sổ đen của Nam Tào (người khi sinh thì ghi sổ hồng, khi chết thì ghi sổ đen để tính toán), tăng thêm tuổi hạc thành tiên ông Đông Hải.
Hai ông cảm ơn tái tạo của Vua Trời (trăm ngày đếm một), dựng nên điện thờ ở xã Liêu Hạ theo phương Càn, cùng với xã Liêu Hạ phụng thờ Vua Trời và Tam phủ. Cầu đảo linh ứng như lời. Vạn thế truyền vang tiếng lạ.

IMG_0403Một góc bia Đế Thích điện ở Liêu Hạ.

Sự tích thờ phụng Đế Thích

Tích xưa phụng sự

Xã Cầu Bảo huyện Văn Giang phụng sự

Thiên Đế ngự ba ngàn thế giới, là Đại Phạm Thiên vương, Thiên chủ Trung tôn cai quản lục dục. Đế Thích là uy cảm của Linh Hữu Bột Hải Hoàng hậu, vua nước Thiền Tiên. Sự tích này của Ngọc bê hạ xưa có văn bia, tới nay mưa vùi gió dập, không còn dấu vết để xem xét. Kể rằng ở địa phận xã Ngu, lộ Quán Triền, trong một ngôi nhà cỏ có một bà lão bán tương. Bỗng một ngày thấy một vị trượng phu từ trên không hạ xuống, dung mạo đường đường, phi phàm. Người đó đi đến và ngồi tọa định. Rồi thấy một phụ nữ kiều diễm mặc áo trắng tươi tắn vượt lại. Chưa kịp trả lời thì thấy bên bờ Tây của sông có nhiều người dân xã Ngu cúi lạy. Đế nói: Ta là vua Đế Thích của 33 cõi trời xuống diệt trừ Càn Xát Bà Vương và 15 loại quỷ trừ hại cho dân. Nói xong thì bay lên không mà về. Nhân dân lập đền tại chỗ đó để thờ phụng, hàng năm có tế lễ. Sau này gặp khi cần chống hạn thì cầu thánh giá về nơi Quán Triền thì được ứng nghiệm, cầu mưa được mưa, nhân dân thường đến cầu đảo nhiều. Triều trước từ khi vua mới lên ngôi các vị bách thần được khai hiệu bởi quan lễ. Quan lễ bàn rằng Thiên Đế vô cùng cao quý, không dám phong tặng nên không có văn sắc.

IMG_4912
Thiên Đế điện ở Cầu Váu, Văn Giang, Hưng Yên.

Xã La Bật huyện Thiên Thi phụng thờ Thánh đế Đế Thích

Theo như lời truyền lại, xưa có một cái cây có ba nhánh khi trôi đến địa phận của bản xã thì có thánh hiển hiện nói rằng đó là Đế Thích giáng hạ. Người trong ấp nhân đó mới lấy cây gỗ để khắc tượng lập quán mà thờ, rất linh ứng. Xã Liễu Cầu ở cạnh đó có hai chị em cho gặp loạn mà sang nước Ai Lao, đã ngầm khấn đươc bảo hộ. Bỗng nhiên thấy đi được như bay. Khi quay về đến quê vào quán bái tạ thì bỗng chốc hình hài biến mất, chỉ còn lưu lại chỏm tóm trên đầu. Sau Đế Thích lại có biến thân thành một lão ông đến xã Liêu Hạ huyên Đường Hào cùng với Trương Ba đấu cờ. Sau đó Trương Ba mắc bệnh mà chết. Vợ Trương Ba lấy hương thắp khấn, lại thấy Đế Thích xuất hiện, thu hồn phách của Trương Ba nhập vào thân xác người đồ tể. Trương Ba được phục sinh gặp lại vợ. Nay ở đền Liêu Hạ từ ở chính giữa có lập tượng, bên trái đặt tượng Trương Ba, phía trước đặt một bàn cờ lớn. Sự tích được kể trong sách Lĩnh Nam trích quái. Từ đó về sau ở địa phương nếu gặp hạn muốn chống thì đón tượng để cầu đảo, đều có mưa ngay. Có nhiều công đức đối với nhân dân. Nhưng sắc phong cho tới nay nhất thiết đều không.

IMG_5807
Bức chạm cõi Thiên ở đền Xá, Ân Thi, Hưng Yên.

Xã Liêu Hạ huyện Đường Hào vâng sao sự tích

Miếu vua Đế Thích xưa từ triều Lý năm Long Thụy thứ tư giáng hạ ở xã Liêu Hạ, tại thôn Thượng ở phương Càn, thử tài cờ cùng với người bản xã tên là Trương Ba. Trương Ba biết là tiên ông trên trời xuống thành người phàm trần nên chắp tay bái tạ. Đến khi Trương Ba mất, đã giáng xuống cải tử hoàn hồn cho kéo dài thêm hơn 800 năm. Nhân dân lập miếu thờ phụng. Thái tể Vinh quận công triều Lê đã cho chép việc này thành sách.

Năm Canh Ngọ tháng Giêng ngày lành.

IMG_0397
Đền thờ Đế Thích ở Liêu Hạ, Yên Mỹ, Hưng Yên.

奉事舊跡

文江縣求保社奉事

天帝御三千界内大𣑽天王統六欲中尊天主帝釋威感靈祐渤海皇后禪僊國王玉陛下其事跡古有碑文至今雨打苔封無痕可攷傳聞愚社地分舘㕓路旁草舍古有老婦沽漿忽於日見一丈夫從空而下容貌堂堂非凢人比入來憇息坐定曰見嫗嬌婦女身著白服皂檽過否答曰未也言江之西岸那時愚社先民羅拜帝曰我是三十三天帝釋王也爲汝下民滅除乾𩴳婆王十五類鬼以祛民害言罷騰空而去因立祠于伊處以奉之歲時享用齋禮嗣後歲或亢旱奉迎聖駕于舘㕓處至誠祈之屡得澍雨之應處人民多來祈禱前朝嗣王新政豋秩百神間有承開𥈠號在禮畨官禮畨官議以天帝至尊不敢封贈無有勅文

天施縣羅払社奉祀帝釋聖帝

由舊傳言一木三枝流至本社地分顯聖言言帝釋降下邑人因取此木刻像立觀而祀之稔著靈應旁接柳梂社有妤妹二娘遭亂入哀牢國宻懇保護忽然行步如飛囬至本觀拜謝形骸一時變了只留頭髮在焉再有變身為老人就唐豪縣遼下社與張巴闘碁後巴以病終其妻取香焚懇俄見前來收巴𩲉魄入屠人就屍巴遂更生復與其妻作合今遼下祠正中塑像左立張巴前置一大碁局事跡具在嶺南摘怪籙嗣後本地方或遇亢旱迎像祈擣輙獲澍雨多有功德及民其敕封從來一切並無

唐豪縣遼下社承抄事跡

帝釋王廟昔自李朝龍瑞四年天帝降下遼下社上村之乾方試碁與本社人名張巴張巴知其天上僊翁下是凢人因拱手拜謝及張巴卒後降臨改死還魂許延八百餘年立廟宇奉事黎朝太宰榮郡公有為之語記以録其事
歲在庚午年正月吉日

Bản sự tích được chép trên giấy sắc, lưu tại điện Thiên Đế ở thôn Cầu Váu, Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên.

Biểu hiện của Hindu giáo vào Việt Nam sớm qua sách Thiên Đế bảo lục

IMG_0524

Thần tích của đền Xá tại Ân Thi, Hưng Yên mang tên Thiên Đế bảo lục do Hàn lâm đại học sĩ Nguyễn Bính soạn, kể về sự giáng sinh của Vua Trời Đế Thích ở đây. Sự tích này bắt đầu từ thời Hùng Chiêu Vương, là cháu của Kinh Dương Vương.
Chiêu Vương là người khoan nhân, trí tuệ, tôn sùng Phật pháp, kính sự thánh thần, chăm lo lấy dân làm gốc, được gọi là bậc hiền quân.  Lúc này ở trại Trì La (nay ở huyện Ân Thi, Hưng Yên) có một cây bạch đàn tím từ trên trời giáng xuống, dựng ở mảnh đất đầu rồng trong trại. Chiêu Vương cho lập đàn thờ lộ thiên để phụng sự và cầu đảo cây thiêng này.
Sang đời Hùng Vương thứ mười, Tạo Vương làm vua, cây thiêng ở Trì La đã trải qua hơn bảy trăm năm. Đất nước gặp tai họa giặc quỷ quấy nhiễu. Cây thiêng vỡ ra một bọc bào thai, được Tạo Vương cho mang về cung điện, đặt trên lầu rồng để cầu khấn.
Tháng Giêng ngày mười lăm bỗng thấy trời đất mùi mịt, trên lầu bọc thai phóng hào quang bốn hướng, khí lành rực rỡ. Bọc thai tự nổ một tiếng kinh động trời đất. Vua cùng trăm quan sợ phục trước lầu, ngưỡng xem thấy Đế Thích Thiên Vương ngự tại đầu rồng trước lầu, mây lành năm màu, đầu đội mũ bình thiên, thân khoác áo rồng, tay cầm kim bài.
Minh Hoa công chúa (là con gái của Hùng Hy Vương), bảy mươi tuổi mà cảm ứng ở chỗ cây thiêng, cùng lúc đó sinh ra 2 vị Nhật Quang và Nguyệt Quang Thiên tử, cùng theo phò tả hữu bên Đế Thích. Công chúa hóa thân chỉ còn lại 2 búi tóc. Hai vị Thiên tử hô lớn, hai búi tóc bỗng nhiên biến hóa. Búi thứ nhất biến thành Ngựa lửa, thân dài chín thước, ông Tả cưỡi. Một búi khác biến thành Lân ngọc, ông Hữu cưỡi.
Ba vị cùng với Diêm La bộ soái, là tướng của Tạo Vương, dẫn ngàn thiên binh đi diệt giặc quỷ. Lũ quỷ bị đánh tan thành tro bụi. Bè đảng sài lang hổ báo được dẹp yên. Ba vị hóa về trời. Còn Diêm La bộ soái sau đó hóa thành con rắn lớn, trườn xuống sông Tam Kỳ ở Phong Châu Bạch Hạc mà hóa…

IMG_0577.JPGCảnh Thiên Đình ở đền Xá.

Vua Trời Đế Thích là thần Indra, vị thần chủ rất sớm của 33 cõi trời trong Ấn Độ giáo. Thần Đế Thích – Indra đã được ghi chép trong bộ kinh cổ Vệ Đà. Sự tích Thiên Đế bảo lục cho biết vị thần này đã có mặt trong tín ngưỡng ở miền Bắc Việt từ rất sớm, ban đầu từ thời Kinh Dương Vương, hiển hiện rõ rệt vào thời Hùng Vương thứ 10.
Với niên đại thời Kinh Dương Vương thì rõ ràng chưa thể có đạo Phật vì Phật tổ Thích Ca còn chưa ra đời. Trong khái niệm xưa ở nước ta, Phật còn là chỉ các vị thần của Bà La Môn như Đế Thích. Những dấu hiệu về “cổ Phật” còn lưu truyền chính là dấu vết của sự du nhập Bà La Môn rất sớm vào Bắc Việt.

IMG_0572.JPG
Ngựa lửa, Nhật quang Thiên tử cưỡi.

Cùng với Đế Thích – thần Indra, trong sự tích còn chép tới 2 vị Thiên tử giáng sinh là Nhật Quang và Nguyệt Quang. Đây cũng là 2 vị thần của đạo Bà La Môn. Nhật quang Thiên tử hay Nhật Thiên là thần Mặt trời Surya. Vị thần này thường ngồi xe ngựa kéo có màu hung đỏ. Còn trong sự tích ở Ân Thi, Nhật quang Thiên tử cưỡi con Hỏa mã (ngựa lửa), hoàn toàn trùng khớp.
Nguyệt quang Thiên tử hay Nguyệt Thiên là thần Mặt trăng Chandra. Vị thần này thường cưỡi trên một con linh dương. Sự tích ở Ân Thi kể Nguyệt quang Thiên tử cưỡi con Ngọc lân, cùng hoàn toàn đồng nhất với thần thoại Ấn Độ.
Thần thoại 2 vị Nhật Thiên và Nguyệt Thiên được hình tượng hóa theo cách của người Việt trong công chúa Minh Hoa. Chữ Minh明 gồm chữ Nhật 日và chữ Nguyệt 月 ghép lại. Minh Hoa công chúa được kể là một người tám tuổi đã theo Phật, bảy mươi tuổi lại có mang, sinh ra 2 vị Nhật Nguyệt Thiên tử.

IMG_5764.jpg
Lân ngọc, Nguyệt quang Thiên tử cưỡi.

Câu đối ở đền Xá:
天闕莊嚴開日月
帝威赫濯起風雲
Thiên khuyết trang nghiêm khai nhật nguyệt
Đế uy hách trạc khởi phong vân.
Dịch:
Cửa Trời nghiêm trang mở nhật nguyệt
Đế Oai rực rỡ nổi gió mưa.
Bản thân tên huyện Thiên Thi hay địa danh Ân Thi có nghĩa là “ơn trời”, chỉ ơn huệ của Thiên Đế. Địa danh trại Trì La, nơi Đế Thích giáng sinh, có thể là từ chữ “Thi La”, trong Phật giáo nghĩa là “giới luật”. 
Dấu vết đạo Bà La Môn thời Hùng Vương còn thể hiện ở nhân vật Diêm La bộ soái, vị tướng đã dẫn quân theo Đế Thích diệt quỷ. Thần tích kể:
Diêm La bộ soái vốn là dòng dõi Hùng Vương, con cháu trăm trứng từ Long Vương. Cha là Hùng Độ làm Đế thủ Bộ chủ. Mẹ là Vũ Thị Đoan, mơ thấy giao long mà có mang thần. Tới năm Quý Tỵ tháng mười, ngày mồng mười sinh ra Diêm La công, lấy tên là Đà. Năm mười bốn tuổi ông đã văn võ kiêm toàn, anh hùng cái thế, dũng lược hơn người, đứng trước sóng cả như đứng trên đất bằng. Vua cho mời vào triều nhận chức, thi thố nhiều tài lạ, được cất nhắc làm Chưởng quản thuyền rồng Lạc Long tướng quân. Năm mười chính tuổi Vua sai làm tướng dẫn quân đánh giặc Diêm La ở ngoài Nam Hải. Ông phụng mệnh trị được chúa Diêm La, lại được triệu về triều làm Chưởng bình Diêm La nguyên soái, Thuỷ đạo đại tướng quân, lại nhận mệnh phó nhậm trấn cửa biển, làm Thuỷ đạo chủ bộ.
Sự tích của vị Diêm La bộ soái này khá giống với sự tích của Quan lớn đệ Tam trong tín ngưỡng Tam phủ. Đều là “dòng dõi” Long vương – Thoải phủ. Đều là mẹ gặp giao long mà sinh thần. Đều là Chưởng quản thuyền rồng (Trưởng Lệnh) của Hùng Vương. Trưởng Lệnh (Quan đệ Tam) thì đánh dẹp giặc Hồng Châu, Diêm La bộ soái đánh giặc Diêm La nên có tên vậy. Sau khi dẹp xong giặc quỷ, Diêm La bộ soái hóa thành con rắn lớn trườn xuống ngã ba sông Tam Kỳ ở Phong Châu Bạch Hạc mà hóa. Tam Kỳ hiển ứng cũng chính là chuyện thần Bạch Hạc Thổ Lệnh – Thạch Khanh.
Chi tiết Đế Thích liên quan đến Tam phủ còn thấy trong chuyện Hồn Trương Ba xương da hàng thịt, được ghi trong sự tích và di tích còn lại tại thôn Liêu Hạ (Yên Mỹ, Văn Giang, Hưng Yên). Khi Trương Ba mất, Đế Thích đã giáng hạ, triệu Tam phủ công đồng hoàn hồn cho Trương Ba. Nay ở Liêu Hạ trong đền thờ ngoài Đế Thích còn thờ cả Tam phủ.
Đế Thích được coi là Vua cờ vì theo thần tích Thiên Đế bảo lục nói: Cờ là cốt yếu của họa phúc, sự huyền vi của trời đất. Trong chữ Nho, đánh cờ được gọi là “dịch”. So sánh 2 nghĩa này ta thấy, cờ chính là Dịch lý, tức là “triết lý” thế giới quan, nhân sinh quan của tín ngưỡng này. Kỳ pháp như thế là pháp môn của Đế Thích – đạo Bà La Môn.

IMG_0560.JPGPhạm Đá và Phạm Dũng.

Cũng trong Thiên Đế bảo lục còn kể tới thời Thục An Dương Vương, có họ Phạm ở Biện Sơn (Thanh Hóa) cầu tự Đế Thích, được mộng ban cho 2 quân cờ Xe và Tướng, sinh ra 2 người con trai là Phạm Đá và Phạm Dũng. Hai vị có công dẹp giặc Đại Man, chống chọi với Triệu Úy Đà. Sau đó hóa ở đền Đế Thích tại Trì La (Ân Thi, Hưng Yên). Nay trong đền còn tượng thờ 2 vị này.
Câu đối ở đền Đế Thích tại Cầu Váu (Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên) nói tới các sự tích này:
錫類人褱多范子
侯棋世界少張公
Tích loại nhân hoài đa Phạm tử
Hầu kì thế giới thiểu Trương Công.
Dịch:
Góp lành người mong nhiều Phạm tử
Tướng cờ thế giới hiếm Trương công.

IMG_0397.JPGThiên Đế điện ở Liêu Hạ.

Sự kết nối giữa Đế Thích, vị thần chủ của đạo Bà La Môn với thời Hùng Vương và tín ngưỡng Tam phủ cho thấy sự du nhập rất sớm của đạo Bà La Môn vào nước ta. Ngay Văn công đồng khi mở chầu Tứ phủ cũng ghi:
Vận thần thông vô lượng vô biên
Thập phương tam giới thánh hiền
Dục giới sắc giới chư thiên đều mời
Vua Đế Thích quản cai thiên chủ
Vua Ngọc Hoàng thiên phủ chí tôn…
Như thế theo Tứ phủ thì Đế Thích là Thiên chủ quản cai. Phải nói rằng đạo Mẫu Tứ phủ tới nay là sự tổng hợp của cả Đạo Giáo, Đạo Phật và Ấn Độ giáo.
Câu đối ở đền Đế Thích tại Liêu Hạ:
英靈冠百神南天第壹
功德光千古越地無雙
Anh linh quán bách thần, Nam thiên đệ nhất
Công đức quang thiên cổ, Việt địa vô song.
Dịch:
Anh linh đầu trăm thần, trời Nam thứ nhất
Công đức sáng ngàn xưa, đất Việt không hai.
Các sự tích hiển linh của Đế Thích đều đề cập đến khu vực phía Nam. Như Minh Hoa công chúa (người sinh ra Nhật Quang và Nguyệt Quang Thiên tử) từng bị biếm đày đi Ô Lý, đất Chiêm Thành. Rồi lại có chuyện Huyền Trân công chúa đời Trần được gả cho chúa Chiêm, khi chúa Chiêm chết Công chúa đã được Thiên Đế giúp thuyền gió lớn thuận buồm thoát nạn. Nay ở Ân Thi, gần đền Thiên Đế, có một số nơi thờ Huyền Trân công chúa làm thành hoàng làng và có cả đền thờ.

IMG_5021.jpg
Một đoạn sách Thiên Đế bảo lục.

Một sự tích khác từng được chép trong Lĩnh Nam chích quái về Đế Thích như sau:
Ở huyện Thiên Thi, xã Liễu Cầu có hai chị em vì loạn lạc vào đến nước Ai Lao. Họ mật cầu Vua Trời bảo hộ. Bỗng nhiên thấy đi bộ như bay, về tới quê quán. Khi đến làm lễ tạ, việc xong thì hình hài biến mất, chỉ còn hai búi tóc lưu lại.
Ở các khu vực Chiêm Thành, Ai Lao thì rõ ràng đã có sự du nhập của đạo Bà La Môn từ rất sớm. Ảnh hưởng của Ấn Độ giáo lên khu vực Đông Nam Á đã có từ lâu. Với những dẫn liệu như vậy, có thể chúng ta phải nói tới “Tứ giáo đồng nguyên” trong tín ngưỡng ở Việt Nam: Nho, Lão, Phật và Bà La Môn.

 

Hồn Trương Ba, xương da hàng thịt

IMG_0392.JPG

Sách báu Vua Trời
Bổ sung của huyện Đường Hào, xã Liêu Hạ

Triều Lý năm Long Thụy thứ hai (tức năm Tống Nhân Tôn hiệu Chí Hòa thứ hai), người huyện Đường Hào, xã Liêu Hạ là Trương Ba, ba đời tu thiện, thích uống rượu, cờ cao nổi tiếng trong nước, như thần tiên giữa người trần vậy. Khi đó có người nước Bắc là Trọng Huyền, nghe tiếng của Ba, đánh xe đến lều, cùng Ba đấu trí. Ba chơi cờ thấy thế thắng Huyền, mới có lời đại ngôn rằng:
– Thắng thua đã rõ, có là Đế Thích cũng khó phân giải.
Bỗng thấy một ông cụ đầu bạc, cầm một cây gậy đên mách cho Huyền đi thế cờ như vậy. Ba vô cùng sợ hãi, lấy cớ đi uống nước mà rời chiếu. Ba đi ngay vào vườn, bẻ cau, chuối xanh làm vật hiến tế, sắp xếp vuông vắn. Cau chuối còn đang xanh, dâng lên, thì cau trở nên tròn lớn, chuối trở nên chín vàng. Ba chắp tay nói:
– Tiên ông từ đâu tới đây? Cờ pháp tối cao, nguyện được biết danh tính để tôn sư nhận sự giảng dạy.
Ông lão nói:
– Ta là Đế Thích của cung 33 cõi trời.
Nhân đó lấy trong tay áo mấy nén hương mà tặng, rồi nói:
– Khi có việc gấp, đốt hương này, ta sẽ đến cứu giúp.
Ba cùng Huyền lại dập đầu bái. Ngửng đầu lên đã không thấy người. Ba liền hầu giá, cất hương quý đi. Vài năm sau Ba chết, qua được trăm ngày, vợ con nhớ tới việc hương thần, mới cầm đốt hương.
Đế cưỡi mây giáng hạ, hỏi rằng:
– Chồng bà chết được bao lâu rồi?
Đáp rằng: Đã ngoài trăm ngày.
Đế lại hỏi:
– Trong làng này có ai mới mất không?
Đáp rằng:
– Có người đồ tể mới mất được vài ngày.
Đế lập tức gọi Tam phủ Công đồng tới hoàn hồn Trương Ba nhập vào thân thể của người đồ tể. Sau đó hai gia đình vợ con tranh nhau vì thân hình đồ tể mà tính nết của Trương Ba (ngạn ngữ có câu rằng: Hồn Trương Ba, xương da hàng thịt, là chỉ việc này). Sự việc được bàn luận khắp nơi. Ngưỡng nhờ ơn của Vua Trời đã tái sinh nên dựng miếu ở xã Liêu Hạ, hướng Càn, cùng với người trong làng thờ phụng Vua Trời và Tam phủ.
Tới triều Lê Thái Tổ khai quốc, đến cầu đảo ở đền Vua, bình được giặc Liễu Thăng, cung tạ ơn trời. Triều Mạc Thái bảo Đà quốc công gặp tai nạn, đến cầu đảo, được sự bảo hộ, đã trùng tu lại điện báu, kính cẩn làm lễ tạ, cho phép xã Liêu Hạ (thôn Đình Sơn, thôn Nho Lâm) cùng với hai xã Thư Thị, Thổ Cốc, theo lệ phụng thờ, nước đảo dân cầu, linh thiêng rất mực. Mùa xuân năm Kỷ Tị, Đồng bình chương sự Thái tể Vinh quốc công Hoàng Anh mắc bệnh, sai người đến cầu, cũng được âm phù, bệnh thuyên giảm. Đã cho làm lại cột mái, tô cột vẽ tượng, đáp tạ ơn sâu (xem Bảo kính huyên tâm thượng tập cũng có thuật lại chuyện này).

Phiên âm:
Phụ Đường Hào huyện Liêu Hạ xã. Thiên Đế bảo lục

Phụ Đường Hào huyện Liêu Hạ xã. Thiên Đế bảo lục.
Lý triều Long Thuỵ nhị niên (tức Tống Nhân Tôn Chí Hoà nhị niên), Đường Hào huyện Liêu Hạ xã nhân, Trương Ba, tam thế tu thiện tính thị tửu, dịch cao thông quốc, diệc thần tiên trung nhân dã. Thần hữu Bắc quốc nhân Trọng Huyền, văn Ba danh, thặng hưng tạo lư, dữ Ba đấu trí. Ba chi kỳ thế, ký thắng vu Huyền, hựu đại ngôn viết:
– Thắng phụ dĩ thành, tuy hữu Đế Thích diệc nan phân giải.
Hốt kiến nhất bạch tẩu, chấp cung trượng chỉ kỳ Huyền viết, hành thế như thử. Ba đại kinh, ẩm thủ tỵ tịch, sư sự chi. Tức nhập viên trung, chiết tân lang thanh tiêu hiến chi, kỳ phương chiết dã. Tân tiêu lang do tại bào trung, cập hiến, tắc lang dĩ viên đại tiêu dĩ hoàng thục hỹ. Ba củng thủ vấn viết:
– Tiên ông hà xứ đắc lai, kỳ pháp tối cao, nguyện tường tính danh, đắc thừa sư giáo.
Tẩu viết:
– Ngã thị thượng giới Tam thập tam thiên cung Đế Thích.
Nhân thủ tụ trung hương sổ châu tặng chi, vị viết:
– Hữu cấp, thiêu chi, ngã lai tương cứu.
Ba dữ Huyền khể thủ tái bái. Đài đầu dĩ vô nhân hỹ. Ba tức phụng giá, hương trân tàng chi. Sổ niên Ba mệnh cố, kinh kỷ bách nhật. Thê tử truy ức thần hương sự, tận tướng thiêu chi.
Đế đằng vân giáng hạ, vấn viết:
– Nhữ phu vong kỷ hà thần.
Đối viết:
– Ngoại bách nhật.
Đế vấn:
– Nhữ hương hữu tân vong bĩ.
Đối viết:
– Hữu đồ trung, vong tài sổ nhật.
Đế tức triệu Tam phủ công đồng, hoàn Trương Ba hồn, nhập đồ trung hình thể. Hậu lưỡng gia thê tử giao tranh, tắc hình đồ nhi tính Ba (ngạn hữu chi viết: Hồn Trương Ba xương da hàng thịt, cái chỉ thử dã). Thủ đàm vô địch, ngưỡng hạ Thiên Đế tái sinh chi ân, nãi thiết miếu Liêu Hạ xã chi càn phương, hiệp dữ hương nhân, phụng sự Thiên Đế cập Tam phủ.
Chí Lê triều Thái tổ khai quốc, kiền đảo đế từ, bình Liễu Thăng chi khấu. Cung tạ thiên ân. Anh triều Thái bảo Đà quốc công, ngộ tai kiền đảo, ngưỡng mông bảo hữu, trùng tu bảo điện, cung hành tạ lễ, chuẩn hứa Liêu Hạ xã (Đình Sơn thôn, Nho Lâm thôn) cập Thư Thị, Thổ Cốc nhị xã, y cựu phụng sự, quốc đảo dân kỳ, nhẫm trứ linh ứng. Kỷ Tị niên xuân, Đồng bình chương sự Thái tể Vinh quốc công Hoàng Anh bệnh, bình nhân kiền đảo, ngưỡng hạ âm phù, bệnh giả dĩ khởi. Nhất tân đống vũ, đan doanh khắc dũng, đáp tạ hồng hưu (kiến Bảo Kính huyên tâm thượng tập, diệc cụ lục yên).

Nho văn:

附唐豪縣遼下社天帝寶籙
李朝龍瑞二年(即宋仁尊至和二年)唐豪縣遼下社人,張巴,三世修善,性嗜酒,奕髙通國,亦神仙中人也,辰有北國人仲玄,聞巴名,乘興造廬,與巴鬪智,巴之棋勢,既勝于玄,又大言曰,勝負已成,雖有帝釋,亦難分觧,忽見一白叟,執恭杖指示玄曰,行勢如此,巴大驚,飲手避席,師事之,即入園中,折新榔青蕉献之,其方折也,新蕉榔猶在胞中,及献,則榔已圓大蕉已黃熟矣,巴拱手問曰,仙翁何處得来,碁法最髙,願詳姓名,得承師教,叟曰,我是上界三十三天宫帝釋,因取袖中香数株贈之,謂曰,有急,燒之,我来相救,巴與玄𥡞首再拜,擡頭已無人矣,巴即奉這香珍藏之,数年,巴命故,經己百日,妻子追憶神香事,盡將燒之.
帝騰雲降下,問曰,汝夫亡幾何辰,對曰,外百日,帝問,汝鄊有新亡否,對曰,有屠中,亡𦆵数日,帝即召三府公同,還張巴𩲉,入屠中形體,後两家妻子交争,則形屠而性巴(諺有之曰, 𩲉張巴,昌䏧行𦧘,葢指此也)手談無敵,仰荷天帝再生之恩,乃設庙遼下社之乾方協與鄉人,奉事天帝,及三府.
至黎朝太祖開國,䖍禱帝祠,平柳昇之宼,㳟謝天恩,莫朝太保佗國公,遇災,䖍禱,仰蒙保佑,重修宝殿,㳟行謝禮,準許遼下社(亭山村儒林村)及書柿土穀二社,衣舊奉事,國禱民祈,稔着灵應,己巳年春,同平章事太宰荣國公黃攖病,伻人䖍禱,仰荷隂扶,病者以起,一新棟宇,丹楹刻桶,答謝洪休(見宝鏡煊心上集,亦具錄焉)

Sách báu Vua Trời

IMG_5835

Phủ Khoái Châu, huyện Thiên Thi, trang La Trừng, trại Trì La

Sách báu Vua Trời

Xưa kia Nam Việt Hùng Vương khai sáng, vua tổ lập nền, mười tám đời truyền, hơn hai ngàn năm, ngọc sáng thái bình, âu vàng vững nước. Hậu Trần tiên sinh có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt từ Kinh Dương
Nhất thống núi sông mười tám vương
Thần truyền thánh kế còn thiên cổ
Hai ngàn năm lẻ vạn năm hương.
Đây là tổ của Bách Việt, là thời thịnh vượng thái hoà.
Cháu của Kinh Dương Vương là Chiêu Vương, đóng đô ở Việt Trì, sông Bạch Hạc, tên nước là Văn Lang. Chiêu Vương là người khoan nhân, trí tuệ, tôn sùng Phật pháp, kính sự thánh thần, chăm lo lấy dân làm gốc, được gọi là bậc hiền quân. Thời đó trong nước yên bình, trong phủ vô sự. Nhân dân vui vẻ, sung túc, đàn hát. Thiên hạ hưởng cảnh tượng thái bình.
Con trưởng của vua đi ngao du thiên hạ, khi tới đất quận Sơn Nam, phủ Khoái Châu, huyện Thiên Thi, trang La Trừng, trại Trì La, một ngày thấy gió táp mưa sa, trời đất mù mịt, ngày giống như đêm. Dân Trì La khiếp sợ, không dám ra đường. Trong khoảnh khắc trời đất sáng trở lại. Bỗng thấy một cây đại thụ bay đến dựng đứng ở chính giữa khu đất đầu rồng, dài hơn một trượng. Mùi gỗ ngào ngạt, cành lá sum xuê.
Dân Trì La tâu việc lạ lên triều đình. Chiêu Vương loan giá xem xét, biết cây bạch đàn tím này là linh mộc, đây là điềm đại cát. Vua liền truyền cho dân Trì La lập đài lộ thiên, bày lư hương, hàng năm hương đèn thờ cúng vậy. Dân được lệnh phải chăm sửa.
Vua hành lễ cúng trời, loan giá về cung. Từ đó nước cúng dân cầu, trai giới thành tâm, đến dưới cây gỗ thiêng cầu nguyện cho đất nước được mưa thuận gió hòa, dân gian giải bệnh cầu thai, rất linh ứng.
Hùng Vương truyền mười đời tới Tạo Vương. Cây thiêng ở Trì La đã trải qua hơn bảy trăm năm, cành lá vẫn tươi tốt. Trời xuân tốt lành, tháng Hai ngày mồng một, chỗ cây thiêng trời đất mờ tối, mây bay năm màu, dây lửa quấn phủ. Linh mộc có ba vòng hào quang sáng chói, mưa gió mù mịt. Dân Trì La dân kinh sợ phủ phục. Khi trời sáng lại, nhân dân đến xem thì thấy một dấu chân người lớn ba bộ in trên thân cây. Trên bệ thờ lộ thiên hương tự cháy, bốc mùi thơm ra xung quanh. Nhân dân Trì La dân lấy làm kinh dị, lại tâu về triều đình.
Tạo Vương loan giá đến xem, cho là vì hoàng gia có đức thịnh, tất có thánh nhân xuất thế, sẽ bảo vệ quốc gia, chắc chắn không phải điều tầm thường. Vua lập tức truyền dân sở tại lập chùa tự thờ cúng, khiến cho nhân dân, nước nhà có việc cầu đảo sẽ thành. Vua hành lễ rồi loan giá về triều. Từ đó nước cúng dân cầu, hương đèn không dứt.
Lại nói, Vua có một người họ hàng (là con gái của Hy Vương) tên là Minh Hoa công chúa, nhan sắc đẹp lạ, dáng dấp tuyệt thế, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài, bản tính như hoa yêu kiều, không nhiễm tục trần, từ lúc sinh ra chỉ ăn chay, thích mùi vị của hương hoa. Chín tuổi ở triều đình tự nguyện xuất gia theo Phật. Hy Vương thấy con gái thành tâm mộ Phật, truyền xây chùa ở trong cung điện theo ý nguyện. Từ đó công chúa chay trường theo Phật, tinh thông Phật pháp.
Tới khi Tạo Vương lên ngôi, công chúa được tôn làm Thế tôn Bồ tát. Năm 71 tuổi công chúa nghe nói ở Trì La có cây linh mộc, trong có một người khổng lồ, xưa vua truyền cho lập chùa thờ cúng. Lòng thơm luyến cảnh, truyền giá du xuân, đến nơi thì mặt trời đã về tà. Công chúa ngửa lên xem cây thiêng, chợt hiện ra một con rắt không từ trên trời rơi xuống, quấn lấy công chúa Minh Hoa ba vòng. Công chúa sợ hãi nép xuống, bàng hoàng như mơ. Bỗng thấy mặt trăng mặt trời đều rơi xuống nhập vào mồm mà nuốt hết. Trong phút chốc con rắn không bay lên không biến mất. Công chúa chợt tỉnh lại, quay về vương phủ. Trăm ngày sau Công chúa do đó mà có mang. Chỗ dấu chân người khổng lồ trên cây thiêng cũng tự nhiên phình lớn, to như mặt trăng mặt trời, thường có mây bay năm màu, che phủ trên cây thiêng. Mọi người đều lấy làm lạ.
Công chúa Minh Hoa có mang được 7-8 tháng thì Tạo Vương truyền vào cung đình, nói:
– Chín tuổi theo Phật, tới nay đã đã hơn bảy mươi năm, đã làm Bồ tát, sao lại vui ham hoa nguyệt, để tiếng cười cho nhân gian.
Công chúa giải bày chuyện khi đến xem cây thiêng có con rắn không quấn thân thành thực tâu lên. Vua không tin, giáng đi đất Ô Lý (tức là đất Chiêm Thành).
Sau mấy tháng người dân Trì La thấy ở chỗ cây thiêng ban đêm nghe tiếng gió phần phật như tiếng sấm, trên cây thiêng sáng láng, giống như ánh lửa. Chỗ gỗ phình to lại càng thêm lớn. Người dân trại bẩm tâu sự việc. Vua cho là yêu quái, liền truyền lập đàn nhiều bậc ở giữa cung đình, cúng tế tắm gội trong ba ngày liền, triệu tập các tăng ni cùng trăm quan làm lễ cầu đảo.
Vua khấn:
– Quả nhân thấy cây quái này cùng với công chúa bảy mươi tuổi có mang, không biết họa phúc ra sao. Do đó tấu cáo lên Hoàng Thiên, bách thần, chư phật, khẩn nguyện tốt xấu cho ứng mộng, để lòng trần biết được huyền cơ.
Tối hôm đó lúc giữa canh hai, Vua lờ mờ chợp mắt, thấy mây lành năm màu, điện ngọc lưu ly, cung rồng rực rỡ, lầu phượng huy hoàng, Ngọc Hoàng ngự ở chính giữa, bách quan tề tựu đông đủ. Bỗng nghe Ngọc Hoàng truyền phán quan giữ sổ Thiên đình gọi Tạo Vương tới sân. Ngọc Hoàng mắng rằng:
– Bây giờ thời vận đã đến lúc gặp cực, dưới thế giới ba mươi ba cõi trời nhiều tai ương kỳ dị, tật bệnh đói khát, chết chóc đầy đường, âm dương hỗn tạp, giặc yêu quỷ đến thật nhiều. Thiên đình lo lắng cho dân chúng hạ giới nên giao mệnh cho Đế Thích Đề Hoàn Thiên Vương ứng thai vào cây thiêng bạch đàn. Lại mệnh cho Đông Quang chủ bộ, Tây Quang chủ bộ hai vị đầu thai vào công chúa Minh Hoa, giáng sinh nhân thế, cùng giúp Đế Thích Thiên Vương trừ giặc quỷ ở Nam Châu, cứu tật khổ cho nhân gian, mà duy trì kéo dài mạch mệnh của quốc gia. Quân vương như thế mà lại giáng biếm Công chúa. Nay do đã biết chí thành cầu đảo, phải ngay lập tức đón Công chúa về cung thì miễn cho tội này.
Vua tỉnh giấc, kinh sợ, hành lễ bái tạ, lập tức lệnh cho đình thần đón công chúa Minh Hoa về lại phủ điện. Vua thân ra đón tạ, kính lễ sự đó. Lại sai Thủy tào phán quan Diêm La bộ soái (Xét Diêm La bộ soái cũng là dòng dõi Hùng Vương, con cháu trăm trứng từ Long Vương. Cha là Hùng Độ làm Bố Chính bộ chủ. Mẹ là Vũ Thị Đoan, mơ thấy giao long mà có mang thần. Tới năm Quý Tỵ ngày mồng mười tháng Mười sinh ra Diêm La Công, lấy tên là Đà. Năm mười bốn tuổi ông đã văn võ kiêm toàn, anh hùng cái thế, dũng lược hơn người, đứng trước sóng cả như đứng trên đất bằng. Vua cho mời vào triều nhận chức, thi thố nhiều tài lạ, được cất nhắc làm Chưởng quản thuyền rồng Lạc Long tướng quân. Năm mười chín tuổi Vua sai làm tướng dẫn quân đánh giặc Diêm La ở ngoài Nam Hải. Ông phụng mệnh trị được chúa Diêm La, lại được triệu về triều làm Chưởng bình Diêm La nguyên soái, Thuỷ đạo đại tướng quân, lại nhận mệnh phó nhậm trấn cửa biển, làm Thuỷ đạo chủ bộ) đến trại Trì La nơi có cây thiêng, trông coi việc hương đèn, đợi xem điềm ứng ra sao.
Vừa được một năm thì nhân dân trong thiên hạ gặp nhiều tai ách, tật bệnh, yêu tà làm loạn, chiếm khắp nhân gian. Trời đất mù mịt, không phân ngày đêm. Dưới sông biển là giao long, trên rừng núi là hổ báo, quấy nhiễu làm hại nam nữ. Lại có quỷ Mũi đỏ, thần Ma sói, khởi binh làm loạn, thường ăn thịt người, uống máu người, vào lửa không cháy, vào nước không chìm. Có khi bay lên không nghênh chiến, có khi giáp công dưới nước. Quân lính tới ba mươi vạn, biến hiện thật vô cùng, cướp giữ Lưỡng Quảng Đông Tây, mười sáu châu đều là đất giặc quỷ. Triều đình ra đánh đều bị hại phần lớn, quan tướng không có phương sách.
Vua rất lo lắng, nhớ tới việc Hoàng Thiên báo mộng là ba năm sau nước sẽ có giặc quỷ, quả nhiên là nghiệm, mà Thiên vương giáng thế, giúp nước cứu dân, chưa thấy xuất hiện.
Vua lại cho lập một đàn tế, trai giới cầu đảo trời đất trong ba ngày. Năm Giáp Tí tiết xuân ngày mồng 9 tháng 1, cái bọc trên cây thiêng ở Trì La đã qua ba năm, bỗng nghe có tiếng sét đánh một tiếng thình, trời rung đất chuyển, mưa gió tối tăm, giữa ngày mà như đêm. Người dân Trì La kinh sợ, nằm rạp xuống mà xem, thấy mây tụ năm màu, bao trùm trên cây thiêng, hào quang sáng lòa, khí lành rực rỡ, sao trời cùng tụ, rồng phượng bay quanh, bầu trời vang tiếng véo von, nhã nhạc tấu hài hòa. Chốc lát một tiếng nổ vang rền, ánh lửa phóng ra bốn phía. Cây thiêng vỡ tan bay lên trời, chỗ bụng bào trên cây vỡ ra, xuất lộ 2 bọc. Nước chảy ra đều thành nước ngọt. Chỉ còn lại một khối dài ba bốn thước, cứng như sắt đá, khối nước có một bọc, mây năm màu phủ ở trên.
Diêm La vương kinh dị, phụng tâu về triều đình. Vua thân hành đến chỗ bọc thai, nghênh đón về cung điện, truyền lập lầu rồng ở trước sân, đặt bọc thai ngọc tím, thường có mây năm màu phủ ở trên. Vua cùng trăm quan trai giới hành lễ, cầu nguyện Thiên vương xuất thế, để giúp nước nhà, để hết tai biến.
Ngày mười lăm tháng Giêng bỗng thấy trời đất mùi mịt, trên lầu bọc thai phóng hào quang bốn hướng, khí lành rực rỡ. Bọc thai tự nổ một tiếng kinh động trời đất. Vua cùng trăm quan sợ phục trước lầu, ngưỡng xem thấy Đế Thích Thiên Vương ngự tại đầu rồng trước lầu, mây lành năm màu, đầu đội mũ bình thiên, thân khoác áo rồng, tay cầm kim bài.
Minh Hoa công chúa mang thai đã 3 năm, một tiếng nổ lớn, bỗng có hai người xuất ra từ trên đầu Công chúa, hình dáng cao lớn, tướng ngũ nhạc triều thiên, tam đình bằng phẳng, mặt đỏ như mặt trời, to lớn đường đường, áo bào năm sắc, khăn ngọc chói ngời, tay cầm long đao, đứng hai bên phải trái Đế Thích Thiên Vương. Công chúa hóa thân chỉ còn 2 búi tóc, một búi ở bên Đông Quang, một búi ở bên Tây Quang.
Chốc lát bóng mây tan đi. Trời đất lại sáng. Vua cùng trăm quan bái hạ. Bỗng nghe Đế Thích Thiên Vương truyền tả hữu hai ông rằng:
– Thiên đình lệnh cho ta giáng sinh ở Nam Châu, giúp vua nay trừ lũ quỷ, hãy nhanh chóng tuyển tướng điều binh theo ta dẹp giặc, không được trì hoãn.
Hai ông phụng mệnh lập tức triệu Diêm La bộ soái dẫn một ngàn thiên binh diệt giặc. Nhị công lại hô lớn một tiếng, hai búi tóc bỗng nhiên biến hóa. Búi thứ nhất biến thành Ngựa lửa, thân dài chín thước, ông Tả cưỡi. Một búi khác biến thành Lân ngọc, ông Hữu cưỡi.
Ba vị (Vua Trời và hai ông) tiến trên không trung. Diêm La hành quân theo đường thuỷ, tiến đến chỗ quân giặc. Hai ông huy đao vang lừng, tiếng thét lẫm liệt như sấm, hào quang phóng bốn phía. Thiên binh cùng vùng dậy tấn công. Ngựa lửa, Lân ngọc phun lửa. Quân thuỷ của Diêm La tiếp chiến. Mây mưa mờ mịt. Giặc quỷ kinh sợ, tan tác, tất cả biến thành tro bụi. Chỉ có quỷ Mũi đỏ không thể tự biến, chém được ngàn đầu, mang về kinh đô. Lũ hổ báo, giao long, yêu quái nhất loạt đều dẹp yên.
Ngày 10 tháng 6 Đế Thích cùng hai ông bay lên năm tầng mây mà hóa. Diêm La bộ soái trong hôm đó liền về triều tâu lại chuyện. Vua nghe vậy than thở mà rằng:
– Nhân dân đã được chuyển họa thành phúc, chuyển tai ương thành tốt đẹp, kính thánh đức mây lành ngày tốt, liệu trời đất khí hòa gió xuân, ơn dày Vua Trời cùng hai vị đại pháp lực xoay chuyển càn khôn.
Vua bèn truyền xây điện ở trong sân rồng, thờ phụng ba vị, đáp tạ ơn thần.
Ngày 29 tháng 6 Diêm La Công xuống thuyền rồng đi Phong Châu, đến sông Tam Kỳ thì sóng gió nổi lên. Diêm La Công thân biến thành rắn, dài hơn mười trượng, bò thẳng xuống Tam Kỳ mà hoá sinh bất diệt. Tướng sĩ liền về triều đình, phụng tâu lại sự việc. Vua liền lệnh cho đình thần tới Tam Kỳ hành lễ, lập đền thờ phụng. Lại truyền sửa sang tượng thần ba vị cùng tượng Diêm La công, đón vào bảo điện, ngày tháng phụng thờ, cầu đảo linh nghiệm.
Vua lệnh giá đến trại Trì La, trước lập hành cung, coi xem địa hình, rồng như hình con rắn lớn, thế sông uốn lượn như rồng bao quanh. Vua ngự ở chỗ cây thiêng, thấy một mảnh đất thực là rồng, khu dải bảy sao, sau đầu mũ ngọc, trái phải lớp lớp cùng quay đầu hướng về. Trái phải có giếng mắt rồng, cá bơi hướng chầu, sao vàng đứng vững, dải Ngân bao bọc, ngựa trời quỳ, hoa sen nở, giữa gian ba sao cùng mặt trăng mặt trời chợt dậy, thành một vùng đất quý trời tạo.
Vua truyền lập đền ở chính giữa đầu rồng, dựa Quý hướng Đinh, thế sông chầu bên trong, núi sao ứng theo bên ngoài. Lại truyền chọn lấy loại gỗ bạch đàn tím cẩn kính tạo tượng thần Đế Thích Thiên Vương để thờ. Tiếp truyền lập chùa ở chỗ đất hình rồng. Làm xong thì cho phép trại Trì La hai giáp Đông Tây ngày tháng lo hương đèn, miễn cho việc binh lương. Xuân (tháng 3 ngày 10), thu (tháng Chín ngày 12) làm lễ quốc tế. Ban cho 30 quan tiền, đặt 12 mẫu ruộng thờ, tuân theo mà thờ cúng. 6 trang trong trại (Yên Canh, Liễu Cầu, La Trừng, Trại Thung, Cổ Lễ, Lưu Xá) đều được miễn đóng binh lương, hàng ngày giúp thờ cúng ở đền Vua Trời tại Trì La.
Vua đề thơ rằng:
Trì La thắng địa rất oai linh
Xứ xứ chầu về kính đế đình
Vua Trời giáng sinh di tích đó
Vạn năm hương lửa quốc gia lừng.
Vua quay giá về cung, tặng phong Tam thiên thiên Giới nội Đế Thích Đề Hoàn Đại phu Ngọc bệ hạ, Nhật Quang Thiên tử Thánh vương, Nguyệt Quang Thiên tử Thánh vương là ba vị thiên thần thượng đẳng và Diêm La bộ soái Môn tiền Tôn thần.
Lại truyền rằng, Hùng Vương truyền mười tám đời tới Tình Vương không có con, nhường ngôi cho An Dương Vương. Tương truyền ở Ái Châu (tức Thanh Hóa nay), phủ Thuận Thiên, huyện Lôi Dương, xã Biện Sơn có ông Phạm Đạt đến quận Sơn Nam đóng quân, lấy bà Lục Nương họ Đinh của trại Trì La, nhờ cậy ba bốn năm. Vợ chồng ra sức làm việc thiện. Hơn bốn mươi tuổi chưa mơ thấy điềm gấu rắn. Một bữa ông nói với vợ rằng:
– Tiên tổ nhà ta đều xứng là gia đình thiện đức, tôn trọng ngũ luân, ban phát cho người nghèo khó. Tôi và bà đều làm việc nhân, tu đức, không dám vì mình hại người, chưa mảy may phạm tội ác nào, bồi đắp quả thiện lâu dài, mà chưa thấy được hương quế. Hay là do đạo nhân nghĩa còn thiếu sót nên ý trời còn chưa tỏ. Tôi nghe nói điện Vua Trời giúp dân giúp nước, cầu là được, vạn sự như ý. Tôi cùng bà thành tâm cầu tự, nhạn bay mong mỏi, sao cho thỏa nguyện bình sinh.
Theo ý đó hai người đến đền cầu tự. Đêm mộng thấy thần nhân báo rằng:
– Ta thích đánh cờ, ông có biết chơi cờ không?
Ông Phạm trả lời:
– Thần vốn không biết chơi cờ.
Thần nhân nói:
– Cờ là cốt yếu của họa phúc, là sự huyền vi của trời đất, người trần khó biết. Ông đã thành tâm cầu tự, ta xét gia đình ông có phúc lớn lắm, nên ưng cho ông quân Xe cờ đá về làm của quý trong gia đình.
Dứt lời đem trao cho. Ông Phạm vui mừng nhận kính cẩn nhận lấy và bái tạ. Khi tỉnh lại, yên lặng suy nghĩ, nhà ta phúc hậu, Hoàng Thiên sẽ ban cho con cái. Vợ chồng hành lễ bái tạ rồi về.
Sau mấy tháng bà Đinh có mang. Qua sáu bảy tháng thì ông Phạm nghe rằng người chú ruột của mình qua đời. Vợ chồng lại đến đền làm lễ, sau đó về Biện Sơn để giúp mai táng.
Năm Kỷ Mùi ngày 9 tháng 3, ánh sáng lành tỏa khắp xã Biện Sơn, phu nhân sinh hai con trai, mặt mũi khôi ngô sáng sủa, tư chất lẫm liệt, hàm én mày ngài, mắt phượng hình rồng, tay dài quá gối, chân có 7 túm lông, được đặt tên là Đá Công và Dũng Công.
Đến năm tám tuổi trí dũng siêu quần, theo học Ngô tiên sinh. Sau mấy năm tam lược lục thao của Bách gia chư tử đều thông thuộc (Hoàng Thạch trao cho Trương Lương binh thư có 3 phần Thượng, Hạ, Trung là Tam lược; Binh thư của Thái Công có Rồng, Hổ, Văn, Võ, Báo, Khuyển là Lục thao), văn võ toàn tài, bạn bè đều sợ phục.
Hai ông tuổi trẻ, cha mẹ mất sớm, có người họ tộc Võ có uy thế trong ấp thấy hai ông có kỳ tài nên nuôi dưỡng trợ giúp, định gả con gái cho, nhưng hai ông không theo. Họ Võ thấy hai ông cương dũng, cho đi bắt trộm cướp. Hai ông theo kẻ gian đến huyện Thiên Thi, quán ngoài Trì La thì trời đã tối, cổng làng đã đóng. Hai ông nhìn xa thấy bên ngoài có một cung quán (tức là hành cung nơi Tạo Vương từng ngự khi đến đây), bèn nghỉ ngơi ở đó.
Đêm đó dân các họ tộc ở Trì La đều nằm mơ thấy một vị quan lớn quần áo chỉnh tề, thân cưỡi ngựa hồng, tùy tùng đi theo mấy chục người, tiến thẳng vào trong ấp, triệu các chức sắc của ấp đến nói: Ta tuân lệnh của Đế Thích Thiên Vương, là Long thần của đất này. Hiện đang có hai vị quý nhân được Thiên đình cử đến đây, là phúc thần, đang ở hành cung bên ngoài. Dân ấp các người mau ra bái kiến, đón về, không được chậm trễ.
Người dân trong ấp tỉnh mộng, nghe bên hành cung ngoài phảng phất có tiếng người, như đang có rất nhiều binh mã. Mọi người đều kinh sợ, tụ tập nhau báo lại, kể đầy đủ giấc mộng, không hẹn mà cùng nhau mở cửa ra ngoài nơi quán, thấy hai vị đang ngủ say. Mọi người cùng đồng thanh hỏi:
– Hai vị ở đâu tới đây?
Hai ông dậy trả lời rằng:
– Chúng tôi vốn là con của gia đình họ Phạm, đến tìm hỏi người thân thuộc bên họ ngoại.
Người dân trong ấp biết đây là con của nữ họ Đinh, chưa chịu bái phục, đồng tâm tôn kính phụng dưỡng ngay, còn muốn xem đạo trời ra sao. Hai ông ở quán ngoài mấy tháng thì dân ấp gặp bệnh dịch. Dân làm lễ cầu trời đất, lại mộng thấy quan quân tới chỗ dân ở nói:
– Trời cao đã lệnh cho Long thần báo mộng ấp này đón quý nhân làm phúc thần mà lại dám nghi ngờ. Thiên đình mới phạt ấp các người không được yên đó.
Dân ấp tỉnh lại sợ hãi, vội đón hai ông, kể lại 2 giấc mộng, làm lễ bái mừng. Bốn năm năm sau, sự việc như thần báo, hai ông tuổi mười bảy, mình cao mười thước, anh hùng kiêu dũng, tay có thể nâng sắt đá ngàn tạ, đi xa trăm dặm nhẹ như hồng mao. Khi đó Thục Vương có giặc Đại Man, đông hàng chục vạn, chiếm giữ Tuyên Quang, Cao Bình, Hưng Hóa. Triều đình đánh không dẹp được. Vua truyền hịch tìm người tài. Hai ông tham gia ứng thí, văn võ tài năng vô địch. Vua liền cho người anh làm Bình Man Đô nguyên soái Đại tướng quân, người em làm Thiên Quan Nguyên soái Đại tướng quân, cấp cho năm mươi vạn tinh binh diệt giặc.
Hai ông tuân lệnh, chiêu mộ con cháu các gia đình hào kiệt làm bộ hạ thân cận, cộng được một ngàn ba trăm người (các họ tộc ở Trì La đã theo hai ông dẹp giặc là Như Nguyễn, Hào Nguyễn, Tá Đinh, Tào Đinh, Tấn Đinh, Sĩ Đinh, Giảo Phạm, Mai Phạm, Vị Hà, Thưởng Đỗ, Bân Đỗ, Đán Trần, Kế Đào, Quý Lê, Thưởng Đặng, Hoàn Đặng, Tố Giả, Đoan Tự, đều là những tì tướng, lính tốt). Ngay hôm đó chia thành các đạo quân, tiến vào đất giặc, đại chiến một trận. Quân Man thua to, chém được 3 tướng Man, hơn ngàn thủ cấp, thu hết cờ trống khí giới, đem về kinh đô. Vua nghe vậy rất vui mừng, truyền hai ông vào dự tiệc mừng. Hai ông xin phép được về yết bái hai bên nội ngoại. Vua đồng ý, ban cho vàng bạc, châu báu, nhung lụa, mỗi thứ mười thăng, cùng voi ngựa, binh sĩ theo về quê quán.
Hai ông về yết tạ ở từ đường, mở tiệc mừng, rồi lại về quê ngoại ở Trì La. Tháng 3 ngày 15 yết tạ ở từ đường bên ngoại, truyền cho tu sửa cung quán (tức là nơi đã tạm trú qua đêm trước đây) để làm chỗ bày tiệc. Đến hành cung mở tiệc mừng, tự đem năm ngàn quan tiền để sửa chữa đền chùa Vua Trời. Hai ông nói với dân Trì La rằng:
– Chúng tôi cùng các phụ lão bên quê ngoại là có tình, cũng là nghĩa thầy trò, thân lại thêm thân, trời cho như vậy. Chúng tôi có mười thoi vàng giao cho dân ấp làm tiền công để mua thêm ruộng vườn xung quanh làm như hành cung. Sau này chúng tôi mất, thì nơi nay bày yến tiệc sẽ là nơi thờ phụng.
Phụ lão đều đồng ý như vậy. Hai ông làm thơ rằng:
Thiên địa sinh ta vốn có tình
Danh lưu nhân thế tử như sinh
Trì La hương lửa ngàn xuân vẫn
Sinh đã vinh mà tử cũng vinh.
Lại có thơ rằng:
Giúp cho đất nước dựa vào dân
Vạn cổ cương thường có tấm thân
Đến xứ núi sông ta ở cảnh
Một vùng cá nước vạn năm xuân.
Hai ông đến bái tạ đền Vua Trời rồi về triều gặp Vua, xin cho nhận trại Trì La làm nơi thang mộc. Vua đồng ý. Phong cho người anh là Thái Bảo Quốc, đổi người em làm Thiên Cung Bảo Điện tướng quân.
Quán ngoại Trì La một thời nổi tiếng. Gian điện Vua Trời rực rỡ. Thần thường hiển linh cùng Trương Ba (người huyện Đường Hào, xã Liêu Hạ, vốn là thần tiên giáng thế) đánh cờ ở đất này, là nhờ hai ông đã thành tâm thờ cúng mà thần giáng phúc.
Hai ông làm quan qua hơn mười năm. Tới thời Triệu Úy Đà ở Sơn Nam đánh Thục Vương. Vua lệnh cho hai ông đánh dẹp, cùng với Đà giao chiến ba bốn năm. Quân Đà thua nhiều lần, chỉ còn chờ phân thắng bại. Đà giả xin hòa. Vua đồng ý. Hai ông cố can ngăn vì nuôi hổ để họa. Vua không nghe. Hai ông xin được về quê. Vua đồng ý. Hai ông từ biệt ra về, than rằng:
– Thế nước nguy rồi.
Bèn về đất Trì La. Ngày 25 tháng 12 đến đền Vua Trời, vào sau đền rồi hóa. Ngày đó mọi người nhìn xa thấy bên đền có sợi dây lửa dài mười trượng bay lên không biến mất. Người dân trại đem chôn cất. Mối đất bồi lên mộ, mọi người đều lấy làm lạ. Vua thương tiếc tướng hiền lương, truyền sửa sang hành cung để thờ, tặng phong mỹ tự cùng với đất nước:
Phong Hiển thánh Linh thông Đại vương.
Phong Đại quan Bảo điện Đại vương.
Lại kể rằng Uý Đà nghe hai ông đã mất, liền trực tiếp cầu hôn con gái Thục Vương lấy con trai mình là Trọng Thủy. Vua đồng ý. Trọng Thủy lấy trộm nỏ thần Linh Quy hủy đi. Vua đánh cùng Đà đại bại. Đà chiếm được Nam Bang, thâm oán hai ông, phá hủy đền thờ, thu lại sắc chỉ, ấp dân phải lưu tán.
Nhà Triệu truyền được bốn đời, tới Tập Vương thì thế nước suy nhược. Đông Hán Quang Vũ chiếm được đất Nam, sai thần là Tô Định làm thái thú Nam Châu. Định là kẻ tham lam, giết hại huyện lệnh Thi Sách, là chồng của Trưng nữ Vương (Trưng Trắc, Trưng Nhị vốn là dòng dõi Hùng Vương, con của quan lệnh Phong Châu, chị em đều có kỳ tài). Trưng nữ khởi binh đánh Tô Định, báo thù chồng. Đại tướng Huệ Lực tích cực theo chiến trận để báo thù cho cha (Huệ Lực là con của huyện lệnh Đường Hào, cha bị Tô Định giết, mẹ lúc đó có mang chạy đến ở trong chùa La Trừng, sinh ra Huệ Lực theo Trưng nữ báo thù cho cha).
Huệ Lực đầu tiên đóng doanh trại ở trại Trì La, mật cầu ở đền Vua Trời để được âm phù giúp đánh quân hung tàn. Ban đêm mộng thấy hai Thiên tử tay cầm long đao nói:
– Chúng ta tuân lệnh Vua Trời giúp vua dẹp giặc.
Liền tiến binh, chém được Tô Định. Hơn năm mươi thành đều quy phục. Trưng Vương lên ngôi, mở tiệc mừng công.
Huệ Lực giúp dân Trì La tạo lại đền thờ Hai vị và đền Vua Trời. Một tối, Huệ Lực cùng dân Trì La đều mơ thấy thần nhân báo trời giáng cho cây gỗ dâu ở trước đền, nên dùng đó để làm tượng Nhật Quang, Nguyệt Quang Thiên tử. Khi đến đền xem thì đúng là thấy có cây gỗ dâu đặt ở cửa đền, đem vào trong đền. Lại thấy hai con rắn dài hơn một trượng, toàn thân vảy năm màu ở dưới tượng hai vị Thiên tử. Huệ Lực truyền lấy gỗ dâu tạc thành tượng hai vị Thánh vương. Mở tiệc mừng lớn, lệnh hợp nhất trang La Trừng và trại Trì La. Giáp Tây phù giá Nhật Quang Thiên tử, giáp Đông phù giá Nguyệt Quang Thiên tử.
Việc xong tâu về triều. Trưng Vương lại khen tặng ba vị thiên thần thượng đẳng: Tam thập tam thiên Đế Thích Đề Hoàn Thánh đế Bệ hạ, Nhật Quang Thiên tử Thánh Vương, Nguyệt Quang Thiên tử Thánh vương. Cùng với Đá Công, Dũng Công, Diêm La Công, đều phong làm bản thổ thành hoàng. Còn các tộc tì tướng làm thần bộ hạ thủ điện. Cho phép Trì La hương đèn thờ cúng. Trải Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, gồm ba trăm bốn mươi chín năm, Nam Bang có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng hồng đồ, đế đức giúp nước giúp dân, đều rất linh nghiệm.
Trần Thái Tôn có con gái là Huyền Trân công chúa, được gả cho chúa Chiêm Thành để báo ơn cũ. Chúa Chiêm mất, bầy tôi muốn đem đốt Công chúa trên giàn lửa. Trần Thái Tôn nghe vậy lập tức cầu đền Đế, làm lễ cầu gió. Công chúa xuống thuyền rồng chạy ra ngoài biển. Gió lớn thổi buồm giúp lánh nạn thoát khỏi.
Sau này công chúa Thiều Ninh lại đến đền cầu tự, bỗng thấy hai búi tóc đặt hai bên trái phải của đền. Nhân dân tâu rõ việc ấy lên. Thái Tôn lệnh cho đình thần đến đền làm lễ, truyền để búi tóc vào hai cái hộp, chôn ở phía dưới hai vị Thánh chủ. Lại tưởng nhớ tới ngày trước công chúa Minh Hoa (người sinh ra hai vị Thiên tử), hai búi tóc là điềm lành. Bèn truy tặng mỹ tự cho ba vị thượng đẳng cùng các tôn thần bản thổ. Trải triều Trần 12 đời đến Lê Thái Tổ, Tiền Lê Hậu Lê, đều có giúp nước ích dân, đế vương các đời xưa đều truy tặng mỹ tự, hương lửa ngàn thu cái đức ấy.

Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn.

Lại ở huyện Thiên Thi, xã Liễu Cầu có hai chị em vì loạn lạc vào đến nước Ai Lao. Họ mật cầu Vua Trời bảo hộ. Bỗng nhiên thấy đi bộ như bay, về tới quê quán. Khi đến làm lễ tạ, việc xong thì hình hài biến mất, chỉ còn hai búi tóc lưu lại (xem Lĩnh Nam trích quái).
Ngày 12 tháng 6 (14 xã đại hội làm lễ ca hát).

IMG_5036

Thiên Đế bảo lục

Phiên âm bản thần tích Thiên Đế bảo lục của đền Thiên Đế ở Cầu Váu, Vĩnh Khúc, Văn Giang, Hưng Yên.

Thien De bao luc

Phụ Khoái Châu phủ Thiên Thi huyện La Trừng trang Trì La trại

Thiên Đế bảo lục

Tích Nam Việt Hùng Vương khai sáng, thế tổ triệu cơ, thập bát thế truyền, nhị thiên dư tải, thái bình ngọc chúc, quốc thế kim âu. Hậu Trần tiên sinh hữu thi vân:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thánh kế thần truyền thiên cổ tại
Nhị thiên dư tải ức niên hương.
Cái Bách Việt chi tổ, thái hoà chi thịnh hội dã.
Kinh Dương Vương tôn Chiêu Vương, đô vu Việt Trì Bạch Hạc giang, quốc hiệu Văn Lang. Chiêu Vương khoan nhân trí tuệ, tôn sùng Phật pháp, kính sự thần chi, chuyên vụ dưỡng dân vi bản, thế xưng vi hiền quân dã. Thị thần hải nội thăng bình, phủ trung vô sự, nhân dân ngu cấp túc chi quản huyền, thiên hạ ngưỡng thái bình chi cảnh tượng. Đế tử chính tông nhàn du thiên hạ, thần Sơn Nam quận Khoái Châu phủ Thiên Thi huyện La Trừng trang Trì La trại chi địa, nhất nhật kiến phong vũ tiêu tiêu, thiên địa hối minh, nhật trung dĩ dạ. Trì La dân khiếp cụ, bất cảm xuất môn. Khoảnh khắc thiên địa tình quang, hốt đại thụ phi lai lập tại long đầu thổ ấn chính cục, trường nhất trượng dư. Thụ hương phức uất, chi diệp tinh thông. Trì La dân dị chi phụng tấu đế đình. Chiêu Vương loan giá đế quan nãi tri tử bạch đàn chi linh mộc dã . Vương ám hỷ quốc thế hưng long, thiên sinh linh mộc, thử đại cát triệu dã. Tức truyền Trì La dân lập lộ thiên bệ, trí nhất hương lô tuế thần hương đăng phụng tự yên. Dân phụng mệnh tu lý.
Vương hành lễ tế thiên, loan giá hồi điện. Tự thử quốc đảo dân cầu, trai giới chí thành, tựu linh mộc hạ khẩn nguyện quốc gia kỳ tình đảo vũ, dân gian nhương bệnh cầu thai, linh ưng như hưởng hỹ.
Đãi chí Hùng Vương thập thế truyền Tạo Vương ngự cực. Linh mộc tại Trì La kinh thất bách dư niên, chi diệp y nhiên. Mậu thịnh xuân thiên nhị nguyệt sơ nhất nhật linh mộc xứ thiên địa hôn hoàng, vân đằng ngũ sắc, hoả thằng toàn nhiễu, linh mộc tam tạp hào quang, thiểm thước phong vũ hôn mê. Trì La dân kinh phục, tu hoán, thiên địa tình quang. Nhân dân tụ quan nãi kiến cự nhân tích tam bộ ấn nhập mộc trung. Kỳ lộ thiên bệ chú hương giai tự băng vấn. Trì La dân kinh dị tái phụng tấu đế đình. Tạo Vương loan giá quan chi dĩ vi hoàng gia đức thịnh, tất hữu thánh nhân xuất thế, dĩ bảo quốc gia quyết phi tầm thường thuỵ dã. Tức truyền sở tại dân lập tự phụng tự. Tỉ quốc gia nhân dân đảo kỳ hữu sở tự thành, Vương hành lễ sự, cật loan giá hồi điện. Tự thử quốc đảo dân cầu, hương đăng bất tuyệt.
Khước thuyết: Vương hữu nhất thân (tức Hy Vương nữ ) hiệu Minh Hoa công chúa, quốc sắc thanh kỳ, phong tư tuyệt thế, hồng thần phấn kiếm, phượng nhãn nhung my, bản lãng uyển chi hoa, kiều bất nhiễm trần ai tục, vị sơ sinh chỉ thực trai, luyến hương hoa chi vị. Cửu tuế đế đình tự nguyện xuất gia quy Phật. Hy Vương kiến nữ tử thành tâm mộ Phật, truyền lập tự vu điện trung tỷ thích kỳ nguyện. Tự thử công chúa phụng Phật trưởng trai, tinh thông Phật pháp.
Cập Tạo Vương tức vị, công chúa đăng vi thế tôn bồ tát. Niên thất thập nhất văn Trì La hữu linh mộc, trung hữu cự nhân, tích vương truyền lập tự phụng tự, phương tâm luyến cảnh, mệnh giá xuân du, tựu xứ quan chi hồng nhật dĩ tà. Công chúa ngưỡng quan linh mộc, kiến không (âm không, tân thoát xác dã) xà tự thiên hữu vẫn nhiễu Minh Hoa công chúa tam tạp. Công chúa khiếp phục bàng hoàng, tự mộng, hốt kiến nhật nguyệt tịnh truỵ nhập khẩu trung, tịnh thôn chi, siếp thần, không xà đằng không nhi khứ. Công chúa sạ tỉnh, giá hồi vương phủ. Bách nhật hậu công chúa cảm nhi hữu thần, quan linh mộc cự nhân tích xứ diệc giai tự dựng, nhật nguyệt tiệm đại, thường hữu tản vân ngũ sắc, phúc linh mộc thượng. Nhân giai kỳ chi. Minh Hoa công chúa dựng kinh thất bát nguyệt. Tạo Vương truyền nhập long đình, vị viết: cửu tuế quy Phật, chí tư niên thất thập dư dĩ đăng bồ tát. Hà sự đam tình hoa nguyệt, di tiếu nhân gian. Công chúa tự trần tựu quan linh mộc không xà triền thân chân tính cụ tấu. Vương bất tín, biếm nhập Ô Lý chi địa (tức Chiêm Thành địa).
Kinh sổ nguyệt Trì La dân kiến linh mộc xứ, dạ văn phong thanh phất phất như lôi quán nhĩ, mộc thượng xán lạn, giai như hoả diễm, mộc trung tự dựng giả ích đại. Trại dân tấu kỳ sự. Vương dĩ vi quái, tức truyền lập kỷ cấp đàn tại long đình trung, tế giới mộc dục. Tam nhật kiền thành, triệu các tăng ni, dữ bách quan hành lễ kỳ đảo. Chúc viết: quả nhân kiến thử quái mộc, cập thất tuần công chúa hữu thần, bất tri hoạ phúc như hà, vi thử tấu cáo Hoàng Thiên, bách thần chư phật, khẩn nguyện cát hung ưng mộng, tỷ trần tâm đắc ngộ huyền cơ. Thị tịch nhị canh bán, Vương mông lung thuỵ khứ, kiến tường vân ngũ sắc, ngọc điện lưu ly, long cung xán lạn, phượng các huy hoàng, Ngọc Hoàng chính ngự, bách quan sâm liệt. Hốt văn Ngọc Hoàng truyền thiên đình điển bạ phán quan, xuất triệu Tạo vương chí đình.
Ngọc Hoàng mạ viết: kim thế vận nhất cực hội dã, tam thập tam thiên thế giới chi hạ, đa tai ương kỳ dị, tật bệnh cơ khát, tử vong tải lộ, âm dương hỗn tạp, yêu quỷ tặc đồ, Nam Châu dũ thậm. Thiên đình mẫn thử hạ dân trì mệnh Đế Thích đề hoàn thiên vương ưng thai ư bạch đàn linh mộc. Tái mệnh Đông quang chủ bộ, Tây quang chủ bộ, nhị vị đầu thai ư Minh Hoa công chúa, giáng sinh nhân thế, tá hữu Đế Thích Thiên Vương, trừ quỷ tặc ư Nam Châu, cứu nhân gian chi tật khổ, dĩ diễn quốc gia chi mệnh mạch. Quân vương an đắc biếm giáng công chúa giả gia. Kim dĩ tri quá chí thành kỳ đảo, tức nghinh công chúa hồi cung, thứ miễn kỳ tội. Vương tỉnh giác, hoàng cụ, hành lễ bái tạ, tức mệnh đình thần nghinh Minh Hoa công chúa tái hồi phủ điện. Vương thân tạ quá, kính lễ sự chi, tái khiển Thuỷ tào phán quan Diêm La bộ suý

(Án Diêm La bộ suý, diệc Hùng Vương chi miêu duệ, Long Vương bách noãn chi tôn, kỳ phụ Hùng Độ vi đế thủ bộ chủ. Kỳ mẫu Vũ Thị Đoan mộng kiến giao long nhi hữu thần thần. Chí Quý Tỵ niên thập nguyệt sơ thập nhật sinh Diêm La công, mệnh danh viết Đà. Niên thập tứ, văn võ kiêm toàn, anh hùng cái thế, dũng lược quá nhân, lập tại ba đào, như lý bình địa. Vương triệu hồi triều thụ chức, đa triển kỳ tài, trạc vi chưởng quản long chu Lạc Long tướng quân. Niên thập cửu Vương mệnh tướng binh thảo Diêm La tặc ư Nam Hải ngoại. Công phụng mệnh bình Diêm La chủ, tái triệu hồi triều vi chưởng bình Diêm La nguyên suý, thuỷ đạo đại tướng quân, tái mệnh phó nhậm trấn hải môn, vi thuỷ đạo chủ bộ)

Tựu Trì La trại linh mộc xứ, phụng thủ hương đăng, đãi quan thuỵ ứng như hà tài đắc nhất niên. Thần thiên hạ nhân dân tai ách, tật bệnh hạ thắng, tà yêu tác loạn, xuất một nhân gian, thiên địa hối minh, bất phân trú dạ, giang hải giao long, sơn lâm hổ báo, nhiễu hại nam nữ. Tái hữu Xích Tỵ quỷ, cẩu ma thần, khởi binh tác loạn, năng thực nhân nhục, ẩm nhân huyết, nhập hoả bất phần, nhập thuỷ bất nịch, hoặc đằng không nghinh chiến, hoặc tiềm thuỷ giáp công, binh tam thập vạn, dư biến hiện vô cùng, lược thủ Đông Tây Lưỡng Quảng, thập lục châu, tận thị quỷ tặc địa. Triều đình phấn kích, bị hại giả đa, tướng thần thứ thủ vô sách. Vương thâm ưu chi, hồi ức Hoàng Thiên báo mộng, tam niên hậu, quốc hữu quỷ tặc, quả nghiệm, nhi thiên vương giáng thế, phụ quốc cứu dân, vị đắc kiến dã.
Tái lập nhất đàn tề trai giới, đảo tế thiên địa tam nhật. Giáp Tí niên xuân thiên chính nguyệt sơ cửu nhật, Trì La linh mộc tự dựng, kinh dĩ tam niên, hốt văn tích lịch (nhất thanh tam niên) kinh thiên động địa, phong vũ hối hôn mê, nhật trung tự dạ. Trì La dân khiếp cụ, thiết phục quán chi, kiến tản vân ngũ sắc, phúc linh mộc thượng, hào quang xán lạn, thuỵ khí huy hoàng, thiên tinh cộng hội, long phượng nhiễu bàng, câu thiên hưởng lượng, nhã nhạc hoà hài, nga nhi đại phá nhất thanh, hoả quang tứ phóng. Mộc phá chi lạc, phi thiên đằng không, kỳ mộc phúc phá xuất nhị bào, thủy thành cam thuỷ, duy tồn nhất giả tam tứ xích, cương như thiết thạch, thuỷ phúc nhất bào, ngũ thải vân phúc kỳ thượng. Diêm La vương kinh dị, phụng tấu đế đình. Vương thân lai trí bào long giá, nghinh hồi bảo điện, truyền lập long lâu ư đình tiền, trí bào ngọc tử, diệc thường hữu ngũ sắc vân phúc kỳ thượng. Vương dữ bách quan trai giới hành lễ, khẩn nguyện thiên vương xuất thế, dĩ tá quốc gia, dĩ tiêu tai biến.
Chính nguyệt thập ngũ nhật hốt kiến thiên địa âm mai, lâu thượng bào hào quang tứ phóng, thuỵ khí hỗn hoàng, bào trung tự phá nhất thanh, kinh động thiên địa. Vương dữ bách quan khiếp phục lâu tiền, ngưỡng quan chi kiến Đế Thích Thiên Vương ngự lâu tiền long đầu, tường vân ngũ sắc, đầu đới bình thiên mạo, thân phi long cổn, thủ chấp kim bài.
Minh Hoa công chúa hoài thai tam tải, đại phá nhất thanh, nhị nhân tòng công chúa đầu thượng đột xuất, thể mạo khôi kỳ, ngũ nhạc triều thiên, tam đình bình đẳng, diện như hồng nhật, thạc đại đường đường, ngũ thái tinh huy, ngọc cân xán lạn, thủ chấp long đao, thị lập Đế Thích Thiên Vương tả hữu.
Công chúa hóa thân, duy tồn lưỡng thứ phát, nhất thứ tại Đông quang biên, nhất thứ tại Tây quang biên. Tu du, vân âm tứ tán. Thiên địa tình quang. Vương dữ bách quan bái hạ, hốt văn Đế Thích Thiên Vương truyền tả hữu nhị công viết: Thiên đình mệnh ngã giáng sinh Nam Châu, tá thần quân, trừ quỷ loại, nghi cấp tuyển tướng khiển binh, tuỳ ngô thảo tặc, bất khả hoãn dã. Nhị công phụng mệnh tức triệu Diêm La bộ suý đề nhất thiên binh thảo tặc. Nhị công lệ thanh nhất hô, lưỡng thứ phát hốt biến. Nhất thứ phát biến vi hoả mã, thân trường cửu xích, Tả công kỵ chi. Nhất thứ phát biến vi ngọc lân, Hữu công kỵ chi. Tam vị (Thiên Đế cập nhị công dã) tiến hành không trung, Diêm La tiến hành thuỷ đạo, tấn chí tặc cảnh. Nhị công huy đao lệ thanh, đại sất lôi đình lẫm liệt, hào quang tứ phóng, thiên binh hoán khởi giáp công. Hoả mã Ngọc lân phún hoả. Thuỷ đạo Diêm La tiếp chiến, vân vũ hôn mê, quỷ tặc kinh tán, tận biến vi trần. Duy Xích Tỵ quỷ bất năng tự biến, trảm nhất thiên đầu, tống hồi kinh quốc. Hổ báo giao long yêu quái chi vật, nhất giai ninh tức.
Lục nguyệt sơ thập nhật Đế Thích cập nhị công đăng ngũ tằng vân nhi hoá. Diêm La bộ suý tức nhật hồi triều, biểu tấu kỳ sự. Vương văn chi, đại thán tức viết: nhân dân chuyển hoạ vi phúc, chuyển tai vi tường, ngưỡng thánh đức tường vân thuỵ nhật, thố lưỡng gian hoà khí xuân phong vạn hạ Thiên Đế cập nhị vị toàn càn chuyển khôn chi đại pháp lực dã, toại truyền tạo điện ư long đình, phụng tự tam vị, đáp tạ thần hưu.
Lục nguyệt nhị thập cửu nhật Diêm La công hạ long chu, du Phong Châu, chí Tam Kỳ thuỷ, phong đào âm ế. Diêm La công thân biến vi xà, trường thập trượng dư, trực hạ Tam Kỳ, hoá sinh bất diệt. Tướng sĩ tức hồi đế đình, phụng tấu kỳ sự. Vương tức mệnh đình thần chí Tam Kỳ hành lễ, lập từ phụng sự yên. Tái truyền tu tam vị thần tượng, cập Diêm La công tượng, nghinh nhập bảo điện, tuế thần phụng sự, kỳ đảo linh nghiệm. Vương mệnh giá tựu Trì La trại, tiên lập hành cung, ngưỡng quán địa hình, long như yển đình chi hình, thuỷ thế oanh hồi, dương long loan bão, ngự chí linh mộc xứ, kiến nhất phiến chân long, thất tinh đới ấn, ngọc mạo hậu đầu, tả hữu phiến phiến hồi đầu củng hướng. Tả hữu long nhãn tỉnh, ngư truy hồi triều, kim tinh trữ lập, ngân đới chu hồi, thiên mã củng, liên hoa khai, đường tâm tam tinh lưỡng diệu đột khởi, thành thiên tạo chi quý địa dã.
Vương truyền lập từ ư long đầu chính cục, toạ Quý hướng Đinh, thuỷ thế nội triều, tinh phong ngoại ưng. Tái truyền tướng tử bạch đàn linh mộc giả (cung tạo) Đế Thích Thiên Vương thần tượng phụng tự. Hựu truyền lập tự ư long hình xứ, sự cật, chuẩn hứa Trì La trại Đông Tây lưỡng giáp, tuế thần hương đăng, tịnh miễn binh lương. Xuân (tam nguyệt sơ thập nhật) thu (cửu nguyệt thập nhị nhật) quốc tế. Ban tiền tam thập quán, trí tự điền thập nhị mẫu, phụng sự như nghi. Nhất trại lục trang (An Canh, Liễu Cầu, La Trừng, Trại Thung, Cổ Lễ, Lưu Xá) diệc miễn binh lương, tuế thần phụ tế ư Trì La Thiên Đế từ.
Vương đề thi vân:
Trì La thắng địa tối chung linh
Xứ xứ triều quy củng đế đình
Thiên Đế giáng sinh di tích tại
Quốc gia hương hoả ức niên hinh.
Vương phản giá hồi điện, tặng phong Tam thiên thiên Giới nội Đế Thích Đề Hoàn Đại phu Ngọc bệ hạ, Nhật quang Thiên tử Thánh vương, Nguyệt quang Thiên tử Thánh vương -Tam vị thượng đẳng thiên thần. Diêm La bộ suý môn tiền tôn thần.
Khước thuyết: Hùng Vương thập bát truyền chí Tình Vương vô tự, tốn vị ư Thục An Dương Vương. Thế truyền Ái Châu (tức kim Thanh Hoá) Thuận Thiên phủ Lôi Dương huyện Biện Sơn xã Phạm Đạt vi Sơn Nam quận điển binh, thú Trì La trại Đinh gia nữ Lục Nương. Phụ tạ tam tứ niên, phu phụ lực hành thiện sự. Tứ tuần dư vị chiêm hùng huỷ chi tường. Nhất nhật vị phu nhân viết: Ngã tiên tổ tố xưng thiện chi gia, đôn ngũ luân, chẩn cùng phạp, ngã dữ nhĩ, hành nhân tu đức, bất cảm ích kỷ hại nhân, tự phạm nhất hào tội ác, cửu bồi thiện quả. Vị vãn, kiến quế phương, hoặc nhân đạo do khuy, cố thiên tâm anh quyến. Ngã văn Thiên Đế điện, quốc gia dân độ, đảo chi tất thông, vạn sự như ý. Ngã dữ nhĩ, thành tâm cầu tự, phi yến kỹ hoài, khởi bất thích bình sinh chi nguyện ư thị chí từ cầu tự. Dạ mộng thần nhân báo viết: Ngã hiếu đấu kỳ, nhữ tri kỳ hồ. Phạm đối viết thần bản bất tri kỳ dã.
Thần nhân viết: kỳ giả hoạ phúc chi cơ, thiên địa huyền vi, nhân gian nan thức, nhữ chí thành cầu tự, Ngô sát nhữ gia chi phúc, hậu tai hậu tai. Ứng hứa kỳ thạch xa tử tướng hồi dĩ vi gia bảo. Ngôn ngật, tức thụ chi. Phạm thai kính thụ bái tạ. Tỉnh, mặc tưởng Ngô gia phúc hậu, Hoàng Thiên dĩ tứ tự hỹ. Phu phụ hành lễ bái tạ nhi hồi. Tài sổ nguyệt Đinh Thị hữu thần, kinh lục thất nguyệt, Phạm văn thúc phụ quyên trần, phu phụ tái tựu từ hành lễ. Sự cật hồi Biện Sơn trợ táng. Kỷ Mùi niên tam nguyệt sơ cửu nhật, Biện Sơn xã tường quang phức uất, phu nhân sinh nhị nam, đô thị thể mạo khôi kỳ, anh tư lẫm liệt, tàm my yến hạm, phượng nhãn long nhan, thủ thuỳ quá tất, túc để thất mao, mệnh danh viết Đá Công, Dũng Công. Phương bát tuế, trí dũng siêu quần, thụ nghiệp Ngô tiên sinh. Tài sổ niên, bách gia chư tử tam lược lục thao (Hoàng Thạch thụ Trương Lương binh thư thượng trung hạ tam lược, Thái Công binh thư hữu Long hổ văn vũ báo khuyển lục thao), vô bất quán triệt, văn võ kiêm toàn, bằng đồ kinh phục. Nhị công anh niên, song thân tảo một, ấp nội Võ cự tộc nhân, kiến nhị công kỳ tài, dục cứu dưỡng chi. Tịnh giá kỳ nữ, nhị công bất tòng. Võ gia kiến nhị công cương dũng, đạo kiếp luỹ phiên, tầm nã bất chích. Nhị công tòng gian đạo chí Thiên Thi huyện Trì La ngoại quán, thần nhật dĩ mộ, lý hạng bế môn. Nhị công vọng kiến dã ngoại cung quán (tức Tạo Vương hành cung giá ngự) nãi khế tức yên. Thị dạ Trì La dân các tộc, nhất giai mộng kiến nhất đại quan y mạo chỉnh tề, thân kỵ hồng mã, thị tòng sổ thập nhân, trực nhập ấp nội, triệu hào kiệt vị viết: ngã phụng Đế Thích Thiên Vương chi mệnh, vi thử địa long thần, kim hữu nhị vị quý nhân, Thiên đình mệnh lị thử địa, vi phúc thần, hiện trú dã ngoại hành cung. Nhĩ ấp dân nghi tức bái hạ, nghinh hồi, thảng trì, hữu cữu, nga nhi ấp nhân mộng tỉnh, văn dã ngoại hành cung, phảng phất nhân thanh, binh mã đại hội giả thậm chúng. Nhất giai kinh cụ, tụ thủ cáo ngữ, cụ thuật kỳ mộng, bất ước nhi đồng, khai môn xuất quan cung sở, kiến nhị công thục thuỵ, đồng thanh vấn viết: nhị công hà xứ đắc lai.
Nhị công khởi đáp viết: ngã bản Phạm gia tử, thám vấn ngoại gia thân thuộc. Ấp nhân tri thị Đinh nương tử, vị khẳng xu bái thần phục duy nhất tâm phụng dưỡng tôn kính. Từ quan thiên đạo như hà. Nhị công cư ngoại quán sổ nguyệt, ấp dân tật dịch, hành lễ đảo thiên địa, tái mộng kiến quan quân nhập dân cư, vị viết: Hoàng thiên mệnh long thần báo mộng nhĩ ấp nghinh quý nhân vi phúc thần, cảm nhĩ trì nghi, Thiên đình thanh phạt nhĩ ấp bất ninh dã. Ấp dân tỉnh lai tỉnh cụ, tức nghinh nhị công, tường thuật nhị chiêm, hành lễ bái hạ. Tứ ngũ niên gian, sự vi thần minh, nhị công niên phương thập thất, thân trưởng thập xích, anh hùng kiêu dũng, thủ cử thiên tạ thiết thạch, hành viễn bách lý chí tự hồng mao. Thần Thục Vương hữu Đại Man tặc, sổ thập vạn chúng, lược thủ Tuyên Quang, Cao Bình, Hưng Hoá. Triều đình thảo chi bất khắc. Vương truyền hịch mộ kỳ tài. Nhị công ứng thí, văn võ chi tài vô địch. Vương tức bái huynh vi Bình Man đô nguyên suý đại tướng quân, đệ vi Thiên quan nguyên suý đại tướng quân, tổng cấp tinh binh ngũ thập vạn thảo tặc. Nhị công phụng mệnh, mộ hào gia tử đệ vi nội đao, thủ, túc, cộng đắc nhất thiên tam bách nhân (Trì La các tộc tòng Nhị công thảo tặc như Nguyễn Hào, Nguyễn Tá, Đinh Vãn, Đinh Tấn, Đinh Sĩ, Đinh Giảo, Phạm Mai, Phạm Vị, Hà Thưởng, Đỗ Bân, Đỗ Đán, Trần Kế, Đào Quý, Lê Thưởng, Đặng Hoàn, Đặng Tố, Giả Đoan tự giai vi điển binh bì tướng). Tức nhật phân đạo, trì nhập tặc cảnh, đại chiến nhất trận. Man binh đại bại, trảm Man tướng tam danh, nhất thiên dư thủ cấp, tận thu kỳ cổ khí giới, tống hồi kinh quốc. Vương văn chi, đại hỷ, triệu nhị công hồi văn yến hạ. Nhị công thỉnh quy yết nội ngoại tiên đường. Vương hứa chi, ban tứ kim ngân châu bảo cẩm tú, các sổ thập thăng, tượng mã binh sĩ, tống quy hồi gia quán.
Nhị công yết gia từ, khai yến hạ, tái hồi Trì La ngoại quán. Tam nguyệt thập ngũ nhật, yết ngoại từ, truyền tu lý cung sở (tức tạc dạ tạm trú), dĩ vi hội đồng du yến chi sở. Tựu hành cung khai yến hạ, tự xuất tiền ngũ thiên quán, tu lý Thiên Đế từ tự. Vị Trì La dân viết: ngô dữ phụ lão, dĩ ngoại quán chi tình, kiêm sư đệ chi nghĩa, thân hựu gia thân, thiên sử nhiên dã. Tư hữu hoàng kim thập hốt, phó ấp dân vi công bản, đa mãi điền trì, chí như hành cung. Cựu ngô khế dã, kim nhật du yến, tha nhật tức vi tự sở dã phụ lão giai ưng viết nặc. Nhị công tác thi vân:
Thiên địa sinh ngô dã hữu tình
Danh lưu nhân thế tử như sinh
Trì La hương hỏa thiên xuân tại
Sinh dã vinh hề tử dã vinh.
Hựu thi vân:
Phù chi ư quốc ỷ ư dân
Vạn cổ cương thường hệ thử thân
Đáo xứ sơn hà đô ngã cảnh
Nhất đường ngư thuỷ ức niên xuân.
Toại bái tạ Thiên Đế từ, hồi triều yết Vương, thỉnh Trì La trại vi thang mộc ấp. Vương hứa chi. Trạc huynh vi Thái Bảo Quốc, cải đệ vi Thiên Cung Bảo Điện tướng quân. Trì La ngoại quán, hách dịch nhất thần Thiên Đế từ vũ huy hoàng. Thần thường hiển linh, dữ Trương Ba (Đường Hào huyện Liêu Hạ xã nhân bản thị thần tiên giáng thế) đấu kỳ ư thử địa, cái do nhị công chí thành phụng sự, thần giáng chi phúc dã.
Nhị công bỉnh chính, kinh thập niên dư, thần Sơn Nam Triệu Uý Đà công Thục Vương. Vương mệnh nhị công thảo chi, dữ Đà giao chiến, tam tứ niên. Đà binh đa bại, đãn vị phân thắng phụ. Đà trá hoà, Vương hứa chi. Nhị công cố gián, dĩ vi dưỡng hổ di hoạn. Vương bất cha. Nhị công thỉnh quy điền, Vương hứa chi. Nhị công từ quy, thán viết: quốc thế nguy hỹ. Nãi giá hồi Trì La địa. Thập nhị nguyệt nhị thập ngũ nhật yết Thiên Đế từ. Tựu từ hậu quy hoá yên. Thị nhật nhân vọng kiến từ biên, hữu hoả mẫn trường thập trượng, đằng không nhi khứ. Dĩ nhi trại dân nghinh táng, thổ trùng bồi phúc, nhân giai kỳ chi. Vương ái tích lương tả, truyền tu lý hành cung phụng tự, bao phong mỹ tự, dữ quốc đồng hưu.
Nhất phong hiển thánh linh thông đại vương.
Nhất phong đại quan bảo điện đại vương.
Khước thuyết: Uý Đà văn nhị công dĩ hoá, dũng cầu Thục Vương nữ, giá kỳ tử Trọng Thuỷ. Vương hứa chi. Trọng Thuỷ tiềm thiết linh quy thần nỗ huỷ chi. Vương dữ Đà chiến đại bại. Đà khóa hữu Nam Bang, thâm oán nhị công, huỷ kỳ từ, thu sắc chỉ, ấp dân lưu tán yên. Triệu truyền tứ thế, chí Tập Vương, quốc thế suy nhược. Đông Hán Quang Võ lược thủ Nam địa, khiển kỳ thần Tô Định vi Nam Châu thái thú. Định vi nhân tham nhũng, sát Thi Sách huyện lệnh thị Trưng nữ vương phu (Trưng Trắc, Trưng Nhị bản Hùng Vương nữ, trú Phong Châu kim chi, nữ tỷ muội giai phụ kỳ tài). Trưng nữ khởi binh, công Tô Định, báo phu thù. Đại tướng Huệ Lực phấn dũng tòng chinh, dĩ báo phụ cừu (Huệ Lực bản Đường Hào huyện lệnh chi tử, kỳ phụ vi Tô Định sở sát, mẫu phương hữu thần, tẩu cư La Trừng tự, sinh Huệ Lực, tòng Trưng nữ báo phụ cừu), tiên thiết dinh ngũ sở ư Trì La trại, mật đảo Thiên Đế từ, nguyện đắc âm phong trợ thuận, thủ bỉ hung tàn, dạ mộng Nhị Thiên tử thủ chấp long đao, vị viết: “Ngã phụng Thiên Đế mệnh, trợ quốc quân thảo tặc”. Cập tiến binh, tức trảm Tô Định. Nam Châu ngũ thập dư thành phục yên. Trưng Vương tức vị, yến hỷ thưởng công. Huệ Lực sức Trì La dân tạo Nhị công từ ư Thiên Đế từ trắc. Nhất tịch, Huệ Lực cập Trì La dân giai mộng thần nhân báo Thiên giáng tang mộc vu từ tiền, nghi tức trang tạo Nhật Quang, Nguyệt Quang Thiên tử tượng. Cập chí từ, quan chi, quả kiến tang mộc trí từ môn, nhập từ trung. Tái kiến nhị xà trường nhất trượng dư, ngũ sắc lân toàn nhiễu vu Thiên tử nhị tượng chi hạ. Huệ Lực truyền tướng tang mộc khắc thánh vương nhị vị tượng. Đại khai yến hạ, tức mệnh La Trừng trang dữ Trì La trại hợp nhất, Tây giáp phù Nhật quang Thiên tử giá, Đông giáp phù Nguyệt quang Thiên tử giá. Sự cật, phụng tấu. Trưng Vương tái bao tặng tam vị thượng đẳng thiên thần, tam thập tam thiên Đế Thích Đề hoàn Thánh đế Bệ hạ, Nhật quang Thiên tử Thánh vương, Nguyệt quang Thiên tử Thánh vương.
Cập Đá Công, Dũng Công, Diêm La công, giai phong vi bản thổ thành hoàng. Cập các tộc bì tướng, vi bộ hạ thủ điện chi thần, chuẩn hứa Trì La hương đăng phụng tự yên. Lịch Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, phàm tam bách tứ thập cửu niên, Nam Bang hữu Đinh, Lê, Lý, Trần, tứ tính, khai sáng hồng đồ, đế đức hộ quốc tý dân, đại hữu linh nghiệm.
Trần Thái Tôn hữu nữ Huyền Trân công chúa, giá Chiêm Thành chủ, dĩ báo cựu ân. Chiêm chủ một, kỳ thần dục tướng công chúa nhập hoả đàn thiêu chi. Trần Thái Tôn văn chi, tức đảo Đế từ, hành lễ cầu phong. Công chúa hạ long chu, xuất hải tế. Đại phong sử phàm, tị nan tẩu thoát. Hậu Thiều Ninh công chúa tái nghệ từ cầu tự, hốt kiến lưỡng thúc phát, trí từ tả hữu. Nhân dân sự biểu tấu kỳ sự. Thái Tôn mệnh đình thần chí từ hành lễ, truyền trí thúc phát vu lưỡng hạp, mai tại thánh chủ nhị vị chi hạ. Cái mặc tưởng tức tiền nhật Minh Hoa công chúa (sinh Thiên tử Nhị vị) lưỡng thúc phát chi cát triệu dã, tức truy tặng tam vị thượng đẳng mỹ tự, cập các bản thổ tôn thần. Lịch Trần triều thập nhị thế, chí Lê Thái Tổ Tiền Lê Hậu Lê, giai hữu hộ quốc tí dân, cố lịch đại đế vương, truy tặng mỹ tự, hương hoả thiên thu đức kỳ hoặc hỹ.
Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn.
Hựu Thiên Thi huyện Liễu Cầu xã, hữu tỷ muội nhị nhân, tao loạn, nhập Ai Lao quốc, mật đảo Thiên Đế bảo hộ. Hốt nhiên hành bộ như phi, hồi chí bản quán, cung hành tạ lễ, sự cật hình hài đô biến liễu, chỉ lưu lưỡng thúc phát tại yên (kiến Lĩnh Nam trích quái).
Lục nguyệt thập nhị nhật (thập tứ xã đại hội hành lễ ca xướng).

Phần Nho văn:

附快 州府天施縣羅澄庄池羅寨
天帝寳籙

昔南粤雄王開創世祖肇基十八世傳二天餘載太平玉燭國勢金甌後陳先生有詩云
初開南粤自涇陽
一統山河十八王
聖繼神傳千古在
二千餘載億年香
盖百粤之祖泰和之盛會也
涇陽王孫昭王都于越池白鶴江國號文郎.昭王寬仁智慧尊崇佛法敬事神祗専務養民爲本世稱爲賢君也.是辰海内昇平府中無事人民娛給足之管絃天下仰太平之景象帝子正宗閒遊天下辰山南郡快州府天施縣羅澄庄池羅寨之地一日見風雨瀟瀟天地晦冥日中以夜池羅民怯懼不敢出門頃刻天地晴光忽大樹飛来立在龍頭土印正局長一丈餘樹香馥郁枝葉菁葱池羅民異之奉奏帝庭
昭王鸞駕諦觀乃知紫白檀之靈木也.王暗喜國勢興隆天生靈木此大吉兆也卽傳池羅民立露天陛置一香爐嵗辰香燈奉祀焉民奉命修理
王行禮祭天鸞駕囬殿.自此國擣民求齋戒至誠就灵木下懇願國家祈晴禱雨民間禳病求胎灵應如響矣迨至雄王十世傳造王御極灵木在池羅經七百餘年枝葉依然茂盛春天二月初一日灵木處天地昏黃雲騰五色火繩旋繞灵木三匝毫光闪爍風雨昏迷池羅民驚伏湏奐天地晴光人民聚觀乃見巨人跡三步印入木中其露天陛炷香皆自崩汶池羅民驚異再奉奏帝廷造王鸞駕觀之以爲皇家德盛必有聖人出世以保國家决非尋常瑞也卽傳所在民立寺奉祀俾國家人民禱祈有所寺成王行礼事訖鸾駕囬殿自此國禱民求香燈不絶
却説王有一親(卽羲王女)號明花公主國色清奇丰姿絶世紅唇粉臉鳳眼𧊕眉本閬苑之花嬌不染塵埃俗味初生只食齋戀香花之味玖歲帝庭自願出家皈佛羲王見女子誠心慕佛傳立寺于殿中俾適其願自此公主奉佛長齋精通佛法
及造王即位公主登爲世尊菩薩.年已七十一聞池羅有靈木中有巨人跡王傳立寺奉祀芳心戀景命駕春遊就𩂜觀之紅日已斜公主仰觀靈木見崆?(音空新脱壳也)蛇自天有隕遶明花公主三匝公主怯伏徬徨似夢忽見日月並墜入口中并吞之霎辰崆蛇騰空而去公主乍醒駕囬王府百日後公主感而有娠觀靈木巨人跡處亦皆似孕日月漸大常有傘雲五色覆靈木上人皆奇之明花公主孕經七八月造王傳入龍庭謂曰九歲皈佛至兹年七十餘已登菩薩何事躭情花月貽笑人間公主自陳就觀靈木崆蛇纒身眞性具奏王不信貶入烏里之地卽占城地
經数月池羅民見靈木處夜聞風聲拂拂如雷貫耳木上燦爛皆如火焰 木中似孕者益大寨民奏其事王以爲怪卽傳立几級壇在龍庭中漈戒沐浴三日虔誠召各僧尼與百官行禮祈禱祝曰寡人見此怪木及七旬公主有娠不知禍福如何爲此奏告皇天百神諸佛懇願吉匈應夢俾塵心得悟玄機是夕二更半王矇矓睡去見祥雲五色玉殿琉璃龍宫燦爛鳳閣輝煌玉皇正御百官森列忽聞玉皇傳天庭典簿判官出召造王至庭
玉皇罵曰今世運一極會也三十三天世界之下多災殃奇異疾病饑渴死亡載路陰陽混雜妖鬼賊徒南州愈葚天庭憫此下民持 命帝释提桓天王應胎於白檀靈木再命東光主部西光主部二位投胎於明花公主降生人世佐佑帝釋天王除鬼賊於南州救人間之疾苦以衍國家之命脉君王安得貶降公主者耶今已 知𨓺至誠祈禱卽迎公主囬宫庶免其罪王醒覺惶懼行礼拜謝卽命廷臣迎明花公主再囬府殿王親謝過敬礼事之再遣水曹判官閻羅部帥
桉閻羅部帥亦雄王之苗裔龍王百卵之孫其父雄度 爲帝取部主其母武氏端夢見蛟竜而有神娠至癸巳年十月初十日生閻羅公命名曰沱年十四文武兼全英雄盖世勇畧過人立在波濤如履平地王召囬朝授聀多展奇才擢爲掌管龍舟貉龍将軍年十九王命将兵討閻羅賊於南海外公奉命平閻羅主再召囬朝爲掌平閻羅元帥水道大将軍再命赴任鎭海門爲水道主部
就池羅寨靈木處奉守香燈待觀瑞應如何纔得一年辰天下人民災厄疾病下勝邪妖作亂出没人間天地晦冥不分晝夜江海蛟龍山林虎豹擾害男女再有赤鼻鬼狗魔神起兵作亂能食人肉飲人血入火不焚入水不溺或騰空迎戰或潛水夾攻兵三十萬餘變現無窮掠取東西两廣十六州盡是鬼賊地朝廷奋撃被害者多將臣朿手無策王深憂之回憶皇天報夢三年後國有鬼賊果驗而天王降世輔國救民未得見也
再立一壇蠐齋戒禱祭天地三日甲子年春天正月初九日池羅靈木似孕經已三年忽聞霹靂(一声三年)經天動地風雨晦昬迷日中似夜池羅民怯懼窃伏觀之見傘雲五色覆靈木上毫光燦爛瑞氣輝煌天星共會龍鳳遶旁鈎天响喨雅樂和諧俄而大破一聲火光四放木破枝落飛天騰空其木腹破出二胞水成甘水惟存一叚三四尺剛如鐵石水腹一胞五彩雲覆其上閻羅王經異奉奏帝庭王親来置胞龍駕迎回寶殿傳立龍楼於庭前置胞玉紫亦常有五色雲覆其上王與百官齋戒行禮懇願天王出世以佐國家以消災變
正月十五日忽見天地隂霾楼上胞毫光四放瑞氣焜煌胞中自破一聲驚動天地王與百官怯伏楼前仰觀之見帝釋天王御楼前龍頭祥雲五色頭戴平天帽身披龍衮手執金牌
明花公主懷胎三載大破一聲二人從公主頭上突出體貌魁奇五岳朝天三亭平等靣如紅日碩大堂堂五采星輝玉巾燦爛手執龍刀侍立帝釋天王左右
公主化身惟存两朿髮一朿在東光邊一朿在西光邊須臾雲隂四散天地晴光王與百官拜賀忽聞帝釋天王傳左右二公曰天庭命我降生南州佐辰君除鬼類宜急選将遣兵随吾討賊不可緩也二公奉命卽召閻羅部帥提一千兵討賊二公厲聲一呼两朿髮忽变一朿髮变爲火馬身長九尺左公騎之一朿髮变爲玉麟右公騎之三位(天帝及二公也)進行空中閻羅進行水道迅至賊境二公揮刀厲聲大叱雷霆凜烈毫光四放天兵喚起夾攻火馬玉麟噴火水道閻羅接戰雲雨昏迷鬼賊驚散盡变爲薼惟赤鼻鬼不能自變斬一千頭送回京國虎豹蛟龍妖怪之物一皆寧息
六月初十日帝釋及二公登 五層雲而化閻羅部帥卽日囬朝表奏其事王聞之大嘆息曰人民轉禍爲福轉災爲祥仰聖德祥雲瑞日措两間和氣春風萬荷天帝及二位旋乾轉坤之大法力也遂傳造殿於龍庭奉祀三位荅謝神休
六月二十九日閻羅公下龍舟遊峰州至三岐水風濤隂翳閻羅公身變爲蛇長十丈餘直下三岐化生不滅将士卽回帝庭奉奏其事王卽命廷臣至三岐行禮立祠奉事焉再傳修三位神像及閻羅公像迎入寶殿歲辰奉事祈禱靈驗王命駕就池羅寨先立行宫仰觀地形龍如蝘蜓之形水势萦迴陽龍彎抱御至靈木處見一片真龍七星带印玉帽後頭左右片片回頭拱向左有龍眼井魚𨾬囬朝金星佇 立銀帶周囬天馬拱蓮花開堂心三星两曜突起誠天造之貴地也
王傳立祠於龍頭正局坐癸向丁水勢内朝星峯外應再傳將紫白檀靈木叚(㳟造)帝釋天王神像奉祀又傳立寺於竜形處事訖準許池羅寨東西两甲歲辰香燈並免兵糧春(三月初十日)秋(九月十二日)國祭班錢三十貫置祀田十二畆奉事如儀一寨六庄(安耕柳梂羅澄寨桩古禮劉舍)亦免兵糧歲辰附祭於池羅天帝祠
王題詩云
池羅勝地最鍾靈
處處朝歸拱帝廷
天帝降生遺跡在
國家香火億年馨
王返駕囬殿贈封三千天界内帝釋提桓大夫玉陛下
日光天子聖王
月光天子聖王
三位上等天神
閻羅部帥門前尊神
却説雄王十八傳至晴王無嗣遜位於蜀安陽王世傳愛州(即今清化)順天府雷陽縣卞山社范達爲山南郡典兵娶池羅寨丁家女綠娘附藉三四年夫婦力行善事四旬餘未占熊虺之祥一日謂夫人曰我先祖素稱善之家敦五倫賑窮乏我與爾行仁修德不敢益己害人自犯一毫罪堊乆培善果未晚見桂芳或人道猶虧故天心英眷我聞天帝殿國家民度禱之必通萬事如意我與爾誠心求嗣飛燕技懷豈不適平生之願於是至祠求嗣夜夢神人報曰我好鬪碁汝知碁乎范對曰臣本不知碁也
神人曰碁者禍福之機天地玄微人間難識汝至誠求嗣吾察汝家之福厚哉厚哉應許碁石車子将囬以爲家寶言訖卽授之范台敬受拜謝醒默想吾家福厚皇天已賜嗣矣夫婦行禮拜謝而回纔数月丁氏有娠經六七月范聞叔父捐塵夫婦再就祠行禮事訖囬卞山助䘮己未年三月初九日卞山社祥光馥郁夫人生二男都是體貌魁奇英姿凜烈蠶眉燕頷鳳眼龍顔手垂過膝足底七毛命名曰𥒥公勇公方八歲智勇超羣受業呉先生纔数年百家諸子三畧六韜(黃石授張良兵書上中下三畧太公兵書有竜虎文武豹犬六韜)無不貫徹文武兼全朋徒驚服二公英年雙親早沒邑內武巨族人見二公奇才欲救養之并嫁其女二公不從武家見二公剛勇盗刼累番尋拿不𫉬二公從閒道至天施縣池羅外舘辰日已暮里巷閉門二公望見野外宫舘(卽造王行宫駕御)乃憇息焉是夜池逻民各族一皆夢見一大官衣帽整齊身騎紅馬侍從数十人直入邑內召豪傑謂曰我奉帝釋天王之命爲此地龍神今有二位貴人天庭命蒞此地為福神現駐野外行宫爾邑民宜卽拜賀迎囬倘遲有咎俄而邑人梦醒聞野外行宫彷彿人聲兵馬大會者葚衆一皆驚懼聚首告語具述其梦不約而同開門出觀宫所見二公熟睡同聲問曰二公何處得来
二公起荅曰我本范家子探問外家親屬邑人知是丁娘子未肯趍拜臣服惟一心奉養尊敬徐觀天道如何二公居外舘数月邑民疾疫行禮禱天地再夢見官軍入民居謂曰皇天命龍神報梦爾邑迎貴人爲福神敢耳遲疑天庭青罰爾邑不寧也邑民醒来惺懼卽迎二公詳述二占行禮拜賀四五年間事爲神明二公年方十七身長十尺英雄驕勇手擧千謝鉄石行逺百里輊似鴻毛辰蜀王有大蠻賊数十萬衆掠取宣光髙平興化朝廷討之不克王傳檄募奇才二公應試文武之才無敵王卽拜兄為平蛮都元帥大将軍弟為天官元帥大将軍总給精兵五十萬討賊二公奉命募豪家子弟為内刀手足共得一千三百人(池羅各族從二公討賊如阮豪阮佐丁𣆛丁晋丁仕丁佼范梅范渭何賞杜邠杜旦陳計陶貴黎賞鄧完鄧素叚端寺皆為典兵裨将)卽日分道馳入賊境大戰一陣蛮兵大敗斬蛮将三名一千餘首級盡收旗鼓噐械送回京國王聞之大喜召二公回聞宴賀二公請歸謁內外先堂王許之班賜金銀珠宝錦繡各数十升象馬兵士送歸回家舘
二公謁家祠開宴賀再回池羅外舘三月十五日謁外祠傳修理宫所(即昨亱暫駐)以為會同遊宴之所就行宫開宴賀自出錢五千貫修理天帝祠寺謂池羅民曰吾與父老以外舘之晴兼師弟之義親又加親天使然也茲有黄金十笏付邑民爲公本多買田池至如行宫舊吾憇也今日遊宴他日即為祀所也父老皆應曰諾二公作詩云
天地生吾也有情
名𪽋人世死如生
池羅香火千春在
生也荣兮死也荣
又詩云
扶之於國倚於民
萬古綱常係此身
到處山河都我景
一堂魚水億年春
遂拜謝天帝祠囬朝謁王請池羅寨爲湯沐邑王許之擢兄爲太保國改弟爲天宫保殿將軍池羅外舘赫奕一辰天帝祠宇輝煌辰常顯靈與張巴(唐豪縣遼下社人本是神仙降世)鬪碁於此地葢由二公至誠奉事神降之福也
二公秉政𦀰十年餘辰山南趙尉佗攻蜀王王命二公討之與佗交戰三四年佗兵多敗但未分勝負佗詐和王許之二公固諫以爲養虎遺患王不咱二公請歸田王許之二公辞歸嘆曰國势危矣乃駕回池羅地十二月二十五日謁天帝祠就祠後歸化焉是日人望見祠邊有火䋲長十丈騰空而去已而寨民迎塟土虫培覆人皆奇之王愛惜良左傳修俚行宫奉祀褒封美字與國同休
一封顯聖靈通大王
一封大官保殿大王
却説尉佗聞二公已化甬求蜀王女嫁其子仲始王許之仲始潛窃靈龟神弩毁之王與佗戰大敗佗𨂍有南邦深怨二公毁其祠收敕旨邑民流散焉趙傳四世至襲王國势衰弱東漢光武畧取南地遣其臣蘇定爲南州太守定爲人貪冗殺施策縣令是徴女王夫(徴側徴貳本雄王女住風州今之女姊妹皆負奇才)徴女起兵攻蘇定报夫讎大将惠力奋勇從征以报父仇(惠力本唐豪縣令之子其父爲蘇定所殺母方有娠走居羅澄寺生惠力從徴女报父仇)先設营五所於池羅寨密禱天帝祠願得隂風助順取彼凶殘夜梦二天子手执竜刀謂曰我奉天帝命助國君討賊及進兵即斬蘇定南州五十餘城復焉徴王即位燕喜賞功惠力飭池羅民造二公祠於天帝祠側一夕惠力及池羅民皆夢神人报天降桑木于祠前宜即裝造日光月光天子像及至祠觀之果見桑木置祠門入祠中再見二蛇長一丈餘五色𧸍旋繞于天子二像之下惠力傳将桑木刻聖王二位像大開晏賀即命羅澄庄與池羅寨合一西甲扶日光天子駕東甲扶月光天子駕事訖奉奏徴王再褒贈三位上等天神三十三天帝釋提桓聖帝陛下日光天子聖王月光天子聖王及𥒥公勇公閻羅公皆封爲本土城隍及各族裨将爲部下守殿之神準許池羅香燈奉祀焉歷東漢呉晋宋齊粱凢三百四十九年南邦有丁黎李陳四姓開創洪圖帝德護國庇民大有靈驗
陳太尊有女玄珍公主嫁占城主以报舊恩占主没其臣欲將公主入火𡊨燒之陳太尊聞之即禱帝祠行禮求風公主下龍舟出海際大風駛帆避難走脫後韶寧公主再詣祠求嗣忽見两束髮置祠左有人民事表奏其事太尊命廷臣至詞行禮傳置束髮于两匣埋在聖主二位之下葢默想即前日明花公主(生天子二位)两束髮之吉兆也即追贈三位上等美字及各本土尊神歷陳朝十二世至黎太祖前黎後黎皆有護國庇民故歷代帝王追贈美字香火千秋德其或矣
大學士阮炳奉撰
又天施縣柳捄社有姊妹二人遭乱入哀牢國宻禱天帝保護忽然行步如飛囬至本貫恭行謝禮事訖形骸都变了只留两束髮在焉(見領南摘怪)
六月十二日(十四社大會行禮歌唱)