Truyện Liễu Nghị là một tác phẩm dạng truyện truyền kỳ phổ biến từ thời Đường kể về con gái vua Động Đình bị Kinh Xuyên ruồng bỏ, rồi được thư sinh Liễu Nghị báo tin cứu giúp. Các nhà Nho nước ta dựa vào truyện này mà cho rằng huyền sử về Kinh Dương Vương là sản phẩm sao chép từ truyện Liễu Nghị truyền thư.
Tuy nhiên, di tích và tín ngưỡng thờ Liễu Nghị và Thần Long Thoải phủ ở đất Hải Dương lại cho một nhận thức hoàn toàn khác về ý nghĩa thật sự của truyền thuyết Liễu Nghị, gắn với Tản Viên Sơn Thánh.
Chùa Ông Sộp ở xã Tân Trào, Thanh Miện, Hải Dương, xưa là xã Ngọc Lạp, là nơi thờ đức thánh Liễu Nghị. Thần tích ở đây kể:
“Ngài là sao Liễu giáng sinh. Đức thánh phụ là Liễu Phong, đức thánh mẫu là Hán Thị Miên. Ngày học ông Hàn Tỉnh tiên sinh. Ngài có phép phù thủy, lúc bấy giờ ngài chưa đỗ, ngài đi chu du sơn thủy, gặp một người thiếu nữ kêu khóc ở trong rừng,vừa khóc vừa lậy nói rằng:
Thiếp là con gái vua Động Đình, bị giáng làm người dương thế, lấy Hồ Nghi người Kinh Diên, có vợ bé là Thị Chi. Thị Chi dụng tình làm thư giả nói với chồng là Hồ Nghi rằng thiếp có ngoại tình cho nên người chồng đem đày ở trong rừng này, bắt nuôi dê bao giờ dê đực đẻ mới được về. Thiếp xin viết 1 bức thư nhờ lang quân đem xuống Động Đình, cứ đi đến bên sông Hoàng Giang thấy có cây quất, lang quân đánh vào cây quất 3 tiếng tự nhiên ứng hiện.
Ngài đến bến sông Hoàng Giang cầm thư đánh vào cây quất, quả nhiên thấy đền đài lầu các, đền gọi là đền Hư Linh Đài, chỗ ăn, chỗ ở lạ khác dương trần, thấy vua Động Đình ngồi chỉnh tọa, tay cầm ngọc khuyên. Bấy giờ ngài dâng thư vào. Vua Động Đình xem thư sai Xích Lân Đại tướng đến chỗ sơn lâm đón con gái về, rồi mở tiệc yến. Vua Động Đình cho kết làm vợ chồng nhưng ngài không nghe, từ chối xin để sau này sẽ hay. Vua Động Đình tặng kim ngân châu ngọc cũng không lấy. Bấy giờ vua Động Đình sai Xích Lân Đại tướng tiễn ngài về dương trần. Lúc bấy giờ con gái vua Động Đình tiễn ngài ra ngoài Bích Vân cung, có cần lấy tay ngài đọc bài thơ lưu luyến.
Thiếp nay thoát khỏi kiếp chăn dê
Nhờ ơn sâu nặng báo Thủy Tề
Đức lớn biết bao giờ đền đáp
Nguyện đem tấm thân theo chàng về.
Ngài lại đọc một bài thơ rằng:
Bích Vân lời ấy xin nàng nhớ
Mãi với non cao cùng biển xanh
Một dải âm dương chia tách ngả
Chín trời mây nước mộng ba canh.
Thơ rồi đức bà về long cung, đức ông về dương thế.
Rồi đến đời vua Cao Tôn nhà Đường, ngài thi đỗ, làm quan Khu cơ mật viện. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 6, vua Đường Cao Tôn sai ông Cao Biền sang Nam Việt làm đô hộ đánh giặc Nam Chiếu. Ông Cao Biền thấy đức Liễu Nghị, ngài có anh tài kiêm tinh phù thủy pháp môn, tâu vua Đường cho Ngài làm Phó đô hộ Tướng sĩ. Vua Đường y cho. Ông Cao Biền cùng đức Liễu Nghị tiến binh sang Nam Việt bình được giặc Nam Chiếu lập đô ở Đại La thành. Bấy giờ đức Liễu Nghị ra chơi bên sông Nhị Hà, thấy một người thiếu nữ nhan sắc rất đẹp, hình dung giống con gái vua Động Đình, tự xưng là Lư Thị lại nói rằng:
Thiếp là con gái vua Động Đình, trước bị nhục bởi Hồ Nghi nhờ có lang quân cứu cho. Nay thiếp tâu nhờ với vương phụ để tìm lang quân, sang đến nước Nam Việt này, xin hầu làm khuê phòng.
Đức Liễu Nghị mừng đón về thành. Thời bấy giờ Hải Dương, đạo Hồng Châu bị thủy nạn mất mùa. Ông Cao Biền bảo đức Liễu Nghị đi cứu. Đức Liễu Nghị ngài cùng đức thánh bà đến Hải Dương, Hồng Châu lập đàn trị thủy. Đức Liễu Nghị lập đàn ở xã Ngọc Lạp. Đức Thánh bà là Thủy tinh Công chúa, con gái vua Động Đình, lập đàn ở xã Nhữ Xá, viết thư xuống thủy cung, tự nhiên nước cạn.
Bấy giờ phụ lão xã Nhữ Xá, xã Ngọc Lạp đêm nằm mộng thấy đức thành hoàng của hai làng ấy báo rằng: có 2 vị chủ quan về, dân phải bái hạ. Bấy giờ dân đều tỉnh mộng làm lễ xin làm thần tử đức Liễu Nghị và đức Thủy Tiên.
Sau đức Thánh bà bảo đức Thánh ông rằng thiếp cùng lang quân thủy hỏa tương khắc tử tức khó thành, xin biệt cư. Đức Thánh bà ra tu ở chùa Nhữ Xá, đức Thánh ông tu ở chùa Ngọc Lạp. Cứ lệ 3 năm đức bà mang cho đức ông bộ mũ áo, hội ở chùa Nhữ Xá rồi có một ngày ông bà cùng ra chơi sông Nhị Hà, tự nhiên trời đất tối tăm, 2 ông bà cùng về Động Đình, thủy quốc vân hương. Chùa Ngọc Lạp phụng sự vị hiệu là Thủy phủ Đại đức long cung Liễu Nghị tôn thần. Chùa Nhữ Xá phụng sự vị Động Đình quân nữ Thủy tinh Công chúa”.
Sự tích Liễu Nghị ở Thanh Miện, Hải Dương không chỉ dừng lại ở việc Liễu Nghị cứu được người con gái con vua Động Đình mà còn cho biết ngài có thuật “phù thủy” và có phép trị thủy chống lũ lụt.
Đôi câu đối ở chùa Ông Sộp nói về thánh Liễu Nghị:
Tác vũ hưng vân thiên hữu hạn
Xạ thư trị thuỷ địa vô hồng.
Nghĩa là:
Khởi tạo mây mưa trời còn hạn
Bắn thư trị thủy đất không tràn.
Câu đối nhắc lại tích Liễu Nghị cùng Thần Long đã viết thư gửi xuống Thủy phủ để làm cạn nước chống lũ lụt. Chi tiết đặc biệt này đã cho phép xác định Liễu Nghị chính là Tản Viên Sơn Thánh, người dùng cuốn sách ước trị cơn hồng thủy thời mở nước.
Liễu Nghị gặp Thần Long bị đày đi chăn dê ở Đồng Dã là chuyện Tản Viên Sơn Thánh cứu con rắn, con của Long Vương Động Đình bị lũ trẻ chăn trâu đánh chết bên bãi Trường Sa trong ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh (Tản Lĩnh ngọc ký). Cũng giống như truyện Liễu Nghị, sau khi cứu được con vua Thủy tề, Sơn Thánh đã rẽ nước xuống Thủy phủ gặp Động Đình Đế quân và được tặng một cuốn sách ước thần kỳ. Lúc ra về, Thái tử Long cung tiễn Sơn Thánh tới tận bãi Trường Sa và để lại lời thơ đầy xúc động. Đặc biệt bài thơ này trong Tản Lĩnh ngọc ký lại có 2 câu thơ trùng khớp với bài thơ của Liễu Nghị đọc khi chia tay Thủy Tiên Công chúa:
Tấc sách truyền vùng ngập, sóng lặng ven biển Hồng Châu.
Câu đối nhắc tới 2 lần truyền thư của Liễu Nghị. Lần thứ nhất là bức thư dạng thẻ được Thủy Tiên Công chúa gửi xuống cho vua cha Động Đình. Lần thứ hai là một đoạn thư thả về Thủy phủ khi ông bà đi chống lụt ở đất Hồng Châu. So sánh với Tản Lĩnh ngọc ký có thể thấy rõ “thiên độc” (thẻ trời) và “thốn thư” (tấc sách) trong sự tích Liễu Nghị tương đương với cây Gậy thần và cuốn Sách ước, là 2 pháp khí của Sơn Thánh đã dùng khi trị thủy. “Thư sinh” Liễu Nghị dùng “thư sách” không phải để học hành thi cử, mà là để làm phép “phù thủy” trong công cuộc chống lại thiên tai, an dân lập quốc.
Cách chùa Ông Sộp khoảng 5km là chùa Nhữ Xá, nay là xã Hồng Quang của huyện Thanh Miện. Chùa còn có tên là chùa Dựa, nơi thờ đức Thánh Bà Động Đình Thủy Tinh Công chúa. Sự tích chùa Nhữ Xá còn kể Liễu Nghị được vua Động Đình cho một bầu nước dùng để cứu giúp nhân dân khi thiên tai hạn hán, không có nước cấy cày. Vị Thiên Lôi ở làng An Xá trong cùng xã từng lấy trộm bầu nước này, nhưng không thể sử dụng được như thánh Liễu Nghị. Chi tiết này cho thấy phép thuật của Liễu Nghị còn trên tài phép cả Thiên Lôi, nên Liễu Nghị không chỉ là một thư sinh bình thường.
Gần ngay cạnh chùa Ông Sộp là thôn Thủ Pháp, nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh và người mẹ nuôi Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ. Thủ Pháp cũng là tên làng quê của bà Ma Thị ở trên núi Tản Viên. Như thế ở Thanh Miện có đủ quê của Thánh Tản và nơi Thánh cùng Thần Long Động Đình trị thủy.
Tới đây đã có thể kết luận, hình tượng Liễu Nghị là một cách kể khác về Tản Viên Sơn Thánh từ góc nhìn của dân gian miền đồng bằng ven biển xưa. Tản Viên Sơn Thánh cũng đã được biết là vị Kinh Dương Vương như công bố trong ấn phẩm “Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” của Nhóm nghiên cứu di sản Đền miếu Việt biên soạn mới xuất bản gần đây. Truyện Liễu Nghị là một dẫn chứng rõ ràng nữa cho nhận định Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, vì đều là người đã lấy Thần Long Động Đình.
Trong thư tịch cổ cũng đã từng có việc đồng nhất Liễu Nghị là Kinh Dương Vương. Sách Nam sử, một cuốn sử không rõ tác giả, chép: “Kinh Dương Vương đi tuần thú Nam Hải, gặp một người chăn dê, nói mình là con thứ của Động Đình Quân gọi là Thần Long, bị Kinh Xuyên ruồng bỏ. Kinh Dương Vương bèn lấy Thần Long làm Nguyên phi, một năm sau, sinh hạ được một con trai gọi là Sùng Lãm. Kinh Dương Vương sống hơn trăm tuổi, bèn phong Sùng Lãm làm Lạc Long Quân, nối trị phương Nam. Kinh Dương Vương và Thần Long bèn cưỡi rồng lên trời”.
Từ nhận định rõ ràng về thời kỳ Hùng Vương Thánh Tổ khai dân lập quốc thì truyện Liễu Nghị truyền thư, Tản Viên Sơn Thánh cứu Thủy Tinh Động Đình hay Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy phủ lấy mẫu Thần Long nay đã có thể hiểu như sau. Vào thời Đế Nghi, chính dòng Viêm tộc từ Đế Minh, đang làm chủ thiên hạ. Dòng thứ lúc này là Tiên tộc từ bà Vụ Tiên đã gây mâu thuẫn làm cho Đế Nghi đuổi dòng Long tộc Động Đình đi. Thần tích ở Thanh Miện kể thành Hồ Nghi ở Kinh Diên (Kinh Xuyên) nghe lời người thiếp Thị Chi (Thảo Mai) đày Thần Long đi chăn dê (bị nhốt vào cũi trong rừng).
Khi Tản Viên Sơn Thánh, là dòng Lạc tộc (Lộc Tục) lên nắm giữ ngôi chủ thiên hạ, xưng là Kinh Dương Vương, Sơn Thánh – Liễu Nghị đã có chuyến đi xuống Thủy phủ Động Đình ở miền sông biển Hải Dương, kết giao với dòng Long tộc. Từ đó Kinh Dương Vương đã hoàn thành nốt chặng đường hội nhập 4 tộc người thời lập quốc (gồm Viêm tộc, Lạc tộc, Tiên tộc và Long tộc) thành một thiên hạ chung thống nhất. Sơn Thánh với cây gậy thần sách ước được dòng Long tộc gọi là Liễu Nghị truyền thư, kết duyên với con vua Động Đình mà sinh ra Lạc Long Quân.
Khi Kinh Dương Vương cùng Thần Long “cưỡi rồng” đi mất, Lạc Long Quân đã dựa vào thế lực của bên mẹ là Long tộc Động Đình mà chiếm được ngôi vị chủ tể thiên hạ, đánh đuổi và buộc dòng Viêm tộc của Đế Nghi phải di dời đi. Truyện Liễu Nghị kể là Xích Lân Đại tướng đã giết Hồ Nghi ở Kinh Xuyên. Xích Lân là con rồng đỏ, bởi Lạc Long Quân là vị cha Rồng đã nối tiếp làm Xích Đế ở nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương. Truyện Liễu Nghị như vậy cũng có đầy đủ nhân vật lịch sử quan trọng là Lạc Long Quân trong vai là Xích Lân Long thần.
Sự tích và tín ngưỡng thánh Liễu Nghị trị hồng thủy ở Hải Dương là câu chuyện thật sự về Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh khai mở vùng ven biển, thống nhất 4 tộc người ở bốn phương, lập nên nước Xích Quỷ và khởi đầu thời kỳ cha truyền con nối trong lịch sử Hồng Bàng – Viêm Bang của người Việt.
Cổng chùa Ông Sộp ở xã Tân Trào, Thanh Miện, Hải Dương.Chùa Ông Sộp với những câu đối về Liễu Nghị truyền thư.Chính điện chùa Ông Sộp và chiếc khám cổ thờ Liễu Nghị.Đắp nề tích Thần Long chăn dê ở chùa Ông Sộp.Lưỡng ngư chầu nhật ở trên nóc chùa Ông Sộp.Chùa Dựa (chùa Nhữ Xá), nơi thờ Động Đình Quân nữ Thủy tinh Công chúa.Ban thờ Mẫu Thoải ở chùa Dựa.Đắp nề tiên tích ở chùa Dựa.Trang sách Nam sử về Kinh Dương Vương. Ảnh: Thư viện Quốc gia.
Truyện họ Hồng Bàng kể: “Cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông tên là Đế Minh… đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh… sinh ra Lộc Tục… Đế Minh phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, tức là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước, còn Kinh Dương Vương không biết đi đâu…”
Dòng huyền sử khởi nguồn ngắn gọn này đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi cho người Việt. Vị Nam Thiên Thủy Tổ Kinh Dương Vương là ai? Vùng sơ quốc Ngũ Lĩnh Xích Quỷ, rồi Động Đình Thủy phủ là ở đâu? Kinh Dương Vương “đi về đâu”?
Vấn đề cội nguồn lịch sử Kinh Dương Vương mở nước đã được làm sáng tỏ trong cuốn sách “Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” vừa mới phát hành tháng 12/2022 bởi nhà xuất bản Lao Động. 372 trang sách do 2 tác giả của Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền Miếu Việt sưu tầm, biên dịch và khảo cứu.
Thông qua việc tuyển chọn, biên dịch các thần tích và ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh, kết hợp với khảo sát thực địa hàng trăm di tích đền miếu thờ phụng Thánh Tản cùng các vị thần liên quan, cuốn sách đã đưa ra một nhận định mang tính chất đột phá. Tản Viên Sơn Thánh, vị Thánh Tổ của Trời Nam chính là vua Kinh Dương Vương mở nước Xích Quỷ nơi Ngũ Lĩnh Động Đình. Những sự tích, di tích, tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh là cuốn đại sử thi về vị thánh tổ Kinh Dương Vương của người Việt.
Từ công nghiệp trị cơn hồng thủy thời Đường Nghiêu, tìm ra nguồn lửa, nguồn nước, sáng tạo ra cái ăn, cái mặc cho con người… đến việc thiết lập kinh đô Ngũ Lĩnh, chinh phục Động Đình và những chiến công anh hùng chống giặc giữ nước đã viết nên những trang sử của triều đại Kinh Dương Vương (Kinh triều) sáng rạng trong buổi bình minh của dân tộc. Tất cả công lao, ân đức của đức Nam Thiên Thánh Tổ được ghi chép, tập hợp một cách đầy đủ, sống động và chân thật trong tác phẩm, lấy tên là “Kinh triều bảo lục”. Ghi lại, tôn kính và nhận thức đúng về tổ tiên là điều cần thiết cho mỗi người Việt ngày nay.
Trong cuốn sách còn giới thiệu 2 cuốn kinh quan trọng về Tản Viên Sơn Thánh. Một là phần trùng đính của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho sự tích về Thánh Tản trong cuốn “Đại hóa thần kinh” in năm Thành Thái thứ 18 (1907). Hai là cuốn kinh giáng bút có tên “Nhất thành khả cách chân kinh” in năm Bảo Đại thứ 6 (1931), với chân tượng của Tam vị Tản Viên. Đây là những tư liệu quý về Thánh Tản đã được phiên âm và giới thiệu trong cuốn sách mới xuất bản này.
Sau tác phẩm khảo cứu về các bậc Thánh Tổ Hùng Vương thì cuốn sách “Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” là một bước đột phá mới trong nghiên cứu về nguồn gốc và lịch sử người Việt thời cổ đại. Hơn 4.000 năm lịch sử của dân tộc đang dần dần được tái hiện từ những di sản văn hóa vật chất cũng như tinh thần mà tiền nhân người Việt để lại.
Tưởng nhớ công lao và sự nghiệp của đức Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn, cuốn sách đã có thơ đề:
Tôi nghe kể chuyện thánh Sơn Tinh
Hiếu thuận cảm thiên tỏ nghĩa tình
Hắc Thủy ước thư khơi nước lũ
Trường Sa thần trượng cứu dân sinh
Động Đình rẽ sóng thâm gia kết
Tản Lĩnh xuất quân phá Thục binh
Nối dòng Sùng Lạc ngàn năm sáng
Miếu điện nguy nga thượng tối linh.
Sách được in bìa cứng.Trang sách về Đại hóa thần kinh.
Khi còn nhỏ thời đi học, tôi từng được đọc bài thơ Sơn Tinh – Thủy Tinh của nhà thơ Huy Cận. Tôi nhớ mãi câu mở đầu của bài thơ tả cảnh núi Tản Viên trong buổi bình minh:
Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ mào đỏ thắp bình minh
Mênh mông gọi nắng cho mùa chín
Từ thuở Sơn Tinh thắng Thủy Tinh.
Lúc đó tôi thực sự chưa hiểu được ý nghĩa của hình ảnh này, nhưng ấn tượng về ngọn núi Tản rực hồng trong ánh mặt trời theo tôi mãi khi lớn lên.
Khi đã lớn khôn hơn, một ngày tôi lên mạng internet, gõ “Sơn Tinh – Thủy Tinh” để tra tìm lại bài thơ yêu thích từ thuở ấu thơ. Duyên số thế nào mà khi đó tôi lại bắt gặp một công trình lịch sử về thời cổ đại của Sơn Tinh, của Thủy Tinh, với tên gọi Sử thuyết Hùng Việt, tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật. Đọc những trang Sử thuyết họ Hùng này tôi mới bắt đầu lờ mờ nhận ra rằng người Việt chúng ta có một lịch sử lâu đời và huy hoàng không thể ngờ, rằng những dấu vết xưa của cuộc sống con người Việt vẫn còn truyền qua nhiều thế hệ ở trong những câu chuyện tưởng chừng là huyền thoại ấy.
Bài thơ của nhà thơ Huy Cận đã dẫn lối cho tôi tìm về với thời đại các vua Hùng, với Sơn Tinh, Thủy Tinh, công chúa Ngọc Hoa Mỵ Nương… tuy huyền ảo nhưng lại rất thật và rất sống động. Để rồi một ngày, tôi chợt nhận ra Tản Viên Sơn Thánh, chàng Sơn Tinh trong truyền thuyết chính là Kinh Dương Vương, vị Thánh tổ nước Nam ta. Vùng núi Ba Vì là kinh đô Ngũ Lĩnh thời mở nước. Ba dòng sông Đà, sông Thao, sông Lô gặp nhau ở Ngã ba Bạch Hạc hợp lưu thành sông Hồng chảy về biển Đông là địa bàn của Thủy Tinh Động Đình. Dải thác Vạn Bờ ở Hòa Bình – Mộc Châu, nơi Sơn Thánh trị thủy, còn ầm vang tiếng nước sông Đà khi chảy qua khe núi đá, là cửa Long Môn Vũ Hóa, nơi cá chép hóa rồng ngàn xưa…
Lúc này tôi mới hiểu, ngọn núi Tản là nơi Kinh Dương Vương đã thắp ánh bình minh chiếu rọi cho người Việt cổ bước đi những bước đi đầu tiên cấy cày, chăn nuôi, săn bắn, dệt vải, chiến thắng thiên tai, gây dựng cuộc sống ấm no cho con cháu ngàn đời sau. Cuộc tao ngộ kỳ lạ giữa Kinh Dương Vương và Long Nữ Động Đình đã diễn ra dưới chân núi này, bên dòng sông Đà. Đó cũng là cuộc hợp và chia của cha Rồng Lạc Long Quân với mẹ Tiên Âu Cơ bên bãi dâu Trường Sa. Cũng là cuộc so tài đọ sức không ngừng giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, giữa hai dòng lên núi và xuống biển. Đấu tranh để cho xã hội từng bước, từng bước tiến lên, để cho Đẻ Đất Đẻ Nước, hình thành nên trăm nơi đầu non góc biển, nơi ngự trị của trăm người con trai Bách Việt.
Có gì kỳ vĩ hơn thế! Tản Viên Sơn Thánh – Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương, người mở đầu công cuộc dựng xây đất nước bằng cây gậy thần đầu sinh đầu tử và cuốn sách ước mọi điều ứng nghiệm. Gậy thần sách ước là Hà đồ Lạc thư, là trí tuệ và thế giới quan siêu việt của Thánh Tản. Đó không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà là một lịch sử chân thực và hùng tráng của dân tộc.
Một lời khó nói hết về vị linh thần bất tử hàng đầu, vị Thánh tổ trời Nam Kinh Dương Vương. Những gì chúng ta biết về tổ về tông thật còn quá ít, quá sai lệch. Góp nhặt sự xưa chuyện cũ, tìm về chốn đền linh miếu thiêng, mong nhận ra cha, gặp lại mẹ từ hơn bốn ngàn năm xưa. Đó là những gì chúng tôi mong muốn ghi lại và gửi gắm tới mọi người dân Việt trong cuốn Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn này.
Thay cho lời mở đầu, xin lấy lời thơ của nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, một người sinh ra chính tại vùng núi Tản sông Đà này: “Nước non nặng một lời thề”. Đó là lời thề sông núi từ cha ông trao truyền cho con cháu để muôn đời dòng giống Việt trường tồn.
Tiết Trùng cửu năm Nhâm Dần 2022
Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt
Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu
Sách khổ 16×24, 378 trang, gồm 32 trang màu sơ đồ và ảnh di tích.
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
THAY CHO LỜI DẪN
NAN GIẢI SƠN TINH
SỬ TÍCH SƠN TINH – THỦY TINH
Di tích thờ Tản Viên
Ngọc phả Tản Viên Đinh Phi Thánh Mẫu Hùng triều Việt Thường Thị
Ngọc phả cổ chép về Tản Viên Thánh mẫu Quốc mẫu Vua Bà Tam vị Đại vương triều Hùng Nam Việt
Ngọc phả ba vị Tản Viên Sơn Thánh, Tả Hữu Lưỡng Kiên Thần Cao Sơn, Quý Minh
Ngọc phả cổ chép về Thần nương họ Phan thời Việt Thường Thị sinh một bầu năm vị thủy quan
Linh Uyên Đại Vương ngọc phả
SƠ ĐỒ VÀ ẢNH DI TÍCH I
DI TÍCH TẢN VIÊN SƠN ĐẠI SỬ THI KINH DƯƠNG DỰNG NƯỚC
Vùng di tích Sơn Thánh Ất Sơn ở sông Lô, núi Lịch và hai công chúa Ngọc Hoa, Tiên Dung
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh ở Phong Châu ven các sông Đà, Lô, Thao
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh quanh núi Ba Vì và các hành cung Tản Viên
Vùng di tích phía Đông Thủy quốc Động Đình ven các dòng sông cổ
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh và dòng Âu Cơ ở sông Đà, Hòa Bình, Ninh Bình
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh ở Hà Nam và Ninh Bình
Các di tích Tản Viên Tam Vị đánh Thục vùng trung du Bắc Bộ
Các di tích Tản Viên Tam Vị đánh Thục vùng đồng bằng Bắc Bộ
Các di tích thờ Cao Sơn, Quý Minh và các vị đánh Thục ở đồng bằng Bắc Bộ
Di tích Thánh Tản – đại sử thi Kinh Dương Vương dựng nước
Kinh đô Ngũ Lĩnh của Kinh Dương Vương, người khởi đầu nước Xích Quỷ của người Việt là ở đâu?
Truyện Họ Hồng Bàng chép: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục… Đế Minh phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước.
Kinh đô Ngũ Lĩnh của Kinh Dương Vương, người khởi đầu nước Xích Quỷ của người Việt là ở đâu?
Đình Tây Đằng.
Các di tích hành cung của Tản Viên Sơn Thánh còn truyền lại cho tới ngày nay cho thấy, kinh đô Ngũ Lĩnh thời Kinh Dương Vương là vùng đất Sơn Tây – Ba Vì, bởi Kinh Dương Vương chính là Tản Viên Sơn Thánh. Truyện núi Tản Viên chép: “Tương truyền rằng đại vương Sơn Tinh họ Nguyễn, cùng vui ở với loài thủy tộc ở đất Gia Ninh, huyện Phong Châu”. Đây là chuyện Kinh Dương Vương ở Phong Châu (Gia Ninh) lấy Thần Long Động Đình (loài thủy tộc).
Các hành cung Tản Viên được mô tả trong cuốn Tản Lĩnh ngọc ký (Ngọc phả núi Tản) như sau: “Thượng thần cung tọa Càn hướng Khôn là chính điện; Trung, Hạ thần cung là nơi cầu đảo; Đông thần cung là nơi yết kiến; Nam thần cung, Bắc thần cung là nơi trú ngự. Từ đó [Sơn Thánh] tuân mệnh Thượng Đế thường cùng với Tứ phủ Công đồng ở hải đảo mà đi tuần xem vạn sự trong nhân gian”.
Ngũ hành cung Tản Viên hình thành một khu vực “kinh đô” của thời kỳ Kinh Dương Vương, được truyền thuyết Việt gọi là Ngũ Lĩnh. Mỗi một “Lĩnh” hay một “Thần cung” là một khu vực, trong đó lại bao gồm nhiều các “hành cung”, nay là các đền, đình, di tích thờ Tản Viên Sơn. Hệ thống hành cung Thánh Tản lấy tên theo các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc cùng Trung tâm và trục Thượng – Hạ. Quan niệm theo phương hướng và không gian là hệ thống từ rất xa xưa nằm trong thế giới quan cổ đại. Đó chính là Lạc đồ (đồ hình mặt đất) được truyền từ vị Thái Bạch Kim Tinh qua hình tượng cây gậy thần cho Thánh Tản.
Dựa trên các di tích thờ Thánh Tản và sự tích còn truyền lại ở từng nơi, có thể xác định các Thần cung Tản Viên hay vùng Ngũ Lĩnh của Kinh Dương Vương như sau.
Thượng Thần Cung
Mặt sông Đà phía Tây Bắc núi Ba Vì đi lên đỉnh rất dốc và từ đền Thượng Ba Vì xuống đền Trung cũng không có lối đi. Hệ thống đền Thượng, Trung, Hạ Ba Vì nằm ở mạn núi này có thể coi là trong cùng một trục đứng chung, nên gọi là Thượng Thần cung. Các cung này ngoài thờ Tản Viên Sơn Thánh còn là nơi thờ các bậc “tiền bối” của Thánh Tản là Thái Bạch Kim Tinh (thầy của thánh Tản), Ma Thị Cao Sơn (mẹ nuôi Thánh Tản), Quốc mẫu Đinh Phi (mẹ đẻ Thánh Tản).
Hạ Thần Cung
Khu vực đất trũng thấp từ ven sông Hồng vào đến núi Ba Vì gồm một vòng cung các đầm hồ như đầm Long Bằng Tạ, hồ Suối Hai, đầm Đượng, hồ Xuân Khanh, hồ Đồng Mô. Bởi thế xưa kia vùng này được gọi là Bể Cạn. Nơi đây vẫn lưu truyền “Sự tích đầm Đượng và mười sáu đường nước chảy”, khi đạo quân của Thủy Tinh đánh vào mạn Đông núi Ba Vì, Sơn Tinh hướng dẫn mọi người đắp núi ngăn nước, đan phên dậu, làm lưới, thả cây cối chặn đường nước. Hai bên đánh nhau rất ác liệt ở vùng đầm Đượng. Quân của Thủy Tinh thua to tan vỡ, chạy toán loạn thành mười sáu ngả. Ngày nay giữa đầm Đượng còn ngôi miếu cổ thuộc xã Thụy Phiêu, gọi là đền Hạc Hải hay miếu Đầm, ghi lại chiến tích trị thủy này của Sơn Thánh.
Không xa bờ đầm Đượng là đình Thụy Phiêu, xã Thụy An, huyện Ba Vì, một trong những ngôi đình thuộc loại cổ kính nhất ở nước ta, nổi tiếng với nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc từ thời Mạc. Tên gọi Bể Cạn của đầm Đượng chỉ ra nơi đây là nơi thấp nhất trong khu vực, tức là vùng Hạ Thần cung Tản Viên.
Trung Thần Cung
Vùng “hạ điền” (ruộng mùa hè) xưa, gần với ngã ba Bạch Hạc (Việt Trì), được các thần tích về Tản Viên Sơn Thánh gọi là vùng Cổ Đằng, Tam Vật Lại. Đền Vật Lại tọa lạc tại một quả đồi hình đầu rồng hướng về sông Tích. Tục truyền Thánh Tản thường qua lại nơi này để dạy dân săn bắn và đánh cá. Trong đền có chuông lớn ghi “Trung Cung Chấn Trung” đúc thời vua Bảo Đại.
Không xa đền Vật Lại về phía Nam là đình Tây Đằng nổi tiếng. Đình Tây Đằng là ngôi đình cổ kính bậc nhất xứ Đoài, cũng như đặc biệt nổi tiếng về giá trị nghệ thuật điêu khắc kiến trúc đình làng với các mảng chạm khắc phong phú thời Hậu Lê, có họa tiết bay bổng và thần bí như tượng quần tiên tấu nhạc, tiên ôm rắn, cưỡi rồng, đùa hổ…
Nằm phía Bắc của khu vực này là đền Lác và đình Đồng Bảng, một cụm di tích cổ kính thuộc xã Đồng Thái, huyện Ba Vì. Đền Lác uy nghi nằm trên gò đồi nhỏ, có kiếu trúc thời Lê Trung Hưng với đầy đủ sân đình, giếng nước, tiền tế, trung cung và hậu cung. Đặc biệt theo bia tạo lệ lập thời Hậu Lê tại đình thì đây là Bắc Thần cung Tản Viên. Sự tích đền kể rằng mẹ con Thánh Tản dừng nghỉ ở nơi đây trên phiến đá nay còn lưu trong đền.
Nhìn tổng quan cụm di tích Vật Lại, Tây Đằng là cụm gần ven bờ ngã ba sông Bạch Hạc (vùng Động Đình) thủa xưa nhất. Các di tích khu vực này chỉ ra có một cụm các “tiểu hành cung” mà trong đó có khá đủ các cung Đông, Tây, Nam, Bắc xung quanh. Như vậy trong Thần cung lại có cung (điện), là một cách lý giải tại sao nhiều cung của Thánh Tản có tên hướng trùng lặp.
Tây Thần Cung
Tây Thần cung Tản Viên là vùng giáp sông Đà với các di tích Ngọc Nhị, Bằng Tạ, Khê Thượng (huyện Ba Vì). Đình Ngọc Nhị, xã Cẩm Lĩnh, huyện Ba Vì là ngôi đình của dân trưởng tạo lệ cho đền Thượng Ba Vì. Làng Ngọc Nhị được coi là anh cả trong việc lo nghi lễ thờ cúng, chăm sóc đền Thượng và đền Trung trên núi Ba Vì. Nơi đây còn lưu giữ được bản sách thần tích cổ về Tản Viên Sơn Thánh có tên Di tích thờ Tản Viên.
Trong sách này có ghi: Đại mẫu của Vương [Sơn Thánh] thường du ở bãi Trường Sa, gặp Lạc Long Quân đi đến đó (tới xã Bạn Sơn tạo đền một dãy để phụng thờ, gọi là đền Trung cung, lấy xã Sơn Bạn làm tạo lệ phụng thờ hương hỏa). Sơn Bạn nay là vùng xã Sơn Đà là nơi có đình Khê Thượng và đình Đan Thê. Đối diện bên kia sông Đà là bãi Trường Sa, nay là khu Đảo Ngọc Xanh. Tây Thần cung do đó có vai trò tạo lệ cho cụm đền Thượng, đền Trung và gắn kết với bãi Trường Sa, nơi quê mẹ Thánh mẫu Động Đình tại làng La Phù (Thanh Thủy) và vùng đất Tổ Hùng Vương ở Phú Thọ.
Đông Thần Cung
Sách Di tích thờ Tản Viên có ghi: “Vương thường đi vãng du đến sông Tiểu Hoành xem đánh cá tới xã An Vệ huyện Ma Nghĩa thấy một khu Thanh Lan Bảo Sơn, có hình rồng chầu về tổ, mới lập làm cung xá để ở, lấy xã An Vệ làm tạo lệ phụng sự hương hỏa”. Thôn Vân Gia, xã An Vệ và Bảo Vệ huyện Tùng Thiện xưa nay thuộc thị xã Sơn Tây là nơi có đền Và hiện nay. Đền Và là nơi Thánh Tản cho dựng để làm Yết Cung, là nơi các quần thần yết kiến Thánh Tản, đóng vai trò nơi thiết triều cai quản việc nước của Thánh Tản Viên.
Lễ hội đền Và tiến hành xuân thu nhị kỳ. Trong hội xuân vào dịp rằm tháng Giêng sau lễ rước đi từ đền Và qua phần thị xã Sơn Tây ra bờ sông Hồng. Sau đó là lễ rước kiệu qua sông sang đền Ngự Dội, thuộc thôn Duy Bình, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Sau khi làm lễ Mộc dục và tế lễ, đám rước lại trở về đền Và. Hội thu đền Và vào rằm tháng Chín gọi là hội Đả Ngư, tức nghĩa là đánh cá. Tục rước kiệu qua sông sang đền Ngự Dội và đánh cá thờ ở đền Và cho thấy tính hướng Đông ra phía biển của Đông Thần cung.
Nam Thần Cung
Tản Lĩnh ngọc ký chép: “[Sơn Thánh] Lại thường đi săn tới xã An Diệu huyện Mỹ Lương, tạo cung Mang Sơn, lưu ruộng thờ để cho việc thờ cúng, định việc hàng năm tiết Xuân, tiết Đông nhân dân các xã theo như lệ đánh cá cùng nhau thờ phụng”.
Hiện nay đền Mang Sơn tọa lạc trên một đồi thấp thuộc Sơn Đông, thị xã Sơn Tây. Theo truyền tích nơi đây, Sơn Tinh đã chỉ bảo phường săn ở rừng Măng (Mường) cách chăng lưới và làm bẫy để săn thú, bắt chim. Đây là ngôi đền nơi tổ chức chung lễ hội đầu năm của năm xã trong tổng Tường Phiêu xưa, gồm Sơn Đông, Sơn Trung, Tường Phiêu, Trạch Lôi, Thuần Mỹ, diễn ra từ mồng 6 đến 12 tháng Giêng.
Cung Mang Sơn nằm ở phía Nam cũng là cửa ngõ ra theo sông Tích, sông Bùi, sông Đáy ra phía Nam và Tây Nam. Các di tích hiện nay ở khu vực Mang Sơn như đình Thiên Mã, đình Triều Đông, đình Ngõ Bắc thuộc xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây. Khu vực này là chặng đầu mối bao gồm cả đường thủy theo sông Tích và đường bộ ra toàn bộ phía Nam và Tây Nam núi Ba Vì, đúng với nghĩa Nam Thần cung.
Bắc Thần Cung
Trong Di tích thờ Tản Viên có ghi: “Sau Đại vương… ngược sông Cái mà qua đất Long Biên, tiếp tới bến Chấn, muốn ở lại đó nhưng rồi lại ngược sông Lô lên thượng nguồn, qua huyện Phúc Lộc, tới bến Bạn Phiên, nhìn về núi xanh Tam Đảo, đất quý hội loan là đô thành cũ của Hùng Vương.”
Nơi Thánh Tản “tới bến Chấn, muốn ở lại đó” là khu Bắc Hồng, có đền Thính và đền Tranh nay thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là những ngôi đền có quy mô, cổ kính thờ Thánh Tản Viên Sơn trên đất Vĩnh Phúc. Các đền này là Bắc Thần cung Tản Viên. “Chấn” là hướng Đông, tức là thẳng xuất từ Đông Cung đền Và sang bên kia sông Cái, xưa hẳn còn rộng như biển tới tận khu đền Thính nay. Từ Yên Lạc, Bắc cung đền Thính xưa dòng sông Cà Lồ nối sông Cầu vẫn là thủy mạch chính sang phía Đông ra Lục Đầu giang và ra biển.
Từ vùng kinh đô Ngũ Lĩnh ở Ba Vì Sơn Tây, Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh đã khai mở về các hướng Đông Tây Nam Bắc, cùng với “Tứ phủ công đồng đi tuần trong nhân gian”, thực sự đã làm nên một cuộc “Đẻ Đất Đẻ Nước” trong lịch sử nước Xích Quỷ thời đầu Kinh triều Hùng Vương.
Bắc Cung Thượng đền Tranh ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc.Rồng tiên trên cửa cung thờ ở đình Văn Khê, TX Sơn Tây.Chạm khắc đầu hồi đình Tây Đằng.Nghi môn đền Hạ Ba Vì.Cổng ngoài Bắc Cung đền Thính ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc.Nghi môn đền Trung Ba Vì.Đình Tường Phiêu ở xã Tích Giang, huyện Phúc Thọ.Lưỡng long chầu Nhật nguyệt ở đình Đồng Bảng, xã Đồng Thái, huyện Ba Vì.Đình Ngọc Nhị ở xã Cẩm Lĩnh, huyện Ba Vì.Nghi môn đình Phú Hữu ở xã Phú Sơn, huyện Ba Vì.Rồng phượng đình Văn Khê, TX Sơn Tây.Rồng đình Văn Khê, TX Sơn Tây.Quần tiên ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì.
Những tri thức về Trời, về Đất, về Con người đã được người Việt cổ khám phá và ghi lại trong cuốn sách đầu tiên của mình, cuốn “Thiên thư” dùng mở đất mở nước. Gọi là sách nhưng trong cuốn Thiên thư này lại không hề có chữ. “Vô tự thiên thư” mới thực sự là cuốn Sách ước quý giá của tiền nhân người Việt.
1. Ở vùng đất tổ tại thị xã Phú Thọ có một ngôi đình đặc biệt là đình Cả thuộc thôn Cao Bang, phường Trường Thịnh. Đình toạ lạc trên đỉnh đồi hình đầu rồng hướng ra phía sông Thao. Từ đình nhìn về phía Đông Nam, trông rõ núi Nghĩa Lĩnh, cách Đền Hùng khoảng trên 10 km đường chim bay.
Đình Cả Cao Bang có một bức đại tự, trước làm bằng đá đã bị hủy hoại trong chiến tranh, nay được làm lại bằng gỗ đề: KHỞI BANG THƯ VƯƠNG. Tương truyền nơi đây là nơi Vua Hùng đã nhận được “Sách trời” để khởi dựng đất nước. Do vậy đình Cả Cao Bang còn gọi là đình Thư.
Ở thôn Cao Bang còn có tục xin lửa từ đình đêm giao thừa cầu may. Lửa lấy từ đình Thư là biểu tượng ánh sáng của tri thức ghi trong cuốn “Sách trời”. Xin lửa là cầu lấy những tri thức khoa học có thể giúp con người ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Ở thôn Cao Bang còn có tục xin lửa từ đình đêm giao thừa cầu may. Lửa lấy từ đình Thư là biểu tượng ánh sáng của tri thức ghi trong cuốn “Sách trời”. Xin lửa là cầu lấy những tri thức khoa học có thể giúp con người ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Người đã tìm ra cuốn Sách trời là Kinh Dương Vương, vị vua Hùng khởi đầu nước Nam ta như lời thơ cổ trong các thần tích: “Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương”.
“Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả” kể Kinh Dương Vương sau khi lấy Động Đình Long Nữ đã đến vùng “Sơn Tây” nhìn thế đất, chọn long mạch và lập ra kinh đô tại Phong Châu, nước tên Xích Quỷ. Tại đình Cả Cao Bang còn có bức hoành phi khác đề: NGUYÊN QUỐC VIỆT QUANG CƠ, tạm dịch là: Rạng nền móng ban đầu của nước Việt.
Kinh Dương Vương đã đứng bên bờ sông Thao ở bến Bâng, cạnh đình Cả Cao Bang mà suy ngẫm, nhận ra lẽ Trời, thế Đất, quyết định đô tại đây. Nay ở đình Cả Cao Bang còn có phiến đá in sâu 2 dấu chân vua Hùng.
2. “Tản Lĩnh ngọc ký” (ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh) kể rằng, chàng trai Nguyễn Tuấn khi lên núi được Thái Bạch Kim Tinh trao cho cây gậy thần đầu sinh đầu tử, từ đó xưng là Thần sư. Khi đi qua bãi Trường Sa ở bên bờ sông Đà, Thần sư đã cứu con rắn, là con của Động Đình Đế Quân. Đế Quân mời Thần sư xuống thăm Long cung, đi qua tầng tầng lớp gác ngọc lầu châu, dùng tiệc với Đế quân.
Khi được đề nghị tạ ơn cứu sinh bằng châu báu ngọc ngà thì “Thần sư” đều từ chối, chỉ xin nhận một cuốn Sách thần, có phép nhiệm màu, mọi ý muốn đều thành trong một lời ước.
Nhờ có cuốn Sách ước đó mà Tản Viên Sơn Thánh đã báo hiếu được người mẹ nuôi là Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ, ước được các lễ vật Voi chín ngà, Gà chín cựa, Ngựa chín hồng mao để làm sính lễ cầu hôn công chúa Mỵ Châu.
Trong trận chiến chống quân Thục ở Mộc Châu, Thánh Tản đã cầm sách ước đọc thần chú, đã được một Thiên tướng giáng trần, dùng tù và ốc gỗ thổi lên xua tan quân giặc. Cuốn Sách ước đã giúp Thánh Tản trong mọi lĩnh vực, tạo ra của cải vật chất cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tạo ra sức mạnh chống lại thiên tai nhân họa.
Câu đối ở đền Và, ở thôn Vân Già, Thị xã Sơn Tây, là Đông Cung, nơi triều hội của Tản Viên Sơn Thánh:
Thần linh thiêng, đất linh thiêng, cũng người tôn mà linh thiêng, Cung Đông trấn Tây cao ngất
Núi thành thuật, sông thành thuật, nay muốn được xem thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ.
Có thể thấy việc Kinh Dương Vương gặp Thần Long bên hồ Động Đình và việc Tản Viên Sơn Thánh cứu con rắn rồi xuống thăm Thủy phủ Long cung là một chuyện. Long cung thủy phủ, nơi Sơn Thánh thụ nhận được cuốn Sách ước chính là tại đình Cả Cao Bang, bên bờ sông Thao xưa.
Cũng tại đình Cả Cao Bang còn có lễ hội rước thuyền rồng thả ra sông Thao vào ngày mồng Ba tháng Giêng, như tưởng nhớ tới việc Kinh Dương Vương cưỡi thuyền đi tìm đất đóng đô, đã tới nơi đây và cũng là câu chuyện Thánh Tản xuống thăm thủy phủ lấy được “Sách trời”.
3. So sánh với chuyện vua Vũ trong thần thoại Trung Hoa: “… Vũ đang đứng trên bờ quan sát sức mạnh của dòng nước thì thấy một ông già mặt trắng trẻo, mình cá, nhảy lên từ dòng sông… Ông già tự xưng là Hà Bá. Vị thần này cho Vũ một phiến đá to màu xanh… Đó chính là Hà đồ”. Rồi tiếp theo còn có chuyện Vũ gặp một con rắn thần ở trong hang, rắn dẫn Vũ tới gặp Phục Hy và Phục Hy trao cho Vũ một thanh Ngọc giản, có thể đo đạc được trời đất.
Chuyện Sơn Tinh được gậy thần sách ước và chuyện Đại Vũ được Hà đồ, Ngọc giản chỉ là một. “Ông già mặt trắng” có thể chính là Thái Bạch Thần Tinh. Thái Bạch = Thái Hạo (Hạo là sáng, bạch), cũng là tên khác của Phục Hy trong truyền thuyết. Phục Hy tương truyền có mình rắn.
Phục Hy là người tìm ra Bát quái nên hoàn toàn có thể Phục Hy chính là Thái Bạch Tử Vi thần tướng. Phục Hy là vị thần chấn Đông nên cũng có thể là Long Vương Động Đình.
Theo truyện Dịch thì Phục Hy là người đã chép Hà đồ từ lưng con Long Mã (= con rồng, rắn thần). Còn vua Vũ vẽ Lạc Thư từ lưng con Thần Quy. Có thuyết khác lại cho rằng cả Hà đồ lẫn Lạc thư đều do Đại Vũ nghĩ ra. Dù thế nào thì rõ ràng phép thần của Tản Viên Sơn Thánh chính là Hà Lạc, được tiếp thụ từ tiền nhân và sáng tạo thêm trong quá trình trị thủy.
Nhờ có sự học hỏi, suy ngẫm về thế giới và xã hội, đúc kết nó trong cuốn Sách ước ngàn đời là Hà thư, Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh đã thành công trong trị thủy, an dân, chống giặc. Đó cũng là ý nghĩa của câu “Long hóa Vũ môn”, cá vượt Vũ môn hóa rồng, như bức giả sơn đắp tại đền Và.
“Lĩnh Nam chích quái”, Truyện núi Tản Viên: “Đại vương Sơn Tinh họ Nguyễn, cùng vui với các loài thủy tộc ở đất Gia Ninh, huyện Phong Châu”. Còn “Việt sử lược” về sự thành lập của nước Văn Lang: “Đến thời Trang Vương nhà Chu ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.
Tới đây ta hiểu, “người lạ dùng ảo thuật ở bộ Gia Ninh” đã áp phục các bộ lạc chính là Tản Viên Sơn Thánh, người đã tập hợp nhân dân Việt trong cuộc đấu tranh chống nạn hồng thủy. Phép “ảo thuật” ở đây không gì khác là Hà đồ và Lạc thư, là Dịch học của người họ Hùng. Quốc tổ họ Hùng không phải là một thầy phù thủy, mà là một nhà khoa học vào thuở bình minh của dân tộc.
Dấu chân vua Hùng trên tảng đá lớn ở đình Cả Cao Bang.Đình Cả Cao Bang.Hai bức hoành phi “Khởi bang thư vương” và “Nguyên quốc Việt quang cơ” ở đình Cả Cao Bang.Cửa nghi môn đền Và với hình Lưỡng long chầu Thái cực.Tượng Tản Viên Sơn Thánh với gậy thần sách ước.Ban thờ lộ thiên “Long hóa Vũ môn” trước cửa đền Và.Tượng đá cổ Voi chín ngà, Gà chín cựa, Ngựa chín hồng mao cùng với tượng Phù Đổng Thiên Vương ở đền Thượng Ba Vì.Chân tượng Tản Viên Sơn Thánh với gậy thần sách ước, tranh in trong cuốn “Nhất thành khả cách chân kinh”.
Thắng cảnh Tây Hồ ở Hà Nội được biết với sự tích Long Quân dâng nước diệt con hồ ly chín đuôi, rồi đất sụt mà thành hồ. Bản chất của “Tây Hồ”, hay người Hồ ở phía Tây, đã từng được bàn trong năm trước. Nay sang phía Đông của hồ để tìm xem Long Quân tại hồ Dâm Đàm là chỗ nào.
Những cây gạo ở cung Nhật Chiêu.
Các làng ở phía Đông hồ Tây thờ vị thủy thần Dâm Đàm Đại vương có tên là Uy Đô Linh Lang. Sách Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ kể về đền thờ vị thần này như sau:
Đền Uy Linh Lang Đại vương ở phường Yên Phụ huyện Vĩnh Thuận, phía Bắc hồ Trúc Bạch, dựa lưng vào La Thành, phía trước trông ra sông Nhị. Tương truyền rằng là nơi phụng thờ thủy thần Uy Linh Lang Đại vương. Vương cùng với 6 người em trai chia làm thần ở các vùng Nhật Chiêu, Quảng Bố, Tây Hồ, Yên Phụ. Vào đời Vĩnh Thọ nhà Lê nước sông Nhị xói vào phường Yên Phụ. Quan quân không trị được, bèn cầu đảo nơi thần. Nước lập tức rút đi. Từ đó hàng năm được lấy 30 quan tiền từ thuế của hồ để cúng làm hương lửa phụng thờ.
Về nguồn gốc của thần Uy Linh Lang và 6 người em sách Tây Hồ chí có chuyện Bảy cây gạo của họ Lạc như sau:
Bảy cây gạo ở bờ hồ góc phía Tây Bắc, nay thuộc ở phía ngoài đê của Nhật Chiêu. Lúc bà phu nhân họ Lạc, vợ của vua Diệu Đế, sinh Uy Linh thấy là một bọc có bảy trứng, cho là lạ, bèn vứt đi. Sau đó hóa thành bảy con rồng bay lên trời. Nghe chuyện, phu nhân sai trồng cây ở nới ấy để nhớ. Sắc phong tước vương, tặng thêm hai chữ Uy Linh để thờ. Miếu thờ nay do ấp Tây Hồ phụng sự.
Vua Diệu Đế ở sách này được chú thích là Lạc Long Quân. Như thế Uy Linh Lang và 6 người em là giống rồng từ Lạc Long Quân mà sinh ra.
Cung thờ ba vị thủy thần ở đình Yên Phụ.
Cũng sách Tây Hồ chí cho biết: Đền Uy Linh Vương ở ấp Tây Hồ trên Bãi Rùa. Vương cũng là con của Diệu Đế do bà phi họ Lạc sinh ra, nhưng không trong số phân đi lên rừng xuống nước. Vương khi ấy hóa thành bảy con rồng bay lên trời. Nghe tin, vua sắc phong vương, ban thêm mỹ tự để thờ. Ngôi đền này là ngôi đền cổ nhất, thứ là đền Yên Phụ, thứ nữa là đền Quảng Bố.
Đình Yên Phụ.
Ngày nay, vị thần Uy Linh Lang được thờ ở đình An Trì bên bờ Bắc hồ Trúc Bạch, đình Yên Phụ là gò Rùa của Hồ Tây và đình Nhật Tân, xưa là điện Nhật Chiêu, gần chỗ 7 cây gạo nơi mà 7 con rồng đã bay lên trời. Thần tích Uy Linh Lang ở các ngôi đền này kể:
Vương vốn là chính phái họ Hồng Bàng, là thứ tông của Bách Việt. Xưa Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra một trăm người con trai. Mỗi người chia một nửa, làm riêng hai nhà lên núi xuống nước mà cai quản mỗi phương, quyền chưởng muôn dân. Đại vương là giống giao long, là trưởng của Xích Giáp, hiệu là Uy Linh Lang, cùng với 6 người được nhận phong ở đó là Bạch Giáp, Hoàng Giáp, Hắc Giáp, Thanh Giáp, Chu Giáp, Tử Giáp. Về sau anh linh ngày càng hiển hách, giúp vật hộ dân, nhiều lần hiển ứng, tôn thêm long trật…Sau này, vì có công dẹp giặc Nguyên, ông được gia phong làm Dâm Đàm Đại vương.
Tiền tế đình Nhật Tân.
7 vị thủy thần được thờ đầy đủ tại điện Nhật Chiêu, tức đình Nhật Tân ngày nay, tương truyền là nơi bọc trứng nở thành 7 con rồng mà bay lên trời trên bãi sông Hồng. Cái tên Nhật Chiêu cũng xuất phát từ đó, khi bọc trứng bị vứt bên bãi sông, đến đêm nghe tiếng vang và ánh sáng chiếu rọi. Còn nơi nhà của Uy Linh Lang là khu vực phường Yên Hoa xưa, nay tách thành 2 nơi thờ gồm đình Yên Phụ ở bãi Rùa hồ Tây, đình An Trì (hay đình Yên Hoa) ở hồ Trúc Bạch.
Chồng kiệu 7 vị rồng và hoàng hậu Minh Đức trên sân đình Nhật Tân.
Cho dù thần tích kể chuyện Uy Linh Lang giáng thế làm hoàng tử nhà Trần và có công chống giặc Nguyên Mông nhưng sự thực ta biết thời Trần không hề có vị hoàng tử nào như thế. Đây là tích cũ kể lại, bị ghép với triều các vua Trần.
Nguyên bản, Uy Linh Lang là thời Hồng Bàng mở nước. “Vương là thứ tông trong Bách Việt” có nghĩa là dòng rồng theo cha xuống biển, được gọi là các Linh Lang, hay “thủy thượng linh thần”, Thủy tinh. Đặc biệt thông tin “Vương là trưởng tộc Xích Giáp” có thể phân tích như sau. Giáp là can đầu tiên trong thập can nên Giáp có thể hiểu là người đứng đầu, hay thủ lĩnh. Trưởng Xích Giáp nghĩa là vị quân trưởng của phương Xích, tức là phương màu Đỏ, phía Nam ngày nay.
Xích phương còn được thể hiện qua hình ảnh Hoa Đào rực rỡ, là “đặc sản” vùng đất Nhật Chiêu (Nhật Tân). Hoa – hỏa, Đào là màu đỏ. Thì ra vùng Nhật Tân trồng hoa đào là để tưởng nhớ tới vị trưởng Xích Giáp Uy Linh Lang từ thời Hồng Bàng.
Hoa Đào Nhật Tân
Đào Hoa trang cũng là vùng đất được nói tới trong sự tích vua cha Bát Hải Động Đình ở đất Đào Động Thái Bình. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả thì cho biết, Lạc Long Quân hóa tiên về biển làm Động Đình Đế quân, vua cha của Thủy phủ. Cho nên Lạc Long Quân chính là Thủy Tinh Động Đình của truyền thuyết Việt. Đào Hoa trang không gì khác, là chỉ Hoa Hạ, triều đại lịch sử lập quốc ở phương nóng bức, rực ánh mặt trời. Lạc Long Quân là vị vua khởi đầu nhà Hạ ở vùng ven biển Động Đình.
Cụm từ “Uy Linh Động Đình” còn gặp trong sự tích của Động Đình Thánh mẫu và các vị thủy quan ở đình La Phù tại bãi Trường Sa bên bờ sông Đà. Từ thông tin trên có thể xác định Uy Linh Lang chính là Lạc Long Quân. 6 hay 7 vị “Giáp” anh em hóa rồng là các vị Tôn quan trong công đồng Thoải phủ.
Bà mẹ của Uy Linh Lang và các vị thủy thần là bà Lạc phi, hay hoàng hậu Minh Đức cũng chính là Thủy Tinh Thánh mẫu Xích Lân Long Nữ. Đền thờ bà là đền An Thọ nằm trên con đường giữa 2 hồ Trúc Bạch và hồ Tây. Đền này nay trở thành điểm thờ của đạo Mẫu, đưa Hàn Sơn Thánh mẫu, tức Mẫu Thoải, làm chúa bản đền.
Cung thờ mẫu đền An Thọ
Hồ Dâm Đàm của thời điểm 4.000 năm trước chắc chắn là một vùng nước mênh mông không bờ (nghĩa của từ Dâm Đàm 霪覃). Rất có thể đây chính là Thủy quốc Động Đình hay hồ Động Đình được nói tới trong cổ sử, là nơi Kinh Dương Vương gặp Thần Long nữ mà sinh ra Lạc Long Quân. Tây Hồ chí kể thành chuyện bà Lạc phi vợ của vua Diệu Đế sinh ra Uy Linh Lang và 6 vị thủy thần.
Ven hồ Tây còn có một số truyền tích nói tới hồ Động Đình. Ví dụ như một trong những vị thủy thần thờ ở làng Nghi Tàm có tên là Động Đình Vương ở thời Hùng Vương. Tây Hồ chí kể vị Vương này đã đắp đê trị lũ lụt, rồi đến bến Lâm Ấp (khu vực ven hồ Tây) hương Long Đỗ thảo hịch ném xuống nước để thần phục thủy quái, thuồng luồng. Vương nói: Đầm này là lầu rồng của Thủy quốc.
Nội điện đình Nghi Tàm.
Cụ thể hơn nữa, sách Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ có chép về một ngôi miếu mang tên miếu Lạc Long:
Miếu Lạc Long nằm ở cách cửa Bắc của kinh thành chính hướng bên ngoài 1 dặm, thuộc vùng ven bờ hồ Trúc Bạch tại thôn Yên Ninh, huyện Vĩnh Thuận. Thời Ngoại kỷ, Lạc Long Quân thường ở Thủy cung, đi chơi hồ Động Đình gặp Âu Cơ mà cưới làm vợ, sinh ra trăm trai. Một hôm Long Quân nói với nàng Âu rằng:
– Ta là vua rồng, nàng là tiên nữ. Nước lửa tương khắc, khó thể ở lâu.
Bèn phân 50 người con theo cha về biển, 50 người con theo mẹ lên núi, để con trưởng Hùng Vương lên ngôi vua. Nay miếu ở trên hồ Trúc Bạch chính là kinh đô xưa của Long Quân vậy.
Bùi Thúc Khiêm có thơ vịnh rằng:
Lạc Long bách tử thế thư truyện Bán nhập sơn cư bán hải cư Cổ miếu ánh lâm hồ thượng vọng Mang mang vân ải thuỷ long khư.
Dịch:
Lạc Long sách kể truyền trăm trai Nửa nhập núi cao, nửa biển dài Miếu cổ bên hồ soi bóng ngóng Gò Rồng khói nước bốc mây bay.
Ghi chép trên thật quá đầy đủ. Lạc Long Quân sống ở “thủy quốc”, tức là vùng hồ Dâm Đàm, đi chơi ở “hồ Động Đình”, tức là đi chơi tại hồ Tây. Đặc biệt nhất là chuyện này khẳng định khu vực hồ Trúc Bạch là “kinh đô xưa của Long Quân”.
Vùng phía Bắc và Đông hồ Trúc Bạch được gọi là gò Hồi Long (gò rồng). Ở đây nay còn ngôi đền “Bát Hải vọng từ” – đền nhìn ra biển Bát, thờ đức Vua Cha. Đền này xưa ở bên bờ hồ Trúc Bạch, nay chuyển về đầu dốc Hàng Than. Đây chính là miếu Lạc Long được nói đến trong sách trên.
Vùng “kinh đô của Long Quân” phía Bắc hồ Trúc Bạch xưa là phường Yên Hoa, nay còn dấu tích tại đình Yên Hoa (đình An Trì), là nơi ngụ cư (ấp phong) của Uy Linh Lang Đại vương theo thần tích. Vị thần này có chỗ gọi đầy đủ là Uy Đô Linh Lang, với chữ Đô chỉ kinh đô. Chữ “trì” trong An Trì là chỉ “thành trì”, tương tự tên Việt Trì nghĩa là thành Việt, chứ không phải ao Việt. An Trì nghĩa là thành An hay An đô.
Đình An Trì (Yên Hoa).
Trong các tên gọi liên quan đến Uy Linh Lang và ven hồ Tây rất hay gặp các từ An – Yên, như Yên Phụ, An Trì, An Thọ, Yên Thái… Thông tin về kinh đô của Long Quân đã giúp giải nghĩa từ này. Bởi vì kinh đô của vua Khải, vị vua đầu nhà Hạ, chính là An Ấp. An – Ơn là số 2. Trong Hà thư số 2 cùng với số 7 là cặp số chỉ hướng Xích đạo (hướng Nam nay). An – Hoa – Đào – Xích – Hạ đều cùng một nghĩa chỉ phương Nam nay, vùng nóng bức, mùa hè.
Bia thời Lê Vĩnh Hựu ở đình An Trì ghi địa danh Yên Hoa phường.
Thì ra An Ấp, kinh đô đầu tiên của nhà Hạ được cổ sử Trung Hoa ghi nhận, chính là kinh đô rồng ở vùng giữa hồ Dâm Đàm và sông Nhị. Rồng bay lên (Thăng Long) trên sông Nhị là hình ảnh khởi đầu của vương triều Hạ từ Uy Linh Lang – Lạc Long Quân. “Thất long” tức là Rồng của triều Hạ (số 7 chỉ hướng Xích đạo như từ mùa Hạ) đã “thăng thiên” ở bãi Nhật Chiêu. Đất Thăng Long quả đúng là Long Đô (bị đọc trệch thành Long Đỗ) – kinh đô rồng từ 4.000 năm trước.
Sông Hồng nhìn từ Nhật Tân.
Đôi câu đối ở nghi môn đình Nhật Tân:
Biểu trụ tiếp thiên, Tây Hồ linh tích, danh xưng văn vật địa Hoàng thành cận lộ, Nhật Tân đào bích, diệu chiêu thái bình thiên.
Dịch:
Trụ biểu nối trời, Hồ Tây tích thiêng, xưng danh đất văn vật Thành rồng gần chốn, Nhật Tân đào bích, rực ánh cảnh thái bình.
Thăng Long: những điểm thờ Uy Linh Lang và các vị thủy thần hồ Dâm Đàm.
Bản dịch thần tích làng La Phù, tổng La Phù, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Ngọc phả cổ chép về Thần nương họ Phan thời Việt Thường Thị sinh một bầu năm vị thủy quan.
Tại bộ Long Vương
Nước Việt xưa trời Nam khởi vận, thánh tổ dựng đồ, trải 18 đời tương truyền, hơn 2 ngàn năm thịnh trị. Thời triều Kinh tới cháu ba đời là Hùng Quốc Vương lên ngôi (Tổ của Vương là Kinh Dương Vương, cha là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ. Xem thấy rằng Lạc Long Quân xuất ở núi Nghĩa Lĩnh, ở tại Bắc thành Phong Châu. Thành Phong Châu nay là xã Việt Trì bên sông Bạch Hạc. Vua ở đất Bắc. Âu Cơ có mang được 3 năm 30 ngày thì đầu núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc rực rỡ, mới sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm lành trăm nam, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành mới tạo dựng bình phong, phân chia đất nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Mã Châu, chín là châu Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông. Phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần, 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. Lại chia làm trăm họ như vậy. Hùng Quốc Vương chính là con trưởng), đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên Văn Lang, quốc đô tên thành Phong.
Quốc quân tuân theo nghiệp lớn, chăm lo hóa đức, miễn giảm nông tang, khiến cho người dân không lo thiếu thốn, đất nước có nhiều dự trữ. Sông biển yên bình. Người không gian dối, thuần hậu chân thật. Lại có thấy chép gốc của việc hưng công chế trị đương thời tăng hơn các đời trước. Người đời khen là bậc hiền quân. Khi ấy Vua truy ơn tiền thánh, lấy đất chia cờ, lập các bộ sơn tinh, thủy tinh làm trăm vương, đổi thành trăm họ, phân ra đầu non góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên họ trấn các đầu núi, cùng gọi là phiên thần, phụ đạo. 50 tên họ trấn các góc biển, cùng gọi là linh thần thượng thủy. Tiện để giúp bảo dân sinh, khuông phù tôn xã.
Khi ấy ở xã La Phù, huyện Bất Bạt, phủ Đà Dương, đạo Sơn Tây có một nhà trưởng ông (họ Phan tên Trọng) cưới vợ người bản tổng xã Tang Ma (tên làLỗ Thị Đam). Vợ chồng một nhà trung hậu, gia tộc thế lớn giàu đủ. Vào đương lúc mùa xuân tháng Giêng, khắp nơi hoa nở tràn mặt đất, người người nô nức đi vãn cảnh. Khi đó Phan Công đã ngoài tuổi 60, Lỗ Thị vừa đến tuổi 50. Nhờ ơn phúc hòe đình che rủ, sớm đầu đã có hai người con trai, đều đã thành bậc hùng trưởng ở một phương, yên bề gia thất. Cho đến lúc đó, vợ chồng Phan Công tuổi tác đã cao. Vào lúc ngày xuân, vợ chồng đem tiền hương đi cúng Phật. Đi tới núi thiêng Ngọc Tản, nhàn ngắm núi sông, rồi vào cửa thiền cảnh Phật làm lễ.
Đương khi đó Thủy quốc Long Vương thường hay du ngoạm cõi dương gian trần thế, thích tìm nữ sắc trên trần gian.
Chính điện đình La Phù
Hôm đó khi quay về đi đến chân núi, bỗng thấy một con rết dài hơn 2 thước đuổi theo một con rắn gió dài ngoài mười trượng, chạy lên đầu ngọn sông. Vợ chồng Phan Công không dám đi qua, dừng chân lại ở dưới một gốc cây để xem sự việc như thế nào. Được một lúc lại thấy con rết chạy lại mà đi mất. Tự nhiên nghe thấy một tiếng kêu lớn vọng về vùng đất dưới. Vợ chồng ông mới đến nơi đó xem thì thấy con rắn gió đã bị con rết cắn chết. Vợ chồng ông vốn có lòng lành, thấy con rắn bị chết rất là thương xót, liền gọi lũ trẻ chăn trâu ở trong khu rừng đó nói rằng:
– Các cháu nếu có thể chôn cất con rắn này thì ta sẽ có báo đáp trọng hậu.
Trong người ông lúc đó chỉ có 7 mạch tiền đồng, liền đem đưa cho lũ trẻ chăn trâu để thu xếp việc chôn cất con rắn. Sự viêc xong ông bà trở về. Tối hôm đó mơ màng như nằm mộng, bỗng thấy một con rắn vảy năm màu đi thẳng vào trước sân, dập đầu mà bái. Ông mới hỏi con rắn từ đầu mà tới. Dứt lời thì rắn biến ảo thành một người con gái nhỏ đáp rằng:
– Bữa ban ngày bị con rết làm hại, may gặp được tôn ông chôn cất mới bảo toàn được tính mạng. Ơn này phải biết báo đáp làm sao. Nay Hoàng thiên thấy tôn ông có đức, lệnh cho thiếp đầu thai nhập làm con trong gia đình ông để báo đáp ơn sâu.
Dứt lời thì ông tỉnh lại, đem sự việc trong mộng mà kể. Lỗ nương nghe vậy nói rằng:
– Đấy là rắn báo ơn.
Ban thờ Tản Viên Sơn Thánh với những cây bông dùng trong lễ hội ở La Phù
Sau lại thấy Lỗ nương có mang. Đến năm Ất Tỵ ngày 2 tháng Giêng thì sinh hạ được một con gái. Khi sinh trên trán có một vệt sẹo đỏ, hai bên má có 2 vết sẹo xanh, diện mạo khác hẳn người thường. Đến khi lên 3 tuổi, rất hiếu thuận với cha mẹ, mới được đặt tên là Thị Cù. Khi lên 19 tuổi hình dáng yểu điệu, nhan sắc khó sánh. Nhưng chỉ có khuôn mặt lại rất xấu, trán thấp, răng vẩu, mắt to không có lông mày. Người thường không ai dám nhìn. Năm 22 tuổi những người gia đình bình thường không dám tỏ tình. Anh hùng hào kiệt cũng không có ai cầu hôn.
Đến tiết trời mùa hè ngày 6 tháng 6, Phan Nương cùng với hơn 7-8 người con gái trong làng đi lên núi Tang Ma lấy củi. Trên núi có một ngôi chùa nhỏ. Phan Nương đi vào chùa xem, lại đến một hang đá (hang có tên Hàm Rồng. Trong động có một lỗ huyệt thông thiên. Lại có một cái giếng ở trong động). Bèn mới vào bên trong hang chơi, thì thấy một miệng giếng. Nương mới ngồi xuống xem cái giếng, thấy nước bên trong giếng động mạnh. Bỗng nhiên thấy một đôi rắn xanh và rắn vàng nổi lên trên mặt nước một lúc, rồi lại lặn xuống nước mà biến mất. Sau một lúc bỗng thấy đáy giếng có tiếng vọng ù ù như tiếng sấm. Từ đáy giếng sóng nổi lên ầm ầm. Phan Nương cả sợ vội chạy ra khỏi động, đem gánh củi trở về.
Chùa Tăng Má nơi có Thạch động Tang Ma, nay thuộc Thanh Lâm, Thanh Thủy, Phú Thọ
Tối hôm ấy thấy có hai người tướng mạo đường đường, thân mặc áo đen. Đi trước có thanh đồng cầm bưng một chiếc mâm vàng, trên có đặt một buồng cau vàng cùng với trầu vàng năm cánh, tiến vào đến trước mặt Phan Công, nói với ông rằng:
– Vâng lệnh Thủy đế Long quân của thủy quốc, chủ quản sông Thao, nay thấy nhà Phan Công trên dương thế có một hiền nữ, nên nguyện kết hôn nhân. Sai thần khiển tướng đến làm lễ sính hỏi. Lại có một bài thơ, xin trình trước để Ông xem. Ngày sau Thủy quân sẽ đích thân đại giá đến nơi.
Vợ chồng Phan Công nghe lời vậy, cả sợ, mới cầm lấy thư mở ra xem, bên trong có 4 câu rằng:
Thủy quốc nay tìm người cõi trần
Một lòng chỉ ước muốn cầu thân
Anh hùng đâu để rơi người ngọc
Tấc lễ trước đem báo tin dâng.
Ông xem xong thì bỗng không thấy ba người đâu nữa. Vợ chồng Phan Công rất sợ hãi mới dẫn Phan Nương về ở trốn ở nhà người cậu (người cậu tên là Lỗ Đình Bản) tại xã Báo Triệu. Phan Nương sống ở nhà cậu được vài ngày. Một hôm Phan Nương đi ra ngoài bãi ghềnh bên bờ sông (tức là ghềnh Ba Triệu) mà tắm gội. Lại thấy toàn thân dính nhớt dãi, gột đi không được. Bỗng thấy có một con ba ba màu vàng nổi trên mặt nước. Nương sợ hãi vội chạy về. Đến nửa đêm Phan Nương nằm mơ màng như mộng, thấy một quan nhân đội mũ hoa sặc sỡ, mang đai gấm sáng láng. Mình mặc áo rồng, giáp vàng nổi mây năm màu, cưỡi một con long mã đen, theo sau hầu hơn mấy trăm tinh binh, khí giới đầy đủ, đều là mắt rồng, đuôi cá, vảy lân, áo ráng, đường đường tiến vào. Phan Nương thấy binh mã quan nhân đến thì muốn chạy trốn. Quan nhân bèn dắt nàng lại mà nói rằng:
– Ta chính là Thủy Đế Động Đình, quyền cai quản Tam Giang. Nay thấy nàng đúng là vật báu chốn thanh cung, ở nơi Bồng Đảo, Linh Tiêu, là người của điện nguyệt tiên nga, không phải là mệnh tính phàm trần. Nay ta thiếu người nâng khăn sửa túi, nên nguyện kết hòa hợp cầm sắt, duyên vui loan phượng, trần gian thủy giới tuy âm dương hai ngả nhưng phong thủy đều chung. Cõi người thì trăm năm là hạn. Thủy quốc lại trường thiên bất lão. Xin nàng, xin nàng đừng đóng lòng mà phụ ta vậy!
Dứt lời, Phan Nương đáp rằng:
– Thủy quân có lòng thương đến, tiện nữ đâu dám phụ chàng. Thiếp nguyện một lòng nghe theo mệnh lớn, như hoa quỳ hướng về mặt trời, thuận như dòng nước sông dài chảy vậy. Chỉ xin được ở lại trên trần thế để dưỡng ơn cha mẹ, báo đức lớn cù lao. Do còn nghĩa chăm nuôi, là người con đâu thể thờ ơ. Tuy là phận nữ phân theo tam tòng, nhưng cũng còn nghĩa tạo hóa sinh thành da tóc. Vả lại thủy quốc trần gian, hai đường xa cách. Phận làm con, cha mẹ còn đang tuổi cao, mà lại xa rời đỡ gối, sao gọi là hiếu được. Xin trần tình trước sau, mong được như lời. Thiếp một lòng xin lắng nghe theo.
Thủy quân lại nói rằng:
– Lòng nàng không muốn về thủy quốc, ta cũng để nàng sống ở trần gian để báo đáp ơn sâu dưỡng dục, sớm tối thăm hỏi mẹ cha. Nhưng duyên sự thủy quốc đã đến, xin nàng đừng để lộ ra nhân gian. Xin hãy giữ gìn cẩn thận. Không thể tiết lộ!
Phan Nương rằng:
– Xin vâng.
Nói đoạn xong, uyên ương chắp cánh, loan phượng sánh đôi, ngân tiếng thanh âm chiêng trống, hứng đọc vần nhã đàn thơ, mê tình xuân ong bướm, vui vầy vận đẹp thư cưu. Từ đó náu thần xuất thánh, biến hóa vô cùng. Ban ngày thì ở trên mái nhà, biến thành hình con thằn lằn. Hoặc hiện thành con rắn rồng nằm trên xà thượng. Tối đến hóa thành một chàng trai tướng mạo đường đường, đai gấm, khăn đỏ rực rỡ, từ trên không hạ xuống, cùng với Nương thông tình, vui mối nhân duyên trời định, khó mà giãi bày cho được.
Cù Nương về lại quê ấp (tức La Phù), nội tình này không dám để lộ ra. Hôm đó buổi tối lại thấy binh mã quan nhân tiến đến địa phương. Một vùng mưa to gió lớn, trời đất tối sầm. Nhân dân và cha mẹ đều không thấy gì. Duy chỉ có Nương là thấy. Đêm đến mộng mị thấy hoặc hiện thành một chàng trai cao to, quần áo chỉnh tề, cùng nhau ân ái. Hoặc biến thành một con rồng vàng quấn quanh bụng nàng. Rạng sáng thì ra bay lên không mà đi. Không ai biết mối tình riêng này.
Được quãng một năm Cù Nương có mang. Nhân dân trong làng xóm bàn tán. Hội đồng hương chức tìm Nương tra hỏi để trừng phạt. Khắp nơi người dân bàn luận, muốn gọi Nương ra để hỏi. Đến khi thấy Nương đến, nhân dân tự nhiên đều sợ, không người nào dám hỏi. Cha mẹ Nương thấy mọi người có nhiều lời chê cười, chỉ trích, lấy làm xấu hổ. Sau do vậy mà sinh ra bệnh nặng rồi cùng nhau qua đời. Các anh em làm lễ an táng. Sự việc xong, một hôm hương chức họp nhau lại, gọi Nương ra lấy tiền nộp phạt cho dân. Nương mới trình bày với hương chức rằng:
– Thiếp xin được khất tới kỳ sinh nở, mẹ tròn con vuông, sẽ ra nộp cho hương chức đầy đủ. Không dám không nộp.
Hương chức đồng ý. Cù Nương có mang 19 tháng, một ngày (tức ngày 12 tháng 4) nhân dân bỗng thấy mây sấm nổi lên, gió mưa kéo đến. Bốn hướng mù mịt. Kinh trời động đất. Trên sông sóng lớn vạn khoảnh, cá rùa ngàn trùng, nổi lên trên mặt nước. Lại thấy một đội binh mã hơn 500 người tiến vào chỗ dân cư, truyền cho nhân dân lấy một chiếc thuyền lớn mang ra bãi sông, thả xuống đầu dòng sông.
Cù Nương đi ra sông xuống thuyền, sai lấy nước sông lên đầy thuyền. Rồi sinh hạ một bầu năm con, hai nữ ba nam. Tất cả đều kỳ dị khác thường. Khi đang sinh có mây năm sắc bay ở trên không trung, che lấy nơi có chiếc thuyền. Năm bộ tiên nương ca múa, âm nhạc đàn sáo reo vang nơi đó. Hương thơm ngào ngạt, sắc hồng tím sáng láng. Sinh được một lúc thì dần dần biến mất.
Sinh được 3 ngày lại có mưa gió động trời, sấm sét chuyển đất. Nhân dân đều khiếp phục, mới làm lễ khánh hạ. Ngày hôm đó (tức 14 tháng 4) nhân dân địa phương (tức La Phù) bèn đón mẹ con trở về nhà. Đến lúc ban đêm lại có ba chiếc thuyền rồng đỗ tại bên bãi sông (tức bãi ghềnh La Phù). Bỗng thấy có một quan nhân từ trên thuyền rồng bước ra lên trên bãi sông, quần áo rực rỡ, binh mã uy nghi tiến vào chỗ dân cư. Bèn triệu tập người dân lại.
Hôm đó (15 tháng 4) người dân làm lễ bái hạ, hỏi rằng:
– Dám xin hỏi quan nhân từ đâu đến?
Quan nhân đó nói rằng:
– Ta vốn là quyền Thủy đế, cai quản sông Thao. Trước có đến vùng sông nước thuộc cai quản của sông Đà, may mắn gặp được Phan Thị ở đó (tức là đất La Phù), kết được duyên lành với trần thế. Trước đây chưa thể để lộ ra nhân gian. Nay đã sinh được 5 người con nên mới đến nơi dân cư thăm gặp các con trong nhà. Lại sắp xếp các con chia về các nơi, ngự trấn thế nước hai bên bờ sông để bảo vệ yên dân. Nay mới nói với nhân dân biết được việc này vậy.
Nhân dân rất kinh sợ, dập đầu bái lạy. Bỗng thấy hô triệu các con. Lúc ấy 5 người con đang nằm trên giường, nghe quan nhân hô gọi, liền đó 5 người con đều ngồi dậy. Thấy quan nhân nói rằng:
– Năm con hãy cùng phân chia trấn ở 5 nơi bên sông. Một người con là Long nương Công chúa phân trấn ở xã An Tập, sông Thao làm chính sở. Một người con Trưởng nam Đệ Nhất, tên là Côn Long Vương Thủy hầu, giao đóng trấn ở cửa Tam Giang sông Thao, lấy xã Báo Triệu (cũng từ đó viết là Bảo Triệu) làm chính sở (tức là ghềnh Ba Triệu), kiêm quản hai nơi Đồng Nương, Phong Thành. Một là Đệ Nhị Chàng Hai Long Vương, tên là Hồng Thủy hầu, phân trấn thủ một dải sông Bờ, lấy Bảo Khang làm chính sở, kiêm trị hai nơi cửa động Tang Ma, Khê Nguyên. Còn một người con trai thứ Đệ Tam Long hầu, tên Trì, ở lại cùng với quê mẹ, trấn trị tại La Phù làm chính sở, đều sống ở cửa sông (xã dân hai bên bờ sông phụng thờ ở các di tích sau đó), phân trị các nơi.
Từ đền Quốc Tế nhìn ra ghềnh Bợ bên sông Đà ở Thạch Đồng, Thanh Thủy
Sự việc xong, giây lát binh mã quan nhân đều cùng biến mất. Được một lúc, năm người con bỗng hóa thành năm con rắn, đầu có mào hoa năm sắc, thân dài mười trượng. Bỗng thấy nước sông mở ra một con đường thẳng, hình như dải lụa trắng, chạy thẳng đến nơi ở. Giao long, cá, ba ba, rùa, rắn hơn vài trăm bầy đều cùng theo đường nước đến nghênh đón. Lại thấy bốn con rắn dập đầu cùng nhau bái trước mẹ, rồi trườn xuống đường nước mà đi ra sông lớn. Bầy cá, ba ba, giao long đều đi theo. Nhân dân hai bên bờ sông đều kinh hãi, cúi phục mà nhìn. Lại thấy đại hội ở giữa sông chia làm 4 đạo. Trên trời mây mưa dầm dề. Đáy sông tiếng sấm vù vù nổi lên. Mây theo mưa đuổi. Bốn đạo chia ra mà đi.
Khi ấy quan địa phương nghe được mới báo lên triều đình, tấu đến bệ hạ. Vua bèn sai các đình thần và quan địa phương dẫn binh mã đến theo hai bên bờ sông để xem đi đến nơi đâu. Truyền cho dân cư địa phương lập các đền để phụng thờ.
Một đạo đi thẳng đến sông Đáy, đến bến Hội Giữ. Một phương trời đất u ám, trên sông sóng to gió lớn nổi tới. Khu đất dân cư sắp lở. Nhân dân thấy đó rất sợ hãi. Triều đình đến nơi nói với nhân dân rằng:
– Thủy quan tới cai trị. Người dân ta ở đất này mau lập đàn cầu đảo, sửa tạo miếu đền phụng thờ thì dân mới yên.
Ngày hôm đó 10 tháng 5, dân liền lập miếu, làm lễ phụng thờ. Dân đều được yên lành từ đó.
Lại nói, một đạo tiến thẳng đến cửa sông Ma Khê, xã An Khê sông Thao. Một đạo đến thẳng xã Báo Triệu, cùng với bến sông Đồng Nương, Phong Thành. Xứ ấy đều thấy nước dâng sóng cả, xô tới ngọn sông, phá lở vùng đất có dân. Mưa gió động trời. Nhân dân bị bệnh tật rất khổ. Quan triều đình tiến quân đến nơi, thúc giục sai khiến nhân dân rằng:
– Thủy quan đến cai trị. Nhân dân các người hãy mau lập đền thờ phụng.
Hôm ấy (ngày 12 tháng4) dân địa phương (tức xứ ghềnh ba Triệu, xã Bảo Triệu) làm lễ cầu đảo, lập đền phụng thờ. Cũng khi đó Phong Thành, Đồng Nương cũng đều lập đền thờ (thờ phụng người anh cả Đệ Nhất Long hầu). Quan triều đình lại đến xã An Tập truyền lập đền phụng thờ (ở xứ Ngoi Ma) Đệ Nhị Long Nương Hoa Tinh Công chúa (hai bên bờ sông Thao, sông Đáy các xã Báo Triệu, Phong Thành, Đồng Nương, Hội Giữ phụng thờ, đều còn di tích).
Lại nói đến Đệ Nhị Công Thủy hầu, một đạo tiến thẳng đến bến Bảo Khang. Khi ấy dân xã Bảo Khang đi ra bến sông bỗng thấy ba chiếc thuyền rồng dừng ở chỗ bến. Mặt trời lúc đó đã đổ bóng chiều. Nhân dân hỏi rằng:
– Thuyền quan nào mà đến bến đây?
Người dân hỏi nhưng đều không thấy tiếng đáp. Nhân dân mới đi ra đến thuyền, ghé xem. Bỗng thấy giao long, rắn, ba ba nằm đầy trong ba chiếc thuyền. Những người dân đó cả sợ, bỏ chạy về dân cư, hô hoán mọi người cùng ra đường lớn. Bỗng gặp một đạo quân lớn hơn 500 người tiến đến thẳng vào nơi dân cư, tụ họp các gia đình ở đó. Nhân dân mới chạy ra, đến bến sông thì không thấy đâu. Lại trở về gia ấp thì thấy binh mã quan nhân đi đến, liền mới làm lễ bái hạ (đây là quan địa phương đến). Quan địa phương mới nói với nhân dân (tức xã Bảo Khang) rằng:
– Thủy quan đến nhận trị nơi dân. Các người mau mau làm lễ nghi lễ nghênh đón, lập đền phụng thờ.
Quan nhân còn đang nói thì bỗng thấy mưa gió nổi lên trên sông, sóng cả, sấm sét đùng đùng, gẫy cây đổ nhà, cát bụi, đá bay. Lại thấy hơn vài trăm con rắn, giao long, đầu có mào hoa ở dưới sông chia nước thành đường mà đi, lên trên bờ sông, trèo thẳng lên trên một cây lớn (nơi ấy có một cây cổ thụ to lớn có ba thân ở tại nơi đường bên sông trong vùng đất dân cư). Nhân dân đều cả sợ. Hôm đó (ngày 12 tháng 6) làm lễ cầu đảo lập đền phụng thờ. Tự nhiên bỗng thấy mưa gió nổi lên vù vù. Một đám mây đen kéo thẳng đến cửa động Tang Ma (nơi đó đất trang Tang Ma có một hang rồng đá hướng trăng, tên là cửa động Thạch Long. Trong động rồng có một cửa giếng thông tới Thủy phủ. Phía trên thân hang rồng có một ngôi chùa nhỏ, có tên là chùa Long Linh). Bỗng nhiên đến đó thì mưa gió mây sấm, giao long, rắn đều cùng biến mất. Sau này trang Tang Ma bèn lập miếu Đệ Nhị Công ở tại động Thạch Long thờ phụng. Từ đó nhân dân đều được yên ổn.
Đình làng La Phù
Lại nói, khi ấy còn lại ông út Đệ Tam Thủy hầu, trị tại quê mẹ (tức xã La Phù) cùng ở với Phan Bà. Công lúc đó có nhiều biến hiện, đi du ngoạm ở vùng đất đai dân cư. Nhân dân hay gặp thấy. Hoặc biến thành hình rắn có mào hoa năm màu, thân vảy rực rỡ. Hoặc hiện thành một quan nhân tướng mạo đường đường, lẫm lẫm oai phong, đầu đội mũ ngọc, thân mặc áo gấm, giáp vàng. Hoặc gọi mưa đến, hoặc kêu gió tới. Nhân dân thường bị hại nhiều nên rất sợ. Hôm ấy (ngày 14 tháng 6) nhân dân làm lễ xin làm thần tử. Phan Bà đồng ý. Người dân bèn dựng lập một cung sở ở bên bờ sông, mời Phan Bà cùng ông đến ở trong cung đó.
Khi ấy chỗ Phan Bà có bãi Trường Sa ở giữa sông. Ngày tháng qua Phan Bà thường đến trồng dâu gai để sinh sống. Phan Bà thường ngày qua sông đến bãi Tang Ma làm cỏ. Ông Rắn bèn theo mẹ cùng đi. Khi đi về qua sông không thấy có người đưa đò, bèn tự rẽ nước mà đi sang bãi. Một hôm ông biến thành một con rắn nhỏ nằm trong đám cỏ ở nơi bãi dâu gai. Phan Bà làm cỏ đúng nơi ông nằm, mới làm đứt mất một đoạn đuôi. Sau khi ông bị đứt mất đuôi, mẹ mới đặt tên là Cộc Công. Nhân dân thường dùng gọi tên vậy.
Bãi Trường Sa, nay là khu Đảo ngọc xanh ở Thanh Thủy
Đến năm Đinh Tỵ, giờ Sửu ngày 8 tháng 2, Phan Bà tự nhiên không bệnh mà mất (Phan Bà húy là Cù, sinh năm Ất Tỵ giờ Hợi ngày 3 tháng 1. Sau kết với Thủy quốc Long Quân, đến tuổi 27 năm Tân Mùi giờ Thân ngày 12 tháng 4 thì sinh được một bầu năm con, hai nữ ba nam. Được 5 ngày thì đều hóa thành rắn. Bốn con đều trị ở 4 nơi. Còn một người con út, tính theo con trai là Đệ Tam Công, tính cả con gái là Đệ Ngũ Công. Trên là tính theo con trai, còn dưới là theo cả con gái. Phan Bà thọ được 86 năm. Đến năm Đinh Tỵ ngày 8 tháng 12 thì hóa).
Ngày bà Phan hóa trời đất mù mịt, sét nổ ầm ầm, mưa gió vù vù. Nhân dân đi trên đường đều mê mệt. Khi ấy dân các xã phụng thờ các vị (tức các xã La Phù, Báo Triệu, Phong Thành, Đồng Nương, An Tập, Hội Giữ, Bảo Khang, Tang Ma cùng đến làm lễ) cùng đến hội ở La Phù làm lễ an táng bà Phan ở nơi đó (tức là chôn cất sau khu dân cư, tên là xứ Khu Lâm, nơi ấy có hình chim phượng. Sau đổi tên thành khu xứ Am Lăng. Nơi đó ngàn núi thắt dựa phía sau, vạn sông lại chầu phía trước). Khi đang chôn cất, nhân dân bỗng thấy năm con rắn dài hơn 10 trượng tiến thẳng đến nơi mộ. Nhân dân sợ hãi phục xuống. Lại thấy năm con rắn nằm ngẩng đầu lên mà nhìn, trong khoảnh khắc tự biến mất.
Lăng mộ Phan Bà ở La Phù
Nhân dân an táng xong quay về khu dân cư lại làm lễ ở chính cung (tức là cung nơi ngày trước sinh ra và bà Phan cùng ông Út ở đó). Tối đó cùng nằm ở nơi ấy, mờ mờ ảo ảo, bỗng thấy năm vị thủy quan cùng Phan Bà và binh sĩ voi ngựa tiến đến cung. Phan Bà ngồi ở chính giữa, còn năm vị nam nữ ngồi chầu hai bên trái phải. Phan Bà cùng hai vị công chúa đều có các nữ sĩ đi theo nâng khăn lược, tay cầm gương ngọc, đầu đội mũ hoa, trâm vàng, chân đi giày phượng, có hơn trăm trinh đồng theo chầu đi bên cạnh, có hình dung chim sa cá lặn, sắc vẻ nguyệt thẹn hoa nhường, môi son mặt sáng, mắt phượng mày ngài, đều là sắc đẹp tuyệt trần. Ba vị quan ngồi trong cung, quân sĩ đứng chầu đầu đội mũ ngọc rực rỡ, thắt lưng khăn gấm sáng ngời, thân mặc áo bào gấm và giáp sắt, đầu lân mặt cá, mũi rồng mày hổ, có hơn ngàn người, đường đường đứng chầu, đầy vẻ thần oai. Xe rồng kiệu phượng cùng voi ngựa đứng thành hai hàng.
Nhân dân bèn làm lễ bái lạy. Bỗng thấy Phan Bà nói với nhân dân rằng:
– Ta vốn ở chốn cung tiên cửa đế bị giáng xuống núi thiêng Tản Viên, lại được sinh ra trên trần thế đầu thai nhập làm con trong gia đình họ Phan, găp gỡ được nhân duyên với thủy quốc, sinh thành một bầu năm con, vâng theo lệnh vua phân ban nơi thờ cúng ở trong dân, quyền quản các sông suối. Tới nay người con trưởng đi theo về với đức vua cha cai quản cung Báo Triệu ở sông Thao, kiêm là lị sở của Phong Thành, Đồng Nương. Người con trai thứ hai vâng về bên quê ngoại, nơi gia đường đất Tang Ma, Bảo Khang, trấn giữ chính sở Bảo Khang, Thạch Xá. Còn người con út cùng trị cư với ta một chỗ, yên trấn quê nhà, cai quản sông Đà là linh thần sông nước, trấn giữ hai bên bờ sông là đất thờ cúng. Vị công chúa thứ hai cai quản sông nơi có dân, quyền quản về sông Thao. Còn như sông Đáy hai dải phân theo về nơi bên vua cha. Còn lại một dải sông Đà theo hướng về cung của ta. Các nơi trị ở một phương chia theo hai chỗ.
Dứt lời bỗng nghe một tiếng tiếng nổ lớn từ giữa đáy sông mà vọng vào trong tai. Nhân dân mới tỉnh lại và biết đó là mộng. Mọi người đều cả sợ, lập tức làm lễ bái lạy, trình lên quan địa phương, làm biểu tấu vào triều đình báo cáo sự lạ đó.
Vua nghe vậy mới sai quan triều đình đến nơi cầu mưa gọi gió. Khi đang làm lễ thì gió mây nổi lên ùn ùn. Giữa ban ngày mà như đêm. Trên sông sóng dâng cuồn cuồn. Cá, ba ba nổi lên hướng chầu về nơi lễ tế. Việc xong trời lại trở nên sáng tỏ, núi sông bốn mặt quang đãng. Mưa gió đều yên. Mới biết là có sự hiển ứng linh thiêng to lớn. Vua bèn ban sắc chỉ phong thêm mỹ tự về các nơi thờ. Lại cho các dân ở đó làm hộ nhi phụng thờ.
Ban thờ Động Đình Uy Linh Thánh mẫu ở đình La Phù
Phong Động Đình Thánh mẫu Uy linh Công chúa.
Phong Đệ Tam Chàng Ba Long vương Trì Uyên Đại Xuyên Hiển ứng Đại vương (xã La Phù làm dân hộ nhi thờ phụng chính).
Phong Đệ Nhị Chàng Hai Long vương Hồng Xuyên Hiển ứng Đại vương (Thánh mẫu và Đệ Nhị công xã Tang Ma thờ phụng).
Phong Đệ Nhất Chàng Cả Long vương Xung Đổ Hiển Định Đại vương (Bảo Triệu, Phong Thành làm dân hộ nhi thờ phụng).
Phong Đệ Nhị Chàng Hai Long vương Hồng Xuyên Hiển Ứng Đại vương (Bảo Khang là dân hộ nhi thờ phụng chính).
Phong Chúa Cả Long Nương Thần nữ Công chúa (trang Hội Giữ là nơi thờ phụng chính).
Phong Chúa Hai Ngọc Tinh nương Công chúa (An Tập là nơi thờ phụng chính).
Từ triều Hùng trải các đời đế vương có nhiều linh thiêng hiển ứng, giữ nước giúp dân, được phong nhiều mỹ tự, hương lửa không ngừng vậy.
Lại nói, đến khi triều Hùng suy mạt, thế nước báo lúc kết hồi. Vua Duệ Vương không có con trai, mới nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. Vương ở ngôi được 50 năm. Khi ấy thường hay có nạn hạn hán lớn, cây cỏ khô cháy, nhân dân đói khát. Vua bèn sai các đình thần đi cầu đảo tế trăm thần ở các nơi. Một hôm sứ thần đi đến đền Thánh mẫu (tức đền Tang Ma, gọi là quán Thánh mẫu. Từ khi Thánh mẫu hóa đến sau ngày 12 tháng 6 trang Tang Ma đương làm lễ quan Đệ Nhị, bỗng thấy gió mạnh nổi tới mù mịt. Lại thấy một con rắn đầu có mào hoa dài hơn mười thước từ trong miệng giếng của hang đá trườn ra, tiến vào trong giữa nơi tế thờ. Nhân dân sợ hãi, chia thành hai bên trái phải mà đi đi. Rắn đi vào được một lúc thì đi ra mà tự biến mất. Lại thấy binh mã với Thánh mẫu và Đệ Nhị thủy quan xa giá tiến đến đi vào trong cung mà ngồi. Rồi thấy Thánh nói với nhân dân rằng:
– Thật đáng trách nhân dân ngu muội. Đất Tang Ma vốn là quê mẹ của ta. Ta thường xuyên đi về qua lại thăm hỏi. Vì sao không lập một hành cung để cho binh mã của ta có chỗ trú trong những ngày này.
Dân lại làm lễ bái lạy. Thánh mẫu nói xong đều cùng tự biến mất hút. Thế là ngay trong hôm đó nhân dân lại làm một ngôi miếu tranh ở chính ngay nơi cửa động đá để thờ phụng Thánh mẫu và Đệ Nhị Công cùng ở một nơi ấy).
Miếu thờ Động Đình Thánh mẫu và Quan Đệ Nhị ở miệng hang Tang Ma.
Khi đó quan sứ giả đến làm lễ tế cầu đảo. Được khoảng một tuần hương bỗng thấy mưa từ trên trời đổ như trút nước, bốn phía mờ mịt, trời u ám, mưa tối tăm. Sứ thần lưu lại ở trong đền. Một đêm bỗng thấy có một con rắn vảy năm sắc, tọa ở trên chính điện trong đền. Lại nghe thấy tiếng ngâm:
Năm mươi năm triều Thục Vương đình
Sách Trời đã định biết điềm lành
Nước Nam lại về tay vua Triệu
Bảy quận núi sông thống nhất thành.
Ngâm xong thì rắn tự biến mất. Sứ quan lấy đó làm sự lạ, quay về mà tâu. Vua thấy có sự linh ứng lớn bèn phong thêm mĩ tự, cùng với đất nước vui hưởng không cùng.
Phong Động Đình Tang Ma Thánh mẫu Uy linh Thần nữ
Nhất phong Hồng Xuyên Uy minh Hiển ứng Đại vương (xã Tang Ma phụng thờ).
Phong Động Đình Tang Ma Thánh mẫu Uy linh nhất Thần nữ. Phong Đệ Tam Ông Ba Trì Uyên Đại Xuyên Trung minh Thuỷ đế Long Đại vương (xã La Phù phụng thờ hai vị).
Phong Ông Cả Long Vương Xung Đổ Hiển Định Đại vương (Báo Triệu, Bồng Lãng, Phong Thành, Đồng Nương, Thọ Xuyên cùng phụng thờ).
Phong Đệ Nhị Ông Hai Hồng Xuyên Uy minh Hiển ứng Đại vương. Phong Đệ Nhất Nương Thái trưởng Long Nương Công chúa (xã Bảo Khang phụng thờ hai vị).
Phong Đệ Nhị Ngọc Tinh Thần nữ Công chúa (hai xã Hội Giữ, An Tập phụng thờ).
Lại nói, thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, gộp lại là 340 năm, đến nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Trần, Lý khai sáng cơ đồ, thường có công giúp nước cứu dân, trải các đời đế vương phong thêm mỹ tự, vạn năm phụng thờ hương lửa không ngừng. Đến thời Trần Thái Tông, tháng 8 trời thu, một hôm Vua đang dạo chơi ngắm trăng trên lầu gác, thấy một mây đen nổi lên ở phía Tây Bắc, từng đám từng đám đều như sắc nhọn bay nhập vào sao Tử Vi Tinh Quân. Được 3 ngày sau nước lớn dâng tràn chảy vào Tây Hồ. Mưa lớn, gió to, nước cả ngập trời. Núi Tản Viên sạt lở ngoài trăm trượng. Sét đánh thình thình rung chuyển liên tục một hồi ở 10 xứ, làm gãy cột cờ trong kinh thành, đánh cả vào cung Thiên An và cung Thái Thanh cùng với tượng Thiên Tôn, tất cả đều bị phá gãy. Nhân dân mắc bệnh tật rất khổ sở. Vua mới sai quan Đình Nguyên làm lễ cầu đảo tế bách thần ở các đền miếu.
Một hôm sứ quan đi đến xã La Phù làm lễ tế ở đền Thánh mẫu và Đệ Tam thủy quan. Sứ quan nằm ở trong đền. Đến đêm hôm đó đang ngủ bỗng thấy xe giá voi ngựa binh sĩ của một vị phu nhân cùng với ba ông đường đường đi vào. Thánh mẫu ngồi ở chính đường, hai bên trái phải là ba ông. Các binh mã nghiêm chỉnh đứng chầu thành hai hàng. Sứ quan mới đến chỗ bên phải ở dưới. Lại thấy một người áo mũ chỉnh tề, quỳ trước điện, cầm một bài thơ đọc:
Trời răn vậy, Trời răn thay!
Nhà Trần mê muội tới linh đài
Núi lở đất rơi, cần biết việc
Giặc Nguyên Mông Cổ khởi binh rồi.
Ngâm xong thì sứ quan tỉnh lai, biết là mộng lạ. Bèn làm lễ bái lạy, trở về tâu lên Vua biết. Ngày hôm đó, sứ giả Mông Cổ đến. Vua thầm nhớ đến giấc mộng thần đã báo, bèn xuống chiếu cho các tả hữu tướng quân dẫn quân thủy bộ đến đóng ở biên giới để tính việc chống giặc. Thế rồi tháng Hai, Mông Cổ khởi binh đến xâm chiếm nước ta. Vua tự thân ngự đến đại hội tướng sĩ ở sông Lô. Đại quân của giặc Nguyên Mông Cổ tiến đến sông Thao. Vua bèn lệnh cho Quốc Tuấn là Đô Tĩnh Tiết Chế, dẫn quân đóng ở sông Đà. Trần Quốc Tuấn Đô Tĩnh Tiết Chế tiến quân đến nơi đền (tức La Phù), mật cầu:
– Xin thần phù hộ nhà vua, âm phù dẹp giặc, bình định quân Nguyên. Sau này khi yên bình sẽ cùng hưởng phúc thái bình. Ngày thắng trận trở về sẽ dâng biểu lên vua, tất có phong thêm mỹ tự, vạn năm phụng thờ hương lửa, muôn năm bền vững như trời đất vậy.
Chúc xong, ngày hôm đó bèn phân binh thủy bộ cùng tiến, hội với quân đội của Vua. Khi ấy Vua cùng với Thái tử và các tướng cùng nhau cưỡi thuyền đi theo đường thủy. Lúc đó, mưa gió mù mịt, sấm nổ đùng đùng. Thuyền lướt ào ào, đến thẳng Đông Bộ Đầu. Mưa gió vù vù, nghiêng ngả trời đất, tối tăm mắt mũi. Quân của Vua đại chiến. Quân Mông Cổ bạt vía kinh hồn thua chạy. Đến trại Quy Hóa, tướng Hà Bổng dẫn quân Man lại đến đánh quân Nguyên, cũng thắng lớn, đuổi về nước Bắc. Từ ấy quân Nguyên không dám đến xâm chiếm nước ta. Thiên hạ thái bình, quốc gia vô sự. Đô Tĩnh Tiết Chế dâng biểu tấu với Vua, kể lại sự việc, khao thưởng quân sĩ. Lại truy phong cho bách thần đã âm phù giúp nước, vạn năm cùng với quốc gia vui hưởng. Tốt thay!
Phong Động Đình Tang Ma Thánh mẫu Uy linh Thần nữ Phu nhân;
Phong Đệ Nhất Long vương Xung Đổ Hiển Định Linh ứng Đại vương;
Phong Đệ Nhất Thái trưởng Long Nương Thần nữ;
Phong Đệ Nhị Long Hồng Xuyên Long thái Hiển ứng Đại vương
Nhất phong Đệ Nhị Ngọc Tinh Công chủ;
Phong Đệ Tam Đê Uyên Đại Xuyên Trung minh Hiển ứng Thuỷ đế Long quân Đại vương;
Các nơi La Phù, Báo Triệu, Tang Ma, Bảo Khang, Hội Giữ, An Tập, Bồng Lãng đều là nơi đóng quản chính, cùng là dân hộ nhi phụng thờ. Còn như các vùng đất sông ngòi, các châu, trang, động, sách, nhân dân các xứ ghềnh, bãi, bờ sông, các vùng đất gần đó, cùng lập hành cung để phụng thờ, đều xếp là những di tích sau, không đưa vào chính bản.
Phù điêu múa cây bông ở La Phù
Các kỳ sinh hóa, ngày chính lệ mâm bàn cùng với các tên húy cấm của các vị đại vương được khai chép như sau.
Ngày sinh Thánh mẫu là ngày mồng 2, mồng 3 tháng 1 (cỗ chay 3 mâm, cỗ trâu, lợn, rượu ngọt, lắc hoa, ca hát mở ngày);
Thánh mẫu hóa ngày 8 tháng 12 (cỗ chay ba mâm, cỗ trâu, lợn, các vật);
Ngày sinh năm vị thủy quân là ngày 12 tháng 4 (cỗ chay 3 mâ, cỗ trâu, lợn, rượu ngọt, ca hát, đấu vật, bơi thuyền trong ngày chính lệ);
Năm vị phân trị mà hóa là ngày 15 tháng 5 (lợn đen, cỗ chay 3 mâm, rượu ngọt các vật);
Lễ khánh hạ là ngày 14 tháng 4;
Ngày thưởng xuân khánh hạ là ngày 12 tháng Giêng (cỗ chay 3 mâm, lợn đen, trứng gà 5 quả, múa hoa, rượu ngọt);
Ngày mở sắc khánh hạ là ngày 14 tháng 6 (gà, lợn, rượu ngọt một bàn, ca hát một đêm);
Ngày chính khánh hạ là ngày 10 tháng 9 (cỗ lợn, bàn chay, rượu ngọt, bánh dày, hát một đêm);
Chính ngày khánh hạ mừng Đệ Tam Công là ngày 16 tháng 4 (lợn đen, gà, xôi, mâm chay, rượu ngọt);
Vào ngày sinh hóa của thánh mẫu và ngày sinh của năm vị thủy quân, quét dọn đường từ chỗ lăng đến miếu bên ghềnh bến sông. Tế lễ ở đó như trong chính miếu. Các xã Tang Ma, Bảo Khang cùng xã La Phù đến miếu để giúp việc tế. Còn các ngày lệ khác xã La Phù tế riêng tại đình (vào ngày tế các anh em cùng giúp mâm cúng);
Ngày 12 tháng 4 là ngày chính lệ Thánh mẫu hiển thần cùng với các ngày lập đền khánh hạ của các thủy quan (riêng trang Tang Ma dùng cỗ lợn, rượu ngọt, 3 mâm chay, ca hát một đêm);
Ngày 12 tháng 4 là ngày mở đền khánh hạ của Đệ Nhị Công thủy quan (chính lệ xã Bảo Khang làm cỗ trâu, rượu ngọt, lợn đen, cỗ chay, ca hát, chèo thuyền hai ngày, cùng dâng các anh em và Thánh mẫu thêm mâm cúng. Trong 2 lần cỗ này 2 xã quét dọn đường từ lăng Thánh mẫu ở bên bãi sông cho đến chỗ miếu tế. Đem trầu đến chỗ lăng Thánh mẫu nghênh đón về chỗ cùng tế cúng với các con);
Ngày chính lệ mở sắc khánh hạ là ngày 4 tháng Giêng (Tang Ma, Bảo Khang cùng ngày dùng cỗ trâu, rượu ngọt, mâm chay, ca hát một ngày. Riêng hai xã này cùng ngày làm lễ);
Ngày chính lệ khánh hạ hiển thần của Đệ Nhất Công là ngày 12 tháng 4 (cỗ trâu, lợn, rượt ngọt, cỗ chay 3 mâm, ca hát);
Ngày chính hiển thần của Thứ Nương Công chúa là ngày 15 tháng 4 (cỗ lợn, mâm chay, ca hát);
Ngày chính hiển thần của Trưởng Nương Công chúa là ngày 10 tháng 5 (cỗ lợn, rượu ngọt, cỗ chay 3 mâm, ca hát một đêm);
Ngày chính khánh hạ ngày 12 tháng 2 (cỗ lợn, rượu ngọt, cỗ chay 3 mâm, ca hát 1 đêm);
Ngày chính khánh hạ ngày 2 tháng 3 (lợn đen, rượu ngọt, mâm chay);
Ngày khánh hạ 12 tháng 9 (cỗ lợn, mâm chay, rượu ngọt, bánh chưng, ca hát);
Ngày khánh hạ 15 tháng 11 (lợn đen, rượu ngọt, mâm chay);
Vào các ngày khánh hạ các xã đều cùng làm lễ như vậy.
Phù điêu rước kiệu phượng ở đình La Phù
Các chữ húy là Cù, Côn, Hồng, Trì, Long, Ngọc, Ba, Lâm, cùng cấm. Các sắc phục màu vàng trắng đều cấm.
Vạn năm sông núi, bất tử mãi còn. Trời đất nhân gian, người vật bốn cõi, đều đến cùng hưởng càn khôn thượng thế như vậy.
Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ 3 ngày 10 tháng 3, Hàn Lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn.
Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 ngày tốt tháng 8, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, lại theo đúng như bản cũ vâng chép.
Myanmar là một quốc gia Phật giáo nổi tiếng với những ngôi chùa tháp, tượng Phật vàng khổng lồ và các dấu chân, xá lợi Phật như ở các thành phố Yagon, Mandalay … Thế nhưng ở Myanmar vẫn không khó nhận ra một lớp văn hóa bản địa truyền thống, không phải Phật giáo hay Ấn Độ giáo, mà lại là những nét văn hóa rất… Việt.
Trước hết phải nói về người Karen, là nhóm dân tộc tới nay vẫn còn dùng trống đồng ở Myanmar. Người Karen sống tập trung ở 2 bang Kayah và Kayin, là dân tộc lớn thứ ba của Myanmar, chiếm 7% dân số của nước này. Thực tế về nhóm người ở Myanmar dùng trống đồng có thể làm cho nhiều người phải ngỡ ngàng đặt câu hỏi, vậy những người dân này có liên hệ thế nào với nền văn hóa trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam?
Trống đồng ở Myanmar.
Trống đồng Karen thuộc loại trống đồng loại Heger III có trang trí là hình mặt trời ở trung tâm và nhiều vòng tròn đồng tâm với các mô típ chính là cá và chim. Trên mặt trống ở 4 góc là hình những con cóc chồng lên nhau, thường là 3 tầng. Do đó, loại trống này còn gọi là trống cóc (frog drum).
Trống đồng là nhạc cụ được người Karen rất coi trọng, sử dụng trong các buổi cúng lễ để gọi hồn tổ tiên về chứng giám các đám cưới, đám tang, mừng nhà mới hay để xua đuổi tà ma. Người Karen cũng tin rằng trong trống đồng có các linh hồn ngự trị nên họ cất giữ trống cẩn thận và phải làm lễ cúng trống nếu mặt trống bị thay đổi biến dạng.
Hoa văn trên trống đồng Myanmar.
Người Karen cũng thường để các đồ quý giá trong trống đồng và chôn cất ở nơi kín đáo, tin rằng đó là những của mà sau khi họ chết sẽ đem theo. Tục chôn trống đồng cùng với người chết cũng từng gặp ở người Karen, cho những thủ lĩnh của bộ tộc.
Trống đồng còn là biểu tượng của sự giàu có và quyền lực đối với người Karen. Thậm chí bang Karenni (một bang nhánh của người Karen trước đây) dùng hình ảnh mặt trống đồng làm biểu tượng trên lá cờ của mình.
Cờ của người Karenni.
Người Karen có truyền thuyết nói rằng họ xuất phát từ một vùng “sông cát bay” (river of running sand). Người ta cho rằng đó là nói tới sông Hoàng Hà ở Trung Quốc. Nhưng với nền văn hóa trống đồng sâu sắc vẫn còn tới nay như vậy thì người Karen không thể nào khởi nguồn từ vùng sông Hoàng Hà được. Nhóm dân tộc này chắc chắn có khởi nguồn ở khu vực văn hóa trống đồng tại Đông Nam Á. Vùng “cát bay” ở “Trung Quốc” cổ đại có thể là vùng miền Trung Việt vì nước Việt cổ chính là Trung Hoa.
Một nhóm người Karenni được biết đến nhiều nhất là nhóm người cổ dài Kayan, nổi tiếng bởi tục đeo các vòng đồng ở cổ. Những người phụ nữ Kayan quấn các vòng đồng quanh cổ từ khi còn nhỏ. Có truyền thuyết cho rằng những chiếc vòng cổ này là tượng trưng cho cổ rồng.
Phù điêu phụ nữ người Kayan với những chiếc vòng đồng trên cổ, cổ tay và cổ chân.
Người cổ dài Kayan không chỉ đeo các vòng đồng ở cổ mà ở cổ tay, cổ chân họ cũng đeo những chiếc vòng này. So sánh thì tục đeo vòng ở cổ tay cổ chân rất tương đồng với những chiếc vòng đồng trong văn hóa Đông Sơn.
Tín ngưỡng của người Kayan cho rằng dân tộc mình được hình thành do kết quả sự kết hợp giữa mẹ rồng (a female dragon) và cha tiên (a male angel). Họ được sinh ra từ một trong những quả trứng của rồng. Truyền thuyết khởi nguồn này của người Karen chỉ rõ mối liên hệ nguồn gốc trực tiếp với người Việt cổ, cùng là dòng giống Rồng Tiên, dùng trống đồng, vòng đồng.
Trong truyền thuyết Việt, Cha Tiên lấy Mẹ Rồng là chuyện Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình. Phải chăng người Karen là một nhánh tộc từ thời mở sử Việt này đã di cư về phía Tây?
Vòng ống chân ở di chỉ Làng Vạc, Nghệ An (Ảnh internet).
Hình tượng rồng trong văn hóa Myanmar tới nay còn rất phổ biến. Các bức chạm khắc gỗ hình rồng, hình chim phượng được dùng để trang trí khách sạn, công sở, gia đình ở nhiều nơi. Hình rồng còn dùng trong tạo hình các giá đỡ cho các bộ cồng chiêng. Cồng chiêng cũng là nhạc cụ và văn hóa phổ biến ở Myanmar.
Chạm gỗ hương hình rồng đỡ cồng ở Myanmar.
Con rồng ở Myanmar còn biến thể thành một loài linh thú đầu sư tử, sừng và chân hươu, vòi và ngà voi, thân và đuôi cá, cánh chim. Biểu tượng linh thú này dùng phổ biến trong các trang trí chùa đền, ngai vàng… ở Myanmar.
Hình mẫu một bộ giá cồng chiêng với linh thú dạng rồng ở Myanmar.
Một liên hệ khác của tộc người tại Myanmar với lịch sử Việt là nhóm người Shan. Người Shan ở Myanmar thuộc nhóm Tai-Kadai, là dân tộc lớn thứ hai ở nước này, chiếm 9% dân số. Bang Shan là bang có diện tích rộng nhất Myanmar, nằm ở phía Đông của nước này.
Bản đồ phân bố các nhóm dân tộc ở Myanmar
(Màu đỏ là nhóm Karen. Màu xanh xám là nhóm Shan).
Người Shan thuộc nhóm Tai Luang hay Tay Yai (Thái Lớn). Hiện người ta cho rằng người Shan di cư đến từ Vân Nam từ trước thế kỷ 10. Đối chiếu lịch sử các quốc gia Đông Nam Á có thể nhận ra rằng bang Shan chính là 1 trong 7 “chiếu” hình thành dưới thời Khun Borom hay Bố Cái đại vương Phùng Hưng ở thế kỷ 8. Khun Borom là vị vua đầu tiên khởi dựng nước Nam Chiếu dưới thời nhà Đường và được coi là ông tổ của người Thái Lào.
Theo sử Thái – Lào thì một hoàng tử của Khun Borom là Khun Lok Klom đã được cử tới Muang Hongsa (Mường Hồng Sa?) thuộc đất Myanmar ngày nay. Nguồn gốc của người Shan như thế không phải từ Vân Nam mà là từ vùng Tây Bắc Việt Nam vì Khum Borom đầu tiên lập thủ phủ ở Mường Then, nay là Điện Biên của Việt Nam.
Vị trí 7 chiếu dưới thời Khun Borom (Nam Chiếu).
Kiến trúc của người Shan còn để lại đáng kể những cụm di tích với hàng ngàn ngôi tháp tương đối nhỏ thờ Phật tại khu Indein cạnh hồ Inle hay ở thủ phủ Shan tại Taunggyi. Những trang trí trên các tháp này khá tương đồng với người Chăm ở Việt Nam, với nổi bật các hình chim và nét cong như tượng người chim (Kinnari), hình chim công, hình vũ nữ… Những trang trí tương tự có thể thấy trên các kiến trúc thời Lý Trần cùng thời ở Việt Nam.
Trang trí người chim và chim vẹt trên mái một ngôi tháp ở Indein, cố đô của tộc Shan.
Như thế 2 nhóm dân tộc lớn thứ hai và thứ ba của Myanmar là Shan và Karen đều có mối liên hệ với người Việt. Có thể coi nhóm Karen là dòng giống Rồng. Còn nhóm Shan là giống Tiên (Chim), là 2 nhánh của một nền văn hóa cổ con Rồng cháu Tiên xưa.
Tôi là một trong số những người đầu tiên mua cuốn sách Nguồn gốc người Việt người Mường của Tạ Đức ở nhà xuất bản Tri thức vào đúng hôm cuốn sách được nộp lưu chiểu. Đây là do sự tình cờ nhưng có lẽ cũng là có chút duyên nào đó với những vấn đề mà cuốn sách đặt ra. Vấn đề nguồn gốc tộc người Việt Mường là vấn đề thú vị nhưng cũng rất nan giải. Nhất là khi vấn đề lại được nêu ra theo một quan điểm “khác thường” trong một cuốn sách nhiều trang, nhiều tư liệu dẫn chứng từ những lĩnh vực khảo cổ, truyền thuyết, ngôn ngữ,…
Cuốn sách của Tạ Đức đã được nhiều người khen chê nên tôi chỉ xin bàn luận thêm vào những vấn đề mà cuốn sách đã đặt ra về nguồn gốc người Việt với hy vọng là những bàn luận này phần nào giúp tác giả có thêm tư liệu, thêm cách nhìn nhận về sự thật của những khúc mắc khi tìm về cội nguồn của người Việt chúng ta.
Xin bắt đầu từ Chương 5 – Nước Xích Quỷ, nhà nước đầu tiên có tên của người Việt theo truyền thuyết. Xin dẫn các kết luận về nước Xích Quỷ của Tạ Đức đã nêu trong cuốn sách: 1 – Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương trong truyền thuyết Việt Nam là một nước có thực trong lịch sử. Thực chất, đó là liên minh của ba nước Việt Chương ở Giang Tây, Việt Thường ở Hồ Nam, Việt Dương hay Dương Việt ở Hồ Bắc ra đời trong quá trình đấy tranh giành độc lập gắn với sự tan rã của đế chế Thương. Nước Việt Chương có kinh đô ở Ngô Thành là nòng cốt và đã lãnh đạo quân dân Xích Quỷ đánh bại cuộc xâm lược của quân Ân Thương do vua Thương Vũ Đinh đích thân chỉ huy. 2 – Nền tảng vật chất của nước Xích Quỷ là nền văn hóa đồng thau Ngô Thành với các di vật tiêu biểu là những bộ não bạt và trống đồng cỡ lớn có vai trò đặc biệt trong tín ngưỡng của người Xích Quỷ. 3 – Điều có ý nghĩa nhất là bằng truyền thuyết Họ Hồng Bàng và đặc biệt là bằng truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, người Việt Nam đã lưu truyền được những hồi âm, hồi quang xa xăm của nước Xích Quỷ đó.
Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định “Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương trong truyền thuyết Việt Nam là một nước có thực trong lịch sử”. Tuy nhiên việc định vị và định thời gian của nước Xích Quỷ như Tạ Đức thì gặp phải một số mâu thuẫn:
– Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương theo truyền thuyết Việt có cách nay trên 4.000 năm, tức là trước nhà Thương tới cả 1.000 năm.
– Theo truyền thuyết Kinh Dương Vương đi tuần ở núi Ngũ Lĩnh, lấy con gái Thần Long ở hồ Động Đình. Việc định vị Kinh Dương là châu Kinh, châu Dương ở quanh sông Dương Tử, Ngũ Lĩnh và Động Đình hồ ở Hồ Nam là lạc hướng bởi những từ ngữ trong cổ sử. Xin bàn thêm ở dưới đây về những địa danh này.
– Nền văn hóa đồng thau ở vùng Giang Tây – Hồ Nam – Hồ Bắc có nhiều điểm đặc trưng là văn hóa Thương. Đất Kinh Sở như vậy chính là đất của nhà Thương rồi, đâu cần đánh chiếm gì nữa.
– Thánh Gióng đã giúp vua Hùng chiến thắng giặc Ân, vua Ân chết ở Giếng Việt. Còn Ân Vũ Đinh đã đánh thắng nước Quỷ Phương sau 3 năm. Vũ Đinh là thời thịnh đầu nhà Ân chứ không phải thời nhà Ân tan rã. Vì thế truyền thuyết Thánh Gióng không phải sự kiện Ân Vũ Đinh đánh nước Quỷ Phương.
Xin nêu một số tư liệu làm rõ các vấn đề trên:
KINH DƯƠNG VƯƠNG Ở ĐÂU?
Truyền thuyết Họ Hồng Bàng chép: “Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân…” Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) kể về việc kết hôn của Kinh Dương Vương:
Kinh Dương ngày ấy đi chơi Thuyền trăng buồm gió tếch vời Nam minh.
Ở chốn Nam minh ấy Kinh Dương Vương gặp con gái Thần Long:
Nàng rằng: thiếp con Động Đình Thần Long là hiệu, Nam minh là nhà.
Nam minh được chú là “bể rộng ở phía Nam”. Sách Nam hoa kinh của Trang Tử có câu “Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý”. Dịch nghĩa: Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không.
Như vậy Nam minh chính là biển Nam. Trong lịch sử Hoa Việt thì rõ ràng đây là vùng biển Đông ngày nay. Thông tin trên của Thiên Nam ngữ lục cho thấy Kinh Dương Vương đã gặp con gái Thần Long ở Động Đình tức là biển Đông. Động Đình, cái nôi của người Việt cổ không hề là hồ nước nông choèn ở Hồ Nam. Động Đình nơi có Thần Long, nơi rồng bay lên, phải là biển Đông, vùng vịnh Bắc Bộ ngày nay.
Dẫn chứng khác là ở Việt Nam có tục thờ thần Bát Hải Động Đình làm Vua cha của Thoải phủ (thủy phủ) trong đạo Mẫu. Vua cha Bát Hải Động Đình được thờ chính là ở đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ, Thái Bình. Cụm từ “Bát Hải Động Đình” chỉ rõ Động Đình là vùng biển (Hải) chứ không phải hồ nước. Bát Hải nghĩa là biển có tên là Bát (số 8), tức là biển Đông vì số 8 là con số chỉ phương Đông trong Hà thư.
Tương tự núi Ngũ Lĩnh nơi Kinh Dương Vương đi tuần là ngọn núi có tên là Ngũ, tức là ngọn núi ở vùng trung tâm vì số 5 là số trung tâm của Hà thư. Ca dao xưa có câu: Núi thờ cha Tản Viên Núi thờ mẹ Tây Thiên Đều hướng về Ngũ Lĩnh Thờ núi Tổ linh thiêng.
Ngũ Lĩnh trong câu ca dao rõ ràng là núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ vua Hùng ngày nay ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ. Ngũ Lĩnh không hề là 5 ngọn núi ở bên Hồ Nam.
Châu Kinh châu Dương thời Đại Vũ chia 9 châu do vậy không phải ở đất Kinh Sở bên sông Dương Tử. Kinh là nơi có người Kinh ngày nay, tức là vùng Bắc Việt. Dương vốn là tên của vùng Quảng Đông (Quảng Châu xưa gọi là Dương thành). Kinh Dương Vương là vị vua cai quản vùng Bắc Việt – Quảng Tây – Quảng Đông, xưa gọi là đất Nam Giao, ứng với chuyện Lộc Tục (Kinh Dương Vương) làm vua phương Nam.
Tóm lại, Kinh Dương Vương là vị vua Việt ở ngay trên đất Việt ngày nay nơi có người Kinh sinh sống, có ngọn núi Nghĩa Lĩnh (Ngũ Lĩnh) ở Phú Thọ, bên cạnh biển Động Đình (biển Đông). Lăng mộ Kinh Dương Vương ở Á Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh hoàn toàn có thể là nơi Kinh Dương Vương qua đời thật sự.
NHÀ ÂN VÀ NƯỚC QUỶ PHƯƠNG Ở ĐÂU?
Hàng loạt những dẫn chứng khảo cổ mà Tạ Đức đưa ra trong cuốn sách về văn hóa đồng thau ở khu vực Giang Tây – Hồ Nam – Hồ Bắc cho thấy khu vực này thuộc văn hóa đồng khí Thương. Những đặc điểm của văn hóa Việt ở đây cũng hiện hữu bởi vì… nhà Thương chính là một triều đại của người Việt. Nhận định “… tầng lớp thống trị ở Bàn Long Thành là người Thương, còn cư dân là người bản địa (người Việt)” cho thấy rõ nước là nước Thương, người là người Việt, hay nói cách khác nhà Thương là một quốc gia của người Việt.
Khi xác định như vậy thì có thể thấy hàng loạt địa điểm khảo cổ văn hóa Thương từ Ngô Thành, Tân Can, tới Bàn Long Thành, Trịnh Châu và An Huy là những thành ấp trên con đường dời đô của vua Bàn Canh nhà Thương lên hướng Bắc (xem bản đồ). Bàn Long thành tức là tòa thành của vua Bàn Canh (long = vua). Hướng thiên đô của nhà Thương hiện rõ qua các di chỉ khảo cổ này, là hướng từ Nam lên Bắc, từ Tân Can tới An Huy. Đô thành thay đổi, nhưng đất đai vẫn là đất của nhà Thương hay của các chư hầu được vua Thương phân phong. Việc nhà Thương dời đô có từ thời Bàn Canh, trước thời Ân Vũ Đinh.
Các khu vực đồ đồng thời Thương Chu
Theo Trúc Thư Kỷ Niên, Ân Cao Tôn “Tam thập nhị niên, phạt Quỷ Phương, thứ vu Kinh” (Năm 32, đánh Quỷ Phương, đóng quân tại đất Kinh). Ân Vũ Đinh đi đánh nước Quỷ Phương đóng ở đất Kinh, tức là đất Kinh thuộc đất của nhà Thương chứ không phải Cao Tông tấn công đất Kinh.
Nước Quỷ phương là nước Cửu phương, nghĩa là nước nằm về phía Tây lãnh thổ nhà Ân Thương. Cửu là số 9, chỉ hướng Tây của Hà thư. Nước Quỷ Phương như vậy phải là khu vực Tứ Xuyên, ứng với nền văn hóa Tam Tinh Đôi của thời kỳ này (xem bản đồ). Chỉ có vùng Tứ Xuyên với nền văn minh Kim Sa rực rỡ giàu có từ 2.000 năm trước công nguyên mới có thể khiến Cao Tông nhà Ân Thương khổ cực suốt 3 năm trời mà chiếm lấy.
Việc xác định nước Quỷ Phương lãnh thổ ở Tứ Xuyên được củng cố thêm bởi truyền thuyết: Hùng Dịch được phong làm vương nước Sở là dòng dõi vua Xuyên Húc. Xuyên Húc là bố Hoan Đâu, mà Hoan Đâu là tổ người Tam Miêu. Người Tam Miêu là thành phần chính của nhà Thương trên đất Kinh Sở.
Truyền thuyết viết trong dòng họ có một người tên Lục Chung. Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương, vợ Lục Chung có thai mười một (11) tháng rồi giở nách bên tả sinh 3 người con, giở nách bên phải sinh 3 người con! Người thứ 6 tên là Quý Liên họ Mỵ. Quý Liên có một người con tên Dục Hùng. Dục Hùng lấy tên làm họ. Từ đó con cháu đều lấy tên Hùng làm họ. Hùng Dịch vua khai sinh ra nước Sở là cháu chắt Dục Hùng …
Truyện Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương cho thấy nước Sở và Quỷ Phương là 2 vùng khác nhau và nằm cạnh nhau. Vì thế địa phận Kinh Sở không thể là nước Quỷ Phương mà là đất thuộc nhà Ân thời Vũ Đinh. Vùng đất cạnh Kinh Sở chính là Tứ Xuyên. Đây mới là địa bàn của nước Quỷ Phương. Nước Sở như vậy là sự kết hợp giữa 2 dòng người nhà Thương và người Quỷ Phương qua cuộc hôn nhân của Lục Chung.
XÍCH QUỶ NGHĨA LÀ GÌ?
Theo cách giải thích của Tạ Đức, Xích Quỷ là “quỷ mặc áo đỏ”, ứng với thần Xuy Vưu. Suy luận này hơi suy diễn quá vì Xuy Vưu là vị thần của phương Tây, đứng đầu bộ tộc Cửu Lê (Cửu là số 9, chỉ phương Tây). Phương Tây trong Ngũ hành có màu trắng. Xuy Vưu là thần chiến tranh, không hề là Viêm Đế Thần Nông, một vị thần của nông nghiệp.
Xích Quỷ hay Xích quẻ là quẻ Ly (La), chỉ phương Nam. Xích là màu đỏ, màu của phương nóng, phương Nam. Nước Xích Quỷ ra đời vào quãng 4.000 năm trước, tức là ứng với thời gian của nhà Hạ trong Hoa sử. Trong cuốn sách Tạ Đức đã đưa ra khá nhiều dẫn chứng cho thấy nhà Hạ là một triều đại của người Việt, ví dụ như chuyện Hạ Vũ hội chư hầu ở Cối Kê, trên đất Việt. Hay người La có nguồn gốc từ nhà Hạ mà La = Việt… Tạ Đức chỉ dẫn những tư liệu như vậy mà không nói thẳng ra: nhà Hạ là triều đại của người Việt.
Nhà Hạ, vương triều đầu tiên của Hoa sử lại là của người Việt. Vậy thì lịch sử Trung Hoa cổ đại chính là Việt sử vì Hạ là Hoa (Hoa Hạ). Thực ra Hạ (hè) hay Hoa (hỏa) đều là chỉ xứ nóng, tương đương với từ Xích trong Xích Quỷ, có màu đỏ trong tên nước Hồng Bàng. Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương không gì khác là nhà Hạ từ Đại Vũ. Đây là một quốc gia, một thời đại lịch sử của người Việt.
Như vậy nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương hay Hồng Bàng của Lạc Long Quân ở vào thời điểm của nhà Hạ, cách nay khoảng 4.000 năm. Xích Quỷ do vậy không thể là nước Quỷ Phương vào thời nhà Ân, cách nay chỉ 3.00 năm.
THÁNH GIÓNG LÀ AI?
Truyền thuyết Việt chép rất rõ, Thánh Gióng giúp Hùng Vương đánh giặc Ân, chiến thắng rồi bay về trời ở núi Sóc Sơn. Vua Ân tử trận, chết ở Vũ Ninh như trong Truyện Giếng Việt cho biết. Sự kiện này cho thấy trận chiến giữa Thánh Gióng và giặc Ân không phải là trận Ân Cao Tông phạt Quỷ Phương vì phần thắng trong trận đánh sau thuộc về nhà Ân. Người đã buộc vua Ân tử trận phải là… Vũ Vương của nhà Chu. Huyền sử Việt chép thành địa danh Vũ Ninh. Trước khi lên ngôi Chu Vũ Vương có tên là Ninh Vương = Vũ Ninh.
Cái tên Phù Đổng của Thánh Gióng giải nghĩa rất đơn giản: Phù Đổng thiết Phổng. Phù Đổng là 2 ký tự để ký một âm chữ Nôm là Phổng, hay Bổng (phụ âm ph và b đổi lẫn cho nhau). Dẫn chứng về cái tên Bổng rõ ràng là câu trong lời tiếm bình Việt điện u linh của Tiến sĩ đời Lê Cao Huy Diệu: “Hương, Bổng, Đổng, Đằng là bốn vị tối linh của nước ta”. Gọi là Phổng vì Thánh Gióng mới 3 tuổi mà ăn cơm cà của cả làng lớn “phổng” nhanh như thổi. Sau khi thắng giặc Thánh Gióng đã bay “bổng” về trời từ núi Sóc…
Phép phiên thiết đã làm lạc hướng không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu. Thánh Gióng được gọi là thần Bổng, không phải là ông Đổng. Thần Đổng ở đền Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội) mà Tạ Đức đã dẫn là một vị thần khác, với thành tích chính là diệt thủy quái, chứ không phải đánh giặc Ân. Thần phả ở đền Bộ Đầu có tên “Bộ Đầu linh từ sự tích Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh, Thành hoàng nhất vị“. Các sách cũ (theo Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Ngô Đức Thọ) đều cho rằng đền này thờ Huyền Thiên Đại Thánh. Huyền Thiên Trấn Vũ là vị thần trấn phương Bắc nay còn thờ ở Quan Thánh cạnh Hồ Tây. Ông Đổng với thân hình khổng lồ là Huyền Thiên, không phải là Thánh Gióng.
Theo Tạ Đức, Thánh Gióng là thần trống đồng, cũng rất có thể. Tuy nhiên, thời Ân Vũ Đinh thì trống đồng dạng Đông Sơn còn chưa ra đời. Do đó Thánh Gióng phải ở vào một thời kỳ khác, sau đó. Nhìn lên bản đồ các nền văn hóa đồ đồng thì thấy rõ khu vực văn hóa trống đồng chính là phạm vi nước Văn Lang của vua Hùng được chép trong truyền thuyết: Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành. Chính nước Văn Lang với văn hóa trống đồng này là nước đã tiến đánh nhà Ân và diệt vua Trụ.
Tạ Đức có dẫn nhận định của TS. Nguyễn Việt rằng cuộc chiến Thánh Gióng đánh giặc Ân là cuộc chiến giữa người Dạ Lang ở Ba Thục với nhà Ân. Thục là từ chỉ phương Tây, phương mặt trời lặn (thụt). Ba Thục hay Bá Thục nghĩa là đất của Tây Bá hầu Cơ Xương nhà Chu. Cơ Xương là Chu Văn Vương, được huyền sử Việt chép thành Văn Lang. Tương tự, vua Tre (Trúc Vương) mà TS. Nguyễn Việt nói tới chính là vua Thục (Trúc = Thục như trong từ nước Thiên Trúc thiết Thục). Thánh Gióng đã giúp vua Thục hay vua Chu diệt nhà Ân, lập nên nước Văn Lang – Âu Lạc.
Truyền thuyết Trung Hoa còn có chuyện Bá Di, Thúc Tề nước Cô Trúc, không theo Chu Vũ Vương đánh Trụ, bỏ vào núi, không ăn thóc nhà Chu. Nước Cô Trúc đọc thành Cả Thục, tức là nước của vua Thục. Thục và Chu là một, chỉ hướng Tây vì nhà Chu nổi lên từ phương Tây (phương Chiêu = Chu).
Câu chuyện của nước Xích Quỷ mà Tạ Đức đã dẫn như vậy đã gộp 3 thời kỳ lịch sử trong sử Việt vào thành một. Đầu tiên là Kinh Dương Vương lập nước Xích Quỷ – Hồng Bang là nhà Hạ ở vùng Nam Giao ven vịnh Bắc Bộ – biển Đông (Động Đình) ngày nay. Nhà Thương thay thế nhà Hạ, tiếp bước tiến lên chinh phục phương Bắc theo gót dời đô của vua Bàn Canh. Toàn bộ khu vực từ Kinh Sở tới vùng An Huy ở Bắc Hoàng Hà đều là đất nhà Ân Thương, với hiện hữu các di vật đồ đồng đặc trưng văn hóa Thương. Cơ Xương mở nước Văn Lang, rồi Cơ Phát (Thục Phán) cùng Thánh Gióng đánh Trụ diệt Ân, lập nên cơ đồ thiên tử thiên thu của nhà Chu ở trên vùng đất trống đồng Đông Sơn. Tam Đại Hạ Thương Chu của Trung Hoa đều là lịch sử Việt. Người Việt không cần phải “thiên di”, mà cần có một cách nhìn rộng hơn về không gian lịch sử nguồn gốc của mình.
Tam phủ công đồng là tín ngưỡng phổ biến của người Việt. Điện thờ Tam tòa thánh mẫu có thể gặp ở bất cứ đâu, trong các phủ, các đền, các đình, các chùa… Cùng với tín ngưỡng này là những tục lên đồng, hát chầu văn, đã thành những di sản văn hóa đặc sắc của người Việt. Có thể nói Tam phủ công đồng là Đạo thứ tư của người Việt, sánh cùng Tam giáo Nho Lão Phật. Một tín ngưỡng quan trọng như vậy nhưng tới nay vẫn không rõ nguồn gốc, mọi thứ vẫn còn nằm trong màn sương thần tích thần phả. Các nhà nghiên cứu cho rằng từ tục tôn thờ nữ thần hay từ “nguyên lý mẹ” người Việt đã nâng tín ngưỡng này lên thành Đạo Mẫu. Nhưng Tam phủ và nhất là Công đồng đâu phải chỉ có các nữ thần thánh mẫu. Nay xin xem xét từng “phủ” trong Tam phủ để tìm về cái gốc của tín ngưỡng này.
Trước hết rõ ràng nhất là Thoải phủ hay Thủy phủ. Người đứng đầu Thủy phủ không ai khác là vua cha Bát Hải Động Đình. Trong bài “Rồng bay biển Bát” đã xác định vua cha Bát Hải Động Đình ở đền Đồng Bằng là Lạc Long Quân ở đất Đào Động – Đào Hoa Trang bên bờ biển Đông.
Vị Mẫu cai quản Thoải phủ là Mẫu Thoải mà theo các thần tích là con vua Động Đình, lấy Kinh Dương Vương hay Kinh Xuyên. Mẫu Thoải là con gái Thần Long Động Đình, trong truyền thuyết Họ Hồng Bàng, tức là mẹ của đức Lạc Long Quân.
Đền Dầm thờ Mẫu Thoải ở thôn Xâm Dương – Ninh Sở (Thường Tín – Hà Nội) chép Mẫu Thoải là “nàng Tiên thứ ba đến chầu Thượng Đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc. Thiên triều nghị tội, giáng nàng xuống Thủy cung làm con gái Long Vương. Nàng được gả cho tướng quân Kinh Xuyên…”.
Xâm Dương đổi lại là Dương Xâm, phiên thiết là Dầm. Như vậy tên Xâm Dương chỉ là tên chữ của làng Dầm mà thôi.
Đền Dầm ở Xâm Dương
Đình làng Xâm Dương thờ một vị thần có mỹ hiệu Kiến Quốc Hùng Cơ vào thời Hùng Vương, có công giúp Sơn Tinh đánh Thục. Thần có 4 người con, đều sinh ra từ một bọc trứng. Người con đầu có tên Nhất Vĩnh Đông Hải, người con cuối là Tứ Vĩnh Ninh Giang…
Có thể thấy thần tích đình Xâm Dương cũng giống như thần tích của đền Đồng Bằng hay đền Lảnh Giang, đền Ninh Giang về sự xuất hiện của anh em Vĩnh Công từ một trứng đã giúp vua Hùng đánh Thục. Nhất Vĩnh Đông Hải là Vĩnh Công Bát Hải Động Đình. Tứ Vĩnh Ninh Giang, Ninh Giang là tên sông Tranh, nơi có đền thờ Quan đệ ngũ tuần Tranh…
Người mẹ của Vĩnh Công trong truyền thuyết đền Đồng Bằng hay đền Lảnh là nàng Quý. Thực ra nàng Quý nghĩa là nàng Ba (trong thứ tự Mạnh, Trọng, Quý). “Nàng tiên thứ Ba” chính là Mẫu Thoải, người cai quản phủ Tam (Thủy phủ) như thần tích đền Dầm đã chép. Thôn Xâm Dương có cả đền thờ Mẫu Thoải và thần tích về Vĩnh Công xuất thế, có thể chính là nơi Mẫu Thoải đã sinh ra Lạc Long Quân, vị vua của Động Đình sau này.
Câu đối ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên – Hà Nội) nơi thờ Quan lớn đệ Tam: Tam phủ hiển anh linh do truyền Hồng lĩnh Bắc
Tứ dân triêm huệ trạch viễn chấn Phượng thành Đông.
Dịch: Tam phủ rõ linh thiêng, còn truyền đất Hồng Bắc
Tứ dân ngấm ân đức, xa vang thành Phượng Đông.
Tam phủ ở đây là Thoải phủ của Quan lớn đệ tam và Mẫu Thoải. Tam hay số Ba (nàng Ba hay nàng Quý) là con số chỉ phương Đông của Hà Thư. Thoải phủ ở phương Đông vì Lạc Long Quân và Mẫu Thoải đều gắn với thủy phủ Bát Hải Động Đình, tức biển Đông.
“Hồng Lĩnh Bắc” rõ ràng không phải vùng đất phía Bắc núi Hồng Lĩnh của Nghệ An. Hồng Lĩnh Bắc là đất Đào – Hoa Hạ của Lạc Long Quân mà thôi.
“Phượng thành Đông” ở đây chỉ thành Thăng Long. Rất có thể “Phượng thành Đông” là chỉ Đông Đô của dòng tiên phượng Âu Cơ.
Lần tìm tiếp theo thì Nhạc phủ chắc chắn là do Sơn Tinh hay Tản Viên quốc chúa cai quản. Mẫu Thượng Ngàn cũng có liên quan trực tiếp tới Tản Viên. Nếu theo truyền thuyết vùng xứ Đoài thì bà Ma Thị Cao Sơn, mẹ nuôi của ba anh em Nguyễn Tuấn, là Bà chúa thượng ngàn. Ngay cái tên Ma Thị Cao Sơn đã có nghĩa là “Mẹ núi cao”. Bà mẹ nuôi của Tam vị thánh Tản này cũng được thờ là Mẫu Thượng Ngàn ở đền Đợi, nằm gần quần thể đền Đồng Bằng ở Thái Bình.
Theo một số truyền thuyết khác như ở đền Bắc Lệ thì Mẫu Thượng Ngàn là công chúa La Bình, con của Tản Viên Sơn Thánh. Dù là truyền thuyết nào thì rõ ràng Nhạc phủ do dòng Tản Viên Sơn Thánh cai quản.
Nhạc phủ có thể ở phía Nam (xưa) vì núi là quẻ Cấn, chỉ hướng Nam xưa. Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, người đã làm vua phương Nam trong truyền thuyết họ Hồng Bàng. Truyền thuyết đền Đồng Bằng cũng bắt đầu với địa danh “trấn Sơn Nam”, thật là đủ cả núi và nom.
Dòng phương Nam của Kinh Dương Vương đã kết hợp với dòng Thần Long Động Đình (Mẫu Thoải) ở phía Đông sinh ra Lạc Long Quân. Rất có thể chuyện Kinh Xuyên bị Thảo Mai dèm pha đuổi Mẫu Thoải ra khỏi nhà ám chỉ một cuộc phân ly nào đó giữa 2 dòng Nam và Đông này của người Việt thủa xưa.
Các vị thần của Thiên phủ khó xác định hơn vì Trời thì ở xa. Xa về thời gian. Thần chủ của Trời thì không ai ngoài Ngọc Hoàng thượng đế. Ngọc Hoàng thượng đế thì như đã biết là Hoàng Đế Hiên Viên của Hoa sử. Ngọc Hoàng không phải là vị thần của Đạo Lão đã chen chân vào tín ngưỡng Tam phủ, mà Ngọc Hoàng là vốn đã là thần chủ chính của Tam phủ.
Ở thôn Bằng Sở (Ninh Sở – Thường Tín – Hà Nội) có là đền thờ đức vua cha, tức Ngọc Hoàng thượng đế.
Hoành phi Ngọc Hoàng đại điện ở Bằng Sở.
Còn vị Mẫu của Thiên phủ là Mẫu Cửu Trùng. Đền thờ Mẫu Cửu Trùng ở ngay cạnh đền Ngọc Hoàng ở Bằng Sở.
Câu đối ở đền Bằng Sở thờ Mẫu Cửu trùng: Tứ phủ linh thanh, hộ quốc bảo dân thiên hạ mẫu
Cửu trùng trắc giáng, đằng vân giá vũ địa trung tiên.
Dịch: Tứ phủ linh thiêng, giúp nước cứu dân mẫu nghi thiên hạ
Cửu trùng lên xuống, đi mây về gió vị tiên thế gian.
Mẫu Cửu Trùng (gọi tắt là Mẫu Cửu) cũng là Cửu Thiên Huyền Nữ trong truyền thuyết Trung Hoa, tức là người đã giúp đỡ Hiên Viên Hoàng Đế trong cuộc chiến với Xuy Vưu.
Cửu Thiên cũng giống như Bát Hải, không phải là chín trời tám biển. Cửu là số 9 chỉ hướng Tây trong Hà Thư. Cửu thiên nghĩa là trời Tây. Cửu Thiên Huyền Nữ là bà Tây Vương Mẫu, vị chúa cai quản các tiên trên trời, vợ của Ngọc Hoàng thượng đế. Trong truyền thuyết Trung Hoa thì Tây Vương Mẫu là tiên chủ vườn Đào ở Diêu Trì. Nay có thể hiểu Tây Vương Mẫu hay Mẫu Cửu là bà Vụ Tiên ở đất Đào tại Giao Trì (Giao Chỉ?).
Bà Vụ Tiên theo Thiên Nam ngữ lục còn có tên là Khương Tiên:
Xưng danh là ả Khương Tiên Có tinh Cửu vĩ là em ngoan ngùy.
Khương là tính chất của phương Tây trong Dịch lý. Khương Tiên – Tây Vương Mẫu – Cửu Thiên Huyền Nữ – Mẫu Cửu Trùng rõ ràng là một. Thiên phủ như vậy ở hướng Tây.
Đền Mẫu Cửu ở Bằng Sở
Còn “công đồng” nghĩa là gì? Công đồng không phải là cùng chung. “Công” ở đây nghĩa là quan, là công. “Công đồng” nghĩa là “tập thể” các quan của Tam phủ. Ban công đồng trong các đền được thờ như một triều đình có vua quan thực sự. Công đồng đọc tắt là “đồng”, trong các từ “lên đồng” hay “chầu đồng”. “Chầu đồng” nghĩa là triều phục các quan chứ không phải là “chầu nhi đồng” (?!) như vẫn giải thích.
Trên nền tảng Dịch học đã cho phép khớp nối các thần chủ trong hệ thống Tam phủ với các nhân vật của thần thoại Trung Hoa và truyền thuyết Việt. Điều này cũng chứng tỏ thêm cội nguồn của Trung Hoa chính là ở Việt Nam. Lịch sử người Hoa Việt thời quốc sơ chính là nguồn gốc làm nên tín ngưỡng Tam phủ dân gian ngày nay.
Truyền thuyết Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.
Nay viết lại dưới ngôn ngữ của Tam phủ:
Đế Minh, tức Ngọc Hoàng thượng đế, cháu ba đời Thái Viêm Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên, tức Mẫu Cửu Trùng, rồi trở về, sinh ra Lộc Tục, tức Tản Viên Sơn Thánh. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Ngọc Hoàng thượng đế rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Tản Viên làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Mẫu Thoải là con gái Long Vương ở biển Đông, sinh ra Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước, tức vua cha Bát Hải Động Đình, …
Đoạn sử khởi đầu của dân tộc thật đã chép đầy đủ các thần chủ của Tam phủ. Nguồn gốc Tam phủ công đồng nay đã rõ ràng. Lịch sử dân tộc từ xa xưa vẫn còn đang sống trong đức tin của người Việt.