Theo sách Văn hóa dân gian làng Đào Động. Phạm Minh Đức, Đinh Đăng Túy. NXB Hội nhà văn, 2016.
VỀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẤT HOA ĐÀO
Khi Lạc Long Quân đưa 50 người con xuống biển, người trao cho các con từng vùng đất bãi để khai khẩn phát triển nông tang (trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải) và cả phần biển để đánh bắt tôm cá…
Người bảo các con rằng:
– Dòng trưởng mạnh nhất sẽ thay cha mẹ cai quản Lạc Việt. Các con vừa là thần dân, vừa la anh em một nhà. Hãy gìn giữ và mở mang đất nước của cha mẹ truyền cho… Mẹ Âu Cơ đã về rừng còn ta về Thủy phủ… Khi đất nước có sự biến, cha mẹ sẽ tiếp sức cho các con.
Nói rồi Người hiện nguyên hình là một con Hoàng long lớn, biến mất trong sóng biển Đông…
Người con được trao phần đất bãi tương ứng với đồng bằng Bắc Bộ bây giờ có tên là ông Đùng, rất to lớn mạnh mẽ. Lại nói ông Đùng đi dọc sông Cái (sông Hồng), đem theo những “hạt đậu” cha mẹ trao cho, trích thân mình lấy máu tẩm vào rồi rắc lên những cồn, gò và các vùng đất bằng phẳng… Các “hạt đậu” lập tức biến thành người Việt sinh sống trên vùng đất ấy…
Một ngày, ông Đùng đi đến vùng đồng bằng ven biển phía Bắc hạ lưu sông Cái, thấy những vạt đất nổi cao giữa vùng đầm lầy mênh mông nước… Ông ngắm nghía rồi gọi bọn thủy binh sông Cái khổng lồ như Thuồng luồng, Hà giải, Ngư tinh… đến khơi dòng, đào một con sông lớn lấy nước từ sông Cái về thau chua rửa mặn cho cả vùng.
Nhìn hình dạng cuộn khúc của tướng Thuồng luồng dẫn đầu “binh tướng khai sông” (Thuồng luồng là một loại Giao long), ông Đùng hình dung ra con sông sắp đào phải uốn khúc để có thể dễ đưa nước ngọt đến khắp vùng ngập lợ, liền vạch đất để bọn thủy binh đào sông ngoằn ngoèo như hình rồng cuộn, giúp tiêu nước lợ được nhanh và cuốn ra biến… Làm xong lộ trình “khai hóa” của mình, ông Đùng gọi dân bản thổ đến mà bảo:
– Nơi đây có thế đất linh, ta đặt tên con sông vừa đào cho các con là sông Vĩnh, để mong cuộc sống nơi đây vĩnh hằng tấn phát… Vua cha Lạc Long Quân cho ta sáu “vật tượng” để đánh dấu các vùng đất địa linh trong lãnh địa của ta, vậy ta đặt một vật tại đây.
Nói rồi ông Đùng móc trong tú ra một hạt đào và đặt xuống đất… Bỗng nhiên hóa ra từng dãy cây đào nở hoa rực rỡ… Vì thế sau này, Hùng Vương thứ 18 đã về đây và đặt tên vùng đất này là Hoa Đào trang.
Tương truyền, sau khi làm xong việc “khai hóa” của mình, 100 người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ đều hóa thành “Sơn thủy bách thần” nổi tiếng linh ứng, phò giúp dân nước Lạc Việt mãi mãi.
Lần theo dấu vết sáu vật linh mà ông Đùng “yểm” lại trong lãnh địa của mình, đó là các địa danh:
1. Vùng phát tích Sơn Thánh Ba Vì – Tản Viên.
2. Vùng thành Thăng Long (Hà Nội).
3. Vùng phát tích nhà Đinh – Lê (Ninh Bình).
4. Vùng phát tích nhà Lý (Bắc Ninh)
5. Vùng phát tích nhà Trần (Thái Bình).
6. Vùng phát tích Đức Vua Bát Hải (Đào Động – Thái Bình).
Trong đó trấn sơn Ba Vì và đất Đào Động là nơi lưu giữ “hồn nước”, nơi hội tụ của “Sơn thủy bách thần”, thường “chìm ẩn”. Còn các địa danh kia là hiện diện sự “khởi phát tinh hóa” của đất Việt.
ĐỐNG BÀ ĐÀ
Tại phía Bắc đất Đào Động cổ có con đường nối thẳng từ thôn Di Phúc qua quốc lộ số 10 đến đền quan Đệ Tam và quan Thượng… Khoảng giữa con đường đó nguyên có một đống cao nổi lên giống như một quả đồi trên sóng lúa. Dân gọi đó là đống Bà Đà.
Tên đống Bà Đà có từ trước thời Trần rất lâu, gắn với chuyện ông Đùng khai địa thời cổ. Ông Đùng là tên gọi của một trong 50 người con của Lạc Long Quân “xuống biển” thời thượng cổ. Ông Đùng đi dọc sông Cái (sông Hồng), lấy hạt đậu cha mẹ trao, nhuộm máu ngón tay của mình vào rồi rắc lên các vùng đất. Hạt đậu biến thành người sinh sống ở đó. Xong việc thì ông Đùng “hóa”.
Những cư dân mới được ông “rắc ra” ở vùng đồng bằng và duyên hải còn rất bỡ ngỡ trên miền đất mới. Người sống trên sông, trên biển chưa biết bắt tôm cá, thường hay vị thuồng luồng, quái ngư sát hại… Người sống trên bãi, trên đồng chưa biết canh tác nông nghiệp, cũng chưa biết khẩn hoang rửa mặn để cấy lúa trồng mầu…
Thần Nông ở trên trời nhìn xuống thương xót, lệnh cho một thuộc hạ (chính là Bà Đà) xuống trần dạy dân Bách Việt ở duyên hải canh nông, mang các giống lúa mầu cho dân, lại dạy dân đóng thuyền đánh bắt tôm cá trên sông, trên biển…
Trước khi sai Bà Đà xuống trần, vua Thần Nông dặn rằng:
– Ngươi phải lấy tình thương của từ mẫu mà lo cho con dân.
Bà Đà đi dọc miền duyên hải Bách Việt để dạy dân đánh bắt tôm cá và cấy lúa. Khi bà đi dạy dân canh nông chài lưới vừa đến hết miền duyên hải Văn Lang – Lạc Việt cũng là lúc vua Thần Nông lệnh triệu bà về trời gấp.
Với tấm lòng của một người mẹ thương con, trước khi “hóa”, Bà Đà đã “cắn răng” rứt đứt đôi “nhũ hoa” của mình để lại cho các con. Tương truyền một “nhũ hoa” chính là đống Bà Đà ở Đào Động. Còn một “nhũ hoa” là một hòn đảo hình tròn cũng rất linh ứng ở giữa hồ Động Đình.
Từ thượng cổ truyền lại rằng giữa đỉnh đống Bà Đà xưa có một miệng giếng nhỏ tự nhiên, chỉ to bằng miệng cái thúng nhưng luôn tràn trề nước trong mát. Gặp những dịp hạn hán, Vĩnh Công (Đức Vua Bát Hải) thường đến đống Bà Đà cầu khấn rồi trang trọng múc lên 28 bát nước, bày theo đúng phương vị nhị thập bát tú và làm lễ. Sau đó cả vùng sẽ nhanh chóng được mưa ngọt.
Nhiều đời sau, những khi trong trấn, trong phủ gặp hạn hán lâu ngày, quan tổng trấn được thần báo mộng cho người về đây rước Bà Đà về đảo vũ…
Ngọc phả Ling Lang Đại vương thủy thần xuất thế triều Hùng (chi Khảm, bộ thứ hai Thượng đẳng), chính bản bộ Lễ quốc triều
Xưa cháu ba đời Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi, sau đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh, lại gặp Vụ Tiên Nương mà sinh Kinh Dương Vương. Dương Vương tư chất phi thường, tự có khí tượng bậc đế vương. Đế Minh muốn truyền ngôi cho. Dương Vương cố nhượng cho anh. Do đó Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi mà phong Kinh Dương Vương ở phương Nam, hiệu là nước Xích Quỷ. Dương Vương bái từ anh và cha đến nhậm trị phương Nam, nước Việt ta đất đẹp Hoan Châu xây dựng kinh đô, thế núi hùng mạnh Nghĩa Lĩnh tu sửa miếu điện. Truyền đến đời thứ hai là Lạc Long lấy tiên nữ Động Đình là Âu Cơ, sống ở đầu núi Nghĩa Lĩnh, mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ thế rồi có mang, sinh hạ một bầu trăm trứng, nở ra điềm lành trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Cho đến khi trưởng thành mới kiến lập hầu tước, lập đất bình phong, chia trong nước thành 15 bộ.
Thế rồi Long Quân nói với Âu Cơ: – Ta là giống rồng, nàng là giống tiên. Tuy khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc, vì thế phải tách biệt.
Phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần. 50 người con theo mẹ lên rừng làm sơn thần. Khi có việc thì cùng báo nhau, khắc đến giúp đỡ. Thủy thần thường xuất thế, đầu thai nhập vào các gia đình người dân làm con để giúp nước cứu dân. Nhà nào có đức dày thì sẽ gặp được.
Lại nói, khi đó cơ đồ họ Hùng 17 nhánh truyền đến Duệ Vương, đóng đô ở sông Bạch Hạc Việt Trì, kiến quốc tên Văn Lang, quốc đô gọi là thành Phong Châu. Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, kế thừa tổ mở tông thêm 17 đời, cơ đồ thịnh trị, trong tu văn đức, ngoài phòng biên phương, cố sức hưng bình để yên Trung Quốc.
Đương thời có vị quan chủ trưởng đạo Sơn Nam, vốn là dòng cháu của Hùng Duệ Vương, chủ trị Sơn Nam, lấy người xã Nhuế Dương, huyện Đông An Khoái Lộ, tên Nguyễn Thị Đào làm vợ. Cầm sắt cùng duyên, uyên ương cùng hợp. tuy là quan trưởng nhưng không tham chút tơ hào, thực hiện làm việc nhân nghĩa, giúp kẻ thiếu, cứu người nghèo, lại kính việc quỷ thần, trị nhậm ở Sơn Nam mà làm việc nhân đức, ban phát ơn nghĩa, thật là rất được lòng dân.
Trong 4-5 năm cảnh vật nơi đây đều yên ắng trù phú. Vua gọi Ngài về triều. Ngài tuân mệnh đem vợ là bà Nguyễn cùng về kinh đô. Một hôm Nguyễn phu nhân cùng với một vài thị nữ đi thuyền dạo chơi ở hồ Dâm Đàm (sau đổi là hồ Tây), thấy sóng xanh nước biếc, bèn tắm gội. Khi đó bỗng nhiên thấy trời đất tối tăm, nước trong hồ động nổi như tiếng sấm vang lên. Lại thấy có một con giao long dài hơn 2 trượng đến quấn lấy thân của bà Nguyễn. Bà bàng hoàng sợ hãi ngất đi. Sau một lúc thì dần dần tỉnh lại, bèn bỏ thuyền mà lên bộ đi về. Sau 3 ngày thì đến kinh đô.
Trước đó cùng đêm ông Hùng Kim nằm mơ thấy một người cưỡi ngựa trắng, mặc áo hồng, đeo chuỗi ngọc, tự xưng là Linh Lang, là người thứ 4 trong số 50 người con xuống biển, quyền quản Dâm Đàm. Gia đình ông Kim đều là những người có đức dày, nên tuân mệnh của Thiên đình đến đầu nhập vào nhà ông làm con.
Lời nói chưa dứt thì tự nhiên ông tỉnh lại, nhớ đến giấc mơ, tất là có điềm tốt. Lại đến khi thấy bà Nguyễn về đến nhà, thuật lại sự việc ở hồ Dâm Đàm. Ông nhớ lại bèn lập đàn cầu khấn trời đất cùng trăm thần sông núi. Từ đó thấy bà Nguyễn tự nhiên có mang thai. Năm Canh thìn mùa hè ngày 10 tháng 4 thì sinh được một bọc, nở ra một người con trai có kỳ hình dị tướng. Ông bà nhân việc trong mộng bèn đặt tên là Linh Lang. Thương thay mệnh trời đất. Năm đó người cha là chủ quan không bệnh mà mất. Bà Nguyễn làm lễ tế. Đến khi an táng xong bà Nguyễn tuân mệnh vua dẫn Linh Lang về quê Nhuế Dương nuôi dưỡng.
Ngài bình sinh dị lạ, khi lớn rất thông minh. Năm 17 tuổi lại vào kinh đô nhập học với Hải Đường tiên sinh. Biết rộng xưa nay, hiểu thông trời đất. Thường khóc buồn thương cảm người cha mất sớm, không biết đạo trời ra sao. Năm ấy bà mẹ cũng mất. Ngài làm lễ an táng, phụng thờ 3 năm. Vua ban chiếu bái Ngài làm Đốc lĩnh thuỷ đạo Thiên sách Thượng tướng quân, cho tuần hành các đầu non góc biển. Ngài vâng mệnh đi khắp thiên hạ. Cứ đến nơi nào thì nơi đó trở nên yên ấm. Một lần lại đến Nhuế Dương, làm lễ tiến yết các bậc tổ tiên bên ngoại, khảo hưởng cho nhân dân tộc bên ngoại, xây dựng miếu cung để ở. Lại dâng biểu xin Vua cho xã Nhuế Dương, vốn là quê ngoại của Linh Lang, được miễn các việc quân dịch, để làm làng hộ nhi. Vua đồng ý. Từ đó già trẻ nhân dân ở làng xã Nhuế Dương đều được quý hiển.
Lại nói, khi đó cơ đồ họ Hùng đã mạt, thế nước đến hồi kết thúc. Vua sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa đều đã cùng nhau trở về quy tiên. Chỉ còn hai người con gái. Người thứ nhất tên là công chúa Tiên Dung, Vua bèn gả cho ông Chử Đồng Tử. Còn người thứ hai tên là công chúa Ngọc Hoa, cung thiềm còn khóa, ngọc nhụy đương thì, duyên lành chưa định. Vua bèn lập một lầu ở cửa thành Việt Trì, gửi chiếu truyền rằng thần dân trong thiên hạ ai là người có tài trí thông minh, anh hùng đức độ có thể nối được ngôi vua thì sẽ gả công chúa cho. Hôm ấy trên sông thuyền bè xe ngựa nghe chiếu thiên tử đều nổi chí trạng nguyên bốn biển. Nhưng đều chỉ là những người tầm thường, không phải toàn tài, không đáng xưng danh. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Thánh có nhiều tài lạ thông trời bạt đất, có thuật lấp sông dời núi. Vua cho là người tài bậc nhất thiên hạ, nên gọi công chúa đến gả cho và muốn nhường lại ngôi.
Lại có Thục chúa (Thục chúa là bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái của họ Hùng), nghe việc Duệ Vương tuổi trời đã cao mà 20 hoàng tử đều đã về tiên cảnh, không có người nối kế, muốn nhường cho con rể Sơn Thánh, bèn nhân cơ hội đó phát động chiến tranh, cầu viện các nước láng giềng, chỉnh đốn trăm vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, chia làm 5 đạo. Một đạo theo đường núi Thập Châu, Hoàng Tùng, Quỳnh Nhai mà tiến. Một đạo theo các châu Tuyên Quang, Tụ Long, Bảo Lạc mà tiến. Một đạo theo các châu Minh Linh, Bố Chính mà tiến. Một đạo theo đường núi Ái Châu, Tam Điệp mà tiến. Một đạo theo cửa biển Hội Thống, Hoan Châu. Thủy bộ cùng tiến, quân thanh chấn động. Duệ Vương lo lắng, bèn gọi Sơn Thánh đến hỏi kế. Sơn Thánh tâu rằng:
– Hơn hai ngàn năm đến nay 17 bậc vua thánh hiền đã tạo nhiều điều nhân, ơn sâu đã khắc vào tới xương tủy nhân dân. Nay đang khi nước mạnh quân cường. Uy đức của bệ hạ vang xa ngoài nước. Thế mà người Thục không biết tự giữ gìn, dám cả gan quật cường, thì việc nhận lấy thất bại đã nghiệm rõ. Đến khi thảo phạt hỏi tội, lấy nghĩa mà phục thì tất dân ta đều vì bệ hạ mà chống giặc, đâu phải lo không dẹp được. Tình hình hiện nay xin bệ hạ cho triệu Thiên sách Thượng tướng Linh Lang về cùng với thần thay vua khởi giá, tự chọn các tướng tài thì giặc Thục không quá nửa tháng có thể dẹp yên. Vua nghe vậy rất vui mừng, lập tức sai sứ thần về xã Nhuế Dương để triệu Linh Lang về triều dẹp giặc. Ngài tuân mệnh, bèn tuyển người dân Nhuế Dương được 50 người làm gia thần thủ túc, cùng với quân bản bộ về triều, cùng với Sơn Thánh bái tạ Vua, lĩnh 30 vạn hùng binh, một ngàn danh tướng. Linh Lang tự xin được đánh đạo quân thủy của giặc. Vua thân tiễn ra ngoài 30 dặm, cầm kiếm báo với Sơn Thánh rằng: – Từ đây trở về phía trên đỉnh núi ngút trời là do Sơn Thánh quản chế.
Lại báo với Linh Lang rằng: – Từ đây xuống đến đáy biển là do tướng quân quản chế.
Sơn Thánh cùng các tướng và Linh Lang lĩnh mệnh, phân đạo mà tiến. Linh Lang thẳng theo đường thủy dẫn phát giao long, cá, rùa, trùng trùng nối thành sóng lớn vạn phái, cá côn kình lớp lớp vây quanh như sóng ngàn sông. Tiến thẳng đến cửa biển Hoan Châu cùng giao chiến với quân Thục. Bố trận hàng ngàn hàng cá rùa. Bày binh bằng vạn đôi kình nghê. Quân Thục nhìn từ xa đều đã kinh hồn vỡ mật. Linh Lang bèn tiến đánh một trận. Giặc Thục vì thế mà giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết không kể hết, bắt sống tướng chính, chém đầu ngay dưới cờ. Còn lại 4 nhánh quân giặc thì Sơn Thánh cùng các tướng hiệp lực mà đánh. Quân Thục đều thua to, chạy tán, một xe không thoát, một ngựa không còn.
Thế là Sơn Thánh triệu Ngài cùng hợp ở một nơi, dâng biểu báo chiến thắng. Vua bèn ban chiếu triệu về, gia phong tướng sĩ các cấp, lại sai phong Sơn Thánh là Nhạc phủ kiêm Thượng đẳng thần, phong Linh Lang là Ngô Vương. Được vài năm Ngài chẳng màng danh tiếng, ra vào chốn đất Nam Giao, lầu rồng gác phượng xa lánh bụi trần, tiêu dao các chốn cực lạc Bồng Lai, Tây Trúc. Vào La thành cùng Giác Hải thiền sư học thành đạo. Khi Ngài đã 80 tuổi, một hôm đi dạo đến hồ Dâm Đàm, phường Hồ Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Lúc ấy trời đất bỗng tối mịt. Linh Lang xuống Dâm Đàm mà hóa. Khi đó là mồng 10 tháng 5. Sau khi Ngài hóa được trăm ngày, phía Tây của hồ trên bờ trúc mọc thành rừng. Vua tặng phong là Đại vương, cho xã Nhuế Dương lập miếu phụng thờ.
Từ đó có rất nhiều linh ứng, thường hiển hiện chân hình mà tiêu dao miếu sở. Một hôm Vua đi thăm du các dân ấp thờ Linh Lang, mới vào xem Nhuế Dương, thấy Ngài đứng ở trước cửa miếu làm lễ bái Vua. Vua đang định hỏi thì bỗng không thấy đâu nữa. Vua nhớ lại hình dáng mà than vãn, bèn gọi nhân dân Nhuế Dương đến viết thần hiệu là Linh Lang Cửa miếu Đại vương mà thờ phụng.
Lại nói, khi Linh Lang trở về thủy phủ, lại làm thần Dâm Đàm Long Đỗ. Khi ấy Dâm Đàm có một ngọn núi nhỏ. Trong núi có một con Cáo tinh chín đuôi. Người dân địa phương ở nơi đó rất hay bị hại. Thần Long Đỗ đem sự việc đó tâu lên Thượng Đế. Thượng Đế bèn lệnh xuất thủy tộc bắt giết con Cáo tinh. Từ đó người dân địa phương mới được yên.
Đến khi nhà họ Hùng truyền lại ngôi báu cho Thục An Dương Vương. Dương Vương trị quốc được 50 năm thì Triệu Vũ lại lấy được nước, truyền tiếp 5 đời. Từ đó nước Việt ta trở thành nội thuộc. Cho đến Đường Cao Tông niên hiệu Hàm Thông năm thứ 6 lệnh cho Cao Biền làm Đô hộ nước Việt ta để thảo phạt giặc Nam Chiếu.
Cao Biền sau dẹp được Nam Chiếu mới lập là Quốc vương Thiên tử, cưỡi diều giấy đi xem xét sông núi, đất đai hình thẳng ở nước Việt ta. Một hôm đi đến đầu xã Thanh Cầu, huyện Kim Động bỗng gặp một người, thân thể to lớn, râu tóc bạc phơ, thật là mờ mờ ảo ảo, nhân thế phù du, có có không không, sinh sinh hóa hóa, xưa qua nay lại. Cao Biền kinh dị mới hỏi tính danh. Người đó cười nói: – Ta là Linh Lang. Nhà ta ở gần đây.
Đến chỗ gò mối thì phất áo nhập vào trong gò mà mà biến mất (khi đó Thanh Cầu có một gò mối, tục gọi là Đông Mâu). Cao Biền kinh dị không yên. Đến khi Cao Biền xây thành Đại La, sáng hôm đó đi ra ngoài cửa Đông. Bỗng thấy mây mưa mù mịt, thấy mây năm sắc theo mặt đất mà xuất hiện, sáng lòa ánh mắt, trong thấy có một dị nhân sắc sỡ, cưỡi rồng đất màu đỏ, cầm thẻ bài vàng, theo đám mây mà phát lương. Cao Biền kinh sợ muốn yểm. Buổi tối mơ thấy thần nhân nói rằng: – Ta là thần Linh Lang Long Đỗ ở đây đã lâu. Nay thấy ngài xây thành tại đây nên đặc biệt đến xem. Chớ có yểm.
Cao Biền tỉnh lại than rằng: – Ta chẳng nhẽ không thể phục được người ở vùng xa này, sao lại tạo ra sự quái ấy.
Bèn tạo một bức phù bằng đồng đem chôn để yểm. Ngay hôm đó, mưa sấm nổi lên dữ dội, làm cho phù đồng đều biến thành bui. Biền hết sức kinh dị, do đó cho lập miếu tại đất đó để thờ phụng.
Lại nói, cho đến khi nước Việt ta trải qua các đời Tiền Lý, Hậu Lý, Đinh, Lê, Lý, Trần, đều là các bậc vua hiền, trải khi lúc hưng lúc phế. Cho tới thời Trần Nhân Tông, giặc Nguyên là Thoát Hoan, Ô Mã Nhi đến xâm phạm. Kinh thành bị vây hãm. Tướng Trần là Hưng Đạo Đại vương. Trần Quốc Tuấn lo cầu trăm thần giúp nước, đêm ngủ ở đài Việt Vương, nằm mơ gặp Triệu Việt Vương ngự ở chính điện, sai lệnh Linh Lang cầm đầu quân thủy đạo giúp Trần diệt Nguyên. Sau đến xứ Đông Mâu xã Thanh Cầu thì hóa.
Đến khi dẹp được giặc Nguyên, Hưng Đạo Vương tâu với Nhân Tông. Nhân Tông bèn gia phong là Nghị võ Uy minh Quảng tế Thượng đẳng thần, cho phép Nhuế Dương đón sắc về trong dân phụng thờ. Từ đó về sau cảm tất thông, cầu tất ứng, nên nhân dân thờ phụng bốn mùa mãi mãi không ngừng. Thật là thịnh thay!
Phong Nghị võ Uy minh Quảng tế Linh Lang Đại vương Thượng đẳng thần (cho phép xã Nhuế Dương phụng thờ).
Lại nói, từ đó về sau trải đến Hoàng triều ta khai sáng hồng đồ, thường có nhiều lần giúp nước giữ dân, cầu mưa cầu yên đều nhiều linh ứng, cho nên có nhiều đế vương gia phong mỹ tự, để vạn năm lễ tế cùng trời đất mãi còn như vậy. Tốt thay!
Tuân khai các lễ sinh hóa cùng các chữ húy, Linh Lang hai chữ đều cấm, cấm dùng y phục màu Tím làm lễ.
Ngày sinh thần mồng 10 tháng 4 (lễ dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát ba ngày).
Ngày hóa thần mồng 10 tháng 5 (lễ dùng trên chay, dưới lợn đen, xôi, rượu).
Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất tháng giữa thu ngày tốt Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn.
Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 tháng đầu xuân ngày tốt Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền lại theo bản chính vâng soạn.
Hoành phi Hữu long tắc linh, đền Đức Thánh Cả Hữu Vĩnh.
Nước Đại Việt xứ Sơn Tây đạo Hưng Hóa, phủ Đà Dương (nay đổi là Quảng Oai) huyện Thanh Xuyên (nay đổi là Bất Bạt), làng Lăng Sương (nay đổi là trang Hữu Vĩnh), tổ phụ Tản Viên Sơn là Nguyễn Cao Hành, tổ mẫu Tản Viên Sơn là Đinh Thị Điên, sinh Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Đinh phi chủ ngọc bệ hạ sinh được trăm con thánh cháu thần.
Xưa Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng là hậu duệ của họ Thần Nông. Kinh Dương Vương tên húy là Huyền, sinh Lạc Long Quân húy là Ai. Khi đó có người con gái của Đế Lai tên là Mỹ, còn có tên là Thầm, sống ở động Lăng Sương (tổ của Vương mẫu ở tại Bắc Biển, huyện Thanh Nguyên), đi ra chơi ở bãi Trường Sa (Vương mẫu hái dâu ở bãi Bắc xã Sơn Bạn huyện Bất Bạt). Ngài Long thích sắc đó mà kết thông. 10 tháng mang thai bầu, sinh ra trăm trứng. Qua tầm trong tháng (không mang thai là 7 ngày) trăm trứng vỡ ra, sinh xuất những người con trai, không bú mớm mà tự trưởng thành. Khi mới sinh thì ở bản châu, cho nên lấy bản châu làm đất tổ.
Một hôm Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nay khó kết đồng.
Nhân đó cùng nhau phân chia, 50 người con theo cha về biển là Thủy tinh (Đức thánh Quảng Xung Đại vương là huynh trưởng của trăm thánh, quyền kiêm quản sông núi hồ biển ở thông cả 13 xứ, cả sông Tam Kỳ, ngự chính ở thần cung điện tại thôn Phú Dư, xã Hữu Vĩnh, Hoài An, Ứng Thiên, đạo Sơn Nam):
Vương tên là Hương Lang, tức tôn hiệu là Tản Viên Sơn Tam Vị Đại vương, là người anh cả của 50 đức thánh, sau là Tản Viên Sơn Thánh Thượng đẳng thần Quốc chủ Đại vương. Mua đất đai rừng núi với 112.300 quan tiền ở thôn Bùi Cốc, Mang Bội. Một núi có 4 vị, đất theo 8 cửa, cao 12.300 trượng, rộng 198.600 trượng. Đông giáp Ma Nghĩa, Thạch Thất; Nam giáp Mỹ Lương, Kim Bảng, Chương Đức; Tây giáp Thanh Xuyên; Bắc giáp Bất Bạt. Mặt tiền hướng chính Tây.
Phía Tây có Đại Giang Tả kiên Ma Lang Sơn thần, tôn xưng là Đồng Đô và Ma Lộ Sơn thần, gọi là Đồng Đôi. Thần cánh phải là Thanh Non Sơn thần, gọi là Đồng Lang. Thần cánh trái trấn ở hướng Tây nam. Thần cánh phải trấn ở hướng Tây Bắc. Thần Phi Hậu Cung Bà Liệt Sơn, gọi là Bạch Y Thần nữ, ngự ở lầu động rừng núi, gọi là Đồng Long, trấn ở chân núi men theo sông.
Các vị thần nguyên là dân giữ lệ di đến của 12 làng: làng Lăng Sương, làng Mông Hoá, làng An Lãng, làng An Đức, làng Lang Phong, làng Lang Phao, làng Thầm Bội, làng Thủ Pháp, làng Trung Độ, làng Kỳ Cốc, làng Ly Trúc. Cùng nhau chung đất đai, hương khói. Các ngày tiết giỗ kỵ theo phong tục trong vùng giao cho làng giữ lệ Lăng Sương và Thủ Pháp thờ phụng các cung lớn thượng đẳng, để yên mạch nước, mưa gió đủ đầy.
Hoàng triều nước ta niên hiệu Bảo Thái năm thứ 6 ngày 15 tháng 9 có đôi câu đối:
Cảnh chiêm thanh u tiên tích bí
Vọng long kiều nhạc thánh uy chương.
Ngọc phả cổ chép về một vị đại vươnng công thần triều Tiền Lý Nam Đế (chi Khảm, bộ thủy thần một vị thượng đẳng). Chính bản bộ Lễ quốc triều
Nước ta khởi vận trời Nam, núi sông phân ngang theo Dực Chẩn. Nước Bắc ban đầu được phong thẳng hướng sao Đẩu Ngưu mà phân chia. từ Kinh Dương Vương triều Hùng tuân mệnh của vua cha phân phong làm tông phái đế vương phương Nam. Đất đẹp Hoan Châu dựng lập kinh đô. Nơi thế núi mạnh Nghĩa Lĩnh trùng tu điện miếu. Truyền nước đời tiếp theo xưng là Lạc Long Quân, lấy tiên nữ Động Đình, sống ở trên đầu núi Nghĩa Lĩnh. Mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ từ đó có mang, đến khi sinh sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm trăm con trai, đều là những anh hùng vượt thế, đức độ hơn người. Đến khi trưởng thành Vua bèn kiến phong hầu, lập bình phong, chia trong nước thành 15 bộ.
Khi ấy Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống rồng, nàng lại là dòng tiên. Tuy âm dương ngũ hành hợp lại mà có con. Nhưng chủng loại khác nhau, nước lửa xung khắc. Không thể chung sống.
Nhân đó mà chia biệt, phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần, chia trị các đầu sông góc biển. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần, chia trị các bãi trên núi. Đương khi có việc gọi nhau, tất cùng đến giúp đỡ không tạo họa. Do đó sau này nhà họ Hùng có các bách thần sông núi, thường có thể đầu thai xuất thế vào các gia đình người dân làm con để giúp nước giúp dân. Nhà nào có phúc tất sẽ gặp được.
Lại nói, đến khi nhà họ Hùng về cuối, ý trời đã dứt, trải qua các đời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê kế nổi, khai mở cơ đồ. Từ đó mạch thống quốc gia đến nay lâu dài vậy.
Nước Việt xưa triều Tiền Lý Nam Đế (đế họ Lý tên Bí) người Long Hưng, Thái Bình, ở ngôi 11 năm. Khi đó ở thành Phong Châu có một nhà họ Đỗ. Ông Đỗ thuộc gia đình có truyền thống ngồn gốc, là vị quan có tiếng của triều Lương. Chính thất là bà Vương Thị Tín. Vợ chồng ông tuổi đã cao, sinh đẻ khó khăn hiếm muộn nên không vui. Ông bèn xin từ quan trả chức. Vua Lương đồng ý, ban cho áo mũ, châu ngọc, xe ngựa. Ông làm lễ bái tạ, rồi trở về quê hương, chuyên làm nghề y để cứu nhân độ thế, ra sức tạo phúc, cố gắng làm điều nhân đức, tạo tượng đúc chuông, sửa chùa xây cầu, âm thầm làm các việc thiện, đã cảm động đến trời cao.
Một hôm, phu nhân nằm mơ thấy mặt trăng chiếu qua khe cửa sổ ánh sáng rạng rỡ. Từ đó cảm động mà có thai. Đến kỳ sinh được một người con gái, mắt phượng mày ngài, phong tư yểu điệu, khác xa người thường. Vợ chồng ông vui mừng vi trời đã cho thành nguyện, bèn đặt tên là Nguyệt Tuần. Đến khi trưởng thành tính tình đoan trang, lời nói uyển nhã, má phấn môi hồng như vạn điểm sóng thu, mắt Thuấn mày Nghiêu, mười phần xuân sắc. Cung thiềm còn khóa. Nhụy ngọc đương thì. Mối lương duyên chưa sớm định ước.
Nàng tuổi 18 thì cha mẹ đều mất. Đến khi an táng xong, một hôm nàng nghe nói ở trang Quyển Sơn (tên xưa là Canh Dịch) thuộc huyện Kim Bảng có sông Châu giang, trên núi Biệt có cỏ thi quý, cùng với núi Tuyết trên dãy Hương Tích có nhiều đá rất cao, mà lại xanh rậm, u vắng, sinh ra nhiều dị vật. Nàng cùng với một số thị nữ xuống thuyền theo dòng sông Hát xuôi xuống, dạo xem sông núi. Đến khi về tới trang Hữu Vĩnh ở đầu bến sông thì thấy xa xa có một ngôi đền thiêng trên núi, bèn đứng lên vọng bái trong thuyền.
Đến khi quây màn để tắm bỗng thấy một con giao long tiến lại, trườn quấn quanh thân. Nàng sợ hãi chạy vào trong thuyền, chạy ngược dòng về nhà. Từ đó cảm động mà có thai. Khi ấy (năm Giáp Thìn mồng 10 tháng 8) ban đêm thấy có một áng mây năm sắc, tròn như hình lọng, che phía trên trước sân, trùm hết mặt đất. Trong một lúc sinh được một người con trai, mặt mũi to lớn, mày thanh mắt tú, tư chất kỳ lạ, khác xa người thường. Lên 3 tuổi thì biết nói, biết lễ nghĩa, thường hay biết học kính nhường, nghe lời biết suy xét. Bèn đặt tên là Xung Lang.
Ngày qua tháng lại, Ngài tuổi lên 6. Cha mẹ không bệnh mà mất. Đến khi Ngài lên 10 tuổi học hành thông minh, văn chương dài đẹp, ý tứ sâu sắc, có học sâu của Châu Trình, có khả năng của Âu Tô. Tài thơ sánh với Lý Đỗ, thích học cung tên, hay đọc binh thư, văn võ toàn tài, trở thành một người con có trách nhiệm với gia đình.
Lại nói, khi ấy Đế ban đầu làm quan triều Lương, sau loạn thì bỏ về. Khí đó các quan thú lệnh hà khắc. Giặc Lâm Ấp đến quấy biên cương. Bốn phương trộm cướp nổi lên. Đế bèn khởi binh đánh đuổi. Lại nghe tiếng Ngài có tài văn võ, trí dũng hơn người bèn sai sứ giả đến mang chiếu mời Ngài. Ngài tuân chiếu đến bệ kiến. Đế thấy là kỳ tài, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, không có việc gì không biết, không có vật gì không hiểu. Vua lấy lạ mà hỏi nguyên nhân là như thế nào? Ngài mới tâu rằng:
– Thần là Đệ nhất thủy quan, tuân chiếu chỉ Thiên đình giáng sinh xuất thế, giúp vua giúp nước.
Vua nghe vậy rất vui mừng nói:
– Lòng trời muốn giúp vậy.
Bèn mở tiệc lớn, tiến phong Ngài làm Tổng thống quân vụ Thuỷ đạo Thượng tướng quân, dẫn quân đi trước để chấn hưng quân thanh và để phòng ngừa bất trắc. Thế là Ngài bái nhận quân thủy bộ cùng với Đế tiến quân đường đường ra đi. Bắc đuổi Tiêu tư, Nam dẹp Lâm Ấp, Chiêm Thành. Thiên hạ yên định. Đế lên ngôi kỷ nguyên Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên.
Khi đó giặc đã được dẹp sạch. Ngài quay trở về cung đền ở trang Hữu Vĩnh làm lễ bái yết. Cho gọi các phụ lão của trang đến hỏi cho rõ ràng. Phụ lão tâu rằng:
– Trang của chúng thần trước đây phụng thờ một vị Thủy thần, nước cầu dân cúng rất nhiều linh thiêng tỏ rõ. Đến hơn mười năm trước có một chiếc thuyền rồng của một vị công chúa cùng các thị nữ đi qua, dừng lại tắm ở đây. Từ đó không thấy linh nghiệm nữ.
Ngài cười rằng:
– Đó chính là mẹ đẻ của ta.
Thế là phụ lão trang Hữu Vĩnh rất sợ hãi, bèn làm lễ xin được làm gia thần. Ngài đồng ý. Hôm sau thấy sứ giả mang chiếu thư đến, trong đó nói giặc đã dẹp xong, vua ban chiếu cho Ngài về triều dự tiệc, gia phong tước lộc những người có công. Ngài tuân chiếu xa giá về đến trang Trinh Tiết. Phụ lão ở đó cũng đến đón yết. Vì Ngài vốn trước là thần xuất thế, người dân thấm ơn không bị họa do hạn hán. Ngài bèn dừng xem sông núi. Thấy trời đất đẹp đẽ, trong ngoài thì bằng phẳng, trái phải có gò bờ, sông nước chảy quanh, nước lớn tràn trề. Thấy cảnh có tình bèn truyền lập hành cung, giết mổ trâu lợn, lập đàn cáo tế trời đất nước trăm thần. Xong thì gọi các thần tử trong trang khu đến ăn uống. bỗng nhiên ở đó thấy trên không có tiếng thần rằng:
Gia gia thiên hạ dĩ quy thần
Hà tất khu khu tác thế nhân
Kim triệu Xung Lang hồi thuỷ phủ
Đồng quy vân lý hội quân thần.
Phút chốc trời đất trở nên mờ mịt, gió lớn nổi lên. Ban ngày mà như đêm. Chốc lát thì thấy một đám mây vàng chuyển thành năm sắc, từ trên trời hạ thẳng xuống nơi Ngài ngự. Lại thấy thân của Ngài phát hào quang rực rỡ, theo mây cưỡi gió bay ra ngoài bến sông. Sau đó giây lát thì đám mù tan đi, trời trở nên trong sáng. Són nổi dồn dập. Thấy các loài thủy tộc xuất hiện nghênh đón Ngài trở về đầu trang Hữu Vĩnh. Đến chỗ nhánh sông thấy sóng gió trở nên yên. Tức khi đó Ngài đã hóa mất (là ngày mồng 10 tháng 12). Khi ấy nhân dân, gia thần, quân sĩ đều sợ hãi, bèn làm biểu tâu lên vua. Vua lệnh cho đình thần đến làm lễ.
Tế xong lại cho trang Hữu Vĩnh được miễn quân lương phục dịch, sai sứ tuân sắc phong Thượng đẳng.
Truy tặng phong thánh mẫu là Trinh tĩnh Đoan trang Đỗ Quý phi Công chúa.
Đến triều Đinh Tiên Hoàng (Đế họ Đinh, tên Bộ Lĩnh) khởi binh ở Hoa Lư, bình định 12 sứ quân, dẫn quân tiến về thành Thăng Long (xưa gọi là Long Biên), tiến đến bến sông đầu trang Hữu Vĩnh, huyện Hoài An, phủ Ứng thiên (sau đổi là Ứng Hòa). Bỗng thấy khi đó trời đất u ám, gió lớn nổi lên, sóng cả dập dồn, ban ngày như đêm. Đế bèn vào trong đền làm lễ cầu đảo. Giây lát trời quang tạnh, sóng gió ngừng lặng. Đếm đó Đế ở trong đền, đến cuối canh ba Đế nằm mơ thấy một lão ông quần áo chỉnh tề, hình dung cổ quái, từ trong đền đi ra, tự xưng là quan thủy thần (tên là Quảng Xung), nói rằng:
– Trời đất an bài, các nơi đã định, có vua tất có bề tôi. Tôi tuân chiếu của thiên đình muốn đến gặp, tự xin âm phù dẹp giặc. Không quá một năm thiên hạ tất sẽ quy về một mối, xin chớ lo.
Dứt lời thì hết mộng (khi đó là mồng 6 tháng 12). Đinh Tiên Hoàng tỉnh lại biết là mộng thần. Sáng hôm đó làm lễ bái tạ, lấy ở trong trang những người cường tráng được hơn 10 người của các gia thần thạo sông nước. Ngay hôm đó dẫn quân đi đánh dẹp. Từ đó mỗi trận đều thắng. Đến khi dẹp yên được 12 sứ quân nghĩ đều do lòng trời giúp đỡ, thần linh hiện ứng âm phù, bèn sai sứ tuân sắc phong thượng đẳng. Tặng phong Quảng Xung Linh tế Thông cảm Dực thánh Hồng ân Uy liệt Hiển hữu Trang dũng Ninh quốc Thượng đẳng thần. Cùng với nước nhà hưởng lành, mãi giữ như vậy. Kính thay!
Ban thêm cho trang Hữu Vĩnh 5 nén vàng để mua nhiều ruộng đất và sửa chữa đền miếu làm nơi phụng thờ. Mỗi năm ngày 11 tháng Giêng Đinh Hoàng lại xa giá đến làm lễ, liệt vào lệ để biểu dương sự linh nghiệm của thần. Từ đó trở thành lệ thường.
Lại nói, từ đó nước cầu dân cúng đều có linh ứng, thường có giúp nước cứu dân, các đời đế vương đều có sắc phong mĩ tự cho vị Thượng đẳng thần. Đến triều Trần Nhân Tông giặc Nguyên đến xâm phạm, kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh chống quân Nguyên, tiến quân đến huyện Hoài An thì gặp quân Nguyên theo đường thủy đánh đến. Hưng Đạo bèn vào đền làm lễ cầu đảo, xin được âm phù giúp. Sáng hôm sau dẫn quân ra đánh, giặc Nguyên quả nhiên thua. Đến khi được thiên hạ, ông Tuấn tâu việc này lên. Vua sắc phong mĩ tự: một vị là Vũ phấn Phong vân Đãng khấu Hộ quốc Linh ứng Thượng đẳng thần.
Đến thời Hậu Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh, đuổi Mộc Thạch, Liễu Thăng, có được thiên hạ. Thái Tổ bèn bao phong mĩ tự: một vị là Tế thế Hộ quốc Thuần hoá Trợ dân Linh phù Thượng đẳng thần, lấy nơi hành cung chốn cũ làm chỗ phụng thờ xuân thu, bốn mùa hương khói, vạn đại không ngừng, cùng trời đất còn mãi như vậy. Tốt thay!
Vâng khai các lễ sinh hóa cùng các chữ húy cấm ba chữ Quảng Xung Lang, cho trang Hữu Vĩnh là trang hộ nhi, các trang khu thần tử khác cùng phụng thờ.
Ngày sinh thần chính lệ là ngày 10 tháng 8. Lễ dùng trên chay bàn, phẩm quả, dưới xôi lợn rượu. Ca xướng.
Ngày hóa thần chính lệ là 11 tháng 12. Lễ dùng trên chay bàn, phẩm quả, bánh thanh khiết các mầu, dưới tùy nghi mà làm lễ.
Chính lệ ngày khánh hạ là mồng 6 tháng 5. Dùng lễ tùy theo.
Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất ngày tốt đầu xuân, Hàn lâm Lễ viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn bản chính.
Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 6 giữa đông ngày tốt, nội các bộ Lại tuân theo bản cũ vâng chép.
Thần tích làng Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ là một bản thần tích đặc biệt, khác với những thần tích hay gặp khác vì nó không phải được biên soạn bởi các vị quan của triều đình, mà là tư liệu được ghi chép và lưu giữ bởi những người dân ở địa phương tại vùng đất tổ Phong Châu. Trong thần tích Tiên Cát có rất nhiều chi tiết về thời kỳ Kinh Dương Vương – Hùng Vương và có lẽ đây chính là tư liệu gốc cho việc biên soạn các bản ngọc phả Hùng Vương sau này. Đây cũng là một bằng chứng rõ ràng cho việc các truyền tích Hùng Vương đã được lưu truyền rất lâu từ trước thời Lê.
Thần tích Tiên Cát mở đầu: Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.
Nước ta bắt đầu được dựng nước từ vùng Nghệ Tĩnh, nơi có núi Hồng Lĩnh, được truyền thuyết gọi là Thứu Lĩnh, gần cửa biển Hội Thống. Vị Kinh Dương Vương đầu tiên đã mở nước và đóng đô tại đây.
Thần tích Tiên Cát kể tiếp: Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc….
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang.
Vị Kinh Dương Vương đi tuần thú rồi mở kinh đô tại Phong Châu trên núi Nghĩa Lĩnh thì phải là Đế Minh. Truyện Họ Hồng Bàng cho biết: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ.
Ý nghĩa của đoạn truyện mở nước này là Đế Minh đã hình thành nên một vùng thiên hạ vạn bang với kinh đô đóng ở 2 đầu Nam Bắc. Thời kỳ mở nước Hồng Bàng có 2 phần là Lạc và Hồng (tức Nam và Bắc) với 2 kinh đô là Nghĩa Lĩnh và Thứu Lĩnh, do 2 vị vua chủ trị là Lộc Tục ở đất Lạc và Đế Nghi ở đất Hồng. Đất nước ban đầu được mở theo trục Bắc Nam.
Trong thần tích Tiên Cát, Kinh Dương Vương đã căn dặn con cháu: Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.
Đế Nghi là dòng chính thống của Đế Minh, nên tiếp nối cai quản ở vùng Cựu đô Ngàn Hống trên núi Thứu Lĩnh (dãy Hồng Lĩnh – vùng đất Hồng). Lộc Tục (Lạc tộc) là dòng bà Vụ Tiên, được thần tích Tiên Cát kể là bà Thứ phi của Kinh Dương Vương (Đế Minh), xuất xứ từ vùng miền núi châu Đại Man. Bà Thứ phi là dòng Tiên tộc (tức là dòng trên núi, chữ Tiên là người ở trên núi) nên nơi bà ở và được thờ mang tên là đền Tiên.
Câu kể thường gặp trong các thần tích: “Hoan Châu thắng địa kiến lập kinh đô. Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu miếu điện” diễn tả đúng quá trình mở nước theo hướng Nam Bắc của họ Hồng Bàng.
Thần tích Tiên Cát kể:
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói: – Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây? Thiếu nữ đáp: – Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi. Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Nước Hồng Lạc sau khi phát triển theo trục Nam Bắc thì chuyển sang giai đoạn mở rộng theo hướng Đông Tây, mà được đánh dấu bằng sự kiện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Động Đình là vùng sông nước ven biển phía Đông, do một bộ tộc cư trú gọi là Long tộc. Kinh Dương Vương lúc này là Tản Viên Sơn Thánh đã kết duyên cùng với Thủy Tinh Động Đình, mở rộng dòng giống Lạc Hồng theo hướng tiến về phía Đông.
Tản Viên Sơn Thánh là vị chủ trị vùng Sơn Tây thì đã rõ. Bản thân chữ Tản là tính chất của quẻ Tốn, chỉ hướng Tây. Còn vị vua cai quản miền sông nước phía Đông chính là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương và Thần Long Động Đình. Long Quân được ghi là hóa sinh về biển làm Động Đình Đế Quân.
Đền Tiên Cát cũng thể hiện sự kết hợp của 2 dòng sông và núi, thể hiện ở việc Ngọc Tiên nương (Thứ phi của Kinh Dương Vương) kết nghĩa với 2 người con gái thủy phủ Long cung là Thủy Tinh và Bạch Hoa nương. Lạc Long Quân sau này còn cử thêm 3 hoàng tử trong dòng thủy phủ là Cự Linh, Ất Linh và Thông Thủy Long vương đến hộ giá các vị tiên nương ở cung Tiên Cát.
Như thế, cho tới Lạc Long Quân, người Việt họ Hồng Bàng đã hoàn thành thời mở nước họ Hùng về 4 hướng qua các triều đại Kinh Dương Vương ban đầu là:
Đế Minh, vị Hùng Vương đầu tiên, được thờ ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương, là vị Thái tổ khai sinh họ Hồng Bàng.
Đế Nghi, vị vua Hùng thứ hai, được thờ ở đền Hùng là Viễn Sơn Thánh Vương. Kinh đô chính ở Thứu Lĩnh trên đất Hồng phương Bắc xưa.
Lộc Tục, vị vua Hùng thứ ba, được thờ ở đền Hùng là Ất Sơn Thánh Vương. Lộc Tục là dòng Tiên tộc ở phương Nam xưa, kinh đô đóng tại núi Nghĩa Lĩnh, vùng đất Lạc.
Tản Viên Sơn Thánh, vị vua Hùng thứ tư, thường được gọi là Kinh Dương Vương, chủ trị miền rừng núi phía Tây.
Lạc Long Quân, vị vua Hùng thứ năm, chủ trị miền sông nước Động Đình ở phía Đông.
Thần tích Tiên Cát cho biết, Hùng Vương từ Kinh Dương Vương trải 18 đời tới Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Vương. Thục Vương khi đó đã rời đô về Cổ Loa, còn đất Phong Châu trở thành nơi sinh sống của nhân dân. Tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền, kéo đến bãi đá bên sông cạnh đền Tiên Cát, cho cưa phá những voi đá, ngựa đá chầu về núi tổ tại đây, chạm vào địa mạch linh thiêng từ thời Kinh Dương Vương. Hổ báo, kinh nghê đều nổi giận, tiến vào đất Tiên Cát mà giết đuổi quân nhà Hồ… Chi tiết này cho thấy những di tích bằng đá về Kinh Dương Vương và Hùng Vương đã hiện hữu ít nhất là trước thời nhà Hồ. Chắc chắn các tư liệu ghi chép và di tích thờ phụng Hùng Vương đã có từ rất sớm.
5 vị Kinh Dương Vương mở nước họ Hùng đầu tiên ở 5 phương, khởi đầu cho các nhóm tộc người Bách Việt sau này. Tản Viên Sơn Thánh là Nam Thiên Thánh tổ của Lạc tộc, tức là nhóm người Kinh Mường. Long Quân là Vua cha của Long tộc, sau này là nhóm Tày Thái. Đế Nghi là tổ của Viêm tộc phương Bắc xưa (Nam nay), sau là người La Lồi hay người Chiêm Hồ. Lộc Tục dòng bà Vụ Tiên là tổ của nhóm Miêu tộc, tức người Miêu Dao sau này. Một nhánh dòng Đế Minh là Đế Lai do cuộc tranh chấp với Lạc Long Quân đã phải chạy về phía Tây, sau là người Di Lão hay người Âu (trong Âu Cơ, Âu Lạc).
Ngũ tộc thời lập quốc họ Hùng đã bao trùm đầy đủ các nhóm tộc người của vùng Đông Nam Á. Cho nên vua Hùng là tổ của Bách Việt là chính xác. Thần tích chép: “Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt“.
Thần tích Tiên Cát cũng cho biết ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương vào tháng 3 âm lịch. Mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).
Trăm người con trai họ Hùng đã đồng sinh cùng bọc đồng bào và đồng hóa vào ngày 12 tháng 3. Ngày tháng 3 này chính là ngày giỗ tổ của trăm họ Bách Việt, gồm cả 5 nhóm tộc người đã nói ở trên. Giỗ tổ Hùng Vương không phải chỉ là giỗ tổ người Kinh hay người Mường, mà của trăm tộc người trên mảnh đất Việt, Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc.
Đầu mạch đất này bên trái từ sông Lôi núi chạy sông theo, tới các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương, bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung tiên bên trái là rồng xanh, chạy tới hóa ở xứ Hải Dương thành các núi Đông Triều, Yên Tử. Mạch tới ngoài biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.
Bên phải mạch đất Hán Giang, Nhị Hà, Lô Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Giang, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung tiên bên phải là hổ trắng, đầu Sơn Nam, Ái Châu, núi Chính Đại cửa biển Thần Phù, thoát ra ngoài biển ở núi Chích Trợ, cửa Trà Lý, làm đầu hổ chầu án.
Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy sông Cả ở huyện Nam Xương làm Trung minh đường. Nam Hải, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang (phía Đông tới Nam Hải, phía Tây đến Ba Thục, phía Bắc tới Động Đình, phía Nam giáp Hồ Tôn).
Vua rời giá về cựu đô Hoan Châu. Việc dựng đô thành của Vua trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm chốn đô ấp của Cổ Việt Thường Thị.
Lại nói, đương thời Dương Vương ở châu Đại Man, huyện Yên Bình, xứ Tuyên Quang có một gia đình Trưởng ông (họ Mã tên Sùng), lấy vợ người trong châu (họ Trương tên Man). Khi ông tuổi ngoài 50, bà Trương tuổi hơn 40, một hôm bà Trương lên núi lấy củi. Trên núi có một ngôi đền cổ, đều đã đổ nát. Bên trong có tượng nữ, cũng đã hư hỏng. Bà Trương lại gần xem xét. Bà Trương mới đùa rằng thần linh ở đây ngày đêm nhàn nhã, lấy ai là người cúng tế. Xin hãy về gia đình thiếp để phụng dưỡng cơ huyền.
Tự nhiên bỗng thấy có một con rắn trắng từ trong tượng bò ra. Bà Trương kinh sợ, bỏ chạy về nhà. Ngay hôm đó bà Trương mơ thấy mặt trăng rơi vào trong miệng. Bà Trương bèn nuốt lấy, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mộng. Từ đó thấy có ý động mà có mang thai. Đến khi đầy tháng sinh được một nương tử, phong tư yểu điệu, mẵn phượng lung linh, mặt ngọc đầy đặn sánh với Hằng Nga trên cung trăng, không phải là người có thể có ở trên phàm trần, môi son má phấn, thân người tự có mùi thơm. Cha mẹ rất yêu quý.
Đến khi lên ba tuổi mới đặt tên là nàng Ngọc Hương. Khi tuổi 15 cung thiềm còn khóa, nhị ngọc đương thì, đức nữ nhi trinh hiền, nữ công tinh khéo, đàn cờ thơ phú không gì là không biết. Có lòng hiếu hiền hoà thảo, thật hiếm có trên đời. Khi 19 tuổi như trăng rằm chính độ, hoa xuân vườn thượng uyển.
Khi ấy Dương Vương ngự giá đi thăm các khu tôn lăng, đi qua Man Châu. Ngọc nương ra xem. Dương Vương thấy, thích thú sắc đẹp đó, mới triệu đến cưới, lập làm Cung phi thứ tư. Vua rất sủng ái, mới cho ở thành Phong Châu (nay tức là đất Bạch Hạc, Phù Khang, Việt Trì). Vua cho xây dựng cung dinh, để nàng sống ở cung đó, gọi tên là cung Tiên Cát (sau tức là trang Tiên Cát).
Lại nói, khi ấy Vua đi tuần thú quay về thành Hoan Châu (nay là Nghệ An). Chính cung Thần Long có mang, khí lành đỏ rạng trong nhà, trong màn trướng có hương thơm. Qua tuần Thần Long sinh Lạc Long Quân, có tư chất phi thường, tự có khí tượng của bậc đế vương. Vua bèn lập làm Hoàng thái tử. Khi ấy có con gái của Đế Lai là Âu Cơ về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, đi ra bãi Trường Sa chơi. Long Quân bắt gặp, rất yêu quý sắc đẹp đó mới cưới về lập làm Hoàng phi.
Do đó Kinh Dương Vương sai Lạc Long Quân đến núi Nghĩa Lĩnh ở thành Phong Châu để giúp việc lớn nước nhà, lại cùng tiện cho việc thăm hỏi Thứ phi. Lạc Long Quân tuân theo mệnh chỉ, đến thành Phong Châu nhận việc vua, thiên hạ thái bình, đất nước vô sự. Quân thần đều sùng ngưỡng tiên phật, tin kính quỷ thần trời đất. Vua và dân cùng hội hợp, trăm họ vui ca lạc nghiệp. Bốn dân vinh đủ yên bình, đều là ơn đức lớn vậy.
Lại nói, Thứ phi sống ở nơi đất đó, cứ mỗi năm hai lần xa giá về chầu chính cung cửa đế. Chầu xong lại quay về đất cung dinh cũ (tức cung Tiên Cát), ngày tháng đàn thơ, hội nhạc, cờ vây ở bãi đá bên bờ sông. Khi ấy có hai nàng tiên nữ là con vua thủy cung thường thường đi thuyền rồng lên du ngoạm nơi trần thế, cùng với Thứ phi kết làm nghĩa chị em, tưởng như con cùng bọc mà thân tình như chị em ruột thịt, nguyện cùng với trời cao không đổi (một tên là công chúa Thủy Tinh, một là công chúa Bạch Hoa). Hàng ngày thường xe rồng kiệu phượng lên chơi với Thứ phi cùng đánh cờ, đàn hát làm thơ ở nơi bờ đá bên sông.
Một hôm, Thứ phi nói với hai nàng rằng:
– Ta thấy hai nàng tuy sông núi không cùng, nhưng đều bậc ở cửa vua, dự vào hàng tiên cung thánh nữ, không phải tầm thường. Tục nữ nguyện ước được tình tâm phúc, xin chớ coi nhẹ ý đẹp này.
Hai vị thủy nương đáp rằng:
– Có trời chứng giám, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa, cho dù cơ huyền trước đây như thế nào.
Đời sau có thơ rằng:
Hùng triều Tiên Cát sở cung phi
Thạch xứ tiên nương hợp dụng kỳ
Sơn thuỷ tương đồng do tích tại
Tà tiên chi xứ hữu thuỳ tri.
Lại nói, Dương Vương ở ngôi được 215 năm, thọ 260 năm thì băng. Con là Lạc Long Quân kế vị. Long Quân mới lập, cải hiệu là Hùng Hiền Vương. Khi đó Âu Cơ có mang, mang thai 3 năm 30 tháng, đầu núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc sáng rạng, đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm con trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vua mới dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ (Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn Quảng Đông, mười lăm là Quảng Tây).
Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. Phân 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.
Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng. Các vương tử gọi là Quan Lang. Các vương nữ gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Là thời sung túc, trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, những người làm được cử theo việc, tùy theo khả năng. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hòa mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng.
Lại nói khi ấy Thứ phi dưới triều Tiên đế Dương Vương không có con, dòng tiên trên trần thế không còn vương vấn. Lạc Long Quân tuân theo mệnh vua cha, ngày đêm phụng dưỡng, không dám nhạt lòng. Ngày thường đến cung Tiên Cát xem ngắm địa thế, tu bổ cung lầu. Vua thấy địa hình nơi đây là nơi rất tốt, quang cảnh đất đẹp anh linh. Phía trước có sông Thao án dựa. Phía sau là núi Nghĩa Lĩnh có lân đá, voi đá, ngựa đá, trống đá, người đá, quân đá tùy vị trí mà án dựa, thị tòng hội ở xứ ấy, phong tinh năm ngọn trái phải phụ tá, củng phục chầu ở trước. Vua nhớ đến việc Tiên hoàng tìm đất, xây dựng cung cho Thứ phi ở đây, tên gọi cung Tiên Cát. Cung đó tất có phong cảnh thần tiên, mạch đất linh thiêng, không phải là khu đất thường tình.
Cho đến một năm sau, một hôm Thứ phi bỗng thấy hai nàng công chúa thủy tiên, theo sao là các nàng hầu, thuyền rồng kiệu phượng, tiến vào trong cung, nói với Thứ phi rằng:
– Hôm nay (tức ngày 9 tháng 10) đã đến lúc được như nguyện. Chị phải vào chầu cửa đế, xin chớ trì hoãn. Chị với chúng em tuy âm dương hai ngả, sông núi tách vùng, nhưng lại cùng một nhà lầu mây gác phượng, khí huyết cùng nhau mà hội hợp, dám xin có trước sau, chị cùng với hai em về nơi Thủy quốc.
Nói xong, Thứ phi rời đi xuống thủy phủ. Thứ phi lại sai nội thần tâu lên vua trước sau như sau:
– Hôm nay có hai vị con gái vua Thủy Tinh, là người kết nghĩa với Thứ phi, trước sau đã có hẹn ước, chị em như ruột thịt, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa. Nay thấy hai nương cưỡi xe loan đến triệu Thứ phi về chầu cửa đế. Do đó tiểu thần tuân mệnh vào tâu trước bệ, nguyên cớ là như vậy.
Vua nghe lời tâu bèn ngự giá đến cung (tức cung Tiên Cát, do Tiên hoàng dựng nên, đến cuối triều Hùng đổi thành trang ấp). Vua mới đi được nửa đường bỗng thấy mây mưa đổ xuống, gió sấm nổi lên, một lúc thì tự nhiên hết.
Vua nói Thứ phi đã đi vào cõi trường mộng vậy (tuổi Giáp Tý sinh ngày mồng 5 tháng 5, đến ngày mồng 10 tháng 10 thì hóa), bèn lệnh cho quan đến làm lễ tế khi còn chưa đến lúc an táng. Khi ấy Vua ở lại trong cung đó, mơ màng ngủ thiếp đi bỗng thấy Thứ phi xe loan kiệu phượng huy hoàng đẹp đẽ, tả hữu hai bên là hai vị tiên nương cưỡi xe loan cùng đi vào khu bãi đá bên bờ sông. Tiếp phía sau theo hầu trăm người nữ trinh đồng, khăn hồng đai tía, xe rồng kiệu phượng, theo đến nơi gặp Vua ở xứ đó. Thứ phi nói với Vua rằng:
– Thiếp vốn là thần nữ ở tiên cung, lầu mây gác phượng giáng xuống ở nơi trần thế, năm đó vào hầu Tiên hoàng, được ơn thâm trạch hậu, hưởng lộc đã nhiều. Nhưng hận là trần duyên chưa thỏa, không mảy may chút nào ở trần thế, tất cả đều hư vô. Nay vui vì có được hai vị nương tử cùng là con gái vua thủy cung, trên dương trần hàng ngày có giao du với nhau, nguyện là chị em ruột thịt. Một vị là nàng Thủy Tinh, một là nàng Bạch Hoa, cùng như tay chân gắn bó vậy, đồng lòng kết làm chị em. Nay lầu mây quê trước quay về nơi cảnh cũ, mưa gió ra vào nơi đất tốt.
Lời chưa dứt thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Đến khi làm lễ đưa đám, liền trong 3 ngày mưa to gió lớn, một vùng mờ tỏ, cửa nhà tối mịt. Vua chôn cất bà phi ở nơi đất đó (tức xứ Gò Đá, nơi có lân đá, voi đá, ngựa đá, cờ đá, trống đá, thuyền đá, quân đá, bàn đá theo ở phía sau, hai bên trái phải hướng vào trước huyệt, có năm ngọn phong tinh chầu về hai bên, bên phải có sông Thao làm minh đường).
Nơi đó xưa khi Thứ phi còn sống, tuy Tiên đế lập cung trên vùng đất bên trong, bố trí cho Thứ phi ở đó gọi là cung Tiên Cát, nhưng Thứ phi ngày thường thích ra chơi ở đất đó (tức xứ Ghềnh Đá), cùng với hai vị thủy tiên gặp nhau đánh cờ, làm thơ, chơi nhạc, cũng như quang cảnh chốn Bồng Hồ Lãng Uyển, Đào Nguyên Trúc Lĩnh vậy. Ngày trước Vua ngự giá đến đây xem xét địa hình. Vua từng nói là vùng đất này đều rất linh anh, thật là nơi tốt. Nhân đó Vua cho an táng lăng tại nơi này. Vua nhớ lại giấc mộng khi chưa an táng. Hôm đó bèn truyền cho địa phương lập miếu ở trên khu lăng cùng thờ phụng ba vị, cùng phong là các thần nữ.
– Phong Thứ phi là Đệ nhất A Nương Thần nữ Ngọc Tinh nương Cả Đại vương.
Phong hai vị Tả hữu Thủy tiên Công chúa:
– Phong làm Đệ nhị Thuỷ Tinh Thần nữ Nương Hai Đại vương.
– Phong là Đệ tam Bạch Hoa Thần nữ Nương Ba Đại vương.
Vua lại truyền cho các gia thần ở cung sở địa phương ngày trước đã theo hầu Thứ phi, cộng được ngoài trăm nhà ở đó. Vua cho ở tại đó sớm hôm hương khói để phụng thờ.
Lại nói, khi đó Vua có trăm con cùng một bọc, đều là những vị anh hùng cái thế, sức dũng động trời, làm thần thánh xuất thế, không phải thường nhân trên đời. Vua tuy còn ở tại thế cai trị trần gian nhưng cũng chia trăm con làm hai bộ. Một bộ cai quản sông hồ cửa biển. Một bộ trị các đầu núi non, cùng có chức phong làm thần tử, bố trí các nơi để trị hưởng lộc một phương.
Một hôm, Vua ngự ở cung Phượng Lâu (tức nay là trang Phượng Lâu). Khí đó mùa xuân ôn hòa, khí lành, vạn dặm răng thanh gió mát, một trời phong cảnh an hòa. Vua mới nằm ở chính cung (tức cung Phượng Lâu), bỗng nhiên mơ màng, đi vào thẳng thành Hoan Châu (tức Nghệ An), mới gặp Kinh Dương Vương ngự ở chính điện, hai bên có quan văn võ đứng chầu.
Dương Vương nói với Vua rằng:
– Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.
Lời nói vừa dứt thì gió xuân thổi vào áo long bào, Vua tỉnh dậy biết là nằm mộng. Vương nhớ lại lời căn dặn của Tiên hoàng trong mộng, tuy âm dương hai ngả nhưng đâu dám trái mệnh. Hôm ấy (mùng 10 tháng Giêng) Vua lệnh cho ba vị quan lang một là Cự Linh Thần tướng, hai là Ất Linh, ba là Linh Lang Thông Thủy, đều cùng là những hoàng tử từ bọc trăm trứng nguyên phân làm hai bộ (Cự Linh, Ất Linh, Linh Lang Thông Thuỷ đều thuộc thuỷ bộ), ban cho quản lý đầu sông (tức sông Thao), giữ gìn cung sở của Thứ phi (tức cung Tiên Cát). Ba vị tuân theo ngọc chỉ, quản trị ở đầu sông (tức sông Bạch Hạc ba dòng nước từ ranh giới sông Thao), giữ gìn cung miếu (tức tiên cung Thứ phi của Tiên đế Dương Vương).
Qua hai năm, khi đó Vua đã trị quốc dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt.
Hiền Vương ở ngôi 400 năm, sau về biển hóa sinh bất diệt làm Động Đình Long Quân Đế chủ. Quốc Vương tuân thừa nối đại quyền. Quốc Vương lên ngôi mới được 1 năm thì khi đó mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).
Lại nói, Quốc Vương nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, cung vua có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ,vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.
Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã.
Một ngày (15 tháng 3) Vua đến ngự ở cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát).
Nhàn xem phong cảnh, thăm thú cung lăng, tu bổ các tòa cung sở miếu điện. Vua lại mở một chợ ở bên sông, trước khu cung lăng, gọi là chợ Tiên, cho các phi nhân của vương cung cùng với các nội thần của các phu nhân, vương nữ đến hội sớm tối, những người đánh cá trước sông cũng cùng ở trên chợ, là nơi đô hội của thần tiên. Hôm đó (mồng 3 tháng 3) Vua lại phong cho ba vị hoàng đệ đều là Thuỷ thượng linh thần, cùng với Tiên phi vào cùng một nơi, cùng phối thờ phụng.
– Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long Vương Đại vương.
– Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương Đại vương.
– Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long Vương Đại vương.
Hôm đó (mồng 3 tháng 2) Vua sai quan đế tế, làm lễ bái tạ. Làm lễ chưa dứt thì bỗng thấy gió sấm bỗng nổi lên, mây mù u ám, trên sông sóng đổi vạn nhận, cung đền bốn bên mây phủ. Lại thấy 3 con rắn từ trên đường phân nước tiến thẳng vào trong đền, bò lên giữa gác trái phải. Bên trong đền sáng huy hoàng, mùi hương thơm bao phủ. Trước sông hàng trăm đàn cá hùng dũng nối nhau. Vua lấy làm lạ bèn nói rằng:
– Nay tuy thủy phủ và dương gian khác biệt, nhưng có tương thân khí huyết, sơn thủy một mạch, cảm được sự linh thiêng, cùng đã biết vậy.
Vua vừa dứt lời thì [ba con rắn] tự nhiên biến mất . Mưa gió tự yên, mây tan trời sáng. Làm lễ xong Vua lại tặng phong là Thượng đẳng Phúc thần, bố trí quan cùng với các gia nhân địa phương ở nơi đó bốn mùa hương khói phụng thờ.
Lại nói, Quốc Vương tên Bảo từ lúc lên ngôi được 300 năm, thọ 643 tuổi, mệnh Tân Mùi sinh giờ Mão ngày 16 tháng Giêng, mất giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5, hóa sinh sinh không thành, kim tiên thượng quán cư ở cửa ngọc mà cai quản. Tiên chủ sinh trưởng tử là Huy Vương, kế vị, truyền 8 vua tiếp sau.
Sau này Lý tiên sinh có bài tán:
Sinh vi thánh đế hoá lai tiên
Duy hữu Hùng đồ thập bát truyền
Thánh tử thần tôn cung miếu tại
Đức đồng nhật nguyệt hưởng trường miên.
Lại nói, thời lịch truyền 18 nhánh (từ Kinh Dương Vương chí Hùng Hiền Vương, Quốc Vương, Hy Vương, [Hi Vương], Diệp Vương, Huy Vương, Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Uy Vương, Trinh Vương, Võ Vương, Việt Vương, Định Vương, Triêu Vương, Tạo Vương, Ninh [Nghị?] Vương, Duệ Vương, cộng 18 đời thánh chủ, hưởng nước cộng 2655 năm). Truyền đến Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương có chất thánh triết, tài lớn anh hùng, nối cơ nghiệp tổ tông khai đắp 17 đời thịnh trị, trong lo võ lược, ngoài ngự biên cương, gắng sức hưng bình để yên Trung Quốc. Lại noi gương tiền vương trị vì, sùng trọng đạo trời, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, mến giúp quốc sự. Vì thế Vua ngày càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thiên hạ c sửa thêm đền miếu, vẽ tô nghi vệ trang nghiêm. Khi đó Vua đến cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát), thăm thú lăng mộ, tăng thêm việc tu sửa đền miếu, ngày ngày hiến tế, một tháng hai lần sai quan đến làm lễ.
Than ôi, đạo vốn thịnh nhiều thì sẽ suy, đầy rồi thì sẽ tắc. Cơ đồ họ Hùng trị nước vốn đã lâu dài, ý trời tất có hạn. 20 hoàng tử và 4 công chúa đều phiêu du về nơi Bồng Lãng, thoát gót trần gian, không có ai để trông mong việc nối truyền. Chỉ còn hai người con gái, đều là bậc thần tiên đời (một nàng được gả cho Chử Đồng Tử, một nàng gả cho Tản Viên Quân).
Vua bèn nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh, là con rể mà truyền đại bảo. Nhưng Sơn Thánh vốn có phẩm chất thần tiên, không muốn nhận ngôi cai quản quốc gia. Bèn lại truyền cho Thục chúa, cũng là cháu họ Hùng ở Ai Lao. Từ khi Thục chúa (tức An Dương Vương) nối thừa ngôi báu, đóng đô ở thành Cổ Loa. Còn Phong Châu thành đất của họ Hùng, cùng các cung sở lâu đài được nhân dân các xã động chia nhau ở (đất thành Phong Châu đến Thục Dương Vương rời về ở thành Cổ Loa, từ đó thành Phong Châu đổi thành các xã trang động của người dân).
Trong thời kỳ Thục Vương, đất ngoài cung Tiên Cát có hai trăm nhà ở đó đã di cư. Chỉ còn 17 người ở lại cố giữ đất đó. Lòng người thay đổi, xưa nay là thường. Cảnh tiên cung vua đó đều theo năm tháng mà yên nhàn trôi qua, tích xưa khó thấy dấu tiên còn đọng, chỉ còn nghe tiếng chim chóc hót ca.
Khi Thục Dương Vương ở ngôi được 80 năm mới truyền vị cho Triệu Đà, cha truyền con nối trải 5 đời thánh vương. Đến khi Vệ Vương kế truyền chính thống thì có quân Tô gây loạn. Trưng nữ lại hưng (cũng là cháu gái của Hùng Vương), ở ngôi được 5 năm, tiếng thơm ngàn thủa, cũng là bậc nữ anh hùng.
Từ đó triều Hùng chấm dứt. Tới Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 350 năm cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, đều có giúp nước hộ dân, nên các đời đế vương đề có gia phong mỹ tự, vạn đời hưởng lễ, hương khói vô cùng.
Lại nói, tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền. Một hôm quân Hồ giáo mác tiến đến ở vùng đất này (tức là vùng đất trang Tiên Cát), vào trú ở trong đền (tức đền cung Tiên Cát). Lại thấy địa hình có quý cục, voi đá, ngựa đá đều hướng chầu lên núi Nghĩa Lĩnh. Hôm đó (mồng 6 tháng 6) quân Hồ sĩ tốt bắt dân phu cùng binh sĩ lấy cưa sắt cắt ngựa đá, voi đá ra thành các đoạn, lấy đá đó xếp thành lũy, đồn sở. Đang khi cắt đá chưa được một lúc, bỗng thấy mây gió lớn nổi lên, bốn bề trở nên mờ mịt, mưa dội sương mù, sấm sét vang gầm. Trên sông nổi sóng cuồn cuộn vạn nhận, sấm vang làm rụng rời phách kinh nghê, vạn dặm cuồng phong dữ dội, cá rùa hồn kinh nhảy loạn, giao long nổi đầy sông, đào thông một đường thủy tiến thẳng vào trước cung, trùng trùng hàng ngàn con. Từ trên núi xuống hàng đàn hổ chạy tới, tiếng gầm chấn động, chạy thẳng về nơi đền thờ ở địa phương (tức trang Tiên Cát), vây kín bốn phương xung quanh. Quân Hồ kinh hồn chạy tán loạn. Nhân dân đều mất vía, tất cả đều bỏ chạy khỏi cửa nhà. Nơi đó (tức đất Tiên Cát) đều bị gió lớn thổi đỏ, nước ngập tràn lan ở bên trong, tất cả đều hư hỏng. Rắn hổ tập trung ở đất đó, đuổi hết mọi người, thật là một nơi bị hại lớn, có vào mà không có thoát, chết chóc rất nhiều.
Chỉ còn có 8 người tránh ở nơi đất gần đó (tức là ở đất nội thành), thường thường buổi tối mới dám quay về ẩn phục xem xét nghe ngóng nơi đền. Thấy sáu vị thánh ở chính trong đền (tức xứ Gồ Đá có chính lăng). Ba vị nữ quan ngồi ở trên, truyền lập hai hàng trái phải các thị nữ khăn áo hơn trăm người, huy hoàng đẹp đẽ, áo quần rực rỡ, vẻ rồng mắt phượng, má phấn môi son, tai cầm phiến ngọc, đầu đeo thoa vàng, đi hài lông phượng, lưng thắt khăn hồng. Bên dưới có ba vị quan nam ngồi đó, trái phải đứng hầu hơn ngàn người, áo lân giáp rồng, bào phục huy hoàng, đứng hầu uy lẫm. Cờ xí la liệt, ngựa voi chỉnh tề, xe loan kiệu phương cùng đi, thuyền rồng phân đội.
Tám người đang nấp nghe, thì thấy ba vị nữ quan nói:
– Thật đáng trách bọn cuồng khấu chim chó quân Hồ không biết đất này là nơi Tiên đế mở nền, tạo nên nước Nam. Đất có linh thiêng, khí lành đều do tạo an bài. Do vậy mà các nơi đều hận quân Hồ, nhưng không nên trách dân ta mà gây họa. Nay quân thủy phủ của ta đã trả hận quân Hồ. Còn nhân dân thì không được quấy nhiễu. Quân tôm cá hãy quay về thủy phủ để dân được yên.
Lời nói chưa dứt thì tám người đều phục trước sân mà bái tạ. Bỗng thấy một tiếng động rất lớn tựa như sấm sét giáng xuống mặt đất, rồi dần dần tự biến mất. Từ đó một vùng địa giới đều yên. Tám người quay về đất cũ (tức chợ Tiên Cát), gìn giữ nơi đất đó, năm tháng cùng phụng thờ.
Cho đến khi ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu có người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa, ba ngàn thần hổ Lam Sơn tiễu trừ họ Hồ, bình định người Ngô. Lên ngôi vua ở Lam Sơn, niên hiệu Thuận Thiên (tức Thái tổ Cao Hoàng đế). Khi đó đất trang Tiên Cát chỉ có 8 nhà ở đó, mới làm bài tấu lên vua về việc quân Hồ đục phá ngựa đá, voi đá ở đền, lại thấy việc linh thiêng như thế. Vua nghe lời tâu đó, lệnh cho quan đến nơi làm lễ cầu đảo (làm lễ năm Kỷ Mùi, mồng 9 đến mồng 10 tháng 10). Nhân dân đều đến ở Gò Đá mà tế lễ. Bèn mổ lợn đen, rượu ngọt, bánh dày cùng với trăm trứng. Từ mồng 9 đến mồng 10 làm lễ thì gió sấm nổi lên, mây mưa mù mịt. Trước sông (tức sông Thao) mây nổi bay trên mặt nước, hơn ngàn đám mây bay ngang dọc trên sông, rồi tiến thẳng vào trong cung đền. làm lễ tế xong thì mây mưa tự nhiên ngừng hết. Bốn phương thanh bình, quang đãng. Nhân dân đều sợ phục. Tới ngày 11 lại tế tạ. Ca múa tới ngày 15 làm lễ. Tạ xong thì mưa gió nổi lên một hồi rồi ngừng. Quan quay về tâu lên. Vua bèn gia phong mỹ tự:
– Phong Đệ nhị Thuỷ Tinh nương Hai Uy linh Đại vương
– Phong Đệ nhất Ngọc Tinh nương Cả Linh ứng Đại vương
– Phong Đệ tam Bạch Hoa nương Ba Hiển linh Đại vương
– Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương An dân Đại vương
– Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long vương Hùng tài Đại vương
– Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long vương Đại vương.
Trang Tiên Cát phụng thờ 6 vị.
Lại nói, từ khi Lê Thái tổ Hoàng đế truyền qua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, qua Minh Tông đến Chiêu Tông lên nắm quyền. Khi đó họ Mạc tiếm ngôi xưng vương, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Minh Đức, kế thế con cháu 5 đời làm vua.
Tới Lê Trang Tông cùng với đại thần là Thái úy lại khởi nghĩa binh. Niên hiệu Nguyên Hòa năm Quý tỵ quan Thái úy tôn phù nhà vua, dời đến cảnh Ái Châu, truyền các tì tướng gửi hịch chiêu dụ các xứ ở Bắc thành, lại đi thuyền đến đạo Sơn Tây, giả làm thuyền buôn. Đi tới sông Thao, thuyền qua trước đền (tức đền Tiên Cát) gặp ghềnh chặn, thuyền không thể đi được. Gió lớn thổi đến, sóng to trên sông, làm cho thuyền gần bị lật. Tướng cầm quân ngẩng lên nhìn bỗng thấy đền thờ rực rỡ. Ngay hôm đó (mồng 3 tháng 8) bèn đậu thuyền làm lễ, cầu đảo khấn rằng:
– Gia thần tuân theo mệnh lớn, chiêu dụ người tài, tiễu trừ giặc mạc. nếu phục hồi được nhà Lê Nguyễn, nguyện xin âm phù cho thông đường thủy và bảo toàn quân đội.
Khấn xong tự nhiên yên bình. Các thuyền tự thoát, thuyền đi như bay. Thuyền lên đến trang Tằng Động huyện Thanh Ba thì thấy mưa gió tập trung chỗ dân địa phương. Bèn đóng quân trong ba ngày. Hôm ấy (mồng 6 tháng Giêng) nhân dân ở đó với quân Lê cùng mơ thấy hai cánh binh mã tiến vào trong dân, nói rằng:
– Ta là Chàng Út Long vương Thuỷ thú cùng với Chấn cung Thần quan tuân theo mệnh vua âm phù cho mệnh nước, bảo hộ nhà Lê. Nay đến nơi dân đây còn chưa định làm lễ sao?
Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mơ. Quân sĩ và nhân dân địa phương đều sợ hãi. Hôm đó (mồng 10 tháng Giêng), lập đàn cầu tế (ngày sau ở đất này đều lập miếu phụng thờ).
Một hôm quân Lê lại quay về huyện Tam Nông xứ Hưng hóa, vào ở tại đất trang Thọ Xuyên, bị quân Mạc vây hãm. Ba ngày sau quân Lê trước khi xuất hành mới cầu đảo bách thần phù hộ. Tự nhiên gió Tây lớn nổi lên, mây mưa bao phủ theo dòng nước mà vào cả khoảnh nơi đó, tất cả thành một dòng suối lớn chảy phá vào. Quân Mạc đại bại, chạy tán loạn. Quân Lê cùng xuất toàn quân, quay về Ái Châu (sau trang Thọ Xuyên lập miếu phụng thờ Thủy thần Đại vương, cùng với 5 vị và một vị công thần nhà Lê cúng tế).
Lại nói khi đó vạn dân quản chặt, bốn phương khói bụi, nước có 2 vua trị vì, dân không có ngày nào là yên nhàn, gọi là thời một nước hai vua. Hơn 60 năm sau, Trang Tông lệnh cho Thái úy thống lĩnh hai quân thủy bộ đi dẹp giặc Mạc. Thái úy bái tạ, xuất quân thẳng đến đóng ở các huyện Phù Khang, Bạch Hạc, Phúc Lộc của đạo Sơn Tây, lập các đồn lớn ở châu Trường Sa, vân Thủy, dựng đàn dâng hương cầu đảo trăm thần âm phù trừ Mạc, giúp nước cứu dân. Sau này được thanh bình sẽ tâu lên vua tăng phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, vạn năm hưởng thờ.
Khấn xong tự nhân mây mù nổi lên, mờ mịt trong ba ngày. Thái úy ngồi ở nơi đàn thiếp đi mộng thấy trăm thần nam nữ cùng đến, sơn thủy cùng về, qua giáp khắp trời, cờ xí rợp đất, đến trước Thái úy, hoặc chào hoặc bái, xưng họ xưng tên. Thái uy trong mộng không ghi nhớ hết được. Bỗng nghe ở hướng Đông Nam có một tiếng sét động. Thái úy giật mình tỉnh lại mới biết là mộng. Lại thấy mây mờ bay tản đi, trời ban ngày rạng sáng. Thái úy cho rằng đó là điềm trung hưng, bèn lệnh lấy đồ văn phòng tứ bảo cứ theo trong mộng mà ghi lại tên hiệu các thần lên lụa để chép lại việc này. Hôm đó lệnh cho quân sĩ mổ trâu, khấn tạ trăm thần, khao hưởng tướng sĩ.
Ngày sau chia binh đến dẹp giặc mạc, đại chiến một trận ở đất Phấn Thượng, huyện Phúc Lộc, máu chảy thành sông, xác chất thành núi. Giặc Mạc thua to, chạy lên mạn Bắc, đến nơi mở trường chọn kẻ sĩ, chặn giữ biên phương, không thể dẹp hết được. Thái úy về thành Thăng Long, giải giáp ngừng binh, làm biểu tâu thắng trận, xin vua về thành. Trang Tông hôm đó xa giá đến thành Thăng Long, thưởng cho ba quân, gia phong tướng sĩ. Phong cho ông là Thái úy Hưng Quốc Công thần. Ông tuổi đã già, có ý muốn nghỉ ngơi, bèn dâng biểu tấu với vua xin các việc quốc gia lớn nhỏ giao cho con rể họ Trịnh. Trang Tông đồng ý.
Trang Tông bèn lập Thái tử, sau là Trung Tông Vũ Hoàng đế, niên hiệu Thuận Bình, sau đổi thành Thiên Hựu, là con trai của Trang Tông. Trung Tông kế truyền ngôi cho Tuấn Hoàng đế, húy Hàn trác, ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, niên hiệu Chính Trị. Khi đó có đại thần họ Trịnh phò tá, lập kỷ cương đất nước, bày chế trong ngoài. Sau Thế Tông truyền ngôi cho Nghị Tông, niên hiệu Hồng Phúc, sau đổi là Gia Thái, lại đổi là Quang Hưng, chính là con trai của vua Chính Trị. Khi ấy giặc Mạc trong nước đã diệt. Nhà Lê lại bắt đầu ngôi chính thống.
Từ đó thiên hạ thái bình, triều đình vô sự. Nhà Lê là chủ, họ Trịnh là vương, ban bố hai bộ Công và bộ Lễ đốc lệnh cho huyện doãn cùng các dân phu các xã xây dựng lại điện đình ở địa phương nơi xã Phấn Thượng, cung phụng thờ các vị vua chủ cùng các vị chư thần, lấy xã đó làm trưởng tạo lệ. Lại tiến phong các mĩ tự cho trăm thần sơn thủy nam nữ đã âm phù giúp nước, cùng luận công mà thưởng tước lộc, ban thêm cho những người có công. Công mãi mãi là thức lệ cùng với nước trường tồn. Thật thịnh thay!
Lại nói, khi đó lại phong mỹ tự cho trang Tiên Cát. Lúc ấy chỉ có 8 người về ở đó từ khi cuối họ Hồ, cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi các đời sau của 8 người đó đều sinh con cháu cùng với vợ chồng. Những người sau đều ở phụ đó, phong tục nhân dân chất phác đôn hậu, giàu mạnh, đinh dân khỏe mạnh. Bèn chia đều thành 8 giáp cùng phụng thờ nơi tiền cung khi thần còn sống (tức cung Tiên Cát, nơi Thứ phi ngày trước ở đó, sau đổi thành làng), hậu cung là chính nơi hóa của thần (tức xứ Gò Đá, là lăng của Thứ phi, gọi là đất thủy phủ hội đồng). Sau Lê Trang Tông lại tiến phong nhiều mỹ tự.
Vâng ơn chính triều nay có phong tặng là Đương cảnh thành hoàng Linh phù Thượng thần, gia tặng là Thục diệu Tối linh thần, gia tặng là Hoằng hợp Tối linh thần, gia tặng là Dực bảo Trung hưng chi thần.
Nhất thiết húy cấm các chữ Cả, Hai, Ba, Ngọc, Hương, Bạch, Anh, Cự, Linh, Ất, Thông, Thuỷ, Chàng.
Bảo Đại năm thứ 13 ngày tháng 3 tuân sao chính bản.
Vâng sao đệ trình bởi Lý trưởng làng Tiên Cát Nguyễn Văn Tản.
Sau thời đẻ đất, đẻ nước, đẻ người, dân mường có vua, có cuộc sống ấm no, xã hội người Việt Mường cổ bước sang thời kỳ phụ đạo, cha truyền con nối. Những xung đột giữa các tộc người trong thiên hạ cũng nảy sinh, tranh giành vị trí thủ lĩnh đứng đầu đất nước.
Cuộc đấu tranh giữa 2 dòng lên núi và xuống biển của người Việt Mường bắt đầu từ đây.
Ngũ tộc Tản Viên
Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể rằng, Lang Cun Cần lấy tất cả tới 5 người vợ. Đầu tiên là lấy nàng Vạ Hai Kịt, là người cùng sinh ra từ trứng Chiếng, đẻ ra 12 chàng Ma ếm, tức không phải là những thủ lĩnh cộng đồng (Cun). Thứ đến Lang Cun Cần lấy nàng Vậm Đầu Đất, là con vua Bình Lạc, đẻ được Cun Đồi. Sau đó Lang Cun Cần lại lấy nàng Vật Đầu Nước, sinh được Cun Đàng. Đám cưới to nhất của Lang Cun Cần là lấy nàng Ả Sao Ả Sáng, con ông Vua Trời. Ngựa chín hồng mao đưa Lang Cun Cần đi rước vợ. Ả Sao Ả Sáng sinh được Cun Khương. Cuối cùng Lang Cun Cần lấy Ả Gái nuôi trong mường, không phải lễ lạt đưa đón gì, sinh ra Tóng In.
Câu chuyện về Lang Cun Cần lấy 5 vợ là sự kiện Tản Viên Sơn Thánh đã thành công trong việc hợp nhất 5 tộc người ở Ngũ phương, xây dựng Ngũ thần cung điện ở vùng Ngũ Lĩnh, tức vùng Sơn Tây ngày nay. Đầu tiên, như đã bàn trong bài trước, nàng Vạ Hai Kịt đại diện cho dòng Tiên tộc của Tây Thiên Quốc Mẫu và Ất Sơn Hùng Vương Thánh Tổ ở phía Nam xưa (phía Bắc nay). Trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh đó là dòng của bà Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ, người đã di chúc quyền cai quản đất nước cho Sơn Thánh.
Trong việc nàng Vậm Đầu Đất sinh ra Cun Đồi, xét những từ Đất và Đồi thì đây là dòng tộc vùng miền núi ở hướng Tây, tức là Cửu Lê tộc. Còn trong chuyện nàng Vật Đầu Nước sinh ra Cun Đàng, những từ Nước và Đàng chỉ ra rằng đây là dòng tộc ở vùng đồng bằng, tức là dòng Lạc tộc. Chữ Lạc vốn nghĩa là Nác – Nước.
Người vợ thứ tư của Lang Cun Cần là Ả Sao Ả Sáng, con vua Trời, tức là dòng tộc nối tiếp vua Dịt Dàng và Tá Cần ở phương Bắc xưa (phương Nam nay), gọi là Viêm tộc. Chi tiết đặc biệt là Lang Cun Cần đưa ngựa chín hồng mao đi rước Ả Sao Ả Sáng, cho thấy đây là chuyện Tản Viên Sơn Thánh lấy công chúa Mỵ Nương, con gái vua Hùng trong truyền thuyết Việt.
Ả Gái nuôi trong mường chỉ tộc người bản địa của nơi Lang Cun Cần sinh sống, tức là tộc người ở vùng trung tâm của đất nước. Xét vậy thì Tóng In, con của Ả Gái nuôi, mới là người con trưởng của vùng đất Lang Cun Cần đang cai quản. Truyền thuyết Việt kể đó là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương với Long Nữ Động Đình.
Dưới thời Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh người Việt Mường đã thống nhất 5 tộc người ở 5 phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung tâm, được hình tượng hóa trong sử thi Mường là việc Lang Cun Cần lấy 5 vợ, sinh ra 4 vị Cun. Tiếp theo, có sự phân chia lại phương vị của các tộc người này bởi sự chia đất của Lang Cun Cần và quá trình tranh giành giữa các Cun với nhau.
Sơn Tinh – Thủy Tinh
Khi Lang Cun Cần chia đất cho các con, tuy nói chia đất phải chia bằng nhau cho khỏi mất lòng con sau, con trước, nhưng thực tế thì:
Cun Đồi được chia đất Khấm Ngang
Cun Tàng được chia đất Khấm Dọc
Ruộng sâu, ruộng nông chia cho Tóng In.
Còn men ruộng mạ nhỏ bằng tai khỉ, chân đất xấu nhỏ như tai mèo… thì chia cho Cun Khương. Cun Khương tức giận, chạy về nhà ngoại kêu khóc. Nhà ngoại khuyên nhủ, Cun Khương về chăm chỉ làm ăn, trở nên giàu mạnh.
Tóng In được vùng đất nhiều ruộng tốt nhất nhưng mải chơi nên bị đói, phải đến xin ăn nhà Cun Khương mấy lần. Cuối cùng Cun Khương không cho nữa. Tóng In lôi kéo Cun Đồi, Cun Đàng đem quân đánh Cun Khương. Cun Khương bỏ chạy, nhờ bên ngoại là nhà trời giúp, làm hạn hán đồng cạn xơ xác, rồi lại làm mưa to dầm dề, ngập bờ ngập bụi. Cun Khương bắt ép Cun Đồi, Cun Đàng phải giết Tóng In mới chịu về ngừng làm ngập lụt.
Tóng In chết làm ma ruộng, ôm hận thù, bèn tập hợp ma rắn, ma lửa, ma mỏ vàng… đánh lại Cun Khương, Cun Đồi và Cun Đàng. Tóng In thua, lại lặn xuống Thủy phủ với Long Vương, kêu xin Vua Nước. Vua Nước bèn cho Tóng In làm Ma May cướp đường, Ma Lang giữ sông giữ bến. Tóng In có vằn lưng cá chép, áo vây cá mè, đầu cá trê, mắt cá ngạo, lại có mào đỏ to, lưng rồng uốn éo. Tóng In sai tướng Ba Ba bắt Cun Đồi, Cun Đàng phải chịu chết. Cun Khương ra trận đánh nhau với Tóng In, chém chết rồng. Từ đó Ma Ruộng đã ngăn, Ma May Ma Lang đã diệt…
Trong cuộc tranh chấp lần đầu, Cun Đồi, Cun Đàng theo Tóng In đánh Cun Khương. Dòng lên núi là Cun Khương thua, phải chạy trốn về bên ngoại nhà trời. Tóng In trở thành người cầm đầu mường. Đây là chuyện Lạc Long Quân, con trai của Kinh Dương Vương đã đánh đuổi Đế Lai, con của Đế Nghi, về Bắc được kể trong Truyện họ Hồng Bàng. Lạc Long Quân làm vua Thủy phủ, cai quản toàn bộ vùng thấp gồm ruộng đồng, sông biển, hoàn toàn tương ứng với việc Tóng In làm Ma Ruộng rồi Ma May Ma Lang. Sử thi Mường còn mô tả rõ Tóng In hóa Rồng có vằn, có vảy, có mào ở Thủy phủ Long cung. Chữ Tóng có thể là phát âm khác của chữ Đông vì dòng Long Vương Thủy phủ ở hướng Đông ra biển.
Khác với người Kinh ở miền xuôi, người Mường là bộ phận người theo dòng lên núi nên không tôn thờ vua cha Lạc Long Quân của dòng xuống biển. Ngược lại, trong sử thi Mường khắc họa hình ảnh của Tóng In khá phản diện, từ việc mải chơi đến mức phải đi xin ăn, rồi hóa thành ma ruộng, ma sông, ma biển dữ tợn, gây hại cho mường.
Bộ 3 Cun Khương, Cun Đồi, Cun Đàng của dòng lên núi làm thành Tam Vị Tản Viên gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh, mà Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các vị Sơn Tinh. Tóng In làm Ma Ruộng, rồi Ma May Ma Lang của Thủy phủ, chính là Thủy Tinh. Ma May Ma Lang tương ứng với Linh Lang, là tên gọi khác của Long Vương Thủy phủ, hay của các vị xuống biển cai quản vùng sông nước, như Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các “Thủy thượng Linh thần”.
Cun Đồi, Cun Đàng của 2 vùng đất Ngang và Dọc đại diện cho chư hầu các nơi ở trên cao (Đồi) và dưới thấp (Đàng). Ban đầu các chư hầu theo dòng xuống biển là Tóng In, đuổi dòng Cun Khương phải chạy trốn lên núi về phía Tây. Sau này, các chư hầu lại theo về với dòng lên núi của Cun Khương, đánh lại dòng Thủy phủ Long quân của Tóng In.
Cuộc đấu tranh giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh, giữa Cun Khương – Tóng In, được mô tả rất ác liệt, dai dẳng nhiều năm, qua nhiều lần đụng độ. Hai bên đều có nhiều thương vong. Ban đầu dòng xuống biển của Long Quân thắng, nắm đại quyền thiên hạ. Cuối cùng về sau, dòng lên núi của con cháu Đế Lai là Âu Cơ quay trở lại, đánh thắng dòng xuống biển, trở thành vua Việt (Dịt Dàng).
Lang Cun Cần – Kinh Dương Vương dựng nên thiên hạ, rồi chia đất cho các con, dẫn đến xung đột tranh giành giữa các dòng tộc. Thời kỳ này dân mường không chọn người có tài có đức ra giữ binh mường như trước nữa, mà bắt đầu chế độ phụ hệ, cha chia quyền cho con, rồi con trưởng con thứ tranh chấp, bên nào mạnh thì chư hầu các nơi phục theo. Mốc lịch sử 4.000 năm của người Việt Mường được xác lập chính là tính theo thời kỳ thị tộc phụ đạo từ Lạc Long Quân – Tóng In.
(Còn tiếp)
Đền An Trì ở bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội, thờ Uy Linh Lang thủy thần.Nhà tiền tế đền Và, Sơn Tây.Miếu Đầm Đượng ở Thụy Phiêu, Ba Vì, nơi thờ diễn ra cuộc chiến ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.Đình Kẻ Đầm ở Sơn Đông, Sơn Tây, là nơi đầm nước rộng lớn của Đồng Mô, nhưng vẫn thờ Tản Viên Sơn Thánh.Đền Thượng ở Đan Thượng, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi thờ Cao Sơn Đại vương.Tế lễ hội đền Và, Sơn Tây.Nghi môn đền Và – Đông cung Tản Viên ở Sơn Tây.Đình Yên Phụ ở hồ Tây, Hà Nội thờ Linh Lang Đại vương và 2 người em cùng là thủy thần hồ Dâm Đàm.
Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với các nấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới. Một triều đại mới lập nên kèm theo việc định cư người dân ở các vùng đất mới dưới một chế độ quản lý mới. Đây cũng là những mốc phát triển cương vực của nước ta trong thời đại Hùng Vương.
Những cuộc di cư, phân chia đất đai lãnh thổ được nói tới khá rõ ngay trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả. Trước tiên đó là cuộc chia tay lịch sử giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.
Người con trưởng là Hùng Quốc Vương theo mẹ Âu Cơ lập nước Văn Lang, lên ngôi vua: Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ.
Như thế, các vị sơn thần và thủy thần đều là những người con cùng bọc đồng bào đã chia ra trăm nơi đầu non góc bể trấn giữ, rồi mới hóa thần. Dấu vết của cuộc “đại phong thần” thời Hùng Vương này còn in đậm lưu truyền tới ngày nay qua các di tích thờ phụng các vị sơn thần thủy thần trải khắp từ miền trung du đất tổ Phong Châu tới vùng đồng bằng sông Hồng ven biển. Lần theo các di tích đền miếu còn lại và những sự tích lưu truyền có thể phục dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những cuộc chiến và di cư ở mỗi giai đoạn dựng nước.
GIAI ĐOẠN SƠN TRIỀU HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ
Câu đối ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh khái quát về giai đoạn “có tổ” của người Việt: Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn. Dịch: Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.
Hữu Hùng Đế Minh mở vạn bang chư hầu thiên hạ
Huyền sử Việt bắt đầu bằng Truyện Họ Hồng Bàng có Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên mà sinh ra Lộc Tục… Còn Đại Việt sử ký toàn thư mở đầu bằng câu “Thủa Hoàng Đế mở muôn nước”, nói tới cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên với Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, được huyền sử Việt chép là Đế Minh.
Ba vị quốc tổ Hùng Vương được thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và khắp các nơi trên vùng đất tổ Phong Châu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn Tây) là:
Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh Vương;
Viễn Sơn Thánh Vương;
Ất Sơn Thánh Vương.
3 vị Sơn Thánh là 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời Hồng Bàng, có trước thời Lạc Long Quân nên tương ứng đó là các vị Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục như kể trong Truyện họ Hồng Bàng.
Cuộc chiến lập ra thiên hạ Họ Hùng đầu tiên được lưu truyền rõ nhất trong sự tích vùng núi Tây Thiên.Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên đã hội quân ở Đại Đình dưới chân núi Tam Đảo, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng đầu tiên là Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất. Công Cha như núi Thái Sơn ở Nghĩa Lĩnh – Phong Châu. Nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) của Tam Đảo chảy mãi không ngừng.
Tam vị Thánh Tổ họ Hùng được thờ rộng khắp trên miền đất tổ Phong Châu mà trung tâm là núi Hùng Nghĩa Lĩnh ở Việt Trì, mở ra miền ngược ở Thanh Ba, Hạ Hòa, Yên Bái, hay sang phía Đông qua sông Lô tới Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.
Xuôi sông Hồng, di tích thờ Hùng Vương Thánh Tổ ở đồng bằng phía Nam không nhiều, nhưng có thể kể đến: đình Đống Long ở xã Hòa Lâm, Ứng Hòa, Hà Nội thờ Đột Ngột Cao Sơn; đền Khả Phong ở Kim Bảng, Hà Nam thờ vua Hùng Cao Sơn, các đền ở xã Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình thờ vọng quốc tổ Hùng Vương. Ở nội thành Hà Nội từng có đền thờ vua Hùng, nay là đền Dâu (Thuận Mỹ) tại phố Hàng Quạt. Ngoài ra đáng kể là một số các đình ở ngay giữa khu phố cổ Hà Nội như đình Kim Ngân thờ Hiên Viên Hoàng Đế với tư cách là tổ bách nghệ.
Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn
Tiếp theo thời kỳ Sơn triều mở nước của 3 vị Thánh tổ Hùng Vương là thời kỳ của Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, gặp và lấy mẫu Thần Long Động Đình. Chuyện này cũng là việc Tản Viên Sơn Thánh cùng vui với các loài thủy tộc ở bộ Gia Ninh và kết thân với Thủy Tinh Động Đình thủy phủ. Kinh Dương Vương và Tản Viên Sơn Thánh đều được gọi là Nam Thiên Thánh Tổ, chỉ cùng một nhân vật trong lịch sử trời Nam.
Là vị Thánh tổ của trời Nam nên số lượng nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh trải khắp miền Bắc, nhưng tập trung nhất là ở vùng Sơn Tây. Nơi đây các di tích thờ Thánh Tản dày đặc thành từng cụm, được biết dưới tên Ngũ thần cung Tản Viên, cũng là vùng Ngũ Lĩnh nơi Kinh Dương Vương đi tuần phương Nam.
Ngũ hành cung Tản Viên hình thành một khu vực “kinh đô” của thời kỳ Kinh Dương Vương, được truyền thuyết gọi là Ngũ Lĩnh. Mỗi một “Lĩnh” hay một “thần cung” là một khu vực, trong đó lại bao gồm nhiều các “hành cung”, nay là các đền, đình, di tích thờ Tản Viên Sơn.
Thượng Thần cung: là cụm di tích đền Thượng, đền Hạ, đền Trung ở núi Tản Viên. Đây là nơi thờ các bậc tiên tổ Thái Bạch Kim Tinh, Ma Thị Cao Sơn, Quốc mẫu Đinh Phi.
Hạ Thần cung: là khu vực thấp của vùng Bể Cạn (Hạc Hải) xưa, với các di tích như đình Thụy Phiêu, Văn Khê. Đây là nơi diễn ra cuộc giao chiến Sơn Tinh với Thủy Tinh.
Trung Thần cung: là vùng “hạ điền” (ruộng hè) xưa, gần với ngã ba Bạch Hạc, được thần tích gọi là vùng Cổ Đằng, Tam Vật Lại. Vùng này là nơi Thánh Tản dạy dân cày cấy, đánh cá, chăn nuôi…
Tây Thần cung: là vùng giáp sông Đà với các di tích Ngọc Nhị, Bằng Tạ, Khê Thượng. Đây cũng là nơi có bãi Trường Sa (bãi dâu Tang Ma), chốn Sơn Tinh cứu sống con rắn thần Thủy Tinh và cũng là chuyện Kinh Dương Vương gặp Thần Long Động Đình.
Đông Thần cung: nổi tiếng được biết là đền Và, cùng với đền Ngự Dội ở bên kia sông Nhị. Đây là nơi yết triều của Kinh Dương Vương.
Nam Thần cung: là vùng Thánh Tản đi săn ở xứ Mường Mang Sơn, Quang Diệu.
Bắc Thần cung: vùng phía bên kia sông Hồng, với những di tích như đền Thính, đền Tranh ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
Từ vùng kinh đô Ngũ Lĩnh này Kinh Dương Vương – Tản Viên đã khai mở quốc gia về các hướng Đông Tây Nam Bắc, cùng với “Tứ phủ Công đồng đi tuần trong nhân gian“, thực sự đã làm nên một cuộc “Đẻ Đất Đẻ Nước” trong lịch sử nước Xích Quỷ thời đầu Kinh triều.
Ở vùng phía Nam sông Hồng, di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh có thể kể đến khu vực Ứng Hòa, Hà Tây cũ; quần thể đền Tam Thôn gồm đền Kê Thượng, đền Kê Hạ và Miễu Sơn ở xã Ninh Vân của Hoa Lư, Ninh Bình. Việc thờ Thánh Tản ở vùng Hà Nam và Nam Định thường là thờ cùng trong bộ ba Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
Một điểm đặc biệt của khu vực đồng bằng Nam sông Hồng là tục thờ thần Hậu Tắc, nhất là ở vùng hành cung tịch điền thời Lý Trần tại xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định. Về Hậu Tắc có câu chuyện bà Khương Nguyên sinh con ra bỏ trong rừng, được muông thú che chở nuôi nấng, chính là một cách kể khác của truyền thuyết về Kỳ Mạng Tản Viên Sơn Thánh. Hậu Tắc được nhà Lý tôn là Thiên Tổ Địa Chủ Xã Tắc Đế Quân, là vị Đế Tổ sánh ngang thời với Kinh Dương Vương mở nước.
Ngũ Lĩnh và Động Đình.
GIAI ĐOẠN KINH TRIỀU LẠC LONG QUÂN
Câu đối ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình): Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh. Dịch: Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.
Cuộc tranh đoạt giữa Lạc Long Quân và Đế Lai
Sau thời Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã đi nốt chặng đường khởi dựng nhờ hòa hợp 4 tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc trong chuyện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân nhờ sự hỗ trợ của dòng tộc bên mẹ ở Động Đình (biển Đông) đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng Hữu Hùng phương Bắc là Đế Lai.
Truyện Họ Hồng Bàng mô tả cuộc chiến này: “Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.”
Cuộc chiến cách nay 4000 năm này đã khởi đầu thời kỳ thị tộc phụ đạo và còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua Cha của Thoải phủ, đã tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.
Nếu vùng Phong Châu là vùng đất tổ với tục thờ các vị Hùng Vương Sơn Thánh thì vùng đồng bằng Nam sông Hồng lại là khu vực đậm đặc các di tích thờ các vị thủy thần của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống khai phá miền biển Động Đình. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết Lạc Long Quân “hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân” nên đức vua cha Bát Hải Động Đình của Thủy phủ chính là Lạc Long Quân. Đền thờ chính của Bát Hải Động Đình là đền Đồng Bằng ở Thái Thụy, Thái Bình. Gắn liền với vua cha Bát Hải là Ngũ vị Tôn quan, mà điển hình nhất là Quan Đệ Tam ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên, Hà Nam) và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương.
Trong Truyện Hồ Tinh thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây trong Hà thư. Dòng tộc của Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là Thục (từ “thục” trong tiếng Nôm có nghĩa là “chín”, đồng âm với số 9, chỉ hướng Tây).
Câu chuyện về Thánh Tam Giang ở Ngã Ba Bạch Hạc thi tài giữa thần Thổ Lệnh và Thanh Khanh cũng chính là giữa Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Thổ Lệnh được thờ ở vùng Thường Tín, Phủ Lý với tên Trung Thành Phổ Tế Đại Vương, với sự tích gắn với Ngã Ba Bạch Hạc rất rõ như kể ở đền Đa Chất (Phú Xuyên).
Xuyên suốt từ Ngã Ba Hạc ra tới cửa Ba Lạt là tục thờ Linh Lang Đại Vương tuy bị chép vào nhiều thời kỳ khác nhau, từ thời Hùng chống Thục ở Vụ Bản, Nam Định, tới thời Lý, rồi thời Trần. Thực ra tất cả chỉ có 1 vị Linh Lang thời Hùng Vương đã đánh Thục thắng lợi như trong thần tích ở Duyên Trường, Vụ Bản, Nam Định. Linh Lang chính là Lạc Long Quân, người đã thắng trận chiến tranh giành quyền lực với dòng lên núi của Đế Lai. Linh Lang là vua của Thủy phủ Động Đình, lấy hồ Dâm Đàm làm kinh đô của Thủy quốc. Các di tích thờ Linh Lang chạy dọc theo sông Cái từ Hồ Tây – Thanh Trì – Lý Nhân ra đến tận Thái Bình và cửa Ba Lạt.
Thế tộc Tản Viên.
Một vị thủy thần phổ biến khác là Quý Minh, thường chép là Hữu kiên thần trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh với xuất xứ từ vùng bãi dâu Tang Ma bên sông Đà, có mang danh là Lãng Nhạc Quý Minh, chỉ rõ là dòng Thủy thần. Nhiều nơi Quý Minh được phong là Đông Hải Đại vương cũng chứng tỏ điều này. Ngay cái tên Trần Quý Minh như ở đền Nội Lâm tại Hoa Lư cũng mang nghĩa là vị thần trấn Đông (vì Trần là Đông A), hay thủy thần vùng ven biển Đông. Tương tự chuyện Linh Lang đánh Thục, Quý Minh chống Thục là cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân chống lại dòng Đế Lai. Quý Minh có thể chính là Lạc Long Quân hoặc người em thứ 3 cùng bọc, tức là Quan Đệ Tam Thoải phủ.
Phổ biến ở Hà Nam và Nam Định thờ vị thủy thần Câu Mang Đại Vương, cũng là một trong Ngũ phương Đế của Đạo Giáo. Ngũ đế của Đạo Giáo có thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thượng đế, Đông Hải quân. Có thể thấy thần Câu Mang hay Cao Mang tương đương với Đông Hải Quý Minh.
Còn nhiều hình thức thờ các vị Thủy thần khác ở vùng đồng bằng Nam sông Hồng bởi đây là khu vực của Thủy quốc Động Đình vào thời 4000 năm trước, khi nước sông và biển đang rút dần, mở ra vùng đầm phá, nơi con người có thể sinh sống, làm nghề đánh cá, sống lênh đênh trên sông nước. Đặc điểm chung của các thủy thần thời này là có xuất thế là Rắn hoặc Rồng, từ cùng một bọc 2, 3 hay 5 trứng, nở ra các vị tướng có công chống giặc Thục hoặc giặc Hồ, hoặc có sự tích giúp dân hộ đê hoặc cầu mưa. Không ít nơi kể chuyện ông Dài ông Cụt, khi có 1 vị thủy thần anh em đó bị mất đuôi.
Sự kiện rồng Lạc “cụt đuôi” có thể giải thích chính là trong truyện về Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử như một giai đoạn ngắt quãng của Lạc triều khi cướp công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng làm chủ một phương, rồi bay về trời. Di tích thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở Nam sông Hồng chủ yếu gần ven sông như khu vực bãi Tự Nhiên ở Thường Tín, đền Lảnh Giang ở Duy Tiên, Hà Nam và một số di tích lân cận, tới tận Ý Yên, Nam Định..
Những vị thủy thần ở vùng Nam sông Hồng có thể kể đến 5 anh em Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Xuyên, Quảng Tế, Quảng Hóa ở khu vực Duy Tiên – Cầu Giẽ – Chương Mỹ, hay Tam Lang Long Vương từ trên khu Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) xuống Vụ Bản (Nam Định), các vị thủy thần trong đình Công Đồng ở làng Tiên Lý (Bình Lục, Hà Nam), đình Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín)…
Cuộc chiến về lại đất Lạc của Thục Chúa
Dòng tộc Đế Lai di dời về phía Tây, trải qua gần ngàn năm tới thời “Hùng Vương 18” đã trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Chúa phát động một cuộc đại chiến mà các Ngọc phả về Tản Viên Sơn ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với quân Thục lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương.
Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Thái tổ Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của dòng sơn thần theo Mẹ lên núi của người Việt.
Âu Cơ được thờ chính ở đền Hiền Lương tại Hạ Hòa, Phú Thọ, và một vài nơi khác ở miền xuôi như đền Thuận Mỹ ở Hà Nội, đình Ngọc Trục ở Đại Mỗ, Hà Tây xưa.
Cuộc chiến Âu – Lạc là nền tảng lịch sử cho việc thờ các vị Lạc tướng Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.
Trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh thì Tả kiên thần Cao Sơn còn được gọi là Nộn Nhạc Cao Sơn, là Sơn thần nên chỉ thỉnh thoảng bắt gặp một số di tích thờ ở vùng Nam sông Hồng. Làng Trung Kính Thượng tại Hà Nội thờ Hùng Nộn Công là một hình thức của Nộn Nhạc Cao Sơn Đại vương. Một số di tích ở Ninh Bình thờ Cao Sơn là Lạc tướng Vũ Lâm cũng có thể được nhận định là ở thời kỳ này.
Các vùng di tích Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
Vùng Phong Châu gặp nhiều di tích thờ Cao Sơn và các vị tướng chống Thục hơn bởi vì nơi đây đã diễn ra cuộc đụng độ giữa dòng Hùng Vương và Thục Vương trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Ví dụ:
Ở Quế Nham (Đồng Quế, Sông Lô, Vĩnh Phúc) thờ 4 vị đại vương là danh tướng theo Sơn Thánh đánh Thục.
Ở Hương Lan (Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ) thờ 3 vị Chàng Chấu Linh Lang đại vương, là tùy tòng hầu kiệu của Duệ Vương.
Ở Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ) thờ Tả hữu kiên thần Cao Sơn, Quý Minh và Cương Trực tướng quân.
Sự kiện Hùng chống Thục thời Cao Sơn Đại vương diễn ra 1000 năm sau cuộc chiến chống Thục thời Quý Minh – Linh Lang, khi đại diện của dòng Thục của Đế Lai xưa là Âu Cơ quay trở lại, đánh bại dòng Lạc từ Lạc Long Quân Sùng Lãm (Sùng cũng nghĩa là Cao nên Cao Sơn còn có tên Nguyễn Sùng), lập nên nước Văn Lang đóng đô ở Việt Trì.
GIAI ĐOẠN THỤC TRIỀU AN DƯƠNG VƯƠNG
Câu đối ở nghi môn đình Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì): Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn. Dịch: Mấy ngàn năm giúp đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.
Cuộc chiến đánh giặc Ân dựng nước Văn Lang
Lễ hội làng Phù Đổng kể Hùng Vương thứ 6 đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Dẫn đầu quân đội nhà Ân lúc này là “28 tướng cường nữ nhung” với các thủ lĩnh là Thạch Linh Thần tướng và Ma Cô Tiên (Ma Lôi), hậu phi của vua Ân. Theo Truyện Giếng Việt, Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương được truyền thuyết Việt gọi là vua Hùng đời cuối (Hùng Duệ Vương), chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng “Bách thần nguyên tự”, phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên Hùng – Thục để ngàn đời hương hỏa.
Thục Vương còn được kể dưới tên Lang Liêu trong Truyện Bánh Chưng, chỉ thủ lĩnh của người Liêu – Lão (Ai Lao Di). Nhờ có lòng hiếu kính tổ tiên, Lang Liêu đã lên nối mệnh trời, lập cột đá ở Nghĩa Lĩnh thề trung thành với họ Hùng của Đế Minh, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ gìn đất nước. Trước đây ở Việt Trì có di tích phủ Lang Liêu ở làng Dữu Lâu, nay được được phục dựng lại.
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể rằng Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời được cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương chính là vua Lang Liêu trong truyền thuyết. Bắt đầu từ đây xã hội Việt bước vào thời kỳ phong kiến phân quyền, hay thời kỳ “Trị bình kiến phu” (trị quốc, bình thiên hạ, kiến lập chư hầu) như chép trong Ngọc phả.
Khu vực phía Nam sông Hồng tuy không phải nơi xuất phát của Phù Đổng Thiên Vương nhưng cũng là nơi xuất tích của khá nhiều vị tướng cùng thời, theo Thánh Dóng diệt giặc Ân. Có thể kể đến anh em Minh Gia, Minh Tôn ở Hiển Khánh (Vụ Bản, Nam Định), Quan lang Hoàng Đào ở Hổ Sơn (Vụ Bản, Nam Định), 3 vị đại vương ở An Lạng (Văn Lý, Lý Nhân, Hà Nam), Cốt Tung ở Liễu Trì, Hạ Lôi, Lý Tiến ở Hà Nội…
Các vị thần nước Âu Lạc
Trong thời kỳ dựng nước Văn Lang đã xuất hiện một số nhân thần được tôn thờ ở vùng Nam sông Hồng. Trước hết đó là Nam Hải Đại vương tức An Dương Vương, như ở Cố Đê, Vụ Bản, ở Lạc Na, Hồng Quang, Nam Trực (Nam Định) hay các nơi thờ vợ, con của An Dương Vương ở Thái Bình.
Tướng quân Cao Lỗ, người giúp An Dương Vương chế tạo nỏ thần cũng được thờ ở một số nơi tại vùng Nam sông Hồng, như ở đình Từ Châu, Liên Châu, Thanh Oai.
Vị thần khác thời kỳ Âu Lạc là Đồng Cổ Sơn thần được thờ rải rác từ Hà Nội (Nguyên Xá, Đông Xã), Nam Định (Vụ Bản) đến Thanh Hóa với sự tích về trống đồng trấn áp giặc Chiêm Hồ và hiển linh giúp vua Lý trong sự kiện Tam Vương.
Một vị nhân thần kỳ lạ đáng kể ở thời kỳ Thục An Dương Vương là Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử Lý Nhĩ Đam mà sự tích ghi quê ở Thúc Lực, Kim Chân tại Hà Nam (Kim Bảng). Thái Thượng Lão Quân được thờ ở đình Phù Vân tại Phủ Lý, chùa Bà Đanh thuộc Kim Bảng, Hà Nam, hay ở động Thiên Tôn Hoa Lư, với sự tích là đã giúp An Dương Vương trừ yêu diệt quỷ xây thành Cổ Loa hoặc chống “giặc” Xích Tị bằng phép thư phù (chữa bệnh dịch).
GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT THIÊN HẠ
Câu đối ở đình Xuân Quang tại Văn Giang, Hưng Yên: Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ. Dịch: Một lệnh dẹp không Tần, vạn dặm mở đầu dứt Mân Lạc Hai ngôi sánh cùng Hán, nghìn năm gây nền vững đế vương.
Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Triệu Trọng Thủy
Truyện Rùa Vàng kể, cuối thời nhà Thục, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Hoàng thế tôn của Triệu là Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Đông Ngàn Cổ Loa của An Dương Vương. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển, chấm dứt thời kỳ tồn tại hơn 800 năm của nước Văn Lang – Âu Lạc. Từ đó bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất thiên hạ của nhà Triệu.
Sử ký Tư Mã Thiên chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương đánh bại Chu Noãn Vương năm 257 TCN, khởi đầu triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, truyền thuyết Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.
Vùng Phú Thọ có cụm di tích thờ hai vị tướng là Hồ Thiên Hương và Đinh Công Tuấn chống lại họ Triệu ở bên sông Thao.
Ở vùng phía Nam sông Hồng không có di tích thờ Trọng Thủy hoặc Mỵ Châu như vùng Cổ Loa. Tuy nhiên, có một số di tích ở vùng Hà Nam, Nam Định thờ các vị tướng của nhà Thục chống lại cuộc xâm lăng của nhà Triệu như ở đền Vĩ ở Cao Viên, Thanh Oai thờ tướng Vũ Chiêu Tâm. Ở Vụ Bản, Nam Định có các tướng của Thục là Cao Đệ và Trì Chân chống lại giặc Triệu.
Về sự hiện hữu của nhà Tần trên đất Việt còn có di tích thờ Đức thánh Chèm là Lý Ông Trọng ở Ninh Sơn, Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, là nơi Lý Ông Trọng đã tử tiết.
Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Vũ Đế
Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu khắp nơi lại nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, lúc này một đình trưởng huyện Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hán Hiếu (Hảo hán).
Lịch sử Việt gọi Hiếu Cao Tổ là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), năm 206 TCN đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm các quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế. Sau khi Cao Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa lại chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) chiếm giữ vùng phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là Lữ Gia. Cuộc đối kháng 2 miền Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.
Cụm di tích thờ Triệu Vũ Đế ở Gia Viễn, Ninh Bình tại các đình Trùng Thượng, Trùng Hạ, Thần Thiệu. Một số di tích thờ Triệu Việt Vương ở Nam Định cũng có thể là thờ Triệu Vũ Đế. Đền Nhự Nương thời Hoàng hậu Trình Thị, vợ của Triệu Vũ Đế tại Nam Trực, Nam Định.
Đặc biệt là cụm di tích ở Mạo Phổ, Lương Lỗ, Thanh Ba và thị xã Lâm Thao, Phú Thọ thờ Triệu Ông Út hay Út Ngọ Lôi Mao, là Việt Tây Vương sau thời Tần. Đây chính là vua Văn Vương nhà Triệu của nước Nam Việt có kinh đô ở Phiên Ngung.
Thay cho lời kết
Các di tích tín ngưỡng dân gian ở nước ta thực sự là kho tư liệu phong phú, đa dạng, độc đáo, đặc sắc, không gì thay thế được đối với những nghiên cứu tìm về lịch sử nguồn cội của dân tộc, từ thời kỳ xa xưa nhất khi xã hội và con người Việt mới hình thành, từng bước từng bước dựng nên non sông vững bền bởi những công sức của các bậc tiền nhân mà đã hóa thành những vị thần trong lòng dân tộc. Đó là cuốn đại sử thi được viết nên từ những di sản vật thể và phi vật thể trong dân gian qua suốt chiều dài lịch sử.
Tìm hiểu, so sánh đối chiếu, tổng hợp khái quát vào kho tàng sử liệu dân gian cho phép phát hiện, nhận diện ra từ những chi tiết lịch sử đến cả tiến trình phát triển xã hội trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử thật sự của dân tộc bị khuất lấp trong lớp bụi mờ của thời gian nhưng không mất đi, mà lịch sử đó vẫn đang sống cùng với nhân dân trong từng di tích, từng sự tích, từng lễ hội ở mỗi làng quê miền xuôi cũng như miền ngược. Bảo tồn di tích, nhìn nhận lại quá khứ là sự thôi thúc đối với mỗi người dân đất Việt, để hướng đến tương lai một cách tự tin hơn, vững chắc hơn.
Trên cơ sở phân tích các thần tích, ngọc phả và đối chiếu các di tích thờ cúng các vị thần ở nước ta, thời đại Hùng Vương có thể được diễn đạt qua 4 giai đoạn như trong sơ đồ sau.
Bốn giai đoạn của thời đại Hùng Vương.
Tài liệu tham khảo
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, Thích Tâm Hiệp. NXB Lao động, 2022.
Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, NXB Lao động, 2022.
Lĩnh Nam chích quái. Trần Thế Pháp; Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận chính. Bản in của NXB Văn học, 1990.
Sự tích các vị thần linh thờ ở đền làng huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Bùi Văn Tam. NXB Khoa học xã hội, 2015.
Di sản văn hóa đình đền Mạo Phổ. Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân. NXB Lao động, 2022.
Sự tích các thành hoàng làng Thăng Long – Hà Nội. Đỗ Thị Hảo (chủ biên). NXB Chính trị quốc gia, 2020.
Hà Nội di tích và văn vật. Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội. Sở văn hóa và thông tin Hà Nội, 1994.
Thần tích thần sắc Hà Nam. Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh (chủ biên). NXB Khoa học xã hội, 2004.
Thần tích Hà Nội. Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội. Nguyễn Thị Oanh. NXB Hà Nội, 2019.
Sử ký Tư Mã Thiên. Phan Ngọc dịch. NXB Văn học, 2006.
Câu đồng dao tưởng như nói chuyện vu vơ, nhưng lại là một câu chuyện lịch sử thật sự cách đây 4.000 năm từ khi cha Rồng Lạc Long Quân dẫn những người con xuống chia trị miền duyên hải.
Sách Nghệ An phong thổ ký chép: “Xưa ở Chỉ Châu có hai vợ chồng ông Mái, mụ Mái đã luống tuổi mà chưa có con. Một hôm người vợ nhặt được ba quả trứng về nhà, chồng đem bỏ vào cái chậu. Ít lâu sau ba quả trứng nở thành ba con rắn, ông bèn thả xuống ngã ba sông, bỗng mưa gió nổi lên ầm ầm lúc sau mới lặng. Nhưng hôm sau thì ba con rắn trở về quấn quýt bên ông bà, ông đi đâu rắn cũng theo đi.
Một hôm, ông ra bờ cuốc ruộng, ba con rắn bò lượn xung quanh tỏ ý rất vui vẻ, nhưng không may ông vô tình cuốc nhằm một con làm đứt đuôi. Ba con rắn cùng bỏ đi ẩn dưới vực Đan Hai. Về sau ba con rắn thành Thần được dân Chỉ Châu lập Miếu thờ gọi là Tam Lang Long vương”.
Đền Tam Lang Long Vương ở Chỉ Châu nay thuộc xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích này được biết với tên đền Sắc vì tới nay còn lưu giữ được 86 đạo sắc, phần lớn phong cho các vị thần là Ông Cả, Ông Hai, Ông Ba Long Vương. Các sắc phong này có niên đại từ năm Thịnh Đức thứ 5 (1657) thời Hậu Lê đến năm Thành Thái thứ 13 (1992) thời Nguyễn. Đền nằm trong cùng một khuôn viên với di chỉ khảo cổ quốc gia Thạch Lạc trên núi Sò điệp, nơi từng phát hiện được di cốt người tiền sử có niên đại 4.000 – 5.000 năm.
Niên đại trên 4.000 năm lịch sử ở vùng đất ven biển của cư dân sống bằng nghề đánh bắt hải sản (sò điệp) mang tên Thạch Lạc thờ các vị Long Vương thì chắc chắn liên quan đến sự kiện cha Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển. Truyện Họ Hồng Bàng kể: “Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước… Long Quân lấy Âu Cơ, trong năm sinh ra một bọc trứng, cho là điềm bất thường, vứt ra ngoài đồng; qua bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi…”
Đoạn truyền thuyết này rất giống với sự tích Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh như được chép ở Miếu Ao Thạch Trị hay đền Sắc Thạch Lạc. Tiếp theo, khi Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay, Long Quân nói: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc … Ta đem năm mươi trai về thủy phủ chia trị các xứ, nàng đưa năm mươi trai về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên”.
Lạc Long Quân cùng 50 người con trai về Thủy phủ không phải ở một chỗ mà là “chia trị các xứ”, là các nơi đầu khe góc biển. Chính vì thế mà ở rất nhiều vùng sông nước và ven bờ biển còn lưu lại những sự tích về các vị Long Vương Thủy phủ của thời kỳ này. Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh là một trong số đó.
Sự tích Tam Lang Long Vương có thể gặp đầu tiên là tại vùng Ngã ba Việt Trì nơi cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ chia tay lên rừng xuống biển. Thần tích ở làng La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ) kể về Thánh mẫu Động Đình Phan Cù Nương sinh ra 3 con trai được phong làm các vị thủy quan, đi trấn nhậm các nơi. Tương tự ở làng Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) có bà Trang Hoa, vợ của ông Hùng Hải, sinh ra ba bọc trứng, nở ra 3 con rồng, rồi hóa thành 3 người con trai, đặt tên là Đạt Công Long Vương, Mãn Công Long Vương và Uyên Công Long Vương. Ba người con được cử đi trị nhậm ở vùng sông Đà, sông Thao. Vùng Động Đình ở Phú Thọ là chỉ khu vực sông nước quanh Ngã Ba Hạc.
Dòng sông Hồng bắt đầu từ hợp lưu của ba sông Đà, Lô, Thao tại Ngã Ba Hạc đổ ra biển ở vùng Thái Bình. Nơi đây cũng có sự tích về 3 con Hoàng xà ở đền Đồng Bằng (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ). Nàng Quý đi tắm ở sông Đào, cảm động với giao long mà có thai, sinh được một bọc, nở ra 3 con Hoàng xà. 3 con rắn sau hóa thành 3 chàng trai giúp vua Hùng đánh giặc. Con Hoàng xà lớn nhất trở thành Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình, tức là vị đức Vua cha Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Đây cũng chính là hình ảnh của Vua cha Lạc Long Quân, vì Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả ghi rõ, Lạc Long Quân đã “hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân”. Động Đình ở Thái Bình là vùng đất Đào Động của Vĩnh Công Đại Vương, tức là vùng đất ven biển cửa sông Hồng.
Khi so sánh sự tích Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh với các truyền tích ở vùng sông Hồng thì có thể thấy rõ đây cùng là một sự kiện lịch sử. Hà Tĩnh theo trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả ghi là nơi đã diễn ra cuộc kỳ ngộ giữa cha Tiên Lộc Tục và mẹ Rồng Thần Long tại cửa biển Hội Thống, trên đất Cựu đô Ngàn Hống của vùng núi Hồng sông Lam. Ông Cả Long Vương ở Hà Tĩnh không ai khác chính là người con trưởng của Kinh Dương Vương và Động Đình Long Nữ, tức là vua Lạc Long Quân.
Ở Hà Tĩnh hiện có khá nhiều nơi thờ Tam Lang Long Vương và thường được gọi là đền Cả, như đền ở xã Ích Hậu huyện Lộc Hà, hay xã Xuân Hội huyện Nghi Xuân. Ngay ở xã Thạch Trị huyện Thạch Hà cũng có ngôi miếu thờ Ông Cả Long Vương với tên gọi là Miếu Ao. Nơi đây nổi tiếng với sự linh ứng kỳ diệu qua những câu chuyện như vào các ngày lễ có bóng rồng hiện dưới ao. Ngày chính lễ Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh gọi là ngày “kỳ phúc lục ngoạt”, tức là lễ cầu phúc vào rằm tháng Sáu Âm lịch hàng năm. Người dân địa phương còn lấy nước từ ao để làm thuốc uống chữa bệnh sau đi đã thành tâm thắp hương cầu thần tại Miếu.
Những câu chuyện của 4000 năm trước, khi người Việt đi xuống khai phá vùng sông nước ven biển, xăm mình chài lưới như những con Giao long trên sóng nước, còn lưu lại đậm nét trong các di chỉ khảo cổ và di tích tín ngưỡng ở vùng đất miền Trung như ở Hà Tĩnh.
Bài thơ Nôm về Tam Lang Long Vương ở đền Sắc Thạch Lạc như còn khắc tạc câu chuyện này:
Sắc phong thời Hậu Lê năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783) cho Ông Ba Long Vương ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Sắc phong thời Hậu Lê năm Chính Hòa thứ 5 (1684) cho Ông Cả Long Vương ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Sắc phong thời Hậu Lê năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710) cho Ông Hai Long Vương ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Mảng chạm rồng ở đình Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ.Đền Sắc Thạch Lạc ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Miếu Ao ở xã Thạch Trị, Thạch Hà, Hà Tĩnh.Mộ tưởng niệm người tiền sử ở di chỉ quốc gia Thạch Lạc.
Xưa Hùng Vương đời thứ 17 là Hùng Huy Vương sinh người con trai thứ tên là Hùng Ánh. Hùng Ánh thiên tư dũng lược, diện mạo lạ thường, thông minh nhanh hiểu biết, vượt trội hơn người anh. Huy Vương yêu quý muôn lập làm người nối ngôi. Chàng Ánh cố gắng nhường cho anh. Khi ấy phong tục còn chất phác. Các con vua đều gọi là quan chàng, cho nên có tên là quan Chàng Ánh. Đến khi Duệ Vương nối ngôi, phong Chàng Ánh làm Vương tử, ban cho họ Lê. Khi giặc Thục đến xâm lăng, Chàng Ánh chỉ huy quân binh, có công chống Thục. Từ đó Chàng Ánh nắm quyền triều chính. Duệ Vương về sau trở nên biếng nhác, chìm đắm trong hoan lạc, không quan tâm đến chính sự, việc binh quốc gia buông lỏng. Chàng Ánh hết sức can ngăn nhưng Duệ Vương không nghe. Chán ngán, Chàng Ánh đi ra bộ ngoài, không muốn tham dự vào chính sự quốc gia. Sau giặc Thục đánh Duệ Vương, thế nước nhà Hùng mất. Chàng Ánh rất hận mới luyện binh tuyển tướng, cẩn thận giữ gìn cương giới, bèn tự xưng là Hậu Hùng Vương, không thần phục An Dương Vương. Xưng là nước Việt Tây, nay là Quảng Tây. Vợ vương là con gái Đông Chu Quân có mang 3 năm, sinh một bầu năm con trai vào giờ Ngọ ngày 14 tháng 3 năm Mậu Thân. Đến khi trưởng thành đều có tướng mạo khác thường, mũi cao, mắt xếch. Một người trên đầu có 7 chấm đỏ, sau lưng có 27 nốt ruồi đen. Một người một tay dài quá gối, mắt xếch tới tai. Một người mắt phượng mũi rồng. Một người mặt vuông tai to, râu đen, tóc xanh, thân dài 10 thước. Năm chàng đều là những người phi thường. Hùng Vương rất vui mừng, hoàng hậu chưa đặt tên nên nhân theo cổ tục khi đó đặt là Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư, Chàng Út mà gọi. Gặp lúc có tướng Tần Triệu Đà dẫn quân chiếm phương Nam. An Dương Vương có nỏ thần, quân Triệu gặp nhiều thất bại. Hùng Vương (tức là Chàng Ánh, Hậu Hùng Vương ở Việt Tây) sai Chàng Hai đến quân Tần nói với Triệu Đà rằng: – An Dương có thù với chúng tôi. Nay phụng nghe đại quân đánh Thục, nước tôi tuy nhỏ cũng xin dẫn ba ngàn quân trợ giúp. Tôi vì báo thù mà trợ giúp ngài định quốc. Tôi lại có mưu này có thể phá được nỏ thần, muốn được tâu với ngài để trù liệu. Triệu Đà nghe có quân giúp định quốc rất vui mừng, liền nói: – Cách nào có thể phá được nỏ thần? Chàng Hai nói: – Nếu thông hôn cho con với ái nữ Mị Châu thì có thể phá được. Đà bèn cử sứ về nước sai con trai Trọng đến thông hiếu kết nghĩa, sau lại cầu hôn với An Dương để cho Trọng làm con rể, ở đó trộm lấy phá hủy lẫy nỏ. Trọng về báo, phát sứ sang Việt. HùngVương bèn lệnh Chàng Út dẫn ba ngàn quân giúp Triệu Đà đánh Thục chiếm nước thành công. Triệu Đà lên ngôi là Vũ Đế, nhưng vẫn cắt Quảng Tây cho Việt. Sau 6 năm Hùng Ánh Vương lâm bệnh. Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư cùng nhau nói rằng: – Báo thù và mở rộng đất nước đều là công của Chàng Út. Có thể nhường lại nước cho Chàng Út. Chúng ta tạm tìm chỗ không xa mà đến lánh. Bèn cùng 4 người làm đồ đệ để đi. Bốn tiểu hầu phao lên rằng muốn tìm thuốc, đi tới Triệu. Trong nước họ Triệu thấy có một nơi sông uốn khúc, núi dựng lại quanh co, gặp lúc trời sắp tối. Bỗng thấy năm đám mây nổi lên, trong có Rồng vàng ẩn hiện. Nhân lấy đó là điềm lành để ở, dựng một lầu cao. Bốn Chàng cùng với các đồ đệ cùng đi là Lưu Chính Hoà, Nguyễn Văn Nhân, Đỗ Khắc Cần, Đặng Văn Dư đều xây nhà rồi dẫn con cái đến ở đó, mở ruộng vườn, lập cơ nghiệp lâu dài. Đến khi Hùng Ánh Vương lâm chung, bốn Chàng đã đi, bèn ban tên Chàng Út Lôi Mao, cho tự cai quản. Ngày 15 tháng 8 Hùng Vương băng hà, Chàng Út phát tang, kế vị, xưng là Việt Tây Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Vũ Đế cho lệnh sách phong. Ba năm tang lễ xong, Vương cho hoàng hậu họ Triệu giám quản đất nước, còn tự thân đi cầu tìm bốn người anh. Vương đi khắp thiên hạ đến nơi dòng sông uốn khúc thì gặp được các anh. Gặp nhau rất vui mừng bèn cho mở đãi tiệc lớn ở trên lầu gác. Sau này thôn có lầu được gọi là thôn Thượng Minh. Lại sai các thủ hạ đến làng đó để đón bốn anh về Việt Tây. Các anh cùng muốn nhường nên bất đắc dĩ báo với vua Triệu. Vũ Đế mới ban sắc rằng: – Cha truyền con nối là lễ thế tập. Không quên gốc nước, quân dân quyến luyến là đáng trách. Ngôi trời rất trọng yếu, đâu chỉ là việc lập ra như đồ giả chơi. Quan trọng là phải trở về. Quốc vương Việt Tây tạ thế, có để lại 5 con đều là đức hiền minh. Khi Út Ngọ Lôi Mao thừa cảnh tốt trên có bốn anh đều là bậc thánh trí. Huynh đệ cùng nhường nhau, không nên như Thái Bá bỏ đi. Đàn sáo tương ứng, cùng hòa phép chính, người và vua cùng hưởng, cùng quản việc nước, cùng các vua tướng, theo như sách mệnh là Chàng Cả Đại vương, Chàng Hai Đại vương, Chàng Tam Đại vương, Chàng Tứ Đại vương, Chàng Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Tuân sắc ban. Từ đó năm vương cùng nhau quản lý việc nước. Được mười năm hoàng hậu họ Triệu sinh được con trai là Chàng Uyên, thông minh sáng suốt. Tới khi trưởng thành năm vương được cử đi sứ trong nước. Năm vương cùng đi đến nơi chốn cũ ở thôn Thượng Minh, tới chỗ nhà cửa trước kia là còn là nơi gà chó trâu bò nay đã thành làng xóm. Bèn lên lầu mà xem cảnh ngày mai tươi sáng. Ở đó được ba năm các thủ hạ cứ cuối mỗi năm ngày 10 tháng 12 đem một con gà cùng với bánh chưng, trầu cau, rượu ngon, năm cặp đũa trúc làm lễ. Năm vương ở lầu thường thường như vậy. Đến tháng 4 năm Giáp Dần, các vương cùng nhau đi thăm lại nền cũ đất họ Hùng, quay về thấy buồn thảm. Bèn cùng nhau lên núi đi tuần dạo. Đến núi Toàn Dương bỗng thấy có một hang lớn mở ra, mây khói bốc lên. Năm vương đồng thời nhập vào hang không ra nữa. Đó là ngày 15 tháng 5. Do vậy Nguyễn Văn Nhân trở về. Từ ấy lấy làm lệ thường, cứ đúng ngày làm giỗ kỵ, gọi là thánh kỵ. Vào cuối năm thì dâng gà lên lầu như xưa vậy. Ban đầu Chàng Uyên tiếp ngôi, hiệu xưng là Minh Vương. Khi Hán bình định Nam Việt cùng với Việt Tây, Minh Vương thất thủ mà chết. Con trưởng tên là Hùng Tuấn với Vương hậu cùng chết theo. Con trai thứ Hùng Hòa không chịu nhục, cõng thi thể của cha chạy về chôn ở núi Toàn Dương. Sau ba năm chôn cất xong, dẫn con cái đến thôn Thượng Minh cùng với nhân dân bốn họ cùng sống. Nhưng vì tránh tên Minh Vương nên đã đổi thành xã Hạ Mạo, đổi thôn thành xã từ đó. Bởi vậy cho tu sửa lầu đãi tiệc thành miếu thờ năm vương, hàng tháng ngày rằm mồng một đều có lễ dâng. Thường không có quy định lệ tế như thế nào, chỉ có ngày giỗ và ngày cuối năm thì cúng gà. Cho đến triều Lý Thái Ninh năm thứ hai ngày 30 tháng 12, cháu 24 đời họ Lê là Tôn Hưng cùng với các họ Nguyễn Trọng Chính, Đỗ Văn Khả, Lưu Đình Côn, Đặng Ngọc Câu lên miếu làm lễ tiết, bỗng thấy một trận mưa to gió lớn khói đen bốc lên không rõ dài ngắn. Ở trong miếu mùi hương lạ phát ra ngào ngạt, sáng như ban ngày. Tôn Hưng cùng các hương trưởng sợ hãi, không dám quay về, mà sai người giữ miếu làm 5 kiện oản cùng các thức hương, trầu cau để dâng lên ban trên. Đến khoảng quá nửa đêm bỗng trên miếu có ánh sáng thần chiếu rực, bỗng nhiên xuất hiện năm người đều có mũi rồng mắt xếch, mặt đỏ như mặt trời mới mọc, đầu đội mũ ngọc, thân khoác áo bào xanh, người đeo đai đỏ, người đeo đai xanh lam, dàn thàng hàng cao phía Tây ngồi trên ban thượng. Khi ấy các hương trưởng đều cùng phủ phục dưới đất, không dám ngửng lên nhìn. Bỗng nghe thấy lời trên miếu nói: – Chúng ta phụng sắc của Thượng Đế cai quản dân chúng. Phút chốc hóa thành năm con rồng vàng bay lên không biến mất. Mây mưa tùy theo mà nổi lên. Mọi người đều sợ hãi, không biết từ đất nào hiện ra. Khi đó thấy người giữ miếu bước lên cao ngồi mà nói: – Ta cùng năm tướng nhà nuôi là Lê Hùng Hòa, thường đi theo tùy giá các vương. Khi các thiên tướng giáng loạn, tà mà quấy nhiễu nhân dân, Thượng Đế sắc năm vương hàng năm đi khắp thiên hạ, quản thúc trăm thần, để yên dân cư. Vốn các ngươi là con cháu người xưa, ta cố thỉnh giáng lâm. Năm vương đã giáng lâm, đó là nhờ sức ta cố thỉnh, là phúc vạn đời của các ngươi vậy. Từ nay, phải lập chỗ cho năm vị thần vương cẩn thận. Sự việc đầu năm đi thám xét thiên hạ, tất muốn quay lại nơi đây. Há chẳng là việc phúc lành lớn sao? Cuối triều Trần thiên hạ đại loạn, quân Ngô xâm lược, chiếm kinh ký. Chúng biết nước Nam khó cai trị nên những nơi xưa đều phá sạch thành đất bằng. Ở Thăng Long người ta thường chôn vàng đắp đất để làm mộ cổ, nên chúng sai người sở tại đến khai quật, được nhiều vàng. Những nơi cũ và nhân dân đều giết sạch, các mộ phần bị phá sạch. Khi đó những người dân trong xã chạy lưu vong hết, họ Lê tập hợp được 200 người, đem hết các phần mộ tổ tiên đi. Tộc trưởng Phúc Kiến muốn lấy trống rồng của năm vị, gieo quẻ xin 5 lần không được, bèn sắp xếp đưa người trong tộc cùng với các gia phả, sự tích chạy vào trong rừng núi. Khi giặc đến nơi thì hương ấp không còn ai theo phục. Lần đó Thái tổ thua ở chân núi Tiên Du, chạy về phía Tây đến đền thần của bản xã thì trời tối. Chỉ còn có 1 đệ tử đi theo, bèn than lớn rằng: – Trời làm ta vong, ta chạy làm gì. Bèn vào trong đền thần để tạm trú. Thấy một người lạ quần áo thật lớn, theo cửa giữa của miếu ra nghênh đón Thái tổ, theo vào ngồi trên miếu. Người này nhường cho Thái tổ ngồi bàn trên, tự mình ngồi bàn dưới. Thái tổ trong tâm biết là thần vậy. Người này dâng lời rằng: – Trời sinh ra Chân nhân chính vì sinh linh mà trừ giặc tàn bạo. Sao lại tự chịu khuất nhục vậy? Thái tổ nói: – Trẫm đoán là Trời không giúp Trẫm để an dân. Nay khi thiên hạ đại loạn, Trẫm cùng với các tướng tảo trừ loạn, đã tận lực đánh ngoài trăm trận, diệt trừ loài ác để an thiên hạ. Nhưng lại sinh ra Liễu Thăng cường tráng như vậy. Nếu trời định giúp Trẫm, đã sinh ra Trẫm sao lại còn sinh ra Liễu Thăng? Thiên hạ làm sao có thể bình, yên được dân sinh. Nên mới thốt ra lời than thở. Đại vương nói: – Đó là Trời sở dĩ cùng Chân nhân cầu cho Nam Việt, không phải tự tiện mà sinh Liễu Thăng, nên nước Nam chưa được yên ngưng. Thăng là con của thần tiên phong của Thượng Đế, giáng sinh sau, thân dài mười thước, oai trấn vạn người. Người Minh còn phải nhường oai hùng đó. Đó là một chớp cánh phục sinh. Lại xâm lược phương Nam sáu lần, quân hơn trăm vạn, đều là vì tìm diệt Chân nhân. Vua Minh còn chưa yên tâm, vội vã lệnh cho triều đình nhà Minh mà không có ai đối lại được. Một lần đến mà không được không phải do tự tiện, từ đó mà tăng quân. Chúng có 40 vạn tinh binh. Còn Chân nhân chỉ có 500 người, nay bại cũng không phải là lạ. Vua nói: – Như lời Đại vương thì Trời sẽ giúp Trẫm diệt chúng phải không? Đáp rằng: – Tất nhiên. Vua nói: – Có kế gì tốt để làm? Đáp rằng: – Quân của chúng chạy không dừng. Một ngày đi ba bốn dăm. Nay đóng quân ở bờ Nam sông Đà. Đến ngày nọ sẽ qua sông. Đó là khi có thể nhờ vào chỗ hiểm của sông sâu, một trận chiến có thể diệt hết giặc. Xin Chân nhân chớ lo lắng, sau có thể được thỏa chí. Vua nói: – Ta được Trời giúp vậy. Xin Đại vương hãy giúp cho Trẫm. Vương nói: – Vâng vâng. Đại vương bèn cho sứ đến núi Tản Viên truyền thông điệp xin được cùng đồng lòng giúp nước, cho xuất các loại hổ báo, rắn rồng vào trận. Thần núi Tản Viên phát sứ đến hẹn đến ngày 12 trong tháng cùng chiến. Vương đồng ý. Lại cử sứ đến đền Ma Y tướng quân nhờ Ma Y giúp nước. Việc xong, Ma Y tướng quân sai sứ mang một chiếc áo đến cho vua Lê mặc. Đại vương dâng kiếm thần mà nói: – Liễu Thăng cưỡi hai con phượng cao 5-6 trượng. Ở chỗ trú ẩn đó có một cây Đường lệ lớn. Chân nhân tới đó thì lên đứng ở phía đầu cành. Liễu Thăng sẽ không thấy. Khi xe phượng đi qua, Chân nhân hãy chém đầu Liễu Thăng. Thần sẽ dẫn quân cùng với thần núi Tản Viên đánh phía sau. Một trận có thể diệt sạch. Vua Lê lo lắng. Đại vương nói: – Chân nhân chớ lo. Mặc chiếc áo này vào thì không ai nhìn thấy cả. Chém được tướng đó thì quân đó thành không đầu. Thần sẽ cùng đến giúp đánh quyết thắng, không lo. Khi đó các tướng bại trước đó đã động lòng dẫn quân đến hội tập được hơn ba ngàn người. Vua Lê bèn mặc áo Ma Y, cầm kiếm thần đến bờ bắc sông Đà, lên đứng ở trên đầu cây gỗ lớn. Đến quá trưa, quân Ngô vượt sông, bỗng thấy đầu Liễu Thăng rơi xuống đất. Quân giặc đại loạn. Bỗng gió lớn nổi lên ở phía Nam từ núi Tản Viên thổi xuống. Lại thấy rắn lớn hổ mạnh cùng trăm thú trong núi rất nhiều không đếm xuể tiến thẳng tới. Quân Ngô bỏ chạy. Trong một lúc đều rơi xuống sông Đà. Nước sông do thế tắc không chảy được. Quân Lê thấy một tướng lạ mặc áo xanh đốc chiến, giết quân Ngô không còn một tên. Đến khi Vương toàn thắng, thì không thấy vị tướng áo xanh ở đó nữa. Vua trở về Thăng Long lên ngôi Hoàng đế, lập hiệu Thuận Thiên, bèn lệnh cho quận công Trần Hãn dẫn quân đến tu sửa miếu điện, dựng nên ba tầng thượng, trung, hạ điện, đều có ba gian. Tháng 5 thì làm xong, phụng mệnh làm lễ tam sinh đến tạ, ban một đạo sắc cho bản xã thờ phụng. Cứ mỗi năm tháng Giêng phát tiền công làm ca xướng một bữa, lệ thường trong năm như vậy. Do đó về sau ngày 18 tháng Giêng là ngày lệ thờ từ đó. Năm Hồng Đức thứ 4, thiên hạ gặp hạn hán lớn từ tháng 6 đến tháng 8 không có mưa. Triều đình sai sứ đi cầu mưa ở núi Hùng, Tản Viên cùng các đền thờ thần thượng đẳng, tuy có được một chút mưa nhưng không đủ để tưới hết mùa màng. Tháng 8 ngày mồng 2 sai sứ quan đến đền thần ở xã cầu đảo. Bỗng thấy một trận mưa lớn mù mịt như cầu mong, trên từ sông Hạc dưới đến cửa biển Tô Lịch dài ngàn dặm. Lúa ngô tự mọc. Đến mồng 10 sai quan theo lệnh chỉ đến tế ở điện, ca hát một bữa mừng lúa thóc được mùa. Đến mồng 6 tháng 11 sai sứ quan mang lễ vật tam sinh cùng một đạo sắc đến bài trí ở miếu điện tại xã. Đến mồng 10 thì tế tạ cầu mùa được thành, ca hát một bữa. Từ đó bản xã lại có ngày mồng 10 tháng 8 cùng với tháng 11 có ca hát hai lệ phỏng theo đó. Năm Chính Hòa thứ 8, Đình quân công vâng mệnh xây dựng đường thị đi qua nơi miếu, thấy có một cây Kim giao rất lớn, cao 6-7 tầm, mới gọi đến hương trưởng và rằng: – Lầu Kính Thiên của triều đình có một cây cột lớn, hôm trước bị cháy mất. Bộ Công cầu tìm chưa được. Nay đây có một cây có thể dùng được, ta muốn lấy khoảng 10 tiền công phát để các người mua đồ thờ phụng thần, mà triều đình cũng được tiện dùng. Khi đó chánh tổng Lê Đức Sổ đáp rằng: – Xã hèn chúng tôi từ khi có cây gỗ này đến nay qua đã không biết bao đời không dám dùng tới đao búa. Lũ hèn chúng tôi sợ không bán cho Đại quan được. Quận công nói: – Các ngươi không bán thì ta cũng lấy để dùng cho triều đình, không phải để cho riêng ta thì sao lại không thể được. Bèn lệnh cho đồ đệ chặt cây gỗ, nhưng cây gỗ tuyệt nhiên không suy chuyển gì. Quận công sợ hãi, mổ lợn bày việc tế, lại khấn rằng triều đình tha thiết muốn dùng, xin Đại vương đừng từ chối. Bỗng thấy cây gỗ tự ngả xuống. Bèn đem về đến bến kinh thành. Hoàng đế đích thân ra cầu chú rằng: – Đại vương sinh là Thiên tử, mất làm phúc thần. Nay lầu Kính Thiên của Trẫm thiếu một cây cột lớn, cầu tìm không được. Nay Quận công thấy miếu của Đại vương có một cây Kim giao thích hợp. Tuy tự tiện nhưng không thiếu thiện tâm. Xin Đại vương có thể tự hiến để giúp triều đình. Bỗng thấy cây gỗ chuyển động ba lần. Vua sai Quận công gọi một người dẫn tới tòa hồng, nhẹ như lá vậy. Đế lệnh Quận công bố trí lễ lớn tam sinh cùng một đạo sắc đến miếu thần ở bản xã để tế tạ, nói với hương trưởng ngọn ngành như vậy. Tích của xã Hạ Mạo. Vâng sao nguyên bản. Lý trưởng Lê Văn Kính.
Hai cuốn sách cổ Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh tập đã ghi chép lại sự tích về thần Long Độ (Long Đỗ), trong đó nhắc đến đoạn với Cao Biền như sau:
Khi xưa, Cao Biền đời nhà Đường được cử sang cai trị Giao Châu, cho đắp thành Đại La. Một hôm, Biền đang vẩn vơ dạo ngoài cửa đông thành, bỗng thấy mưa to gió lớn, rồi một đám mây ngũ sắc bốc lên từ mặt đất, tụ lại ở trên không, tia sáng bốc lên chói mắt, khí trời trở nên lạnh lẽo. Giữa đám mây, thấy hiện ra một người “đầu đội mão xích hoa, thân mặc áo tử hà, xiêm là, giày đỏ, bay lượn ở trong mây mù, hương lạ thơm lừng, đàn sáo hợp tấu, lững lờ uyển chuyển, lúc thấp lúc cao, lâu ước độ hai khắc rồi bỗng nhiên tan mất”. Cao Biền kinh dị, cho là yêu quái. Đêm hôm ấy, Biền mộng thấy người gặp lúc ban ngày, đến bảo rằng: “Ta là Long Độ vương khí quân, thấy ông mở rộng kinh thành thì đến xem chơi, chớ có ngờ”. Biền tỉnh dậy than: “Ta không biết làm chính trị nên quỷ thần vượt mặt ta, sự này là điềm lành hay điểm gở?”. Có người khuyên Cao Biền dựng đền, đắp tượng thờ rồi lấy một nghìn cân sắt, đồng làm bùa trấn yểm, Biền làm y như vậy. Bỗng một trận cuồng phong nổi lên quật đổi cây to, tung đất, làm tất cả đồng sắt trấn yếm đều biến thành tro bụi. Biền than thở: “Ta phải về Bắc thôi”, sau quả nhiên như thế.
Trong Lĩnh Nam chích quái cũng như trong tín ngưỡng dân gian từ lâu, thường đồng hóa hai vị thần Long Đỗ và vị thần của sông Tô Lịch lại làm một. Trong Tô Lịch giang thần truyện của Lĩnh Nam chích quái đã chép lại truyện thần sông Tô Lịch, trong đó có đoạn sau kể về việc Cao Biền gặp thần sông Tô Lịch không khác gì truyện kể ở trên về thần Long Đỗ.
Đền Bạch Mã
Thần Long Đỗ cũng được chép chung với thần Bạch Mã trong các sự tích, nhưng thần Bạch Mã hiển linh dưới thời Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long, chứ không phải thời Đường Cao Biền. Vậy thần Long Đỗ là nhân vật lịch sử nào?
Một gợi ý hết sức hay về thần Long Đỗ là cuốn Bách Việt triệu tổ cổ lục của họ Nguyễn ở Bình Đà chép về bà Đỗ Quý Thị, húy là Ngoan, có tên tự là Đoan Trang. Tục truyền bà là con gái cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch vùng Nghi Tàm. Bà còn có 8 người em trai được tôn là Bát bộ kim cương, có công phù giúp người cháu là Lộc Tục…
Vị thần sông Tô Lịch hay thần hồ Dâm Đàm (hay hồ Mây Mù như từ dùng của Bách Việt triệu tổ cổ lục) không ai khác chính là Lạc Long Quân, còn được thờ là Uy Linh Lang ở dọc bờ hồ Tây. Hồ Tây là “đầm rồng của thủy quốc Động Đình”, tức là kinh đô của Lạc Long Quân. Kinh đô này có tên là An Ấp, nay còn lưu trong địa danh Yên Phụ (Yên Hoa, An Trì, Yên Thành, Yên Ninh…), nơi thờ chính của Uy Đô Linh Lang Đại vương (xem thần tích đền An Trì).
Bách Việt triệu tổ cổ lục còn đề cập đến việc dòng họ Nguyễn Đỗ đến bên bờ hồ Mây mù sinh sống, trồng cây hoa gạo để đánh dấu nơi ở của mình. Trong tiếng Việt cổ “gạo” còn được gọi là “kháo”. Vì thế hồ Mây mù (dâm Đàm hay Hồ Tây) lúc đầu được gọi là “hồ xác kháo”, tức là để chỉ ở ven bờ và cả mắt nước hồ rụng đầy hoa gạo. Lâu dần chữ “kháo” đọc biến âm đi thành chữ “cáo”… (theo Lã Duy Lan).
Việc hồ Tây liên quan đến cây Gạo cũng gặp trong sự tích về Uy Linh Lang, rằng bà phi họ Lạc của Diệu Đế sinh ra một bọc trứng, cho là điềm quái lạ bèn đem vứt ở bên bờ sông Hồng chỗ bãi Nhật Chiêu. Bọc trứng nở ra 7 con rồng bay lên. Đời sau trồng ở chỗ đó 7 cây gạo (mộc miên) để tưởng nhớ chuyện này… (Tây Hồ chí).
Nói cách khác, cây Gạo là biểu tượng của các vị thủy thần trong hình rồng. Uy Linh Lang cùng với “Đoài hồ Thất Giáp” là Lạc Long Quân và “Lục bộ Thủy phủ” đã dâng nước tiêu diệt Cửu vĩ Hồ ở đầm Xác Cáo (Truyện Hồ tinh).
Bà Đỗ Quý Thị tương đương với bà phi Diệu Đế, là mẹ của Lạc Long Quân, tức Quý Nương sinh Hoàng Xà ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình), hay Phan Nương Thánh mẫu Động Đình ở đình La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ), tức chính là Mẫu Thoải… 8 người anh em họ Đỗ tương đương với Lục bộ thủy phủ hay Đoài hồ Thất giáp hay Ngũ vị Tôn quan trong Tứ phủ.
Hoành phi Long Đỗ Đại vương và Linh Lang Đại vương ở đình Cổ Vũ (phố Hàng Gai, Hà Nội)
Thần Tô Lịch và thần Bạch Mã như vậy hiển linh ở 2 thời gian khác nhau (thời Đường Cao Biền xây thành Đại La và thời Lý Thái Tổ xây Thăng Long) nên chưa chắc đây là cùng một vị thần. Thần Long Đỗ thực sự là Long – Rồng, là Long Quân mà được thần xưng danh ngay trong truyện: Ta là Long độ vương khí Quân… Còn thần Bạch Mã có thể là một vị thần khác, gắn liền với vùng Long Biên, do ở đó còn nhiều di tích thờ thần Bạch Mã. Bạch Mã như vậy là Long Biên hầu Sĩ Nhiếp, không phải vị cổ thần từ thời quốc sơ.
Một trong những bằng chứng về sự phân biệt giữa thần Tô Lịch và thần Bạch Mã là đình Tân Khai ở khu phố cổ Hà Nội, thờ 2 vị thần này riêng biệt cùng với thần Thiết Lâm. Tới đây đã có thể kết luận về lai lịch của 3 vị thần của thành Đại La – Thăng Long là:
– Thần Tô Lịch, cũng là thần Long Đỗ, chính là Long Quân hay Linh Lang Đại vương.
– Thần Thiết Lâm chỉ vùng đất ở phía Tây của hồ, ứng với Cửu vĩ Hồ, là dòng lên núi đã bị Long Quân cùng những vị thủy thần khác đánh đuổi.
– Thần Bạch Mã là “cụ già” làm quan trưởng lại ở địa phương thời đầu Công nguyên, tức là Long Biên hầu Sĩ Nhiếp.
Biển đề Long Đỗ chung linh tại đình Tân Khai
Câu đối ở chính điện đình Tân Khai:
Đại La thành nhất đái giang sơn, Long Đỗ chí kim do thắng tích
Tứ vọng tự lũy triều hương hỏa, Lạc Đô chung cổ độc anh thanh.
Câu đối khẳng định đất Đại La chính là kinh đô của thời Lạc Long Quân xưa.