Vài điều làm rõ về Linh Lang và Lạc Long Quân ở Bình Đà

Làng Bình Đà ở Thanh Oai có 2 di tích là đình Ngoại thờ Linh Lang Đại vương, là thủy thần xuất thế thời Lý và đền Nội thờ Lạc Long Quân. Bản khai 1938 của làng ghi vậy. Trong bản khai cũ chỉ có thần tích của Linh Lang Đại vương mà không có sự tích của Lạc Long Quân. Tuy nhiên, không hiểu sao sau này lại thấy có sự tích lưu ở đền Nội Bình Đà về Lạc Long Quân được chép với niên hiệu Thái Bình Thiên Quốc, và nội dung ná ná như Cổ Lôi ngọc phả. Rõ ràng đây là tư liệu được đưa vào di tích sau năm 1938, không phải tư liệu gốc của đền.

Bia ở đền Nội ghi khá đơn giản, rõ ràng: Dân có tổ, tổ có miếu, nước thì thờ, làng thì cúng, đều là để tưởng nhớ vậy. Làng ta phụng thờ quốc tổ Lạc Long Quân từ xưa… Không có đoạn sự tích như Cổ Lôi ngọc phả kể từ Kinh Dương Vương, rồi Lý Long Cảnh, Sùng Lãm… Đền Nội Bình Đà đơn giản là một nơi thờ Lạc Long Quân, không có mộ tổ của cụ nào được ghi chép ở đấy cả.

Về bức giá tượng trong đền Nội, các tài liệu ghi là có chữ “Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ …“, tức là nói đến Hùng Vương. Nhưng bản khai 1938 lại ghi rằng bức giá tượng đó có chữ “Ngũ thập tử tòng phụ, ngũ thập tử tòng mẫu “, tức là nói đến truyền thuyết bách noãn của Lạc Long Quân.

Hiện nay, Linh Lang Đại vương ở Bình Đà được làm lễ ngày hóa là ngày 26/2 âm lịch. Theo Cổ Lôi ngọc phả thì Lạc Long Quân hóa ngày 28/2, tức là gần trùng với ngày hóa của Linh Lang Đại vương. Ngày 6/3 âm mà hiện nay đền Nội đang làm chính lễ hội, không phải là ngày hóa của Lạc Long Quân, mà là ngày khánh hạ của làng mà thôi.

Ở đình Ngoại trên bia và trên đại tư cho biết đây là 1 trong 4 đền thiêng của Thanh Oai (Thanh Oai tứ linh từ chi nhất). Câu đối ở đình:

Thần tích thái hy kỳ, lịch đại bao phong, Thanh Oai tứ linh từ chi liệt

Võ công do hách trạc, xã dân sùng bái, Lý triều bát thế kỷ dĩ lai.

Dịch nghĩa:

Thần tích thật kỳ lạ, các đời bao phong, là trong 4 đền thiêng của Thanh Oai

Võ công còn rạng tỏ, xã dân sùng bái, từ thời Lý tám đời tới nay.

Nếu đền thờ Linh Lang Đại vương đã là một trong 4 đền thiêng của Thanh Oai, thì sao đền thờ Lạc Long Quân lại không được xếp trong các đền thiêng này? Rõ ràng ở đây coi đình thờ Linh Lang và đền thờ Lạc Long Quân là 1 cụm di tích, thờ chung 1 vị thần mà thôi.

Điều lạ nữa là trong đình Ngoại Bình Đà tuy thờ Linh Lang là tướng quân, nhưng hai bên lại bày ban văn võ, giống y như bên đền Nội. Có đủ ban văn võ hai bên thì người được thờ phải là vua.

Như vậy thực ra làng Bình Đà vốn chỉ thờ 1 vị thần là Linh Lang Đại Vương, cũng là Lạc Long Quân. Đình Ngoại là đình thờ, chỉ có bài vị. Đền Nội là đền thờ nên có bức giá tượng. Việc trùng ngày hóa của 2 vị, cùng là Thủy thần hiển linh thời Lý, cùng 1 đền thiêng của Thanh Oai… là những dẫn chứng cho nhận định rằng Linh Lang Đại vương chính là quốc tổ Lạc Long Quân.

Bia ở đền Nội Bình Đà
Bức giá tượng Ngũ thập tử tòng phụ, Ngũ thập tử tòng mẫu ở đền Nội Bình Đà
Bia đình Ngoại Bình Đà
Hoành phi: Nhất tứ linh từ, ở đình Ngoại Bình Đà
Bụi Trúc hóa long ở sân đình Ngoại Bình Đà
Bài vị cổ Linh Lang Đại vương ở đình Ngoại Bình Đà
Ban Võ ở đình Ngoại Bình Đà
Ban Văn ở đình Ngoại Bình Đà

Việt Nam Lạc Thị – Những vị Lạc Vương ở Bắc Ninh

Ở khu vực huyện Thuận Thành và Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh ven dòng sông sông Đuống có tín ngưỡng thờ các vị thần từ thời Hùng Vương mang tên là Việt Nam Lạc Thị. Những vị “họ Lạc” thủy tổ nước Việt Nam này là ai?

Thần tích về các vị Lạc Thị ở Bắc Ninh như sau (theo thần phả đình làng Nghi Khúc, Gia Bình):

Xưa Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai, dáng vẻ sinh đẹp, trí dũng kiêm toàn, người người đều nể phục. Năm mươi người con theo cha về biển, chia trị các xứ bờ biển. Năm mươi người con theo mẹ về núi chia trị núi rừng đất đai các xứ. Tôn con trưởng danh hiệu Hùng làm vua. Thứ làm Lang. Truyền 18 đời gọi là Hùng Vương. Tên nước là Văn Lang.
Tổ thờ ở Á Lữ. Tổ đi chu du thiên hạ, kiến xem hình thế. Một lần qua làng, thấy trước có 3 chẽ sông quanh co. Sau có 3 ngọn núi nhấp nhô đẹp đẽ. Sơn thủy hữu tình. Nhân đó dựng hành cung ở bờ sông, đặt tên là Nghi Giang cung. Chợt thấy 3 con rồng, mình dài vài trượng, lưng to mấy vòng. Trên đỉnh đầu có ấn vàng. Trong ấn nổi lên 2 chữ LẠC VƯƠNG. Lối lên ở ngã ba sông. Cá, tôm, rùa, ba ba đi theo. Sóng to gió dữ không thể kể xiết. Sau đó một đi chơi vùng Đại Đoan (nay là Đại Bái – Đoan Bái sông), một đi chơi sông Nghi Tuyền (nay là Nghi An sông), một đi chơi sông Bình An (nay là Bình Ngô – Yên Ngô sông).
Khoảnh chốc trở lại chỗ rồng nổi lên, vua thấy khác lạ, bèn ghi mật chúc rằng: “Đây là nơi rồng ẩn”. Về sau đời đời xa cách, vật đổi sao rời. Chỗ đó chỉ còn nền cung , tre lá, cây cỏ mọc lên thành bụi, rất lấy làm lạ. Sau hơn một trăm năm ở nơi sông này có một ngày mưa gió rất lớn, nghe như biển động chừng 1 canh giờ. Mây mưa chợt tạnh. Nhân dân nhìn thấy nền cung cũ gần nửa biến thành một đầm nước lớn, sâu bao nhiêu chẳng biết mà đo. Tục gọi là “Vực Thiêng”.
Dân bèn dựng miếu thờ. Gặp năm tai hạn, dân đốt hương khẩn cầu: Hoạn này hãy qua, yên tạnh như có nắng hạn được mưa, mùa màng tươi tốt. Nhân dân địa phương cảm kích vui mừng, nhân đó dựng đền thờ ở nơi cũ. Thờ cúng hàng năm.
Thủy thần ba vị tên chữ gọi là:
– Việt Nam Lạc Thị Đệ nhất Đại vương
– Việt Nam Lạc Thị Đệ nhị Đại vương
– Việt Nam Lạc Thị Đệ tam Đại vương.
Trải qua được các triều đại vua ban tặng. Hàng năm cứ đến tháng Hai ngày mùng 4, làng vào đám nhập tịch. Già trẻ nghi lễ khênh rước đến đền thờ, mật xin thần hiệu, múc một bình nước rước về đình (tên đình là đình Phúc Lộc), làm lễ cầu phúc. Năm nào bình nước thơm mát thì được mùa – bình yên tươi tốt. Nước chua thiu – gặp tai. Nước nhạt đục – ấy hạn. Rất có linh ứng. Thường ngày tùy theo dân đến cầu mong điềm lành, điều tốt.
Đến năm Cảnh Hưng dân địa phương có nạn binh lửa. Vật quý cũ sắc tặng phong các đạo bị thất lạc. Sau này lại được khâm mông làm:
– Tôn thần Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Khai sơ Sáng thủy Khải minh Thùy hiến Uông nhuận Dực bảo Trung hưng Đại Vương.
– Hương Mát Hùng tài Đại lược Anh nghị Quả đoán Linh thông Hiển ứng Anh uy Hùng lược Đặc đạt Đại Vương.
– Quý Lang Diên hựu Đốc hỗ Tích chỉ Phong công Khải thánh Tập cái Từ tường Đoan chính Tập phúc Chiêu tường Đại Vương
.

Đây là khu vực duy nhất có tư liệu nói về Lạc Vương (3 con rồng trên đầu có ấn có chữ Lạc Vương). Tên “triển khai” đầy đủ của Lạc Vương ở đây là Việt Nam Lạc Thị Đại vương. Việt là chỉ tộc Việt, đất Việt. Nam là đất phương Nam, khởi dựng từ Kinh Dương Vương thụ mệnh vua cha làm vua phương Nam. Lạc Thị là họ Lạc, ở đây là Lạc chứ không phải họ Hùng. Lạc Thị là một giai đoạn của thời đại Hùng Vương.

Có 3 vị Lạc Thị là 3 vị thủy tổ của Việt – Nam mang họ Lạc. Các đền đình thờ Lạc Thị ở Bắc Ninh nay thường chuyển thành thờ các vị thủy tổ người Việt, mà cụ thể một số nơi theo tư liệu sắc phong và thần tích cho biết trước đây thờ thần Việt Nam Lạc Thị thì:

  • Đền Á Lữ, Thuận Thành nổi tiếng được biết đến vì là nơi có lăng Kinh Dương Vương. Ngoài Kinh Dương Vương ở Á Lữ còn thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ và vua Hùng Quốc Vương.
  • Đình làng Đại Bái (Bưởi Nồi), Gia Bình nay được ghi là thờ Lạc Long Quân.
  • Đền làng Bình Ngô, Thuận Thành nổi tiếng với cuốn Hùng Vương ngọc phả, tức là thờ chính là Hùng Vương.
  • Đình làng Đoan Bái (Bưởi Đoan), cùng cụm di tích 4 làng Bưởi với làng Đại Bái, nay trở thành một nơi thờ đủ các vị thủy tổ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Quốc Vương.
  • Đình làng Ngọc Xuyên (Bưởi Xuyên) thờ thần Bách Noãn.

Như vậy tục thờ Việt Nam Lạc Thị là thờ các vị vua khai sáng “Việt Nam” và Bách Việt (Bách Noãn), lần lượt có thể xác định là:

  • Việt Nam Lạc Thị Đệ nhấtKinh Dương Vương như ở đền Á Lữ.
  • Việt Nam Lạc Thị Đệ nhịLạc Long Quân như ở đình Đại Bái.
  • Việt Nam Lạc Thị Đệ tamHùng Quốc Vương như ở đền Bình Ngô.

3 vị khai sáng tổ của dòng Lạc theo cha xuống biển đã hiển hóa thành 3 con rồng với dấu ấn Lạc Vương tại vùng ven sông Thiên Đức, lưu truyền thành tín ngưỡng thờ Lạc Thị. Sự tích này cũng cho phép giải thích vì sao chữ Lạc 貉 lại viết dùng bộ Trãi. Bộ Trãi 豸 biểu thị loài bò sát không chân, rất có thể gắn với hình tượng những con rồng Lạc trên dòng sông Đuống này.

“Vực Thiêng” ở làng Nghi Khúc (Bưởi Cuốc) vốn là hành cung Nghi Giang thời Lạc Thị, là chốn cực kỳ linh thiêng của nước ta, giống như khu vực “Giếng Việt” của thời sau vậy. Khu vực ven sông Đuống có lẽ chính là nơi xuất phát của truyền thuyết sinh trăm trứng (Bách Noãn) trong huyền sử Hùng Vương.

Sau thời kỳ Sơn triều với Tam vị Hùng Vương Thánh Tổ ở vùng núi Phong Châu, giai đoạn Lạc triều từ Kinh Dương Vương truyền qua Lạc Long Quân rồi các đời Hùng Vương được truyền thuyết hóa bằng con số 18 đời ở vùng đồng bằng ven sông biển.

Câu đối ở đình làng Đại Mão, Gia Bình, nơi thờ Tam vị Lạc Thị:

Thiên đãng thánh thần khai Bách Việt
Địa xưng văn hiến ngưỡng tam linh.

Các di tích thờ Việt Nam Lạc Thị ở Bắc Ninh.
Sắc phong cho Kinh Dương Vương miếu ở Á Lữ, Thuận Thành: Khai sơ Sáng thủy Khởi minh Thùy hiến Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Trung đẳng thần.
Ngai vị ba vị Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Nghi Khúc, Gia Bình.
Bia sự tích Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Đại Mão, Thuận Thành.
Tượng đồng Lạc Long Quân và Âu Cơ ở đình làng Đoan Bái, Gia Bình.
Nghi môn đền Bình Ngô, Thuận Thành.

Rồng trong tâm thức hướng biển của người Việt cổ

Truyền thuyết khởi nguồn Họ Hồng Bàng kể 50 người con theo cha Rồng Lạc Long Quân đi về phía Đông xuống biển là các Thủy thượng Linh thần. 50 người con theo mẹ Tiên Âu Cơ lên vùng miền núi phía Tây là các Sơn thần. Như thế rồng là hình tượng đã đi vào trong văn hóa Việt ngay từ buổi đầu dựng nước với tâm thức hướng ra khai phá miền biển Đông.

1. Ca dao xưa:

Mồng bốn cá đi ăn thề

Mồng tám cá về cá vượt Vũ Môn.

Truyền thuyết Việt về Rồng đầu tiên là trong điển tích cá vượt Vũ Môn hóa rồng. Đây là sự tích kể về thời vua Kinh Dương Vương khởi dựng nước Nam. Kinh Dương Vương cũng là Tản Viên Sơn Thánh, người đã chống lại nước lũ ngập ngang trời thời Đường Nghiêu. Vũ Môn nơi Tản Viên Kinh Dương Vương trị  thủy là dải Thác Bờ gập ghềnh hiểm trở trên dòng sông Đà. Hình ảnh cá hóa rồng còn lưu lại ở nhiều đền thờ Tản Viên Sơn Thánh quanh vùng Ngũ Lĩnh núi  Ba Vì. Cá vượt Vũ Môn là một lời thề, là tấm gương nghìn đời của bậc tiền nhân thời lập quốc, đã tìm tòi tri thức về thế giới quan và nhân sinh quan mà nỗ lực vượt qua thiên tai, xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân, đưa xã hội người Việt ở thủa hồng hoang phát triển lên một nấc thang mới.

Người đã kết duyên cùng với Kinh Dương Vương sau cuộc gặp gỡ bên bờ Động Đình là Thần Long Nữ. Tản Viên Kinh Dương Vương  đã cứu được con rắn, con của Long vương Động Đình, rồi đi xuống Thủy cung mà lấy được cuốn sách ước. Mẫu Thần Long đại diện cho tộc người sinh sống ở vùng sông biển ở phía Đông, xưa được gọi là hồ Động Đình. Câu chuyện Mẫu Thoải (Mẫu Thủy phủ) còn được kể trong truyền thuyết về thư sinh Liễu Nghị, đã xuống Thủy cung truyền thư báo tin mà cứu được Xích Lân Long Nữ. Liễu Nghị như thế là một cách kể khác của Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Thoải và Liễu Nghị được thờ như các vị thủy thần có khả năng ngăn mưa chống lụt ở chùa Ông (chùa Sộp) và chùa Bà (chùa Dựa) tại Thanh Miện, Hải Dương.

2. Kinh Dương Vương lấy mẫu Thần Long sinh ra Lạc Long Quân nên Lạc Long Quân thừa hưởng vị trí quân chủ của cả dòng Lạc bên cha và dòng Long bên mẹ. Lạc Long Quân đứng đầu các tộc người vùng sông biển nên khi hóa sinh về biển được tôn là Vua cha Bát Hải Động Đình, là vị vua chủ của Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Rồng đã trở thành biểu tượng vật tổ của người Việt vào thời khai phá miền Thủy phủ Động Đình.

Tín ngưỡng thờ những vị thủy thần Long Vương rất phổ biến ở vùng đồng bằng sông Hồng ven biển, trải dài qua Thanh Hóa, Nghệ An, vào tới tận Hà Tĩnh. Ở khu vực ven biển huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh có một loạt các di tích thờ Tam Lang Long Vương như Miếu Ao Thạch Trị, đình Đại Hải… Đặc biệt nhất là đình Thạch Lặc nằm ngay trên di chỉ khảo cổ tiền sử cồn sò, nơi đã phát hiện được di cốt người Việt cổ với niên đại 4000 – 5000 năm trước. Đây là bằng chứng rất rõ ràng rằng các vị Long Vương là những quân chủ vùng ven sông biển, lấy nghề đánh bắt thủy hải sản mà sinh sống từ thời kỳ dựng nước trên 4000 năm trước.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết những người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển được gọi là các Thủy thượng Linh thần. Chữ Linh có phát âm khác là Lung, cũng là Long, chỉ rồng. Linh Lang tức là Long Vương. Vị thần hồ Tây Uy Linh Lang do đó chính là vua cha Lạc Long Quân của thời sơ sử. Hồ Dâm Đàm là đầm rồng của Thủy quốc Động Đình, nơi Long Quân cùng với những người anh em trấn trị tại đó. Sự tích này còn ghi trong Lĩnh Nam chích quái về việc Long Quân cùng Lục bộ Thủy phủ dâng nước diệt con cáo chín đuôi ở Hồ Tây. Long Quân còn là thần chính khí Long Đỗ, vị thành hoàng của kinh thành Thăng Long xưa.

3. Hình tượng rồng đã xuất hiện từ rất sớm trên những di vật khảo cổ đồ đồng thời Ân Thương (trên 3000 năm trước). Thường gặp nhất là hình rồng 1 chân, gọi là quỳ long, rất phổ biến trên các đồ đồng từ thời kỳ này. Truyền thuyết Long sinh cửu tử với 9 đứa con của rồng là 9 cách thể hiện hình tượng rồng trên các đồ dùng với những chức năng khác nhau. Ví dụ như hình mặt thú Thao thiết thường gặp trên các đỉnh đồng xưa. Hình Tiêu đồ với mặt rồng ngậm vòng, thường dùng trên các bình đồng làm quai cầm hay tay nắm cửa. Nhai tí là tên gọi cho hình rồng đúc trên chuôi các loại vũ khí như giáo, dao găm… Công phúc là loại rồng dẫn thủy, gặp trên các ấm đồng có vòi rót dài hình rồng… Rồng đã biến hóa vào mọi mặt của đời sống người Việt cổ.

Trong văn hóa tín ngưỡng, các vị Long Vương còn gặp ở một dạng thể hiện khác. Ở Nhật Tân có sự tích bà phi của vua Diệu Đế sinh ra một bọc, đem để ở bãi Nhật Chiệu, rồi nở thành 7 con rồng bay lên trời. 7 con rồng này là thần Uy Linh Lang và Đoài hồ thất giáp (7 giáp của hồ Tây). Tại bãi này người ta trồng 7 cây hoa gạo (mộc miên) để tưởng nhớ đến các vị thần rồng. Ngày sinh của Uy Linh Lang và những người anh em cùng bọc của mình là vào 10 tháng 2 Âm lịch. Đây cũng là lúc hoa gạo vào mùa nở đỏ rực ở bên bờ sông Hồng. Những cây hoa gạo nở hoa đỏ tháng 2 là hình ảnh rất sống, rất thực của Rồng bay lên trên đất Thăng Long.

Ở Long Hưng điện tại xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên có sự tích vua Triệu Đà đi qua nơi đây, thấy rồng bay lên nên đã đặt tên là Thăng Long. Tên gọi Thăng Long của vùng Long Biên – Hà Nội như thế có từ thế kỷ 3 trước Công nguyên. Thăng Long là hình ảnh “Phi long tại thiên” của hào từ thứ năm trong quẻ Càn của Kinh Dịch. Đây là hào từ chỉ sự thăng hoa cao nhất của người quân tử. Rồng bay lên tức là trạng thái thành đạt, khi vua lên ngôi Hoàng đế, lập nên một triều đại.

Gắn với vua Triệu Vũ Đế còn có là di vật cổ là tượng một con Rồng đá lớn, cao bằng người, ở trên núi Châu Sơn (nay thuộc Quế Võ, Bắc Ninh). Con rồng đá này được tạo hình có mỏ chim, có cánh như thể hiện sự kết hợp giữa rồng và phượng. Con Rồng đá núi Châu Sơn là linh vật của ở đền thờ Triệu Vũ Đế có từ thời Hán. Nó là di vật chứng minh cho sự kiện Triệu Đà khởi nghĩa kháng Tần, lập căn cứ ở vùng núi này.

4. Ở một hướng phát triển khác, trong dòng tộc người Việt theo mẹ Âu Cơ lên núi, rồng được thể hiện khá nhiều trên các đồ đồng văn hóa Đông Sơn. Những hình rồng ở đây được gọi là Giao long. Hình Giao long thường gặp thành từng cặp ở trên các lưỡi rìu, lưỡi giáo, trống đồng, đồ trang sức… của văn hóa Đông Sơn. Ở đây Giao long được thể hiện như một loài thú có 4 chân, đuôi như có lông, trải dài hoặc cuộn, có mõm dài, có mào. Tiền thân của hình tượng Giao long có thể là loài cá sấu (hay thuồng luồng), vốn là loài bò sát lớn sinh sống phổ biến ở các vùng sông nước miền Bắc nước ta vào thời trước Công nguyên. Sự xuất hiện của hình tượng rồng Lạc (giao long) này cùng với hình chim Âu trên các đồ đồng Đông Sơn chỉ rõ sự hợp nhất hai dòng Âu – Lạc, lên núi xuống biển vào thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên.

Liên quan đến hình tượng Rồng lịch sử còn ghi vua Triệu Việt Vương khi ẩn trong đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) đã được một vị thủy thần là Quý Minh Đại vương, cưỡi rồng vàng hạ xuống, tháo móng rồng trao cho để làm thành bảo bối mũ đâu mâu. Oai lực của đâu mâu móng rồng chỉ vào đâu là giặc ở đó tất tan. Những nơi thờ Triệu Việt Vương ở vùng đầm Dạ Trạch luôn thờ cùng với các vị thủy thần tại đây như Quý Minh Đại vương hay Linh Lang Đại vương. Những ngôi đình, ngôi đền cổ thờ các vị thần này được thể hiện bằng những bức chạm rồng thành hàng bầy, vô cùng sinh động. Phải chăng đó là trạng thái “Quần long vô thủ” như hào từ thứ 6 của quẻ Càn trong Kinh Dịch nói tới, chỉ sự thái bình thịnh vượng?

Hiện vật khảo cổ tiêu biểu thường gặp sau thời kỳ nước Âu Lạc là các gương đồng. Những chiếc gương thời Hán được chôn theo người chết với ý nghĩa dẫn đường cho vong linh về với tiên giới, về với tổ tiên. Trên các gương đồng thời Hán, rồng được thể hiện là Thanh Long, một trong bốn loài linh thú (tứ linh). Chữ viết trên gương đồng ghi: Rồng trái, hổ phải trừ đi điều xấu. Con rồng trên gương đồng như thế là biểu tượng của sự cát tường, may mắn. Cùng thời kỳ này còn hay gặp hình ảnh các vị chân nhân cưỡi rồng bay trên mây. Đây là thể hiện sự đắc đạo phi thăng thành Tiên. Hình tượng cùng chủ đề này gặp ở trên mảng chạm tại đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội), khắc họa những vị tiên có thân rồng. Chủ đề rồng thời kỳ đầu Công nguyên gắn liền với quan niệm tu tiên của Đạo giáo.

Từ khi Kinh Dương Vương trị thủy, vượt Vũ Môn hóa rồng, mẫu Thần Long và vua cha Lạc Long Quân dẫn con dân người Việt chinh phục miền sông nước ven biển Đông, hình tượng rồng đã đi vào tâm thức tín ngưỡng của người Việt, là biểu trưng cho nhiều mặt của đời sống như ăn, uống, làm nông nghiệp, thủy lợi, chiến đấu bảo vệ quê hương. Rồng bay lên trên đất Thăng Long là khi người Việt đạt đến chế độ phát triển tổ chức xã hội cao nhất, Triệu Vũ Hoàng Đế nhất thống sơn hà, hải nội. Những vị chân nhân đắc đạo cưỡi rồng phi thăng bất tử thành tiên. Con rồng biểu tượng vừa cho sự chinh phục miền sông nước biển Đông thời lập quốc, vừa là sự thăng hoa tinh thần của xã hội người Việt khi thiên hạ thống nhất một dải.

Bài viết đăng trên Tạp chí Năng lượng mới số Tết năm Giáp Thìn 2024.

Thần tích làng Đào Động tổng Vọng Lỗ huyện Phụ Dực tỉnh Thái Bình

Ngọc phả chép về một vị thủy thần xuất thế triều Hùng

Chi Chấn, Thượng đẳng

Bản chính Lễ bộ quốc triều

Xưa Việt ta trời Nam mở vận, thánh tổ dựng cơ đồ 18 nhánh truyền nối nhau hơn hai ngàn năm thịnh trị, cha truyền con nối đều xưng hiệu là Hùng Vương. Ngọc lụa xe sách, núi sông thống nhất, chính là tổ của Bách Việt vậy. Khi cơ đồ họ Hùng trị vì 18 nhánh truyền đến Duệ Vương. Vương có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, được tổ gây dựng, cha ông bồi đắp 17 đời thịnh trị, trong tu dưỡng văn đức, ngoài phòng bị biên phương, dốc lòng hưng bình để yên Trung Quốc.

Đương khi đó ở tại trang An Cố, huyện Thụy Anh, phủ Thái Ninh, đạo Sơn Nam có một gia đình họ Phạm tên Túc, vợ là Trần Thị Ngoạn. Vợ chồng đều cùng có lòng từ ái, tạo phúc cho người. Gia đình vốn giàu có, nhưng chỉ có đường con cái là chưa thành sinh dục. Một ngày trời trong bà Trần đi ra đường ngoài dạo chơi, gặp một người con gái, mới hỏi rằng:

  • Cháu sống ở đâu đây?

Người con gái nói:

  • Cháu là người ở nước phương Bắc, gia đình vốn nghèo nàn. Cha mẹ mất sớm, không có anh em nào. Cháu nay đi tha phương tìm nơi sinh sống, xem có chốn nào dư giả, cháu xin được vào làm con cái.

Bà Trần bèn dẫn về nhà làm con nuôi, mới đặt tên là Quý Nương. Ở được mấy năm một hôm bỗng nhiên ông Phạm bị bệnh mà mất. Bà Trần cùng kế theo mà mất. Nàng Quý tìm đất tốt làm lễ chôn cất, phụng thờ trong nhà 3 năm. Tang sự xong, một hôm nàng Quý đi ra nơi cửa biển tắm rửa. Đang khi tắm gội bỗng thấy một con giao long thân dài hơn 8 thước, tiến đến quấn quanh người nàng Quý 3 vòng. Một lúc nàng Quý khi tỉnh lại, vô cùng sợ hãi. Từ đó thấy tâm thần cảm động mà có mang. Nhân dân đều nói không chồng mà chửa. Nàng Quý bèn trốn tới ở trang Hoa Diêm.

Mang thai được 13 tháng tới năm Đinh Tị sinh hạ một bọc. Nàng Quý lấy làm kỳ lạ mới đem ra ngoài cửa biển mà ném đi. Bọc đó trôi về đến ngoài sông trang Đào Động. Nơi đó có một người họ Nguyễn, tên Minh, gia cảnh nghèo nàn, lấy việc đánh giá làm nghề nghiệp. Lúc đó ông đang đánh cá bỗng thấy có một bọc trôi vào trong lưới cá của ông. Ông lấy làm lạ, vớt lấy đem ném đi thì bọc lại trôi vào. Do vậy ông mới khấn rằng:

  • Nếu bọc này quả thật linh thiêng như vậy, thần xin được lấy dao bổ ra.

Vừa bổ ra thì thấy ba con rắn đều rất hùng dũng, nhảy nhót chia nhau chạy về các hướng. Con rắn thứ nhất ở cửa sông trang Đào Động. Con rắn thứ hai chạy về cửa sông trang Thanh Do. Con rắn thứ ba chạy về nằm ở trang Hoa Diêm. Từ đó mỗi con ở một nơi.

Lại nói việc 2 con rắn có tích riêng. Còn con rắn thứ nhất sống ở cửa sông trang Đào Động. Khi ấy phụ lão nhân dân trang Đào Động thấy vậy đều sợ hãi, biết đúng là thủy thần xuất thế. Phụ lão quay về làm lễ ở cửa sông bái tạ, khấn rằng:

  • Nếu đúng là thủy thần xuất thế linh thiêng như vậy, chúng thần đều xin được làm thần tử, xin ngài về bản trang, dân chúng thần sẽ lập đền phụng thờ.

Từ đó trang Đào Động cầu gió được gió, cầu mưa được mưa, dân được lợi nhiều.

Lại nói, qua được 3 năm, một hôm thấy trời đất mờ mịt, mưa gió lớn nổi lên, tối tăm cả một vùng. Sấm chớp vang liền mấy chục tiếng trên cửa sông. Buổi sáng phụ lão nhân dân ra xem thì thấy ở dưới sông có tiếng ngâm thơ rằng:

Xuất vi danh tướng hoá vi thần

Vạn cổ danh phương nhật nhật tân

Hà nhật binh qua nhi mãn địa

Thử thì ngô đẳng thuỷ thành nhân.

Đến khi cơ đồ họ Hùng đương lúc vận suy, Duệ Vương sinh 20 hoàng tử, 6 công chúa, đều lần lượt theo nhau về chầu cố hương. Duy chỉ còn 2 người con gái, người thứ nhất là công chúa Tiên Dung, được gả cho ông Chử Đồng Tử. Còn người thứ hai tên là công chúa Ngọc Hoa, cung thiềm còn đóng, nhụy ngọc chính kỳ, duyên lành chưa sớm định ước. Vương bèn dựng lầu ở cổng thành Việt Trì, ban chiếu truyền rằng thần dân thiên hạ, ai có tài trí thông minh, anh hùng đức đô, có thể nhận ngôi vị của trẫm thì sẽ truyền ngôi và gả công chúa cho.

Ngày đó trên sông thuyền bè nối nhau, trước lầu toàn xe ngựa. Tất cả đều nghe chiếu thiên tử mà nổi lòng trạng nguyên bốn biển. Bút văn múa như động ảnh rồng rắn làm sao đẩu bay lạc, lạnh cả khúc sông. Trận võ mở mà hổ báo kinh hồn, sấm chớp lan cửa biển. Một vùng quốc gia bốn biển anh hùng. Nhưng tất cả đều không đạt, xuôi chảy tầm thường, không có người có thể gọi là toàn tài. Duy chỉ có Sơn Thánh có nhiều kỳ tài thông trời thấu đất, có phép màu ngăn sông dời núi. Vua cho là người đứng đầu thiên hạ, bèn gọi công chúa đến gả cho Sơn Thánh, muốn nhường lại ngôi vị.

Khi ấy có Thục chủ là bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái họ Hùng, nghe Duệ Vương tuổi trời đã cao mà 20 hoàng tử đồ đã tiên du, không có người nối dõi, bèn thừa cơ phát động, cầu viện nước láng giềng trăm vạn quân tỳ hưu, tám ngàn kỵ mã chia làm 5 đạo. Một đạo theo núi Hoàng Nghiêm, Quỳnh Nhai, đất 16 châu mà ra. Một đạo theo đất các châu Tuyên Quang, Tụ Long, Bảo Lạc mà ra. Một đạo theo châu Minh Linh, Bố Chính ra. Một đạo theo Ái Châu, đạo Sơn Nam ra. Một thủy đạo theo cửa biển Hội Thống, Hoan Châu. Thủy bộ cùng tiến, quân thanh vang dội. Duệ Vương vô cùng lo lắng, bèn lập đàn tràng cầu đảo trời đất bách thần. Tối dó Vua nằm mơ thấy trước mặt có sứ giả thiên đình áo xanh nói rằng:

  • Giặc này tuy là giặc lớn, nhưng Hoàng thiên thương xót nên đã giáng cử nhiều tướng tài. Nay có ba vị thủy thần giáng sinh ở huyện Thụy Anh, phủ Thái Ninh, đạo Sơn Nam. Một vị sống ở trang Hoa Diêm. Một vị sống ở trang Thanh Do. Một vị sống ở trang Đào Động. Đều đang ở hình rắn. Xin bệ hạ sai sứ giả đến các nơi này, tất sẽ biến thành người, với Sơn Thánh cùng nhau dẹp giặc. Tất trong vài ngày có thể định được.

Bỗng nhiên Vua tỉnh lại, bèn lập tức sai sứ trở về các nơi, triệu gọi ba vị thủy thần. Sứ giả vâng mệnh cầm cờ tiết trở về các nơi. Khi sứ giả đến trang Đào Động bỗng thấy trời đất mù mịt, sấm gió to nổi lên, cửa sông ầm ầm như sấm sét nổi lên. Tự nhiên rắn biến thành người, tự xưng là Vĩnh Công, đích thực thân cá mặt rồng, thân dài 8 thước, sức địch vạn người, về đứng trước sân. Rồi trở về trang Hoa Diêm bái yết thân mẫu. Anh em cùng nhau đường đường vào gặp Vua. Vua thấy ba người có hình lạ tướng kỳ, đúng là thủy thần xuất thế, khác hẳn người thường.

Ngay hôm đó Vua bái Vĩnh Công làm Trấn Tây, đóng ở đất Ái Châu, Sơn Nam, Hoan Châu, cùng với các tướng dẫn quân đánh giặc Thục. Lại triệu Sơn Thánh đến hỏi kế sách. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Hai nghìn năm đến nay 17 bậc quân vương thánh hiền tạo nhân nghĩa sâu dày đã thấm sâu vào tận xương tủy. Nay đất nước đang lúc quân mạnh, oai đức của bệ hạ vang xa hải ngoại. Còn người Thục không biết tự giữ gìn lại dám quật cường, cơ sự thua bại đã thấy rõ vậy. Thần cùng với ba vị thủy thần xin được thay thánh giá xuất quân. Quân Thục không quá nửa tháng sẽ dẹp được.

Vua nghe vậy rất vui mừng, bèn đích thân lấy búa việt giao Sơn Thánh quản theo các đầu núi. Lại giao cho  ba vị thủy thần quản theo tới hải đảo. Ba vị thủy thần nhận hai mươi vạn hùng binh, một ngàn viên tướng giỏi. Hôm đó, Sơn Thánh cùng với ba vị thủy thần bái tạ trước sân vua, đường đường bày binh bố trận. Sơn Thánh là tiền quân. Vĩnh Công là trung quân. Còn hai vị là hậu quân, tiến thẳng đến các vùng hải đảo, cùng với vạn đội rồng rắn, ngàn hàng hổ báo. 5 đạo quân Thục đều thua to, xe không còn một chiếc, ngựa không còn một con, chạy về nước.

Các ngài dâng biểu báo tin thắng trận về cho vua rằng giặc Thục đã dẹp xong. Vua nghe tin bèn trong hôm đó hạ chiếu triệu các tướng về triều nhận việc. Vua bèn truyền trăm quan mổ trâu làm lễ bái tạ trời đất bách thần, khao thưởng gia thần thủ túc, thưởng cỗ ba quân. Từ đó vua tôi hợp đức, trong phủ vô sự, bốn biển thấy cảnh tượng thái bình, vạn dân no đủ vui vẻ. Vua bèn gia phong các bậc chức tước và thực ấp. Phong Vĩnh Công là Nhạc phủ Thượng đẳng thần.

Vĩnh Công bái tạ, không nhận. Lại dâng biểu xin cho trang Đào Động được dùng tô thuế binh dịch để làm ấp hộ nhi. Vua đồng ý. Ông bái tạ vua, xe ngựa trở về trang Đào Động, khao thưởng nhân dân, gia thần thân tín. Ông bèn lấy 10 người ở trang Đào Động làm gia thần thân tín. Rồi lại về bái yết thân mẫu, ở đó vài tháng. Chẳng may thân mẫu bị bệnh mà qua đời. Ông bèn tìm đất tốt làm lễ an táng, phụng thờ trong nhà 3 năm. Đến khi hết tang, Ông đi xem địa thế. Một hôm đi đến bên sông ở trang Đào Động, thấy có một khu đất có sơn thủy hữu tình. Bèn cho lập đồn dinh mà ở đó. Lại mở yến tiệc, gọi phụ lão nhân dân đến uống rượu, nói:

  • Ta cùng với nhân dân đã thành nghĩa cũ, không phải mới có ngày một ngày hai mà mất đi được. Ta có 10 nén vàng gửi cho nhân dân để mua thêm đất đai ao hồ dùng làm cơ sở để về sau khi ta trăm tuổi có nơi hưởng thần phụng thờ.

Từ đó nhân dân đều an vui, khuyến khích cấy trồng, tăng lợi bớt hại. Dân đều giàu có, được mùa, thật có công lớn với dân vậy.

Ở được vài năm tới năm Bính Dần trời thu ngày 25 tháng 8 Vĩnh Công một buổi cùng với nhân dân ngồi ở trong cung sở. Tự nhiên mưa gió nối nhau, ban ngày như đêm. Trong khoảnh khắc trời đất sáng lại. Nhân dân thấy nơi ông ngồi không có ai. Ông đã hóa vậy. Nhân dân lấy đó làm kỳ lạ, bèn làm biểu tâu lên vua. Vua nghe vậy nhớ ông là Trấn Tây An Tam Kỳ.

Vua bèn gia phong mỹ tự là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng Đại vương, Thượng đẳng quốc tế. Sắc chỉ ban về cùng với 400 quan tiền đồng, cho phép xã Đào Động đón thần hiệu về sửa sang miếu điện để phụng thờ, lưu truyền hương khói cùng với nước nhà hưởng lành vậy.

Truy phong Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng Đại vương.

Lại nói từ đó về sau trải tới Tiền Lý, Hậu Lý, Đinh, Lê, Lý, Trần, thường có giúp nước giữ dân, có nhiều đời đế vương gia phong mỹ tự, để vạn năm cúng hưởng, vạn thế không ngừng.

Phụng khai các lệ sinh hóa cùng với các chữ húy Vĩnh, nhất thiết cấm.

Phụng ngày sinh là mồng 10 tháng Giêng, lễ dùng trên cỗ chay, dưới dùng lợn đen làm lễ.

Phụng ngày hóa 25 tháng 8, lễ dùng trâu, xôi, rượu.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hữu, năm thứ hai, tháng giữa đông, ngày tốt.

Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn.

Bát phẩm thư lại, thần là Nguyễn Hiền vâng sao.

Phả lục chép về năm vị đại vương thủy thần triều Hùng Tuấn Vương

Chi Cấn, bộ Thượng đẳng

Chính bản bộ Lễ quốc triều.

Xưa nước Việt trời Nam mở vận, phân chia núi sông theo sao Dực sao Chẩn. Nước Bắc phân phong ban đầu thẳng theo sao Đẩu sao Ngưu. Từ Kinh Dương Vương triều Hùng tuân theo mệnh vua cha phân phong làm dòng dõi đế vương nước Việt ta, đất đẹp châu Hoan xây dựng kinh đô, núi mạnh Nghĩa Lĩnh sửa tăng đến miếu, truyền nước đời kế tiếp xưng là Lạc Long Quân, lấy tiên nữ Động Đình, ở đầu núi Nghĩa Lĩnh. Mây lành năm sắc rạng rõ. Âu Cơ từ đó mang thai, đến khi sinh hạ được một bầu trăm trứng, nở ra trăm con trai tốt lành, đều là những anh hùng hơn đời, đức độ vượt người. Đến khi trưởng thành Vua bèn phong hầu lập bình phong, chia Trung Quốc thành 15 bộ. Thế rồi Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

  • Ta là giống rồng, nàng là dòng tiên. Tuy khí âm dương ngũ hành hợp lại mà có con, nhưng chủng loại không giống nhau, không thể chung sống.

Nhân đó chia biệt, bèn phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần, phân trị các đầu sông góc biển. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần, phân trị các khu bãi trên núi vùng trung du. Sau này có việc báo cho nhau, tất đến tương trợ, như thế không thể suy được. Thế là họ Hùng có bách thần sông núi, thường có thể xuất thế, đầu thai nhập làm con của các gia đình người dân, để giúp nước trợ dân vậy. Gia đình nào có phúc tất sẽ gặp được.

Lại nói, khi đó cơ đồ họ Hùng truyền 17 đời đến Tuấn Vương, ngự đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, dựng nước  tên là Văn Lang. Quốc đô tên là thành Phong Châu. Vua là người có hùng tài đại lược, tư chất thánh triết, kế thừa cơ đồ 17 đời tổ dựng tôn đắp, trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, cố sức để hưng bình mà yên Trung Quốc.

Trước đó có thánh quân Động Đình Bát Hải, chính cung hoàng hậu nằm mộng thấy rồng cuốn phượng quần quanh thân, hào quang đầy nhà. Hoàng hậu sợ hãi tỉnh lại mới biết là nằm mộng. Bèn đem sự việc kể với Thánh quân. Thánh quân nói đó tất là có điềm làm. Từ đó Hoàng hậu thấy trong người có mang. Tới ngày mồng 10 tháng 8 năm Mậu Tý thì sinh hạ được một bầu mười chàng hoàng tử, đều có thiên tự khác lạ, diện mạo phi thường. Thánh quân biết là thần tiên xuất thế nên rất yêu mến.

Tuấn Vương nghe chuyện bèn ban chiếu lệnh cho các châu huyện, nơi nào có 10 vị hoàng tử, lại có tài văn võ, học vấn sâu rộng cùng với những tài nghệ riêng biệt thì đến nhận quan tước. Khi ấy đạo Sơn Nam Thượng có 10 vị hoàng tử ứng tuyển, đến trước bệ rồng ứng đối lưu loát, thể hiện tài văn võ không thể nào sai. Trong 2 năm sau Vua cho vị thứ nhất là Long cung Thái tử. Còn lại 9 người đều là Hoàng tử. Từ đó thầm nhuần ơn thánh, đậm sâu ơn vua, có duyên lớn hương khói vậy.

Khi ấy họ Hùng đương lúc mạt, ý trời muốn dứt. Tuấn Vương sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa đều theo nhau tiên du tuyệt tích, không có người nối dõi. Chỉ còn công chúa thứ hai là Mị Nương được gả cho Tản Viên Sơn Thánh, định kế nối ngôi vị.

Khi đó các nước láng giềng vạn nhà Ai Lao, Chiêm Thành nghe đồn Tuấn Vương tuổi thọ đã cao mà 20 hoàng tử đều tiên bồng tuyệt tích, không người nối dõi, định nhường ngôi cho con rể Sơn Thánh, bèn thừa cơ động binh, cầu viên các nước tập hợp trăm vạn tinh binh, ba ngàn ngựa khỏe, chia làm 5 đạo, theo cửa biển Hội Thống thủy bộ cùng tiến. Quân thanh chấn động. Thư từ biên cương gửi gấp, một ngày tới 5 lần.

Vua rất lo lắng, bèn triệu gọi Sơn Thánh đến hỏi kế sách. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Hơn 2000 năm 17 bậc quân chủ thánh hiền tạo ra ơn sâu đức dày đã tới tận xương tủy. Hiện nay nước giàu quân mạnh. Oai đức của bệ hạ vang ngoài hải ngoại, lại có lòng trời yêu mến, giáng sinh nhiều anh tài. Ví như mười vị hoàng tử long cung có khí độ hơn người, kinh luân trùm cổ, kiêm tài văn võ, có tài ứng đối, thật là bách thần sông núi có nhiều xuất thế. Còn nước giặc không biết bảo thủ, dám đến quật cường, thì cơ sự bại thua đã cầm chắc vậy. Một ngày Bệ hạ thảo phạt hỏi tội, lấy uy đức mà phục thì tất dân ta đều vì Bệ hạ mà chống giặc. Mối lo này chỉ là trong phút chốc. Sự thể thế này thì thần nguyện xin cử 10 vị hoàng tử đến trấn giữ ở các nơi hiểm yếu đầu các con sông. Còn thần tự xin được thay Bệ hạ tìm chọn tướng tài. Giặc nước không quá vài tuần là dẹp được.

Vua rất vui mừng, lập tức gọi 10 vị hoàng tử long cung đến dẫn quân tuần phòng, chia làm 2 đạo để giữ vững các đường quan trọng ở các đầu sông. 10 vị hoàng tử long cung bái nhận 5000 quân thủy bộ chia thành 2 đạo trước tiên lên đường. Cờ xí gió thổi vạn dặm. Đầu thuyền chiêng trống động ngàn núi.

Một hôm buổi chiều tối dẫn quân tiến đến vùng đất đầu bến sông ở trang Hoa Đào, quận Phụ Phụng, đạo Sơn Nam. Bèn cùng nhau đóng quân ở nơi đó. Xem xét địa thế, thấy có một nơi sông núi uốn lượn, rồng hổ chầu ôm. Núi không cao mà có các bãi. Nước có bến đẹp lại thuận tiên. Tưởng cũng là một nơi phong quang thắng cảnh. Thái tử bèn truyền quân sĩ cùng nhân dân xây dựng 5 đồn để chống giặc ngoài.

Khi ấy phụ lão nhân dân trang Hoa Đào đều sợ hãi, bèn đến làm lễ xin được làm thần tử. Thái tư đồng ý.

Ngày hôm đó Thái tử bèn truyền quân sĩ mổ trâu, lợn để tế cáo trời đất bách thần sông núi, khao hưởng quân sĩ. Lúc ấy đang trời mùa đông thượng tuần tháng 11, bỗng thấy thư của Sơn Thánh gửi đến, trong nói là thiên hạ đã yên bình. Các vị bèn làm biểu tâu về triều. Vua ban chiếu triệu hồi. Thái tử cùng với 9 vị hoàng tử vâng mệnh quay về. Vua mở tiệc lớn mừng chiến thắng, gia phong các cấp bậc cho các tướng sĩ. Cho 5 vị được hưởng thực ấp ở quận Phụ Phụng. Còn 5 vị được quản trị các cửa biển. 5 vị hoàng tử bái tạ, trở về quận Phụ Phung nhận chỗ quản trị thực ấp. Thời gian sau đến nơi đồn ở trang Hoa Đào.

Một hôm bày tiệc mời phụ lão nhân dân, gia thần đến ăn uống. Khi ấy phụ lão nhân dân Hoa Đào đều tâu rằng:

  • Từ khi đại nhân dựng đồn sở thì dân đều được yên ổn, lấy uy đực mà phục người. Xin nơi nay là đồn, sau sẽ làm nơi thờ phụng.

Ngài đồng ý, lại nói với phụ lão nhân dân rằng:

  • Trang của các ngươi đã có lòng với ta tất sẽ giữ di mệnh của ta, muôn năm hương khói, vạn cổ thờ phụng hưởng  5 vị hoàng tử ở nơi trang này.

Đại vương lại ban cho 10 nén vàng để sau này mua thêm đất đai dùng cho việc thờ cúng. Việc xong , bỗng không gian nơi đó thấy trời đất mờ mịt, mưa to gió lớn nổi lên, mây mù bốn phía. Có một chiếc thuyền rồng từ cửa biển tiến đến. 5 vị hoàng tử lên thuyền mà trở về thủy tế. Bỗng thấy mây phủ mù mịt. Ban ngày mà như đêm. Một lúc thì quang tạnh. Lai thấy trăm đến chầu. Không thấy 5 vị hoàng tử nữa, tức đã hóa thần vậy. Khi đó là ngày 15 tháng 2. Lúc đó mọi người đều rất sợ hãi, bèn làm biểu tâu lên Vua. Vua nghe việc đó bèn sai quay về làm lễ tế, lại sai sứ giả mang sắc phong bách thần đến.

Gia phong vị thứ nhất là Long cung Chàng Cả Trấn Bắc Anh linh Thịnh đức Đại vương.

Gia phong vị thứ ba là Bình Giang Hùng trưởng Hiển ứng Phổ quang Huệ đạt Đại vương.

Gia phong vị thứ tư là Thủy quan Linh ứng Hộ vật An dân Đại vương.

Gia phong vị thứ bẩy là Thủy quan Đào tiên Triệu mưu Tả tịch Thịnh đức Phong công Đại vương.

Gia phong vị thứ tám là Kim chi Cống Đôi Anh linh Đại vương.

Trang Hoa đào đón mỹ tự về dân lập miếu thờ phụng. Kính vâng!

Ngày sinh thần chính lệ là mồng 10 tháng 8, dùng trên cỗ chay, dưới thịt lợn đen, hát cơ, vui chơi các trò.

Ngày hóa thần chính lệ là 15 tháng 2, từ ngày 12 đến 15 dùng lễ trên cỗ chay phẩm quả, dưới dùng trâu lợn, bánh trôi bánh dày, cấm ca hát.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất, tháng đầu xuân ngày tốt, Thái tử Thiếu bảo Đại học sĩ Hàn lâm Lễ viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn bản chính.

Hoàng triều năm Vĩnh Hữu thứ 6, giữa thu, Nội các bộ Lại lại vâng theo bản chính cũ mà chép.

Phả lục chép về 5 vị Đại vương thiên thần âm phù triều Trưng nữ vương

Chi Cấn, bộ Thượng đẳng thần

Bản chính Lễ bộ quốc triều.

Xưa nước Việt trời Nam mở vận, phân ngang sông núi theo sao Dực sao Chẩn. Nước Bắc ban đầu phong phân thẳng theo hướng sao Đẩu sao Ngưu. Từ Kinh Dương Vương triều Hùng vâng mệnh vua cha phân phong làm dòng dõi đế vương nước Việt ta. Đất đẹp châu Hoan xây dựng kinh đô. Đầu núi Nghĩa Lĩnh mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ từ đó có mang, đến lúc sinh hạ được một bầu trăm trứng, rở ra được điềm trăm trai, đều là những anh hùng hơn đời, đức độ vượt người. Đến khi trưởng thành Vua bèn kiến phong hầu tước, lập bình phong, chia phong trong nước  làm 15 bộ. Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

  • Ta là giống rồng, nàng là giống tiên. Tuy khí ngũ hành hợp lại mà có con, nhưng chủng loại không giống nhau, nước lửa tương khắc, không thể chung sống.

Bèn chia biệt mới phân 50 người con theo cha xuống biển làm thủy thần, phân trị các đầu sông góc biển. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần, phân trị các bãi khu trên núi. Khi có sự thì báo cho nhau, tất đến tương trợ, để không thể cùng suy yếu. Từ đó về sau nhà họ Hùng có bách thần sông núi thường có thể xuất thế, biến hóa thần kỳ, âm phù giúp nước giúp dân vậy.

Xưa thời Đông Hán, Tô Định dẫn quân đến lãnh thổ, xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương, không người cứu giúp. Cho đến người cháu gái Hùng Vương tên Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, thánh thần nơi thượng thế, nổi hùng oai cất quân đến đánh. Thế mà đương khi ấy chưa có được người nam nhi có tài thao lược. Nữ tướng xuất quân, phát động thần linh. Trưng nữ bèn cáo tế Tản Viên Sơn Thánh và hội đồng trăm thần ở cửa sông Hát (tức xứ Sơn Tây), lập đàn cáo tế, chúc rằng:

  • Con người là dòng dõi của vạn vật trong trời đất, vốn là chủ của các sinh linh, gây dựng nên cây cỏ. Trải đời đời các thiên tử đế vương đời trước đều là thánh minh. Triều đình có đạo yêu dân lo nước, đức hóa thâm sâu, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có kẻ ngoại tộc tên Tô Định, loài dê chó thường cuồng xướng lộng hành, phá hoại chính sự, tàn hại nhân dân. Trời đất, người thần đều căm phẫn. Thiếp hiềm là một cháu gái của Hùng Vương, nhắc đến sinh linh Hoàng thiên rơi lệ. Ngày nay trong lòng đau xót, trượng nghĩa mà dẹp bạo tàn. Xin được trăm vị tôn linh thần về hội đàn chứng giám cho lời thề, giúp sức cho Trưng nữ thiếp dẫn quân dẹp giặc, giữ nước cứu dân. Để thiếp được phục tổ yên tông các chốn cũ, để yên sinh linh nơi ăn chỗ ở, đưa sinh linh khỏi nước lửa lầm than. Sau là để không phụ ý Hoàng thiên, yên nơi thiêng miếu thờ Tiên hoàng, an ủi tổ phụ nơi chín suối.

Chúc xong hô xuất âm binh ngàn hàng vạn đội. Lại truyền hịch đi các đạo châu huyện nước Nam, nếu có nhân tài văn võ đều đến giúp để giữ yên đất nước. Trong vài ngày đều cầm quân đến làm phiên thần, tiến đến đồn của Trưng nữ tự nguyện xin làm thần tử, hết sức lập công. Trưng nữ vui mừng, lập tức xuất quân.

Khi tiến đến đất trang Hoa Đào, quận Phụng, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam Hạ, bỗng thấy một nơi có thể dùng binh rất tốt. Bèn truyền quân cho lập một đồn để sau này ứng phó với quân Tô Định. Đêm đó Trưng nữ nằm ở nơi đồn quân, đến cuối canh ba thấy mơ màng như mộng. Bỗng thấy có 5 ông lão quần áo chỉnh tề, hình dung cổ quái từ trên trời hạ xuống trên đường  mà tiến đến, tự xưng là năm vị thành hoàng linh thần, dõng dạc nói:

  • Chúng ta vốn là dòng dõi họ Hùng, vâng thừa mệnh Thiên đình. Đã có quân vương tất có thần giáng ứng âm phù theo quân đội lập công. Ngày sau hiển linh cùng được phối thờ.

Lời thần dứt thì bay lên không mà biến mất. Lúc thần hiện là mồng 2 tháng 2. Trong một lúc Trưng nữ tỉnh lại, biết là thần linh ứng mộng đến trợ giúp. Sáng hôm sau bèn làm lễ bái tạ. Trưng nữ tiến quân thẳng đến đồn Tô Định, bao vây các hướng, đánh một trận lớn, bắt được chính tướng cùng các tì tướng cùng quân sĩ vài ngàn đầu. Thu được vô số khí giới, xe ngựa. Quân Tô Định thua chạy không biết nơi nào. Trưng nữ mới xây dựng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục lại hết đất Nam bang.

Từ đó thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Bèn lên ngôi xưng vương. Mới sai sứ giả ban chiếu phong cho các cấp tướng sĩ. Xong việc Vương mở tiệc lớn, sắc ban thêm các cấp bậc cho các tướng sĩ. Nhân đó nói:

  • Giặc Tô Định dẹp sạch cũng là nhờ có thần âm phù trợ giúp.

Bèn gia phong bách thần.

Gia phong 5 vị bản cảnh thành hoàng Trung quốc Hùng chấn Uy linh Ngưng hưu Thượng đẳng thần.

Đến khi vua Lê Đại Hành niên hiệu Thiên Phúc xem xét bách thần, thấy có nhiều linh hiển bèn gia phong 5 vị thành hoàng là Đôn ngưng Chính trực Hiển hữu Đại vương Thượng đẳng thần.

Gia phong Uy minh Hiển hữu Đao lợi Thiên linh Đống Phan Hiển ứng Đại vương.

Gia phong Uy trực Hiển hữu Cương nghị Hùng kiệt Hãn vệ xã Ba lãng thần Đại vương.

Gia phong Cương đoạn Chính trực Lôi điện Đống thần Hùng canh Linh thông Hiển vị Đại vương.

Gia phong Minh trực Linh quang Trấn võ Đông Bắc Phu ngưng Chương tấu Hậu đồng Lực lượng Đại vương.

Gia phong Hùng nghị Trấn Bắc Thông minh Chính trực Trí huệ Anh mẫn Trợ thuận An dân Đại la Thiên tử Đại vương.

Lại nói từ đó về sau có nhiều linh ứng, nên có nhiều đời đế vương gia phong mỹ tự.

Thời Trần Thái Tông, giặc Nguyên đến xâm phạm, kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh cầu đảo bách thần ở các nơi đền miếu. 5 vị lại cũng có hiển ứng âm phù. Đến khi dẹp được giặc Mã Nhi, Thái Tông bèn phong thêm mỹ tự 5 vị Linh ứng Anh triết Hiển hữu Trợ thuận Đại vương.

Đến khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, có được thiên hạ, bèn bao phong 5 vị là Phổ tế Cương nghị Anh linh,

Sắc chỉ ban cho các khu Hoa Đào trùng tu đền miếu để phụng thờ. Thật là tốt đẹp thay!

Vâng khai ngày mộng thần cùng với các chữ húy (Lợi, Hãn, Đống, Trấn, La) nhất thiết tối kỵ cấm. Cho phép trang Hoa Đào thờ.

Chính lệ ngày thần hiện mồng 2 tháng 2, trên dùng cỗ chay phẩm quả, dưới dùng xôi trâu lơn, rượu, bánh trôi bánh chay, ca hát các trò, đánh cờ các trò trong 5 lễ chính thì dừng.

Tiệc hội đồng các khu cùng nhau chính lệ ngày mồng 10 tháng 8, lễ trên dùng mâm chay, dưới dùng trâu đen, xôi, rượu, ca hát ba ngày theo lệ thì ngừng.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ 1 đầu xuân ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn bản chính.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 6 giữa thu ngày tốt, Nội các Sử bộ tuân theo bản chính cũ vâng chép.

Ông Đùng, Bà Đà

Theo sách Văn hóa dân gian làng Đào Động. Phạm Minh Đức, Đinh Đăng Túy. NXB Hội nhà văn, 2016.

VỀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẤT HOA ĐÀO

Khi Lạc Long Quân đưa 50 người con xuống biển, người trao cho các con từng vùng đất bãi để khai khẩn phát triển nông tang (trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải) và cả phần biển để đánh bắt tôm cá…

Người bảo các con rằng:

– Dòng trưởng mạnh nhất sẽ thay cha mẹ cai quản Lạc Việt. Các con vừa là thần dân, vừa la anh em một nhà. Hãy gìn giữ và mở mang đất nước của cha mẹ truyền cho… Mẹ Âu Cơ đã về rừng còn ta về Thủy phủ… Khi đất nước có sự biến, cha mẹ sẽ tiếp sức cho các con. 

Nói rồi Người hiện nguyên hình là một con Hoàng long lớn, biến mất trong sóng biển Đông…

Người con được trao phần đất bãi tương ứng với đồng bằng Bắc Bộ bây giờ có tên là ông Đùng, rất to lớn mạnh mẽ. Lại nói ông Đùng đi dọc sông Cái (sông Hồng), đem theo những “hạt đậu” cha mẹ trao cho, trích thân mình lấy máu tẩm vào rồi rắc lên những cồn, gò và các vùng đất bằng phẳng… Các “hạt đậu” lập tức biến thành người Việt sinh sống trên vùng đất ấy…

Một ngày, ông Đùng đi đến vùng đồng bằng ven biển phía Bắc hạ lưu sông Cái, thấy những vạt đất nổi cao giữa vùng đầm lầy mênh mông nước… Ông ngắm nghía rồi gọi bọn thủy binh sông Cái khổng lồ như Thuồng luồng, Hà giải, Ngư tinh… đến khơi dòng, đào một con sông lớn lấy nước từ sông Cái về thau chua rửa mặn cho cả vùng.

Nhìn hình dạng cuộn khúc của tướng Thuồng luồng dẫn đầu “binh tướng khai sông” (Thuồng luồng là một loại Giao long), ông Đùng hình dung ra con sông sắp đào phải uốn khúc để có thể dễ đưa nước ngọt đến khắp vùng ngập lợ, liền vạch đất để bọn thủy binh đào sông ngoằn ngoèo như hình rồng cuộn, giúp tiêu nước lợ được nhanh và cuốn ra biến… Làm xong lộ trình “khai hóa” của mình, ông Đùng gọi dân bản thổ đến mà bảo:

– Nơi đây có thế đất linh, ta đặt tên con sông vừa đào cho các con là sông Vĩnh, để mong cuộc sống nơi đây vĩnh hằng tấn phát… Vua cha Lạc Long Quân cho ta sáu “vật tượng” để đánh dấu các vùng đất địa linh trong lãnh địa của ta, vậy ta đặt một vật tại đây.

Nói rồi ông Đùng móc trong tú ra một hạt đào và đặt xuống đất… Bỗng nhiên hóa ra từng dãy cây đào nở hoa rực rỡ… Vì thế sau này, Hùng Vương thứ 18 đã về đây và đặt tên vùng đất này là Hoa Đào trang.

Tương truyền, sau khi làm xong việc “khai hóa” của mình, 100 người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ đều hóa thành “Sơn thủy bách thần” nổi tiếng linh ứng, phò giúp dân nước Lạc Việt mãi mãi.

Lần theo dấu vết sáu vật linh mà ông Đùng “yểm” lại trong lãnh địa của mình, đó là các địa danh:

1. Vùng phát tích Sơn Thánh Ba Vì – Tản Viên.

2. Vùng thành Thăng Long (Hà Nội).

3. Vùng phát tích nhà Đinh – Lê (Ninh Bình).

4. Vùng phát tích nhà Lý (Bắc Ninh)

5. Vùng phát tích nhà Trần (Thái Bình).

6. Vùng phát tích Đức Vua Bát Hải (Đào Động – Thái Bình).

Trong đó trấn sơn Ba Vì và đất Đào Động là nơi lưu giữ “hồn nước”, nơi hội tụ của “Sơn thủy bách thần”, thường “chìm ẩn”. Còn các địa danh kia là hiện diện sự “khởi phát tinh hóa” của đất Việt.

ĐỐNG BÀ ĐÀ

Tại phía Bắc đất Đào Động cổ có con đường nối thẳng từ thôn Di Phúc qua quốc lộ số 10 đến đền quan Đệ Tam và quan Thượng… Khoảng giữa con đường đó nguyên có một đống cao nổi lên giống như một quả đồi trên sóng lúa. Dân gọi đó là đống Bà Đà.

Tên đống Bà Đà có từ trước thời Trần rất lâu, gắn với chuyện ông Đùng khai địa thời cổ. Ông Đùng là tên gọi của một trong 50 người con của Lạc Long Quân “xuống biển” thời thượng cổ. Ông Đùng đi dọc sông Cái (sông Hồng), lấy hạt đậu cha mẹ trao, nhuộm máu ngón tay của mình vào rồi rắc lên các vùng đất. Hạt đậu biến thành người sinh sống ở đó. Xong việc thì ông Đùng “hóa”.

Những cư dân mới được ông “rắc ra” ở vùng đồng bằng và duyên hải còn rất bỡ ngỡ trên miền đất mới. Người sống trên sông, trên biển chưa biết bắt tôm cá, thường hay vị thuồng luồng, quái ngư sát hại… Người sống trên bãi, trên đồng chưa biết canh tác nông nghiệp, cũng chưa biết khẩn hoang rửa mặn để cấy lúa trồng mầu…

Thần Nông ở trên trời nhìn xuống thương xót, lệnh cho một thuộc hạ (chính là Bà Đà) xuống trần dạy dân Bách Việt ở duyên hải canh nông, mang các giống lúa mầu cho dân, lại dạy dân đóng thuyền đánh bắt tôm cá trên sông, trên biển…

Trước khi sai Bà Đà xuống trần, vua Thần Nông dặn rằng:

– Ngươi phải lấy tình thương của từ mẫu mà lo cho con dân.

Bà Đà đi dọc miền duyên hải Bách Việt để dạy dân đánh bắt tôm cá và cấy lúa. Khi bà đi dạy dân canh nông chài lưới vừa đến hết miền duyên hải Văn Lang – Lạc Việt cũng là lúc vua Thần Nông lệnh triệu bà về trời gấp.

Với tấm lòng của một người mẹ thương con, trước khi “hóa”, Bà Đà đã “cắn răng” rứt đứt đôi “nhũ hoa” của mình để lại cho các con. Tương truyền một “nhũ hoa” chính là đống Bà Đà ở Đào Động. Còn một “nhũ hoa” là một hòn đảo hình tròn cũng rất linh ứng ở giữa hồ Động Đình.

Từ thượng cổ truyền lại rằng giữa đỉnh đống Bà Đà xưa có một miệng giếng nhỏ tự nhiên, chỉ to bằng miệng cái thúng nhưng luôn tràn trề nước trong mát. Gặp những dịp hạn hán, Vĩnh Công (Đức Vua Bát Hải) thường đến đống Bà Đà cầu khấn rồi trang trọng múc lên 28 bát nước, bày theo đúng phương vị nhị thập bát tú và làm lễ. Sau đó cả vùng sẽ nhanh chóng được mưa ngọt.

Nhiều đời sau, những khi trong trấn, trong phủ gặp hạn hán lâu ngày, quan tổng trấn được thần báo mộng cho người về đây rước Bà Đà về đảo vũ…

Ngọc phả Ling Lang Đại vương thủy thần xuất thế triều Hùng (Thần tích xã Nhuế Dương, Kim Động, Hưng Yên)

Ngọc phả Ling Lang Đại vương thủy thần xuất thế triều Hùng (chi Khảm, bộ thứ hai Thượng đẳng), chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa cháu ba đời Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi, sau đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh, lại gặp Vụ Tiên Nương mà sinh Kinh Dương Vương. Dương Vương tư chất phi thường, tự có khí tượng bậc đế vương. Đế Minh muốn truyền ngôi cho. Dương Vương cố nhượng cho anh. Do đó Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi mà phong Kinh Dương Vương ở phương Nam, hiệu là nước Xích Quỷ. Dương Vương bái từ anh và cha đến nhậm trị phương Nam, nước Việt ta đất đẹp Hoan Châu xây dựng kinh đô, thế núi hùng mạnh Nghĩa Lĩnh tu sửa miếu điện. Truyền đến đời thứ hai là Lạc Long lấy tiên nữ Động Đình là Âu Cơ, sống ở đầu núi Nghĩa Lĩnh, mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ thế rồi có mang, sinh hạ một bầu trăm trứng, nở ra điềm lành trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Cho đến khi trưởng thành mới kiến lập hầu tước, lập đất bình phong, chia trong nước thành 15 bộ. 

Thế rồi Long Quân nói với Âu Cơ:
–    Ta là giống rồng, nàng là giống tiên. Tuy khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc, vì thế phải tách biệt.

Phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần. 50 người con theo mẹ lên rừng làm sơn thần. Khi có việc thì cùng báo nhau, khắc đến giúp đỡ. Thủy thần thường xuất thế, đầu thai nhập vào các gia đình người dân làm con để giúp nước cứu dân. Nhà nào có đức dày thì sẽ gặp được.

Lại nói, khi đó cơ đồ họ Hùng 17 nhánh truyền đến Duệ Vương, đóng đô ở sông Bạch Hạc Việt Trì, kiến quốc tên Văn Lang, quốc đô gọi là thành Phong Châu. Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, kế thừa tổ mở tông thêm 17 đời, cơ đồ thịnh trị, trong tu văn đức, ngoài phòng biên phương, cố sức hưng bình để yên Trung Quốc.

Đương thời có vị quan chủ trưởng đạo Sơn Nam, vốn là dòng cháu của Hùng Duệ Vương, chủ trị Sơn Nam, lấy người xã Nhuế Dương, huyện Đông An Khoái Lộ, tên Nguyễn Thị Đào làm vợ. Cầm sắt cùng duyên, uyên ương cùng hợp. tuy là quan trưởng nhưng không tham chút tơ hào, thực hiện làm việc nhân nghĩa, giúp kẻ thiếu, cứu người nghèo, lại kính việc quỷ thần, trị nhậm ở Sơn Nam mà làm việc nhân đức, ban phát ơn nghĩa, thật là rất được lòng dân.

Trong 4-5 năm cảnh vật nơi đây đều yên ắng trù phú. Vua gọi Ngài về triều. Ngài tuân mệnh đem vợ là bà Nguyễn cùng về kinh đô. Một hôm Nguyễn phu nhân cùng với một vài thị nữ đi thuyền dạo chơi ở hồ Dâm Đàm (sau đổi là hồ Tây), thấy sóng xanh nước biếc, bèn tắm gội. Khi đó bỗng nhiên thấy trời đất tối tăm, nước trong hồ động nổi như tiếng sấm vang lên. Lại thấy có một con giao long dài hơn 2 trượng đến quấn lấy thân của bà Nguyễn. Bà bàng hoàng sợ hãi ngất đi. Sau một lúc thì dần dần tỉnh lại, bèn bỏ thuyền mà lên bộ đi về. Sau 3 ngày thì đến kinh đô.

Trước đó cùng đêm ông Hùng Kim nằm mơ thấy một người cưỡi ngựa trắng, mặc áo hồng, đeo chuỗi ngọc, tự xưng là Linh Lang, là người thứ 4 trong số 50 người con xuống biển, quyền quản Dâm Đàm. Gia đình ông Kim đều là những người có đức dày, nên tuân mệnh của Thiên đình đến đầu nhập vào nhà ông làm con.

Lời nói chưa dứt thì tự nhiên ông tỉnh lại, nhớ đến giấc mơ, tất là có điềm tốt. Lại đến khi thấy bà Nguyễn về đến nhà, thuật lại sự việc ở hồ Dâm Đàm. Ông nhớ lại bèn lập đàn cầu khấn trời đất cùng trăm thần sông núi. Từ đó thấy bà Nguyễn tự nhiên có mang thai. Năm Canh thìn mùa hè ngày 10 tháng 4 thì sinh được một bọc, nở ra một người con trai có kỳ hình dị tướng. Ông bà nhân việc trong mộng bèn đặt tên là Linh Lang. Thương thay mệnh trời đất. Năm đó người cha là chủ quan không bệnh mà mất. Bà Nguyễn làm lễ tế. Đến khi an táng xong bà Nguyễn tuân mệnh vua dẫn Linh Lang về quê Nhuế Dương nuôi dưỡng. 

Ngài bình sinh dị lạ, khi lớn rất thông minh. Năm 17 tuổi lại vào kinh đô nhập học với Hải Đường tiên sinh. Biết rộng xưa nay, hiểu thông trời đất. Thường khóc buồn thương cảm người cha mất sớm, không biết đạo trời ra sao. Năm ấy bà mẹ cũng mất. Ngài làm lễ an táng, phụng thờ 3 năm. Vua ban chiếu bái Ngài làm Đốc lĩnh thuỷ đạo Thiên sách Thượng tướng quân, cho tuần hành các đầu non góc biển. Ngài vâng mệnh đi khắp thiên hạ. Cứ đến nơi nào thì nơi đó trở nên yên ấm. Một lần lại đến Nhuế Dương, làm lễ tiến yết các bậc tổ tiên bên ngoại, khảo hưởng cho nhân dân tộc bên ngoại, xây dựng miếu cung để ở. Lại dâng biểu xin Vua cho xã Nhuế Dương, vốn là quê ngoại của Linh Lang, được miễn các việc quân dịch, để làm làng hộ nhi. Vua đồng ý. Từ đó già trẻ nhân dân ở làng xã Nhuế Dương đều được quý hiển.

Lại nói, khi đó cơ đồ họ Hùng đã mạt, thế nước đến hồi kết thúc. Vua sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa đều đã cùng nhau trở về quy tiên. Chỉ còn hai người con gái. Người thứ nhất tên là công chúa Tiên Dung, Vua bèn gả cho ông Chử Đồng Tử. Còn người thứ hai tên là công chúa Ngọc Hoa, cung thiềm còn khóa, ngọc nhụy đương thì, duyên lành chưa định. Vua bèn lập một lầu ở cửa thành Việt Trì, gửi chiếu truyền rằng thần dân trong thiên hạ ai là người có tài trí thông minh, anh hùng đức độ có thể nối được ngôi vua thì sẽ gả công chúa cho. Hôm ấy trên sông thuyền bè xe ngựa nghe chiếu thiên tử đều nổi chí trạng nguyên bốn biển. Nhưng đều chỉ là những người tầm thường, không phải toàn tài, không đáng xưng danh. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Thánh có nhiều tài lạ thông trời bạt đất, có thuật lấp sông dời núi. Vua cho là người tài bậc nhất thiên hạ, nên gọi công chúa đến gả cho và muốn nhường lại ngôi.

Lại có Thục chúa (Thục chúa là bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái của họ Hùng), nghe việc Duệ Vương tuổi trời đã cao mà 20 hoàng tử đều đã về tiên cảnh, không có người nối kế, muốn nhường cho con rể Sơn Thánh, bèn nhân cơ hội đó phát động chiến tranh, cầu viện các nước láng giềng, chỉnh đốn trăm vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, chia làm 5 đạo. Một đạo theo đường núi Thập Châu, Hoàng Tùng, Quỳnh Nhai mà tiến. Một đạo theo các châu Tuyên Quang, Tụ Long, Bảo Lạc mà tiến. Một đạo theo các châu Minh Linh, Bố Chính mà tiến. Một đạo theo đường núi Ái Châu, Tam Điệp mà tiến. Một đạo theo cửa biển Hội Thống, Hoan Châu. Thủy bộ cùng tiến, quân thanh chấn động.
Duệ Vương lo lắng, bèn gọi Sơn Thánh đến hỏi kế. Sơn Thánh tâu rằng:

–    Hơn hai ngàn năm đến nay 17 bậc vua thánh hiền đã tạo nhiều điều nhân, ơn sâu đã khắc vào tới xương tủy nhân dân. Nay đang khi nước mạnh quân cường. Uy đức của bệ hạ vang xa ngoài nước. Thế mà người Thục không biết tự giữ gìn, dám cả gan quật cường, thì việc nhận lấy thất bại đã nghiệm rõ. Đến khi thảo phạt hỏi tội, lấy nghĩa mà phục thì tất dân ta đều vì bệ hạ mà chống giặc, đâu phải lo không dẹp được. Tình hình hiện nay xin bệ hạ cho triệu Thiên sách Thượng tướng Linh Lang về cùng với thần thay vua khởi giá, tự chọn các tướng tài thì giặc Thục không quá nửa tháng có thể dẹp yên.
Vua nghe vậy rất vui mừng, lập tức sai sứ thần về xã Nhuế Dương để triệu Linh Lang về triều dẹp giặc. Ngài tuân mệnh, bèn tuyển người dân Nhuế Dương được 50 người làm gia thần thủ túc, cùng với quân bản bộ về triều, cùng với Sơn Thánh bái tạ Vua, lĩnh 30 vạn hùng binh, một ngàn danh tướng. Linh Lang tự xin được đánh đạo quân thủy của giặc. Vua thân tiễn ra ngoài 30 dặm, cầm kiếm báo với Sơn Thánh rằng:
–    Từ đây trở về phía trên đỉnh núi ngút trời là do Sơn Thánh quản chế.

Lại báo với Linh Lang rằng:
–    Từ đây xuống đến đáy biển là do tướng quân quản chế.

Sơn Thánh cùng các tướng và Linh Lang lĩnh mệnh, phân đạo mà tiến. Linh Lang thẳng theo đường thủy dẫn phát giao long, cá, rùa, trùng trùng nối thành sóng lớn vạn phái, cá côn kình lớp lớp vây quanh như sóng ngàn sông. Tiến thẳng đến cửa biển Hoan Châu cùng giao chiến với quân Thục. Bố trận hàng ngàn hàng cá rùa. Bày binh bằng vạn đôi kình nghê. Quân Thục nhìn từ xa đều đã kinh hồn vỡ mật. Linh Lang bèn tiến đánh một trận. Giặc Thục vì thế mà giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết không kể hết, bắt sống tướng chính, chém đầu ngay dưới cờ. Còn lại 4 nhánh quân giặc thì Sơn Thánh cùng các tướng hiệp lực mà đánh. Quân Thục đều thua to, chạy tán, một xe không thoát, một ngựa không còn.

Thế là Sơn Thánh triệu Ngài cùng hợp ở một nơi, dâng biểu báo chiến thắng. Vua bèn ban chiếu triệu về, gia phong tướng sĩ các cấp, lại sai phong Sơn Thánh là Nhạc phủ kiêm Thượng đẳng thần, phong Linh Lang là Ngô Vương. Được vài năm Ngài chẳng màng danh tiếng, ra vào chốn đất Nam Giao, lầu rồng gác phượng xa lánh bụi trần, tiêu dao các chốn cực lạc Bồng Lai, Tây Trúc. Vào La thành cùng Giác Hải thiền sư học thành đạo. Khi Ngài đã 80 tuổi, một hôm đi dạo đến hồ Dâm Đàm, phường Hồ Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Lúc ấy trời đất bỗng tối mịt. Linh Lang xuống Dâm Đàm mà hóa. Khi đó là mồng 10 tháng 5. Sau khi Ngài hóa được trăm ngày, phía Tây của hồ trên bờ trúc mọc thành rừng. Vua tặng phong là Đại vương, cho xã Nhuế Dương lập miếu phụng thờ.

Từ đó có rất nhiều linh ứng, thường hiển hiện chân hình mà tiêu dao miếu sở. Một hôm Vua đi thăm du các dân ấp thờ Linh Lang, mới vào xem Nhuế Dương, thấy Ngài đứng ở trước cửa miếu làm lễ bái Vua. Vua đang định hỏi thì bỗng không thấy đâu nữa. Vua nhớ lại hình dáng mà than vãn, bèn gọi nhân dân Nhuế Dương đến viết thần hiệu là Linh Lang Cửa miếu Đại vương mà thờ phụng.

Lại nói, khi Linh Lang trở về thủy phủ, lại làm thần Dâm Đàm Long Đỗ. Khi ấy Dâm Đàm có một ngọn núi nhỏ. Trong núi có một con Cáo tinh chín đuôi. Người dân địa phương ở nơi đó rất hay bị hại. Thần Long Đỗ đem sự việc đó tâu lên Thượng Đế. Thượng Đế bèn lệnh xuất thủy tộc bắt giết con Cáo tinh. Từ đó người dân địa phương mới được yên. 

Đến khi nhà họ Hùng truyền lại ngôi báu cho Thục An Dương Vương. Dương Vương trị quốc được 50 năm thì Triệu Vũ lại lấy được nước, truyền tiếp 5 đời. Từ đó nước Việt ta trở thành nội thuộc. Cho đến Đường Cao Tông niên hiệu Hàm Thông năm thứ 6 lệnh cho Cao Biền làm Đô hộ nước Việt ta để thảo phạt giặc Nam Chiếu.

Cao Biền sau dẹp được Nam Chiếu mới lập là Quốc vương Thiên tử, cưỡi diều giấy đi xem xét sông núi, đất đai hình thẳng ở nước Việt ta. Một hôm đi đến đầu xã Thanh Cầu, huyện Kim Động bỗng gặp một người, thân thể to lớn, râu tóc bạc phơ, thật là mờ mờ ảo ảo, nhân thế phù du, có có không không, sinh sinh hóa hóa, xưa qua nay lại. Cao Biền kinh dị mới hỏi tính danh. Người đó cười nói:
–    Ta là Linh Lang. Nhà ta ở gần đây.

Đến chỗ gò mối thì phất áo nhập vào trong gò mà mà biến mất (khi đó Thanh Cầu có một gò mối, tục gọi là Đông Mâu). Cao Biền kinh dị không yên. Đến khi Cao Biền xây thành Đại La, sáng hôm đó đi ra ngoài cửa Đông. Bỗng thấy mây mưa mù mịt, thấy mây năm sắc theo mặt đất mà xuất hiện, sáng lòa ánh mắt, trong thấy có một dị nhân sắc sỡ, cưỡi rồng đất màu đỏ, cầm thẻ bài vàng, theo đám mây mà phát lương. Cao Biền kinh sợ muốn yểm. Buổi tối mơ thấy thần nhân nói rằng:
–    Ta là thần Linh Lang Long Đỗ ở đây đã lâu. Nay thấy ngài xây thành tại đây nên đặc biệt đến xem. Chớ có yểm.

Cao Biền tỉnh lại than rằng:
–    Ta chẳng nhẽ không thể phục được người ở vùng xa này, sao lại tạo ra sự quái ấy.

Bèn tạo một bức phù bằng đồng đem chôn để yểm. Ngay hôm đó, mưa sấm nổi lên dữ dội, làm cho phù đồng đều biến thành bui. Biền hết sức kinh dị, do đó cho lập miếu tại đất đó để thờ phụng.

Lại nói, cho đến khi nước Việt ta trải qua các đời Tiền Lý, Hậu Lý, Đinh, Lê, Lý, Trần, đều là các bậc vua hiền, trải khi lúc hưng lúc phế. Cho tới thời Trần Nhân Tông, giặc Nguyên là Thoát Hoan, Ô Mã Nhi đến xâm phạm. Kinh thành bị vây hãm. Tướng Trần là Hưng Đạo Đại vương. Trần Quốc Tuấn lo cầu trăm thần giúp nước, đêm ngủ ở đài Việt Vương, nằm mơ gặp Triệu Việt Vương ngự ở chính điện, sai lệnh Linh Lang cầm đầu quân thủy đạo giúp Trần diệt Nguyên. Sau đến xứ Đông Mâu xã Thanh Cầu thì hóa.

Đến khi dẹp được giặc Nguyên, Hưng Đạo Vương tâu với Nhân Tông. Nhân Tông bèn gia phong là Nghị võ Uy minh Quảng tế Thượng đẳng thần, cho phép Nhuế Dương đón sắc về trong dân phụng thờ. Từ đó về sau cảm tất thông, cầu tất ứng, nên nhân dân thờ phụng bốn mùa mãi mãi không ngừng. Thật là thịnh thay!

Phong Nghị võ Uy minh Quảng tế Linh Lang Đại vương Thượng đẳng thần (cho phép xã Nhuế Dương phụng thờ).

Lại nói, từ đó về sau trải đến Hoàng triều ta khai sáng hồng đồ, thường có nhiều lần giúp nước giữ dân, cầu mưa cầu yên đều nhiều linh ứng, cho nên có nhiều đế vương gia phong mỹ tự, để vạn năm lễ tế cùng trời đất mãi còn như vậy. Tốt thay!

Tuân khai các lễ sinh hóa cùng các chữ húy, Linh Lang hai chữ đều cấm, cấm dùng y phục màu Tím làm lễ.

Ngày sinh thần mồng 10 tháng 4 (lễ dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát ba ngày).

Ngày hóa thần mồng 10 tháng 5 (lễ dùng trên chay, dưới lợn đen, xôi, rượu).

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất tháng giữa thu ngày tốt Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 tháng đầu xuân ngày tốt Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền lại theo bản chính vâng soạn.

Quan thả sử bát phẩm Hoàng Công Độ vâng chép.

Thần tích Hữu Vĩnh, tổng Phù Lưu, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông

Hoành phi Hữu long tắc linh, đền Đức Thánh Cả Hữu Vĩnh.

Nước Đại Việt xứ Sơn Tây đạo Hưng Hóa, phủ Đà Dương (nay đổi là Quảng Oai) huyện Thanh Xuyên (nay đổi là Bất Bạt), làng Lăng Sương (nay đổi là trang Hữu Vĩnh), tổ phụ Tản Viên Sơn là Nguyễn Cao Hành, tổ mẫu Tản Viên Sơn là Đinh Thị Điên, sinh Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Đinh phi chủ ngọc bệ hạ sinh được trăm con thánh cháu thần.

Xưa Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng là hậu duệ của họ Thần Nông. Kinh Dương Vương tên húy là Huyền, sinh Lạc Long Quân húy là Ai. Khi đó có người con gái của Đế Lai tên là Mỹ, còn có tên là Thầm, sống ở động Lăng Sương (tổ của Vương mẫu ở tại Bắc Biển, huyện Thanh Nguyên), đi ra chơi ở bãi Trường Sa (Vương mẫu hái dâu ở bãi Bắc xã Sơn Bạn huyện Bất Bạt). Ngài Long thích sắc đó mà kết thông. 10 tháng mang thai bầu, sinh ra trăm trứng. Qua tầm trong tháng (không mang thai là 7 ngày) trăm trứng vỡ ra, sinh xuất những người con trai, không bú mớm mà tự trưởng thành. Khi mới sinh thì ở bản châu, cho nên lấy bản châu làm đất tổ.

Một hôm Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

–          Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nay khó kết đồng.

Nhân đó cùng nhau phân chia, 50 người con theo cha về biển là Thủy tinh (Đức thánh Quảng Xung Đại vương là huynh trưởng của trăm thánh, quyền kiêm quản sông núi hồ biển ở thông cả 13 xứ, cả sông Tam Kỳ, ngự chính ở thần cung điện tại thôn Phú Dư, xã Hữu Vĩnh, Hoài An, Ứng Thiên, đạo Sơn Nam):

Lân Lang, Xích Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Cận Lang, Chiếu Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngô Lang, Hấp Lang, Chẩn Lang, Hoan Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Khốc Lang, Tán Lang, Minh Lang, Sái Lang, Thôi Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Tường Lang, Tróc Lang, Các Lang, Triêm Lang, Cật Lang, Kiềm Lang, Trưởng Lang, Đỉnh Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang

50 người con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh:

Xuân Lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Võ Lang, Lệnh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế Lang, Thỉnh Lang, Mã Lang, Thiệu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Khiêu Lang, Miên Lang, Chiêu Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Phái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Nhuận Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Tái Lang, Huyền Lang, Tào Lang, Tuấn Lang, Tỉnh Lang, Sâm Lang, Biện Lang, Triêu Lang, Quán Lang, Canh Lang, Ốc Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Lý Lang.

Lên núi xuống sông khi có việc thì cùng gọi nhau.

Vương tên là Hương Lang, tức tôn hiệu là Tản Viên Sơn Tam Vị Đại vương, là người anh cả của 50 đức thánh, sau là Tản Viên Sơn Thánh Thượng đẳng thần Quốc chủ Đại vương. Mua đất đai rừng núi với 112.300 quan tiền ở thôn Bùi Cốc, Mang Bội. Một núi có 4 vị, đất theo 8 cửa, cao 12.300 trượng, rộng 198.600 trượng. Đông giáp Ma Nghĩa, Thạch Thất; Nam giáp Mỹ Lương, Kim Bảng, Chương Đức; Tây giáp Thanh Xuyên; Bắc giáp Bất Bạt. Mặt tiền hướng chính Tây.

Phía Tây có Đại Giang Tả kiên Ma Lang Sơn thần, tôn xưng là Đồng Đô và Ma Lộ Sơn thần, gọi là Đồng Đôi. Thần cánh phải là  Thanh Non Sơn thần, gọi là  Đồng Lang. Thần cánh trái trấn ở hướng Tây nam. Thần cánh phải trấn ở hướng Tây Bắc. Thần Phi Hậu Cung Bà Liệt Sơn, gọi là Bạch Y Thần nữ, ngự ở lầu động rừng núi, gọi là Đồng Long, trấn ở chân núi men theo sông.

Các vị thần nguyên là dân giữ lệ di đến của 12 làng: làng Lăng Sương, làng Mông Hoá, làng An Lãng, làng An Đức, làng Lang Phong, làng Lang Phao, làng Thầm Bội, làng  Thủ Pháp, làng Trung Độ, làng Kỳ Cốc, làng Ly Trúc. Cùng nhau chung đất đai, hương khói. Các ngày tiết giỗ kỵ theo phong tục trong vùng giao cho làng giữ lệ Lăng Sương và Thủ Pháp thờ phụng các cung lớn thượng đẳng, để yên mạch nước, mưa gió đủ đầy.

Hoàng triều nước ta niên hiệu Bảo Thái năm thứ 6 ngày 15 tháng 9 có đôi câu đối:

Cảnh chiêm thanh u tiên tích bí

Vọng long kiều nhạc thánh uy chương.

Ngọc phả cổ chép về một vị đại vươnng công thần triều Tiền Lý Nam Đế (chi Khảm, bộ thủy thần một vị thượng đẳng). Chính bản bộ Lễ quốc triều

Nước ta khởi vận trời Nam, núi sông phân ngang theo Dực Chẩn. Nước Bắc ban đầu được phong thẳng hướng sao Đẩu Ngưu mà phân chia. từ Kinh Dương Vương triều Hùng tuân mệnh của vua cha phân phong làm tông phái đế vương phương Nam. Đất đẹp Hoan Châu dựng lập kinh đô. Nơi thế núi mạnh Nghĩa Lĩnh trùng tu điện miếu. Truyền nước đời tiếp theo xưng là Lạc Long Quân, lấy tiên nữ Động Đình, sống ở trên đầu núi Nghĩa Lĩnh. Mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ từ đó có mang, đến khi sinh sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm trăm con trai, đều là những anh hùng vượt thế, đức độ hơn người. Đến khi trưởng thành Vua bèn kiến phong hầu, lập bình phong, chia trong nước thành 15 bộ.

Khi ấy Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

–          Ta là giống rồng, nàng lại là dòng tiên. Tuy âm dương ngũ hành hợp lại mà có con. Nhưng chủng loại khác nhau, nước lửa xung khắc. Không thể chung sống.

Nhân đó mà chia biệt, phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần, chia trị các đầu sông góc biển. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần, chia trị  các bãi trên núi. Đương khi có việc gọi nhau, tất cùng đến giúp đỡ không tạo họa. Do đó  sau này nhà họ Hùng có các bách thần sông núi, thường có thể đầu thai xuất thế vào các gia đình người dân làm con để giúp nước giúp dân. Nhà nào có phúc tất sẽ gặp được.

Lại nói, đến khi nhà họ Hùng về cuối, ý trời đã dứt, trải qua các đời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê kế nổi, khai mở cơ đồ. Từ đó mạch thống quốc gia đến nay lâu dài vậy.

Nước Việt xưa triều Tiền Lý Nam Đế (đế họ Lý tên Bí) người Long Hưng, Thái Bình, ở ngôi 11 năm. Khi đó ở thành Phong Châu có một nhà họ Đỗ. Ông Đỗ thuộc gia đình có truyền thống ngồn gốc, là vị quan có tiếng của triều Lương. Chính thất là bà Vương Thị Tín. Vợ chồng ông tuổi đã cao, sinh đẻ khó khăn hiếm muộn nên không vui. Ông bèn xin từ quan trả chức. Vua Lương đồng ý, ban cho áo mũ, châu ngọc, xe ngựa. Ông làm lễ bái tạ, rồi trở về quê hương, chuyên làm nghề y để cứu nhân độ thế, ra sức tạo phúc, cố gắng làm điều nhân đức, tạo tượng đúc chuông, sửa chùa xây cầu, âm thầm làm các việc thiện, đã cảm động đến trời cao.

Một hôm, phu nhân nằm mơ thấy mặt trăng chiếu qua khe cửa sổ ánh sáng rạng rỡ. Từ đó cảm động mà có thai. Đến kỳ sinh được một người con gái, mắt phượng mày ngài, phong tư yểu điệu, khác xa người thường. Vợ chồng ông vui mừng vi trời đã cho thành nguyện, bèn đặt tên là Nguyệt Tuần. Đến khi trưởng thành tính tình đoan trang, lời nói uyển nhã, má phấn môi hồng như vạn điểm sóng thu, mắt Thuấn mày Nghiêu, mười phần xuân sắc. Cung thiềm còn khóa. Nhụy ngọc đương thì. Mối lương duyên chưa sớm định ước.

Nàng tuổi 18 thì cha mẹ đều mất. Đến khi an táng xong, một hôm nàng nghe nói ở trang Quyển Sơn (tên xưa là Canh Dịch) thuộc huyện Kim Bảng có sông Châu giang, trên núi Biệt có cỏ thi quý, cùng với núi Tuyết trên dãy Hương Tích có nhiều đá rất cao, mà lại xanh rậm, u vắng, sinh ra nhiều dị vật. Nàng cùng với một số thị nữ xuống thuyền theo dòng sông Hát xuôi xuống, dạo xem sông núi. Đến khi về tới trang Hữu Vĩnh ở đầu bến sông thì thấy xa xa có một ngôi đền thiêng trên núi, bèn đứng lên vọng bái trong thuyền.

Đến khi quây màn để tắm bỗng thấy một con giao long tiến lại, trườn quấn quanh thân. Nàng sợ hãi chạy vào trong thuyền, chạy ngược dòng về nhà. Từ đó cảm động mà có thai. Khi ấy (năm Giáp Thìn mồng 10 tháng 8) ban đêm thấy có một áng mây năm sắc, tròn như hình lọng, che phía trên trước sân, trùm hết mặt đất. Trong một lúc sinh được một người con trai, mặt mũi to lớn, mày thanh mắt tú, tư chất kỳ lạ, khác xa người thường. Lên 3 tuổi thì biết nói, biết lễ nghĩa, thường hay biết học kính nhường, nghe lời biết suy xét. Bèn đặt tên là Xung Lang.

Ngày qua tháng lại, Ngài tuổi lên 6. Cha mẹ không bệnh mà mất. Đến khi Ngài lên 10 tuổi học hành thông minh, văn chương dài đẹp, ý tứ sâu sắc, có học sâu của Châu Trình, có khả năng của Âu Tô. Tài thơ sánh với Lý Đỗ, thích học cung tên, hay đọc binh thư, văn võ toàn tài, trở thành một người con có trách nhiệm với gia đình.

Lại nói, khi ấy Đế ban đầu làm quan triều Lương, sau loạn thì bỏ về. Khí đó các quan thú lệnh hà khắc. Giặc Lâm Ấp đến quấy biên cương. Bốn phương trộm cướp nổi lên. Đế bèn khởi binh đánh đuổi. Lại nghe tiếng Ngài có tài văn võ, trí dũng hơn người bèn sai sứ giả đến mang chiếu mời Ngài. Ngài tuân chiếu đến bệ kiến. Đế thấy là kỳ tài, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, không có việc gì không biết, không có vật gì không hiểu. Vua lấy lạ mà hỏi nguyên nhân là như thế nào? Ngài mới tâu rằng:

–          Thần là Đệ nhất thủy quan, tuân chiếu chỉ Thiên đình giáng sinh xuất thế, giúp vua giúp nước.

Vua nghe vậy rất vui mừng nói:

–          Lòng trời muốn giúp vậy.

Bèn mở tiệc lớn, tiến phong Ngài làm Tổng thống quân vụ Thuỷ đạo Thượng tướng quân, dẫn quân đi trước để chấn hưng quân thanh và để phòng ngừa bất trắc. Thế là Ngài bái nhận quân thủy bộ cùng với Đế tiến quân đường đường ra đi. Bắc đuổi Tiêu tư, Nam dẹp Lâm Ấp, Chiêm Thành. Thiên hạ yên định. Đế lên ngôi kỷ nguyên Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên.

Khi đó giặc đã được dẹp sạch. Ngài quay trở về cung đền ở trang Hữu Vĩnh làm lễ bái yết. Cho gọi các phụ lão của trang đến hỏi cho rõ ràng. Phụ lão tâu rằng:

–          Trang của chúng thần trước đây phụng thờ một vị Thủy thần, nước cầu dân cúng rất nhiều linh thiêng tỏ rõ. Đến hơn mười năm trước có một chiếc thuyền rồng của một vị công chúa cùng các thị nữ đi qua, dừng lại tắm ở đây. Từ đó không thấy linh nghiệm nữ.

Ngài cười rằng:

–           Đó chính là mẹ đẻ của ta.

Thế là phụ lão trang Hữu Vĩnh rất sợ hãi, bèn làm lễ xin được làm gia thần. Ngài đồng ý. Hôm sau thấy sứ giả mang chiếu thư đến, trong đó nói giặc đã dẹp xong, vua ban chiếu cho Ngài về triều dự tiệc, gia phong tước lộc những người có công. Ngài tuân chiếu xa giá về đến trang Trinh Tiết. Phụ lão ở đó cũng đến đón yết. Vì Ngài vốn trước là thần xuất thế, người dân thấm ơn không bị họa do hạn hán. Ngài bèn dừng xem sông núi. Thấy trời đất đẹp đẽ, trong ngoài thì bằng phẳng, trái phải có gò bờ, sông nước chảy quanh, nước lớn tràn trề. Thấy cảnh có tình bèn truyền lập hành cung, giết mổ trâu lợn, lập đàn cáo tế trời đất nước trăm thần. Xong thì gọi các thần tử trong trang khu đến ăn uống. bỗng nhiên ở đó thấy trên không có tiếng thần rằng:

Gia gia thiên hạ dĩ quy thần

Hà tất khu khu tác thế nhân

Kim triệu Xung Lang hồi thuỷ phủ

Đồng quy vân lý hội quân thần.

Phút chốc trời đất trở nên mờ mịt, gió lớn nổi lên. Ban ngày mà như đêm. Chốc lát thì thấy một đám mây vàng chuyển thành năm sắc, từ trên trời hạ thẳng xuống nơi Ngài ngự. Lại thấy thân của Ngài phát hào quang rực rỡ, theo mây cưỡi gió bay ra ngoài bến sông. Sau đó giây lát thì đám mù tan đi, trời trở nên trong sáng. Són nổi dồn dập. Thấy các loài thủy tộc xuất hiện nghênh đón Ngài trở về đầu trang Hữu Vĩnh. Đến chỗ nhánh sông thấy sóng gió trở nên yên. Tức khi đó Ngài đã hóa mất (là ngày mồng 10 tháng 12). Khi ấy nhân dân, gia thần, quân sĩ đều sợ hãi, bèn làm biểu tâu lên vua. Vua lệnh cho đình thần đến làm lễ.

Tế xong lại cho trang Hữu Vĩnh được miễn quân lương phục dịch, sai sứ tuân sắc phong Thượng đẳng.

Phong Nam thiên Linh ứng tối linh Thượng đẳng tôn thần.

Truy tặng phong thánh mẫu là Trinh tĩnh Đoan trang Đỗ Quý phi Công chúa.

Đến triều Đinh Tiên Hoàng (Đế họ Đinh, tên Bộ Lĩnh) khởi binh ở Hoa Lư, bình định 12 sứ quân, dẫn quân tiến về thành Thăng Long (xưa gọi là Long Biên), tiến đến bến sông đầu trang Hữu Vĩnh, huyện Hoài An, phủ Ứng thiên (sau đổi là Ứng Hòa). Bỗng thấy khi đó trời đất u ám, gió lớn nổi lên, sóng cả dập dồn, ban ngày như đêm. Đế bèn vào trong đền làm lễ cầu đảo. Giây lát trời quang tạnh, sóng gió ngừng lặng. Đếm đó Đế ở trong đền, đến cuối canh ba Đế nằm mơ thấy một lão ông quần áo chỉnh tề, hình dung cổ quái, từ trong đền đi ra, tự xưng là quan thủy thần (tên là Quảng Xung), nói rằng:

–          Trời đất an bài, các nơi đã định, có vua tất có bề tôi. Tôi tuân chiếu của thiên đình muốn đến gặp, tự xin âm phù dẹp giặc. Không quá một năm thiên hạ tất sẽ quy về một mối, xin chớ lo.

Dứt lời thì hết mộng (khi đó là mồng 6 tháng 12). Đinh Tiên Hoàng tỉnh lại biết là mộng thần. Sáng hôm đó làm lễ bái tạ, lấy ở trong trang những người cường tráng được hơn 10 người của các gia thần thạo sông nước. Ngay hôm đó dẫn quân đi đánh dẹp. Từ đó mỗi trận đều thắng. Đến khi dẹp yên được 12 sứ quân nghĩ đều do lòng trời giúp đỡ, thần linh hiện ứng âm phù, bèn sai sứ tuân sắc phong thượng đẳng. Tặng phong Quảng Xung Linh tế Thông cảm Dực thánh Hồng ân Uy liệt Hiển hữu Trang dũng Ninh quốc Thượng đẳng thần. Cùng với nước nhà hưởng lành, mãi giữ như vậy. Kính thay!

Ban thêm cho trang Hữu Vĩnh 5 nén vàng để mua nhiều ruộng đất và sửa chữa đền miếu làm nơi phụng thờ. Mỗi năm ngày 11 tháng Giêng Đinh Hoàng lại xa giá đến làm lễ, liệt vào lệ để biểu dương sự linh nghiệm của thần. Từ đó trở thành lệ thường.

Lại nói, từ đó nước cầu dân cúng đều có linh ứng, thường có giúp nước cứu dân, các đời đế vương đều có sắc phong mĩ tự cho vị Thượng đẳng thần. Đến triều Trần Nhân Tông giặc Nguyên đến xâm phạm, kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh chống quân Nguyên, tiến quân đến huyện Hoài An thì gặp quân Nguyên theo đường thủy đánh đến. Hưng Đạo bèn vào đền làm lễ cầu đảo, xin được âm phù giúp. Sáng hôm sau dẫn quân ra đánh, giặc Nguyên quả nhiên thua. Đến khi được thiên hạ, ông Tuấn tâu việc này lên. Vua sắc phong mĩ tự: một vị là Vũ phấn Phong vân Đãng khấu Hộ quốc Linh ứng Thượng đẳng thần.

Đến thời Hậu Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh, đuổi Mộc Thạch, Liễu Thăng, có được thiên hạ. Thái Tổ bèn bao phong mĩ tự: một vị là Tế thế Hộ quốc Thuần hoá Trợ dân Linh phù Thượng đẳng thần, lấy nơi hành cung chốn cũ làm chỗ phụng thờ xuân thu, bốn mùa hương khói, vạn đại không ngừng, cùng trời đất còn mãi như vậy. Tốt thay!

Vâng khai các lễ sinh hóa cùng các chữ húy cấm ba chữ Quảng Xung Lang, cho trang Hữu Vĩnh là trang hộ nhi, các trang khu thần tử khác cùng phụng thờ.

Ngày sinh thần chính lệ là ngày 10 tháng 8. Lễ dùng trên chay bàn, phẩm quả, dưới xôi lợn rượu. Ca xướng.

Ngày hóa thần chính lệ là 11 tháng 12. Lễ dùng trên chay bàn, phẩm quả, bánh thanh khiết các mầu, dưới tùy nghi mà làm lễ.

Chính lệ ngày khánh hạ là mồng 6 tháng 5. Dùng lễ tùy theo.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất ngày tốt đầu xuân, Hàn lâm Lễ viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn bản chính.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 6 giữa đông ngày tốt, nội các bộ Lại tuân theo bản cũ vâng chép.

Kinh Dương Vương mở nước kỷ Hồng Bàng

Thần tích làng Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ là một bản thần tích đặc biệt, khác với những thần tích hay gặp khác vì nó không phải được biên soạn bởi các vị quan của triều đình, mà là tư liệu được ghi chép và lưu giữ bởi những người dân ở địa phương tại vùng đất tổ Phong Châu. Trong thần tích Tiên Cát có rất nhiều chi tiết về thời kỳ Kinh Dương Vương – Hùng Vương và có lẽ đây chính là tư liệu gốc cho việc biên soạn các bản ngọc phả Hùng Vương sau này. Đây cũng là một bằng chứng rõ ràng cho việc các truyền tích Hùng Vương đã được lưu truyền rất lâu từ trước thời Lê.

Thần tích Tiên Cát mở đầu: Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.

Nước ta bắt đầu được dựng nước từ vùng Nghệ Tĩnh, nơi có núi Hồng Lĩnh, được truyền thuyết gọi là Thứu Lĩnh, gần cửa biển Hội Thống. Vị Kinh Dương Vương đầu tiên đã mở nước và đóng đô tại đây.

Thần tích Tiên Cát kể tiếp: Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc….

Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang.

Vị Kinh Dương Vương đi tuần thú rồi mở kinh đô tại Phong Châu trên núi Nghĩa Lĩnh thì phải là Đế Minh. Truyện Họ Hồng Bàng cho biết: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ.

Ý nghĩa của đoạn truyện mở nước này là Đế Minh đã hình thành nên một vùng thiên hạ vạn bang với kinh đô đóng ở 2 đầu Nam Bắc. Thời kỳ mở nước Hồng Bàng có 2 phần là Lạc và Hồng (tức Nam và Bắc) với 2 kinh đô là Nghĩa Lĩnh và Thứu Lĩnh, do 2 vị vua chủ trị là Lộc Tục ở đất Lạc và Đế Nghi ở đất Hồng. Đất nước ban đầu được mở theo trục Bắc Nam.

Trong thần tích Tiên Cát, Kinh Dương Vương đã căn dặn con cháu: Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.

Đế Nghi là dòng chính thống của Đế Minh, nên tiếp nối cai quản ở vùng Cựu đô Ngàn Hống trên núi Thứu Lĩnh (dãy Hồng Lĩnh – vùng đất Hồng). Lộc Tục (Lạc tộc) là dòng bà Vụ Tiên, được thần tích Tiên Cát kể là bà Thứ phi của Kinh Dương Vương (Đế Minh), xuất xứ từ vùng miền núi châu Đại Man. Bà Thứ phi là dòng Tiên tộc (tức là dòng trên núi, chữ Tiên là người ở trên núi) nên nơi bà ở và được thờ mang tên là đền Tiên.

Câu kể thường gặp trong các thần tích: “Hoan Châu thắng địa kiến lập kinh đô. Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu miếu điện” diễn tả đúng quá trình mở nước theo hướng Nam Bắc của họ Hồng Bàng.

Thần tích Tiên Cát kể:

Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.

Nước Hồng Lạc sau khi phát triển theo trục Nam Bắc thì chuyển sang giai đoạn mở rộng theo hướng Đông Tây, mà được đánh dấu bằng sự kiện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Động Đình là vùng sông nước ven biển phía Đông, do một bộ tộc cư trú gọi là Long tộc. Kinh Dương Vương lúc này là Tản Viên Sơn Thánh đã kết duyên cùng với Thủy Tinh Động Đình, mở rộng dòng giống Lạc Hồng theo hướng tiến về phía Đông.

Tản Viên Sơn Thánh là vị chủ trị vùng Sơn Tây thì đã rõ. Bản thân chữ Tản là tính chất của quẻ Tốn, chỉ hướng Tây. Còn vị vua cai quản miền sông nước phía Đông chính là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương và Thần Long Động Đình. Long Quân được ghi là hóa sinh về biển làm Động Đình Đế Quân.

Đền Tiên Cát cũng thể hiện sự kết hợp của 2 dòng sông và núi, thể hiện ở việc Ngọc Tiên nương (Thứ phi của Kinh Dương Vương) kết nghĩa với 2 người con gái thủy phủ Long cung là Thủy Tinh và Bạch Hoa nương. Lạc Long Quân sau này còn cử thêm 3 hoàng tử trong dòng thủy phủ là Cự Linh, Ất Linh và Thông Thủy Long vương đến hộ giá các vị tiên nương ở cung Tiên Cát.

Như thế, cho tới Lạc Long Quân, người Việt họ Hồng Bàng đã hoàn thành thời mở nước họ Hùng về 4 hướng qua các triều đại Kinh Dương Vương ban đầu là:

  • Đế Minh, vị Hùng Vương đầu tiên, được thờ ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương, là vị Thái tổ khai sinh họ Hồng Bàng.
  • Đế Nghi, vị vua Hùng thứ hai, được thờ ở đền Hùng là Viễn Sơn Thánh Vương. Kinh đô chính ở Thứu Lĩnh trên đất Hồng phương Bắc xưa.
  • Lộc Tục, vị vua Hùng thứ ba, được thờ ở đền Hùng là Ất Sơn Thánh Vương. Lộc Tục là dòng Tiên tộc ở phương Nam xưa, kinh đô đóng tại núi Nghĩa Lĩnh, vùng đất Lạc.
  • Tản Viên Sơn Thánh, vị vua Hùng thứ tư, thường được gọi là Kinh Dương Vương, chủ trị miền rừng núi phía Tây.
  • Lạc Long Quân, vị vua Hùng thứ năm, chủ trị miền sông nước Động Đình ở phía Đông.

Thần tích Tiên Cát cho biết, Hùng Vương từ Kinh Dương Vương trải 18 đời tới Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Vương. Thục Vương khi đó đã rời đô về Cổ Loa, còn đất Phong Châu trở thành nơi sinh sống của nhân dân. Tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền, kéo đến bãi đá bên sông cạnh đền Tiên Cát, cho cưa phá những voi đá, ngựa đá chầu về núi tổ tại đây, chạm vào địa mạch linh thiêng từ thời Kinh Dương Vương. Hổ báo, kinh nghê đều nổi giận, tiến vào đất Tiên Cát mà giết đuổi quân nhà Hồ… Chi tiết này cho thấy những di tích bằng đá về Kinh Dương Vương và Hùng Vương đã hiện hữu ít nhất là trước thời nhà Hồ. Chắc chắn các tư liệu ghi chép và di tích thờ phụng Hùng Vương đã có từ rất sớm.

5 vị Kinh Dương Vương mở nước họ Hùng đầu tiên ở 5 phương, khởi đầu cho các nhóm tộc người Bách Việt sau này. Tản Viên Sơn Thánh là Nam Thiên Thánh tổ của Lạc tộc, tức là nhóm người Kinh Mường. Long Quân là Vua cha của Long tộc, sau này là nhóm Tày Thái. Đế Nghi là tổ của Viêm tộc phương Bắc xưa (Nam nay), sau là người La Lồi hay người Chiêm Hồ. Lộc Tục dòng bà Vụ Tiên là tổ của nhóm Miêu tộc, tức người Miêu Dao sau này. Một nhánh dòng Đế Minh là Đế Lai do cuộc tranh chấp với Lạc Long Quân đã phải chạy về phía Tây, sau là người Di Lão hay người Âu (trong Âu Cơ, Âu Lạc).

Ngũ tộc thời lập quốc họ Hùng đã bao trùm đầy đủ các nhóm tộc người của vùng Đông Nam Á. Cho nên vua Hùng là tổ của Bách Việt là chính xác. Thần tích chép: “Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt“.

Thần tích Tiên Cát cũng cho biết ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương vào tháng 3 âm lịch. Mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).

Trăm người con trai họ Hùng đã đồng sinh cùng bọc đồng bào và đồng hóa vào ngày 12 tháng 3. Ngày tháng 3 này chính là ngày giỗ tổ của trăm họ Bách Việt, gồm cả 5 nhóm tộc người đã nói ở trên. Giỗ tổ Hùng Vương không phải chỉ là giỗ tổ người Kinh hay người Mường, mà của trăm tộc người trên mảnh đất Việt, Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.

Thần tích làng Tiên Cát, tổng Minh Nông, huyện Hạc Trì, Phú Thọ

Chính ban thờ lục vị thần ở đền Tiên Cát.

Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.

Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:

– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?

Thiếu nữ đáp:

– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.

Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.

Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc.

Đầu mạch đất này bên trái từ sông Lôi núi chạy sông theo, tới các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương, bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung tiên bên trái là rồng xanh, chạy tới hóa ở xứ Hải Dương thành các núi Đông Triều, Yên Tử. Mạch tới ngoài biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.

Bên phải mạch đất Hán Giang, Nhị Hà, Lô Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Giang, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung tiên bên phải là hổ trắng, đầu Sơn Nam, Ái Châu, núi Chính Đại cửa biển Thần Phù, thoát ra ngoài biển ở núi Chích Trợ, cửa Trà Lý, làm đầu hổ chầu án.

Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy sông Cả ở huyện Nam Xương làm Trung minh đường. Nam Hải, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.

Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang (phía Đông tới Nam Hải, phía Tây đến Ba Thục, phía Bắc tới Động Đình, phía Nam giáp Hồ Tôn).

Vua rời giá về cựu đô Hoan Châu. Việc dựng đô thành của Vua trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm chốn đô ấp của Cổ Việt Thường Thị.

Lại nói, đương thời Dương Vương ở châu Đại Man, huyện Yên Bình, xứ Tuyên Quang có một gia đình Trưởng ông (họ Mã tên Sùng), lấy vợ người trong châu (họ Trương tên Man). Khi ông tuổi ngoài 50, bà Trương tuổi hơn 40, một hôm bà Trương lên núi lấy củi. Trên núi có một ngôi đền cổ, đều đã đổ nát. Bên trong có tượng nữ, cũng đã hư hỏng. Bà Trương lại gần xem xét. Bà Trương mới đùa rằng thần linh ở đây ngày đêm nhàn nhã, lấy ai là người cúng tế. Xin hãy về gia đình thiếp để phụng dưỡng cơ huyền.

Tự nhiên bỗng thấy có một con rắn trắng từ trong tượng bò ra. Bà Trương kinh sợ, bỏ chạy về nhà. Ngay hôm đó bà Trương mơ thấy mặt trăng rơi vào trong miệng. Bà Trương bèn nuốt lấy, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mộng. Từ đó thấy có ý động mà có mang thai. Đến khi đầy tháng sinh được một nương tử, phong tư yểu điệu, mẵn phượng lung linh, mặt ngọc đầy đặn sánh với Hằng Nga trên cung trăng, không phải là người có thể có ở trên phàm trần, môi son má phấn, thân người tự có mùi thơm. Cha mẹ rất yêu quý.

Đến khi lên ba tuổi mới đặt tên là nàng Ngọc Hương. Khi tuổi 15 cung thiềm còn khóa, nhị ngọc đương thì, đức nữ nhi trinh hiền, nữ công tinh khéo, đàn cờ thơ phú không gì là không biết. Có lòng hiếu hiền hoà thảo, thật hiếm có trên đời. Khi 19 tuổi như trăng rằm chính độ, hoa xuân vườn thượng uyển.

Khi ấy Dương Vương ngự giá đi thăm các khu tôn lăng, đi qua Man Châu. Ngọc nương ra xem. Dương Vương thấy, thích thú sắc đẹp đó, mới triệu đến cưới, lập làm Cung phi thứ tư. Vua rất sủng ái, mới cho ở thành Phong Châu (nay tức là đất Bạch Hạc, Phù Khang, Việt Trì). Vua cho xây dựng cung dinh, để nàng sống ở cung đó, gọi tên là cung Tiên Cát (sau tức là trang Tiên Cát).

Lại nói, khi ấy Vua đi tuần thú quay về thành Hoan Châu (nay là Nghệ An). Chính cung Thần Long có mang, khí lành đỏ rạng trong nhà, trong màn trướng có hương thơm. Qua tuần Thần Long sinh Lạc Long Quân, có tư chất phi thường, tự có khí tượng của bậc đế vương.  Vua bèn lập làm Hoàng thái tử. Khi ấy có con gái của Đế Lai là Âu Cơ về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, đi ra bãi Trường Sa chơi. Long Quân bắt gặp, rất yêu quý sắc đẹp đó mới cưới về lập làm Hoàng phi.

Do đó Kinh Dương Vương sai Lạc Long Quân đến núi Nghĩa Lĩnh ở thành Phong Châu để giúp việc lớn nước nhà, lại cùng tiện cho việc thăm hỏi Thứ phi. Lạc Long Quân tuân theo mệnh chỉ, đến thành Phong Châu nhận việc vua, thiên hạ thái bình, đất nước vô sự. Quân thần đều sùng ngưỡng tiên phật, tin kính quỷ thần trời đất. Vua và dân cùng hội hợp, trăm họ vui ca lạc nghiệp. Bốn dân vinh đủ yên bình, đều là ơn đức lớn vậy.

Lại nói, Thứ phi sống ở nơi đất đó, cứ mỗi năm hai lần xa giá về chầu chính cung cửa đế. Chầu xong lại quay về đất cung dinh cũ (tức cung Tiên Cát), ngày tháng đàn thơ, hội nhạc, cờ vây ở bãi đá bên bờ sông. Khi ấy có hai nàng tiên nữ là con vua thủy cung  thường thường đi thuyền rồng lên du ngoạm nơi trần thế, cùng với Thứ phi kết làm nghĩa chị em, tưởng như con cùng bọc mà thân tình như chị em ruột thịt, nguyện cùng với trời cao không đổi (một tên là công chúa Thủy Tinh, một là công chúa Bạch Hoa). Hàng ngày thường xe rồng kiệu phượng lên chơi với Thứ phi cùng đánh cờ, đàn hát làm thơ ở nơi bờ đá bên sông.

Một hôm, Thứ phi nói với hai nàng rằng:

–          Ta thấy hai nàng tuy sông núi không cùng, nhưng đều bậc ở cửa vua, dự vào hàng tiên cung thánh nữ, không phải tầm thường.  Tục nữ nguyện ước được tình tâm phúc, xin chớ coi nhẹ ý đẹp này.

Hai vị thủy nương đáp rằng:

–          Có trời chứng giám, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa, cho dù cơ huyền trước đây như thế nào.

Đời sau có thơ rằng:

Hùng triều Tiên Cát sở cung phi

Thạch xứ tiên nương hợp dụng kỳ

Sơn thuỷ tương đồng do tích tại

Tà tiên chi xứ hữu thuỳ tri.

Lại nói, Dương Vương ở ngôi được 215 năm, thọ 260 năm thì băng. Con là Lạc Long Quân kế vị. Long Quân mới lập, cải hiệu là Hùng Hiền Vương. Khi đó Âu Cơ có mang, mang thai 3 năm 30 tháng, đầu núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc sáng rạng, đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm con trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vua mới dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ (Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn Quảng Đông, mười lăm là Quảng Tây).

Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

–          Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng.  Phân 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.

Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng. Các vương tử gọi là Quan Lang. Các vương nữ gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Là thời sung túc, trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, những người làm được cử theo việc, tùy theo khả năng. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hòa mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng.

Lại nói khi ấy Thứ phi dưới triều Tiên đế Dương Vương không có con, dòng tiên trên trần thế không còn vương vấn. Lạc Long Quân tuân theo mệnh vua cha, ngày đêm phụng dưỡng, không dám nhạt lòng. Ngày thường đến cung Tiên Cát xem ngắm địa thế, tu bổ cung lầu. Vua thấy địa hình nơi đây là nơi rất tốt, quang cảnh đất đẹp anh linh. Phía trước có sông Thao án dựa. Phía sau là núi Nghĩa Lĩnh có lân đá, voi đá, ngựa đá, trống đá, người đá, quân đá tùy vị trí mà án dựa, thị tòng hội ở xứ ấy, phong tinh năm ngọn trái phải phụ tá, củng phục chầu ở trước. Vua nhớ đến việc Tiên hoàng tìm đất, xây dựng cung cho Thứ phi ở đây, tên gọi cung Tiên Cát. Cung đó tất có phong cảnh thần tiên, mạch đất linh thiêng, không phải là khu đất thường tình.

Cho đến một năm sau, một hôm Thứ phi bỗng thấy hai nàng công chúa thủy tiên, theo sao là các nàng hầu, thuyền rồng kiệu phượng, tiến vào trong cung, nói với Thứ phi rằng:

–          Hôm nay (tức ngày 9 tháng 10) đã đến lúc được như nguyện. Chị phải vào chầu cửa đế, xin chớ trì hoãn. Chị với chúng em tuy âm dương hai ngả, sông núi tách vùng, nhưng lại cùng một nhà lầu mây gác phượng, khí huyết cùng nhau mà hội hợp, dám xin có trước sau, chị cùng với hai em về nơi Thủy quốc.

Nói xong, Thứ phi rời đi xuống thủy phủ. Thứ phi lại sai nội thần tâu lên vua trước sau như sau:

–          Hôm nay có hai vị con gái vua Thủy Tinh, là người kết nghĩa với Thứ phi, trước sau đã có hẹn ước, chị em như ruột thịt, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa. Nay thấy hai nương cưỡi xe loan đến triệu Thứ phi về chầu cửa đế. Do đó tiểu thần tuân mệnh vào tâu trước bệ, nguyên cớ là như vậy.

Vua nghe lời tâu bèn ngự giá đến cung (tức cung Tiên Cát, do Tiên hoàng dựng nên, đến cuối triều Hùng đổi thành trang ấp). Vua mới đi được nửa đường bỗng thấy mây mưa đổ xuống, gió sấm nổi lên, một lúc thì tự nhiên hết.

Vua nói Thứ phi đã đi vào cõi trường mộng vậy (tuổi Giáp Tý sinh ngày mồng 5 tháng 5, đến ngày mồng 10 tháng 10 thì hóa), bèn lệnh cho quan đến làm lễ tế khi còn chưa đến lúc an táng. Khi ấy Vua ở lại trong cung đó, mơ màng ngủ thiếp đi bỗng thấy Thứ phi xe loan kiệu phượng huy hoàng đẹp đẽ, tả hữu hai bên là hai vị tiên nương cưỡi xe loan cùng đi vào khu bãi đá bên bờ sông. Tiếp phía sau theo hầu trăm người nữ trinh đồng, khăn hồng đai tía, xe rồng kiệu phượng, theo đến nơi gặp Vua ở xứ đó. Thứ phi nói với Vua rằng:

–          Thiếp vốn là thần nữ ở tiên cung, lầu mây gác phượng giáng xuống ở nơi trần thế, năm đó vào hầu Tiên hoàng, được ơn thâm trạch hậu, hưởng lộc đã nhiều. Nhưng hận là trần duyên chưa thỏa, không mảy may chút nào ở trần thế, tất cả đều hư vô. Nay vui vì có được hai vị nương tử cùng là con gái vua thủy cung, trên dương trần hàng ngày có giao du với nhau, nguyện là chị em ruột thịt. Một vị là nàng Thủy Tinh, một là nàng Bạch Hoa, cùng như tay chân gắn bó vậy, đồng lòng kết làm chị em. Nay lầu mây quê trước quay về nơi cảnh cũ, mưa gió ra vào nơi đất tốt.

Lời chưa dứt thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Đến khi làm lễ đưa đám, liền trong 3 ngày mưa to gió lớn, một vùng mờ tỏ, cửa nhà tối mịt. Vua chôn cất bà phi ở nơi đất đó (tức xứ Gò Đá, nơi có lân đá, voi đá, ngựa đá, cờ đá, trống đá, thuyền đá, quân đá, bàn đá theo ở phía sau, hai bên trái phải hướng vào trước huyệt, có năm ngọn phong tinh chầu về hai bên, bên phải có sông Thao làm minh đường).

Nơi đó xưa khi Thứ phi còn sống, tuy Tiên đế lập cung trên vùng đất bên trong, bố trí cho Thứ phi ở đó gọi là cung Tiên Cát, nhưng Thứ phi ngày thường thích ra chơi ở đất đó (tức xứ Ghềnh Đá), cùng với hai vị thủy tiên gặp nhau đánh cờ, làm thơ, chơi nhạc, cũng như quang cảnh chốn Bồng Hồ Lãng Uyển, Đào Nguyên Trúc Lĩnh vậy. Ngày trước Vua ngự giá đến đây xem xét địa hình. Vua từng nói là vùng đất này đều rất linh anh, thật là nơi tốt. Nhân đó Vua cho an táng lăng tại nơi này. Vua nhớ lại giấc mộng khi chưa an táng. Hôm đó bèn truyền cho địa phương lập miếu ở trên khu lăng cùng thờ phụng ba vị, cùng phong là các thần nữ.

–          Phong Thứ phi là Đệ nhất A Nương Thần nữ Ngọc Tinh nương Cả Đại vương.

Phong hai vị Tả hữu Thủy tiên Công chúa:

–          Phong làm Đệ nhị Thuỷ Tinh Thần nữ Nương Hai Đại vương.

–          Phong là Đệ tam Bạch Hoa Thần nữ Nương Ba Đại vương.

Vua lại truyền cho các gia thần ở cung sở địa phương ngày trước đã theo hầu Thứ phi, cộng được ngoài trăm nhà ở đó. Vua cho ở tại đó sớm hôm hương khói để phụng thờ.

Lại nói, khi đó Vua có trăm con cùng một bọc, đều là những vị anh hùng cái thế, sức dũng động trời, làm thần thánh xuất thế, không phải thường nhân trên đời. Vua tuy còn ở tại thế cai trị trần gian nhưng cũng chia trăm con làm hai bộ. Một bộ cai quản sông hồ cửa biển. Một bộ trị các đầu núi non, cùng có chức phong làm thần tử, bố trí các nơi để trị hưởng lộc một phương.

Một hôm, Vua ngự ở cung Phượng Lâu (tức nay là trang Phượng Lâu). Khí đó mùa xuân ôn hòa, khí lành, vạn dặm răng thanh gió mát, một trời phong cảnh an hòa. Vua mới nằm ở chính cung (tức cung Phượng Lâu), bỗng nhiên mơ màng, đi vào thẳng thành Hoan Châu (tức Nghệ An), mới gặp Kinh Dương Vương ngự ở chính điện, hai bên có quan văn võ đứng chầu.

Dương Vương nói với Vua rằng:

–          Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.

Lời nói vừa dứt thì gió xuân thổi vào áo long bào, Vua tỉnh dậy biết là nằm mộng. Vương nhớ lại lời căn dặn của Tiên hoàng trong mộng, tuy âm dương hai ngả nhưng đâu dám trái mệnh.  Hôm ấy (mùng 10 tháng Giêng) Vua lệnh cho ba vị quan lang một là Cự Linh Thần tướng, hai là Ất Linh, ba là Linh Lang Thông Thủy, đều cùng là những hoàng tử từ bọc trăm trứng nguyên phân làm hai bộ (Cự Linh, Ất Linh, Linh Lang Thông Thuỷ đều thuộc thuỷ bộ), ban cho quản lý đầu sông (tức sông Thao), giữ gìn cung sở của Thứ phi (tức cung Tiên Cát). Ba vị tuân theo ngọc chỉ, quản trị ở đầu sông (tức sông Bạch Hạc ba dòng nước từ ranh giới sông Thao), giữ gìn cung miếu (tức tiên cung Thứ phi của Tiên đế Dương Vương).

Qua hai năm, khi đó Vua đã trị quốc dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt.

Hiền Vương ở ngôi 400 năm, sau về biển hóa sinh bất diệt làm Động Đình Long Quân Đế chủ. Quốc Vương tuân thừa nối đại quyền. Quốc Vương lên ngôi mới được 1 năm thì khi đó mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).

Lại nói, Quốc Vương nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, cung vua có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ,vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.

Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã.

Một ngày (15 tháng 3) Vua đến ngự ở cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát).

Nhàn xem phong cảnh, thăm thú cung lăng, tu bổ các tòa cung sở miếu điện. Vua lại mở một chợ ở bên sông, trước khu cung lăng, gọi là chợ Tiên, cho các phi nhân của vương cung cùng với các nội thần của các phu nhân, vương nữ đến hội sớm tối, những người đánh cá  trước sông  cũng cùng ở trên chợ, là nơi đô hội của thần tiên. Hôm đó (mồng 3 tháng 3) Vua lại phong cho ba vị hoàng đệ đều là Thuỷ thượng linh thần, cùng với Tiên phi vào cùng một nơi, cùng phối thờ phụng.

–          Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long Vương Đại vương.

–          Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương Đại vương.

–          Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long Vương Đại vương.

Hôm đó (mồng 3 tháng 2) Vua sai quan đế tế, làm lễ bái tạ. Làm lễ chưa dứt thì bỗng thấy gió sấm bỗng nổi lên, mây mù u ám, trên sông sóng đổi vạn nhận, cung đền bốn bên mây phủ. Lại thấy 3 con rắn từ trên đường phân nước tiến thẳng vào trong đền, bò lên giữa gác trái phải. Bên trong đền sáng huy hoàng, mùi hương thơm bao phủ. Trước sông hàng trăm đàn cá hùng dũng nối nhau. Vua lấy làm lạ bèn nói rằng:

–          Nay tuy thủy phủ và dương gian khác biệt, nhưng có tương thân khí huyết, sơn thủy một mạch, cảm được sự linh thiêng, cùng đã biết vậy.

Vua vừa dứt lời thì [ba con rắn] tự nhiên biến mất . Mưa gió tự yên, mây tan trời sáng. Làm lễ xong Vua lại tặng phong là Thượng đẳng Phúc thần, bố trí quan cùng với các gia nhân địa phương ở nơi đó bốn mùa hương khói phụng thờ.

Lại nói, Quốc Vương tên Bảo từ lúc lên ngôi được 300 năm, thọ 643 tuổi, mệnh Tân Mùi sinh giờ Mão ngày 16 tháng Giêng, mất giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5, hóa sinh sinh không thành, kim tiên thượng quán cư ở cửa ngọc mà cai quản. Tiên chủ sinh trưởng tử là Huy Vương, kế vị, truyền 8 vua tiếp sau.

Sau này Lý tiên sinh có bài tán:   

Sinh vi thánh đế hoá lai tiên

Duy hữu  Hùng đồ thập bát truyền

Thánh tử thần tôn cung miếu tại

Đức đồng nhật nguyệt hưởng trường miên.

Lại nói, thời lịch truyền 18 nhánh (từ  Kinh Dương Vương chí Hùng Hiền Vương, Quốc Vương, Hy Vương, [Hi Vương], Diệp Vương, Huy Vương, Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Uy Vương, Trinh Vương, Võ Vương, Việt Vương, Định Vương, Triêu Vương, Tạo Vương, Ninh [Nghị?] Vương, Duệ Vương, cộng 18 đời thánh chủ, hưởng nước cộng 2655 năm). Truyền đến Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương có chất thánh triết, tài lớn anh hùng, nối cơ nghiệp tổ tông khai đắp 17 đời thịnh trị, trong lo võ lược, ngoài ngự biên cương, gắng sức hưng bình để yên Trung Quốc. Lại noi gương tiền vương trị vì, sùng trọng đạo trời, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, mến giúp quốc sự. Vì thế Vua ngày càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thiên hạ c sửa thêm đền miếu, vẽ tô nghi vệ trang nghiêm. Khi đó Vua đến cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát), thăm thú lăng mộ, tăng thêm việc tu sửa đền miếu, ngày ngày hiến tế, một tháng hai lần sai quan đến làm lễ.

Than ôi, đạo vốn thịnh nhiều thì sẽ suy, đầy rồi thì sẽ tắc. Cơ đồ họ Hùng trị nước vốn đã lâu dài, ý trời tất có hạn. 20 hoàng tử và 4 công chúa đều phiêu du về nơi Bồng Lãng, thoát gót trần gian, không có ai để trông mong việc nối truyền. Chỉ còn hai người con gái, đều là bậc thần tiên đời (một nàng được gả cho Chử Đồng Tử, một nàng gả cho Tản Viên Quân).

Vua bèn nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh, là con rể mà truyền đại bảo. Nhưng Sơn Thánh vốn có phẩm chất thần tiên, không muốn nhận ngôi cai quản quốc gia. Bèn lại truyền cho Thục chúa, cũng là cháu họ Hùng ở Ai Lao. Từ khi Thục chúa (tức An Dương Vương) nối thừa ngôi báu, đóng đô ở thành Cổ Loa. Còn Phong Châu thành đất của họ Hùng, cùng các cung sở lâu đài được nhân dân các xã động chia nhau ở (đất thành Phong Châu đến Thục Dương Vương rời về ở thành Cổ Loa, từ đó thành Phong Châu đổi thành các xã trang động của người dân).

Trong thời kỳ Thục Vương, đất ngoài cung Tiên Cát có hai trăm nhà ở đó đã di cư. Chỉ còn 17 người ở lại cố giữ đất đó. Lòng người thay đổi, xưa nay là thường. Cảnh tiên cung vua đó đều theo năm tháng mà yên nhàn trôi qua, tích xưa khó thấy dấu tiên còn đọng, chỉ còn nghe tiếng chim chóc hót ca.

Khi Thục Dương Vương ở ngôi được 80 năm mới truyền vị cho Triệu Đà, cha truyền con nối trải 5 đời thánh vương. Đến khi Vệ Vương kế truyền chính thống thì có quân Tô gây loạn. Trưng nữ lại hưng (cũng là cháu gái của Hùng Vương), ở ngôi được 5 năm, tiếng thơm ngàn thủa, cũng là bậc nữ anh hùng.

Từ đó triều Hùng chấm dứt. Tới Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 350 năm cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, đều có giúp nước hộ dân, nên các đời đế vương đề có gia phong mỹ tự, vạn đời hưởng lễ, hương khói vô cùng.

Lại nói, tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền. Một hôm quân Hồ giáo mác tiến đến ở vùng đất này (tức là vùng đất trang Tiên Cát), vào trú ở trong đền (tức đền cung Tiên Cát). Lại thấy địa hình có quý cục, voi đá, ngựa đá đều hướng chầu lên núi Nghĩa Lĩnh. Hôm đó (mồng 6 tháng 6) quân Hồ sĩ tốt bắt dân phu cùng binh sĩ lấy cưa sắt cắt ngựa đá, voi đá ra thành các đoạn, lấy đá đó xếp thành lũy, đồn sở. Đang khi cắt đá chưa được một lúc, bỗng thấy mây gió lớn nổi lên, bốn bề trở nên mờ mịt, mưa dội sương mù, sấm sét vang gầm. Trên sông nổi sóng cuồn cuộn vạn nhận, sấm vang làm rụng rời phách kinh nghê, vạn dặm cuồng phong dữ dội, cá rùa hồn kinh nhảy loạn, giao long nổi đầy sông, đào thông một đường thủy tiến thẳng vào trước cung, trùng trùng hàng ngàn con. Từ trên núi xuống hàng đàn hổ chạy tới, tiếng gầm chấn động, chạy thẳng về nơi đền thờ ở địa phương (tức trang Tiên Cát), vây kín bốn phương xung quanh. Quân Hồ kinh hồn chạy tán loạn. Nhân dân đều mất vía, tất cả đều bỏ chạy khỏi cửa nhà. Nơi đó (tức đất Tiên Cát) đều bị gió lớn thổi đỏ, nước ngập tràn lan ở bên trong, tất cả đều hư hỏng. Rắn hổ tập trung ở đất đó, đuổi hết mọi người, thật là một nơi bị hại lớn, có vào mà không có thoát, chết chóc rất nhiều.

Chỉ còn có 8 người tránh ở nơi đất gần đó (tức là ở đất nội thành), thường thường buổi tối mới dám quay về ẩn phục xem xét nghe ngóng nơi đền. Thấy sáu vị thánh ở chính trong đền (tức xứ Gồ Đá có chính lăng). Ba vị nữ quan ngồi ở trên, truyền lập hai hàng trái phải các thị nữ khăn áo hơn trăm người, huy hoàng đẹp đẽ, áo quần rực rỡ, vẻ rồng mắt phượng, má phấn môi son, tai cầm phiến ngọc, đầu đeo thoa vàng, đi hài lông phượng, lưng thắt khăn hồng. Bên dưới có ba vị quan nam ngồi đó, trái phải đứng hầu hơn ngàn người, áo lân giáp rồng, bào phục huy hoàng, đứng hầu uy lẫm. Cờ xí la liệt, ngựa voi chỉnh tề, xe loan kiệu phương cùng đi, thuyền rồng phân đội.

Tám người đang nấp nghe, thì thấy ba vị nữ quan nói:

–          Thật đáng trách bọn  cuồng khấu chim chó quân Hồ không biết đất này là nơi Tiên đế mở nền, tạo nên nước Nam. Đất có linh thiêng, khí lành đều do tạo an bài. Do vậy mà các nơi đều hận quân Hồ, nhưng không nên trách dân ta mà gây họa. Nay quân thủy phủ của ta đã trả hận quân Hồ. Còn nhân dân thì không được quấy nhiễu. Quân tôm cá hãy quay về thủy phủ để dân được yên.

Lời nói chưa dứt thì tám người đều phục trước sân mà bái tạ. Bỗng thấy một tiếng động rất lớn tựa như sấm sét giáng xuống mặt đất, rồi dần dần tự biến mất. Từ đó một vùng địa giới đều yên. Tám người quay về đất cũ (tức chợ Tiên Cát), gìn giữ nơi đất đó, năm tháng cùng phụng thờ.

Cho đến khi ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu có người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa, ba ngàn thần hổ Lam Sơn tiễu trừ họ Hồ, bình định người Ngô. Lên ngôi vua ở Lam Sơn, niên hiệu Thuận Thiên (tức Thái tổ Cao Hoàng đế). Khi đó đất trang Tiên Cát chỉ có 8 nhà ở đó, mới làm bài tấu lên vua về việc quân Hồ đục phá ngựa đá, voi đá ở đền, lại thấy việc linh thiêng như thế. Vua nghe lời tâu đó, lệnh cho quan đến nơi làm lễ cầu đảo (làm lễ năm Kỷ Mùi, mồng 9 đến mồng 10 tháng 10). Nhân dân đều đến ở Gò Đá mà tế lễ. Bèn mổ lợn đen, rượu ngọt, bánh dày cùng với trăm trứng. Từ mồng 9 đến mồng 10 làm lễ thì gió sấm nổi lên, mây mưa mù mịt. Trước sông (tức sông Thao) mây nổi bay trên mặt nước, hơn ngàn đám mây bay ngang dọc trên sông, rồi tiến thẳng vào trong cung đền. làm lễ tế xong thì mây mưa tự nhiên ngừng hết. Bốn phương thanh bình, quang đãng. Nhân dân đều sợ phục. Tới ngày 11 lại tế tạ. Ca múa tới ngày 15 làm lễ. Tạ xong thì mưa gió nổi lên một hồi rồi ngừng. Quan quay về tâu lên. Vua bèn gia phong mỹ tự:

–          Phong Đệ nhị Thuỷ Tinh nương Hai Uy linh Đại vương

–          Phong Đệ nhất Ngọc Tinh nương Cả Linh ứng Đại vương

–          Phong Đệ tam Bạch Hoa nương Ba Hiển linh Đại vương

–          Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương An dân Đại vương

–          Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long vương Hùng tài Đại vương

–          Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long vương Đại vương.

Trang Tiên Cát phụng thờ 6 vị.

Lại nói, từ khi Lê Thái tổ Hoàng đế truyền qua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, qua Minh Tông đến Chiêu Tông lên nắm quyền. Khi đó họ Mạc tiếm ngôi xưng vương, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Minh Đức, kế thế con cháu 5 đời làm vua.

Tới Lê Trang Tông cùng với đại thần là Thái úy lại khởi nghĩa binh. Niên hiệu Nguyên Hòa năm Quý tỵ quan Thái úy tôn phù nhà vua, dời đến cảnh Ái Châu, truyền các tì tướng gửi hịch chiêu dụ các xứ ở Bắc thành, lại đi thuyền đến đạo Sơn Tây, giả làm thuyền buôn. Đi tới sông Thao, thuyền qua trước đền (tức đền Tiên Cát) gặp ghềnh chặn, thuyền không thể đi được. Gió lớn thổi đến, sóng to trên sông, làm cho thuyền gần bị lật. Tướng cầm quân ngẩng lên nhìn bỗng thấy đền thờ rực rỡ. Ngay hôm đó (mồng 3 tháng 8) bèn đậu thuyền làm lễ, cầu đảo khấn rằng:

–          Gia thần tuân theo mệnh lớn, chiêu dụ người tài, tiễu trừ giặc mạc. nếu phục hồi được nhà Lê Nguyễn, nguyện xin âm phù cho thông đường thủy và bảo toàn quân đội.

Khấn xong tự nhiên yên bình. Các thuyền tự thoát, thuyền đi như bay. Thuyền lên đến trang Tằng Động huyện Thanh Ba thì thấy mưa gió tập trung chỗ dân địa phương. Bèn đóng quân trong ba ngày. Hôm ấy (mồng 6 tháng Giêng) nhân dân ở đó với quân Lê cùng mơ thấy hai cánh binh mã tiến vào trong dân, nói rằng:

–          Ta là  Chàng Út Long vương Thuỷ thú cùng với Chấn cung Thần quan tuân theo mệnh vua âm phù cho mệnh nước, bảo hộ nhà Lê. Nay đến nơi dân đây còn chưa định làm lễ sao?

Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mơ. Quân sĩ và nhân dân địa phương đều sợ hãi. Hôm đó (mồng 10 tháng Giêng), lập đàn cầu tế (ngày sau ở đất này đều lập miếu phụng thờ).

Một hôm quân Lê lại quay về huyện Tam Nông xứ Hưng hóa, vào ở tại đất trang Thọ Xuyên, bị quân Mạc vây hãm. Ba ngày sau quân Lê trước khi xuất hành mới cầu đảo bách thần phù hộ. Tự nhiên gió Tây lớn nổi lên, mây mưa bao phủ theo dòng nước mà vào cả khoảnh nơi đó, tất cả thành một dòng suối lớn chảy phá vào. Quân Mạc đại bại, chạy tán loạn. Quân Lê cùng xuất toàn quân, quay về Ái Châu (sau trang Thọ Xuyên lập miếu phụng thờ Thủy thần Đại vương, cùng với 5 vị và một vị công thần nhà Lê cúng tế).

Lại nói khi đó vạn dân quản chặt, bốn phương khói bụi, nước có 2 vua trị vì, dân không có ngày nào là yên nhàn, gọi là thời một nước hai vua. Hơn 60 năm sau, Trang Tông lệnh cho Thái úy thống lĩnh hai quân thủy bộ đi dẹp giặc Mạc. Thái úy bái tạ, xuất quân thẳng đến đóng ở các huyện Phù Khang, Bạch Hạc, Phúc Lộc của đạo Sơn Tây, lập các đồn lớn ở châu Trường Sa, vân Thủy, dựng đàn dâng hương cầu đảo trăm thần âm phù trừ Mạc, giúp nước cứu dân. Sau này được thanh bình sẽ tâu lên vua tăng phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, vạn năm hưởng thờ.

Khấn xong tự nhân mây mù nổi lên, mờ mịt trong ba ngày. Thái úy ngồi ở nơi đàn thiếp đi mộng thấy trăm thần nam nữ cùng đến, sơn thủy cùng về, qua giáp khắp trời, cờ xí rợp đất, đến trước Thái úy, hoặc chào hoặc bái, xưng họ xưng tên. Thái uy trong mộng không ghi nhớ hết được. Bỗng nghe ở hướng Đông Nam có một tiếng sét động. Thái úy giật mình tỉnh lại mới biết là mộng. Lại thấy mây mờ bay tản đi, trời ban ngày rạng sáng. Thái úy cho rằng đó là điềm trung hưng, bèn lệnh lấy đồ văn phòng tứ bảo cứ theo trong mộng mà ghi lại tên hiệu các thần lên lụa để chép lại việc này. Hôm đó lệnh cho quân sĩ mổ trâu, khấn tạ trăm thần, khao hưởng tướng sĩ.

Ngày sau chia binh đến dẹp giặc mạc, đại chiến một trận ở đất Phấn Thượng, huyện Phúc Lộc, máu chảy thành sông, xác chất thành núi. Giặc Mạc thua to, chạy lên mạn Bắc, đến nơi mở trường chọn kẻ sĩ, chặn giữ biên phương, không thể dẹp hết được. Thái úy về thành Thăng Long, giải giáp ngừng binh, làm biểu tâu thắng trận, xin vua về thành. Trang Tông hôm đó xa giá đến thành Thăng Long, thưởng cho ba quân, gia phong tướng sĩ. Phong cho ông là Thái úy Hưng Quốc Công thần. Ông tuổi đã già, có ý muốn nghỉ ngơi, bèn dâng biểu tấu với vua xin các việc quốc gia lớn nhỏ giao cho con rể họ Trịnh. Trang Tông đồng ý.

Trang Tông bèn lập Thái tử, sau là Trung Tông Vũ Hoàng đế, niên hiệu Thuận Bình, sau đổi thành Thiên Hựu, là con trai của Trang Tông. Trung Tông kế truyền ngôi cho Tuấn Hoàng đế, húy Hàn trác, ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, niên hiệu Chính Trị. Khi đó có đại thần họ Trịnh phò tá, lập kỷ cương đất nước, bày chế trong ngoài. Sau Thế Tông truyền ngôi cho Nghị Tông, niên hiệu Hồng Phúc, sau đổi là Gia Thái, lại đổi là Quang Hưng, chính là con trai của vua Chính Trị. Khi ấy giặc Mạc trong nước đã diệt. Nhà Lê lại bắt đầu ngôi chính thống.

Từ đó thiên hạ thái bình, triều đình vô sự. Nhà Lê là chủ, họ Trịnh là vương, ban bố hai bộ Công và bộ Lễ đốc lệnh cho huyện doãn cùng các dân phu các xã xây dựng lại điện đình ở địa phương nơi xã Phấn Thượng, cung phụng thờ các vị vua chủ cùng các vị chư thần, lấy xã đó làm trưởng tạo lệ. Lại tiến phong các mĩ tự cho trăm thần sơn thủy nam nữ đã âm phù giúp nước, cùng luận công mà thưởng tước lộc, ban thêm cho những người có công. Công mãi mãi là thức lệ cùng với nước trường tồn. Thật thịnh thay!

Lại nói, khi đó lại phong mỹ tự cho trang Tiên Cát. Lúc ấy chỉ có 8 người về ở đó từ khi cuối họ Hồ, cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi các đời sau của 8 người đó đều sinh con cháu cùng với vợ chồng. Những người sau đều ở phụ đó, phong tục nhân dân chất phác đôn hậu, giàu mạnh, đinh dân khỏe mạnh. Bèn chia đều thành 8 giáp cùng phụng thờ nơi tiền cung khi thần còn sống (tức cung Tiên Cát, nơi Thứ phi ngày trước ở đó, sau đổi thành làng), hậu cung là chính nơi hóa của thần  (tức xứ Gò Đá, là lăng của Thứ phi, gọi là đất thủy phủ hội đồng). Sau Lê Trang Tông lại tiến phong nhiều mỹ tự.

Vâng ơn chính triều nay có phong tặng là Đương cảnh thành hoàng Linh phù Thượng thần, gia tặng là Thục diệu Tối linh thần, gia tặng là Hoằng hợp Tối linh thần, gia tặng là Dực bảo Trung hưng chi thần.

Nhất thiết húy cấm các chữ Cả, Hai, Ba, Ngọc, Hương, Bạch, Anh, Cự, Linh, Ất, Thông, Thuỷ, Chàng.

Bảo Đại năm thứ 13 ngày tháng 3 tuân sao chính bản.

Vâng sao đệ trình bởi Lý trưởng làng Tiên Cát Nguyễn Văn Tản.

Cộng tất cả 14 trang.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo

Sau thời đẻ đất, đẻ nước, đẻ người, dân mường có vua, có cuộc sống ấm no, xã hội người Việt Mường cổ bước sang thời kỳ phụ đạo, cha truyền con nối. Những xung đột giữa các tộc người trong thiên hạ cũng nảy sinh, tranh giành vị trí thủ lĩnh đứng đầu đất nước.

Cuộc đấu tranh giữa 2 dòng lên núi và xuống biển của người Việt Mường bắt đầu từ đây.

Ngũ tộc Tản Viên

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể rằng, Lang Cun Cần lấy tất cả tới 5 người vợ. Đầu tiên là lấy nàng Vạ Hai Kịt, là người cùng sinh ra từ trứng Chiếng, đẻ ra 12 chàng Ma ếm, tức không phải là những thủ lĩnh cộng đồng (Cun). Thứ đến Lang Cun Cần lấy nàng Vậm Đầu Đất, là con vua Bình Lạc, đẻ được Cun Đồi. Sau đó Lang Cun Cần lại lấy nàng Vật Đầu Nước, sinh được Cun Đàng. Đám cưới to nhất của Lang Cun Cần là lấy nàng Ả Sao Ả Sáng, con ông Vua Trời. Ngựa chín hồng mao đưa Lang Cun Cần đi rước vợ. Ả Sao Ả Sáng sinh được Cun Khương. Cuối cùng Lang Cun Cần lấy Ả Gái nuôi trong mường, không phải lễ lạt đưa đón gì, sinh ra Tóng In.

Câu chuyện về Lang Cun Cần lấy 5 vợ là sự kiện Tản Viên Sơn Thánh đã thành công trong việc hợp nhất 5 tộc người ở Ngũ phương, xây dựng Ngũ thần cung điện ở vùng Ngũ Lĩnh, tức vùng Sơn Tây ngày nay. Đầu tiên, như đã bàn trong bài trước, nàng Vạ Hai Kịt đại diện cho dòng Tiên tộc của Tây Thiên Quốc Mẫu và Ất Sơn Hùng Vương Thánh Tổ ở phía Nam xưa (phía Bắc nay). Trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh đó là dòng của bà Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ, người đã di chúc quyền cai quản đất nước cho Sơn Thánh.

Trong việc nàng Vậm Đầu Đất sinh ra Cun Đồi, xét những từ Đất và Đồi thì đây là dòng tộc vùng miền núi ở hướng Tây, tức là Cửu Lê tộc. Còn trong chuyện nàng Vật Đầu Nước sinh ra Cun Đàng, những từ Nước và Đàng chỉ ra rằng đây là dòng tộc ở vùng đồng bằng, tức là dòng Lạc tộc. Chữ Lạc vốn nghĩa là Nác – Nước.

Người vợ thứ tư của Lang Cun Cần là Ả Sao Ả Sáng, con vua Trời, tức là dòng tộc nối tiếp vua Dịt Dàng và Tá Cần ở phương Bắc xưa (phương Nam nay), gọi là Viêm tộc. Chi tiết đặc biệt là Lang Cun Cần đưa ngựa chín hồng mao đi rước Ả Sao Ả Sáng, cho thấy đây là chuyện Tản Viên Sơn Thánh lấy công chúa Mỵ Nương, con gái vua Hùng trong truyền thuyết Việt.

Ả Gái nuôi trong mường chỉ tộc người bản địa của nơi Lang Cun Cần sinh sống, tức là tộc người ở vùng trung tâm của đất nước. Xét vậy thì Tóng In, con của Ả Gái nuôi, mới là người con trưởng của vùng đất Lang Cun Cần đang cai quản. Truyền thuyết Việt kể đó là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương với Long Nữ Động Đình.

Dưới thời Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh người Việt Mường đã thống nhất 5 tộc người ở 5 phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung tâm, được hình tượng hóa trong sử thi Mường là việc Lang Cun Cần lấy 5 vợ, sinh ra 4 vị Cun. Tiếp theo, có sự phân chia lại phương vị của các tộc người này bởi sự chia đất của Lang Cun Cần và quá trình tranh giành giữa các Cun với nhau.

Sơn Tinh – Thủy Tinh

Khi Lang Cun Cần chia đất cho các con, tuy nói chia đất phải chia bằng nhau cho khỏi mất lòng con sau, con trước, nhưng thực tế thì:

Cun Đồi được chia đất Khấm Ngang

Cun Tàng được chia đất Khấm Dọc

Ruộng sâu, ruộng nông chia cho Tóng In.

Còn men ruộng mạ nhỏ bằng tai khỉ, chân đất xấu nhỏ như tai mèo… thì chia cho Cun Khương. Cun Khương tức giận, chạy về nhà ngoại kêu khóc. Nhà ngoại khuyên nhủ, Cun Khương về chăm chỉ làm ăn, trở nên giàu mạnh.

Tóng In được vùng đất nhiều ruộng tốt nhất nhưng mải chơi nên bị đói, phải đến xin ăn nhà Cun Khương mấy lần. Cuối cùng Cun Khương không cho nữa. Tóng In lôi kéo Cun Đồi, Cun Đàng đem quân đánh Cun Khương. Cun Khương bỏ chạy, nhờ bên ngoại là nhà trời giúp, làm hạn hán đồng cạn xơ xác, rồi lại làm mưa to dầm dề, ngập bờ ngập bụi. Cun Khương bắt ép Cun Đồi, Cun Đàng phải giết Tóng In mới chịu về ngừng làm ngập lụt.

Tóng In chết làm ma ruộng, ôm hận thù, bèn tập hợp ma rắn, ma lửa, ma mỏ vàng… đánh lại Cun Khương, Cun Đồi và Cun Đàng. Tóng In thua, lại lặn xuống Thủy phủ với Long Vương, kêu xin Vua Nước. Vua Nước bèn cho Tóng In làm Ma May cướp đường, Ma Lang giữ sông giữ bến. Tóng In có vằn lưng cá chép, áo vây cá mè, đầu cá trê, mắt cá ngạo, lại có mào đỏ to, lưng rồng uốn éo. Tóng In sai tướng Ba Ba bắt Cun Đồi, Cun Đàng phải chịu chết. Cun Khương ra trận đánh nhau với Tóng In, chém chết rồng. Từ đó Ma Ruộng đã ngăn, Ma May Ma Lang đã diệt…

Trong cuộc tranh chấp lần đầu, Cun Đồi, Cun Đàng theo Tóng In đánh Cun Khương. Dòng lên núi là Cun Khương thua, phải chạy trốn về bên ngoại nhà trời. Tóng In trở thành người cầm đầu mường. Đây là chuyện Lạc Long Quân, con trai của Kinh Dương Vương đã đánh đuổi Đế Lai, con của Đế Nghi, về Bắc được kể trong Truyện họ Hồng Bàng. Lạc Long Quân làm vua Thủy phủ, cai quản toàn bộ vùng thấp gồm ruộng đồng, sông biển, hoàn toàn tương ứng với việc Tóng In làm Ma Ruộng rồi Ma May Ma Lang. Sử thi Mường còn mô tả rõ Tóng In hóa Rồng có vằn, có vảy, có mào ở Thủy phủ Long cung. Chữ Tóng có thể là phát âm khác của chữ Đông vì dòng Long Vương Thủy phủ ở hướng Đông ra biển.

Khác với người Kinh ở miền xuôi, người Mường là bộ phận người theo dòng lên núi nên không tôn thờ vua cha Lạc Long Quân của dòng xuống biển. Ngược lại, trong sử thi Mường khắc họa hình ảnh của Tóng In khá phản diện, từ việc mải chơi đến mức phải đi xin ăn, rồi hóa thành ma ruộng, ma sông, ma biển dữ tợn, gây hại cho mường.

Bộ 3 Cun Khương, Cun Đồi, Cun Đàng của dòng lên núi làm thành Tam Vị Tản Viên gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh, mà Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các vị Sơn Tinh. Tóng In làm Ma Ruộng, rồi Ma May Ma Lang của Thủy phủ, chính là Thủy Tinh. Ma May Ma Lang tương ứng với Linh Lang, là tên gọi khác của Long Vương Thủy phủ, hay của các vị xuống biển cai quản vùng sông nước, như Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các “Thủy thượng Linh thần”.

Cun Đồi, Cun Đàng của 2 vùng đất Ngang và Dọc đại diện cho chư hầu các nơi ở trên cao (Đồi) và dưới thấp (Đàng). Ban đầu các chư hầu theo dòng xuống biển là Tóng In, đuổi dòng Cun Khương phải chạy trốn lên núi về phía Tây. Sau này, các chư hầu lại theo về với dòng lên núi của Cun Khương, đánh lại dòng Thủy phủ Long quân của Tóng In.

Cuộc đấu tranh giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh, giữa Cun Khương – Tóng In, được mô tả rất ác liệt, dai dẳng nhiều năm, qua nhiều lần đụng độ. Hai bên đều có nhiều thương vong. Ban đầu dòng xuống biển của Long Quân thắng, nắm đại quyền thiên hạ. Cuối cùng về sau, dòng lên núi của con cháu Đế Lai là Âu Cơ quay trở lại, đánh thắng dòng xuống biển, trở thành vua Việt (Dịt Dàng).

Lang Cun Cần – Kinh Dương Vương dựng nên thiên hạ, rồi chia đất cho các con, dẫn đến xung đột tranh giành giữa các dòng tộc. Thời kỳ này dân mường không chọn người có tài có đức ra giữ binh mường như trước nữa, mà bắt đầu chế độ phụ hệ, cha chia quyền cho con, rồi con trưởng con thứ tranh chấp, bên nào mạnh thì chư hầu các nơi phục theo. Mốc lịch sử 4.000 năm của người Việt Mường được xác lập chính là tính theo thời kỳ thị tộc phụ đạo từ Lạc Long Quân – Tóng In.

(Còn tiếp)

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 1.
Đền An Trì ở bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội, thờ Uy Linh Lang thủy thần.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 2.
Nhà tiền tế đền Và, Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 3.
Miếu Đầm Đượng ở Thụy Phiêu, Ba Vì, nơi thờ diễn ra cuộc chiến ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 4.
Đình Kẻ Đầm ở Sơn Đông, Sơn Tây, là nơi đầm nước rộng lớn của Đồng Mô, nhưng vẫn thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 5.
Đền Thượng ở Đan Thượng, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi thờ Cao Sơn Đại vương.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 6.
Tế lễ hội đền Và, Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 7.
Nghi môn đền Và – Đông cung Tản Viên ở Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 8.
Đình Yên Phụ ở hồ Tây, Hà Nội thờ Linh Lang Đại vương và 2 người em cùng là thủy thần hồ Dâm Đàm.

https://congdankhuyenhoc.vn/su-thi-muong-de-dat-de-nuoc-va-huyen-su-thoi-hung-vuong-thoi-thi-toc-phu-dao-179230115215405335.htm