Những mốc lịch sử thời Hùng Vương dựng nước

Các vua Hùng đã có công dựng nước“, câu nói của cụ Hồ bên đền Hùng là một đánh giá lịch sử chính xác. Nhưng lịch sử thời dựng nước của các vua Hùng tính từ lúc nào. 4000 năm lịch sử như cha ông ta từng lưu truyền? Hay 5000 năm ngang với Tam Hoàng Ngũ Đế Trung Hoa? Hay chỉ “vài ngàn năm” như hội thảo gần đây về thời Hùng Vương mới “kết luận”?…
Lịch sử dựng nước tính từ đâu phụ thuộc vào mốc tính, thế nào là “bắt đầu lịch sử”. Lịch sử hoàn toàn không phải bắt đầu từ khi có chữ viết vì không thiếu gì dân tộc cho tới tận ngày nay không hề có chữ viết riêng. Chả nhẽ họ cũng bị coi là không có “lịch sử”?
Lịch sử được tính bằng những mốc, những nấc thang phát triển của thể chế xã hội. Đối với người Việt, những nấc thang lịch sử ban đầu đích thực là do các vua Hùng đã gây dựng nên. Những cuốn ngọc phả Hùng Vương còn lưu truyền lại cho tới ngày nay cung cấp chính xác những mốc phát triển của xã hội Việt thời dựng nước.

Mốc lịch sử Việt thứ nhất: Thủ lĩnh cộng đồng
Mốc lịch sử đầu tiên của người Việt được đánh dấu bằng Đế Minh, cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông. Ngọc phả đền Hùng Phú Thọ gọi ông là Thái tổ Đế Minh. Hàng loạt di tích ở Thanh Ba, Phù Ninh, Phú Thọ thờ vị Thái tổ Hùng Vương này.

Den Thai to
Đền Thái Tổ ở Trạm Thản, Phù Ninh, Phú Thọ.

Vị vua Hùng đầu tiên, đứng đầu 18 đời Hùng Vương là Đế Minh, được các nơi thờ dưới tên Đột Ngột Cao Sơn, hay tên đầy đủ như trong Ngọc phả đền Vân Luông là Thánh tổ Hùng Vương Nam Thiên thượng thánh Tiền hoàng đế khai quốc hồng đồ Đột Ngột Cao Sơn cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương.
Từ “đột ngột” hiểu nôm na là “bất ngờ xuất hiện”, cũng nghĩa là trước đó chưa có ai, chỉ vị vua đầu tiên. Rõ ràng chỉ có Đế Minh mới thích hợp ở vị trí “tiền hoàng đế khai quốc” này.
Ngọc phả đền Vân Luông còn cho biết: Đế Minh chính thống vạn bang chư hầu thiên hạ. Đế Minh như thế là người đã khai thống toàn thiên hạ, ngang với thời “Hoàng Đế mở muôn nước“, tức là cách đây khoảng 5000 năm. Bắt đầu từ Đế Minh xã hội Việt đã có vua, có thủ lĩnh cộng đồng. Bước tiến lịch sử đầu tiên của người Việt phải tính từ Thái tổ Hùng Vương 5000 năm. Tên gọi cho thời kỳ này là kỷ Hồng Bàng.

IMG_0394.JPG
Hùng Vương miếu ở Đình Chu, Lập Thạch, Phú Thọ, nơi thờ Đột Ngột Cao Sơn.

Câu đối ở đền Hùng về mốc lịch sử đầu tiên này:
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.

Dịch:
Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

Mốc lịch sử Việt thứ hai: Chế độ thế tập
Sau Đế Minh, mặc dù đã có thủ lĩnh của cộng đồng thiên hạ vạn bang nhưng chế độ vẫn đang là truyền hiền. Cụ thể là chuyện 2 vị công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung được gả cho Sơn Tinh, dẫn đến vị hiền tế phò mã này được tiếp ngôi chính thống. Vế đối còn lưu ở đền Nhà Bà, Tiên Du, Phú Thọ nơi thờ 2 vị công chúa này ghi:
Quân do Bạch Hạc lai phò, Nam Việt vạn bang xưng nữ kiệt
Dịch:
Chúa đến giúp từ Bạch Hạc, Nam Việt muôn bang gọi gái tài.

Nha Ba
Vế đối đền Nhà Bà ở Tiên Du, Phù Ninh, Phú Thọ.

Những dấu vết khác của thời kỳ truyền hiền còn thấy ở Phú Thọ như lầu kén rể bên bến Việt Trì, hay tục rước chúa gái của 2 làng Vi Trẹo dưới chân núi Hùng.
Thời kỳ truyền hiền kết thúc bởi sự kiện Lạc Long Quân kế vị Kinh Dương Vương, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Chế độ thế tập xuất hiện ở thời điểm này cách nay khoảng 4000 năm. Đây chính là mốc lịch sử trước đây thường được nhắc tới, gắn liền với tên tuổi của “cha” Lạc Long Quân. Tên gọi thời kỳ này là Xích Quỷ hoặc Việt Thường.

Tam quan
Nghi môn đền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bình.

Câu đối ở đền Đồng Bằng, nơi thờ vua cha Bát Hải Động Đình (tức Lạc Long Quân):
Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích
Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh.

Dịch:
Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ
Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.

Mốc lịch sử Việt thứ ba: Chế độ phong kiến
Thời kỳ bộ lạc thế tập, gọi vua là cha (“phụ”), kéo khá dài như chuyện nàng Âu Cơ mang nặng đẻ đau sinh ra bào ngọc trăm trứng… Phải đến khi xuất hiện Hùng Quốc Vương, người con trưởng đích trong trăm trai, với kỳ công hiệu triệu chư hầu, tiêu diệt nhà Ân Thương, thì xã hội Việt mới tiến lên một bước quan trọng.
Ngọc phả Hùng Vương kể: Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn… Bấy giờ Vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm các tộc, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương.
Bắt đầu từ Hùng Quốc Vương bờ cõi đất đai trong thiên hạ được chia phân thành các chư hầu phiên dậu bình phong. Mỗi chư hầu có người chủ trì gọi là “phụ đạo” và chức chư hầu này được thế tập nối nhau. Vua xưng là thiên tử. Đặt ra lễ chễ trăm quan. Nhân dân được định tộc họ. Những vị tiên tổ có công lao được phong làm thần mà thờ phụng.

IMG_8547.JPG
Đình Hương Trầm, Việt Trì, nơi có sự tích thờ Lang Liêu.

Đây cũng là thời điểm đời Hùng thứ 6 với vị Lang Liêu, người có công hoàn tác Dịch học âm dương vuông tròn, khai mở lễ tiết (Tết). Truyện Bánh chưng bánh dày kể rõ, Lang Liêu nối ngôi đã phân chia cho các anh em làm phiên dậu bình phong…
Bản chất là xã hội Việt lúc này bước sang chế độ phong tước kiến địa hay chế độ phong kiến điển hình. Vua Hùng đứng đầu Bách Việt (là tổ của Bách Việt), vì mỗi “Việt” là một chư hầu trong thiên hạ họ Hùng. Thời điểm của mốc lịch sử này được ghi nhận sau khi Hùng Vương thứ 6 đánh thắng giặc Ân, tức vào quãng hơn 3000 năm trước. Tên gọi đất nước của Lang Liêu thì như đã rõ, là Văn Lang.

IMG_8595.JPG
Đình Bảo Đà, Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ.

Câu đối ở đình Bảo Đà tại Việt Trì:
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.

Dịch:
Mấy ngàn năm phụ đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.

Mốc lịch sử Việt thứ tư: Quốc gia thống nhất
Mô hình Thiên tử – Chư hầu, vua Hùng – Bách Việt kéo dài qua các thời kỳ thịnh rồi suy, dẫn tới xung đột khốc liệt giữa các chư hầu. Để rồi nổi lên 1 chư hầu lớn thôn tính toàn bộ các chư hầu khác là Thục An Dương Vương như trong truyền thuyết Chín chúa tranh vua của người Tày. Vị vua đã thống nhất các nước chư hầu đến từ phía Tây – Thục này chính là nhà Tần. Truyền thuyết chép vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán.
Tuy nhiên, với sự tàn ác của Tần đế, truyền thuyết Việt không chấp nhận vai trò thống nhất thiên hạ của nhà Thục. Người được coi người khởi thủy nước Nam lại là Vũ Đế Triệu Đà. Xét kỹ thì với vai trò là bố của Trọng Thủy, Triệu Đà cũng chính là vua Tần, người đã diệt con cháu hậu duệ của Hùng Quốc Vương Lang Liêu.
Mặt khác, Triệu Đà thứ hai là Lưu Bang Hiếu Cao Tổ, người Tuấn kiệt đã lãnh đạo dân Việt kháng Tần thắng lợi, lập nên một triều đại Hảo Hán (Hiếu Hán), thống nhất. Chế độ quận huyện từ trung ương xuống địa phương được áp dụng trên toàn lãnh thổ. Xã hội Việt bước vào giai đoạn quốc gia thống nhất.
Thời điểm cho mốc thống nhất toàn lãnh thổ hay phong kiến tập quyền này rơi vào quãng năm 256 TCN (thời điểm Tần diệt Chu) hoặc 207 TCN (thời điểm Lưu Bang diệt Tần), tức là cách nay trên 2200 năm.
Câu đối ở điện Hưng Long, nơi thờ Triệu Vũ Đế tại Xuân Quan, Hưng Yên:
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.

Dịch:
Một lệnh dẹp không Tần, vạn dặm mở đầu dứt Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, nghìn năm gây nền vững đế vương.

Từ thời điểm này xã hội người Việt đã thống nhất chế độ, thống nhất lãnh thổ nên lịch sử Việt chấm dứt thời Hùng Vương dựng nước, bước sai thời kỳ con cháu “giữ lấy nước”. Hơn 3000 năm dựng nước đầy gian nan, từng bước, từng bước một cha ông đổ mồ hôi nước mắt mới có được những thành tựu to lớn để lại cho con cháu. Đọc lại ngọc phả Hùng Vương xin chớ quên câu Uống nước nhớ nguồn.