Chuyện chưa bao giờ cũ…

Có nhiều người thấy tôi viết chuyện đền miếu người Việt mà lại cho rằng đó là lấy sử Tàu làm sử ta. Thế nào mà vua Thuấn đi cày đồng Lịch Sơn lại là ở Sơn Dương, Tuyên Quang. Vua Vũ trị thủy lại là Tản Viên Sơn Thánh ở sông Đà? Tại sao Chử Đồng Tử lại là Hậu Nghệ cùng Hằng Nga bay vào cung trăng? Tại sao Phù Đổng Thiên Vương lại là Na Tra thái tử đi tắm ở hồ Tây? Tại sao Lang Liêu lên núi cầu tiên lại là Thiên tử Chu đi tuần hành? Tại sao Lão Tử lại khiển thần Kim Quy đến giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa? Tại sao Trọng Thủy lại là bố của Tần Thủy Hoàng? Tại sao Triệu Đà lại là vua Việt ở Thái Bình? Tại sao Sĩ Vương là Nam Giao học tổ? Tại sao Cao Biền lại được thờ là Cao Vương trấn Nam Thăng Long?…

Xin thưa, tất cả đó đều không phải sử Tàu, mà là sử ta chính cống. Là sử mà cha ông ta đã trân trọng gìn giữ, ghi lại bằng máu của bao nhiêu đời nay, lưu truyền từ cha cho con, từ ông cho cháu qua những câu chuyện kể, những di tích thờ phụng các bậc anh hùng hộ quốc tí dân ở khắp các nơi, khắp các phong tục tập quán lẫn trong khắp suy nghĩ và hành động văn hóa của mỗi người Việt.

Không phải vì nghìn năm Bắc thuộc mà vua Minh Mạng lại lập miếu Lịch Đại đế vương để thờ từ Phục Hy, Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, Hạ Võ, Thương Thang, Chu Văn, Chu Vũ, lập Võ miếu thờ Thái công Khương Tử Nha, lập Văn miếu thờ Sĩ Vương tiên. Làm gì có chuyện những trí thức người Việt vốn quán thông Tứ thư Ngũ kinh mà không biết ai là tổ, ai là giặc để lập miếu đường chính thống thờ phụng.

Ngay trong dòng đầu tiên của cuốn Thiên thư Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả, vị Thư ký của vua Lê Đại Hành đã viết:

Xưa tại Đại quốc Trung Hoa, đô đóng ở thành Thiên Thọ Bắc, lăng phần mộ tổ trời táng ở núi Côn Lôn, cùng năm hồ, biển lớn, núi Nam hội chầu chính đường. Ban đầu là từ cháu ba đời Viêm Đế dòng Thần Nông Thị, từ Hy Hoàng tới đó, truyền ngôi quốc bảo chính thống Nam Bang, để lại cho con cháu đời sau vậy.”

Nước ta là Đại quốc Trung Hoa, mộ tổ Hùng Vương ở núi Côn Lôn… Vua Lê Đại Hành liệu có thể nhầm không? Xin thưa, không có gì nhầm ở đây cả. Nước ta thực sự chính là Trung Hoa của ngàn năm trước. Núi Côn Lôn là dải Hoàng Liên sừng sững cao vợi với mộ tổ vua Hùng còn đó…

Nghìn năm Bắc thuộc không đồng hóa người Việt. Mà nghìn năm Bắc thuộc đã đánh tráo lịch sử Hoa Việt thành Hán sử. Vốn Hán tộc là đám Nhung Địch phương Bắc, được thời chiếm Trung Hoa, thủ tiêu đi quá khứ thật vốn có của người Việt, cắt đứt sợi dây nối với cội nguồn người Việt. May mắn sao, anh linh tiên tổ còn trong đền miếu, trong tín ngưỡng của nhân dân. Lần theo đầu mối này chính là con đường về với bản ngã của người Việt, để xé đám mây mờ che khuất 5000 năm lịch sử nơi trời Đông.

Nhắc lại chuyện này, để đừng quên quá khứ, đừng bị che mắt bởi những định kiến do Tàu, do Tây nhồi vào óc nhiều thế hệ trong mấy trăm năm qua. Dân muốn biết sử ta, tất nhiên không phải “tra Google” do Tây do Tàu dựng nên, mà phải tra những gì cha ông để lại trong đền miếu, trong văn hóa dân gian.

ĐỐI CHIẾU HUYỀN SỬ VIỆT VÀ HOA SỬ

Những công trình của Hùng Việt sử quán năm Nhâm Dần 2022

Năm Nhâm Dần 2022 đối với Hùng Việt sử quán là năm hoạt động có nhiều khó khăn, nhưng đồng thời đây cũng là năm Hùng Việt sử quán và Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền Miều Việt đã cho ra mắt bạn đọc nhiều công trình nghiên cứu về cổ sử và tín ngưỡng Việt bằng cả việc xuất bản sách và đăng báo.

5 cuốn sách của Hùng Việt sử quán năm 2022

☀️ HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ NGỌC PHẢ SƯU KHẢO

Cuốn sách là một công trình khảo cứu quan trọng, giải mã toàn bộ 18 triều đại Hùng Vương qua 4 giai đoạn phát triển kéo dài trên 3000 năm.

☀️ HÙNG VƯƠNG TRUYỀN SỬ DIỄN NGHĨA 

Sách ebook viết dưới dạng sử ký, theo dòng thời gian từ khi Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ đến khi Trưng Vương lên ngôi Lạc Hùng chính thống.

☀️ VIỆT ĐIỆN TỨ LINH 

Sách ebook nhận chân thần điện Việt qua các bộ Tứ phủ, Tứ linh, Tứ bất tử, Tứ trấn và Tứ pháp.

☀️ DI SẢN VĂN HÓA ĐÌNH ĐỀN MẠO PHỔ

Một ngôi làng nhỏ nhưng có tư liệu vô cùng độc đáo về giai đoạn Hậu Hùng Vương khi nhà Triệu họ Lê lập nước Nam Việt. 

☀️ KINH TRIỀU BẢO LỤC – NAM THIÊN THÁNH TỔ TẢN VIÊN SƠN 

Là những ghi chép vô giá và là đại sử thi về thời kỳ Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh mở nước nơi Ngũ Lĩnh – Động Đình.

9 loạt bài nghiên cứu của Hùng Việt sử quán năm 2022

Không trùng lặp với nội dung của các cuốn sách xuất bản, các bài báo do Hùng Việt sử quán biên viết được công bố thành nhiều kỳ trên chuyên mục Kết nối Xưa&Nay của Tạp chí điện tử Công dân & Khuyến học.

Chủ đề 1. CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN VÀ CHỮ  VIẾT CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ

Cuốn sách đầu tiên của người Việt là cuốn “Vô tự Thiên thư” do Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh có được vào thời lập quốc. Chữ viết hoàn chỉnh của người Việt là chữ Kim văn – Khoa đẩu, sử dụng trên các đồ đồng từ cách nay trên 3000 năm.

Cuốn sách đầu tiên của người Việt thời mở nước

Chữ viết của người Việt thời Hùng Vương

Chủ đề 2. TAM LANG LONG VƯƠNG

Tín ngưỡng thờ ba vị thủy thần thời Hùng Vương chính là thờ vua cha Lạc Long Quân và những người anh em cùng bọc đã đi khai phá miền Động Đình ven sông biển. Tín ngưỡng thờ Tam Lang Long Vương trải rộng khắp miền Bắc Việt, phổ biến tới tận vùng Nghệ Tĩnh. 

Tam Lang Long Vương – những người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển

Chủ đề 3. QUỲNH VIÊN VÀ CHỬ ĐỒNG TỬ

Dấu vết nơi tu tiên của Chử Đạo Tổ còn lưu đậm trên núi Quỳnh Viên ở Hà Tĩnh.

Vãn cảnh Quỳnh Viên, nơi Chử Đồng Tử học đạo bất tử

Chủ đề 4. CỔ LOA THÀNH TRÊN LẠC QUỐC

Những di vật khảo cổ các lớp thành Cổ Loa và truyền thuyết về Phò mã Lý Thân của Tần Thủy Hoàng cho thấy lớp thành chính của Cổ Loa được xây dựng dưới thời nhà Tần. 

Cùng về thăm lại Cổ Loa thành

Đọc lại lịch sử Đức Thánh Chèm Lý Ông Trọng

Chủ đề 5. VIẾT NÊN SỬ DAO

Tín ngưỡng và di văn về Bàn Hồ của người Dao đã viết nên cuốn sử của nhóm người Miêu Dao từ Bàn Cổ – ông Tiết – Thành Thang – Bàn Canh tới Sở Hùng Vương.

Viết nên sử Dao (phần 1)

Viết nên sử Dao (tiếp theo và hết)

Chủ đề 6. TỨ BẤT TỬ NƯỚC NAM

Tứ bất tử là khái niệm tu tiên đắc đạo, được chia thành 4 cấp độ khác nhau theo dòng lịch sử.

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài 1)

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài 2)

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài cuối)

Chủ đề 7. HÙNG VƯƠNG TỨ HIẾU

Bốn tấm gương hiếu thời Hùng Vương là Hùng Hi Vương Đế Thuấn, Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử và Lang Liêu.

Hùng Vương tứ hiếu Bài 1: Hùng Hi Vương Thánh Tổ

Hùng Vương tứ hiếu Bài 2: Tản Viên Sơn Thánh

Hùng Vương tứ hiếu Bài 3: Chử Đồng Tử

Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu

Chủ đề 8. HÌNH TƯỢNG TIÊN TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT

Từ những vị Tiên Mẫu trong truyền thuyết thời Hùng Vương, tới những Tiên nhân trên các gương đồng thời Tần Hán, sang những vị Tiên tốt đẹp thời Tùy Đường cho đến những Chư Thiên của Hindu giáo. 

Những vị Tiên nữ Việt thời Hùng Vương

Những vị tiên thời hậu Hùng Vương

Những vị tiên thời Trung đại

Chủ đề 9. SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC VÀ HUYỀN SỬ THỜI HÙNG VƯƠNG

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước là lịch sử thật sự của trời Đông từ ông Bàn Cổ – Mụ Dạ Dần khai thiên lập địa cho tới vua Dịt Dàng – Thục An Dương Vương về đất Kinh kỳ kẻ chợ.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền

Vì sao người Việt cần học lịch sử?

Cây có cội, nước có nguồn. Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới.

Tượng Văn Tuyên Vương Khổng Tử ở chùa Bổ Đà, Việt Yên, Bắc Giang.

Trong cuốn An Tĩnh cổ lục, Hippolyte Le Breton, học giả người Pháp của Viện Viễn Đông bác cổ từng viết về người Việt: “Cái gọi là sự tiến bộ chỉ là truyền thống đang đi lên. Nếu không có những truyền thống tốt đẹp, con người sẽ bị lôi cuốn theo bản năng xấu. Nước Đại Việt giàu về quá khứ và các bạn nên hiểu rằng chính người chết cai trị người sống. Những đức tính tốt mà chúng ta có, chúng ta nhờ cha mẹ ông bà mà có. Hãy kính thờ vong linh tổ tiên bằng cách phổ biến lịch sử của tổ tiên”.

“Chính người chết cai trị người sống” nghĩa là các bậc tiền nhân đã khuất mới là những người chi phối tinh thần và tư tưởng của chúng ta ngày nay. Xã hội ngày nay là kết tinh của quá khứ. Không học lịch sử để biết về quá khứ, làm sao có thể hiểu được những gì đang diễn ra ngày hôm nay.

Khổng Tử, vị thánh nhân được tôn là người thầy của muôn đời (Vạn thế sư biểu) bởi qua những tác phẩm kinh sách để lại ông đã truyền dạy chúng ta cách sống, cách làm người trong xã hội. Sách Luận ngữ ghi lời của đức Khổng Tử: “Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời. Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao”. 

Cùng với Kinh Lễ, Kinh Thi thì Kinh Thư, tức là sách lịch sử thời cổ đại, là một trong Ngũ kinh mà bất cứ người đi học nào cũng phải biết. Những câu chuyện đặc sắc từ Kinh Thư như chuyện thịnh thời Nghiêu Thuấn, những gương hiếu thảo, những hành động dũng cảm, những cách xử trí thông minh… được chọn lọc lưu truyền trong kinh sách. Những điển hình này có giá trị giáo dục, răn dạy, hướng người học đến một nhân cách cao đẹp, mà Khổng Tử gọi là mẫu “người quân tử”: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Học lịch sử không chỉ là để tu dưỡng bản thân, ứng xử trong gia đình, mà còn là để giúp nước và ra hội nhập với thế giới.

Học lịch sử đối với người Việt lại càng quan trọng bởi mở sách sử nước ta ngày nay xem thời kỳ cổ sử thấy thật mông lung. Hàng loạt câu hỏi về tổ tiên, về cha ông người Việt luôn nhức nhối qua từng trang huyền thoại. Cha Rồng, mẹ Tiên là ai? 18 đời Hùng Vương là thế nào? An Dương Vương có thật hay không? Triệu Đà là người Nam hay người Bắc? Lý Bôn, Triệu Việt Vương – những vị đế vương đầu tiên của nước Nam có thật hay không?… Người Việt có thể yên giấc được hằng đêm mà không rõ mình từ đâu mà ra, mình là ai hay không?

Sách sử quốc gia là vấn đề trọng yếu mà mỗi một triều đại khi khởi đầu đều phải quan tâm. Vua Minh Mạng từ khi lên ngôi đã cho thu tập các tư liệu từ các nguồn khác nhau về thời đại dựng nước của người Việt và biên soạn thành cuốn Nam Việt Hùng Thị sử ký. Do tính chất đặc biệt của cuốn Sử ký này nên nó được đặt tên là “Hùng Vương Kim ngọc Bảo giám thực lục” và được nhà vua khâm sắc chỉ ban cho cho các quan đứng đầu các bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình, bộ Lễ và phó sứ đoàn để tuân mệnh sử dụng. Hiểu biết đúng về một lịch sử chân xác là nhận thức căn bản cho việc thi hành các nhiệm vụ trong quân đội (bộ Binh), trong quản lý nhà nước (bộ Hộ), trong văn hóa và tín ngưỡng (bộ Lễ) và trong các hoạt động đối ngoại (sứ đoàn).

Trang cuối bản sao chép tay “Hùng Vương Kim ngọc Bảo giám thực lục” lưu tại đền Vân Luông, Việt Trì, Phú Thọ.

Lịch sử Việt cùng những con người Việt đã làm nên 5.000 năm lịch sử hiện đang bị bụi mờ của thời gian và nhân gian che lấp. Một thời gian dài văn hóa Việt bị đứt gãy khi nền văn minh duy lý của phương Tây tràn vào Việt Nam, thay đổi toàn bộ bộ mặt văn hóa từ chữ viết, trang phục, kiến trúc, kỹ nghệ… Sự thay đổi này đã làm cho người Việt ngày nay mất đi mối liên kết với quá khứ, với tổ tiên, dẫn đến những lệch lạc về văn hóa, nhân sinh trong xã hội hiện đại. Trong bối cảnh đó, nối lại dòng linh khí của tiền nhân Việt là việc làm vô cùng cần thiết và việc học, việc tìm hiểu lịch sử là nhiệm vụ cấp bách hơn bao giờ hết với mỗi người dân Việt.

Lịch sử là sự vận động của xã hội đã từng diễn ra trong quá khứ nên một thang lịch sử chính xác là chỗ dựa cho nhận định, phân tích, nghiên cứu của những môn học khác về văn hóa, dân tộc học, tôn giáo học, khảo cổ học, nhân học… Lịch sử đã qua nhưng nó không mất, mà nó đang sống động trong mọi mặt của đời sống xã hội, trong từng phong tục tập quán, nghi lễ, từng kiến trúc, từng vật phẩm, từng cuốn sách xưa cũng như nay. Lịch sử bắt đầu từ quá khứ và tiếp nối đến tương lai. Nếu hôm nay chúng ta chối bỏ quá khứ thì chắc chắn chính chúng ta sẽ bị tương lai chối bỏ, vì lịch sử là dòng chảy thời gian nối tiếp và liên tục không dừng.

https://congdankhuyenhoc.vn/vi-sao-nguoi-viet-can-hoc-lich-su-179220611200109664.htm

Khái luận lịch sử qua Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả

Các vua Hùng đã có công dựng nước“, câu nói của Bác Hồ bên đền Hùng là một đánh giá lịch sử chính xác. Nhưng lịch sử thời dựng nước của các vua Hùng tính từ lúc nào? 4.000 năm lịch sử như cha ông ta từng lưu truyền? Hay 5.000 năm ngang với Tam Hoàng Ngũ Đế Trung Hoa? Hay chỉ “vài ngàn năm” như hội thảo gần đây về thời Hùng Vương mới “kết luận”?…

Ngọc phả Hùng Vương biên soạn qua các thời kỳ là sự ghi chép và hệ thống hóa của chính quyền phong kiến nước ta từ các thần tích và truyền thuyết được dân gian lưu truyền hàng ngàn năm. Hiếm có quốc gia nào trên thế giới mà lại giàu có về huyền thoại và truyền thuyết như nước Nam ta. Những truyền thuyết Việt đã được kể từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những truyền thuyết từ thời khai thiên lập địa khi con người còn đang ăn hang ở hốc cho tới những thời kỳ gần hơn của sử trung đại.

Truyền thuyết Việt không như truyện thần thoại phương Tây, mà là những truyện “cổ tích” thực sự, nghĩa là những vết tích của những gì đã từng xảy ra trong quá khứ xa xưa. Đằng sau mỗi câu chuyện cổ được lưu truyền là lịch sử chân xác của quốc gia, của dân tộc. Lịch sử đã bị lãng quên, bị bôi đen, bóp méo bởi kẻ thù phương Bắc. Truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian là những ký ức lịch sử lưu lại được khi người Việt phải trải qua gần ngàn năm thống khổ cùng cực, lúc nào dao cũng kề cổ. Cộng thêm những hành động đốt sạch, phá sạch, tận diệt, tận xóa vết tích văn hóa văn minh trên đất Việt của không ít kẻ thù đã làm cho việc nhận ra chân lịch sử Việt đúng là thiên nan vạn nan.

Để tìm về cội nguồn và bản ngã dân tộc thì không thể thiếu những truyền thuyết lịch sử rất phong phú lưu truyền trong tín ngưỡng và văn hóa dân gian. Tục thờ thành hoàng là những nhân vật lịch sử từ xưa làng nào cũng có. Những ngọc phả, thần tích kể lại nguồn gốc và công trạng của các thần thánh được thờ phụng có niên gian ghi chép không thua gì những quyển sử chính thống. Những hoành phi câu đối trên cổng đình, trong điện thờ thực sự là những minh văn quí giá, cô đọng, hàm ý súc tích, sâu xa về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Những nét văn hóa trong các lễ hội làng, hội tổng được hình thành trên cơ sở những sự kiện từng xảy ra nên mang trong đó những thông tin lịch sử chân thực.

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam rất đặc biệt. Thần linh của người Việt không phải là những đấng siêu nhiên, tạo ra từ trí tưởng tượng của con người. Thần tiên Việt rất thật, rất người bởi vì họ vốn là những con người thật sự được tôn thờ lên. Công lao, sự nghiệp, đạo đức của họ làm nên tinh thần bất diệt, khiến họ “hóa thần” trong tín ngưỡng và văn hóa dân tộc. Đằng sau mỗi thần tích, mỗi huyền thoại về các vị thần người Việt đều là những nhân vật, những sự kiện có thật từng xảy ra.

Đã có không ít các công trình của những học giả danh tiếng xưa và nay muốn “đọc” lịch sử qua những câu truyện truyền thuyết để tìm lại mấy ngàn năm lịch sử bị khuất lấp. Điều này quả thật không dễ dàng vì muốn vậy phải có dữ liệu để đối chiếu giữa huyền thoại và lịch sử. Trong thời gian trước đây việc này hầu như không thể làm được vì nguồn đối chiếu duy nhất cho các sử gia Việt lại là sách Tàu, tức là sách của chính những kẻ đã cố tình nhào nặn, biến hóa sử Việt. Các sử gia đành chép lại những truyền thuyết dân gian lưu vào sử để đợi đời sau giải mã, tìm lại lịch sử chân thực của dân tộc.

Hãy nghe Hồ Tông Thốc, người viết Việt Nam thế chí, một trong những quyển sử sớm nhất của nước ta, nói về việc này:

Có người hỏi tôi rằng: Bỏ cái lạ giữ cái thường là đạo của thánh hiền, tại sao ông lại câu nệ theo cũ, không nêu rõ lời mới để đổi hẳn thói mê hoặc của đời?

Tôi đáp rằng: … Cho nên những chuyện góp nhặt được đều là lượm lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả ký từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bậc quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Độc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì sẽ rõ ngọc đá, thấy được tiếng vang hình bóng của lịch sử, tôi đâu tự dám cho ý mình là thoả đáng.

Ngày nay những truyền thuyết mang tiếng vang hình bóng của lịch sử đã có những nguồn để đối chiếu và kiểm chứng tin cậy. Trước hết là khảo cổ học, mà một trong những thành tựu đầu tiên của ngành khảo cổ học Việt Nam là xác định sự tồn tại của thời đại Hùng Vương qua văn hóa đồ đồng Đông Sơn huy hoàng. Cùng với những phát hiện khảo cổ, từng chiếc nha chương, từng trống đồng, thạp đồng phát lộ lại càng thấy lịch sử Việt cần được viết lại và những nhân vật từ trong huyền thoại đang dần bước ra, hiện rõ lên trước mắt chúng ta.

Kết hợp những kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại với những dữ liệu dân gian phong phú và nguồn thư tịch văn bản còn lại nay đã cho phép nhìn ra chân tướng cổ sử nước Nam. Việt Nam – suối nguồn của văn minh phương Đông, sự thực ấy đang ngày càng sáng tỏ. Giải mã các truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian lúc này càng trở nên cần thiết cho việc nhìn nhận đúng lịch sử nước nhà. Nhìn lại lịch sử để nhận lại cha ông, nòi giống, nhận lại nền văn hóa huy hoàng mà tiền nhân hàng ngàn năm đổ mồ hôi và xương máu xây dựng và gìn giữ.

Ngọc phả Hùng Vương kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con trai, là tổ của Bách Việt. Cha Lạc Long dẫn 50 người con đi khai phá vùng biển Đông. Mẹ Âu Cơ dẫn 50 người con lên rừng, về đất Phong Châu, lập con cả làm vua, gọi là Hùng Vương. Người Việt ngày nay là con cháu của trăm người con trai đó, tức là một phần của cả dòng họ, đồng bào Bách Việt xưa, cùng chung một nguồn cội họ Hùng.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ”.

Phạm vi nước Văn Lang trên bản đồ ngày nay

Cương vực 15 bộ mênh mông của nước Văn Lang thời Hùng Vương, với Tây giáp Tứ Xuyên (Thục), Bắc tới Hồ Nam (hồ Động Đình?), làm các sử gia nghi ngờ rằng đó là lãnh thổ của cả dòng Bách Việt chứ không chỉ của “nước Việt” ngày nay. Nghi ngờ này thực không có cơ sở vì thời Hùng Vương thì làm gì có “nước Việt” với phạm vi chỉ bó hẹp ở vùng Bắc Bộ như sau này. Truyền thuyết và chính sử đều ghi rõ vua Hùng là vua của cả dòng Bách Việt nên nước Văn Lang rộng lớn, bao trùm cõi Lĩnh Nam là tất yếu.

Nếu nhìn nhận các truyền thuyết lịch sử Việt tách rời khỏi không gian và thời gian mà chúng hình thành sẽ dẫn đến những lệch lạc vô cùng lớn, làm cho những truyện truyền thuyết trở nên không thể hiểu nổi. Khi nhìn bằng “tầm nhìn thời đại” ngày nay thì những chuyện “trâu ma rắn thần” của thời cổ sử bị biến thành không “chích quái” thì cũng là “u linh”, mờ ảo. Thế nhưng, quá khứ xa xôi của người Việt lại nằm chính ở những dòng huyền sử lắng đọng đó. Chối bỏ huyền sử tức là quay mặt lại với quá khứ, với tổ tiên nòi giống.

Người Việt ngày nay là một phần của đại tộc Bách Việt. Điều này thật rõ, rõ ngay từ cái tên gọi. Vì thế lịch sử Bách Việt cũng là lịch sử của người Việt. Sách Hán thư viết: “Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” Bách Việt là một cộng đồng các dân tộc cùng nguồn gốc sinh sống ở phía Nam sông Dương Tử cho tới bán đảo Đông Dương từ thời trước Công nguyên.

Ngọc phả Hùng Vương cũng như những truyền thuyết lịch sử Việt được chép trong Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là thu nhặt những chuyện kể trong dân gian từ thời Lý Trần. Những câu đối, hoành phi trong các đền miếu ngày nay còn giữ lại được phần lớn là từ thời Nguyễn. Có vẻ niên đại của những minh văn này không đủ xa, đủ lâu so với những thư tịch chính sử… được mang từ bên Tàu về. Nhưng giá trị của những tư liệu dân gian này là ở chỗ nó không bị chỉnh lý bởi quan niệm sử chính thống, hay bị bóp nặn theo ý đồ của ai đó. Những thần phả, thần tích địa phương ở nước ta được chép từ quan điểm Bách Việt rõ ràng.

Nhận định lịch sử nước Nam thời cổ đại là lịch sử Bách Việt cho phép giải mã được phần lớn các truyền thuyết lịch sử Việt. Nước Nam của thời đầu Công nguyên có lãnh thổ hoàn toàn không giống với nước Đại Việt thời Lê hay với nước Việt Nam thế kỷ 21 này. Những sự kiện, những nhân vật lịch sử nước Nam thời cổ và trung đại có tầm vóc, phạm vi vượt ra ngoài khuôn khổ lãnh thổ quốc gia ngày nay bởi đó là lịch sử ghi chép theo quan điểm dân tộc Bách Việt trên địa bàn Lĩnh Nam rộng lớn.

Lĩnh Nam chích quái là truyền thuyết của vùng Lĩnh Nam, tức là của cả vùng đất Bách Việt. Giải mã, đối chiếu truyền thuyết và lịch sử của nước Nam không thể chỉ hạn chế ở ranh giới nước Việt ngày nay. Một khi nhìn nhận cương vực lãnh thổ nước Văn Lang thực sự như truyền thuyết và chính sử xưa chép thì những sự kiện như Thánh Dóng đánh giặc Ân đến từ vùng Hoàng Hà hay An Dương Vương từ đất Xuyên Thục đánh Hùng Vương trở nên hoàn toàn có thể về mặt địa lý.

Bên cạnh phạm vi lãnh thổ và thời gian, để hiểu đúng truyền thuyết còn cần lùi cách nhìn nhận lại vào đúng không gian ngôn ngữ văn hóa của thời kỳ mà truyền thuyết được hình thành. Ví dụ từ “cửu trùng” hiểu như ngày nay là “9 tầng” thì sẽ dẫn đến những điều vô lý, không tồn tại. Đúng hơn, xưa lên ngôi vua gọi là lên “ngôi cửu trùng”. Đền Thượng thờ vua Hùng ở Phú Thọ gọi là Cửu trùng thiên điện, không phải nghĩa là điện thờ ở 9 tầng trời, mà là điện thờ Vua, thờ ông Trời. Thành Cổ Loa không phải có 9 vòng thành, mà là tòa thành từng được gọi là “Cửu trùng thành”, nghĩa là thành nơi có Vua. Cửu trùng hay trùng cửutrường cửu là từ mượn âm, dùng để xưng tụng, tung hô với nghĩa như từ “vạn tuế”. Đời vua Hùng Vương 18 không phải là đời vua Hùng cuối cùng, mà ngược lại, 18 là trùng cửu (9×2), là con số chỉ sự trường tồn của thời đại Hùng Vương.

Ngọc phả, truyền thuyết không phải là lịch sử, nhưng nếu truyền thuyết được quy chiếu vào đúng hệ tọa độ không gian – thời gian – ngôn ngữ – văn hóa sẽ trở thành lịch sử thật sự. Một trong những tọa độ căn bản của văn hóa phương Đông xưa là Dịch học, là Hà thư Lạc đồ, là Âm dương Ngũ hành. Hà là trời, Lạc là đất. Hà thư là những cặp số sắp xếp theo phương vị để chỉ 4 phương trời và một phương trung tâm. Do đó Ngũ Lĩnh là 1 ngọn núi tên là Ngũ, tức là ngọn núi ở trung tâm. Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, không phải là nơi có 5 ngọn núi ở bên Tàu. Bát Hải không phải là có 8 cửa biển mà là biển nằm ở phương Tám, tức là phương Đông. Vua cha Bát Hải Động Đình củaThoải phủ trong Đạo Mẫu do vậy không hề xuất xứ từ đầm nước ở Hồ Nam, mà là vị vua của biển Đông, là cha Lạc Long đã dẫn 50 người con xuống khai phá miền duyên hải.

Ngọc phả, thần tích, truyền thuyết Việt không hề “u linh” hay “chích quái” một khi chúng được sọi nhìn bằng “lăng kính” thích hợp. Truyền thuyết là hình bóng của lịch sử. Từ cái bóng đó cái hình cốt lịch sử thật sự có thể được phục dựng nếu có được “hệ quy chiếu” đúng với không gian và thời gian mà lịch sử đã xảy ra.

Một trong những đặc điểm dễ thấy của truyền thuyết lịch sử Việt là khi kể về các nhân vật, dân gian không dùng tên thật của những vị vua này, mà dùng các danh xưng, tên hiệu. Tên gọi Lộc Tục thực ra nghĩa là Lạc tộc, chỉ vị thủ lĩnh đứng đầu tộc Lạc ở phương Nam xưa. Lạc Long Quân cũng nghĩa là vị thủ lĩnh của hai vùng đất Lạc và đất Long của cha Tiên (Kinh Dương Vương) và mẹ Rồng (Thần Long) hợp nhất. Những danh hiệu trong truyền thuyết lịch sử do vậy là những gợi ý, dẫn chứng rõ ràng về công nghiệp của các bậc tiền nhân.

Cũng vì tên của các nhân vật trong truyền thuyết là các danh hiệu nên cùng một tên gọi có thể chỉ 2, 3 người hoặc cả một triều đại trong lịch sử. Truyền thuyết là những chuyện kể không hạn chế về thời gian. Trong ngọc phả, mỗi danh xưng Hùng Vương là chỉ một “chi”, hay 1 triều đại, 1 giai đoạn lịch sử của cùng một vị vua khai sáng. Chuyện của cả một vương triều có thể đều được ghi chép chung vào trong một tên gọi, một danh xưng của vị vua đã sáng lập ra triều đại đó. Cũng giống như tập tục thờ cúng của người Việt thường chỉ thờ vị tổ đầu tiên của dòng họ vậy.

Ví dụ, danh xưng An Dương Vương bao gồm một triều đại kéo dài hơn 800 năm, từ khi Thục Vương tử đánh nước của Hùng Vương, Thục Phán lên ngôi lập cột đá thề trung thành với họ Hùng, tới khi vua Thục xây thành Cổ Loa, rồi vị vua cuối cùng của Thục triều thất quốc, cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển. Thời gian trong ngọc phả và truyền thuyết được tính bằng triều đại, bằng nhân vật và sự kiện, chứ không phải bằng năm bằng tháng như truyện lịch sử.

Cách gọi các chi Hùng Vương như trong Ngọc phả đã giải nghĩa rõ ràng cho việc một đời Hùng Vương kéo dài hàng trăm năm, bởi một tên gọi Hùng Vũ Vương, Hùng Hy Vương… không phải chỉ 1 vị vua, mà là một triều đại do 1 vị vua khởi đầu và làm đại diện. Cũng chính điều này giải thích ý nghĩa của các cuộc hôn nhân trong cổ sử. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ là câu chuyện về sự tranh giành ngôi vị giữa con của Kinh Dương Vương với hậu duệ chính dòng từ Đế Minh là Đế Lai. Âu Cơ lúc đó là hình tượng của vương quyền truyền từ Đế Nghi. Phân biệt với hình tượng mẹ Âu Cơ sau đó dẫn người con trưởng lên núi, lập quốc ở Phong Châu, là chuyện xảy ra ở thời kỳ 1.000 năm sau Lạc triều của Lạc Long Quân.

Những sự tích, những câu chuyện được kể lại trong ngọc phả Hùng Vương đều xuất phát từ thực tế lịch sử, cho dù những sự kiện này đã được cách điệu hóa, hình tượng hóa. Sự kiện mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng, nở ra trăm trai không hề hoang đường vô nghĩa, mà nó phản ánh cội nguồn của đại tộc Bách Việt từ 2 dòng Âu và Lạc ban đầu. Hay những hình tượng cụ thể như cây gậy thần và quyển sách ước của Tản Viên Sơn Thánh có thể truy nguyên là những kiến thức trong Hà đồ Lạc thư mà vua Đại Vũ đã nắm bắt được trong quá trình trị thủy. Chiếc móng rùa mà thần Kim Quy trao cho An Dương Vương là cuốn Đạo Đức kinh mà Huyền Thiên Lão Tử đã để lại cho đời…

Trang đầu của Nam Việt Hùng Vương ngọc phả

Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền mở đầu như sau: Kỷ Hồng Bàng Thị: Xưa tại Đại quốc Trung Hoa, đô đóng ở thành Thiên Thọ Bắc, lăng phần mộ tổ trời táng ở núi Côn Lôn, cùng năm hồ, biển lớn, núi Nam hội chầu chính đường. Ban đầu là từ cháu ba đời Viêm Đế dòng Thần Nông Thị, từ Hy Hoàng tới đó, truyền ngôi quốc bảo chính thống Nam Bang, để lại cho con cháu đời sau vậy.

Câu mở đầu Ngọc phả này làm cho không ít các sử gia đời nay lúng túng. Tại sao Hồng Bàng Thị lại là “Đại quốc Trung Hoa”? Mộ tổ các vua Hùng sao lại ở núi Côn Lôn? Khởi đầu của sử Việt lại từ Tam Hoàng Ngũ Đế như Thần Nông, Phục Hy, Hoàng Đế? Liệu các Hàn lâm học sĩ thời phong kiến khi soạn Ngọc phả có nhầm không? Hay do họ “thiếu hiểu biết” và muốn “đua đòi” cho bằng “nước lạ”?

Hoàn toàn không phải vậy. Nhầm là những cách nhìn nhận hạn hẹp và thiếu hiểu biết của con cháu ngày nay, không dám nghĩ rằng tổ tiên cha ông mình đã từng là một “Đại quốc” có lịch sử trên 5.000 năm, là nơi hội tụ tinh hoa của trời Đông (tức là Trung – Hoa).

Không thiếu những dẫn chứng từ thư tịch, bia đá của tất cả các triều đại phong kiến nước ta từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều xưng mình là Trung Hoa, Trung Quốc, Trung Hạ. Bởi vì dưới thời phong kiến, Trung Hoa thực sự chính là nước Việt ta. Ở bên kia chiến tuyến, nhà Nguyên không phải Trung Hoa, mà là Mông Cổ. Nhà Thanh không phải Hoa, mà là Mãn… Lịch sử Việt cổ đại là lịch sử Trung Hoa, một nhận thức rất rõ ràng từ Ngọc phả Hùng Vương.

Lịch sử của một đất nước, một dân tộc tính từ đâu phụ thuộc vào mốc tính: thế nào là “bắt đầu lịch sử”. Lịch sử hoàn toàn không phải bắt đầu từ khi có chữ viết vì không thiếu gì dân tộc cho tới tận ngày nay không hề có chữ viết riêng. Lịch sử được tính bằng những mốc, những nấc thang phát triển của thể chế xã hội. Đối với người Việt, những nấc thang lịch sử ban đầu đích thực là do các vua Hùng đã gây dựng nên. Những cuốn ngọc phả Hùng Vương còn lưu truyền lại cho tới ngày nay cung cấp chính xác những mốc phát triển của xã hội Việt thời dựng nước.

Bằng cách đối chiếu các ngọc phả Hùng Vương, các thần tích trong các di tích thờ Hùng Vương được lưu giữ đến nay với những thư tịch lịch sử của Việt Nam và Trung Hoa, thời đại Hùng Vương có thể được chia thành 4 thời kỳ phát triển gồm 18 đời (triều đại) Hùng Vương như trong sơ đồ sau.

TÓM LƯỢC VỀ CÁC TRIỀU ĐẠI HÙNG VƯƠNG

SƠN TRIỀU: Hùng Vương Thánh tổ

Nhật nguyệt tinh thần

1.      Đế Minh (Hùng Vũ Vương)

Triều đại: Hoàng Đế mở muôn nước. Tổ phụ bộ tộc Trung tâm Giao Chỉ

Vua khai sáng và tên húy: Đế Minh, Hiền Đức Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Vũ Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Hiên Viên Hoàng Đế

Tên thờ và trong truyền thuyết: Vua cha Thiên phủ, Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương, Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ

Tên dân dã: Ngọc Hoàng

Niên đại: khoảng – 4.000 đến – 2879 DL

Quốc hiệu: nước Họ Hùng, Hữu Hùng quốc, Viêm Giao, Viêm Việt

Kinh đô: Hồng Lĩnh

Truyền thuyết: Tây Thiên quốc mẫu, Vua Hùng chọn đô

Di tích: Đền Hùng và các nơi thờ trên vùng đất tổ. Đền Đình Chu.

2.      Đế Nghi (Hùng Hy Vương)

Triều đại: Đường Nghiêu

Vua khai sáng và tên húy: Đế Nghi, Viên Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Hy Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đế Nghiêu

Tên thờ và trong truyền thuyết: Viễn Sơn Thánh vương

Tên dân dã: Bắc Đẩu

Quốc hiệu: Hồng Bàng

Niên đại: khoảng –2879 đến –2500 DL

Kinh đô: Hồng Lĩnh và Ngũ Lĩnh

Truyền thuyết: Vua Hùng kén rể, Vua Hùng chọn đô

Di tích: Đền Hùng và các nơi thờ trên vùng đất tổ

3.      Lộc Tục (Hùng Hi Vương)

Triều đại: Ngu Thuấn.

Vua khai sáng và tên húy: Lân Lang, Lộc Tục

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Hi Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đế Thuấn

Tên thờ và trong truyền thuyết: Ất Sơn Thánh vương, Nam triều thánh tổ Ngọc hoàng thượng đế, Sơn Tinh

Tên dân dã: Nam Tào

Quốc hiệu: Nam Bang, Xích Quỷ

Niên đại: khoảng -2500 đến -2200 DL

Kinh đô: Ngũ Lĩnh

Truyền thuyết: Đi cày Lịch Sơn, Vua Hùng kén rể

Di tích: núi Lịch, các nơi thờ Hùng Vương trên đất tổ.

KINH TRIỀU: Phụ đạo

Rồng bay biển Bát

4.      Kinh Dương Vương (Hùng Việt Vương)

Triều đại: Tổ nhà Hạ

Vua khai sáng và tên húy: Kinh Dương Vương, Tuấn Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Việt Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đại Vũ, Hạ Vũ.

Tên thờ và trong truyền thuyết: Tản Viên Sơn Thánh quốc chúa đại vương, Vua cha Nhạc phủ

Tên dân dã: Hương Lang

Quốc hiệu: Nam Bang, Xích Quỷ

Niên đại: khoảng –2200 đến –2000 DL

Kinh đô: Sơn Tây

Truyền thuyết: Tản Lĩnh Ngọc ký, Thần Long Động Đình, Sơn Tinh – Thủy Tinh

Di tích: Ba Vì, Lăng Sương, Thác Bờ

5.      Lạc Long Quân (Hùng Diệp Vương)

Triều đại: Nhà Hạ

Vua khai sáng và tên húy: Lạc Long Quân, Pháp Hải Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Diệp Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đế Khải, Hạ Khải.

Tên thờ và trong truyền thuyết: Uy Linh Lang, Bát Hải Động Đình, Vua cha Thoải phủ

Tên dân dã: Linh Lang

Quốc hiệu: Hồng Bàng, Đào Động.

Niên đại: khoảng –2000 đến – 1900 DL.

Kinh đô: An Hoa (ở giữa hồ Dâm Đàm và sông Nhị)

Truyền thuyết: Truyện Hồ Tinh, thần tích Yên Phụ, La Phù, Đồng Bằng, Thủ Lệ, Ngũ vị tôn quan

Di tích: Yên Trì, La Phù, Đồng Bằng và các đền thờ ven sông Hồng

6.      Hùng Uy Vương

Triều đại: Nhà Hạ Trung Hưng

Vua khai sáng và tên húy: Hoằng Hải Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Uy Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Hạ Thiếu Khang

Quốc hiệu: Hồng Bang

Niên đại: khoảng -1900 đến -1700 DL

Kinh đô: Dương thành

Truyền thuyết: Chử Đồng Tử, Hậu Nghệ – Hằng Nga

Di tích: Đầm Nhất Dạ và những nơi thờ Chử Đồng Tử

7.      Hùng Huy Vương

Triều đại: Nhà Thương

Vua khai sáng và tên húy: Long Tiên Lang.

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Huy Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Thành Thang.

Tên thờ và trong truyền thuyết: Bàn Hồ

Tên dân dã: Lang thang

Quốc hiệu: Việt Thường

Niên đại: khoảng –1700 đến –1400 DL

Kinh đô: Tân Cán (Ngô thành)

Truyền thuyết: Các họ của người Dao

8.      Hùng Duệ Vương

Triều đại: Nhà Ân.

Vua khai sáng và tên húy: Huệ Đức Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Duệ Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Bàn Canh, Trụ Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Vua cha Địa phủ

Tên dân dã: Diêm vương

Quốc hiệu: Việt Thường

Niên đại: khoảng –1400 đến –1100 DL

Kinh đô: Bàn Long thành, An Huy

Truyền thuyết: Tam vị Tản Viên Sơn thánh, Giếng Việt, Truyện vu nữ

Di tích: Các di tích thờ Cao Sơn, Quý Minh; núi Vũ Ninh

THỤC TRIỀU: Trị bình kiến phu

Phượng gáy non Kỳ

9.      Âu Cơ (Hùng Chiêu Vương)

Triều đại: Tổ nhà Chu

Vua khai sáng và tên húy: Âu Cơ

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Chiêu Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Cơ Xương, Chu Văn Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Thục Vương tử, Hiền Vương

Tên dân dã: Lang Liêu

Quốc hiệu: Văn Lang – Âu Lạc

Niên đại: khoảng –1100 đến -1000 DL

Kinh đô: Phong Châu

Truyền thuyết: Phù Đổng Thiên vương, Truyện họ Hồng Bàng, Lão tiên ở bến Việt Trì, Cột đá thề

Di tích: Hiền Lương, Phù Đổng, Sóc Sơn, chùa Hoa Long, núi Hùng

10. Hùng Quốc Vương

Triều đại: Nhà Tây Chu.

Vua khai sáng và tên húy: Thừa Văn Lang.

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả:  Hùng Ninh Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Thục Phán, Vũ Ninh

Danh hiệu trong sử Hoa: Cơ Phát, Ninh Vương, Chu Vũ Vương.

Tên dân dã: Ninh lang (Linh Lang).

Quốc hiệu: Văn Lang – Âu Lạc.

Niên đại: khoảng -1000 đến -770 DL

Kinh đô: Côn Minh (Vân Nam)

Truyền thuyết: Chim bạch trĩ, Bà Nghi Địch, Đồng Cổ Sơn thần, Lang Liêu cầu Tiên, Phan Tây Nhạc, Hùng Linh Công

Di tích: Làng Vân, Đan Nê, Hiền Lương, Tây Thiên, Y Sơn, Thị Cấm

11. Hùng Tạo Vương

Triều đại: Nhà Đông Chu.

Vua khai sáng và tên húy: Đức Quân Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Tạo Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Chu Bình Vương.

Tên thờ và trong truyền thuyết: An Dương Vương

Quốc hiệu: Văn Lang – Âu Lạc

Niên đại: –770 đến –314 DL

Kinh đô: Cổ Loa

Truyền thuyết: Huyền Thiên Trấn Vũ, Giếng Việt, Lang Liêu gặp Phật

Di tích: Thổ Hà, núi Sái, Thất Diệu, chùa Thiên Quang

12. Hùng Nghị Vương

Triều đại: Cuối thời Đông Chu.

Vua khởi đầu: Bảo Quang Lang.

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Nghị Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: An Dương Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Chu Noãn Vương

Quốc hiệu: Âu Lạc

Niên đại: –314 đến –256 DL

Kinh đô: Cổ Loa

Truyền thuyết: Mỵ Châu – Trọng Thủy

Di tích: Cổ Loa, đền Cuông

TRUNG HOA: Đại đế quốc

Tiên Rồng hợp hình

13. Tần (Hùng Định Vương)

Triều đại: nhà Tần

Vua khai sáng và tên húy: Chân Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Định Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Đinh Tiên Hoàng

Danh hiệu trong sử Hoa: Tần Thủy Hoàng

Tên dân dã: Lang sói – Sài lang

Quốc hiệu: Đại Cồ Việt

Niên đại: –257 đến –206 DL

Kinh đô: Tam Xuyên

Truyền thuyết: Lý Ông Trọng, Yên Kỳ Sinh, Giếng Việt

Di tích: Chèm, Yên Tử, núi Vũ Ninh

14. Hiếu (Hùng Trinh Vương)

Triều đại: Nhà Hiếu (Tây Hán)

Vua khai sáng và tên húy: Hưng Đức Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Trinh Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Lý Bôn, Triệu Vũ Đế

Danh hiệu trong sử Hoa: Lưu Bang – Hán (Hiếu) Cao Tổ

Tên dân dã: Lang bang

Quốc hiệu: Vạn Xuân

Niên đại: -206 tới –9 DL

Kinh đô: Trường An

Truyền thuyết: thần tích Đồng Xâm, Nhữ Nương (Trình Thị)

Di tích: Đồng Xâm, Nhữ Nương, Xuân Quan, Cựu Tự, Bát Tràng

15. Triệu (Hùng Triêu Vương)

Triều đại: nhà Triệu

Vua khai sáng và tên húy: Cảnh Triêu Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Triêu Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Triệu Việt Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Triệu Đà

Tên dân dã: Triệu Quang Phục

Quốc hiệu: Nam Việt

Niên đại: -179 đến –111 DL

Kinh đô: Phiên Ngung

Truyền thuyết: Triệu Quang Phục

Di tích: các nơi thờ Triệu Việt Vương ở cửa biển Đại An và ven các cửa sông

Mạn đàm với sư thầy Tâm Hiệp: SÁNG TỎ GỐC TÍCH CÁC VUA HÙNG QUA NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG

Năm 2018 loạt bài viết “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” của nhà báo Hoàng Hải Vân đã thu hút được nhiều sự chú ý của bạn đọc và nhận được nhiều ý kiến đóng góp, phản hồi, phản biện xung quanh các vấn đề liên quan đến các kết luận của thiền sư về lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, có thể do chưa có đầy đủ tư liệu, thiền sư Lê Mạnh Thát đã chưa đi sâu vào phân tích và nghiên cứu một chủ điểm quan trọng, đó là lịch sử dân tộc thời kỳ Hùng Vương.
Thời đại Hùng Vương trong lịch sử dân tộc Việt có tồn tại hay không và tồn tại như thế nào? Đây là một câu hỏi của không ít con dân người Việt ngày nay, còn đang loay hoay trước sự đa dạng và khó phân định của các lập luận từ nguồn tư liệu sử học khi nhìn về nguồn cội.
Từ lòng yêu mến đối với lịch sử nước nhà, tôi có may mắn được gặp sư thầy Tâm Hiệp trên hành trình tìm về nguồn cội của thầy. Thầy Tâm Hiệp là một người từ bé đã xuất gia theo Phật nhưng lại có tình yêu đặc biệt với văn hóa Việt. Thầy cho rằng, văn hóa của người Việt là nền văn hóa được xây dựng từ lòng biết ơn và niềm thương kính với nguồn cội. Từ đó, xếp gọn y vàng, thầy rong ruổi trên khắp các nẻo đường của vùng đồng bằng Bắc bộ và ở quê hương Quảng Trị để nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này. Bên cạnh trang kinh là những tập tư liệu Hán Nôm thầy tìm được từ những ngày điền dã khắp các vùng quê trong dân gian.
Mới gần đây, cùng với Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt, thầy Tâm Hiệp đã cho ra mắt cuốn sách: Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo. Đây là bản sưu tầm, dịch và phiên chú đầy đủ tư liệu phả ký lưu giữ tại Hùng Vương miếu ở thôn Vân Luông, xã Vân Phú, Việt Trì, Phú Thọ. Cuốn sách đã được nhà xuất bản Dân trí xuất bản đúng vào dịp giỗ tổ 10/3 năm 2020.

2Ngai thờ 3 vị vua Hùng ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ.

Mỗi lần về với đền Hùng vào ngày giỗ tổ, tôi luôn tự hỏi, đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh hiện đang thờ ai? Khi nói chuyện với các hướng dẫn viên ở đây thì được biết ở cả 3 khu đền Thượng, đền Hạ và đền Trung trong quần thể di tích đều đặt 3 ngai vị là:

  • Đột ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh vương
  • Ất Sơn Thánh vương
  • Viễn Sơn Thánh vương

Người hướng dẫn ở đền Hùng giải thích với tôi rằng đây là ba vị thần núi, tương ứng 3 ba chòm núi Nghĩa Lĩnh, núi Trọc và núi Vặn ở vùng Việt Trì. Tuy nhiên, điều này không khỏi làm tôi hoang mang. Chẳng nhẽ quốc tổ vua Hùng nước ta lại là 3 vị thần núi? Tôi đem băn khoăn này chia sẻ với sư thầy Tâm Hiệp và xin mạo muội ghi lại những ý chính được sư thầy giải đáp dưới đây.
Sư thầy Tâm Hiệp cho biết, đền Hùng nằm ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, còn lưu giữ được bản Hùng Vương Ngọc phả soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470) bởi Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố. Cuốn ngọc phả này kể lại sự tích các vị vua Hùng từ đầu cho tới khi Triệu Đà diệt An Dương Vương lập nước Nam Việt. Tuy nhiên, trong cuốn ngọc phả của Hy Cương lại không hề đề cập đến các tên gọi Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn và Viễn Sơn. Đây là lý do làm cho các nhà nghiên cứu cho rằng 3 ngai vị ở đền Hùng là 3 vị thần núi địa phương. Từ đó, cả ban quản lý Đền Hùng và những người dân cũng chỉ biết chung chung như vậy.
Nhưng nay, với phát hiện bản Hùng Vương Thánh tổ Ngọc phả lưu tại đền Vân Luông thì sự việc về 3 vị vua Hùng được thờ trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Phần thứ nhất trong bản Ngọc phả có tên Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền tự điển, trong đó ghi chép đầy đủ các tên gọi, ngày sinh, thời gian trị vì của các đời vua Hùng. Theo cuốn điển thờ này thì Đột Ngột Cao Sơn là mỹ tự truy phong (tên thờ) của Hùng Quốc Vương 雄國王, người con trưởng trong trăm trai. Tương tự, Viễn Sơn là thụy hiệu của Hùng Hy Vương 雄㬢王 và Ất Sơn là thụy hiệu của Hùng Hi Vương 雄曦王, 2 vị vua Hùng kế tiếp Hùng Quốc Vương.
Như thế, đền Hùng ở Phú Thọ thực chất là thờ 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời đại Hùng Vương, là những vị vua Hùng được ghi chép trong điển thờ quốc gia (ngọc phả). Không thể có chuyện quốc tổ người Việt lại là 3 vị thần núi.

1
Trang đầu của cuốn Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả vĩnh truyền miêu duệ tôn điệt ức vạn niên hương hỏa tự điển tôn sùng.

Ngọc phả Hùng Vương bàn rằng: Xưa Tiền Hoàng đế Thánh tổ Cõi lớn trời Nam, Hùng Vương Sơn Nguyên, đã gây dựng cơ đồ, thủy tổ Việt Nam, mở nước Cổ Việt Hùng Thị, mười tám đời thánh vương ngự trị Cõi lớn trời Nam, mở mang hùng đồ nước Việt, nước biếc một dòng, bắt đầu vận vua sáng đế thánh. Núi xanh vạn dặm, lập nền đô thành điện báu, mở vật giúp người, thống trị mười lăm bộ, giữ thế mạnh trước phiên thần, nối tiếp phát huy cõi đất lớn thành Viêm Hồng, do vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi giúp cho dòng giống vững như bàn đá. Hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương ngự ở Việt thành, muôn năm thánh điện núi Hùng, đất tổ trời Nam, gốc nước cơ đồ, vạn xuân tôn kính, ngàn xưa chảy mãi.
Đối với những người “ngoại đạo” như tôi, thời đại Hùng Vương luôn là một điều bí ẩn đến khó hiểu. Ví như, tại sao 18 đời vua Hùng lại kéo dài hơn 2600 năm? Tuổi thọ trung bình mỗi đời vua Hùng vậy có quá lạ không?
Khúc mắc này cũng được sư thầy Tâm Hiệp giải đáp bằng những thông tin từ bản Ngọc phả Hùng Vương mới phát hiện. Theo đúng nguyên bản của Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả vĩnh truyền tự điển, 18 đời Hùng Vương không phải là 18 vị vua. Mỗi một đời Hùng Vương là một triều đại kéo dài. Mỗi triều đại mang cùng một tên hiệu có thể có 1 hoặc nhiều vị vua. Ngọc phả gọi là 18 chi như sau:
Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ
1.Kinh Dương Vương – chi Càn
2.Hùng Hiền Vương – chi Khảm
3.Hùng Quốc Vương – chi Cấn
4.Hùng Hy Vương – chi Chấn
5.Hùng Hi Vương – chi Tốn
6.Hùng Diệp Vương – chi Ly
7.Hùng Huy Vương – chi Khôn
8.Hùng Ninh Vương – chi Đoài
9.Hùng Chiêu Vương – chi Giáp
10.Hùng Uy Vương – chi Ất
11.Hùng Trinh Vương – chi Bính
12.Hùng Võ Vương – chi Đinh
13.Hùng Việt Vương – chi Mậu
14.Hùng Định Vương – chi Kỷ
15.Hùng Triều Vương – chi Canh
16.Hùng Tạo Vương – chi Tân
17.Hùng Nghị Vương – chi Nhâm
18.Hùng Duệ Vương – chi Quý
Ngọc phả Hùng Vương ghi rõ: Từ đầu tính nước họ Hùng 18 nhánh truyền ấn phù quốc gia, 180 đời đế vương lên ngôi, nhất thống núi sông, xe sách trị nước, kiến dựng 120 điện thành… Cộng các năm trị vì, 18 đời thánh vương di truyền, thánh tử thần tôn, triều đại đế vương, hưởng ngôi cộng là 2655 năm, thọ 8618 năm, sinh 986 chi hoàng tôn công chúa, sinh cháu chắt cộng là 14.370 người, trị ở nước Nam, đầu núi góc biển, vạn thế trường tồn, mãi mãi không ngừng.
Như vậy, thời đại Hùng Vương có tới 180 vị đế vương, kéo dài 2655 năm. Tính ra trung bình mỗi vị vua Hùng trị vì khoảng 15 năm, thọ khoảng 48 tuổi. Đây là những con số hoàn toàn rất thực tế.
Còn nhiều điều nữa được ẩn chứa qua từng trang Ngọc phả. Ngọc phả ngày nay trở nên hoang đường là do bởi chính chúng ta đọc tự điển của cha ông với một thái độ thờ ơ, nghi ngờ, không muốn hiểu di sản của tổ tiên để lại nghĩa là gì, không muốn biết thông điệp của cha ông gửi gắm qua từng trang sách quý, từng được lưu giữ trân trọng như vật thờ cúng.
Ngọc phả chính là “chìa khóa” về nguồn cội, là cuốn Thiên thư giúp phân định được không gian, thời gian và con người Việt ở thời xa xưa nhất. Đây là một báu vật đúng như nó được ghi:
Cho nên quốc triều mới tiến hành soạn sách Nam Thiên bảo lục, để mãi ban cho hậu thế, con cháu dòng dõi lưu truyền muôn đời. Chỉ truyền cho người hiền, không truyền cho người thiếu phép tắc. Sự tích này không thể đem cho người ngoài.

3Sư thầy Tâm Hiệp và đoàn dâng hương ở đền Trung trên núi Nghĩa Lĩnh.

Xin thành tâm thắp một nén hương dâng lên Cửu trùng thiên điện ở núi Hùng, đọc lại những dòng Ngọc phả về thời kỳ dựng nước, ngâm lên câu đối trên chính điện đền Trung:
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Nghĩa là:
Sách trời định phân, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt duy có tổ
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

Minh Thi
Bài đăng trên báo Lao động cuối tuần số 26 từ 26-28/6/2020

26

262

Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ

Các bản thần tích do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính làm ở bộ Lễ triều Lê biên soạn vào niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (1572) phụng soạn thường được mở đầu như sau:
Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ khai vận mở đồ hơn hai ngàn năm. Vua Hùng lập nước núi xanh vạn dặm, xây kinh đô Hùng, dựng nền cung điện, nước biếc thăm thẳm, bắt đầu đạo đế thánh vua minh, giúp vật giúp dân, thống lĩnh 15 bộ, lấy tên là Bách Việt, là tổ tiên khai sáng (Triệu tổ) vậy.
Có thơ rằng:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn xưa đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.
Đoạn “giới thiệu” tóm tắt này về thời kỳ khai mở đất nước của người Việt rất cô đọng, xúc tích. Thế nhưng, thời buổi ngày nay, có quá nhiều người Việt hiểu lơ mơ về quốc tổ Hùng Vương. Cũng như có quá nhiều những bậc “học giả” chữ tác đánh chữ tộ, biết đọc mà không biết nghĩ, dựng chuyện lật lọng cả với tiên tổ mà vẫn tự cho mình là đã “giải ảo” quá khứ…
Điển hình nhất là chuyện người ta lấy 3 danh hiệu phụng thờ Hùng Vương ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn Viễn Sơn, để quy kết rằng đây là tục thờ 3 vị thần núi??? Nhiều vị cho mình là thạo chữ Hán thì đưa ra kết luận… chắc như bắp… Hùng vương là chép nhầm của Lạc vương.
Các vị đã quen cái học rởm của Tàu, của Tây, mà không nhìn nhận di sản cha ông người Việt đã để lại cho con cháu, qua chính những dòng thần phả thần tích lưu truyền đời này qua đời khác như đoạn văn trên.
Đoạn văn mở đầu của thần tích do Nguyễn Bính soạn nói ngay người khai sáng cơ đồ nước Việt là Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ. Chữ Sơn ở đây là núi, nhưng không phải nghĩa Hùng Vương là thần núi như đám học giả nửa mùa tưởng tượng. Sơn là núi, tức là quẻ Cấn trong Tiên thiên Bát quái, chỉ hướng Nam xưa (tức Bắc nay). Hùng Vương Sơn nguyên tức là vị vua Hùng xuất hiện đầu tiên ở phương Nam. Tên gọi này tương đương với danh hiệu Đột Ngột Cao Sơn ở đền Hùng vì “đột ngột” là bất ngờ xuất hiện, ý chỉ là người đầu tiên, cũng giống như từ “nguyên” nghĩa là đầu tiên. Cao hay Cả là từ chỉ thủ lĩnh, tương đương với Vương.

Bat quai
Tiên thiên Bát quái và hệ tọa độ không thời gian. 

Đền Hùng ở Phú Thọ thờ Đột ngột Cao Sơn hay Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh tổ, là vị vua Hùng đầu tiên của cõi trời Nam. Vị vua Hùng “Thánh đế Minh vương” này là Đế Minh, người đã “đi tuần thú ở phương Nam“, bắt đầu thời kỳ Nam Giao mở nước.
Phương Nam xưa là phương cây kim chỉ Nam của La bàn, tức là phương Bắc cực ngày nay do khái niệm Bắc Nam đã bị đảo lộn trong lịch sử. Phương Nam xưa theo Ngũ hành thuộc về hành Thủy – nước. Từ “nước” biến âm thành “nác”, rồi thành “lạc”. Vì thế các vua Hùng thời kỳ đầu Nam Giao mở nước cũng gọi là các Lạc Vương.
Nhưng Lạc Vương không tương đương với Hùng Vương vì thời kỳ Nam – Sơn – Lạc này chỉ gồm 3 thời vua Hùng như được thờ trên núi Nghĩa Lĩnh ở Phú Thọ. Trong tiến trình lịch sử hơn 2000 năm, quốc gia họ Hùng đã mở rộng về các hướng, phía Đông vươn ra biển Đông, phía Tây kéo dài tới Xuyên Thục, phía Nam xưa (Bắc nay) tới Hồ Nam, phía Bắc xưa (phía Nam nay) chạy tới miền Trung Việt, đúng như ghi chép của cổ sử Việt.
Thần tích cũng luôn nhắc lại rằng các vua Hùng thống lĩnh 15 bộ, là Triệu tổ của Bách Việt. Cũng như bức hoành phi trên cổng đền Hùng đề rõ Nam Việt triệu tổ. Đất nước họ Hùng đông, nhiều, rộng, gồm nhiều dòng, nhiều nhánh Việt khác nhau, nhưng đều chung một nguồn cội từ Hùng Vương thánh tổ.
Câu thơ trong thần tích nói rõ:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương.
Kinh là đầu chỉ hướng Nam (Bắc nay) của cây kim La – Kinh. Dương hay Giêng là số 1 của Hà thư, cũng chỉ hướng Nam xưa. Kinh Dương như vậy là từ đồng nghĩa với hướng Nam, hay Lạc. Kinh Dương Vương cũng là Lạc Vương, được chép tên là Lộc Tục (Lạc tộc). Cũng vì thế mà 2 vị Ất SơnViễn Sơn không phải ai khác là Đế Nghi và Lộc Tục, là 2 vị vua kế ngôi Đế Minh dựng nước và mở rộng lãnh thổ trên vùng đất Nam Giao – Kinh Dương.

Ngu hanhNgũ hành và tứ phương.

Nam Việt như vậy chỉ nước Nam người Việt từ thời các vua Hùng dựng nước. “Quốc danh” Nam Việt của thời kỳ này tồn tại mãi về sau. Các sử gia lầm lẫn rằng nó mới chỉ có từ thời Triệu Vũ Đế lập quốc. Thực ra Triệu Vũ Đế lấy tên nước Nam Việt là ý muốn nhấn mạnh mình là dòng dõi “Lạc Hùng chính thống” trên vùng đất tổ phương Nam của các vị vua Hùng thánh tổ.
Sơn – Nam – Lạc – Kinh đều là những từ chỉ khu vực nơi các vua Hùng đầu tiên đã khai vận mở đồ hơn hai ngàn năm. Xin hãy chấm dứt những trò bôi nhọ tiền nhân bởi sự ngu dốt của chính mình khi nói về các vị thánh tổ của người Việt. Đừng biến mình thành những đứa con bất hiếu chỉ vì không hiểu biết.

Tục thờ tổ bách nghệ và đạo Hiếu của người Việt

Bài trình bày trong tọa đàm “Tục thờ tổ bách nghệ tại Việt Nam qua góc nhìn đạo Hiếu” tại đình Kim Ngân, Hà Nội nhân ngày di sản Việt Nam.

Kim Ngan

Nước ta có lịch sử phát triển hơn 4000 năm, là một trong những nước có nền văn hóa lâu đời nhất trên thế giới. Trong tiến trình lịch sử nhân dân ta đã trải qua nhiều nấc thang tiến bộ xã hội. Mỗi nấc thang là một bước tiến về khoa học công nghệ, tức là hiểu biết và cách thức chúng ta sử dụng các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cuộc sống của con người. “Nghề” chính là những kiến thức khoa học kỹ thuật đó. Tổ nghề là những người đã khai sáng, phát kiến, giúp xã hội chúng ta bước đi những bước đi dài hơn, vững chắc hơn, tự chủ hơn trong lịch sử. Mỗi vị tổ nghề do đó đánh dấu một mốc phát triển quan trọng của xã hội Việt theo chiều dài lịch sử.

Hiên Viên Hoàng Đế, ông tổ bách nghệ
Hôm nay, trong ngày di sản Việt, chúng ta cùng nhau có mặt ở đình Kim Ngân này, một ngôi đình giữa lòng thủ đô văn hiến với tục thờ tổ nghề rất sâu sắc. Ngôi đình này thờ vị tổ bách nghệ với tên Hiên Viên. Tổ bách nghệ, tức là tổ của mọi nghề của xã hội, chứ không chỉ là tổ nghề kim hoàn. Hiên Viên là ai lại được thờ phụng như tổ các ngành nghề ở giữa 36 phố phường Hà Nội như vậy?
Không khó để thấy Hiên Viên là vị Hoàng Đế, người được coi là thủy tổ của người Trung Quốc. Hoàng Đế hay Đế Vàng là một vị đế trong Ngũ Đế của Trung Hoa cổ đại. Trong truyền thuyết Trung Hoa, Hoàng Đế đã có hàng loạt những phát minh mang tính chất khai mở cho các ngành nghề như làm nhà, đóng xe thuyền, may được quần áo ngũ sắc, y thuật (Hoàng Đế nội kinh). Lịch cổ Trung Quốc lấy mốc bắt đầu từ Hoàng Đế.
Nhưng Hiên Viên Hoàng Đế của Trung Hoa thì liên quan gì tới người Việt của chúng ta mà lại được cha ông ta thờ làm tổ của bách nghệ?  Liệu các cụ ngày xưa “thờ nhầm” hay do “ảnh hưởng” của văn hóa?
Xem sách Đại Việt sử ký toàn thư, ngay ở câu mở đầu: “Xét thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt…”. Như thế chính sử nước Đại Việt từ thời lê đã coi Hoàng Đế Hiên Viên là người đã khởi thủy cho sử Việt. Hoàng Đế của Trung Hoa lại là thủy tổ của sử Việt, vậy là thế nào?
Vua Minh Mạng nhà Nguyễn sau khi lên ngôi đã cho xây dựng miếu Lịch đại đế vương ở kinh thành Huế để thờ các bậc vua sáng và tôi hiền qua các triều đại. Miếu Lịch Đợi được xây dựng trên một ngọn đồi nay thuộc phường Phường Đúc tại Huế, là làng nghề đúc đồng nổi tiếng của kinh thành. Cách bài trí án thờ nơi miếu Lịch Đợi theo Đại Nam nhất thống chí như sau:
Gian giữa thờ Phục Hy tại chính trung. Vị tả nhất thờ Thần Nông. Vị hữu nhất thờ Hoàng Đế.
Một lần nữa lại có Hoàng Đế Hiên Viên của Trung Hoa được toàn thể triều đình nhà Nguyễn tôn thờ như bậc tiên tổ của dân tộc. Không chỉ vậy, ở gian chính giữa của miếu Lịch Đợi còn thờ các vị vua cổ đại Trung Hoa là Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương. Tức là vua Minh Mạng cùng các quan thần triều Nguyễn chính thức coi các vị vua Tam Hoàng Ngũ Đế và các vị vua thời Tam Đại Trung Hoa là các vị tiền triều của mình, thường xuyên xuân thu cúng tế.
Theo truyền thuyết Trung Hoa, Hoàng Đế Hiên Viên là vua của nước Hữu Hùng Thị, đã đánh dẹp Xi Vưu, thống nhất các bộ tộc thời lập quốc, mở đầu thời kỳ “lịch sử” 5000 năm của Trung Quốc. Hiên Viên là vua nước Hữu Hùng thị tức chính là Vua Hùng trong sử Việt. Truyền thuyết Việt kể các vua Hùng là những người đã “có công dựng nước”, có công to lớn trong việc phát triển các nghề nghiệp ở buổi bình minh lịch sử dân tộc.
Thiên Nam ngữ lục, thiên trường thi sử thế kỷ 17 có đoạn:

Tự vua Viêm Đế sinh ra
Thánh nhân ngưu thủ họ là Thần Nông
Trời cho thay họ Hữu Hùng
Con cháu nối nghiệp cha ông thủ thành.

Truyền thuyết Họ Hồng Bàng của người Việt kể: Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông…
Như vậy Hiên Viên Hoàng Đế Hữu Hùng chính là Đế Minh, vị vua Hùng đầu tiên của sử Việt.
Truyền thuyết Hùng Vương cho biết vua Hùng đã dậy dân cày cấy, trồng ngũ cốc (nghề nông), làm đồ gốm, xây dựng nhà cửa bằng gỗ thay cho ăn hang ở lỗ,…  Cũng vì thế mà vua Hùng – Hiên Viên Hoàng Đế đã được người Việt cũng như người Hoa tôn làm ông Trời, tức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vị tổ bách nghệ cũng là vị quốc tổ lâu đời nhất trong lịch sử dân tộc Việt.

Cửu Thiên Huyền Nữ, vị mẫu tổ bách nghệ
Văn tế tiên tằm ngày 15 tháng Giêng của làng Đại Lan (Kim Lan) bên bãi sông Hồng (Văn Giang, Hưng Yên):
Cảm chiêu cáo vu:
Thánh đế Tiên sư Hoàng đế Hữu Hùng thị vị tiền
Tiên tàm Thánh đế Nguyên phi Tây Lăng thị Loa tổ vị tiền…
Bách nghệ tiên sư như đã nói ở trên là Hữu Hùng Hoàng Đế, tức là tổ Hiên Viên của đình Kim Ngân này. Còn bà tổ nghề tằm tang “Tây Lăng Thị Loa tổ” ở đây là ai?
Sử ký Tư Mã Thiên, Ngũ đế bản kỷ cho biết “Hoàng Đế ở gò Hiên Viên, cưới vợ là người con gái của Tây Lăng”. Bà Loa tổ là vợ của Hiên Viên Hoàng Đế, là tổ nghề chăn tằm dệt vải.
Ở đây cha ông chúng ta không chọn “nhầm” người Trung Quốc để thờ làm tổ nghề. Tây Lăng Thị cũng chính là Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu ở núi Tây Thiên trên dãy Tam Đảo. Vị nữ thần núi Tam Đảo tương truyền đã giúp vua Hùng diệt giặc, cùng gây dựng đất nước lúc mới khai sinh lập quốc. Quốc mẫu ở Tây Thiên còn được thờ như Mẫu Thượng Thiên, người đứng đầu Thiên phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ của người Việt.
Mẫu Thượng thiên hay Mẫu Cửu trùng cũng là Cửu Thiên Huyền Nữ của Đạo Giáo Trung Hoa. Công trạng của Cửu Thiên Huyền Nữ không chỉ chế ra nghề nuôi tằm dệt lụa mà bà còn có một loạt những đóng góp khác cùng với Hiên Viên Hoàng Đế trong công cuộc dựng nước.
Bà đã giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc. Ngoài ra Cửu Thiên Huyền Nữ truyền khoa Lục Nhâm Ðộn Giáp. Như thế Cửu Thiên Huyền Nữ là người đầu tiên khai mở nền Dịch học (triết học phương Đông).
Ở Hà Nội từng có đền thờ Cửu Thiên Huyền Nữ. Theo sách Tây Hồ chí thì đền này nằm ở ấp Trích Sài, có tên là đền Huyền Nữ. Vị thần ở đây cũng được gọi là Công chúa Loa. Rõ ràng vị Loa tổ của nghề tơ tằm cũng là Cửu Thiên Huyền Nữ.
Ở kinh thành Huế, vua Minh Mạng từng cho xây dựng một Đạo quán mang tên là Linh Hựu, mà tượng thờ ở gian chính là Cửu Thiên Huyền Nữ. Trong tín ngưỡng ở miền Trung thì Cửu Thiên Huyền Nữ là tổ của nghề mộc, nghề nề và nhà trò. Bản thân chùa Thiên Mụ có thể cũng chính là một di tích gắn với Cửu Thiên Huyền Nữ.
Trong các văn khấn như văn Thượng Lương thì Cửu Thiên Huyền Nữ được nhắc tới đầu tiên, còn trước cả tổ sư nghề xây dựng Lỗ Ban. Trên thước và bùa Lỗ Ban cũng thường đề câu chú “Cấp cấp như Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh”.
Hai vị tổ sư bách nghệ Hiên Viên Hoàng Đế và Cửu Thiên Huyền Nữ là 2 vị quốc tổ của người Việt, là những người đã đánh dấu nấc thang phát triển của xã hội công xã nguyên thủy, mở đầu lịch sử quốc gia và dân tộc họ Hùng.
Ta thường khấn “Hoàng thiên Hậu thổ” chính là nói tới 2 vị này trong quan hệ âm – dương, trời – đất:

  • Hoàng là Hoàng Đế Hiên Viên, với vai trò ở vị trí Thiên.
  • Hậu là hoàng hậu Tây Lăng thị ở vị trí Địa (thổ) trong Tam tài.

Có Vua trời và Mẹ đất mới sản sinh ra bách nghệ, giúp con cháu có cuộc sống no đủ, lâu dài. Hoàng thiên và Hậu thổ cũng là 2 vị thần bản mệnh được thờ cúng trong các gia đình (tục thờ này nay vẫn còn ở miền Trung). Như thế đạo thờ tổ nghề – tổ tiên đã ăn sâu vào tâm thức con dân Việt, tới từng ngóc ngách của cuộc sống.

Thần Đồng Cổ và hội thề trung hiếu
Thời kỳ của Hoàng Đế Hiên Viên và Cửu Thiên Huyền Nữ là thời kỳ tiền sử, ứng với giai đoạn đồ đá mới trong khảo cổ học. Bước nhảy vọt tiếp theo trong phát triển xã hội là việc phát minh ra nghề luyện kim, trước hết là nghề đúc đồng. Cùng với sự xuất hiện và tiến bộ của nghề đúc đồng xã hội Việt đã tiến lên chế độ quân chủ phong kiến trên bình diện rộng của toàn cõi Đông Nam Á và Hoa Nam, tức là vùng đất Bách Việt xưa. Trong tục thờ tổ nghề, sự kiện này được đánh dấu bởi thần trống đồng hay thần Đồng Cổ.
Trống đồng Đông Sơn của nước ta đã được biết tới như biểu tượng của văn hóa, của dân tộc. Thần trống đồng hay thần Đồng Cổ là vị thần được tôn thờ dưới thời Lý Thánh Tông, gắn với việc thần đã báo giúp Thái tử Phật Mã phòng bị sự ám hại của ba người anh em (loạn Tam Vương) khi lên ngôi. Lý Thánh Tông đã cho rước thần từ Thanh Hóa về thờ miếu Đồng Cổ nằm ở phía Tây kinh thành Thăng Long và lập hội thề trung hiếu tại đây. Hàng năm vua quan nhà Lý đến miếu Đồng Cổ cùng nhau uống máu ăn thề giữ trọn đạo hiếu trung trước tiền nhân.
Câu đối ở miếu Đồng Cổ tại Thanh Hóa:
Thiên vi anh địa vi linh, tất Mã giang Tây thanh miếu cổ
Thần đương trung tử đương hiếu, Thăng Long thành Bắc thệ đàn cao.
Dịch:
Trời gây tài, đất kết thiêng, sông Mã dải Tây trong miếu cổ
Tôi giữ trung, con đảm hiếu, Thăng Long thành Bắc đàn thề cao.
Đối chiếu truyền thuyết và tư liệu ta nhận ra rằng thần Đồng Cổ chính là vị Chu Công Đán mà Lý Thánh Tông đã đề cập tới như một tấm gương trung hiếu, giúp vua, giúp nước. Chu Công có đất phong là ở nước Lỗ nên được truyền thuyết Việt gọi là Cao Lỗ, người đã phát minh ra nỏ thần diệt giặc dưới thời Thục An Dương Vương. Bí kíp lẫy nỏ này chính là Dịch lý được thể hiện trên trống đồng (Đồng Cổ Dịch).
Cao Lỗ hay Lư Cao Sơn cũng là vị tổ nghề rèn, thờ ở nhiều nơi.
Nghề luyện kim đồ đồng đã đạt đỉnh cao dưới thời Thương Chu mà các thủ lĩnh luyện kim cũng là các thủ lĩnh quốc gia ở thời này. Mẫu hình của Chu Công – Đồng Cổ là tấm gương sáng về đạo hiếu, gây được nhân đức, cải được thiên mệnh về cho nhà Chu dựng nước Văn Lang thịnh trị trong gần 1000 năm văn hiến.

Cao Biền, vị tổ nghề gốm và địa lý phong thủy
Một vị tổ nghề quan trọng là Cao Vương Biền, tiết độ sứ khu vực nước ta dưới thời nhà Đường. Làng Kim Lan bên bờ sông Hồng là nơi thờ Cao Vương Biền làm thành hoàng và như vị tổ nghề gốm. Làng này cùng với Bát Tràng là làng gốm sứ lâu đời. Kim Lan chuyên về gốm xây dựng như gạch ngói,…  Kim Lan cũng là nơi có di chỉ khảo cổ Hàm Rồng với việc phát hiện các loại gạch từ thời Đường là gạch mang dòng chữ Giang Tây quân.
Câu đối ở đình Kim Lan:
Tĩnh Hải chân truyền từ đào nghiệp
Giang Tây chuyên trúc Đại La thành.
Dịch:
Thầy Tĩnh Hải truyền nghề gốm sứ
Gạch Giang Tây đắp Đại La thành.
Gạch Giang Tây quân là loại được phát hiện ở lớp xây dựng dưới cùng trong di tích Hoàng thành Thăng Long trong những năm gần đây. Vậy mà làng Kim Lan từ lâu đã biết tới điều này, còn sớm hơn cả những nghiên cứu khảo cổ học chính thống. Bởi vì họ duy trì được tục thờ tổ nghề là thờ Cao Biền từ thời Đường.
Phải nói thêm là chính Cao Biền chứ không phải ai khác được thờ làm Trấn Nam thành Thăng Long dưới tên Cao Sơn Đại Vương. Cao Vương không chỉ là tổ nghề gốm mà còn là một tổ nghề về địa lý phong thủy, trấn trạch nổi tiếng của nước ta.
Tiết độ sứ Cao Biền còn được thờ ở rất nhiều nơi suốt dọc từ Bắc và Nam dưới tên Cao Các đại vương. Đây là vị thành hoàng gặp phổ biến ở Thanh Hóa, Nghệ An, thậm chí các vùng Thừa Thiên Huế, tới tận Khánh Hòa. Tín ngưỡng thờ Cao Vương bắt nguồn từ công nghiệp an dân, trị quốc của Tiết độ sứ Cao Biền.

Không Lộ và Từ Đạo Hạnh thiền sư
Sang thời kỳ độc lập của nước Đại Việt dưới triều Lý, tục thờ tổ nghề gắn liền với tín ngưỡng dân gian, cụ thể là đạo Giáo hay đạo phù thủy ở nước ta. Thời này nổi lên các vị tổ nghề như Không Lộ thiền sư (nghề đúc đồng), Từ Đạo Hạnh (nghề múa rối nước và hát chèo). Thánh tổ Không Lộ thiền sư nổi tiếng bởi phép thuật thần thông, sang phương Bắc dùng một chiếc túi mà thu hết đồng mang về nước Nam, đúc nên Tứ đại khí An Nam.
Không Lộ thiền sư còn là 1 trong 4 vị Tứ bất tử của nước ta. Mỗi vị thần bất tử là một vị đạo trưởng một đạo phái trong lịch sử phát triển tín ngưỡng của người Việt. Không Lộ là tổ không chỉ của nghề đúc đồng mà còn là thánh tổ của đạo Giáo dân gian, rất phát triển và có đóng góp lớn trong công cuộc dựng nước thời nhà Lý.
Tục thờ Không Lộ còn gắn với tục diễn trò rối đầu gỗ hay trò Ổi Lỗi. Đây là một hình thức diễn tấu thờ thánh, tái hiện lại sự nghiệp diệt thần Xương Cuồng (thần Hổ) của thánh tổ Không Lộ. Nhưng trò diễn này cũng là loại hình diễn xướng dân gian, mà trong lĩnh vực này thiền sư Từ Đạo Hạnh được coi là vị thánh tổ của nghề hát chèo và múa rối.

IMG_9081
Đình Kim Ngân ở phố Hàng Bạc, nơi thờ bách nghệ tổ sư Hiên Viên Công Tôn Thần.

Thay cho lời kết
Ta thấy, vấn đề thường “mắc” khi nói tới các tổ nghề nước ta là không hiểu vì sao người Việt  lại toàn thờ các nhân vật Trung Hoa làm tổ nghề, như Hiên Viên Hoàng Đế, Cửu Thiên Huyền Nữ, Lỗ Ban, Cao Biền,… Dưới một góc nhìn mới và thông qua các tư liệu dân gian, cùng các di tích, di vật còn lưu lại tới nay đã có thể nhận ra, đây hoàn toàn không phải là các làng nghề “thờ nhầm” hay do ảnh hưởng văn hóa ngoại lai, mà thực chất các vị tổ nghề đó chính là tổ tiên người Việt trong mỗi thang bậc phát triển của khoa học kỹ thuật và văn hóa xã hội Việt. Thờ tổ nghề do đó đi liền với đạo Hiếu – đạo thờ các vị tiền nhân có công trong tiến trình lịch sử dựng và giữ nước.
Ta thấy các vị tổ bách nghệ cũng là những vị quốc tổ, quốc mẫu của dân tộc. Ngày nay, có biết “tôn sư” thì mới “trọng đạo”. Muốn làm nghề tốt (“đạo”) thì cần tôn thờ những người có công khai mở nghề nghiệp. Đó cũng là Hiếu đạo.
Cây có cội, nước có nguồn. Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới. Thờ tổ nghề, thờ tổ tiên là tìm lại di sản tinh thần và trí tuệ của cha ông để lại cho chúng ta hôm nay.

 

Văn hóa truyền thống Việt trong quản trị rừng

IMG_6033Trong quản trị rừng hiện nay ở Việt Nam chúng ta nói nhiều đến tri thức bản địa, đến quản lý rừng dựa vào cộng đồng, rừng cộng đồng và gần đây nữa là khái niệm khu bảo tồn do cộng đồng quản lý. Thúc đẩy yếu tố “cộng đồng” trong quản trị rừng là một xu hướng cần quan tâm trong chính sách lâm nghiệp. Khái niệm “cộng đồng” bản địa trước hết muốn nói đến tính chất gắn kết tập thể được hình thành qua một quá trình lâu dài, hay tức là văn hóa truyền thống, của cộng đồng người dân. Vì vậy, để tiếp cận phù hợp và đúng bản chất đối với vấn đề cộng đồng địa phương trong quản trị rừng cần xem xét làm rõ mối tương quan của văn hóa truyền thống Việt đối với quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Văn hóa có thể được chia làm 3 loại hình: văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể và văn minh (văn tự, ngôn ngữ). Đây cũng là quan niệm của truyền thống phương Đông về Tam tài: Thiên, Địa, Nhân. Cõi Địa là những gì thuộc về vật chất như cái ăn (lương thực), cái mặc (trang phục), chỗ ở (kiến trúc), công cụ lao động, tri thức về tài nguyên thiên nhiên, nghề thủ công,… Cõi Thiên là những gì thuộc về tinh thần như tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội, luật tục,… Cõi Nhân là con người, thể hiện qua văn tự, ngôn ngữ, lịch sử, truyền thuyết,…
Với việc phân chia các loại hình như vậy, thì khi đánh giá quan hệ của văn hóa đối với quản trị rừng rõ ràng không thể chỉ bó hẹp ở nghiên cứu luật tục hay tri thức bản địa (về tài nguyên) như hiện đang được thực hành. Phân tích quan hệ của văn hóa đối với rừng đòi hỏi tính đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, cũng như sự tương tác giữa các lĩnh vực đó với cộng đồng và môi trường, mới có thể bao hàm đầy đủ được ý nghĩa của văn hóa.
Khi ủng hộ thúc đẩy văn hóa cộng đồng trong quản trị rừng là hàm ý nói tới văn hóa truyền thống mà đã được hình thành và ổn định lâu dài trong cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, cần xác định rõ thế nào là “truyền thống” và những gì mà cộng đồng hiện tại đang lưu giữ có thực sự là theo truyền thống hay không?
Xã hội Việt Nam cũng như xã hội loài người về cơ bản phát triển từ hình thức săn bắn hái lượm của các bộ tộc nguyên thủy, tiến lên một bước làm nông nghiệp và thủ công nghiệp dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Bước tiếp theo là phát triển công nghiệp, tự động hóa dưới hình thức của nhà nước dân chủ quản lý đất nước. Soi chiếu vào lịch sử Việt ta thấy nhìn chung “truyền thống” là những gì được hình thành ở các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội ban đầu mà chế độ phong kiến Việt Nam mới kết thúc vào năm 1945 sau Cách mạng tháng 8. Câu hỏi đặt ra là, vậy những nét văn hóa hình thành sau Cách mạng liệu có thể được gọi là truyền thống không? Những ứng xử văn hóa đó đối với tài nguyên rừng liệu có còn ý nghĩa thực tế trong thời đại ngày nay hay không? Liệu những truyền thống đó có còn phù hợp để khuyến khích trong quản trị rừng?
Thực tế ở Việt Nam đã có một sự đứt gãy lớn giữa quá khứ và hiện tại do chiến tranh và sự thay đổi chế độ xã hội. Điều này dẫn đến sự khác biệt khá rõ rệt giữa văn hóa hiện đại và văn hóa truyền thống. Trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, những thay đổi có tác động sâu rộng đến cơ cấu và văn hóa các cộng đồng miền núi phải kể đến là việc di dân quy mô lớn nhằm khai phá kinh tế mới từ miền xuôi lên miền ngược và từ Bắc vào Nam. Việc di dân này đã làm thay đổi căn bản diện mạo của nhiều vùng miền núi. Ngày nay rất khó có thể tìm được một cộng đồng truyền thống nguyên vẹn như trước ở những khu vực có di dân, ví dụ như vùng Tây Nguyên hay Tây Bắc.
Du nhập của tôn giáo phương Tây vào Việt Nam cũng là một yếu tố tác động đáng kể khác tới văn hóa truyền thống. Đạo thiên chúa thay chỗ cho tục thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ rừng thờ núi ở các cộng đồng công giáo. Linh mục và nhà thờ thay cho quyền lực của các già làng trưởng bản truyền thống. Phân tích quản trị rừng ở cộng đồng do đó không thể không tính đến yếu tố thay đổi về tín ngưỡng.
Những đặc điểm của văn hóa truyền thống Việt (bao gồm cả ứng xử cộng đồng và với tự nhiên) cần được chú ý đến khi phân tích quản trị rừng. Đặc điểm trước hết của văn hóa truyền thống là nền văn hóa dựa vào niềm tin (tín ngưỡng), khác biệt so với cách tiếp cận dựa vào khoa học (science-based) của phương Tây. Văn hóa truyền thống thường đề cao các giá trị tinh thần hơn là các giá trị vật chất. Vì thế, ví dụ, đối với quản lý rừng cộng đồng truyền thống thì cơ chế chia sẻ quyền lực và trách nhiệm đối với tài nguyên sẽ quan trọng hơn cơ chế chia sẻ lợi ích từ rừng.
Góc nhìn căn bản của văn hóa truyền thống là lấy con người làm trung tâm, hay quan tâm trước hết ở sinh kế của người dân. Bảo tồn thiên nhiên mục đích cuối cùng cũng là để phục vụ đời sống nhân dân. Trong quá khứ gần đây, khái niệm bảo tồn còn chưa xuất hiện. Mục tiêu của nhiều khu vực làng xã miền núi lúc đó là khai hoang, mở rộng đất để sản xuất nông nghiệp và sinh sống. Hiển nhiên như vậy văn hóa truyền thống lúc này sẽ gắn bó với công cuộc khai mở đất đai của cha ông. Những nét văn hóa khai thác tự nhiên này ngày nay có thể không còn phù hợp, nhưng quan điểm phục vụ dân sinh trước tiên cần được tính đến trong các phân tích và nên đặt làm cách tiếp cận cho các can thiệp trong quản trị rừng.

IMG_6079Một đặc tính đáng khuyến khích của văn hóa truyền thống là tính tập thể. Nó khác biệt với sự đề cao các cá nhân và lợi ích vật chất trong kinh tế thị trường. Chính sự tuân thủ các quy định của tập thể và vì tập thể này mà các cộng đồng truyền thống tỏ ra rất bền vững trong quản lý các dạng tài sản công như tài nguyên rừng.
Tính tập thể của cộng đồng truyền thống dẫn đến chuẩn mực “phép vua thua lệ làng”. Đối với cộng đồng “lệ” của làng còn vai trò quan trọng hơn luật pháp của nhà nước. Vì mấy ai trong cộng đồng biết thế nào là pháp luật đâu, trong khi đó lệ làng là thứ mà họ sống và làm theo trong cuộc sống hàng ngày. Khuyến khích các lệ làng tốt, cùng với các cơ cấu quyền lực truyền thống (già làng, trưởng bản,…) do đó có ý nghĩa quan trọng hơn việc phổ biến lâm luật trong bảo vệ rừng ở cộng đồng.
Sự gắn kết cộng đồng truyền thống còn thể hiện qua cơ chế uy tín và trải nghiệm thực tế trong giáo dục và đào tạo. “Tiên học lễ, hậu học văn”. Cái đầu tiên người dân phải học là “lễ”, tức là cách ứng xử trong cộng đồng. Sau đó mới học đến kiến thức, học nghề (“văn”). Với phương thức giáo dục này người thầy trong truyền thống có một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ đơn giản là lên lớp truyền đạt các kiến thức. Nếu người thầy “nói một đằng, làm một nẻo” thì có nói hay nói đúng đến mấy cũng chẳng ai làm theo. Người thầy trong truyền thống do đó chính là “mô hình” thực tế để người dân noi theo đó mà áp dụng cho cuộc sống của mình. Có “tôn sư” thì mới “trọng đạo”.
Phương thực học tập trong truyền thống là học qua trải nghiệm thực tế. Từ những gương mẫu, nhưng mô hình thật người ta áp dụng, vận dụng vào bản thân, thực hành trong chính điều kiện của bản thân, phải chịu trách nhiệm về kết quả của những thực hành đó. Những bài học học được qua thực tế sẽ được ghi nhớ, đúc rút kinh nghiệm và áp dụng lâu dài sau đó nên học rất hiệu quả và bền vững.
Cách học tập và thực hành truyền thống như vậy nên vận dụng khi thực hiện các hoạt động can thiệp nhằm thay đổi cách nghĩ, cách làm của cộng đồng. Không phải kiến thức của các nhà thực hành quản trị rừng mà là “đức độ”, tâm huyết của họ, sự gần gũi của họ với người dân, mới tạo ra được sự thay đổi thật sự và bền vững trong cộng đồng mà họ hướng tới.
Bảng sau nêu một vài so sánh tính chất của văn hóa truyền thống và hiện đại cùng những ví dụ hàm ý minh họa.

2018-09-06

Một số hành động khuyến cáo rút ra từ những phân tích trên cho việc thúc đẩy các truyền thống văn hóa tốt trong quản trị rừng:

  • Khuyến khích tinh thần tập thể, chia sẻ trách nhiệm trong cộng đồng.
  • Đề cao đạo đức xã hội cùng với việc tuân thủ pháp luật.
  • Khuyến khích thực hành các tín ngưỡng, bởi không có niềm tin thì không có văn hóa, mà không có văn hóa thì không có hành động đúng.
  • Tác động vào những người có uy tín trong cộng đồng, thay cho tác động vào các lãnh đạo hành chính của chính quyền.
  • Sử dụng các mô hình thực tế khi đào tạo và tạo điều kiện thử nghiệm cho người dân trong điều kiện của chính họ để đạt hiệu quả và tính bền vững của đào tạo.

Dịch học, tiếng Nôm và trống đồng

Bài trình bày trong hội thảo Kinh Dịch với người Việt do Trung tâm minh triết và Trung tâm Lý học phương Đông tổ chức ngày 2/6/2018.

Đối với phương Đông, Dịch lý là nền tảng của sự phát triển của xã hội và văn hóa xa xưa từ những trang lịch sử đầu tiên, thể hiện thế giới quan của cộng đồng tộc người đã làm nên Dịch học. Vì thế ngôn ngữ, văn vật và địa lý của cộng đồng này sẽ là mối liên hệ trực tiếp cho phép khám phá các ý nghĩa của Dịch học. Hoa ngữ và địa lý nước Tàu hiện nay không làm được điều này bởi chủ nhân thực sự của Dịch học không nói thứ tiếng đó và không ở chỗ đó. Tiếng Việt, trống đồng của người Việt và mảnh đất Việt Nam ngày nay mới là quê hương chân xác của Dịch lý. Bài viết sau so sánh, đối chiếu các yếu tố văn hóa địa lý Việt với các dịch tượng trong Dịch học để tìm lại nền móng căn bản của Dịch lý, đồng thời góp phần khẳng định chủ nhân tác Dịch chính là người Việt trên mảnh đất Việt ngày nay.

Nôm na là cha mách qué

Trong thành ngữ tiếng Việt có câu: “Nôm na là cha mách qué”, xưa nay nhiều người biết, nhiều người dùng, nhưng ý nghĩa thực của câu này là gì chưa thấy có ai giải thích cặn kẽ. Thực ra, câu thành ngữ này “Nôm na là cha mách qué” có nghĩa rất đặc biệt, là chiếc chìa khoá giúp ta đi vào Dịch học. Xin giải nghĩa thành ngữ trên như sau:
– “Nôm” là biến âm của “Nam”, chỉ nước Việt người Việt. Từ Nôm trong câu này chỉ chữ Nôm, từ Nôm hay âm Nôm. Nói chung ý trong câu là chỉ tiếng nói của người Việt Nam.
Ngày nay thường hiểu từ Nam là chỉ riêng người Việt Nam. Thực ra đây là từ chỉ chung cả khối Bách Việt. Thời Nguyên Mông nói chung thì người phía Bắc sông Dương Tử gọi là người Hán, phía Nam Dương Tử gọi là người Nam.
– “Na” tức “na ná”, nghĩa là “gần giống với”.
– “Cha” đồng nghĩa với thầy, cũng có thể hiểu là thầy dạy học, người chỉ dẫn.
– “Mách” là chỉ bảo, chỉ dẫn, nghĩa như trong mách bảo, mách nước v.v.
– “Qué” ở đây biến âm của từ Quái trong Hoa ngữ, hay Quẻ trong tiếng Việt, chỉ 8 quẻ căn bản của Dịch học. Quẻ đơn là Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Như vậy nghĩa của câu “Nôm na là cha mách qué” là: Na ná hay gần giống với từ Nôm là thầy chỉ bảo về ý nghĩa các quẻ Dịch. Có thể viện dẫn các ví dụ trong Dịch học để chứng tỏ ý nghĩa này:
– Quẻ Kiền hay Càn, chỉ sức mạnh hay sự to lớn có gốc từ tiếng Việt là “cồng kềnh” hay “kềnh càng”.
– Quẻ Đoài là biến âm của “điều” hay “đào” tức màu đỏ.
– Quẻ Ly là biến âm của “lửa”, tượng trưng cho sức nóng, ánh sáng và mặt trời.
– Quẻ Chấn là biến âm của “sấm”, Hoa ngữ là “lôi”.
– Quẻ Tốn hay Toán, tức “tính toán “ trong tiếng Việt, chữ cổ còn gọi là “tán”.
– Quẻ Khảm còn gọi là Cống, thực ra là “cóng”, tiếng Việt thường dùng từ kép “lạnh cóng”.
– Quẻ Cấn còn gọi là Căn, nghĩa tiếng Việt là “cán”, là cái để nắm lấy mà điều khiển như cán dao, cán cuốc v.v.
– Quẻ Khôn chỉ sự khôn ngoan nơi con người, chỉ khả năng nhận xét của não bộ, tức khả năng nhìn nhận và phán đoán sự việc.
Xem xét kỹ thì không chỉ riêng Bát quái mà Thập can cũng do “Nôm na” mà ra như:
– Giáp là “chắc” trong “chắc chắn”.
– Ất là “óp” như trong “óp ép”.
– Bính là “bấn” trong “bấn loạn”.
– Đinh là “đanh” trong “cứng như đanh”.
– Mậu là “mẹ”.
– Kỷ là “cả”.
– Canh là “nước canh”, cánh, cạnh, cành, chỉ trục ngang.
– Tân là “tâng”, tưng, tung lên, chỉ trục đứng.
– Nhâm là “nhũn”, nhung trong “mềm như nhung”.
– Quý hay Khang là khăng, “khăng khăng” không đổi.
Thực kỳ lạ, tên các thành tố của Dịch học như Thập can, Bát quái… không mang một ý nghĩa gì trong Hoa ngữ. Nó thuần là các tên để gọi mà thôi. Ngược lại khi “Nôm na” thì ý nghĩa Dịch lý lại nằm ngay chính trong tên gọi của nó. Thậm chí những từ khoá trong nguyên lý cơ bản “sinh sinh chi vị dịch” cũng có gốc từ “Nôm na” mà ra: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…”. Cực, nghi, tượng, quái v.v. đều là những “đặc từ” chỉ dùng trong Dịch học, phải có công “tu luyện” mới thấu đáo…
Khi dùng “nôm na pháp” vào đây ta có: “1 cục, hay cuộc, sinh 2 ngôi, 2 ngôi sinh 4 tạng hay dạng, 4 tạng sinh 8 quả”. Rồi cả 3 tòa, 5 hình, 9 chỗ v.v. Thì ra tất cả là những danh từ thông thường dùng trong cuộc sống hàng ngày người “bình dân” ai gặp cũng hiểu ngay, chẳng phải là “đặc ngữ đặc từ” chi cả. Có thể nói, khi “Nôm na” thì Dịch học rất gần gũi đời sống thường nhật của con người, trái hẳn với Dịch học siêu đẳng của Hoa ngữ, nói toàn chuyện trên mây như chỉ dành cho các bậc thánh triết, mà trên cõi đời này hỏi có được mấy vị?
Dựa vào yếu tố ngôn ngữ có thể khẳng định, Kinh Dịch chứa đựng những hiểu biết về sự vận động và biến đổi của mọi vật trong Không và Thời gian là thành tựu trí tuệ của người Nam hay Bách Việt mà chi duy nhất còn lại đại diện cho cả dòng giống là Lạc Việt, tức người Việt Nam ngày nay.

Chữ nguyên hình “điểu thú văn”

Trên mặt tất cả trống đồng loại 1, tức loại xưa nhất, đều được đúc theo khuôn mẫu: trung tâm là mặt trời, rồi đến các vòng đồng tâm khắc hình chim và nai, sau đó là cảnh sinh hoạt, đánh trống đồng, đo bóng mặt trời, cảnh chiến binh trên thuyền v.v. Mặt trời được người Việt cổ coi là nguồn sáng và nguồn sống cho muôn loài. Với quan niệm cha trời mẹ đất, tổ tiên ta đã hiểu rõ những gì thu hoạch được từ đất như củ, quả… không thể có được nếu không có ánh nắng mặt trời. Điều này thật đời thường nhưng cũng rất khoa học. Lúc đó người ta làm gì biết đến diệp lục tố và sự quang hợp như chúng ta ngày nay. Nhưng bằng sự quan sát và so sánh việc được mùa và không được mùa có liên quan chặt chẽ tới sự chiếu sáng của mặt trời người xưa đã hiểu được có sự phối hợp giữa trời và đất để ban của ăn nuôi sống con người, Từ đó hình thành quan niệm lưỡng hợp. Một phía là cái cụ thể có thể nắm bắt là đất, một phía ta biết rõ ràng, có đấy nhưng không thể nắm bắt đó là những gì đến từ trời. Dần dần tổng kết thành các quy luật trời đất có âm, có dương, ý niệm khởi nguồn của Kinh Dịch.
Với quan niệm mặt trời là nguồn sáng, cổ nhân coi mặt trời là khởi nguồn của văn minh, của sự sáng suốt, vì không có ánh sáng mặt trời thì bóng tối che phủ, không thể phân biệt được cao thấp, xấu đẹp, không gian trở thành một khối hỗn mang và trong màn đêm đó không biết bao sự rình rập của quỷ dữ, của ác thú, sinh mệnh con người mong manh biết bao nhiêu, và mọi vật chỉ trở nên sống động thực sự khi mặt trời ló dạng, từ đó con người sùng bái mặt trời. Với người Việt sự sùng bái đã gần như một ý thức về tôn giáo: đạo thờ Trời, thờ ông Thiên và hình ảnh biểu tượng là mặt trời. Với vị trí là tâm điểm trên trống đồng, mặt trời là trung tâm của vũ trụ. Điều này chắc mới dừng ở ý niệm siêu hình, nhưng trong đó ta đã thấy thấp thoáng bóng khoa học rồi.
Trên trái đất không biết bao nhiêu loài thú, tại sao chim và nai lại được coi trọng ngang hàng với con người, được kết hợp với người để tạo thành thế giới 3 thành phần trên mặt trống, coi như hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ?
Ta trở lại với Dịch lý. Mọi người đều nhất trí coi Hà và Lạc là một phần của Dịch lý, hoặc là cách diễn đạt Dịch lý thông qua các nút số, một loại diễn đạt khác với Dịch lý vạch quẻ của Bát quái. Vậy Hà là gì và Lạc là gì? Trải qua mấy ngàn năm, các cuộc tranh luận của các bậc trí giả “nhìn xa trông rộng” vẫn còn tiếp tục xảy ra, nào là long mã, nào là thần quy, người thì bảo là thần vật xuất hiện ở Hoàng Hà, rồi Mạnh Hà, rồi Lạc Thủy… Sở dĩ như vậy là tại các vị nhìn một vật ngay trước mắt qua “kính viễn vọng” nên hậu quả là… vẫn còn cãi nhau.
Thật ra khi ta nhìn bằng mắt trần thì sự việc trở nên đơn giản: Hà nghĩa là Trời, Lạc là biến âm của Lục, nghĩa là Đất. Hà Lạc là Trời và Đất, rất rõ ràng. Chính xác phải gọi là Hà thư – Lạc đồ, chứ không thể gọi ngược như trước đây được. Hà thư tức Thiên thư. Lạc đồ cũng là Địa đồ.
Thông điệp trên mặt trống đồng rất rõ ràng. Mặt trời là trung tâm và ở các vòng đồng tâm kế tiếp nhau là Hạc – Nhân – Lộc, tức trên là trời, giữa là người, dưới là đất nối tiếp “chạy” quanh mặt trời. Ta có:
Trời = Hà  → Hạc: chim Hạc hay hồng hạc.
Đất = Lục → Lộc: con nai.
Từ sự việc này gợi ra một ý kiến là: chữ “tượng hình” không phải là loại chữ cổ xưa nhất mà là sự tiếp nối một loại chữ khác có trước, tạm gọi là chữ “nguyên hình”. Ta liên tưởng trong Kinh Dịch phần Thuyết Quái, Khổng Tử viết: “… Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất… quan điểu thú chi văn …” rồi tổng kết lại thành các quy luật Dịch lý. Câu “quan điểu thú chi văn” được hiểu là “nhìn các nét “văn” trên (mình) chim, thú… Nay ta có thể hiểu khác đi là đã có một loại chữ có tên là “điểu thú văn”, tức chữ “nguyên hình”, từ trước khi họ Bào Hy tác Dịch.

Chu nguyen hinh

Lạc đồ đặt nằm ngang và những chữ nguyên hình.

Trong bối cảnh Văn hóa Á Đông ta có thể tìm thêm 4 chữ “nguyên hình” nữa ngoài các chữ “chim hạc” và “con nai” (= Trời và Đất).
Hướng Xích đạo là vùng nhiệt đới được tượng trưng bằng con Hổ. Hổ là biến âm của Hoả, là lửa. Tính của lửa là nóng.
Ngược với lửa là nước, nơi vùng nước này có rất nhiều con Sấu. Sấu là biến âm của Xíu, là nước (âm Quảng Đông). Trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam nó là con thuồng luồng, một loài thủy quái hại người. Sau này do biến cố khí hậu loài Sấu ở phía Bắc (cứ tạm gọi như tên hiện nay) bị tiêu diệt nên người xưa thay thế bằng con rùa, tức Quy.
Hướng Đông là biển nên biểu tượng bằng thần vật có công hút nước làm mưa mà người xưa gọi là Rồng hay Long. Trong văn hóa Việt – Hoa, Rồng được coi là chúa tể cai trị thế giới biển cả.
Ai đã từng học Dịch lý đều biết quan điểm hướng Đông là phương động, tượng trưng bởi quẻ Chấn, cũng gọi là quẻ Thìn tức quẻ con rồng. Chính xác phải gọi là hướng động vì Đông là biến âm của động. Theo nguyên lý đối lập của Dịch, phương Tây là tịnh như trong Thuyết Quái của Dịch: cứng mềm cọ sát sinh ra động tịnh. Phương Đông: mềm mà động. Phương Tây: cứng mà tịnh, định.
Việt ngữ có từ kép “định đoạt” để chỉ phương Tây. “Định” là chỉ bên không thay đổi. “Đoạt” là tên khác của quẻ Đoài.
Phương Tây là phương tịnh và ở đó có rất nhiều voi, nên con voi trở thành chữ “nguyên hình” là Tịnh, con tịnh. Như thế ta có thể coi chữ “nguyên hình” là loại chữ tối cổ. Đó cũng là điểm xuất phát của chữ “tượng hình” sau này.
Tổng số ta có được 7 “chữ”:

  • Mặt trời là Trung tâm.
  • Hạc = Trời.
  • Lộc = Đất.
  • Hổ = phương nóng, Xích đạo.
  • Sấu, Quy = phương nước, ngược với phương nóng.
  • Long, Rồng = phương Đông.
  • Tịnh = phương Tây.

Xác định như trên ta có thể khẳng định đất nước Trung Hoa hiện nay không thể là quê hương của Dịch lý được vì không thể tìm được vùng đất nào của Trung Hoa mà phương Đông là biển và phương Tây có voi. Chỉ có miền Trung của Việt Nam mới hội đủ tính chất chỉ định của 6 chữ “nguyên hình” hay “điểu thú văn” như phần trên. Loài Hổ Đông Dương ở Trường Sơn và Nam Lào đã nổi tiếng từ lâu rồi. Về hướng Bắc thì đồng bằng Bắc Bộ vài ngàn năm trước là vùng đầm lầy, chắc chắn lý tưởng cho loài Sấu. Về hướng Đông là biển, đúng là quê hương của Rồng và hướng Tây thì chỉ tên nước Lào “Triệu Voi” cũng đủ minh chứng cho sự khẳng định trên.
Trong lãnh vực tâm linh, tất cả các đền, miếu của Việt Nam đều có hình Hạc hay Hồng Hạc đứng trên mai Rùa tượng trưng cho Trời và Đất. Như thế đã đủ 6 con vật tượng trưng cho 6 cõi của 1 không gian 3 chiều. Người xưa đã dùng những con vật nổi trội ở một vùng đất như một dạng thức chữ, là chữ “nguyên hình”, để chỉ 4 phương. Còn Trung tâm là nơi sinh tụ của cộng đồng người cổ đã tạo nên Dịch lý.
Dịch lý đã là tài sản của cả nhân loại, phát nguyên từ đâu không phải là điều quan trọng đối với thiên hạ. Nhưng đối với người Việt Nam thì khác, nếu không thể làm sáng tỏ về quê hương Dịch lý thì mắc lỗi với tiền nhân. Người xưa đã lao tâm khổ tứ biết bao mới có thể ký thác được những giá trị vĩnh hằng vào trong đấy, làm tài sản cho con cháu vào đời. Quá khứ không phải qua đi là hết. Dòng linh khí từ quá khứ sâu thăm thẳm vẫn liên tục chảy về hiện tại, tạo thành sức mạnh tâm linh vô song cho mỗi người. Dù tiếp nhận trong vô thức, dòng linh khí đó trở thành bản lĩnh sống, thành năng lực bẩm sinh của trí tuệ. Đấy cũng là lý do để ta nỗ lực vượt bực mong tìm được đích xác nguồn gốc dòng giống của mình. Xác định cho được bản quyền dân tộc trên Dịch lý, một siêu phẩm của minh triết và khoa học.

Dịch học và đồ đồng Đông Sơn

Truyền tích bánh dày bánh chưng kể rằng vua Hùng đã già nghĩ ra cách để tìm người kế vị. Vua ra lệnh cho các hoàng tử (các “lang”) ai dâng lên cho vua được món ăn ngon nhất và ý nghĩa nhất sẽ được vua truyền ngôi. Trong khi các anh em đổ đi khắp nơi để tìm của ngon vật lạ thì hoàng tử Lang Liêu vốn cảnh sống rất thanh bạch và không muốn dành ngôi vua nhưng bản tính hiếu thảo nên vẫn băn khoăn không biết lấy gì dâng cho vua cha. Chợt tối ngủ Lang Liêu được một vị thần hiện ra chỉ dẫn: Lấy gạo nếp tinh tuyền đã nấu chín giã ra làm bánh màu trắng hình tròn, đặt tên là bánh dày. Lấy gạo nếp đổ trên lá, giữa cho nhân đậu xanh và thịt heo gói lại thành hình vuông đem luộc chín gọi là bánh chưng. Khi dâng vua, vua cha cho các món ngon vật lạ của các hoàng tử khác đều là tầm thường.
Riêng bánh dày và bánh chưng của Lang Liêu được vua khen ngon và hỏi ý nghĩa thì Lang Liêu tâu: Bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời. Bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất. Vua khen trời tròn đất vuông là trọn ý nghĩa của đạo trời đất và vua quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.

Trong dong

Trống đồng vuông tròn.

Ta thử giải mã từ “Lang Liêu” trong truyền thuyết trên. Lang là từ Thái ngữ, có nghĩa là thủ lãnh, biến thể sang Hoa và Việt ngữ là Long, nghĩa là con rồng hay Vua. Lang là biến âm của Năm, số 5 trung tâm của Hà thư – Lạc đồ: năm → lăm → lang. Liêu là biế́n âm của Lử̉a chỉ phương nóng, vùng nhiệt đới, hướng Xích đạo, biến âm ra: lửa → ly → la → lê → liêu → lý… Lang Liêu có nghĩa là “vua La” hay vua của người La, Liêu, Lý… “Bánh chưng bánh dày” là biến âm của “bánh trăng bánh giời” hay “bánh trăng bánh trời”.
Bánh dày hình tròn, bánh chưng hình vuông biểu thị cho nguyên lý cơ bản của Dịch học. Trời tròn chỉ sự vô hình vô ảnh… Những gì vẫn có đấy nhưng thị giác con người không thể cảm thụ được. Đường tròn biểu thị sự liên tục không đứt đoạn, khi chuyển sang hệ ký hiệu vạch là vạch liền ────. Đất vuông chỉ vậ̣̣t chất hữ̃u hình, hữu hình nên hữu hạn, biểu thị sự hữ̃u hạn là bờ và mốc, tức 4 cạnh và các góc của hình vuông. Trong hệ ký hiệ̣̣u vạch là vạch đứt chỉ sự gián cách ──   ──. Tròn và vuông cũng chỉ là tên gọi khác của Âm và Dương mà thôi.
Truyền thuyết nói Trời chỉ dạy cho Lang Liêu làm ra bánh Chưng bánh Dày, đồng nghĩa với sự truyền dạy cho hậu thế rằng: vua La là người đã làm ra Dịch học, người La là chủ của thuyết Lưỡng nghi – Tam tài sinh hóa vạn vật.
Lang Liêu là ai và đạo Tròn vuông có liên quan như thế nào với người Việt?
Trên mặt tròn của nhiều trống đồng có 4 hình cóc đắp nổi. Đấy chính là biểu tượng của nguyên lý trời tròn đất vuông. 4 con cóc biểu thị cho 4 góc của hình đất vuông trên mặt trống tròn của trời. 4 con cóc là 4 tiếp điểm của hình vuông và hình tròn. Người chế tạo ra trống đồng nói rất rõ:
Cóc là biến âm của góc hình vuông, cóc → góc (tương tự như: Kà → gà; Cái → gái).
Sự biểu diễn dịch học trên đồ đồng Đông Sơn còn thấy rõ hơn ở mặt thạp đồng Đào Thịnh đã tìm được. Ở nắp thạp đồng tròn 4 con cóc đã được thay bằng 4 cặp nam nữ đang giao hợp, ý chỉ 4 điểm giao của hình vuông và tròn cũng là giao điểm của trời và đất, âm và dương. Trống đồng người Việt xưa gọi là “cối đồng”, Hoa ngữ dịch ra “đồng cửu”, rồi biến âm thành “đồng cổ”. Cửu là cái cối, biến ra “cổ” là cái trống.

Thap dong

Thạp Đào Thịnh.

Tóm lại là có sự liên quan rất rõ ràng giữa Dịch học và trống đồng, hay rộng hơn là đồ đồng Đông Sơn. Sự khẳng định này khiến ta không thể lý giải vì theo chính sử Trung Quốc thì Văn Vương tác Dịch ở tận Thiểm Tây, Bắc Trung Quốc hiện nay và vào thủa ấy người Việt không hề biết Dịch lý là gì, cũng như Văn Vương không hề biết mặt mũi trống đồng, thạp đồng ra sao… Nhưng với những gì đã biết như trên, ta không thể nào kết luận khác hơn là “dân trống đồng”chính là chủ thể đã tác tạo ra Dịch học.
Dịch học còn có cặp quẻ Khiêm nhường – Dự phần, gọi tắt là Khiêm và Dự. Sự sáng suốt nơi con người mách bảo vạn vật và xã hội phát triển theo những quy luật. Các quy luật thì trường tồn và bất biến, con người không thể thay đổi một cách chủ quan, tùy tiện. Công thức về sự chủ động phát triển là: Khiêm nhường – Dự phần.
Muốn “dự phần” hay tham gia cùng trời và đất trong việc biến đổi vũ trụ con người phải biết tôn trọng và vận dụng các quy luật tự nhiên. Một thành tựu đạt được luôn là sự hợp tác con người – tự nhiên. Con người không thể thay đổi quy luật nhưng có thể tác động ở đầu vào để nhận được kết quả ở đầu ra. Như thế gọi là Khiêm và Dự, Dự chính là dự phần vào việc tái tạo vũ trụ.

Khiem DuÝ nghĩa quẻ Dự = Lôi/Địa: Dự nghĩa là tham gia vào là cùng trời cùng đất tạo thành bộ mặt vũ trụ, tài nhân ngang hàng tài thiên, tài địa trong thế tam tài của Dịch học. Một quan điểm triết lý tôn vinh con người rất tiến bộ so với thời đại ấy.
Lời quẻ Dự: Lợi kiến hầu, hành sư.
Quẻ Dự tạo thành bằng quẻ Lôi trên quẻ Địa, sấm nổ trên đất chính là tượng của trống đồng. Lợi kiến hầu nghĩa là dùng vào việc phong tước hầu. Hiện nay có những nhà nghiên cứu lịch sử cho trống đồng là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu. Nó tựa như một loại ấn tín sắc phong vậy. Đặc biệt trong lễ nghi đạo hiếu của Việt Nam thì các bậc vương hầu dùng trống đồng thay mặt người dân của mình để tế tổ tiên của cộng đồng. Chữ “lợi” ở đây có nghĩa là “được dùng để” (ngờ rằng sau chữ “lợi” còn có chữ “dụng” nhưng bị bỏ mất). Lợi kiến hầu nghĩa là dùng trong việc phong tước hầu. Lợi hành sư nghĩa là dùng để hành quân, quân theo tiếng trống mà tiến hoặc lùi hoặc sang phải, sang trái, công hoặc thủ v.v. Trống đồng trở thành một quân khí dùng trong quân sự.
Lời tượng của quẻ Dự: Lôi xuất địa phấn, dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo. Dịch nghĩa: Sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ Dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với anh linh tiên tổ.
Trống đồng còn gọi là trống sấm, là loại trống duy nhất khi đánh để úp xuống đất, nên lời tượng nói: lôi xuất địa phấn. Tiên vương tức tiên đế nhà Chu là Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công… Chữ “tác nhạc” cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế. Nó chính là tổ tiên của văn hóa cồng chiêng ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn đang đặt câu hỏi: trống đồng dùng để làm gì hay công dụng của nó ra sao? Lời quẻ và lời tượng quẻ Dự đã chỉ rõ 3 công dụng:

  1. Trống đồng dùng như một lệnh bài sắc phong tước vị.
  2. Dùng làm hiệu lệnh điều quân.
  3. Dùng trong âm nhạc ở các buổi tế lễ long trọng.

Qua lời quẻ và lời tượng của quẻ Lôi/Địa Dự việc liên hệ giữa Dịch học và trống đồng là điều không thể phủ nhận. Chỉ với những khám phá trên đủ khẳng định: Dân tộc là chủ nhân của trống đồng cũng chính là dân tộc đã sáng tạo Dịch học. Dịch học dứt khoát không phải là sản phẩm của nền văn minh Hán. Dân tộc sống ở lưu vực Hoàng Hà không hề biết trống đồng là gì vào thời những chiếc trống đồng cổ xưa nhất được dùng.

Trống đồng, bức thông điệp ngàn năm

Trống đồng có nhiều hình dạng, nhiều thời, do đó cũng nhiều mảng thông tin khác nhau. Ở đây bàn về thông điệp trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Mặt trống gồm 1 tâm và 3 vòng đồng tâm.

Trong Ngoc Lu

Tâm trống và vòng đồng tâm số 1: nhân sinh quan Việt

Tâm trống là mặt trời đang chiếu sáng. Vòng tròn số 1 là cảnh sống, sinh hoạt của con người.
Tâm trống đồng luôn luôn là mặt trời, mọi kiểu trống mọi thời đại đều như thế. Điều  này cho thấy có sự thống nhất và xuyên suốt nguyên tắc cơ bản trong hệ tư tưởng Việt: Mặt trời là trung tâm vũ trụ cũng chính là hình ảnh đại diện cho “ông trời” siêu hình.
Ông Trời là đấng tối cao mà quyền năng chi phối tất cả nhưng lại thân thiết gần gũi như cha mẹ nên người Việt hay gọi: “Trời đất ơi! Cha mẹ ơi!”.
Mặt trời phát ra ánh sáng cũng là phát ra sự sống. Trong tiếng Việt “sáng” và “sống” gần như là một âm. Phần hồn, tức anh linh nơi con người chính là một phần của cái khối sáng vĩ đại ấy, đến trái đất nhập vào thân xác vật chất thành ra con người sống động có thần. Thần tính ấy được quẻ Kiền gọi là Long hay con Rồng. 6 hào của quẻ Kiền là hình ảnh tượng trưng của 6 giai đoạn bay lên từ đất tới trời cao.
Khi đã đi hết đoạn đường trần thế thì xác trả về cho đất hồn trở về trời. Chính vậy mà mặt trời với người Việt trở thành chốn linh thiêng vì tổ tiên ông bà ngự nơi đấy. Quẻ Lôi/Địa Dự viết: “lôi xuất địa phấn tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức ân tiến chi thượng đế dĩ phối tổ khảo” cũng là lẽ này. “Cầu dâng lên trời mà cũng là để ông bà mình hưởng” đã chỉ ra: anh hồn tổ tiên đang ở chung với ông trời hay đấng tối cao…
Cuộc sống miên trường không bao giờ dứt, có chăng chỉ là chuyển đổi dạng thức tồn tại từ dương sang âm mà thôi. Hay nói theo dân gian là chuyển địa chỉ từ dương trần sang âm phủ.
Cuộc sống vẫn tiếp nối chỉ chuyển dạng tồn tại mà thôi, đấy là triết lý về sự sống – chết của người Việt đã được Kinh Dịch thể hiện. Hay nói cách khác: tâm và vòng đồng tâm thứ nhất của mặt trống đồng Ngọc Lũ đã thể hiện “nhân sinh quan” của người Việt. Cuộc sống sinh động nhưng hữu hạn vì có sinh, có biến đổi ắt có tử. Duy nhất chỉ nơi tâm vòng tròn là bất biến nên bất tử. “Sinh” là từ cõi Hằng bước sang cõi “Biến”. Qua một thời gian dạo chơi trần thế để biết mùi “đời” rồi “tử”, tức là trở về nơi đã ra đi. Người đời nói  “sinh ký tử quy” (sống gửi thác về) nghĩa là vậy. Nhưng ta phải luôn nhớ không phải ra đi làm sao thì trở về làm vậy. Vì qua thời gian ở cõi “biến” ta đã thành người khác. Sáng hơn hay tối hơn là tùy những gì ta đã làm nơi dương trần với tư cách con người có ỵ́ thức và chủ động trong hành vi của mình.
Với nhân sinh quan như vậy nên người Việt là dân tộc có hiếu nhất thế giới. Chữ Hiếu được nâng hẳn lên thành một tôn giáo, gọi là đạo “Hiếu” hay đạo thờ ông bà. Cao nhất là thờ ông ‘Thiên”, tổ của cả loài người. Với quốc gia thì thờ quốc tổ, làng thì thờ “thành hoàng”, tộc họ thì có nhà thờ họ và trong mỗi nhà đều có bàn thờ “gia tiên”… Trong nhân sinh quan người Việt thì quá khứ – hiện tại – tương lai, sống và chết, là sự biến đổi tiếp nối tuần hoàn không có chấm dứt. Thế nào rồi cũng có ngày phải về gặp các cụ. Lúc đó ăn làm sao, nói làm sao? Chính vì vậy nên phải lo liệu ngay từ bây giờ. Công đức tạo nên không phải chỉ để cho đời này mà là công đức cho mọi đời. Ngoại trừ những tay “siêu bịp” thì ai được kính trọng ở đời này ắt cũng được kính trọng ở đời sau và ngược lại kẻ bị người đời nguyền rủa thì cũng sẽ bị nguyền rủa đời đời.

Vòng đồng tâm thứ 2: xướng danh dân tộc

Là người Việt không ai mà không biết huyền tích Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ, con gái Động Đình Quân. Kinh Dương Vương nghĩa là vua phương Nam. Long Nữ hay Long Mẫu, con gái Động Đình Quân – vua phương Đông. Sự hợp huyết 2 dòng phương Nam và phương Đông là sự hoàn tất việc đúc kết tạo nên người Việt. Cũng vì lẽ này người Việt rất đỗi tự hào khi nhận mình là “con Rồng cháu Tiên”.
Những thông tin tạo nên tuyền thuyết này đều xuất phát từ Hà thư. Trong đồ hình Hà thư số 6 hay 6 nút trắng nằm ở phía Nam, số 8 nằm ở phía Đông. Phương Nam ngoài số 6 còn có số 1 nên phương Nam còn là phương của Đế Tiên hay bà Vũ Tiên. Vì lẽ này người Việt mới nhận mình là “cháu Tiên”.

Ha thuHà thư.

Theo Hậu thiên Bát quái phương Nam, số 6 còn là phương của nước, tức quẻ Khảm. Nước tiếng Việt cổ là nác – lác – Lạc. Đây chính là từ Lạc trong Lạc Long Quân và Lạc Việt.
Trong Hậu thiên Bái quái phương Đông, số 8 là quẻ Chấn hay Thìn, tức con Rồng. Hoa ngữ là Long.

Hau thien bat quai

Hậu thiên bát quái.

Tới đây đã rõ câu “con cháu Tiên-Rồng” hay dòng giống Lạc – Long là chỉ sự hợp nhất giữa 2 dòng người ở phương Nam số 6 và phương Đông 8 theo Hà thư vào thời Hùng Việt Vương –  Tuấn Lang.
Mặt trống đồng Ngọc Lũ đã thể hiện những thông tin lịch sử này ở vòng tròn thứ 2 bởi nửa vòng tròn khắc hình 6 con chim và 10 con nai và nửa vòng tròn còn lại là 8 con chim và 10 con nai. Ở đây tiền nhân người Việt đã  sử dụng những nút số của Hà thư, đặc biệt số 10 lại không được coi là 10 (số chẵn) mà coi như là 2 số 5, là số lẻ.
Các nút trắng – chẵn của Hà thư được thay thế bằng hình Chim và nút đen – lẻ được thay thế bằng con nai.
Nhìn lại Hà thư với các nút chẵn:

  • 10 con nai và 6 con chim chỉ người họ Hùng phương Nam, con cháu của Kinh Dương Vương.
  • 10 con nai và 8 con chim chỉ người họ Hùng phương Đông, con cháu của Long Nữ hay Long Mẫu.

Ý nghĩa thể hiện ở vòng tròn đồng tâm thứ 2 trên mặt trống đồng chính là sự tự xưng danh tính của chủ nhân trống đồng Ngọc Lũ. Dân tộc ấy chính là dòng giống Tiên – Rồng hay Lạc – Long, Tiên – Long, xác lập bởi các cặp số (6/10) và số (8/10).
Nếu không có số 10 chỉ dùng số 6 và số 8 sẽ bị hiểu là: người nước ngoài ở phía Nam và Đông nước ta. Người Việt xưa đã thêm mẫu số 10 để nói rõ đấy là: người họ Hùng, thuộc chi phương Trung – Nam và chi phương Trung – Đông.

Vòng đồng tâm thứ 3: ước vọng dân tộc trường tồn

Vòng đồng tâm thứ 3 của mặt trống đồng có tổng cộng 18 cặp chim, mỗi cặp có 1 chim lớn đang tung cánh bay và 1 con chim nhỏ đang tung tăng trên mặt đất. Từng cặp như vậy nói lên   sự nối tiếp liên tục, hễ tre già thì măng mọc, cha mẹ già khuất núi thì con cháu lớn lên, cứ như thế mà tiếp nối mãi.
Trong Dịch học chim Hạc hay Hồng hạc là chữ của điểu thú văn chỉ Trời cao, chỉ thời gian và những yếu tố văn hóa phi vật thể. Hà → hạc. Con nai Hoa ngữ là Lộc, biến âm của “lục”, là số 6, cũng là Đất, cũng là chữ điểu thú văn dùng chỉ Đất, chỉ không gian và những yếu tố văn hóa hữu hình hữu thể.
Trong danh sách 18 đời Hùng Vương có vị vua Hùng Việt Vương hiệu Tuấn Lang, Đây cũng chính là Sơn Tinh hay Tản Viên Sơn Thánh quốc chúa đại vương. ‘Tuấn” là tên chữ ký âm của ‘Tản” tiếng Việt. Sơn Tinh cũng là một vị Kinh Dương Vương (canh = 6, giêng = 1), nghĩa là chúa phương Nam vì trong Tiên thiên Bái quái quẻ Cấn là sơn – núi, chỉ phương Nam.
Truyền thuyết nói Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ như đã xác định ở vòng tròn thứ 2 mặt trống đồng Ngọc Lũ, phải chăng là nói về sự thống nhất dòng Tiên và Rồng để tạo ra “dòng giống tiên Rồng” ở triều đại Hùng Việt Vương – Tuấn Lang? Từ “người Việt” bắt đầu có từ đây.
Những cặp chim ở vòng tròn thứ 3 trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là loài chim Diệc. Diệc là  phát  âm của người Nam Bộ. Âm Bắc là Việt. Chính là từ Việt trong đế hiệu Hùng Việt Vương – Tuấn Lang.
Số 9 là “cửu”. Cửu cũng có nghĩa là lâu dài. 18 là trùng cửu (9×2), đồng âm với “trường cửu”, nghĩa là mãi mãi bất tận. Điều này xin đừng vội cho là cưỡng ép vô lối vì chính người Hoa cũng hay dùng lối đồng âm gán nghĩa này, như họ kiêng số 4 vì đọc là “tứ”, cận âm với “tử”, là chết. Bạn cũng đừng ngạc nhiên khi họ tặng bạn chiếc quan – tài… vì “quan” ở đây được hiểu là sự thăng quan tiến chức, “tài” hiểu là tấn tài tấn lộc, nghĩa là chúc có thêm tiền.
Như thế những hình tượng trên vòng đồng tâm thứ có nghĩa sau:

  • Chim Diệc đang tung cánh bay là chỉ dân tộc Việt trong vòng thời gian.
  • Mỗi cặp chim 1 trưởng thành 1 còn non chỉ sự nối tiếp kế thừa.
  • 18 cặp là trùng cửu (2 lần 9), cũng là trường cửu.

Vòng đồng tâm thứ 3 trên mặt trống đồng Ngọc Lũ với 18 cặp̣ chim Diệc là bản văn ngắn gọn nhưng rất rõ ràng: “Dân tộc Việt đời sau nối đời trước, cứ như thế tồn tại mãi mãi”.
Tới đây thì  ta hiểu rõ tại sao vua Đông Hán ra lệnh cho mặt ngựa (Mã Diện hay Viện) tịch thu và phá hủy cho bằng hết trống đồng của người Việt. Ý đồ của chúng là biến người Việt thành đám con hoang không cội nguồn, đồng thời chặt đứt ước nguyện trường tồn của dân tộc này… Nhưng trời xanh có mắt…
Việc giải mã được những thông tin chứa trên mặt trống đồng Ngọc Lũ đưa đến hệ quả hết sức quan trọng với người Việt:

  • “Con Rồng cháu Tiên” không còn là truyền thuyết lịch sử mà chính thức trở thành lịch sử, một lịch sử được ghi chép rõ ràng trên sách “đồng” bằng ngôn ngữ Dịch học đã phổ biến lưu truyền 3.000 năm nay.
  • Truyền thuyết lịch sử Việt không phải chỉ có 1 chuyện “con Rồng cháu Tiên”, mà là cả một hệ thống những truyền thuyết tương đối hoàn chỉnh, chứa đựng những thông tin của một thời gian dài mà ngày nay gọi là thời tiền sử. Chỉ cần minh xác được 1 đoạn trong cái chuỗi thông tin liên hoàn ấy cũng đủ để ta “lượng giá” về tính xác thực của cả hệ thống   truyền thuyết lịch sử đang lưu truyền.
  • Lịch sử và văn minh Việt có liên hệ “máu thịt” với Dịch lý từ khi người Hán chưa đặt chân tới mảnh đất này. Những trống đồng cổ nhất có đến 3.000 năm tuổi đã trở thành vật chứng chắc chắn, rõ ràng nhất giúp khẳng định: Dịch lý là thành tựu trí tuệ tuyệt vời của tiền nhân người Việt ngày nay.

Dịch học hình tượng

Con người chúng ta tư duy bằng 2 hệ thống dấu hiệu chính: hệ thống dấu hiệu âm thanh và hệ thống dấu hiệu hình ảnh. Đơn vị của hệ thống dấu hiệu hình ảnh là Tự hay Chữ. Tự nối kết với nhau thành Văn. Còn đơn vị của hệ thống dấu hiệu âm thanh là tiếng, nối kết nhau thành Điều. Ta hay dùng như một từ kép “điều tiếng”.
Gọi là 2 hệ chính vì còn các hệ thống dấu hiệu cá biệt khác như hệ thống chữ nổi của người mù được cảm nhận bằng xúc giác và hệ thống dấu hiệu cử chỉ dành cho người câm.
Trước khi có văn tự con người vẫn có tư duy, khám phá và chuyển giao thành quả, tức vẫn có tiến bộ. Dịch học tuần tự có 3 hệ thống:
– Dịch lý nút số.
– Dịch lý vạch quẻ.
– Dịch lý bằng văn tự.
Dịch học là tư duy của con người xưa. Vậy khi chưa có Dịch nút số con người suy nghĩ dựa trên cơ sở nào?
Trước Dịch học nút số đã có một nền Dịch học khác, đó là Dịch lý “hình tượng”, tức lấy chính các hình ảnh và hiện tượng tự nhiên làm Dịch tượng ̣để tư duy.

Hinh tuongKhi tìm hiểu về Dịch lý ta thường nói: Càn là trời, Khôn là đất, Ly là lửa… Như thế là đã đi ngược tiến trình của Dịch học. Đúng ra ta phải nói: Trời là Càn, Khôn là Đất… vì từ những hình tượng có thực trong cuộc sống người ta mới nén thông tin vào trong các Dịch tượng tạo thành hệ thống dấu hiệu làm công cụ cho tư duy.
Dịch lý thô sơ dựa trên các hình tượng đã hệ thống hóa sau. Dịch học hình tượng lấy Trời và Đất hay bầu trời và quả đất để biểu thị cho không gian. Lấy Mặt trời và Mặt trăng để biểu thị cho ngày và đêm, tức chỉ thời gian. 4 quẻ còn lại biểu diễn cho cái không gian hẹp, tức khuôn khổ trong đó con người ta sinh sống.
Dịch học nói: tại thiên thành tượng, tại địa thành hình. Hình ảnh biển cả và đất liền được dùng để tượng trưng cho mặt địa cầu là cái nền chở đỡ và dưỡng nuôi loài người. Đất và nước luôn đi đôi trở thành từ kép “đất nước”, đồng nghĩa với tổ quốc của mỗi người.
Hiện nay người ta cho là quẻ Đoài là cái hồ, thực ra không phải vậy. Khi nói Đoài là hồ, Cấn là núi là đã giảm tầm cỡ của Dịch lý. Kích cỡ của cái hồ hay quả núi có thấm tháp gì so với sự mênh mông của mặt địa cầu nên không thể nào trở thành một nguyên tố của Dịch học. Chỉ có biển cả hay đại dương, đất liền hay đại lục mới đủ tư cách gánh vác trách nhiệm đại biểu đó.
Tại thiên thành tượng. Hai hiện tượng tự nhiên trên bầu trời có ấn tượng sâu sắc trong đầu thánh nhân khi tác Dịch là: sấm sét và bão gió. Trời thì trong suốt đâu có nhìn thấy gì đâu, nhưng qua các hiện tượng chúng ta biết vật chất vẫn tồn tại ở đó. Thứ vật chất mà Dịch học gọi là nhẹ và trong, nhận định có 2 thể loại vật chất, một là chất đục và nặng, có thể nhân biết dễ dàng, còn một thứ trong suốt nên chỉ có thể nhận biết một cách gián tiếp thông qua các hiện tượng. Ở đây Dịch học chọn sấm sét và gió bão, chỉ cái không gian bao la trên đầu con người.
Bốn hình tượng: biển – đất và sấm – gió đủ để vẽ nên sinh cảnh của con người lúc ấy.
Từ 8 hình tượng của tự nhiên người xưa đã nén thông tin tạo thành 8 quẻ của Dịch học “tự nhiên”, tức Dịch học tiên khởi trước cả Dịch học nút số. Dịch học tự nhiên là tư duy của người Việt cổ hàng chục vạn năm cho tới khi được Dịch học nút số thay thế.
Hình tượng của Dịch lý tự nhiên sau đã tạo thành 8 quẻ (Bát quái):
– Trời tạo thành quẻ Kiền hay Kiện.
– Đất tạo thành quẻ Khôn hay Xuyên.
– Mặt trời hay ban ngày tạo thành quẻ Ly hay La.
– Mặt trăng hay ban đêm tạo thành quẻ Khảm hay Cống.
– Biển cả tạo thành quẻ Đoài hay Đoạt.
– Đất liền hay đại lục tạo thành quẻ Cấn hay Căn.
– Sấm sét tạo thành quẻ Chấn hay Thìn.
– Bão gió tạo thành quẻ Tốn hay Toán.
Dịch học hình tượng là Dịch học thô sơ. Sau này khi khối tri thức lớn thêm, đầu óc càng ngày càng mở mang và khi con người đã “chất biến” thì Dịch học cũng đổi thay. Dịch học nút số thay thế Dịch học tự nhiên. Hình tượng trở thành Dịch tượng với các thông tin chứa ở trong sâu xa và trừu tượng hơn.
Các hình tượng của Dịch lý tự nhiên đã cho chúng ta các thông tin về sinh cảnh lúc ấy:

Nơi sinh sống của cộng đồng người đã phát minh ra Dịch học là vùng ven biển.

Nơi đất liền với biển, từ cảnh quan cho đến sự cung ứng thực phẩm hàng ngày đều đến từ một môi trường kép “biển và đất”, từ đó mới sinh ra lưỡng nghi “Đoài và Cấn”. Quẻ Cấn còn được coi là tượng trưng cho “núi”. Việt ngữ có từ kép “khuất núi” để chỉ sự chết. Ý nghĩa này bắt nguồn từ việc mặt trời lặn ở hướng Tây. Với ý này ta thu được thông tin: người “tác” Dịch sống ở nơi phía Tây là núi và phía Đông là biển.
Thực vậy, chỉ có sống ở nơi ven biển mới có thể nhìn thấy đường “chân trời” nơi mút tầm mắt, từ đó nảy ra ý niệm: trời như cái bát úp trên mặt đất, chân trời là nơi cái miệng chén đặt trên mặt đất. Vũ trụ quan đơn sơ này chính là khởi nguyên của “trời tròn đất vuông” là ý niệm cơ bản trong Dịch học.
Xét như thế ta khẳng định Dịch học không thể ra đời ở vùng Thiểm Tây – Sơn Tây, cái nôi của Hán tộc, vì đấy là vùng đất nằm sâu trong đất liền. Ở nơi mà chỉ có cát với cỏ thì làm sao có thể tưởng tượng ra cặp lưỡng nghi Đoài và Cấn?

Cặp hình tượng “sấm sétgió bão” chỉ ra rằng cộng đồng người đã sản sinh ra Dịch học sống ở nơi mà mưa bão, sấm sét là chu kỳ lặp đi lp lại hàng năm.

2 “thiên tượng” này phải là một nếp hằn sâu đậm trong đầu óc người cổ thì nó mới có thể được cấp cho “tính đại biểu” của phần không gian hẹp trên đầu con người, tức là 1 lưỡng nghi của Dịch học. Sấm và bão ngoài sự hoành tráng vốn có nó còn là sống còn của cư dân nông nghiệp sau này vì sấm luôn kèm với mưa, mà mưa là yếu tố quyết định của canh tác lúa nước. Người Việt đã tổng kết “nước – phân – cần – giống” đủ biết mưa quan trọng như thế nào trong đời sống. Mưa bão sấm sét là một sự liên hoàn luôn đi với nhau nên thành 1 lưỡng nghi của Dịch học: Chấn và Tốn.
Lại thêm một khẳng định: quê hương của Dịch học không thể ở ngoài vùng “Châu Á gió mùa” vì chỉ ở vùng này Chấn và Tốn mới có tính chu kỳ và ảnh hưởng sâu sắc trên cuộc sống con người. Sơn Tây – Thiểm Tây, cái nôi của Hán tộc, rất ít mưa và hầu như không có sấm sét là hiện tượng sinh đôi của mưa bão, thử hỏi làm sao có thể tưởng tượng ra Chấn với Tốn?
Tổng kết thông tin trong bài viết này ta có: Dịch học đã ra đời ở Việt Nam. Cụ thể hơn là ở vùng đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, nơi mà phía Đông là biển, phía Tây là núi. Nơi mà hằng năm gánh không biết bao nhiêu là bão gió – sấm sét. Nơi mà bên Đông có rồng, bên Tây có tịnh, hướng Bắc (hướng của Dịch lý, tức hướng Xích đạo) có hổ và hướng Nam (xưa) có đầy thuồng luồng như đã chép trong truyền thuyết và trên trời nhiều hạc, mặt đất đầy hươu nai.
Riêng về loài nai thống kê khảo cổ học cho biết ở đất Việt cách nay vài ngàn năm hươu nai là loài thú săn chiếm tới trên 50% trong tổng số thú bắt được. Cá biệt có nơi xương hươu nai chiếm tới trên 75%. Vì điều này chúng ta hiểu được tại sao Dịch học nút số dùng số 6 là lục hay lộc, tức con nai, tượng trưng cho mặt đất nơi mình sinh sống. Ở Thiểm Tây – Sơn Tây có nai hay lộc nhiều như thế hay không?
Tớí đây ta có thể tạm kết về Dịch học hình tượng. Dịch học hình tượng là một hệ thống gồm:

  • 8 hình tượng tự nhiên: Trời – đất, mặt trời – mặt trăng, biển cả – đất liền và sấm sét – gió bão.
  • 6 chữ nguyên hình (điểu thú văn): Hạc – lộc – hổ – sấu – long – tịnh.

Và các hình tượng đặc biệt:

  • Mặt trời: là nguồn sáng, cũng là nguồn sống được coi như biểu tượng của đấng tối cao và được nhân cách hóa thành ông trời.
  • Con người: là trung tâm của vũ trụ nơi xuất phát mọi giá trị.
  • Biểu tượng bộ phận sinh dục nam, người Viêt gọi là “nõn” hay “lõ”, người Chăm gọi là “Linhga”.
  • Biểu tượng bộ phận sinh dục nữ, gọi là “nường” hay “lường”, người Chăm gọi là “Yoni”.

Linhga và Yoni chính là biểu tượng xưa nhất của Âm và Dương, được coi như một biểu tượng tôn giáo trong các nền văn hoá Chăm và Khơme cổ. Người Việt xưa vẫn có tục rước “nõn- nường”. Sử sách Trung Hoa chép: Chu Công đã cấm tục thờ sinh thực khí, tức “nõn-nường” trong ngôn ngữ Việt hiện nay. Linhga và yoni đã được xác định chính là Âm và Dương trong 2 danh từ “âm hộ” và “dương vật”, tức bộ phận sinh dục nữ và nam.
Như vậy qua bài viết này ta thấy Dịch học hình tượng là khởi nguyên của Dịch học, nền Dịch học ra đời từ khi con người còn chưa biết đến chữ, dù là loại chữ “kết thằng” cổ xưa, và nó đã đồng hành cùng con người cả trăm ngàn năm. Cùng với tiếng nói hay “điều – tiếng”, Dịch học tự nhiên đã trở thành cái nền của tư duy, khám phá, ứng dụng và truyền thông. Dịch học hình tượng là căn đế của một nền văn minh vô cùng rực rỡ nhưng đang tạm thời bị vùi lấp và cũng đang dần toả sáng./.