Sử thuyết Hùng Việt, chặng đường hơn 16 năm

Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới.

Văn nhân Nguyễn Quang Nhật.

Năm 2007 tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật, lần đầu tiên hoàn thành bộ Sử thuyết họ Hùng trên blog của mình. Sử thuyết họ Hùng hình thành theo tư tưởng của cố Giáo sư Lương Kim Định về đóng góp của người Việt đối với nền văn hóa lịch sử phương Đông, nhưng Sử thuyết họ Hùng đã tiến một bước dài hơn, nhận định sâu sắc và đột phá hơn. Đặc biệt Sử thuyết họ Hùng đã đặt ra vấn đề về “vụ án” tráo sử tầm cỡ thế giới giữa Hán sử và cổ sử Việt.

Bộ Sử thuyết họ Hùng đưa ra một cách nhìn hoàn toàn khác về quá khứ của người Việt, từ thời hồng hoang cho tới thời Lý thế kỷ 11. Hơn 4000 năm lịch sử của người Việt bị đánh tráo đã dần lộ ra. Lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt sao có thể dùng vải thưa che khuất được.

Cùng với Sử thuyết họ Hùng là tác phẩm Dịch học họ Hùng của cùng tác giả Nguyễn Quang Nhật. Dịch học là nền tảng văn hóa xã hội của trời Đông, là ánh sáng soi đường cho người Việt đi lên trong quá khứ, và nay lại là chìa khóa mở ra những cánh cửa tìm về nguồn cội. Một sử quan bất ngờ và đột phá, một phương pháp nghiên cứu sử độc đáo, sâu sắc, đó là điểm bắt đầu của Sử thuyết Hùng Việt.

Thế nhưng, Sử thuyết họ Hùng ban đầu được công chúng tiếp nhận với một sự ngờ vực đáng kể, có thể do nó quá đột phá, nhưng cũng có thể do nó còn đang cần thêm nhiều chứng thực hơn nữa. Mặt khác, những năm đó là thời kỳ nở rộ của “bách gia chư tử” đối với vấn đề nguồn gốc người Việt. Những trường phái cổ sử khác nhau đã hình thành với không ít những người theo đuổi. Do đó, số người hiểu được Sử thuyết họ Hùng khi đó rất ít. Số người từ hiểu và có thể đi đến hành động lại càng ít hơn. Một trong số những người đó là Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu.

Được sự gợi ý của Sử thuyết họ Hùng, với điều kiện tiếp xúc thực tế ở Việt Nam, tác giả Bách Việt trùng cửu đã thử tìm những minh chứng cho Sử thuyết qua nguồn tư liệu lịch sử ít ai dám dùng. Đó là các hoành phi, câu đối, các truyền thuyết, các thần tích, lễ hội vốn rất đặc sắc, phong phú ở Việt Nam. Những phát hiện bất ngờ nhưng lại chính xác đã được chiêm nghiệm ra. Mỗi cánh cửa hé mở thì sự thật lại càng sáng tỏ hơn.

Những suy nghĩ, khám phá của mình đã được tác giả Bách Việt trùng cửu chia sẻ từng bài trên blog cá nhân. Tới năm 2015, những bài viết tản mạn đã được tập hợp trong 18 chương sách “Bước ra từ huyền thoại, lịch sử nước Nam qua truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian”. Lịch sử của quốc gia, của dân tộc không thuộc về riêng ai. Các sử gia chép sử, các nhà văn hóa mô tả sử,…

Đồng thời, Bách Việt trùng cửu cũng đã biên tập lại các bài viết trên blog của tác giả Văn Nhân thành 2 tập sách là Sử thuyết Hùng Việt và Dịch học Hùng Việt. Cùng với đó là cuốn Văn minh Hùng Việt, gồm những bài viết của cả 2 tác giả về những vấn đề văn hóa, dân tộc, hiện vật khảo cổ, thư tịch từ góc nhìn của Sử thuyết Hùng Việt. Bộ 4 cuốn sách trên đã trở thành “kinh điển” của Sử thuyết Hùng Việt, cho dù không hề có cuốn nào trong số đó được xuất bản một cách chính thức.

Số bản in “Tứ kinh Hùng Việt” cho tới giờ ước đạt 2000 bộ, đã chuyển đến tay bạn đọc gần xa. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, những hình thức truyền thông khác đã được áp dụng. Năm 2016 trang Hùng Việt sử quán được lập dưới dạng một trang trên Facebook. Trang Hùng Việt sử quán cũng như 2 blog của 2 tác giả Văn nhân và Bách Việt trùng cửu hoạt động theo nguyên tắc không vụ danh, không vụ lợi, sẵn sàng tranh luận khoa học nhưng tôn trọng các ý kiến góp ý, tôn trọng bạn đọc. Trên con đường tìm về nguồn cội, mọi manh mối, dấu vết đều là đáng quý.

Nhờ những hoạt động nghiên cứu và chia sẻ tích cực này mà trang đã nhận được sự ủng hộ của khá đông đảo bạn đọc. Sau hơn 1 năm, lượng người theo dõi trang đã đạt hơn 1 vạn, nhưng con số này hầu như duy trì cho tới nay. Nó cho thấy sự kén chọn bạn đọc đối với nội dung của Sử thuyết Hùng Việt.

Một cây làm chẳng nên non… Sử Việt bao la, sức một người chỉ như giọt nước trong biển lớn. Năm 2017 Nhóm Đền miếu Việt được thành lập trên nền tảng Facebook để làm nơi chia sẻ giữa nhiều người cùng mối quan tâm đến tổ tiên, đến quá khứ, đến tín ngưỡng của người Việt. Đồng sáng lập nhóm đã có thêm tác giả thứ ba là Nguyễn Đức Tố Huân. Trên cơ sở điền dã di tích thực tế ở khắp các vùng miền đất nước, nhóm Đền miếu Việt trở thành một nơi chia sẻ tư liệu hình ảnh và kiến thức rất phong phú về các đình đền miếu mạo, lý giải các sự tích, tín ngưỡng thờ cúng của người Việt.

Sử thuyết Hùng Việt lúc này đã đi vào văn hóa, được kiểm chứng qua các di tích, và cùng đồng thời được làm sâu sắc hơn, chi tiết hơn. Từng mảnh ghép của bức tranh lịch sử dân tộc dần dần được xếp đặt vào đúng chỗ. Quá khứ người đã ngày càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.

Hoạt động của nhóm Đền miếu Việt đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi của nhiều người. Tới nay nhóm đã có trên 17 ngàn thành viên. Những vấn đề, những mối quan tâm khác nhau cùng được chia sẻ, trao đổi qua nhóm. Đó là tiền đề cho những cuốn sách được xuất bản một cách chính thức.

Cuốn sách đầu tiên của Nhóm Đền miếu Việt là cuốn “Châu trưởng Đặng Thiện Quang và di tích đình làng Lý Đỏ” do nhà xuất bản Dân trí xuất bản năm 2019. Tuy là một cuốn sách nhỏ, về 1 di tích cụ thể nhưng đây là lần đầu tiên luận điểm nhìn nhận cơ bản của Sử thuyết Hùng Việt về một giai đoạn lịch sử cụ thể được xuất bản một cách chính thức.

Những thành viên nòng cốt của nhóm Đền miếu Việt lúc này đã mở rộng, đặc biệt có sự tham gia của sư thầy Thích Tâm Hiệp, một người tu hành chính thức. Qua kinh nghiệm xuất bản đầu tiên, nhóm đã quyết định “đi lại từ đầu”, bắt đầu từ những vị vua Hùng đầu tiên của thời dựng nước.

Với niềm kính ngưỡng tiên tổ, biết ơn công đức của tiền nhân, cuốn “Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo” của 3 tác giả Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân đã ra đời năm 2020. Lần xuất bản đầu được nhà sách Đông Tây ủng hộ phát hành, với số lượng khá khiêm tốn là 500 bản. Tuy nhiên, cuốn sách đã nhanh chóng được tái bản thêm 500 bản nữa, rồi lại được tái biên phát hành vào năm 2022 với số bản in lên tới 5000 bản. Lần in này có lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Thọ Lạc, Ban văn hóa trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

“Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo” là một công trình khảo cứu giá trị và độc đáo vì bên cạnh việc giới thiệu các tư liệu ngọc phả gốc về Hùng Vương, cuốn sách còn đưa ra phân kỳ toàn bộ thời đại Hùng Vương với 18 triều đại, liên kết với những di tích đền miếu còn tới nay. Sử thuyết Hùng Việt đã được giới thiệu trong cuốn sách này một cách tương đối tổng quát, có cơ sở và được xuất bản chính thức.

Cùng với việc xuất bản, nhóm Nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt đã tổ chức và tham gia một loạt các hoạt động truyền thông về cuốn sách. Đó là buổi ra mắt sách tại nhà sách Đông Tây. Là cuộc nói chuyện với hàng trăm độc giả ở Quảng Trị. Hay chia sẻ với Hội đồng Lưu tộc trong cuộc hội ngộ ở Việt Trì…

Nối tiếp thành công bất ngờ của cuốn “Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo”, Nhóm đã biên soạn và xuất bản cuốn khảo cứu thứ hai là “Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn”. Cuốn sách đề cập đến nhân vật nổi tiếng trong cổ sử Việt là Kinh Dương Vương, với đầy đủ những sự tích, di tích và nhận diện thời kỳ đẻ đất đẻ nước này.

Việc xuất bản chính thức các nội dung cụ thể vận dụng Sử thuyết Hùng Việt không chỉ hướng tới đông đảo bạn đọc hơn, mà còn thu hút được sự chú ý của các cơ quan báo chí. Nhóm Đền miếu Việt đã góp hàng chục bài báo có chất lượng về văn hóa và lịch sử cho báo in là báo Lao động cuối tuần và báo số là Tạp chí Công dân & Khuyến học.

Song song với các sách in, Hùng Việt sử quán còn biên soạn lại các nội dung thành từng tập sách nhỏ và cho công bố ở dạng ebook, phát hành miễn phí cho bạn đọc. Đó là các cuốn ebook Hùng Vương truyền sử diễn nghĩaViệt điện tứ linh và gần đây nhất là cuốn Lịch sử Hùng Vương tân biên và vịnh sử. Hình thức ebook giúp việc phát hành và truyền tải nội dung đến bạn đọc được nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Đã qua hơn 16 năm kể từ khi Sử thuyết Hùng Việt ra đời, những gì làm được tới nay đã đủ chứng tỏ sức sống và tính đúng đắn, khoa học của Sử thuyết. Sử thuyết Hùng Việt không còn là những biên khảo lịch sử trên giấy nữa, mà đã đi giải quyết nhiều vấn đề thực tế về văn hóa, khảo cổ, dân tộc học… bởi Sử thuyết vốn sinh ra từ thực tế, vì cái chân thực của lịch sử, của quá khứ tổ tiên người Việt.

Trước mắt còn rất nhiều việc phải làm bởi sử Việt mênh mông, lớp bụi mờ còn dày đặc. Kết quả đạt được tuy có nhưng chưa phải là lúc thành toàn. Sự trợ giúp, ủng hộ, tham gia chung tay góp sức của bất kỳ ai đều là đáng quý, đáng trân trọng. Cái đáng quý nhất là mỗi người Việt sẽ có được nhận thức đúng về quá khứ vẻ vang của tổ tiên mình mà tự tin hướng tới tương lai.

Hồn sông núi nước Nam còn mãi
Để hôm nay ta lại là ta
Xé mây trời sáng bao la
Anh linh tiên tổ, Hùng ca đời đời.

Rằm tháng 6 năm Quý Mão 2023
Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách ebook LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG Tân biên & Vịnh sử

Lời nói đầu

Lịch sử các vua Hùng dựng nước luôn là câu hỏi nhức nhối đối với bất kỳ người Việt nào muốn tìm về nguồn cội của mình. Hàng ngàn năm lịch sử với 18 triều đại Hùng Vương đâu phải là một chớp mắt. Vậy thời đại Hùng Vương thực sự đã diễn ra như thế nào? Chắc chắn, trên bước đường chập chững lúc mới nên hình nước non đã xảy ra bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thách thức. Những bước tiến nào mà xã hội người Việt đã trải qua trong suốt hàng ngàn năm đó? Cha ông người Việt đã làm gì để đã vượt qua những thách thức đó?

Cuốn sách tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương thành một mạch xuyên suốt từ khi mở trời mở đất cho đến vị vua Hùng cuối cùng qua những sự kiện, những mốc phát triển chính. Cuốn sách không tham vọng khảo chứng lịch sử, mà là chia sẻ sự nhìn nhận có được qua việc tìm hiểu quá khứ từ những dữ kiện và góc nhìn khác nhau. Đó là việc đối chiếu các nguồn tư liệu thành văn của Hoa sử và Việt sử. Là những thông tin chắt lọc từ những sự tích thờ cúng, lễ hội cho những anh hùng, những nhân vật trong suốt chiều dài sử Việt. Là sự suy ngẫm trước những hiện vật khảo cổ biết nói đã được phát hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực trời Đông. Là góc nhìn địa văn hóa, sử văn hóa từ những dấu vết ngôn ngữ, triết học cổ.

Trên bìa những cuốn lịch sử Hùng Vương xưa (ngọc phả Hùng Vương) được soạn bởi các bậc hàn lâm học sĩ đương thời có đề đôi câu đối:

Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục mệnh thi.

Tức là:

Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử
Thấy rành như vẽ mới làm thơ.

Xem kỹ những gì đã biết về các vua Hùng, thấy sự việc rõ rành thì tất có cái hứng để làm thơ, để ca ngợi công đức tiền nhân, để cảm sự nỗ lực của người Việt dựng nên nền tảng văn hóa xã hội ngàn đời cho con cháu. Sau phần biên diễn lịch sử là những bài thơ vịnh sử xuất phát từ những cảm hứng này.

18 vương triều Hùng bất diệt. 3000 năm xã hội Việt phát triển qua 4 giai đoạn từ thấp đến cao. Không gian lịch sử bao trùm khắp trời Đông. Những vị anh hùng đã hóa thần trong sử Việt. Đó là những gì cuốn sách muốn gửi gắm đến các bạn đọc ngày hôm nay.

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách phát hành online bởi Hùng Việt sử quán.

Bất kỳ sự sao chép, in ấn nào từ tác phẩm với mục đích thương mại đều phải được phép của tác giả.

Link tải sách:

https://drive.google.com/file/d/1OmKTZHLxNdEhZaEcLS7Rfqu1pop4tpAx/view?usp=sharing

Mã QR

Liên hệ để nhận mật khẩu theo:

    Facebook: https://www.facebook.com/hungvietsuquan

    Email: bachviet18@yahoo.com, 

    Phone, Zalo: 0559551003.

Mục lục

Lời nói đầu 

LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG
    Thời thần thoại
    Tam Sơn Hùng Vương Thánh Tổ
    Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương
    Động Đình Lạc Long Quân
    Chử Đạo Tổ
    Long Khuyển Bàn Hồ
    Âu Cơ và Sùng Lãm
    Trị bình kiến phu
    Đông Chu phong vũ
    An Dương Vương
    Tần Việt nhân duyên
    Vạn Xuân Triệu Vũ Đế
    Triệu Việt Vương
    Hậu Lý Nam Đế
    Trưng Lữ Vương
    Vương Mãn
MẤY BÀI THƠ SỬ
    Thấy rành như vẽ mới làm thơ
    Ngày giỗ Tổ
    Sơn Tinh
    Tản Viên
    Sơn Tinh – Hạ Vũ
    Bốn ngàn năm
    Nhớ Hằng Nga
    Hiếu với trời đất
    An Dương Vương
    Phù Đổng Thiên Vương
    Phong thần
    Nước Việt Thường
    Lão Tử Cổ Loa
    Cổ Loa thành
    Ai oán Mỵ Châu
    Lý Bôn
    Chuyện Nam Việt
    Từ Nam Việt đến Đại Việt
    Trưng Triệu
    Đất nước tôi

Chuyện chưa bao giờ cũ…

Có nhiều người thấy tôi viết chuyện đền miếu người Việt mà lại cho rằng đó là lấy sử Tàu làm sử ta. Thế nào mà vua Thuấn đi cày đồng Lịch Sơn lại là ở Sơn Dương, Tuyên Quang. Vua Vũ trị thủy lại là Tản Viên Sơn Thánh ở sông Đà? Tại sao Chử Đồng Tử lại là Hậu Nghệ cùng Hằng Nga bay vào cung trăng? Tại sao Phù Đổng Thiên Vương lại là Na Tra thái tử đi tắm ở hồ Tây? Tại sao Lang Liêu lên núi cầu tiên lại là Thiên tử Chu đi tuần hành? Tại sao Lão Tử lại khiển thần Kim Quy đến giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa? Tại sao Trọng Thủy lại là bố của Tần Thủy Hoàng? Tại sao Triệu Đà lại là vua Việt ở Thái Bình? Tại sao Sĩ Vương là Nam Giao học tổ? Tại sao Cao Biền lại được thờ là Cao Vương trấn Nam Thăng Long?…

Xin thưa, tất cả đó đều không phải sử Tàu, mà là sử ta chính cống. Là sử mà cha ông ta đã trân trọng gìn giữ, ghi lại bằng máu của bao nhiêu đời nay, lưu truyền từ cha cho con, từ ông cho cháu qua những câu chuyện kể, những di tích thờ phụng các bậc anh hùng hộ quốc tí dân ở khắp các nơi, khắp các phong tục tập quán lẫn trong khắp suy nghĩ và hành động văn hóa của mỗi người Việt.

Không phải vì nghìn năm Bắc thuộc mà vua Minh Mạng lại lập miếu Lịch Đại đế vương để thờ từ Phục Hy, Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, Hạ Võ, Thương Thang, Chu Văn, Chu Vũ, lập Võ miếu thờ Thái công Khương Tử Nha, lập Văn miếu thờ Sĩ Vương tiên. Làm gì có chuyện những trí thức người Việt vốn quán thông Tứ thư Ngũ kinh mà không biết ai là tổ, ai là giặc để lập miếu đường chính thống thờ phụng.

Ngay trong dòng đầu tiên của cuốn Thiên thư Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả, vị Thư ký của vua Lê Đại Hành đã viết:

Xưa tại Đại quốc Trung Hoa, đô đóng ở thành Thiên Thọ Bắc, lăng phần mộ tổ trời táng ở núi Côn Lôn, cùng năm hồ, biển lớn, núi Nam hội chầu chính đường. Ban đầu là từ cháu ba đời Viêm Đế dòng Thần Nông Thị, từ Hy Hoàng tới đó, truyền ngôi quốc bảo chính thống Nam Bang, để lại cho con cháu đời sau vậy.”

Nước ta là Đại quốc Trung Hoa, mộ tổ Hùng Vương ở núi Côn Lôn… Vua Lê Đại Hành liệu có thể nhầm không? Xin thưa, không có gì nhầm ở đây cả. Nước ta thực sự chính là Trung Hoa của ngàn năm trước. Núi Côn Lôn là dải Hoàng Liên sừng sững cao vợi với mộ tổ vua Hùng còn đó…

Nghìn năm Bắc thuộc không đồng hóa người Việt. Mà nghìn năm Bắc thuộc đã đánh tráo lịch sử Hoa Việt thành Hán sử. Vốn Hán tộc là đám Nhung Địch phương Bắc, được thời chiếm Trung Hoa, thủ tiêu đi quá khứ thật vốn có của người Việt, cắt đứt sợi dây nối với cội nguồn người Việt. May mắn sao, anh linh tiên tổ còn trong đền miếu, trong tín ngưỡng của nhân dân. Lần theo đầu mối này chính là con đường về với bản ngã của người Việt, để xé đám mây mờ che khuất 5000 năm lịch sử nơi trời Đông.

Nhắc lại chuyện này, để đừng quên quá khứ, đừng bị che mắt bởi những định kiến do Tàu, do Tây nhồi vào óc nhiều thế hệ trong mấy trăm năm qua. Dân muốn biết sử ta, tất nhiên không phải “tra Google” do Tây do Tàu dựng nên, mà phải tra những gì cha ông để lại trong đền miếu, trong văn hóa dân gian.

ĐỐI CHIẾU HUYỀN SỬ VIỆT VÀ HOA SỬ

Những công trình của Hùng Việt sử quán năm Nhâm Dần 2022

Năm Nhâm Dần 2022 đối với Hùng Việt sử quán là năm hoạt động có nhiều khó khăn, nhưng đồng thời đây cũng là năm Hùng Việt sử quán và Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền Miều Việt đã cho ra mắt bạn đọc nhiều công trình nghiên cứu về cổ sử và tín ngưỡng Việt bằng cả việc xuất bản sách và đăng báo.

5 cuốn sách của Hùng Việt sử quán năm 2022

☀️ HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ NGỌC PHẢ SƯU KHẢO

Cuốn sách là một công trình khảo cứu quan trọng, giải mã toàn bộ 18 triều đại Hùng Vương qua 4 giai đoạn phát triển kéo dài trên 3000 năm.

☀️ HÙNG VƯƠNG TRUYỀN SỬ DIỄN NGHĨA 

Sách ebook viết dưới dạng sử ký, theo dòng thời gian từ khi Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ đến khi Trưng Vương lên ngôi Lạc Hùng chính thống.

☀️ VIỆT ĐIỆN TỨ LINH 

Sách ebook nhận chân thần điện Việt qua các bộ Tứ phủ, Tứ linh, Tứ bất tử, Tứ trấn và Tứ pháp.

☀️ DI SẢN VĂN HÓA ĐÌNH ĐỀN MẠO PHỔ

Một ngôi làng nhỏ nhưng có tư liệu vô cùng độc đáo về giai đoạn Hậu Hùng Vương khi nhà Triệu họ Lê lập nước Nam Việt. 

☀️ KINH TRIỀU BẢO LỤC – NAM THIÊN THÁNH TỔ TẢN VIÊN SƠN 

Là những ghi chép vô giá và là đại sử thi về thời kỳ Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh mở nước nơi Ngũ Lĩnh – Động Đình.

9 loạt bài nghiên cứu của Hùng Việt sử quán năm 2022

Không trùng lặp với nội dung của các cuốn sách xuất bản, các bài báo do Hùng Việt sử quán biên viết được công bố thành nhiều kỳ trên chuyên mục Kết nối Xưa&Nay của Tạp chí điện tử Công dân & Khuyến học.

Chủ đề 1. CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN VÀ CHỮ  VIẾT CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ

Cuốn sách đầu tiên của người Việt là cuốn “Vô tự Thiên thư” do Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh có được vào thời lập quốc. Chữ viết hoàn chỉnh của người Việt là chữ Kim văn – Khoa đẩu, sử dụng trên các đồ đồng từ cách nay trên 3000 năm.

Cuốn sách đầu tiên của người Việt thời mở nước

Chữ viết của người Việt thời Hùng Vương

Chủ đề 2. TAM LANG LONG VƯƠNG

Tín ngưỡng thờ ba vị thủy thần thời Hùng Vương chính là thờ vua cha Lạc Long Quân và những người anh em cùng bọc đã đi khai phá miền Động Đình ven sông biển. Tín ngưỡng thờ Tam Lang Long Vương trải rộng khắp miền Bắc Việt, phổ biến tới tận vùng Nghệ Tĩnh. 

Tam Lang Long Vương – những người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển

Chủ đề 3. QUỲNH VIÊN VÀ CHỬ ĐỒNG TỬ

Dấu vết nơi tu tiên của Chử Đạo Tổ còn lưu đậm trên núi Quỳnh Viên ở Hà Tĩnh.

Vãn cảnh Quỳnh Viên, nơi Chử Đồng Tử học đạo bất tử

Chủ đề 4. CỔ LOA THÀNH TRÊN LẠC QUỐC

Những di vật khảo cổ các lớp thành Cổ Loa và truyền thuyết về Phò mã Lý Thân của Tần Thủy Hoàng cho thấy lớp thành chính của Cổ Loa được xây dựng dưới thời nhà Tần. 

Cùng về thăm lại Cổ Loa thành

Đọc lại lịch sử Đức Thánh Chèm Lý Ông Trọng

Chủ đề 5. VIẾT NÊN SỬ DAO

Tín ngưỡng và di văn về Bàn Hồ của người Dao đã viết nên cuốn sử của nhóm người Miêu Dao từ Bàn Cổ – ông Tiết – Thành Thang – Bàn Canh tới Sở Hùng Vương.

Viết nên sử Dao (phần 1)

Viết nên sử Dao (tiếp theo và hết)

Chủ đề 6. TỨ BẤT TỬ NƯỚC NAM

Tứ bất tử là khái niệm tu tiên đắc đạo, được chia thành 4 cấp độ khác nhau theo dòng lịch sử.

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài 1)

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài 2)

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài cuối)

Chủ đề 7. HÙNG VƯƠNG TỨ HIẾU

Bốn tấm gương hiếu thời Hùng Vương là Hùng Hi Vương Đế Thuấn, Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử và Lang Liêu.

Hùng Vương tứ hiếu Bài 1: Hùng Hi Vương Thánh Tổ

Hùng Vương tứ hiếu Bài 2: Tản Viên Sơn Thánh

Hùng Vương tứ hiếu Bài 3: Chử Đồng Tử

Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu

Chủ đề 8. HÌNH TƯỢNG TIÊN TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT

Từ những vị Tiên Mẫu trong truyền thuyết thời Hùng Vương, tới những Tiên nhân trên các gương đồng thời Tần Hán, sang những vị Tiên tốt đẹp thời Tùy Đường cho đến những Chư Thiên của Hindu giáo. 

Những vị Tiên nữ Việt thời Hùng Vương

Những vị tiên thời hậu Hùng Vương

Những vị tiên thời Trung đại

Chủ đề 9. SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC VÀ HUYỀN SỬ THỜI HÙNG VƯƠNG

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước là lịch sử thật sự của trời Đông từ ông Bàn Cổ – Mụ Dạ Dần khai thiên lập địa cho tới vua Dịt Dàng – Thục An Dương Vương về đất Kinh kỳ kẻ chợ.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền

Vì sao người Việt cần học lịch sử?

Cây có cội, nước có nguồn. Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới.

Tượng Văn Tuyên Vương Khổng Tử ở chùa Bổ Đà, Việt Yên, Bắc Giang.

Trong cuốn An Tĩnh cổ lục, Hippolyte Le Breton, học giả người Pháp của Viện Viễn Đông bác cổ từng viết về người Việt: “Cái gọi là sự tiến bộ chỉ là truyền thống đang đi lên. Nếu không có những truyền thống tốt đẹp, con người sẽ bị lôi cuốn theo bản năng xấu. Nước Đại Việt giàu về quá khứ và các bạn nên hiểu rằng chính người chết cai trị người sống. Những đức tính tốt mà chúng ta có, chúng ta nhờ cha mẹ ông bà mà có. Hãy kính thờ vong linh tổ tiên bằng cách phổ biến lịch sử của tổ tiên”.

“Chính người chết cai trị người sống” nghĩa là các bậc tiền nhân đã khuất mới là những người chi phối tinh thần và tư tưởng của chúng ta ngày nay. Xã hội ngày nay là kết tinh của quá khứ. Không học lịch sử để biết về quá khứ, làm sao có thể hiểu được những gì đang diễn ra ngày hôm nay.

Khổng Tử, vị thánh nhân được tôn là người thầy của muôn đời (Vạn thế sư biểu) bởi qua những tác phẩm kinh sách để lại ông đã truyền dạy chúng ta cách sống, cách làm người trong xã hội. Sách Luận ngữ ghi lời của đức Khổng Tử: “Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời. Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao”. 

Cùng với Kinh Lễ, Kinh Thi thì Kinh Thư, tức là sách lịch sử thời cổ đại, là một trong Ngũ kinh mà bất cứ người đi học nào cũng phải biết. Những câu chuyện đặc sắc từ Kinh Thư như chuyện thịnh thời Nghiêu Thuấn, những gương hiếu thảo, những hành động dũng cảm, những cách xử trí thông minh… được chọn lọc lưu truyền trong kinh sách. Những điển hình này có giá trị giáo dục, răn dạy, hướng người học đến một nhân cách cao đẹp, mà Khổng Tử gọi là mẫu “người quân tử”: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Học lịch sử không chỉ là để tu dưỡng bản thân, ứng xử trong gia đình, mà còn là để giúp nước và ra hội nhập với thế giới.

Học lịch sử đối với người Việt lại càng quan trọng bởi mở sách sử nước ta ngày nay xem thời kỳ cổ sử thấy thật mông lung. Hàng loạt câu hỏi về tổ tiên, về cha ông người Việt luôn nhức nhối qua từng trang huyền thoại. Cha Rồng, mẹ Tiên là ai? 18 đời Hùng Vương là thế nào? An Dương Vương có thật hay không? Triệu Đà là người Nam hay người Bắc? Lý Bôn, Triệu Việt Vương – những vị đế vương đầu tiên của nước Nam có thật hay không?… Người Việt có thể yên giấc được hằng đêm mà không rõ mình từ đâu mà ra, mình là ai hay không?

Sách sử quốc gia là vấn đề trọng yếu mà mỗi một triều đại khi khởi đầu đều phải quan tâm. Vua Minh Mạng từ khi lên ngôi đã cho thu tập các tư liệu từ các nguồn khác nhau về thời đại dựng nước của người Việt và biên soạn thành cuốn Nam Việt Hùng Thị sử ký. Do tính chất đặc biệt của cuốn Sử ký này nên nó được đặt tên là “Hùng Vương Kim ngọc Bảo giám thực lục” và được nhà vua khâm sắc chỉ ban cho cho các quan đứng đầu các bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình, bộ Lễ và phó sứ đoàn để tuân mệnh sử dụng. Hiểu biết đúng về một lịch sử chân xác là nhận thức căn bản cho việc thi hành các nhiệm vụ trong quân đội (bộ Binh), trong quản lý nhà nước (bộ Hộ), trong văn hóa và tín ngưỡng (bộ Lễ) và trong các hoạt động đối ngoại (sứ đoàn).

Trang cuối bản sao chép tay “Hùng Vương Kim ngọc Bảo giám thực lục” lưu tại đền Vân Luông, Việt Trì, Phú Thọ.

Lịch sử Việt cùng những con người Việt đã làm nên 5.000 năm lịch sử hiện đang bị bụi mờ của thời gian và nhân gian che lấp. Một thời gian dài văn hóa Việt bị đứt gãy khi nền văn minh duy lý của phương Tây tràn vào Việt Nam, thay đổi toàn bộ bộ mặt văn hóa từ chữ viết, trang phục, kiến trúc, kỹ nghệ… Sự thay đổi này đã làm cho người Việt ngày nay mất đi mối liên kết với quá khứ, với tổ tiên, dẫn đến những lệch lạc về văn hóa, nhân sinh trong xã hội hiện đại. Trong bối cảnh đó, nối lại dòng linh khí của tiền nhân Việt là việc làm vô cùng cần thiết và việc học, việc tìm hiểu lịch sử là nhiệm vụ cấp bách hơn bao giờ hết với mỗi người dân Việt.

Lịch sử là sự vận động của xã hội đã từng diễn ra trong quá khứ nên một thang lịch sử chính xác là chỗ dựa cho nhận định, phân tích, nghiên cứu của những môn học khác về văn hóa, dân tộc học, tôn giáo học, khảo cổ học, nhân học… Lịch sử đã qua nhưng nó không mất, mà nó đang sống động trong mọi mặt của đời sống xã hội, trong từng phong tục tập quán, nghi lễ, từng kiến trúc, từng vật phẩm, từng cuốn sách xưa cũng như nay. Lịch sử bắt đầu từ quá khứ và tiếp nối đến tương lai. Nếu hôm nay chúng ta chối bỏ quá khứ thì chắc chắn chính chúng ta sẽ bị tương lai chối bỏ, vì lịch sử là dòng chảy thời gian nối tiếp và liên tục không dừng.

https://congdankhuyenhoc.vn/vi-sao-nguoi-viet-can-hoc-lich-su-179220611200109664.htm

Khái luận lịch sử qua Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả

Các vua Hùng đã có công dựng nước“, câu nói của Bác Hồ bên đền Hùng là một đánh giá lịch sử chính xác. Nhưng lịch sử thời dựng nước của các vua Hùng tính từ lúc nào? 4.000 năm lịch sử như cha ông ta từng lưu truyền? Hay 5.000 năm ngang với Tam Hoàng Ngũ Đế Trung Hoa? Hay chỉ “vài ngàn năm” như hội thảo gần đây về thời Hùng Vương mới “kết luận”?…

Ngọc phả Hùng Vương biên soạn qua các thời kỳ là sự ghi chép và hệ thống hóa của chính quyền phong kiến nước ta từ các thần tích và truyền thuyết được dân gian lưu truyền hàng ngàn năm. Hiếm có quốc gia nào trên thế giới mà lại giàu có về huyền thoại và truyền thuyết như nước Nam ta. Những truyền thuyết Việt đã được kể từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những truyền thuyết từ thời khai thiên lập địa khi con người còn đang ăn hang ở hốc cho tới những thời kỳ gần hơn của sử trung đại.

Truyền thuyết Việt không như truyện thần thoại phương Tây, mà là những truyện “cổ tích” thực sự, nghĩa là những vết tích của những gì đã từng xảy ra trong quá khứ xa xưa. Đằng sau mỗi câu chuyện cổ được lưu truyền là lịch sử chân xác của quốc gia, của dân tộc. Lịch sử đã bị lãng quên, bị bôi đen, bóp méo bởi kẻ thù phương Bắc. Truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian là những ký ức lịch sử lưu lại được khi người Việt phải trải qua gần ngàn năm thống khổ cùng cực, lúc nào dao cũng kề cổ. Cộng thêm những hành động đốt sạch, phá sạch, tận diệt, tận xóa vết tích văn hóa văn minh trên đất Việt của không ít kẻ thù đã làm cho việc nhận ra chân lịch sử Việt đúng là thiên nan vạn nan.

Để tìm về cội nguồn và bản ngã dân tộc thì không thể thiếu những truyền thuyết lịch sử rất phong phú lưu truyền trong tín ngưỡng và văn hóa dân gian. Tục thờ thành hoàng là những nhân vật lịch sử từ xưa làng nào cũng có. Những ngọc phả, thần tích kể lại nguồn gốc và công trạng của các thần thánh được thờ phụng có niên gian ghi chép không thua gì những quyển sử chính thống. Những hoành phi câu đối trên cổng đình, trong điện thờ thực sự là những minh văn quí giá, cô đọng, hàm ý súc tích, sâu xa về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Những nét văn hóa trong các lễ hội làng, hội tổng được hình thành trên cơ sở những sự kiện từng xảy ra nên mang trong đó những thông tin lịch sử chân thực.

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam rất đặc biệt. Thần linh của người Việt không phải là những đấng siêu nhiên, tạo ra từ trí tưởng tượng của con người. Thần tiên Việt rất thật, rất người bởi vì họ vốn là những con người thật sự được tôn thờ lên. Công lao, sự nghiệp, đạo đức của họ làm nên tinh thần bất diệt, khiến họ “hóa thần” trong tín ngưỡng và văn hóa dân tộc. Đằng sau mỗi thần tích, mỗi huyền thoại về các vị thần người Việt đều là những nhân vật, những sự kiện có thật từng xảy ra.

Đã có không ít các công trình của những học giả danh tiếng xưa và nay muốn “đọc” lịch sử qua những câu truyện truyền thuyết để tìm lại mấy ngàn năm lịch sử bị khuất lấp. Điều này quả thật không dễ dàng vì muốn vậy phải có dữ liệu để đối chiếu giữa huyền thoại và lịch sử. Trong thời gian trước đây việc này hầu như không thể làm được vì nguồn đối chiếu duy nhất cho các sử gia Việt lại là sách Tàu, tức là sách của chính những kẻ đã cố tình nhào nặn, biến hóa sử Việt. Các sử gia đành chép lại những truyền thuyết dân gian lưu vào sử để đợi đời sau giải mã, tìm lại lịch sử chân thực của dân tộc.

Hãy nghe Hồ Tông Thốc, người viết Việt Nam thế chí, một trong những quyển sử sớm nhất của nước ta, nói về việc này:

Có người hỏi tôi rằng: Bỏ cái lạ giữ cái thường là đạo của thánh hiền, tại sao ông lại câu nệ theo cũ, không nêu rõ lời mới để đổi hẳn thói mê hoặc của đời?

Tôi đáp rằng: … Cho nên những chuyện góp nhặt được đều là lượm lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả ký từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bậc quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Độc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì sẽ rõ ngọc đá, thấy được tiếng vang hình bóng của lịch sử, tôi đâu tự dám cho ý mình là thoả đáng.

Ngày nay những truyền thuyết mang tiếng vang hình bóng của lịch sử đã có những nguồn để đối chiếu và kiểm chứng tin cậy. Trước hết là khảo cổ học, mà một trong những thành tựu đầu tiên của ngành khảo cổ học Việt Nam là xác định sự tồn tại của thời đại Hùng Vương qua văn hóa đồ đồng Đông Sơn huy hoàng. Cùng với những phát hiện khảo cổ, từng chiếc nha chương, từng trống đồng, thạp đồng phát lộ lại càng thấy lịch sử Việt cần được viết lại và những nhân vật từ trong huyền thoại đang dần bước ra, hiện rõ lên trước mắt chúng ta.

Kết hợp những kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại với những dữ liệu dân gian phong phú và nguồn thư tịch văn bản còn lại nay đã cho phép nhìn ra chân tướng cổ sử nước Nam. Việt Nam – suối nguồn của văn minh phương Đông, sự thực ấy đang ngày càng sáng tỏ. Giải mã các truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian lúc này càng trở nên cần thiết cho việc nhìn nhận đúng lịch sử nước nhà. Nhìn lại lịch sử để nhận lại cha ông, nòi giống, nhận lại nền văn hóa huy hoàng mà tiền nhân hàng ngàn năm đổ mồ hôi và xương máu xây dựng và gìn giữ.

Ngọc phả Hùng Vương kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con trai, là tổ của Bách Việt. Cha Lạc Long dẫn 50 người con đi khai phá vùng biển Đông. Mẹ Âu Cơ dẫn 50 người con lên rừng, về đất Phong Châu, lập con cả làm vua, gọi là Hùng Vương. Người Việt ngày nay là con cháu của trăm người con trai đó, tức là một phần của cả dòng họ, đồng bào Bách Việt xưa, cùng chung một nguồn cội họ Hùng.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ”.

Phạm vi nước Văn Lang trên bản đồ ngày nay

Cương vực 15 bộ mênh mông của nước Văn Lang thời Hùng Vương, với Tây giáp Tứ Xuyên (Thục), Bắc tới Hồ Nam (hồ Động Đình?), làm các sử gia nghi ngờ rằng đó là lãnh thổ của cả dòng Bách Việt chứ không chỉ của “nước Việt” ngày nay. Nghi ngờ này thực không có cơ sở vì thời Hùng Vương thì làm gì có “nước Việt” với phạm vi chỉ bó hẹp ở vùng Bắc Bộ như sau này. Truyền thuyết và chính sử đều ghi rõ vua Hùng là vua của cả dòng Bách Việt nên nước Văn Lang rộng lớn, bao trùm cõi Lĩnh Nam là tất yếu.

Nếu nhìn nhận các truyền thuyết lịch sử Việt tách rời khỏi không gian và thời gian mà chúng hình thành sẽ dẫn đến những lệch lạc vô cùng lớn, làm cho những truyện truyền thuyết trở nên không thể hiểu nổi. Khi nhìn bằng “tầm nhìn thời đại” ngày nay thì những chuyện “trâu ma rắn thần” của thời cổ sử bị biến thành không “chích quái” thì cũng là “u linh”, mờ ảo. Thế nhưng, quá khứ xa xôi của người Việt lại nằm chính ở những dòng huyền sử lắng đọng đó. Chối bỏ huyền sử tức là quay mặt lại với quá khứ, với tổ tiên nòi giống.

Người Việt ngày nay là một phần của đại tộc Bách Việt. Điều này thật rõ, rõ ngay từ cái tên gọi. Vì thế lịch sử Bách Việt cũng là lịch sử của người Việt. Sách Hán thư viết: “Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” Bách Việt là một cộng đồng các dân tộc cùng nguồn gốc sinh sống ở phía Nam sông Dương Tử cho tới bán đảo Đông Dương từ thời trước Công nguyên.

Ngọc phả Hùng Vương cũng như những truyền thuyết lịch sử Việt được chép trong Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là thu nhặt những chuyện kể trong dân gian từ thời Lý Trần. Những câu đối, hoành phi trong các đền miếu ngày nay còn giữ lại được phần lớn là từ thời Nguyễn. Có vẻ niên đại của những minh văn này không đủ xa, đủ lâu so với những thư tịch chính sử… được mang từ bên Tàu về. Nhưng giá trị của những tư liệu dân gian này là ở chỗ nó không bị chỉnh lý bởi quan niệm sử chính thống, hay bị bóp nặn theo ý đồ của ai đó. Những thần phả, thần tích địa phương ở nước ta được chép từ quan điểm Bách Việt rõ ràng.

Nhận định lịch sử nước Nam thời cổ đại là lịch sử Bách Việt cho phép giải mã được phần lớn các truyền thuyết lịch sử Việt. Nước Nam của thời đầu Công nguyên có lãnh thổ hoàn toàn không giống với nước Đại Việt thời Lê hay với nước Việt Nam thế kỷ 21 này. Những sự kiện, những nhân vật lịch sử nước Nam thời cổ và trung đại có tầm vóc, phạm vi vượt ra ngoài khuôn khổ lãnh thổ quốc gia ngày nay bởi đó là lịch sử ghi chép theo quan điểm dân tộc Bách Việt trên địa bàn Lĩnh Nam rộng lớn.

Lĩnh Nam chích quái là truyền thuyết của vùng Lĩnh Nam, tức là của cả vùng đất Bách Việt. Giải mã, đối chiếu truyền thuyết và lịch sử của nước Nam không thể chỉ hạn chế ở ranh giới nước Việt ngày nay. Một khi nhìn nhận cương vực lãnh thổ nước Văn Lang thực sự như truyền thuyết và chính sử xưa chép thì những sự kiện như Thánh Dóng đánh giặc Ân đến từ vùng Hoàng Hà hay An Dương Vương từ đất Xuyên Thục đánh Hùng Vương trở nên hoàn toàn có thể về mặt địa lý.

Bên cạnh phạm vi lãnh thổ và thời gian, để hiểu đúng truyền thuyết còn cần lùi cách nhìn nhận lại vào đúng không gian ngôn ngữ văn hóa của thời kỳ mà truyền thuyết được hình thành. Ví dụ từ “cửu trùng” hiểu như ngày nay là “9 tầng” thì sẽ dẫn đến những điều vô lý, không tồn tại. Đúng hơn, xưa lên ngôi vua gọi là lên “ngôi cửu trùng”. Đền Thượng thờ vua Hùng ở Phú Thọ gọi là Cửu trùng thiên điện, không phải nghĩa là điện thờ ở 9 tầng trời, mà là điện thờ Vua, thờ ông Trời. Thành Cổ Loa không phải có 9 vòng thành, mà là tòa thành từng được gọi là “Cửu trùng thành”, nghĩa là thành nơi có Vua. Cửu trùng hay trùng cửutrường cửu là từ mượn âm, dùng để xưng tụng, tung hô với nghĩa như từ “vạn tuế”. Đời vua Hùng Vương 18 không phải là đời vua Hùng cuối cùng, mà ngược lại, 18 là trùng cửu (9×2), là con số chỉ sự trường tồn của thời đại Hùng Vương.

Ngọc phả, truyền thuyết không phải là lịch sử, nhưng nếu truyền thuyết được quy chiếu vào đúng hệ tọa độ không gian – thời gian – ngôn ngữ – văn hóa sẽ trở thành lịch sử thật sự. Một trong những tọa độ căn bản của văn hóa phương Đông xưa là Dịch học, là Hà thư Lạc đồ, là Âm dương Ngũ hành. Hà là trời, Lạc là đất. Hà thư là những cặp số sắp xếp theo phương vị để chỉ 4 phương trời và một phương trung tâm. Do đó Ngũ Lĩnh là 1 ngọn núi tên là Ngũ, tức là ngọn núi ở trung tâm. Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, không phải là nơi có 5 ngọn núi ở bên Tàu. Bát Hải không phải là có 8 cửa biển mà là biển nằm ở phương Tám, tức là phương Đông. Vua cha Bát Hải Động Đình củaThoải phủ trong Đạo Mẫu do vậy không hề xuất xứ từ đầm nước ở Hồ Nam, mà là vị vua của biển Đông, là cha Lạc Long đã dẫn 50 người con xuống khai phá miền duyên hải.

Ngọc phả, thần tích, truyền thuyết Việt không hề “u linh” hay “chích quái” một khi chúng được sọi nhìn bằng “lăng kính” thích hợp. Truyền thuyết là hình bóng của lịch sử. Từ cái bóng đó cái hình cốt lịch sử thật sự có thể được phục dựng nếu có được “hệ quy chiếu” đúng với không gian và thời gian mà lịch sử đã xảy ra.

Một trong những đặc điểm dễ thấy của truyền thuyết lịch sử Việt là khi kể về các nhân vật, dân gian không dùng tên thật của những vị vua này, mà dùng các danh xưng, tên hiệu. Tên gọi Lộc Tục thực ra nghĩa là Lạc tộc, chỉ vị thủ lĩnh đứng đầu tộc Lạc ở phương Nam xưa. Lạc Long Quân cũng nghĩa là vị thủ lĩnh của hai vùng đất Lạc và đất Long của cha Tiên (Kinh Dương Vương) và mẹ Rồng (Thần Long) hợp nhất. Những danh hiệu trong truyền thuyết lịch sử do vậy là những gợi ý, dẫn chứng rõ ràng về công nghiệp của các bậc tiền nhân.

Cũng vì tên của các nhân vật trong truyền thuyết là các danh hiệu nên cùng một tên gọi có thể chỉ 2, 3 người hoặc cả một triều đại trong lịch sử. Truyền thuyết là những chuyện kể không hạn chế về thời gian. Trong ngọc phả, mỗi danh xưng Hùng Vương là chỉ một “chi”, hay 1 triều đại, 1 giai đoạn lịch sử của cùng một vị vua khai sáng. Chuyện của cả một vương triều có thể đều được ghi chép chung vào trong một tên gọi, một danh xưng của vị vua đã sáng lập ra triều đại đó. Cũng giống như tập tục thờ cúng của người Việt thường chỉ thờ vị tổ đầu tiên của dòng họ vậy.

Ví dụ, danh xưng An Dương Vương bao gồm một triều đại kéo dài hơn 800 năm, từ khi Thục Vương tử đánh nước của Hùng Vương, Thục Phán lên ngôi lập cột đá thề trung thành với họ Hùng, tới khi vua Thục xây thành Cổ Loa, rồi vị vua cuối cùng của Thục triều thất quốc, cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển. Thời gian trong ngọc phả và truyền thuyết được tính bằng triều đại, bằng nhân vật và sự kiện, chứ không phải bằng năm bằng tháng như truyện lịch sử.

Cách gọi các chi Hùng Vương như trong Ngọc phả đã giải nghĩa rõ ràng cho việc một đời Hùng Vương kéo dài hàng trăm năm, bởi một tên gọi Hùng Vũ Vương, Hùng Hy Vương… không phải chỉ 1 vị vua, mà là một triều đại do 1 vị vua khởi đầu và làm đại diện. Cũng chính điều này giải thích ý nghĩa của các cuộc hôn nhân trong cổ sử. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ là câu chuyện về sự tranh giành ngôi vị giữa con của Kinh Dương Vương với hậu duệ chính dòng từ Đế Minh là Đế Lai. Âu Cơ lúc đó là hình tượng của vương quyền truyền từ Đế Nghi. Phân biệt với hình tượng mẹ Âu Cơ sau đó dẫn người con trưởng lên núi, lập quốc ở Phong Châu, là chuyện xảy ra ở thời kỳ 1.000 năm sau Lạc triều của Lạc Long Quân.

Những sự tích, những câu chuyện được kể lại trong ngọc phả Hùng Vương đều xuất phát từ thực tế lịch sử, cho dù những sự kiện này đã được cách điệu hóa, hình tượng hóa. Sự kiện mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng, nở ra trăm trai không hề hoang đường vô nghĩa, mà nó phản ánh cội nguồn của đại tộc Bách Việt từ 2 dòng Âu và Lạc ban đầu. Hay những hình tượng cụ thể như cây gậy thần và quyển sách ước của Tản Viên Sơn Thánh có thể truy nguyên là những kiến thức trong Hà đồ Lạc thư mà vua Đại Vũ đã nắm bắt được trong quá trình trị thủy. Chiếc móng rùa mà thần Kim Quy trao cho An Dương Vương là cuốn Đạo Đức kinh mà Huyền Thiên Lão Tử đã để lại cho đời…

Trang đầu của Nam Việt Hùng Vương ngọc phả

Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền mở đầu như sau: Kỷ Hồng Bàng Thị: Xưa tại Đại quốc Trung Hoa, đô đóng ở thành Thiên Thọ Bắc, lăng phần mộ tổ trời táng ở núi Côn Lôn, cùng năm hồ, biển lớn, núi Nam hội chầu chính đường. Ban đầu là từ cháu ba đời Viêm Đế dòng Thần Nông Thị, từ Hy Hoàng tới đó, truyền ngôi quốc bảo chính thống Nam Bang, để lại cho con cháu đời sau vậy.

Câu mở đầu Ngọc phả này làm cho không ít các sử gia đời nay lúng túng. Tại sao Hồng Bàng Thị lại là “Đại quốc Trung Hoa”? Mộ tổ các vua Hùng sao lại ở núi Côn Lôn? Khởi đầu của sử Việt lại từ Tam Hoàng Ngũ Đế như Thần Nông, Phục Hy, Hoàng Đế? Liệu các Hàn lâm học sĩ thời phong kiến khi soạn Ngọc phả có nhầm không? Hay do họ “thiếu hiểu biết” và muốn “đua đòi” cho bằng “nước lạ”?

Hoàn toàn không phải vậy. Nhầm là những cách nhìn nhận hạn hẹp và thiếu hiểu biết của con cháu ngày nay, không dám nghĩ rằng tổ tiên cha ông mình đã từng là một “Đại quốc” có lịch sử trên 5.000 năm, là nơi hội tụ tinh hoa của trời Đông (tức là Trung – Hoa).

Không thiếu những dẫn chứng từ thư tịch, bia đá của tất cả các triều đại phong kiến nước ta từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều xưng mình là Trung Hoa, Trung Quốc, Trung Hạ. Bởi vì dưới thời phong kiến, Trung Hoa thực sự chính là nước Việt ta. Ở bên kia chiến tuyến, nhà Nguyên không phải Trung Hoa, mà là Mông Cổ. Nhà Thanh không phải Hoa, mà là Mãn… Lịch sử Việt cổ đại là lịch sử Trung Hoa, một nhận thức rất rõ ràng từ Ngọc phả Hùng Vương.

Lịch sử của một đất nước, một dân tộc tính từ đâu phụ thuộc vào mốc tính: thế nào là “bắt đầu lịch sử”. Lịch sử hoàn toàn không phải bắt đầu từ khi có chữ viết vì không thiếu gì dân tộc cho tới tận ngày nay không hề có chữ viết riêng. Lịch sử được tính bằng những mốc, những nấc thang phát triển của thể chế xã hội. Đối với người Việt, những nấc thang lịch sử ban đầu đích thực là do các vua Hùng đã gây dựng nên. Những cuốn ngọc phả Hùng Vương còn lưu truyền lại cho tới ngày nay cung cấp chính xác những mốc phát triển của xã hội Việt thời dựng nước.

Bằng cách đối chiếu các ngọc phả Hùng Vương, các thần tích trong các di tích thờ Hùng Vương được lưu giữ đến nay với những thư tịch lịch sử của Việt Nam và Trung Hoa, thời đại Hùng Vương có thể được chia thành 4 thời kỳ phát triển gồm 18 đời (triều đại) Hùng Vương như trong sơ đồ sau.

TÓM LƯỢC VỀ CÁC TRIỀU ĐẠI HÙNG VƯƠNG

SƠN TRIỀU: Hùng Vương Thánh tổ

Nhật nguyệt tinh thần

1.      Đế Minh (Hùng Vũ Vương)

Triều đại: Hoàng Đế mở muôn nước. Tổ phụ bộ tộc Trung tâm Giao Chỉ

Vua khai sáng và tên húy: Đế Minh, Hiền Đức Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Vũ Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Hiên Viên Hoàng Đế

Tên thờ và trong truyền thuyết: Vua cha Thiên phủ, Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương, Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ

Tên dân dã: Ngọc Hoàng

Niên đại: khoảng – 4.000 đến – 2879 DL

Quốc hiệu: nước Họ Hùng, Hữu Hùng quốc, Viêm Giao, Viêm Việt

Kinh đô: Hồng Lĩnh

Truyền thuyết: Tây Thiên quốc mẫu, Vua Hùng chọn đô

Di tích: Đền Hùng và các nơi thờ trên vùng đất tổ. Đền Đình Chu.

2.      Đế Nghi (Hùng Hy Vương)

Triều đại: Đường Nghiêu

Vua khai sáng và tên húy: Đế Nghi, Viên Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Hy Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đế Nghiêu

Tên thờ và trong truyền thuyết: Viễn Sơn Thánh vương

Tên dân dã: Bắc Đẩu

Quốc hiệu: Hồng Bàng

Niên đại: khoảng –2879 đến –2500 DL

Kinh đô: Hồng Lĩnh và Ngũ Lĩnh

Truyền thuyết: Vua Hùng kén rể, Vua Hùng chọn đô

Di tích: Đền Hùng và các nơi thờ trên vùng đất tổ

3.      Lộc Tục (Hùng Hi Vương)

Triều đại: Ngu Thuấn.

Vua khai sáng và tên húy: Lân Lang, Lộc Tục

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Hi Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đế Thuấn

Tên thờ và trong truyền thuyết: Ất Sơn Thánh vương, Nam triều thánh tổ Ngọc hoàng thượng đế, Sơn Tinh

Tên dân dã: Nam Tào

Quốc hiệu: Nam Bang, Xích Quỷ

Niên đại: khoảng -2500 đến -2200 DL

Kinh đô: Ngũ Lĩnh

Truyền thuyết: Đi cày Lịch Sơn, Vua Hùng kén rể

Di tích: núi Lịch, các nơi thờ Hùng Vương trên đất tổ.

KINH TRIỀU: Phụ đạo

Rồng bay biển Bát

4.      Kinh Dương Vương (Hùng Việt Vương)

Triều đại: Tổ nhà Hạ

Vua khai sáng và tên húy: Kinh Dương Vương, Tuấn Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Việt Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đại Vũ, Hạ Vũ.

Tên thờ và trong truyền thuyết: Tản Viên Sơn Thánh quốc chúa đại vương, Vua cha Nhạc phủ

Tên dân dã: Hương Lang

Quốc hiệu: Nam Bang, Xích Quỷ

Niên đại: khoảng –2200 đến –2000 DL

Kinh đô: Sơn Tây

Truyền thuyết: Tản Lĩnh Ngọc ký, Thần Long Động Đình, Sơn Tinh – Thủy Tinh

Di tích: Ba Vì, Lăng Sương, Thác Bờ

5.      Lạc Long Quân (Hùng Diệp Vương)

Triều đại: Nhà Hạ

Vua khai sáng và tên húy: Lạc Long Quân, Pháp Hải Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Diệp Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Đế Khải, Hạ Khải.

Tên thờ và trong truyền thuyết: Uy Linh Lang, Bát Hải Động Đình, Vua cha Thoải phủ

Tên dân dã: Linh Lang

Quốc hiệu: Hồng Bàng, Đào Động.

Niên đại: khoảng –2000 đến – 1900 DL.

Kinh đô: An Hoa (ở giữa hồ Dâm Đàm và sông Nhị)

Truyền thuyết: Truyện Hồ Tinh, thần tích Yên Phụ, La Phù, Đồng Bằng, Thủ Lệ, Ngũ vị tôn quan

Di tích: Yên Trì, La Phù, Đồng Bằng và các đền thờ ven sông Hồng

6.      Hùng Uy Vương

Triều đại: Nhà Hạ Trung Hưng

Vua khai sáng và tên húy: Hoằng Hải Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Uy Vương

Danh hiệu trong Hoa sử: Hạ Thiếu Khang

Quốc hiệu: Hồng Bang

Niên đại: khoảng -1900 đến -1700 DL

Kinh đô: Dương thành

Truyền thuyết: Chử Đồng Tử, Hậu Nghệ – Hằng Nga

Di tích: Đầm Nhất Dạ và những nơi thờ Chử Đồng Tử

7.      Hùng Huy Vương

Triều đại: Nhà Thương

Vua khai sáng và tên húy: Long Tiên Lang.

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Huy Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Thành Thang.

Tên thờ và trong truyền thuyết: Bàn Hồ

Tên dân dã: Lang thang

Quốc hiệu: Việt Thường

Niên đại: khoảng –1700 đến –1400 DL

Kinh đô: Tân Cán (Ngô thành)

Truyền thuyết: Các họ của người Dao

8.      Hùng Duệ Vương

Triều đại: Nhà Ân.

Vua khai sáng và tên húy: Huệ Đức Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Duệ Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Bàn Canh, Trụ Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Vua cha Địa phủ

Tên dân dã: Diêm vương

Quốc hiệu: Việt Thường

Niên đại: khoảng –1400 đến –1100 DL

Kinh đô: Bàn Long thành, An Huy

Truyền thuyết: Tam vị Tản Viên Sơn thánh, Giếng Việt, Truyện vu nữ

Di tích: Các di tích thờ Cao Sơn, Quý Minh; núi Vũ Ninh

THỤC TRIỀU: Trị bình kiến phu

Phượng gáy non Kỳ

9.      Âu Cơ (Hùng Chiêu Vương)

Triều đại: Tổ nhà Chu

Vua khai sáng và tên húy: Âu Cơ

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Chiêu Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Cơ Xương, Chu Văn Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Thục Vương tử, Hiền Vương

Tên dân dã: Lang Liêu

Quốc hiệu: Văn Lang – Âu Lạc

Niên đại: khoảng –1100 đến -1000 DL

Kinh đô: Phong Châu

Truyền thuyết: Phù Đổng Thiên vương, Truyện họ Hồng Bàng, Lão tiên ở bến Việt Trì, Cột đá thề

Di tích: Hiền Lương, Phù Đổng, Sóc Sơn, chùa Hoa Long, núi Hùng

10. Hùng Quốc Vương

Triều đại: Nhà Tây Chu.

Vua khai sáng và tên húy: Thừa Văn Lang.

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả:  Hùng Ninh Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Thục Phán, Vũ Ninh

Danh hiệu trong sử Hoa: Cơ Phát, Ninh Vương, Chu Vũ Vương.

Tên dân dã: Ninh lang (Linh Lang).

Quốc hiệu: Văn Lang – Âu Lạc.

Niên đại: khoảng -1000 đến -770 DL

Kinh đô: Côn Minh (Vân Nam)

Truyền thuyết: Chim bạch trĩ, Bà Nghi Địch, Đồng Cổ Sơn thần, Lang Liêu cầu Tiên, Phan Tây Nhạc, Hùng Linh Công

Di tích: Làng Vân, Đan Nê, Hiền Lương, Tây Thiên, Y Sơn, Thị Cấm

11. Hùng Tạo Vương

Triều đại: Nhà Đông Chu.

Vua khai sáng và tên húy: Đức Quân Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Tạo Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Chu Bình Vương.

Tên thờ và trong truyền thuyết: An Dương Vương

Quốc hiệu: Văn Lang – Âu Lạc

Niên đại: –770 đến –314 DL

Kinh đô: Cổ Loa

Truyền thuyết: Huyền Thiên Trấn Vũ, Giếng Việt, Lang Liêu gặp Phật

Di tích: Thổ Hà, núi Sái, Thất Diệu, chùa Thiên Quang

12. Hùng Nghị Vương

Triều đại: Cuối thời Đông Chu.

Vua khởi đầu: Bảo Quang Lang.

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Nghị Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: An Dương Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Chu Noãn Vương

Quốc hiệu: Âu Lạc

Niên đại: –314 đến –256 DL

Kinh đô: Cổ Loa

Truyền thuyết: Mỵ Châu – Trọng Thủy

Di tích: Cổ Loa, đền Cuông

TRUNG HOA: Đại đế quốc

Tiên Rồng hợp hình

13. Tần (Hùng Định Vương)

Triều đại: nhà Tần

Vua khai sáng và tên húy: Chân Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Định Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Đinh Tiên Hoàng

Danh hiệu trong sử Hoa: Tần Thủy Hoàng

Tên dân dã: Lang sói – Sài lang

Quốc hiệu: Đại Cồ Việt

Niên đại: –257 đến –206 DL

Kinh đô: Tam Xuyên

Truyền thuyết: Lý Ông Trọng, Yên Kỳ Sinh, Giếng Việt

Di tích: Chèm, Yên Tử, núi Vũ Ninh

14. Hiếu (Hùng Trinh Vương)

Triều đại: Nhà Hiếu (Tây Hán)

Vua khai sáng và tên húy: Hưng Đức Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Trinh Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Lý Bôn, Triệu Vũ Đế

Danh hiệu trong sử Hoa: Lưu Bang – Hán (Hiếu) Cao Tổ

Tên dân dã: Lang bang

Quốc hiệu: Vạn Xuân

Niên đại: -206 tới –9 DL

Kinh đô: Trường An

Truyền thuyết: thần tích Đồng Xâm, Nhữ Nương (Trình Thị)

Di tích: Đồng Xâm, Nhữ Nương, Xuân Quan, Cựu Tự, Bát Tràng

15. Triệu (Hùng Triêu Vương)

Triều đại: nhà Triệu

Vua khai sáng và tên húy: Cảnh Triêu Lang

Danh hiệu trong Hùng Vương Ngọc phả: Hùng Triêu Vương

Tên thờ và trong truyền thuyết: Triệu Việt Vương

Danh hiệu trong sử Hoa: Triệu Đà

Tên dân dã: Triệu Quang Phục

Quốc hiệu: Nam Việt

Niên đại: -179 đến –111 DL

Kinh đô: Phiên Ngung

Truyền thuyết: Triệu Quang Phục

Di tích: các nơi thờ Triệu Việt Vương ở cửa biển Đại An và ven các cửa sông

Mạn đàm với sư thầy Tâm Hiệp: SÁNG TỎ GỐC TÍCH CÁC VUA HÙNG QUA NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG

Năm 2018 loạt bài viết “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” của nhà báo Hoàng Hải Vân đã thu hút được nhiều sự chú ý của bạn đọc và nhận được nhiều ý kiến đóng góp, phản hồi, phản biện xung quanh các vấn đề liên quan đến các kết luận của thiền sư về lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, có thể do chưa có đầy đủ tư liệu, thiền sư Lê Mạnh Thát đã chưa đi sâu vào phân tích và nghiên cứu một chủ điểm quan trọng, đó là lịch sử dân tộc thời kỳ Hùng Vương.
Thời đại Hùng Vương trong lịch sử dân tộc Việt có tồn tại hay không và tồn tại như thế nào? Đây là một câu hỏi của không ít con dân người Việt ngày nay, còn đang loay hoay trước sự đa dạng và khó phân định của các lập luận từ nguồn tư liệu sử học khi nhìn về nguồn cội.
Từ lòng yêu mến đối với lịch sử nước nhà, tôi có may mắn được gặp sư thầy Tâm Hiệp trên hành trình tìm về nguồn cội của thầy. Thầy Tâm Hiệp là một người từ bé đã xuất gia theo Phật nhưng lại có tình yêu đặc biệt với văn hóa Việt. Thầy cho rằng, văn hóa của người Việt là nền văn hóa được xây dựng từ lòng biết ơn và niềm thương kính với nguồn cội. Từ đó, xếp gọn y vàng, thầy rong ruổi trên khắp các nẻo đường của vùng đồng bằng Bắc bộ và ở quê hương Quảng Trị để nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này. Bên cạnh trang kinh là những tập tư liệu Hán Nôm thầy tìm được từ những ngày điền dã khắp các vùng quê trong dân gian.
Mới gần đây, cùng với Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt, thầy Tâm Hiệp đã cho ra mắt cuốn sách: Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo. Đây là bản sưu tầm, dịch và phiên chú đầy đủ tư liệu phả ký lưu giữ tại Hùng Vương miếu ở thôn Vân Luông, xã Vân Phú, Việt Trì, Phú Thọ. Cuốn sách đã được nhà xuất bản Dân trí xuất bản đúng vào dịp giỗ tổ 10/3 năm 2020.

2Ngai thờ 3 vị vua Hùng ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ.

Mỗi lần về với đền Hùng vào ngày giỗ tổ, tôi luôn tự hỏi, đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh hiện đang thờ ai? Khi nói chuyện với các hướng dẫn viên ở đây thì được biết ở cả 3 khu đền Thượng, đền Hạ và đền Trung trong quần thể di tích đều đặt 3 ngai vị là:

  • Đột ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh vương
  • Ất Sơn Thánh vương
  • Viễn Sơn Thánh vương

Người hướng dẫn ở đền Hùng giải thích với tôi rằng đây là ba vị thần núi, tương ứng 3 ba chòm núi Nghĩa Lĩnh, núi Trọc và núi Vặn ở vùng Việt Trì. Tuy nhiên, điều này không khỏi làm tôi hoang mang. Chẳng nhẽ quốc tổ vua Hùng nước ta lại là 3 vị thần núi? Tôi đem băn khoăn này chia sẻ với sư thầy Tâm Hiệp và xin mạo muội ghi lại những ý chính được sư thầy giải đáp dưới đây.
Sư thầy Tâm Hiệp cho biết, đền Hùng nằm ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, còn lưu giữ được bản Hùng Vương Ngọc phả soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470) bởi Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố. Cuốn ngọc phả này kể lại sự tích các vị vua Hùng từ đầu cho tới khi Triệu Đà diệt An Dương Vương lập nước Nam Việt. Tuy nhiên, trong cuốn ngọc phả của Hy Cương lại không hề đề cập đến các tên gọi Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn và Viễn Sơn. Đây là lý do làm cho các nhà nghiên cứu cho rằng 3 ngai vị ở đền Hùng là 3 vị thần núi địa phương. Từ đó, cả ban quản lý Đền Hùng và những người dân cũng chỉ biết chung chung như vậy.
Nhưng nay, với phát hiện bản Hùng Vương Thánh tổ Ngọc phả lưu tại đền Vân Luông thì sự việc về 3 vị vua Hùng được thờ trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Phần thứ nhất trong bản Ngọc phả có tên Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền tự điển, trong đó ghi chép đầy đủ các tên gọi, ngày sinh, thời gian trị vì của các đời vua Hùng. Theo cuốn điển thờ này thì Đột Ngột Cao Sơn là mỹ tự truy phong (tên thờ) của Hùng Quốc Vương 雄國王, người con trưởng trong trăm trai. Tương tự, Viễn Sơn là thụy hiệu của Hùng Hy Vương 雄㬢王 và Ất Sơn là thụy hiệu của Hùng Hi Vương 雄曦王, 2 vị vua Hùng kế tiếp Hùng Quốc Vương.
Như thế, đền Hùng ở Phú Thọ thực chất là thờ 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời đại Hùng Vương, là những vị vua Hùng được ghi chép trong điển thờ quốc gia (ngọc phả). Không thể có chuyện quốc tổ người Việt lại là 3 vị thần núi.

1
Trang đầu của cuốn Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả vĩnh truyền miêu duệ tôn điệt ức vạn niên hương hỏa tự điển tôn sùng.

Ngọc phả Hùng Vương bàn rằng: Xưa Tiền Hoàng đế Thánh tổ Cõi lớn trời Nam, Hùng Vương Sơn Nguyên, đã gây dựng cơ đồ, thủy tổ Việt Nam, mở nước Cổ Việt Hùng Thị, mười tám đời thánh vương ngự trị Cõi lớn trời Nam, mở mang hùng đồ nước Việt, nước biếc một dòng, bắt đầu vận vua sáng đế thánh. Núi xanh vạn dặm, lập nền đô thành điện báu, mở vật giúp người, thống trị mười lăm bộ, giữ thế mạnh trước phiên thần, nối tiếp phát huy cõi đất lớn thành Viêm Hồng, do vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi giúp cho dòng giống vững như bàn đá. Hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương ngự ở Việt thành, muôn năm thánh điện núi Hùng, đất tổ trời Nam, gốc nước cơ đồ, vạn xuân tôn kính, ngàn xưa chảy mãi.
Đối với những người “ngoại đạo” như tôi, thời đại Hùng Vương luôn là một điều bí ẩn đến khó hiểu. Ví như, tại sao 18 đời vua Hùng lại kéo dài hơn 2600 năm? Tuổi thọ trung bình mỗi đời vua Hùng vậy có quá lạ không?
Khúc mắc này cũng được sư thầy Tâm Hiệp giải đáp bằng những thông tin từ bản Ngọc phả Hùng Vương mới phát hiện. Theo đúng nguyên bản của Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả vĩnh truyền tự điển, 18 đời Hùng Vương không phải là 18 vị vua. Mỗi một đời Hùng Vương là một triều đại kéo dài. Mỗi triều đại mang cùng một tên hiệu có thể có 1 hoặc nhiều vị vua. Ngọc phả gọi là 18 chi như sau:
Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ
1.Kinh Dương Vương – chi Càn
2.Hùng Hiền Vương – chi Khảm
3.Hùng Quốc Vương – chi Cấn
4.Hùng Hy Vương – chi Chấn
5.Hùng Hi Vương – chi Tốn
6.Hùng Diệp Vương – chi Ly
7.Hùng Huy Vương – chi Khôn
8.Hùng Ninh Vương – chi Đoài
9.Hùng Chiêu Vương – chi Giáp
10.Hùng Uy Vương – chi Ất
11.Hùng Trinh Vương – chi Bính
12.Hùng Võ Vương – chi Đinh
13.Hùng Việt Vương – chi Mậu
14.Hùng Định Vương – chi Kỷ
15.Hùng Triều Vương – chi Canh
16.Hùng Tạo Vương – chi Tân
17.Hùng Nghị Vương – chi Nhâm
18.Hùng Duệ Vương – chi Quý
Ngọc phả Hùng Vương ghi rõ: Từ đầu tính nước họ Hùng 18 nhánh truyền ấn phù quốc gia, 180 đời đế vương lên ngôi, nhất thống núi sông, xe sách trị nước, kiến dựng 120 điện thành… Cộng các năm trị vì, 18 đời thánh vương di truyền, thánh tử thần tôn, triều đại đế vương, hưởng ngôi cộng là 2655 năm, thọ 8618 năm, sinh 986 chi hoàng tôn công chúa, sinh cháu chắt cộng là 14.370 người, trị ở nước Nam, đầu núi góc biển, vạn thế trường tồn, mãi mãi không ngừng.
Như vậy, thời đại Hùng Vương có tới 180 vị đế vương, kéo dài 2655 năm. Tính ra trung bình mỗi vị vua Hùng trị vì khoảng 15 năm, thọ khoảng 48 tuổi. Đây là những con số hoàn toàn rất thực tế.
Còn nhiều điều nữa được ẩn chứa qua từng trang Ngọc phả. Ngọc phả ngày nay trở nên hoang đường là do bởi chính chúng ta đọc tự điển của cha ông với một thái độ thờ ơ, nghi ngờ, không muốn hiểu di sản của tổ tiên để lại nghĩa là gì, không muốn biết thông điệp của cha ông gửi gắm qua từng trang sách quý, từng được lưu giữ trân trọng như vật thờ cúng.
Ngọc phả chính là “chìa khóa” về nguồn cội, là cuốn Thiên thư giúp phân định được không gian, thời gian và con người Việt ở thời xa xưa nhất. Đây là một báu vật đúng như nó được ghi:
Cho nên quốc triều mới tiến hành soạn sách Nam Thiên bảo lục, để mãi ban cho hậu thế, con cháu dòng dõi lưu truyền muôn đời. Chỉ truyền cho người hiền, không truyền cho người thiếu phép tắc. Sự tích này không thể đem cho người ngoài.

3Sư thầy Tâm Hiệp và đoàn dâng hương ở đền Trung trên núi Nghĩa Lĩnh.

Xin thành tâm thắp một nén hương dâng lên Cửu trùng thiên điện ở núi Hùng, đọc lại những dòng Ngọc phả về thời kỳ dựng nước, ngâm lên câu đối trên chính điện đền Trung:
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Nghĩa là:
Sách trời định phân, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt duy có tổ
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

Minh Thi
Bài đăng trên báo Lao động cuối tuần số 26 từ 26-28/6/2020

26

262

Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ

Các bản thần tích do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính làm ở bộ Lễ triều Lê biên soạn vào niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (1572) phụng soạn thường được mở đầu như sau:
Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ khai vận mở đồ hơn hai ngàn năm. Vua Hùng lập nước núi xanh vạn dặm, xây kinh đô Hùng, dựng nền cung điện, nước biếc thăm thẳm, bắt đầu đạo đế thánh vua minh, giúp vật giúp dân, thống lĩnh 15 bộ, lấy tên là Bách Việt, là tổ tiên khai sáng (Triệu tổ) vậy.
Có thơ rằng:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn xưa đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.
Đoạn “giới thiệu” tóm tắt này về thời kỳ khai mở đất nước của người Việt rất cô đọng, xúc tích. Thế nhưng, thời buổi ngày nay, có quá nhiều người Việt hiểu lơ mơ về quốc tổ Hùng Vương. Cũng như có quá nhiều những bậc “học giả” chữ tác đánh chữ tộ, biết đọc mà không biết nghĩ, dựng chuyện lật lọng cả với tiên tổ mà vẫn tự cho mình là đã “giải ảo” quá khứ…
Điển hình nhất là chuyện người ta lấy 3 danh hiệu phụng thờ Hùng Vương ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn Viễn Sơn, để quy kết rằng đây là tục thờ 3 vị thần núi??? Nhiều vị cho mình là thạo chữ Hán thì đưa ra kết luận… chắc như bắp… Hùng vương là chép nhầm của Lạc vương.
Các vị đã quen cái học rởm của Tàu, của Tây, mà không nhìn nhận di sản cha ông người Việt đã để lại cho con cháu, qua chính những dòng thần phả thần tích lưu truyền đời này qua đời khác như đoạn văn trên.
Đoạn văn mở đầu của thần tích do Nguyễn Bính soạn nói ngay người khai sáng cơ đồ nước Việt là Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ. Chữ Sơn ở đây là núi, nhưng không phải nghĩa Hùng Vương là thần núi như đám học giả nửa mùa tưởng tượng. Sơn là núi, tức là quẻ Cấn trong Tiên thiên Bát quái, chỉ hướng Nam xưa (tức Bắc nay). Hùng Vương Sơn nguyên tức là vị vua Hùng xuất hiện đầu tiên ở phương Nam. Tên gọi này tương đương với danh hiệu Đột Ngột Cao Sơn ở đền Hùng vì “đột ngột” là bất ngờ xuất hiện, ý chỉ là người đầu tiên, cũng giống như từ “nguyên” nghĩa là đầu tiên. Cao hay Cả là từ chỉ thủ lĩnh, tương đương với Vương.

Bat quai
Tiên thiên Bát quái và hệ tọa độ không thời gian. 

Đền Hùng ở Phú Thọ thờ Đột ngột Cao Sơn hay Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh tổ, là vị vua Hùng đầu tiên của cõi trời Nam. Vị vua Hùng “Thánh đế Minh vương” này là Đế Minh, người đã “đi tuần thú ở phương Nam“, bắt đầu thời kỳ Nam Giao mở nước.
Phương Nam xưa là phương cây kim chỉ Nam của La bàn, tức là phương Bắc cực ngày nay do khái niệm Bắc Nam đã bị đảo lộn trong lịch sử. Phương Nam xưa theo Ngũ hành thuộc về hành Thủy – nước. Từ “nước” biến âm thành “nác”, rồi thành “lạc”. Vì thế các vua Hùng thời kỳ đầu Nam Giao mở nước cũng gọi là các Lạc Vương.
Nhưng Lạc Vương không tương đương với Hùng Vương vì thời kỳ Nam – Sơn – Lạc này chỉ gồm 3 thời vua Hùng như được thờ trên núi Nghĩa Lĩnh ở Phú Thọ. Trong tiến trình lịch sử hơn 2000 năm, quốc gia họ Hùng đã mở rộng về các hướng, phía Đông vươn ra biển Đông, phía Tây kéo dài tới Xuyên Thục, phía Nam xưa (Bắc nay) tới Hồ Nam, phía Bắc xưa (phía Nam nay) chạy tới miền Trung Việt, đúng như ghi chép của cổ sử Việt.
Thần tích cũng luôn nhắc lại rằng các vua Hùng thống lĩnh 15 bộ, là Triệu tổ của Bách Việt. Cũng như bức hoành phi trên cổng đền Hùng đề rõ Nam Việt triệu tổ. Đất nước họ Hùng đông, nhiều, rộng, gồm nhiều dòng, nhiều nhánh Việt khác nhau, nhưng đều chung một nguồn cội từ Hùng Vương thánh tổ.
Câu thơ trong thần tích nói rõ:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương.
Kinh là đầu chỉ hướng Nam (Bắc nay) của cây kim La – Kinh. Dương hay Giêng là số 1 của Hà thư, cũng chỉ hướng Nam xưa. Kinh Dương như vậy là từ đồng nghĩa với hướng Nam, hay Lạc. Kinh Dương Vương cũng là Lạc Vương, được chép tên là Lộc Tục (Lạc tộc). Cũng vì thế mà 2 vị Ất SơnViễn Sơn không phải ai khác là Đế Nghi và Lộc Tục, là 2 vị vua kế ngôi Đế Minh dựng nước và mở rộng lãnh thổ trên vùng đất Nam Giao – Kinh Dương.

Ngu hanhNgũ hành và tứ phương.

Nam Việt như vậy chỉ nước Nam người Việt từ thời các vua Hùng dựng nước. “Quốc danh” Nam Việt của thời kỳ này tồn tại mãi về sau. Các sử gia lầm lẫn rằng nó mới chỉ có từ thời Triệu Vũ Đế lập quốc. Thực ra Triệu Vũ Đế lấy tên nước Nam Việt là ý muốn nhấn mạnh mình là dòng dõi “Lạc Hùng chính thống” trên vùng đất tổ phương Nam của các vị vua Hùng thánh tổ.
Sơn – Nam – Lạc – Kinh đều là những từ chỉ khu vực nơi các vua Hùng đầu tiên đã khai vận mở đồ hơn hai ngàn năm. Xin hãy chấm dứt những trò bôi nhọ tiền nhân bởi sự ngu dốt của chính mình khi nói về các vị thánh tổ của người Việt. Đừng biến mình thành những đứa con bất hiếu chỉ vì không hiểu biết.

Tục thờ tổ bách nghệ và đạo Hiếu của người Việt

Bài trình bày trong tọa đàm “Tục thờ tổ bách nghệ tại Việt Nam qua góc nhìn đạo Hiếu” tại đình Kim Ngân, Hà Nội nhân ngày di sản Việt Nam.

Kim Ngan

Nước ta có lịch sử phát triển hơn 4000 năm, là một trong những nước có nền văn hóa lâu đời nhất trên thế giới. Trong tiến trình lịch sử nhân dân ta đã trải qua nhiều nấc thang tiến bộ xã hội. Mỗi nấc thang là một bước tiến về khoa học công nghệ, tức là hiểu biết và cách thức chúng ta sử dụng các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cuộc sống của con người. “Nghề” chính là những kiến thức khoa học kỹ thuật đó. Tổ nghề là những người đã khai sáng, phát kiến, giúp xã hội chúng ta bước đi những bước đi dài hơn, vững chắc hơn, tự chủ hơn trong lịch sử. Mỗi vị tổ nghề do đó đánh dấu một mốc phát triển quan trọng của xã hội Việt theo chiều dài lịch sử.

Hiên Viên Hoàng Đế, ông tổ bách nghệ
Hôm nay, trong ngày di sản Việt, chúng ta cùng nhau có mặt ở đình Kim Ngân này, một ngôi đình giữa lòng thủ đô văn hiến với tục thờ tổ nghề rất sâu sắc. Ngôi đình này thờ vị tổ bách nghệ với tên Hiên Viên. Tổ bách nghệ, tức là tổ của mọi nghề của xã hội, chứ không chỉ là tổ nghề kim hoàn. Hiên Viên là ai lại được thờ phụng như tổ các ngành nghề ở giữa 36 phố phường Hà Nội như vậy?
Không khó để thấy Hiên Viên là vị Hoàng Đế, người được coi là thủy tổ của người Trung Quốc. Hoàng Đế hay Đế Vàng là một vị đế trong Ngũ Đế của Trung Hoa cổ đại. Trong truyền thuyết Trung Hoa, Hoàng Đế đã có hàng loạt những phát minh mang tính chất khai mở cho các ngành nghề như làm nhà, đóng xe thuyền, may được quần áo ngũ sắc, y thuật (Hoàng Đế nội kinh). Lịch cổ Trung Quốc lấy mốc bắt đầu từ Hoàng Đế.
Nhưng Hiên Viên Hoàng Đế của Trung Hoa thì liên quan gì tới người Việt của chúng ta mà lại được cha ông ta thờ làm tổ của bách nghệ?  Liệu các cụ ngày xưa “thờ nhầm” hay do “ảnh hưởng” của văn hóa?
Xem sách Đại Việt sử ký toàn thư, ngay ở câu mở đầu: “Xét thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt…”. Như thế chính sử nước Đại Việt từ thời lê đã coi Hoàng Đế Hiên Viên là người đã khởi thủy cho sử Việt. Hoàng Đế của Trung Hoa lại là thủy tổ của sử Việt, vậy là thế nào?
Vua Minh Mạng nhà Nguyễn sau khi lên ngôi đã cho xây dựng miếu Lịch đại đế vương ở kinh thành Huế để thờ các bậc vua sáng và tôi hiền qua các triều đại. Miếu Lịch Đợi được xây dựng trên một ngọn đồi nay thuộc phường Phường Đúc tại Huế, là làng nghề đúc đồng nổi tiếng của kinh thành. Cách bài trí án thờ nơi miếu Lịch Đợi theo Đại Nam nhất thống chí như sau:
Gian giữa thờ Phục Hy tại chính trung. Vị tả nhất thờ Thần Nông. Vị hữu nhất thờ Hoàng Đế.
Một lần nữa lại có Hoàng Đế Hiên Viên của Trung Hoa được toàn thể triều đình nhà Nguyễn tôn thờ như bậc tiên tổ của dân tộc. Không chỉ vậy, ở gian chính giữa của miếu Lịch Đợi còn thờ các vị vua cổ đại Trung Hoa là Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương. Tức là vua Minh Mạng cùng các quan thần triều Nguyễn chính thức coi các vị vua Tam Hoàng Ngũ Đế và các vị vua thời Tam Đại Trung Hoa là các vị tiền triều của mình, thường xuyên xuân thu cúng tế.
Theo truyền thuyết Trung Hoa, Hoàng Đế Hiên Viên là vua của nước Hữu Hùng Thị, đã đánh dẹp Xi Vưu, thống nhất các bộ tộc thời lập quốc, mở đầu thời kỳ “lịch sử” 5000 năm của Trung Quốc. Hiên Viên là vua nước Hữu Hùng thị tức chính là Vua Hùng trong sử Việt. Truyền thuyết Việt kể các vua Hùng là những người đã “có công dựng nước”, có công to lớn trong việc phát triển các nghề nghiệp ở buổi bình minh lịch sử dân tộc.
Thiên Nam ngữ lục, thiên trường thi sử thế kỷ 17 có đoạn:

Tự vua Viêm Đế sinh ra
Thánh nhân ngưu thủ họ là Thần Nông
Trời cho thay họ Hữu Hùng
Con cháu nối nghiệp cha ông thủ thành.

Truyền thuyết Họ Hồng Bàng của người Việt kể: Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông…
Như vậy Hiên Viên Hoàng Đế Hữu Hùng chính là Đế Minh, vị vua Hùng đầu tiên của sử Việt.
Truyền thuyết Hùng Vương cho biết vua Hùng đã dậy dân cày cấy, trồng ngũ cốc (nghề nông), làm đồ gốm, xây dựng nhà cửa bằng gỗ thay cho ăn hang ở lỗ,…  Cũng vì thế mà vua Hùng – Hiên Viên Hoàng Đế đã được người Việt cũng như người Hoa tôn làm ông Trời, tức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vị tổ bách nghệ cũng là vị quốc tổ lâu đời nhất trong lịch sử dân tộc Việt.

Cửu Thiên Huyền Nữ, vị mẫu tổ bách nghệ
Văn tế tiên tằm ngày 15 tháng Giêng của làng Đại Lan (Kim Lan) bên bãi sông Hồng (Văn Giang, Hưng Yên):
Cảm chiêu cáo vu:
Thánh đế Tiên sư Hoàng đế Hữu Hùng thị vị tiền
Tiên tàm Thánh đế Nguyên phi Tây Lăng thị Loa tổ vị tiền…
Bách nghệ tiên sư như đã nói ở trên là Hữu Hùng Hoàng Đế, tức là tổ Hiên Viên của đình Kim Ngân này. Còn bà tổ nghề tằm tang “Tây Lăng Thị Loa tổ” ở đây là ai?
Sử ký Tư Mã Thiên, Ngũ đế bản kỷ cho biết “Hoàng Đế ở gò Hiên Viên, cưới vợ là người con gái của Tây Lăng”. Bà Loa tổ là vợ của Hiên Viên Hoàng Đế, là tổ nghề chăn tằm dệt vải.
Ở đây cha ông chúng ta không chọn “nhầm” người Trung Quốc để thờ làm tổ nghề. Tây Lăng Thị cũng chính là Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu ở núi Tây Thiên trên dãy Tam Đảo. Vị nữ thần núi Tam Đảo tương truyền đã giúp vua Hùng diệt giặc, cùng gây dựng đất nước lúc mới khai sinh lập quốc. Quốc mẫu ở Tây Thiên còn được thờ như Mẫu Thượng Thiên, người đứng đầu Thiên phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ của người Việt.
Mẫu Thượng thiên hay Mẫu Cửu trùng cũng là Cửu Thiên Huyền Nữ của Đạo Giáo Trung Hoa. Công trạng của Cửu Thiên Huyền Nữ không chỉ chế ra nghề nuôi tằm dệt lụa mà bà còn có một loạt những đóng góp khác cùng với Hiên Viên Hoàng Đế trong công cuộc dựng nước.
Bà đã giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc. Ngoài ra Cửu Thiên Huyền Nữ truyền khoa Lục Nhâm Ðộn Giáp. Như thế Cửu Thiên Huyền Nữ là người đầu tiên khai mở nền Dịch học (triết học phương Đông).
Ở Hà Nội từng có đền thờ Cửu Thiên Huyền Nữ. Theo sách Tây Hồ chí thì đền này nằm ở ấp Trích Sài, có tên là đền Huyền Nữ. Vị thần ở đây cũng được gọi là Công chúa Loa. Rõ ràng vị Loa tổ của nghề tơ tằm cũng là Cửu Thiên Huyền Nữ.
Ở kinh thành Huế, vua Minh Mạng từng cho xây dựng một Đạo quán mang tên là Linh Hựu, mà tượng thờ ở gian chính là Cửu Thiên Huyền Nữ. Trong tín ngưỡng ở miền Trung thì Cửu Thiên Huyền Nữ là tổ của nghề mộc, nghề nề và nhà trò. Bản thân chùa Thiên Mụ có thể cũng chính là một di tích gắn với Cửu Thiên Huyền Nữ.
Trong các văn khấn như văn Thượng Lương thì Cửu Thiên Huyền Nữ được nhắc tới đầu tiên, còn trước cả tổ sư nghề xây dựng Lỗ Ban. Trên thước và bùa Lỗ Ban cũng thường đề câu chú “Cấp cấp như Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh”.
Hai vị tổ sư bách nghệ Hiên Viên Hoàng Đế và Cửu Thiên Huyền Nữ là 2 vị quốc tổ của người Việt, là những người đã đánh dấu nấc thang phát triển của xã hội công xã nguyên thủy, mở đầu lịch sử quốc gia và dân tộc họ Hùng.
Ta thường khấn “Hoàng thiên Hậu thổ” chính là nói tới 2 vị này trong quan hệ âm – dương, trời – đất:

  • Hoàng là Hoàng Đế Hiên Viên, với vai trò ở vị trí Thiên.
  • Hậu là hoàng hậu Tây Lăng thị ở vị trí Địa (thổ) trong Tam tài.

Có Vua trời và Mẹ đất mới sản sinh ra bách nghệ, giúp con cháu có cuộc sống no đủ, lâu dài. Hoàng thiên và Hậu thổ cũng là 2 vị thần bản mệnh được thờ cúng trong các gia đình (tục thờ này nay vẫn còn ở miền Trung). Như thế đạo thờ tổ nghề – tổ tiên đã ăn sâu vào tâm thức con dân Việt, tới từng ngóc ngách của cuộc sống.

Thần Đồng Cổ và hội thề trung hiếu
Thời kỳ của Hoàng Đế Hiên Viên và Cửu Thiên Huyền Nữ là thời kỳ tiền sử, ứng với giai đoạn đồ đá mới trong khảo cổ học. Bước nhảy vọt tiếp theo trong phát triển xã hội là việc phát minh ra nghề luyện kim, trước hết là nghề đúc đồng. Cùng với sự xuất hiện và tiến bộ của nghề đúc đồng xã hội Việt đã tiến lên chế độ quân chủ phong kiến trên bình diện rộng của toàn cõi Đông Nam Á và Hoa Nam, tức là vùng đất Bách Việt xưa. Trong tục thờ tổ nghề, sự kiện này được đánh dấu bởi thần trống đồng hay thần Đồng Cổ.
Trống đồng Đông Sơn của nước ta đã được biết tới như biểu tượng của văn hóa, của dân tộc. Thần trống đồng hay thần Đồng Cổ là vị thần được tôn thờ dưới thời Lý Thánh Tông, gắn với việc thần đã báo giúp Thái tử Phật Mã phòng bị sự ám hại của ba người anh em (loạn Tam Vương) khi lên ngôi. Lý Thánh Tông đã cho rước thần từ Thanh Hóa về thờ miếu Đồng Cổ nằm ở phía Tây kinh thành Thăng Long và lập hội thề trung hiếu tại đây. Hàng năm vua quan nhà Lý đến miếu Đồng Cổ cùng nhau uống máu ăn thề giữ trọn đạo hiếu trung trước tiền nhân.
Câu đối ở miếu Đồng Cổ tại Thanh Hóa:
Thiên vi anh địa vi linh, tất Mã giang Tây thanh miếu cổ
Thần đương trung tử đương hiếu, Thăng Long thành Bắc thệ đàn cao.
Dịch:
Trời gây tài, đất kết thiêng, sông Mã dải Tây trong miếu cổ
Tôi giữ trung, con đảm hiếu, Thăng Long thành Bắc đàn thề cao.
Đối chiếu truyền thuyết và tư liệu ta nhận ra rằng thần Đồng Cổ chính là vị Chu Công Đán mà Lý Thánh Tông đã đề cập tới như một tấm gương trung hiếu, giúp vua, giúp nước. Chu Công có đất phong là ở nước Lỗ nên được truyền thuyết Việt gọi là Cao Lỗ, người đã phát minh ra nỏ thần diệt giặc dưới thời Thục An Dương Vương. Bí kíp lẫy nỏ này chính là Dịch lý được thể hiện trên trống đồng (Đồng Cổ Dịch).
Cao Lỗ hay Lư Cao Sơn cũng là vị tổ nghề rèn, thờ ở nhiều nơi.
Nghề luyện kim đồ đồng đã đạt đỉnh cao dưới thời Thương Chu mà các thủ lĩnh luyện kim cũng là các thủ lĩnh quốc gia ở thời này. Mẫu hình của Chu Công – Đồng Cổ là tấm gương sáng về đạo hiếu, gây được nhân đức, cải được thiên mệnh về cho nhà Chu dựng nước Văn Lang thịnh trị trong gần 1000 năm văn hiến.

Cao Biền, vị tổ nghề gốm và địa lý phong thủy
Một vị tổ nghề quan trọng là Cao Vương Biền, tiết độ sứ khu vực nước ta dưới thời nhà Đường. Làng Kim Lan bên bờ sông Hồng là nơi thờ Cao Vương Biền làm thành hoàng và như vị tổ nghề gốm. Làng này cùng với Bát Tràng là làng gốm sứ lâu đời. Kim Lan chuyên về gốm xây dựng như gạch ngói,…  Kim Lan cũng là nơi có di chỉ khảo cổ Hàm Rồng với việc phát hiện các loại gạch từ thời Đường là gạch mang dòng chữ Giang Tây quân.
Câu đối ở đình Kim Lan:
Tĩnh Hải chân truyền từ đào nghiệp
Giang Tây chuyên trúc Đại La thành.
Dịch:
Thầy Tĩnh Hải truyền nghề gốm sứ
Gạch Giang Tây đắp Đại La thành.
Gạch Giang Tây quân là loại được phát hiện ở lớp xây dựng dưới cùng trong di tích Hoàng thành Thăng Long trong những năm gần đây. Vậy mà làng Kim Lan từ lâu đã biết tới điều này, còn sớm hơn cả những nghiên cứu khảo cổ học chính thống. Bởi vì họ duy trì được tục thờ tổ nghề là thờ Cao Biền từ thời Đường.
Phải nói thêm là chính Cao Biền chứ không phải ai khác được thờ làm Trấn Nam thành Thăng Long dưới tên Cao Sơn Đại Vương. Cao Vương không chỉ là tổ nghề gốm mà còn là một tổ nghề về địa lý phong thủy, trấn trạch nổi tiếng của nước ta.
Tiết độ sứ Cao Biền còn được thờ ở rất nhiều nơi suốt dọc từ Bắc và Nam dưới tên Cao Các đại vương. Đây là vị thành hoàng gặp phổ biến ở Thanh Hóa, Nghệ An, thậm chí các vùng Thừa Thiên Huế, tới tận Khánh Hòa. Tín ngưỡng thờ Cao Vương bắt nguồn từ công nghiệp an dân, trị quốc của Tiết độ sứ Cao Biền.

Không Lộ và Từ Đạo Hạnh thiền sư
Sang thời kỳ độc lập của nước Đại Việt dưới triều Lý, tục thờ tổ nghề gắn liền với tín ngưỡng dân gian, cụ thể là đạo Giáo hay đạo phù thủy ở nước ta. Thời này nổi lên các vị tổ nghề như Không Lộ thiền sư (nghề đúc đồng), Từ Đạo Hạnh (nghề múa rối nước và hát chèo). Thánh tổ Không Lộ thiền sư nổi tiếng bởi phép thuật thần thông, sang phương Bắc dùng một chiếc túi mà thu hết đồng mang về nước Nam, đúc nên Tứ đại khí An Nam.
Không Lộ thiền sư còn là 1 trong 4 vị Tứ bất tử của nước ta. Mỗi vị thần bất tử là một vị đạo trưởng một đạo phái trong lịch sử phát triển tín ngưỡng của người Việt. Không Lộ là tổ không chỉ của nghề đúc đồng mà còn là thánh tổ của đạo Giáo dân gian, rất phát triển và có đóng góp lớn trong công cuộc dựng nước thời nhà Lý.
Tục thờ Không Lộ còn gắn với tục diễn trò rối đầu gỗ hay trò Ổi Lỗi. Đây là một hình thức diễn tấu thờ thánh, tái hiện lại sự nghiệp diệt thần Xương Cuồng (thần Hổ) của thánh tổ Không Lộ. Nhưng trò diễn này cũng là loại hình diễn xướng dân gian, mà trong lĩnh vực này thiền sư Từ Đạo Hạnh được coi là vị thánh tổ của nghề hát chèo và múa rối.

IMG_9081
Đình Kim Ngân ở phố Hàng Bạc, nơi thờ bách nghệ tổ sư Hiên Viên Công Tôn Thần.

Thay cho lời kết
Ta thấy, vấn đề thường “mắc” khi nói tới các tổ nghề nước ta là không hiểu vì sao người Việt  lại toàn thờ các nhân vật Trung Hoa làm tổ nghề, như Hiên Viên Hoàng Đế, Cửu Thiên Huyền Nữ, Lỗ Ban, Cao Biền,… Dưới một góc nhìn mới và thông qua các tư liệu dân gian, cùng các di tích, di vật còn lưu lại tới nay đã có thể nhận ra, đây hoàn toàn không phải là các làng nghề “thờ nhầm” hay do ảnh hưởng văn hóa ngoại lai, mà thực chất các vị tổ nghề đó chính là tổ tiên người Việt trong mỗi thang bậc phát triển của khoa học kỹ thuật và văn hóa xã hội Việt. Thờ tổ nghề do đó đi liền với đạo Hiếu – đạo thờ các vị tiền nhân có công trong tiến trình lịch sử dựng và giữ nước.
Ta thấy các vị tổ bách nghệ cũng là những vị quốc tổ, quốc mẫu của dân tộc. Ngày nay, có biết “tôn sư” thì mới “trọng đạo”. Muốn làm nghề tốt (“đạo”) thì cần tôn thờ những người có công khai mở nghề nghiệp. Đó cũng là Hiếu đạo.
Cây có cội, nước có nguồn. Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới. Thờ tổ nghề, thờ tổ tiên là tìm lại di sản tinh thần và trí tuệ của cha ông để lại cho chúng ta hôm nay.