Sách mới: Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải

Sách LONG HƯNG TRIỆU VŨ ĐẾ, TƯ LIỆU VÀ LUẬN GIẢI.
Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân,
Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt

Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.

Trong các sách vở lịch sử ngày nay, vị hiền quân Triệu Đà đang phải chịu những nỗi “oan ức” khó giải về thân thế và sự nghiệp của ông. Nhưng có một sự thật không thể bác bỏ đó là vua Triệu được thờ một cách tôn kính ở rất nhiều ngôi đền lớn trên miền Bắc nước ta từ hàng trăm năm nay như một vị Đế vương khai cơ hiển hách của nước Nam người Việt.

Cuốn sách Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải đã tiếp cận vấn đề nhà Triệu từ những các di tích, di sản văn hóa ở khắp các vùng trên miền Bắc, kết hợp với những phát hiện khảo cổ mới trong những năm gần đây để đưa ra những luận giải có tính đột phá làm rõ thân thế, sự nghiệp không chỉ cho vua Triệu Đà, mà cả thời kỳ nhà Triệu nước Nam Việt.

Triệu Đà xuất thân áo vải, làm quan huyện ở Kiến Xương – Thái Bình, giương cờ khởi nghĩa kháng Tần ở núi Châu Sơn – Bắc Ninh, thấy rồng bay lên ở Long Biên mà thành nghiệp chiếm thành Cổ Loa rồi thống nhất thiên hạ, lên ngôi là Triệu Vũ Đế. Nối tiếp cơ nghiệp của ông là Triệu Quang Phục, chống giặc ở đầm Dạ Trạch, xưng Đế ở Phiên Ngung, lập nên tuyên ngôn Nam quốc sơn hà, đối lập với nhà Tây Hán. Nhà Triệu truyền 5 đời tới Vệ Dương Vương thì kết thúc ở cửa Đại Nha bên bờ biển Nam Định – Ninh Bình.

Lời bài ca trù tế thánh ở đền Đồng Xâm như tóm tắt công nghiệp nhà Triệu:

Nam Hải Kiến Xương cơ, hùng tranh Hán Bắc
Phiên Ngu Chân Định đỉnh, đế thủy Viêm Nam.

Cuốn sách không chỉ là một khảo luận lịch sử độc đáo mà còn là tài liệu hướng dẫn giá trị về văn hóa tín ngưỡng đối với các vị vua nhà Triệu đã khai cơ mở nước Nam người Việt. Khảo cổ các lớp thành Cổ Loa, niên đại các đồ đồng Đông Sơn tìm thấy ở nước ta, con Rồng đá bên Giếng Việt miền Châu Sơn, tấm bia Xá lợi tháp minh ở Luy Lâu… là những bằng chứng vật chất rõ ràng của thời kỳ Nam Việt. Nguồn tư liệu thành văn rất phong phú về phả tích, sắc phong, hoành phi, câu đối, văn tế các vua Triệu được dịch và giới thiệu kỹ lưỡng tại mỗi đền miếu ở từng vùng văn hóa tín ngưỡng liên quan.

Không dừng lại ở khảo cứu các vị vua nhà Triệu, cuốn sách còn luận giải những giai đoạn lịch sử liên quan khác là thời kỳ Thục An Dương Vương và thời Tiền Lý Nam Đế bằng những tư liệu điền dã phong phú và nhận định tổng hợp sâu sắc. Long Hưng Triệu Vũ Đế là cuốn sách không thể thiếu với bất kỳ con dân nước Nam nào quan tâm đến quá khứ hào hùng mở nước trị dân của các bậc tiền nhân người Việt.

Sách in khổ 16×24 cm, dày 568 trang, gồm các phần chính:

Lời nói đầu

  1. Những nỗi oan của vị vua mang tên Triệu Đà
  2. Cổ Loa thành trên Lạc quốc
  3. Chân Định Kiến Xương cơ      
  4. Vũ Ninh dấy nghĩa
  5. Long Biên ngày kháng Tần
  6. Nam quốc sơn hà
  7. Đại Nha hải khẩu
  8. Nam Việt Úy Đà diễn nghĩa
  9. Di tích và lễ hội về nhà Triệu và các nhân vật cùng thời
  10. Thống kê các di tích thờ Triệu Đà, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương
  11. Sắc phong và văn tế vua Triệu

Tài liệu tham khảo

2 chuyện cần bàn thêm

Sau bài viết của tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật “Sử Việt, 2 chuyện cần bàn“, xin góp bàn thêm về giai đoạn đặc biệt phức tạp nhưng cũng hết sức hào hùng này trong lịch sử nước Nam người Việt.

1. Chuyện số 1:

Lý Nam Việt Đế là Triệu Vũ Đế, cũng là Cao Tổ Lưu Bang. Tuy nhiên, còn người làm vua Nam Việt tiếp theo Lưu Bang thì cần xem thêm. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, vị này:

– Ngay khi nhà Tần diệt vong đã tự xưng là Nam Việt Vũ Vương.
– Sau đó mấy năm được Lưu Bang cử Lục Giả mang phẫu phù đến sắc phong Vương chính thức.
– Khi Lữ Hậu mất thì xưng Đế, thuần phục Tây Âu và Mân Việt.

Xét theo truyền thuyết Việt, người được Lý Nam Đế trao lại quyền nước Nam, tự xưng Dạ Trạch Vương rồi xưng Hoàng đế phải là Triệu Quang Phục. Theo thần tích Hạ Mạo thì Quang Phục là dòng dõi Hùng Vương, cháu ngoại của Đông Chu Quân, được vua ban cho họ Lê, khởi nghĩa cùng Triệu Vũ Đế và được gả con gái là Triệu Hậu cho. Vì thế Quang Phục khi xưng Đế đã lấy tên triều đại của mình theo Triệu Cao Tổ Lưu Bang.

Đoạn văn tế độ Triệu Vũ Đế ở Đồng Sâm: 

Công tham lưỡng đại,
Uy nhiếp bách Man.
Thuỷ đế khai thất quận chi đồ, Hán hùng tịnh thế,
Mẫu nghi chính lục cung chi biểu, Chu hậu đồng ban. 

Người kế tục Lưu Bang – Lý Bôn ở Nam Việt là Triệu Quang Phục, xưng là Triệu Văn Đế. Đôi búa sắt lưu ở đền Đồng Xâm tương truyền là do nhà Hán, tức do Lưu Bang, đã trao cho Triệu Việt Vương. Phải chăng đây là khi Lưu Bang nhập Quan Trung nhà Tần, để lại binh quyền Nam Việt cho Triệu Việt Vương?

2. Chuyện số 2:

Khu Liên là Triệu Quốc Đạt – Đô Dương, người đã nối tiếp cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng của bà Trưng – bà Triệu cuối thời Đông Hán. Thêm nữa, khi khảo sát các di tích và sự tích về Lý Nam Đế ở nước ta đã phát hiện có 2 vị vua đều được được gọi là Lý Nam Đế. Vị thứ nhất ở vùng Thái Bình, Long Hưng dựng nghiệp là Triệu Vũ Đế – Lưu Bang như đã nêu ở chuyện thứ 1. 

Vị thứ hai ở vùng Sơn Tây (quận Nhật Nam), từ nhỏ nuôi chí lớn ở trong chùa, khởi nghĩa lập ra nước Lâm Ấp. Khu Liên do đó là Lý Nam Đế thứ 2, vị vua đã “thác thủy” Lâm Ấp địa. Sau khi Khu Liên mất, đã giao lại quyền bính cho một người bên họ ngoại là Hữu tướng Phạm Tu, tức Sĩ Nhiếp. Phạm Tu là người có công bình định đất phương Nam – Lâm Ấp (miền Trung bộ), giao cho một người con là Phạm Hùng cai quản. Sĩ Nhiếp Phạm Tu duy trì chế độ tự trị kéo dài 40 năm đối với nhà Đông Hán rồi Đông Ngô.

Còn phần phía Tây Bắc Việt do người anh của Khu Liên là Đào Lang Vương Lý Thiên Bảo cầm quân. Lý Thiên Bảo mất, con là Lý Phật Tử lên thay. Dòng họ Lý ở vùng đất quận Nhật Nam xưa được sử Việt gọi là Nam Triệu (Nam Chiếu). Còn Hoa sử gọi là Tây Nam Man Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch và Sĩ Nhiếp chia đôi nước Lâm Ấp của Khu Liên thành 2 phần Đông Tây, lấy bãi Quân Thần ở Thượng Cát làm ranh giới. Đây cũng là ranh giới 2 quận Giao Chỉ và Nhật Nam từ thời Tây Hán.

Các di tích ở vùng Sơn Tây thờ Lý Nam Đế như ở Giang Xá (Hoài Đức) chính là nơi khởi nghĩa của Lý Khu Liên. Câu chuyện về 2 vị vua Lý Nam Đế này nay đã lẫn lộn vào nhau, nên trong sự tích mỗi nơi đều thấp thoáng chuyện của cả 2 vị ở 2 thời kỳ khác nhau.

Câu đối ở Giang Xá:

Thiên Đức hồng cơ long đỉnh Bắc
Vạn Xuân cung khuyết phượng thành Đông.
 

Tướng Ông trong hội cờ người lễ hội Giang Xá.

Ngọc phả Tiền Lý Nam Đế, Đức Vua bà cùng con gái Đàn Bang

Thần tích thôn Đại Phúc, xã Đạo Đức, huyện Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, có đối chiếu với ngọc phả của làng Kim Thanh, Tiến Thắng, Mê Linh, Hà Nội. 

Ngọc phả ghi chép về ba vị bản thuộc thành hoàng (bản thuộc nghĩa là nước ta, thành hoàng nghĩa là ? ?  thành hoàng), sau đổi là Quốc vương [Thiên tử Tiền Lý Nam Đế], Đức Vua Bà cùng con gái Đàn Bang

Chi Càn, bộ đế vương thứ nhất. Chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa đất Việt định vị Càn Khôn, một phương Ly Khảm phân giới hạn tại Sách trời, là ứng hướng các sao Dực, sao Chẩn. Ban đầu xưng là nước Lạc, tôn núi Tản sông Lô là sơn hà. Từ triều Hùng đổi vận, thánh tổ dựng cơ đồ tương truyền 18 đời hơn 2000 năm thịnh trị, đời đời cha truyền con nối đều xưng là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một dải, chính là tổ đất Việt ta vậy.

Đến nhà họ Hùng truyền 18 đời mới nhường ngôi báu cho Thục An Dương Vương. Dương Vương được nước trong 50 năm thì có người Chân Định họ Triệu tên Đà cất quân đến xâm chiếm. Nhà Thục mất. Triệu Đà được nước, cha truyền con nối 5 đời làm vua. Từ đó đất Việt ta thuộc vào Hán cùng Tấn, Tống, Tề, Lương. [Đến Lương Võ Đế cho] Tiêu Tư làm Thái thú đất Việt ta. Tư là kẻ tham tàn bạo ngược, nặng hình pháp. Sinh dân đất Việt ta rơi vào cảnh lầm than chưa từng có vậy. May thay, lòng người không muốn cảnh loạn, ý trời cũng cho thay đổi nên thanh bình. Sông núi nước Nam vua Nam ở, chính đúng là như vậy.

Trước đó có một nhà họ Lý, vốn là người Bắc Hán di cư đến Việt ta ở đất Long Biên, Thái Bình, được 4 đời tới Lý Công Quang sống ở bến Thái Bình, lấy việc chèo thuyền đưa người qua sông làm nghề nghiệp. Gặp ai cũng chở mà không đòi hỏi lấy tiền. Địa phương nơi đó đều gọi là người có lòng tốt bụng vậy.

Sau này có một thuyền khách buôn phương Bắc đi qua đây, chẳng may gặp gió lớn nổi lên, của cải đều mất cả. Ông xuất tâm cứu giúp, dẫn về nhà nuôi dưỡng. Trong số các khách phương Bắc có một người tên là Lý Sinh, tinh thông địa lý, xem được một thế cục ở núi Ất Lý tại Long Biên, có thể phát 2 đời làm vua Nam Việt, sau khi mất còn là phúc thần vạn đời. Thấy Công Quang cũng mang họ Lý, lại có lòng tốt nên tìm cho một huyệt để chôn táng trên đỉnh núi Ất Lý, dựa Đinh hướng Quý. Chôn xong thì người khách trở về nước phương Bắc.

Sau Công Quang sinh được Công Đạt. Công Đạt có vợ tên là Lã Thị Hương, gia thế vốn giàu mạnh. Vợ chồng đều rất trung hậu, nửa điểm không có ý hại người, chút lợi cũng không động lòng riêng. Một tối Lã Thị nằm mộng thấy tự nhiên bay lên trên trời, muốn xuống mà không được, rồi lại có một con rồng vàng, mà cưỡi để hạ xuống, nhổ một chiếc râu rồng mang về nhà. Bỗng nhiên tỉnh lại. Từ đó cảm mà có mang thai.

Mùa xuân năm sau đó ngày 11 tháng giêng sinh hạ được một người con trai, phong thái chỉnh tề, khí chất khôi ngô, vượt hơn người thường rất nhiều. Đang lúc sinh có khí lành bao phủ, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày thì người cha đặt tên là Lý Công Bôn. Quả nhiên Hoàng thiên không phụ, đất lành hưng vượng, sông biển đúc thiêng, núi sông nuôi dưỡng. Ông khi sinh đã có tính linh, tròn tuổi đã biết nói, 5 tuổi đã hiểu âm luật. Đến năm 7 tuổi thì chẳng may cha bị bệnh mất. Ông tuy còn nhỏ nhưng lanh lợi, đối với cha mẹ thì hiếu kính, với họ hàng làng xóm thì ôn hòa, ai cũng đều khen ngợi. 

Đến năm 16 tuổi ông làm quan cho nhà Lương. Năm 21 tuổi trở về nuôi dưỡng mẹ. Khi ấy Tiêu Tư có một người mưu sĩ tên là Chu Năng, thạo việc xem thiên văn, thường nói với Tiêu Tư là:

– Nước Nam có một người lạ, nhưng người này không được thọ lâu.

Tiêu Tư cười rằng:

– Lạ mà không thọ thì lạ làm gì.

Một hôm Tiêu Tư ở trong nhà, mơ màng như mộng, thấy có một thiếu niên tự xưng là Ất Lý bản thuộc, tay cầm song kiếm đuổi Tiêu Tư mắng rằng:

– Đất của ngươi là nước phương Bắc. Hãy trả lại nước Nam nơi đây của ta.

Tiêu Tư trong mộng chạy dài cho tới lúc thoát. Bỗng nhiên bàng hoàng tỉnh dậy, biết là nằm mộng. Bèn gọi Chu Năng đến giải giấc mộng đó. Chu Năng nói:

– Thần đã xem sao trên trời và báo với chúa công, nhưng chúa công không chú ý. Nay chúa công đã mộng thấy như vậy, tất là trời cho điềm báo trước. Sự thể như vậy, thần xin được đi vi hành thăm dò tình hình mà định kế.

Tiêu Tư đồng ý như thế. Thế là Chu Năng chọn một người tùy tùng xem hướng mây mà đi. Hai tháng sau đi đến Long Biên, quả nhiên thấy một ngọn núi có tên là Ất Lý. Chu Năng xem xét nơi đó thấy địa linh tất sinh nhân kiệt. Ngẩng mặt lên xem mây trên trời bỗng thấy hoa mắt, hôn mê, trong lòng đau đớn, nôn ra máu, ngã ra mà chết. Đó chính là sơn thần muốn giúp Lý Bôn nên đã đánh chết Chu Năng. Câu chữ để đời là:

Nam quốc sơn hà khai thái vận

Thiên tâm giáng phúc thái bình quân.

Dịch là:

Núi sông nước Nam mở vận lớn

Lòng trời giáng phúc vua thái bình.

Chu Năng bị sơn thần đánh chết, còn người tùy tùng chạy về nói với Tiêu Tư. Tiêu Tư bèn dẫn thủ hạ hai trăm người thẳng đến Long Biên, bắt hết già trẻ, nam nữ. Hôm ấy mẹ con Công Bôn cùng họ hàng hơn 20 người may mắn thoát được, chạy ra bên ngoài. Anh Bắc em Tây, ẩn trốn nơi đất khách. Mẹ con Công Bôn không biết phải chạy về nơi nào, cứ liên tục chạy qua mấy ngày, trong người mệt mỏi bèn vào nghỉ nơi miếu ở bên đường, rồi ngủ thiếp đi. Bỗng nhiên nằm mộng thấy một người thân mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng, tự xưng là sử giả nhà trời, quỳ xuống mà đọc rằng:

Quân kim nghi tẩu Sơn Tây đạo

Tam Đới Châu Diên Táo Tuyến hương

Tiền đắc quang huân đồng tán trợ

Hậu ư thử xứ ức niên hương.

Dịch là:

Nay vua nên đến Sơn Tây đạo

Phủ Tam Đái, Táo Tuyến, Chu Diên

Trước được ánh quang cùng trợ giúp

Sau đó là nơi thờ vạn niên.

Công Bôn tỉnh lại, nhớ lại bài thơ thần báo mộng rõ ràng. Sơn Tây, Tam Đái thì đã từng nghe, nhưng Táo Tuyến, Chu Diên thì không biết là nơi nào. Nhưng nghĩ rằng đã có sự hiển báo, tất sẽ có âm phù. Bèn dẫn mẹ là Lã thị tìm đường mà đi. Không đến mấy ngày quả nhiên đến được trang Táo Tuyến, huyện Chu Diên, phủ Tam Đái, đạo Sơn Tây.

Đang khi đó trang Táo Tuyến có ông Triệu Quang Hành trụ trì chùa ở làng đó. Ông Quang Hành tuổi đã gần 60, sống cùng với một người cháu tên là Quang Phục. Đêm hôm ấy [Quang Phục nằm mộng thấy Long thần của chùa đến bảo trụ trì phải quét dọn cửa chùa sạch sẽ vì ngày mai sẽ có mẹ con của quốc vương đến. Quang Phục chợt tỉnh dậy thì trời đã rạng sáng, bèn đem việc trong mộng nói cho người bác nghe. Ông Quang Hành bèn sai đồ đệ quét dọn sạch sẽ. Đến giờ Ngọ quả nhiên có mẹ con Công Bôn đến xin nghỉ nhờ.]

Ông Quang Hành thấy Công Bôn là người có tướng lạ, bèn mời mẹ con ông cùng về ở, bố trí riêng một phòng, cho Quang Phục đến phục vụ. Khi ấy Công Bôn 23 tuổi. Quang Phục 11 tuổi. Thật là đã có vua tất có thần tử. Quân thần hợp nhau như cá nước có duyên. Lúc xem võ bị, lúc đọc binh phù, có hùng tài mưu văn lược võ, có chí lớn như Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông. Ngày đêm tính kế, làm việc vì đất nước, chiêu dụ các hào kiệt dẹp loạn cứu dân.

Khi ấy ở bên kia bờ sông đối diện Táo Tuyến có một làng, tên là Đông Lỗ, thấy Công Bôn có lòng như Thôi Đới, nên cứ mỗi tháng hai lần lại đem rượu thịt đến dâng, cùng nói rằng kẻ nước Bắc tàn nhẫn, quý ông có chí dẹp trừ, thần dân đều xin được làm thủ hạ.

Từ đó ông thường đến Đông Lỗ, xem xét địa thế, thấy cùng với trang Táo Tuyến đều không phải đất dụng võ, bèn rút về Long Biên cùng hội quân với anh họ là Lý Phật Tử, gửi hịch đi các nơi phủ huyện kêu gọi hào kiệt đồng tâm dựng nước, vì nghĩa dẹp tàn. Sau này nếu yên định được sẽ cùng hưởng phúc thanh bình. Khi ấy các chi binh mã đến ứng mộ cộng được hơn ba vạn người. Bèn lấy Triệu Quang Phục làm Tả tướng, Lý Phật Tử làm Hữu tướng. Trong vòng ba bốn năm đuổi được Tiêu Tư về Bắc, dẹp sạch bụi trần bốn phương, khôi phục núi sông nước Nam. Công Bôn bèn lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đóng đô ở Long Biên, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.

Khi đó nội cung của Đế có 1 Hoàng hậu, 6 quý phi, 70 cung tần. Một hôm Đế xa giá đi tuần du ở Nam Hải gặp một người con gái tuổi khoảng ngoài 20, hình dung nhan sắc tựa như Hằng Nga trên trời. Đế tự nghĩ đây là tiên giáng, là phong nữ hay là kiều hoa, sao ở chốn này lại có người như vậy.  Bèn gọi lại trước mặt mà hỏi. Người con gái ấy đáp rằng:

– Thiếp vốn là người Nam Hải, nhà ở chốn này. Khi thiếp lên 3 tuổi, cha mẹ đều mất, nên không biết tên họ như thế nào. Đến năm 10 tuổi trước đây có một ông lão đầu bạc từ biển đến nói rằng thiếp khi ngoài 20 tuổi sẽ gặp được đấng quân vương. Nay thiếp đã tròn 22 tuổi, gặp được thiên nhan, tất là lão ông đầu bạc chính là bậc chân tiên vậy.

Đế nghe vậy vô cùng thích thú bèn cùng về triều, nhân nàng là người Nam Hải nên đặt tên là Nam Hải nương, lập làm Đệ nhất cung phu, tình yêu quý ngày càng thêm sâu sắc.

Khi ấy Đế ở ngôi được 3 năm, chỉ có Hoàng hậu sinh được hai người con gái, không có con trai. Một hôm Đế cùng với Hoàng hậu và các quý phi, cung tần hơn 20 người đi vãng du các danh lam thắng cảnh, cầu đảo mà vẫn chưa được linh nghiệm. Bèn ở trong cung, ngày đêm thắp hương đến các chư Phật trên trời giáng cho điều lành, cùng bách thần sơn thủy sớm ứng cho điềm tốt, sinh được người kế nối.

Đến đúng đêm Trung thu tháng 8 Đế cùng với Hoàng hậu, quý phi, cung tầm ngắm trăng. Đế bỗng nhiên thấy tâm thần mỏi mệt, bèn dựa án mà nằm, mơ màng thiếp đi, thấy mình cùng với cung phi Nam Hải nương cùng đến một nơi có đền đài nguy nga, quan hầu vô số, nghênh đón Đế cùng cung phi Nam Hải vào ngồi trên lầu cao. Trước mặt có một cuốn sách đỏ, bèn mở ra xem, thấy đều là chuyện các đời đế vương, lời lẽ tươi đẹp. Ở cuối chương có bốn câu rằng:

Thất niên chủ tể tác Nam giang

Thiên sổ an bài nữ hữu tam

Hoàng hậu quý phi giai nhất tuế

Cung phi Đông Lỗ dữ Đàn Bang.

Dịch là:

Bảy năm làm chủ ở Nam giang

Số trời an định nữ ba nàng

Hoàng hậu, quý phi cùng năm mất

Cung phi Đông Lỗ với Đàn Bang.

Đế lật lại muốn xem kỹ thì bỗng nhiên tỉnh giấc. Nghĩ lại bài thơ trong mộng không khỏi lấy làm lạ. Khi ấy có vị quý phi thứ ba là người động Hoa Lư, phủ Trường An, châu Ái, tên là Hoàng Thị Chung, gả cho Đế từ khi 21 tuổi, đến nay đã được 27 tuổi. Đêm hôm đó nằm mộng thấy một ông lão dắt đến một con rồng và nói rằng:

– Con rồng này là con rồng cái. Nương tới giờ vẫn chưa sinh nở nên ta ban cho con rồng cái này, tất sẽ sinh được.

Quý phi tỉnh lại đem việc trong mộng tâu lên. Đế nghe vậy nói rằng:

– Rồng cũng có rồng cái sao? Quả nhiên rồng cái là điềm sinh con gái. Cứ như mộng này tất sẽ sinh ra con gái.

Từ đó thấy quý phi mang thai, đến kỳ quả nhiên sinh hạ được một người con gái. Đế nhân giấc mộng của quý phi bèn đặt tên là Rồng Nương, như là ý trời vậy, mệnh Mão. Rồng Nương sinh được 5 tháng thì mẹ đẻ Hoàng Thị bị bệnh mà mất. Còn Hoàng hậu cùng với 5 vị quý phi cùng trong một năm đều qua đời. Đế đem người con Rồng Nương giao cho cung phi Nam Hải phu nhân tìm nhũ mẫu để nuôi. Nam Hải nương mười phần yêu thương như con mình sinh ra vậy.

Khi Rồng Nương được hơn 2 tuổi, Lương Võ Đế lại sai Bá Tiên, Dương Sàn cất quân đến đánh. Đế đánh trận gặp bất lợi nên lùi về ở động Khuất Liêu, rồi bị mắc bệnh đau dạ dày, phong khí nhập vào trong tâm can, không thể làm gì được. Mệnh Đế chỉ còn trong ngày đêm, nhìn quanh chỉ thấy cung phi Nam Hải nương ôm con gái Rồng Nương cùng với mấy người Đông Lỗ, huyện Chu Diên, phủ Tam Đái đứng hầu. Đế lấy trong túi riêng 40 lạng vàng, đem chia đều thành hai phần. Một phần cho cung phi Nam Hải, một phần ban cho người ở Đông Lỗ, rồi dặn rằng:

– Trẫm nay bị bệnh rất nặng, vạn phần sẽ mất. Duy chỉ muốn người con gái út Rồng Nương cùng với cung phi Nam Hải giao phó lại nhờ các ngươi. Sau khi Trẫm mất, các ngươi hãy dẫn trở về quê của các ngươi để nuôi dưỡng.

Lại nhân đó nói với Nam Hải nương rằng:

– Ta bất hạnh không có con trai, chỉ được ba người con gái. Hai người đã đều có nơi chốn, chỉ còn lại người con út cho nàng làm mẹ. Sau khi chôn cất ta xong mẹ con nàng hãy về ở Đông Lỗ.

Nói xong thì Đế băng hà vậy (khi đó là mùng 8 tháng 10). Nam Hải nương khóc lóc động trời, nhưng sự thể không thay đổi được. Bèn cùng với Lý Phật Tử, Triệu Quang Phục làm lễ chôn cất. Sự xong Lý Phật Tử vào động Dã Năng, Triệu Quang Phục về đầm Nhất Dạ. Nam Hải nương theo lời di chúc đem con gái út Rồng Nương cùng người Đông Lỗ trở về Đông Lỗ. Người Đông Lỗ đó kể lại rõ ràng việc Đế cho vàng và di chúc lại với phụ lão nhân dân. Vị Nam Hải là cung phi của Đức vua ông Lý Nam Đế. Rồng Nương là con gái út của Đức vua ông. Nhân dân nghe lời không khỏi cảm động, bèn lập một ngôi miếu nhỏ, viết thần hiệu Đức Vua Ông Lý Nam Đế để phụng thờ. Từ đó nhân dân tôn gọi Nam Hải là Đức Vua bà, gọi Rồng Nương là Đức Vua con, hiệu là Ả Toát, mà không gọi tên.

Từ đó cung phi Nam Hải cùng với Rồng Nương sống ở Đông Lỗ, khuyến khích nghề cấy trồng dệt vải, tạo điều tiện lợi, trừ dẹp điều hại, thật là có nhiều công lao với dân vậy. Đến khi Rồng Nương lên 14 tuổi thì xuất gia ở trong chùa Đông Lỗ thờ Phật, cải tên là Đàn Bang.

Khi ấy Triệu Quang Phục trở về ở Dạ Trạch, có được móng rồng để trên mũ đâu mâu, hướng vào đầu thì khắc chế được nơi đó, là điềm trời ứng vậy, bèn tự lập là Triệu Việt Vương. Bèn lệnh các tô thuê và phục dịch của Đông Lỗ làm bổng lộc cho cung phi Nam Hải nương cùng với Ả Toát Rồng Nương Đàn Bang. Đến khi Nam Hải nương 50 tuổi, Rồng Nương 27 tuổi thì đều không bệnh mà mất. Nhân dân Đông Lỗ dâng tấu lên Triệu Việt Vương. Vương dùng lễ hậu sai cùng đón về quê Đế ở Thái Bình, chôn cùng với Đế một nơi. Chôn cất xong nhân dân Đông Lỗ trở về, nhớ đến công đức bèn viết thần hiệu Đức vua bà Lý Nam Đế cung phi Nam Hải phu nhân, Đức vua con Lý Nam Đế con gái út tên Ả Toát Rồng Nương Đàn Bang tôn thần, mà lập các miếu để phụng thờ.

Thời Việt Vương có truy tặng mỹ tự Ngọc bệ hạ. Hậu Lý Nam Đế cũng truy tôn mỹ tự Chí Di [Quốc vương Thiên Tử Ất] Lý Nam Đế v.v. Thời Tùy Văn Đế cho Lưu Phương làm Thái thú đất Việt ta. Lưu Phương đến đất Việt tới đền Đông Lỗ, giáng Đế xuống là Nam Giang Đại vương, nhưng vẫn cho Đông Lỗ phụng thờ.

Nhân dân vâng ghi:

Vâng chép sinh hóa các tiệc cùng với các chữ húy nhất thiết cấm là năm chữ Bôn, Nam, Hải, Rồng, Nương.

Ngày sinh của Đế là 11 tháng Giêng, dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát.

Ngày hóa là mùng 8 tháng 10, dùng cỗ trâu, xôi, rượu.

Ngày sinh của vị Nam Hải không rõ. Ngày hóa là 20 tháng 3, dùng gà, lợn, xôi, rượu.

Ngày sinh của Đức Vua con là mùng 10 tháng 8. Ngày hóa là 20 tháng 2.

Hoàng triều niên hiệu Hồng Phúc năm thứ 9 ngày tốt tháng cuối xuân, Hàn lâm viện Đông các Học sĩ, thần là Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2, ngày tốt tháng đầu thu, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần là Nguyễn Hiền tuân theo bản chính mà vâng chép.

Một trang ngọc phả thôn Đại Phúc.

Ngọc phả triều Lý (Thần tích Phù Lập, thôn Trung, tổng Thụ Phúc, Tiên Du, Bắc Ninh)

Quản giám tri điện bộ Lễ triều Lê vâng sao ngọc phả cổ truyền

Hoàng đế Bệ hạ khâm phụng sắc văn thần hiệu:

Sắc phong Đại đô Thành hoàng Đại vương Lý Nam Đế Đê Vũ Linh ứng Đại vương tôn Thượng thượng đẳng Phúc thần.

Sắc phong Nhàn uyển Phong tư Trinh thục Quý Minh Công chúa.

Sắc văn:

Hùng chấn uy linh, tôn nghiêm chính thuận,

Anh dục sơn xuyên, tú chung hà hải,

Cao phối thiên, hậu phối địa,

Hách quyết linh, trạc quyết thanh.

Phổ thông linh tế, cao minh bác học,

Hiển đức lượng công, quảng duyên lưu khánh.

Phổ hoá thí nhân, khuông quốc khang dân.

Tặng Thượng thượng đẳng Phúc thần. Cho phép phường Hạ, trang Thụ Triền, huyện Tiên Du, quận Từ Sơn, đạo Bắc Ninh phụ lão phụng lĩnh hai đạo sắc văn mang về phụng thờ. Cơ thần tương trợ, bảo vệ lê dân. Vâng thay!

Xưa có người quê ở Thái Bình. Đất này bằng phẳng, sông nước đẹp đẽ. Rạng rỡ ngàn năm trong tín sử. Vạn đời rờ rỡ linh thiêng, quy mô to lớn rành rẽ, công nhiều nghiệp lớn. Vận nước lâu bền. Kế lớn tốt lành vậy!

Từ cháu ba đời của Lý Cầm sinh ra Lý Quế Hòe, vợ là Võ Thị Hương. Vợ chồng tích thiện hành nhân, ngày đêm hương khói thờ Thượng đế. Một nhà phong lưu, ba sinh hưởng lửa đủ đầy, dư giả vậy. Vào năm Quý Hợi tháng 2 ngày mùng 8 bà họ Võ nằm mộng thấy ánh sáng đầy nhà. Chốc lát có một con rắn hoa trắng cuốn khúc trườn tới, bỗng hóa thành một đóa hoa sen. Bà họ Võ cầm lấy thì tỉnh giấc, bèn kể lại cho ông Lý Quế Hòa. Từ đó uyên ương chung gối mà có mang. Mang thai được một năm, đến ngày mùng 9 tháng 2 năm Giáp Tý điềm lành ứng hiện, hương thơm khí bay đầy nhà, trong trướng rực rỡ. Bà họ Võ sinh được một bầu. Từ sáng sớm mây trời mù mịt, đến giờ Ngọ thì sinh ra, mưa trời ngừng tạnh quang đãng. Bèn đặt tên con là Vũ.

Khi sinh ra diện mạo phi thường, hình dung quý phái. Đến khi lên 5 thiên tư thông minh khác lạ, phẩm chất hơn người. Hàng ngày thường ở yên một nơi tự học xem sách, không đợi người giúp dạy. Lại giỏi đánh đàn, tinh thông âm luật. Đến khi 15 tuổi đi thi đậu Hiếu liêm, được cử làm quan cho nhà Lương là quan lệnh Long Xuyên (đổi tên là Lý Bôn Long), rồi được đề bạt chức Hiệu úy. Gặp lúc nhà Lương có loạn, bèn từ quan về rồi khởi binh đuổi các thủ lệnh, phá giặc Lâm Ấp bên ngoài. Liền xưng Đế, lập nước hiệu Vạn Xuân, đặt niên hiệu Thiên Đức, đóng đô ở Long Biên.

Ba năm sau, nhà Lương dẹp được loạn. Nhà Lương sai Tư mã Trần Bá Tiên đến xâm chiếm. Đế dẫn quân chống cự, thua ở Tô Lịch, sau lại thua ở Gia Ninh. Đế cùng với các tướng trong họ tộc dẫn quân vào Tân Xương, ở Liêu Trung, thu dưỡng quân binh, sửa sang khí giới giáo giáp. Tháng 8 lại dẫn quân ra đóng đồn ở hồ Điền Triệt, làm nhiều chiến thuyền lớn đóng chật mặt hồ. Quân Lương sợ hãi.

Một đêm nước sông chảy mạnh vào trong hồ. Quân Lương theo đó đánh trống reo hò mà vào. Đế cùng với các tướng cùng họ tộc rút lui về giữ trong động Khuất Liêu, giao lại quyền cho tướng Triệu Quang Phục chống cự với quân Lương của Bá Tiên. Đế ngày mùng 5 tháng 5, bỗng thấy một áng mây xanh, ba tiếng hiệu lệnh vang trên trời. Trong thành đất trời chuyển động, núi sông, cây cỏ vạn vật đều khiếp sợ. Mây lành năm sắc rực rỡ. Ba ngàn thế giới, vạn vật trăm thú kình nghê, cá rắn theo mưa gió đến hội chầu. Vương thấy nước nhà có điềm lạ, bèn chiếu lệnh cho quan văn võ áo mũ chỉnh tề, chay tịnh, đều tề tựu ở điện Kính Thiên vâng chờ lệnh, chầu bái Hoàng Đế, Thượng Đế, Tứ phủ vạn linh.

Hôm đó là ngày Giáp Thìn, một đám mây vàng bay từ phía Tây tới, dừng lại ở đầm rồng của điện Kính Thiên. Tự nhiên có 4 tướng hiện ra, cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, thân mang áo hoàng bào gấm vóc, hông đeo đai ngọc, chân đi giày sắt, miệng cười hào quang tỏa lửa, mây bay ngập mắt, tay cầm một lệnh bài: Ngọc Hoàng Thượng đế sắc hạ xuống Nam Miên. Vương về triều sẽ tự nhiên mà bay lên.

Đến ngày 15 tháng 10 Lý Nam Đế bỗng nhiên thân thể mệt mỏi, dưah vào lan can, mơ màng mà hóa đi. Tên thờ là Đê Vũ Đại vương.

Lại nói, Công chúa Quý Minh là người làng Bồng Lai, có cha là Võ Bá Khánh, lấy vợ là Nguyễn Thị Dung. Đến ngày 15 tháng 3 sinh được một người con gái, nhan sắc tươi đẹp, hình tuy là nữ nhưng lại tương tự như nam. Ai cũng nói là có mặt đẹp như hoa đào, sắc xinh như ánh nước, thực là dung nhan chim sa cá lặn, lại có tướng mạo hoa nhường trăng thẹn, mày loan như trăng mới mọc, mắt trong như sóng thu, rang soi trắng trẻo mềm mại như hoa đang nở, ngọc sinh hương. Nên đặt tên là Minh. Hình dáng đều xem toàn mỹ vậy.

Đến năm lên 18 tuổi đi chơi ở Long Biên. Lý Nam Đế lúc đó đi chơi trong thành, gặp Quý Minh ở thành Long Biên, lấy làm thích thú, bèn đón về đô thành, làm sính lễ lớn mang đến ông Võ Bá Khánh. Mở tiệc trong quân cho tướng sĩ vui vẻ. Tự lập làm Đệ tam cung Công chúa. Sau khi về giữ ở động Khuất Liêu, đến tháng 5 Đệ tam cung Công chúa bị bệnh. Đến ngày 12 tháng 8 thì hóa.

Đế rất đau xót, bèn sai đem hài cốt chôn cất ở vùng đất trong động. Đến khi Hậu Lý Nam Đế truy tặng tổ tiên, đề cao công đức, tu lập đền miếu, phong thêm cho bách thần đã hóa của triều trước,  lệnh bộ Lễ viết sắc phong thần, ban cho tiền để dựng miếu, giao cho bộ Lễ mang sắc phong tới 372 đền truy tặng:

– Lý Nam Đế là Đê Vũ Linh ứng Đại vương Thượng thượng đẳng Phúc thần.

 Nhàn uyển Phong tư Trinh thục Quý Minh Công chúa.

Bộ Lễ vâng mang sắc phong qua phường Hạ, trang Thụ Triền thuộc đạo Bắc Ninh. Phụ lão tới hầu vâng lĩnh hai đạo sắc văn mang về phụng thờ. Phụ lão trang Thụ Triền tề tựu đón thỉnh thầy phong thủy có tiếng, tìm xem thiên văn địa lý, gặp thấy được ở ngay trong trang có một nơi có thế cục quý, dựa Càn Tốn, hướng kiêm Mão Dậu, lại còn trước có ấn đường làm án, nước chảy chầu phía trước, núi ngang hình chữ nhất, sau có rồng cuốn ôm gối, hai dòng nước hợp như cổ áo, là đất phát nhiều con trai mạnh khỏe, văn nhân tuấn tú. Bèn giao phường Hạ phụng thờ, muôn năm càng thêm tăng ngưỡng, trải các đời càng thêm kính thờ, ghi cúng ghi thờ để cho sống lâu, mạnh khỏe, phù trì cho phường Hạ được hưng vượng vậy.

Ngọc phả ghi chép Tiền Lý Nam Đế và Linh Nhân Hoàng Thái Hậu

Thần tích xã Hữu Lộc, tổng Cự Lâm, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình, dịch từ bản chép tay năm Tự Đức thứ 13 hiện lưu lại miếu Hữu Lộc, có đối chiếu với bản thần tích số hiệu AE.a5/61 của Viện nghiên cứu Hán Nôm.

Chi Càn, bộ Thượng đẳng. Bản chính bộ Lễ quốc triều.

Xưa đất Việt ta, họ Hùng mở mang cơ nghiệp, các bậc thánh tổ dựng cơ đồ, truyền nối 18 đời, thịnh trị được hơn 2000 năm. Cha truyền con nối đều xưng là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một mối. Đó là tổ của Bách Việt vậy. Truyền đến Tuyền Vương không có người nối dõi, bèn nhường nước cho Thục An Dương Vương. Dương Vương giữ nước được 50 năm thì đến Triệu Đà lấy nước, từ đó nội thuộc nhà Hán. 

Trải qua các triều đại Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, đến khi nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm Thái thú đất Việt ta. Tư vốn là người tham tàn bạo ngược, thi hành chính sách hà khắc. Đất Việt ta ai ai cũng chịu cảnh lầm than, không chốn cậy nhờ. Nhưng may thay lòng người u uất, ý trời tất sẽ dẹp yên! 

Bấy giờ có người ở Long Hưng, Thái Bình họ Lý tên Bí, tổ tiên vốn là người phương Bắc. Cuối thời Tây Hán phải khổ sở việc chinh chiến, phu dịch mới lánh sang đất Nam sinh sống,  trở thành người Nam, đến đời ông cũng được 7 đời (Xét tích xưa, cha của ông là Lý Công Chước, mẹ là Trương Thị Hằng. Mẹ ông mộng thấy cưỡi rồng bay lên trời ôm được Thái dương Tinh quân mà hạ xuống thì bỗng nhiên tỉnh giấc, biết là gặp giấc mộng Bồng Từ mà thôi. Thế rồi bà có mang, mà đến khi sinh ông vào ngày 12 tháng 7 giữa mùa thu năm Nhâm Thân. Đương lúc sinh ra, hào quang đầy phòng, khí lành bao phủ xung quanh. Khi ấy mọi người đều hô rằng: Hương thơm là từ hài nhi đó). Ông bẩm sinh minh mẫn chẳng học mà cũng biết. Trên tỏ thiên văn, dưới tường địa lý, tất cả đều tinh thông. Năm ông vừa 16 tuổi, cha mẹ đều lần lượt qua đời. 

Năm 19 tuổi, ông ra làm quan nhà Lương làm chức Thái bộc xạ. Đến khi nhà Lương gặp loạn, ông trở về Thái Bình chiêu hiền nạp sĩ, dấy đại quân khởi nghĩa. Ông xem xét thấy nơi nào đất Việt ta có đất đai trù phú, dân cư trọng yếu vững chắc, ông đều lập đồn doanh để làm nơi phòng ngự. Một hôm ông dẫn quân đi qua khu An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam. Ông thấy địa thế nước chạy uốn quanh co như rồng uốn khúc, bên cạnh có một dòng sông nhỏ chảy vòng quanh, sơn thủy hữu tình. Vả lại nơi đây nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu. Đúng là nơi đất để lập đồn doanh. Ông cao hứng ngâm một bài thơ:

Thành thị lâu đài xinh tựa ngọc

Núi sông, hoa cỏ ngát màu xanh

Thừa khí đúc thành, tuy mạch nhỏ

Nơi đây thực chốn dựng cung thành.

Hôm ấy ông lập tức sai quân lính cùng nhân dân xây dựng một đồn doanh ở phía bờ ngạn sông nhỏ bên cạnh khu dân cư, tọa Quý hướng Đinh, phân kim kiêm hướng Bính Tý, Bính Ngọ. Mọi việc hoàn tất, từ đó ông Đông chinh Tây chiến, thường thường qua lại đóng quân ở nơi này.

Lại nói, bấy giờ ở khu Tây Để có người con gái nhà họ Đỗ tên là Khương Nương (Xét tích xưa, cha của Khương Nương là Đỗ Công Cẩn, mẹ là Bùi Thị Hoan, vốn là người khu Tây Để, gia thế lấy nghề y sinh sống. Ông Đỗ đã ngoài 50 tuổi mà chưa có con. Vợ chồng ông đi lễ cầu đảo đến chùa núi Phật Tích, mộng thấy có một người trao cho một chiếc gương vuông, đến khi trở về thấy cảm động trong người mà có thai. Đến kỳ sinh nở vào ngày mùng 10 tháng 11 mùa Đông năm Đinh Sửu, bà sinh hạ được một người con gái, má phấn môi hồng, mắt phượng mày ngài. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết đặt tên cho con là Khương Nương). 

Năm 16 tuổi tròn, Khương Nương nhan sắc tuyệt trần, cho dù tiên nữ chốn Bồng Doanh hay người đẹp nơi Lãng Uyển cũng chẳng thể vượt qua. Vả lại ngay từ nhỏ nàng đã theo học tinh thông kinh sử. Người đương thời gọi là bậc nữ trung mà còn hơn cả nam giới. Tuy nhiên chốn thiềm cung còn đóng, lá ngọc đương phong, mối lương duyên chưa hẹn cùng ai. 

Bấy giờ Lý công nghe biết nàng tài sắc vẹn toàn bèn nói với Đỗ Công xin được đính ước kết duyên trăm năm cùng với Khương Nương. Đỗ Công mừng lắm liền đồng ý. Thế rồi chọn ngày ngày lành tháng tốt định lễ sánh đôi duyên hòa hợp cùng nhau. Từ đấy ông lập làm Đệ nhất cung phi, cho nàng ở lại khu Tây Để để phụng sự cha mẹ nàng. 

Xong việc, mổ trâu bò khao thưởng quân sĩ. Ông chọn đinh phu trai tráng trong khu Tây Để được 36 người để làm người hầu cận thân tín. Hôm ấy liền đem quân thẳng tiến, trên thuyền thì chiêng trống sấm vang lừng ngàn dặm, trên đường tinh kỳ hai bên như ảnh bóng long xà lay động, tiến thẳng đến thành Tiêu Tư đánh lớn một trận, Tiêu Tư đại bại, bỏ thành tháo chạy. Lý công chiếm giữ được thành ấy nhưng chưa được bao lâu quân Lâm Ấp lại vào cướp bóc. Ông lại sai Đại tướng Phong Tu đại phá quân Lâm Ấp. 

Thiên hạ thái bình, giặc cướp được dẹp yên. Ông lên ngôi Hoàng đế, tự lập là Tiền Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt quốc đô là thành Long Biên. Năm ấy, cũng sách phong cho Khương Nương làm Hoàng hậu, lấy khu Tây Để làm nơi nghỉ ngơi cho Hoàng hậu. Dân được ban cho miễn tô thuế, binh phu. Từ đấy trang thôn Tây Để đều được nhận phúc lành, tất thảy đều được vinh hiển giàu có vậy.

Lại nói, từ khi Khương Nương vào triều đã được 4 năm. Một hôm Đỗ công bỗng bị bệnh cảm ngoài rồi Đỗ công mất. Vua cho Hoàng hậu và một viên Đại tướng đưa Hoàng hậu về khu Tây Để làm lễ an táng. Từ khi Đỗ công mất, phu nhân của ông vì đau buồn trước cái chết của chồng mà lâm bệnh nặng, thuốc thang chữa trị mà chẳng thuyên giảm, cầu thần cũng chẳng công hiệu. Phu nhân cũng qua đời, Hoàng hậu bèn làm lễ mai táng, viết biểu tấu với vua xin cho phép ở lại quê nhà chịu tang cha mẹ. Vua chấp thuận và ban cho vô số vàng bạc, lụa là gấm vóc. Từ đấy, Hoàng hậu ở khu Tây Để chuộng làm việc nhân nghĩa, phát chẩn cứu bần. Phàm trong nhân dân từ người già yếu cho đến người cô quả Hoàng hậu đều đem của cải trong nhà ra cứu giúp. Tất thảy nhân dân đều ca ngợi ân đức, đội ơn như trời biển, thân yêu như cha mẹ vậy.

Lại nói, bấy giờ Lý Nam đế ở ngôi đã được 7 năm. Nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên đem quân xâm chiếm nước Nam để rửa mối nhục. Khi đó vua đóng quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tiến lại gần, đã hơn năm mà chưa phân thắng bại. Bấy giờ vào tháng 6 mùa hè, nước sông dâng lên đổ vào đầy hồ. Bá Tiên thừa cơ chỉnh đốn thuyền bè theo dòng nước mà thẳng tiến vào hồ Triệt. Quân của vua bị thua. Vua bèn trao quyền lại cho Đại tướng Triệu Quang Phục, còn mình lui vào giữ động Khuất Liễu rồi qua đời (bấy giờ là ngày 15 tháng 7). Khi đó trời đất bỗng nhiên tối tăm. Qua 3 ngày thì trời quang mây tạnh. Tại nơi này đã thấy mối đắp thành gò lớn. 

Lúc này Khương Nương Hoàng hậu đang ở khu Tây Để, khóc lóc ầm trời, không ai ngăn nổi, lập tức truyền cho nhân dân xây dựng một đền ở bên bờ sông nơi cung doanh theo phương hướng cũ, viết thần vị của vua là: Tiền Lý Nam Đế Hoàng đế, để phụng thờ.

Công việc xong xuôi Khương Nương bèn ban cho nhân dân 10 hốt vàng để nhân dân mua nhiều ao ruộng làm vốn công. Lúc đó Khương Nương bảo với nhân dân rằng: 

  • Ta với nhân dân đã thành tình nghĩa lâu rồi, chẳng phải một ngày mà nên há lại quên sao? Ví như ta về sau trăm tuổi thì nhân dân viết tên thần vị của ta để phụng thờ với Tiên đế, cùng được phối hưởng. Nhân dân nên tuân theo lệnh của ta không được thay đổi. 

Lúc đó nhân dân đều lạy tạ nhận lệnh. Việc xong Khương Nương và 6 người hầu gái cùng vào động Khuất Liễu thăm viếng lăng mộ của Tiên đế. Trên đường đi mới vào đến trong động, bỗng nhiên thấy trời đất mờ mịt, sấm chớp ầm vang. Trong một khoảnh khắc mây đen tan biến thì Khương Nương đã không còn thấy đâu nữa rồi. Chỉ thấy bên cạnh lăng mộ của Tiên đế lại nổi lên một gò đất (bấy giờ là ngày 16 tháng 2). 

Lúc đó mấy người thị nữ theo Nương đến đấy nhìn thấy sự tình như vậy tất cả đều kinh hãi. Khi trở về nói với nhân dân thì nhân dân đều nói ngày 16 tháng đó, nhân dân đều nhìn thấy có một vầng sáng lớn giống như dải lụa từ phương Nam bay ngang thẳng đến trước miếu rồi biến mất. Đến lúc này, khi nghe tin Hoàng hậu đã hóa thì nhân dân đều lấy làm kinh sợ. Hôm đó nhân dân làm lễ viết tên thần: Khương Nương Hoàng hậu, để phụng thờ cùng một nơi với Lý Nam Đế. 

Lại nói, từ khi Lý Nam Đế đã băng hà, Quang Phục đem quân về giữ đầm Dạ Trạch, lập đàn cầu đảo trời đất. Sau 3 ngày thấy một ông lão cưỡi rồng vàng từ trên trời bay thẳng xuống, tuốt móng rồng trao cho Quang Phục. Quang Phục đem làm lẫy nỏ, gọi là Nỏ thần móng rồng. Phàm có những khi nhanh hay chậm, mọi lúc đem hướng vào thì đều không có ai chống lại được. Vì thế mà bình định được giặc Lương. Quang Phục tự lập làm Triệu Việt Vương. 

Bấy giờ có con của anh trai Tiền Lý Nam Đế (tức là con của Đào Lang Vương) tên là Lý Phật Tử cùng con trai là Nhã Lang khởi binh ý đồ muốn khôi phục nhà Lý. Nhưng vì Triệu Việt Vương có nỏ thần móng rồng, nên khi giao chiến quân của Lý Phật Tử đều thua cả. Một ngày Phật Tử cùng với các tướng sĩ bàn âm mưu cầu hôn con gái của Triệu Việt Vương là Bạo Nương, xin cho Nhã Lang kết duyên vợ chồng. Việt Vương đồng ý, quần thần đều can ngăn nhưng vua không nghe. Thế là Lý Phật Tử sai con trai Nhã Lang nhập vào hàng quân để làm con tin. Từ đấy, Triệu Việt Vương rất tin yêu Nhã Lang. Trải qua thời gian 1 năm, một ngày Nhã Lang cùng Bạo Nương ngồi uống trà. Nhân đó Lang mới hỏi Cảo Nương rằng: 

  • Xưa kia 2 nước cùng là kẻ thù giao chiến không ngừng. Nay đã nên duyên Tần – Tấn thì việc chiến tranh cũng có thể đã dứt rồi. Nhưng xưa kia Hoàng phụ có thuật lạ gì mà khiến cho phụ thân ta nhiều lần thua bại? 

Bạo Nương chẳng để ý đem nỏ thần móng rồng cho Nhã Lang xem. Nhã Lang trộm nhìn biết được như vậy. Một ngày khác hoán đổi lẫy nỏ, lấy trộm móng rồng cất giấu một nơi. Xong việc Nhã Lang xin vua cho về thăm cha. Vua cho về. Nhã Lang vội vàng phi ngựa chạy về đem tâu với cha mình. Lý Phật Tử biết vậy đem quân tới đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương đã mất nỏ thần, đành bỏ thành mà chạy thẳng đến của biển Đại Áp mà mất. Tàn quân còn lại đều được dẹp yên. 

Phật Tử lên ngôi tự lập làm Hậu Lý Nam Đế. Ông bèn luận công ban thưởng các cấp bậc. Thế rồi tặng phong sắc chỉ, mỹ tự cho bách thần. Bèn tôn phong cho Tiền Lý Nam đế sắc chỉ là Thượng đẳng Tôn thần, lại tôn phong cho Khương Nương làm Linh Nhân Hoàng Thái hậu. Truyền cho các địa phương sở tại, trang khu có đồn doanh được thiết lập của Lý Nam Đế trước đây, nhanh chóng trở về kinh thành nghênh đón sắc phong mang về nhân dân để phụng thờ. Bấy giờ khu Tây Để nghe được chiếu chỉ, các bậc phụ lão tới kinh thành làm lễ rước sắc về, nhân dân sửa sang miếu điện để phụng thờ. Từ đấy về sau, nhân dân, đất nước cầu đảo đều có nhiều linh ứng.

Khi nước Nam trải qua các triều đại có Đinh, Lê, Lý, Trần 4 nhà khai sáng nghiệp lớn, đều thường giúp nước cứu dân. Đến cuối nhà Trần, họ Hồ tranh ngôi, giặc Minh làm loạn. Bấy giờ có người ở động Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu, họ Lê tên Lợi khởi nghĩa Lam Sơn với ba ngàn quân mạnh đã tiễu trừ được họ Hồ và dẹp yên giặc Minh. Liền lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn, đó là Lê Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên.

Truyền ngôi đến Chiêu Tông thì quyền thần họ Mạc chiếm ngôi. Bấy giờ có Đại thần là Nguyễn Thái úy dẫn quân đánh dẹp. Một ngày quan Thái úy dẫn quân qua nơi miếu khu Tây Để làm lễ cầu đảo, cầu âm phù đánh giặc giúp nước dẹp giặc, nếu sau này đất nước được thanh bình sẽ cùng nhau được hưởng phúc lành. Làm lễ xong đem quân tiễu trừ giặc Mạc. Đến khi thiên hạ thái bình Thái úy cùng Chiêu Tông trở về chính cung, lên ngôi Hoàng đế. Thế rồi ban thưởng công lao ba quân, gia phong tướng sĩ các cấp theo thứ bậc, cho đến việc truy phong bách thần giúp nước. Quan Thái úy dâng biểu tâu ngày trước đã cầu đảo ở nơi miếu khu Tây Để. Vua nghe biết bèn gia phong sắc chỉ, lệnh cho quan Thái úy rước sắc về khu Tây Để làm lễ tế tự. Thái úy phụng mệnh nghênh sắc về khu Tây Để, cho mổ trâu, làm lễ tế tự. Việc xong, truyền cho nhân dân sửa sang cung đền để giữ hương khói ngàn năm, cùng hưởng phúc lành với đất nước kéo dài mãi mãi là lệ thức vậy. Tốt thay!

Tôn phong Tiền Lý Nam đế Hoàng đế Thượng đẳng Tôn thần.

Phong cho Linh Nhân Hoàng Thái hậu triều Lý.

Ban cho khu Tây Để, trang An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam phụng thờ.

Theo các tiết Khánh hạ, ngày hóa, ngày sinh và tên húy tên tự: hai chữ Bí, Khương cùng tên Thánh phụ, Thánh mẫu xem trong tích trên, tất thảy đều phải tránh âm. Đền chính ở động Khuất Liễu.

– Ngày 12 tháng 7, ngày sinh của Hoàng đế. Lễ dùng trâu bò, ca hát.

– Ngày 15 tháng 7, ngày hóa của Hoàng đế. Lễ dùng lợn đen, xôi, rượu.

– Ngày mùng 10 tháng 11, ngày sinh của Hoàng hậu. Lễ dùng tế trên mâm chay oản, quả, mâm dưới dùng lợn đen, xôi, rượu.

– Ngày 16 tháng 2, ngày hóa của Hoàng hậu. Lễ dùng y như lệ trước trong ngày sinh của thần.

– Ngày Khánh hạ mùng 2 tháng Giêng, ngày mùng 2 tháng 12. Làm lễ tùy theo.

Phàm trong thiên hạ các trang, khu phụng thờ Lý Nam Đế tổng cộng có 87 nơi, mà khu Tây Để là thứ 28 trong đó.

Ngày tốt tháng đầu thu năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng mệnh soạn.

Ngày tốt tháng giữa mùa hè năm Hoàng triều Vĩnh Hựu thứ 4 (1738), Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền lại tuân theo bản chính triều cũ phụng mệnh sao chép.

Hoàng triều Tự Đức năm thứ 13 (1860) ngày tốt tháng cuối mùa ?, dân gốc của xã lại tuân theo đúng như bản chính mà vâng chép.

Hai vị Lý Nam Đế trong sử Việt

Trên cơ sở phân tích các di tích và sự tích về Lý Nam Đế, có thể nhận thấy có 2 nhân vật lịch sử Lý Nam Đế có nguồn gốc và thời gian tách biệt, cụ thể là:

1. LÝ BÔN LONG, người Long Hưng Thái Bình, làm quan lệnh Long Xuyên, lấy vợ ở Vũ Thư, đánh Long Biên – Bắc Ninh, xưng đế nước Vạn Xuân, chặn giặc ở Hợp Phố, khi dời đi đã giao quyền cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục. Tức đây là Triệu Vũ Đế khởi nghĩa kháng Tần chống Sở thời trước Công nguyên.

2. LÝ XÁ LỢI, người châu Dã Năng, đi tu trong chùa từ nhỏ, khởi nghĩa ở vùng Sơn Tây, đánh chiếm vùng Đông Anh – Hà Nội, mở 

nước Lâm Ấp, chặn giặc ở cửa sông Tô Lịch, sau giao quyền lại cho Hữu tướng Phạm Tu. Tức đây là Triệu Quốc Đạt – Khu Liên chống giặc Đông Hán.

Thần tích làng Cổ Trai, tổng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình

Triều Tiền Lý đánh giặc Lương Lý Nam Hoàng Đế cùng Hậu Lý Linh Lang Đại vương

Quan Thượng thư Bộ Lễ thiên triều vâng soạn 

Ghi chép ngọc phả cổ. Chi Càn.
Nước Nam Việt xưa Sơn Nguyên Thánh Tổ trời Nam nhận cơ đồ, cổ gọi là Việt Thường Thị, Kinh Dương Vương thừa mệnh vua cha đến trị trậm Nam Bang, đất thắng châu Lạc xây dựng kinh đô, hình mạnh Nghĩa Lĩnh trùng tu cung cư miếu điện. Đời đời cha truyền con nối hơn hai ngàn năm đều lấy Hùng Vương làm tôn hiệu.
Lại nói, thời trị 18 triều Hùng truyền đến Duệ Vương. Vương thọ 160 năm, không có người kế hậu, bèn nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. Vương có nước được 50 năm, thì có người Chân Nam Định họ Triệu tên Đà cất quân đến đánh, nên nhà Thục mất. Triệu Đà đươc nước, cha truyền con theo đều xưng gọi là bậc chủ anh hùng.
Từ đó đất Việt ta thuộc về nhà Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, tổng cộng 349 năm. Thời vua Lương lấy Tiêu Tư làm thái thú đất Việt. Tiêu Tư là người nặng hình pháp, chính trị ngược ngạo, hại dân. Nhân dân đất Việt thật là chưa có lúc nào khổ như lúc này.
Lại nói, thời ấy tương truyền rằng có người động Thái Bình quận Long Biên họ Lý tên Tấn. Ông là người xử thế văn thơ, khoan hòa hiếu đễ, kế đời theo nghiệp văn thơ, công đức rộng, tài kiêm văn võ, anh hùng vô địch. Ông lấy bà Đào Thị Lan làm vợ, mộng thấy có rồng vàng đến quấn quanh thân mà có mang. Mang thai được 12 tháng 15 ngày đến năm Kỷ Sửu ngày 12 tháng Giêng giờ Thân bỗng thấy mây lành rạng rỡ, khí lành bay khắp nơi, hương thơm ngào ngạt. Thái bà họ Đào sinh được một người con trai, vẻ rồng mắt phượng, 5 gò chầu về, tay dài quá gối, sau lưng có 28 vì tinh tú. Trên bụng có lời viết rằng: Lý Bí Lý Nam Hoàng Đế.
Đến khi lên 5 tuổi đã hiểu âm luật, nên bèn đặt tên là ông Lý Bí. Đến 7 tuổi người cha bèn cho vào học với Trần Giản tiên sinh. Học được 18 năm thì quán triệt văn chương, trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Có thể sánh cùng cung tường Khổng Mạnh, thao lược bốn khóa ba truyện không nhường Tôn Ngô.
Khi ông 16 tuổi thì thân dài 8 thước, sức chống vạn người, cao lớn đường đường, thần oai võ lược. Bỗng nhiên nổi chí tang bồng, tỏ tâm với việc cung tên. Ông Bí bèn triệu tập nghĩa binh. Anh hùng bốn biển đều lên tiếng. Ông Bí có kinh luân hơn người, anh tài đức độ, tự có khí tượng của bậc đế vương.
Khi ấy, những người tài cao, chí lớn ở bốn biển nghe tiếng đều tự đến xin làm con cháu nước nhà. Ông có được hơn ba vạn người. Ông Bí bèn truyền cho 300 danh tướng làm cỗ thái lao, lập đàn cầu đảo trời đất bách thần. Ông bèn khấn rằng:
–    Thần là người Nam sao có thể điềm nhiên khi nay có người nước lạ xưng là tướng Lương, tên là Tiêu Tư, tàn ác nhân đân, giết hại vật. Sinh dân than oán cảnh chính trị bạo ngược, bất nhân. Nay thần cùng với quân binh dẹp giặc. Nguyện xin được đại đức của trời đất âm phù cho vậy.
Khấn xong ông bèn xưng là Tiền Lý Nam Đế, cất quân mạnh hơn ba vạn người. Vua bèn truyền các danh tướng nổi danh cương mạnh đi xem địa thế hình cương Nam Bang, tìm đất tốt để thiết lập hành cung, đồn sở. Một hôm vua dẫn quân đến khu Cổ Trai, trang Vĩnh Duyên, tổng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, phủ Tân Hưng, thấy vùng đất có đầu mạch từ trong làng chạy ra, hình đất có thế cục quý, rồng chạy uốn lượn, nước chảy quanh co. Trái phải có rồng hổ chầu về, phong tinh dẫn mạch, nhất nhất quay đầu. Vua bèn truyền binh sĩ và nhân dân thiết lập một nơi hành cung để ở, dựa Quý hướng Đinh. Việc xong vua bèn đem quân mạnh 5 vạn chia thành thủy bộ, cùng tiến đến đất Vạn Xuân, đánh trận lớn. Tổng cộng 12 trận. Quân Lương thua to, bỏ chạy. Vua đuổi theo chém được không kể xiết, đều rơi xuống sông Nhĩ. Nhánh sông nước không chảy được. Còn lại dư đảng đều bắt sống hết, không còn một tên. Vua bèn tự lập là Tiền Lý Nam Đế Hoàng đế.
Từ đó quốc gia vô sự, thiên hạ thanh bình, trong triều không có việc lớn, vạn dân được no đủ, mừng vui. Bốn biển thấy cảnh tượng thái hòa. Khi ấy, vua loan giá đi chơi phong cảnh trời Nam, không nơi nào không đến. Lúc thì đàn reo sáo múa, thi thư đối xướng với đất trời. Nhạc phượng ca loan, âm sắc như chốn Bồng Lai. Cỏ ba lá dẫn lối, bầu ngọc gió trăng, thuyền câu là dấu tiên, soi hình cảnh hội khói sương, xa mây vạn hình là bước chân. Nam là thánh, Bắc là thần, ra vào phong cảnh trời Nam, trở về nửa túi càn khôn.
Một hôm (tức ngày 12 tháng 2 mùa Xuân năm Bính Thìn) vua trở về hành cung nơi cũ (tức là trang Vĩnh Duyên, đất qua phía Bắc sông). Vua ngồi ở hành cung. Bỗng thấy trời đất u ám, giữa ngày mà như đêm. Từ trong thân vua thấy rồng vàng xuất hiện, bay thẳng lên trời. Vua không bệnh mà mất. Nhân dân viết tên húy mỹ tự phụng thờ, muôn năm hương lửa vạn đời không ngừng.

Lịch sử mạt kỳ Hùng Vương và thời Bắc thuộc

Thời đại Hùng Vương bước sang một trang mới khi Tần Thủy Hoàng hoàn thành đại nghiệp thống nhất lục quốc, lập nên đất nước Trung Hoa, xưng Đế như thời Thái cổ. Tuy nhiên, từ chế độ phong kiến phân quyền, kiến hầu lập bình để chuyển sang chế độ Trung Hoa thống nhất không hề nhanh gọn như vậy. Ngay sau khi Thủy Hoàng mất, thiên hạ nhà Tần lại chia năm xẻ bảy, các chư hầu xưa lại nổi lên. Nhưng bánh xe lịch sử không ngừng tiến lên. Lưu Bang, một đình trưởng nhỏ ở đất Thái Bình (Bái), nhân thời thế tạo anh hùng, đã hoàn thành được việc thống nhất lại thiên hạ, vượt qua đối thủ lớn nhất là Sở Bá Vương Hạng Vũ. Lưu Bang được truyền thuyết Việt gọi là Triệu Vũ Đế hay dã sử gọi là Nam Đế Lý Bôn.

Vấn đề xưng vương cát cứ của các chư hầu dưới thời nhà Hiếu vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Ngay sau khi Lữ Hậu mất, vị Vua Bà nắm đại quyền nhà Hiếu sau Lưu Bang, Trung Hoa lại rạch đôi Nam Bắc. Bắc quốc do chính dòng của Lưu Bang nắm giữ. Nam quốc do một nhánh của họ Lưu với sự trợ giúp của nhà họ Lữ đã xưng Đế nước Nam Việt. Dã sử Việt gọi là Triệu Việt Vương, nối nghiệp Lý Nam Đế ở nước Nam Việt.

Phải tới khi Lưu Triệt, một vị quân vương hiển hách của nhà Hiếu trị vì thì nước Nam Việt mới bị diệt. Vua Triệu cùng thừa tướng Lữ Gia bỏ kinh đô Phiên Ngung thất thủ, lên lâu thuyền chạy về phương Nam, tới vùng cửa biển Đại Ác ở Nam Định thì bị quân của nhà Hiếu truy sát. Vua Triệu bị bắt giết. Nhưng gia quyến nhà Triệu là các hoàng phi họ Lữ ngược dòng sông Đáy về đất tổ Phong Châu ẩn náu. Để rồi một thời gian ngắn sau đó, tại cửa sông Hát, Trưng nữ Vương lập tế đàn cầu khấn tiên tổ Long Quân, thề đền nợ nước trả thù nhà, dẫn quân chiếm lại Long Biên.

Khởi nghĩa của Trưng Vương họ Lã làm chủ được đất Bắc Việt trong vài năm. Nhà Hiếu một lần nữa cử Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức kéo sang, dập tắt cuộc khởi nghĩa, lập lại chế độ quận huyện ở miền Bắc Việt. Vùng đất này trở thành Giao Châu 7 quận, với trị sở ở Luy Lâu. Nối tiếp cai trị tại đây là các Thái thú, Châu mục người địa phương, rất có học thức và có lòng với non sông đất nước là Đặng Nhượng và Tích Quang. Những vị cư sĩ họ Đặng được người Việt tôn làm Nam Giao học tổ, và khắc ghi công đức giáo dân hóa lý trên miền đất này.

Cuối thời Hùng Vương, Vương Mãn là một ngoại thích đã tiếm ngôi nhà Hiếu và thực hiện một loạt cải cách sâu rộng trên cả nước. Tiếc thay, cải cách tiến hành quá vội vã đã làm lung lay cơ tầng toàn xã hội, dẫn đến thế nước suy vong. Nhân thời Trung Hoa suy yếu, lũ thảo khấu Lục Lâm đắc thế chiếm được kinh đô Trường An, rồi dần thôn tính các vùng đất, trong đó có cả trận tử chiến của các cư sĩ họ Đặng ở Long Biên. Trung Hoa rơi vào thời Bắc thuộc bởi Hán quân từ Hán Quang Vũ.

Những cuộc khởi nghĩa giải phóng đất nước chống lại sự cai trị của Hán tộc từ đó chưa bao giờ ngừng, lớp trước nối tiếp lớp sau, lấy máu xương đắp đổi núi sông. Trền miền đất Việt, thủ lĩnh khởi nghĩa lúc này là Lý Bí, mà được sử chép là Khu Liên, đánh phá châu quận, giết được thứ sử Giao Châu là Chu Phù. Khu Liên có lẽ đã lên ngôi vua, mở ra nước Lâm Ấp ở phương Nam nên được gọi là Lý Nam Đế.

Khởi nghĩa của Lý Bí – Khu Liên bị giặc Hán đàn áp. Khu Liên mất, hoặc hy sinh. Lâm Ấp bấy giờ bị chia thành 2 phần. Phần phía Đông với trị sở ở Long Biên (Luy Lâu) do bên ngoại của Khu Liên mang họ Phạm cai quản. Sử chép là Sĩ Nhiếp. Phần phía Tây với trị sở ở vùng đất Ô Diên (Sơn Tây) do chính dòng họ Lý nắm giữ, sử gọi là Lý Phật Tử. Họ Lý vốn có nguồn gốc từ Lý Bôn – Triệu Vũ Đế nên xưng là Nam Chiếu. Người Nam Chiếu là con cháu Triệu Vũ Đế.

Trong khi đó, Hán tộc ở phương Bắc bị một loạt các cuộc khởi nghĩa của người Trung Hoa làm lung lay, mà lớn nhất là khởi nghĩa Hoàng Cân của anh em họ Trương. Từ đó dẫn đến hình thành thế chân vạc ba nước Ngụy Thục Ngô mà Thục và Ngô là 2 nước của người Hoa Việt, Ngụy là đám giặc ngoài Hán tộc. Bởi vậy mà Phạm Tu – Sĩ Nhiếp sau đó đã theo về với Đông Ngô, được phong là Long Biên Hầu. Còn Lý Phật Tử được biết dưới tên Man Vương Mạnh Hoạch, nhờ sự chiêu dụ của Võ Hầu Gia Cát đã thuần phục nhà Thục. Cả 2 vùng Đông và Tây Bắc Việt lúc này đều ở chế độ tự trị với nhà Ngô và Thục.

Khi nhà Tấn diệt Thục, vùng đất Tây Bắc của Lý Phật Tử – Mạnh Hoạch vẫn độc lập. Còn vùng đất phía Đông đã sát nhập vào Đông Ngô sau khi Sĩ Nhiếp qua đời, rồi tới thời Đào Hoàng đã phải hàng nhà Tấn. Chỉ còn lại mảnh đất phía Nam Trung Bộ do con cháu họ Phạm nắm giữ, vẫn xưng là Lâm Ấp, không phụ thuộc vào nhà Ngô hay Tấn.

Trải qua các đời Tấn, Tề, Lương, Trần, vùng Tây Bắc Việt vẫn độc lập dưới tên nước Nam (Nam Chiếu) do họ Lý làm vua. Gần đây Thiền sư Lê Mạnh Thát đã phát hiện vào thời này có những bức thư của một vị thủ lĩnh Giao Châu là Lý Miễu gửi cho các vị sư ở đất Bắc. Lý Miễu chính là dòng dõi Lý Phật Tử, nối đời cai quản vùng Tây Bắc Việt.

Tới thời Tùy, khi Giao Châu đạo hành quân tổng quản Lưu Phương áp sát vùng Tây Bắc, hậu duệ của họ Lý là Lý Bát Lang đã chiến đấu chống trả, rồi cuối cùng cũng hàng nhà Tùy. Từ đó Trung Hoa trở lại thống nhất toàn lãnh thổ như thời Triệu Vũ Đế – Lý Bôn xưa. Mảnh đất ở cực Nam là Lâm Ấp, cũng đã bị Lưu Phương tấn công và xóa sổ các vua họ Phạm. Lâm Ấp chấm dứt, thay vào đó là thời kỳ Hoàn Vương của người Chăm từ miền Nam Trung Bộ nắm giữ.

Đình Giang ở Viên Nội, Ứng Hòa, thờ Lý Nam Đế, người đã khai mở Lâm Ấp.

Điểm mới của “tường thuật” lịch sử trên đây là ở nhận định: Hậu Lý Nam Đế Lý Bí được thờ ở Việt Nam ngày nay không phải là Lưu Bị nhà Tây Thục, mà là Lý Khu Kiên (Khu Liên) của Lâm Ấp. Lưu Bị chưa từng tới đất Việt nên khó có khả năng ở Việt Nam thờ ông một cách dày đặc như thờ Lý Bí. Hơn nữa, có một số dẫn chứng cho thấy sự liên quan giữa Lý Bí và Lâm Ấp, như câu đối ở đình Giang tại Viên Nội, huyện Ứng Hòa, Hà Nội, nơi thờ Lý Bí:

Nam diện ung dung, thác thủy tương truyền Lâm Ấp địa
Giang đình nghiễm nhã, cận quang trường chúc Vạn Xuân thiên.

Dịch:

Phương Nam ung dung, khởi đầu truyền đó đất Lâm Ấp
Đình Giang nghiêm nhã, rực sáng mãi còn trời Vạn Xuân. 

Nam Thiên cổ miếu thờ Triệu Việt Vương ở Hoằng Trung, Hoằng Hóa, Thanh Hóa

Hay ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa có đền thờ Triệu Việt Vương với sự tích vua Việt họ Triệu đi đánh dẹp Lâm Ấp ở Cửu Đức, Nhật Nam, là sự kiện không có đối với Triệu Quang Phục. Triệu Việt Vương đánh Lâm Ấp ở đây là vua Việt họ Lý thời nhà Triệu, tức là thời kỳ Nam Triệu của Lý Bí hay Lý Phật Tử.

Bảng sau tóm tắt lịch sử Việt vào cuối thời Hùng Vương và thời Bắc thuộc:

Đất Thái Bình đã có lịch sử 3000 – 2000 năm

Bài viết trích trong sách Thái Bình với sự nghiệp dựng nước Vạn Xuân của hai tác giả Phạm Minh Đức và Bùi Duy Lan (2008).
Năm 1990 – 1991 trong lúc một số tác giả viết bài cho rằng thế kỷ thứ VI chưa có Thái Bình vì vậy Thái Bình không thể là quê hương, là đất dấy nghĩa của Lý Bí… thì giáo sư Vũ Tự Lập và những cộng sự của ông đã đi điền dã khắp vùng châu thổ sông Hồng, đặc biệt là Thái Bình. Sau những chuyến đi thực tế một hội thảo khoa học đã được tổ chức và cuối cùng Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã ra mắt bạn đọc sách “Văn hóa và cư dân vùng đồng bằng sông Hồng“. Sách đưa ra bản đồ lịch sử phát triển châu thổ sông Hồng, theo đó thì “Đất đai thuộc huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ và phầ lớn đất đai thộc huyện Tiên Hưng, Thư Trì, Thụy Anh có lịch sử từ 3000 – 2000 năm. Hầu hết phần đất các huyện Vũ Tiên, Đông Quan, Thụy Anh có lịch sử 2000 -1000 năm. Vùng Nam Kiến Xương, Tiền hải và một phần Thái Ninh cũ có lịch sử từ 1000 năm trở lại đây theo xu hướng muộn dần.
Không chỉ ngày nay các nhà nghiên cứu mới đưa ra tuổi của đất Thái Bình – Long Hưng mà từ xa xưa một số sách của người Hán cũng đã viết về vùng đất này…
(Lược bỏ một đoạn dẫn các thư tịch về đất Thái Bình từ xưa)
Ngoài nguồn tư liệu thư tịch đã nêu Thái Bình còn lưu nhiều truyền thuyết về thời Hùng Vương, thời An Dương Vương. Đặc biệt có truyền thuyết về Triệu Đà, về Đường Thâm (nay là Đồng Sâm) lấy vợ, đền Đồng Sâm và nhiều nơi trong vùng đã lập đền thờ Triệu Đà và Trình Hoàng hậu.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chương (Cục Bảo tồn bảo tàng, nay là Cục Di sản văn hóa) trong bài “Về tình hình phân bổ các di tích lịch sử thời các vua Hùng” Thái Bình có 244 di tích thờ các vị thần thời Hùng Vương đến thời Triệu Đà. Trong khi đó ở hai tỉnh Vĩnh Phúc , Phú Thọ (nội Văn Lang) chỉ còn được 432 di tích. Cả tỉnh Hà Tây chỉ có 164 di tích. Thái Bình là tỉnh có mật độ thờ các công thần thời Hùng Vương cao nhất cả nước”.
Việc thờ các thần thời Hùng Vương, có người cho rằng dân từ các miền đất nước đến Thái Bình hội cư đã đem theo cả các vị thần từ quê gốc về Thái Bình? Qua dẫn chứng đã nêu và qua khảo sát thực tế chúng tôi thấy những nơi thờ các công thần thời Hùng đều là những miền đất cổ của Thái Bình, những làng có tên Nôm và hầu hết ở các huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Vũ Thư, Đông Hưng, Kiến Xương. Một phần đất Kiến Xương cắt về Tiền Hải, một phần đất của Đông Quan xưa cắt về Thái Thụy. Ở những vùng dân cư khai phá thời Trần, Lê không có các công thần thời Hùng vương. Thời Hùng Vương nước ta có 15 bộ, đất Thái Bình thời ấy thuộc bộ Lục Hải.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào các năm 40-43 diễn ra ở Thái Bình rất sôi động. Nhân dân Thái Bình đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Câu nói bất tử của nữ tướng Cẩm Hoa ở làng Lộ Xá (nay là thôn An Liêm xã Thăng Long huyện Đông Hưng) còn vang vọng đến ngày nay: “Ta sinh ra vì việc nước, chết vì việc nước, chết cũng như sống vậy” với ý chí ấy nhân dân vùng Hương Đường – Vũ Thư đã “đốt tre tươi mài thành mũi giáo, đập mảnh vại làm gươm” để giết giặc. Cả nhà họ Triệu đã hy sinh vì nước. Tấm gương trung liệt ấy đến kẻ thù phải thán phục. Hơn một trăm năm sau Sĩ Nhiếp khi làm Thái thú Giao Châu đến thăm đền phải ghi tặng “Nhất gia trung liệt hiển Giao Châu” (Một nhà hy sinh oanh liệt nổi tiếng ở Giao Châu). Nhân dân vùng sông nước ven sông cũng vót cọc làm giáo, vác bê chèo làm gươm để đánh giặc. Các tướng súy đã đánh giặc là phải thắng, không thắng giặc thì cùng chết với giặc. Bà Lê Thị Cố ở làng Hoàng Quan, Rồi Công (xã Đông Phương, An Tràng) nói: “Bất Cam sinh mệnh tướng quần đầu” và đánh giặc đến lúc trên người không còn mảnh vải che thân (vì vậy tục lệ của làng là không rước thánh ra khỏi đền thờ trong ngày hội).
Tổng kết cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng trên đất Thái Bình ngày nay có gần 30 tướng súy tham gia. Trong đó nhiều người đã đưa nghĩa sĩ về Phong Châu cùng Bà Trưng tiến về giải phóng Luy Lâu. Mã Viện trở lại xâm lược, họ lại sát cánh cùng Bà Trưng chống giặc. Bà Trưng hy sinh, nhiều người trở lại quê hương, lấy sông nước để thủ hiểm, tiếp tục chống giặc. Những nơi thờ tướng lĩnh của Hai Bà Trưng ngày nay phần lớn ở bên sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, ven các sông nội đồng. Không có dân cư từ thời Hùng Vương, không được sống trên mảnh đất đầy sóng gió này làm sao tôi luyện được ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm như vậy? Đất đai Thái Bình và truyền thống của người Thái Bình được tôi luyện trong cuộc sống hàng ngày, trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm từ thời Hùng Vương là những yếu tố thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa của Lý Bí trên đất Thái Bình ở thế kỷ thứ VI. IMG_6632 (2)

Nếu còn hồ nghi, trăn trở với sử liệu thần phả, ta có thể theo dấu vết di tích khảo cổ để giám định niên đại tuổi của đất. Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX ở thôn Ô Cách, xã Quỳnh Xá, huyện Quỳnh Phụ đã sưu tầm được gần 100 mũi tên đồng, lục lạc, giáo đồng. Tháng 5 năm 2000 tại làng Công xã Minh Tân nhân dân đã tìm thấy 2 trống đồng đều có cùng niên đại với trống đồng Đông Sơn, cách ngày nay 2500 năm. Hiện vật đồng Đông Sơn còn tìm thấy ở làng Mẽ, làng Buộm thị trấn Hưng Nhân (Hưng Hà), cửa sông Diêm Hộ (Thái Thụy).
Ngoài các hiện vật đồng, những ngôi mộ cổ đầu Công nguyên cũng là chứng tích lịch sử. Ngay tại làng lưu Đồn xã Thụy Hồng huyện Thái Thụy, một xã vùng ven biển, năm 1974 trong khi đào mưng máng nhân dân đã tình cờ đào được một số ngôi mộ cổ hình thuyền độc mộc có kích thước 2,2×1,4×0,4m. Những ngôi mộ cổ này có cùng niên đại với mộ cổ Thủy Nguyên cách ngày nay ngót 2000 năm.
Ngoài các ngôi mộ cổ của người Việt, dấu vết quý tộc Hán từ trước thềm Công nguyên còn thấy ở vùng Hưng Hà, Quỳnh Phụ, bắc Vũ Thư… Tại các vùng đất trên đã phát hiện gần 100 khu địa táng, xây cuốn vòm, mộ cao tới 3-4 mét. Vùng hạ lưu, ít nhất đã tìm thấy được khu mộ Hán trước thế kỷ III tại Phú Xuân (thành phố Thái Bình), Vân Động (xã Vũ Lạc huyện Kiến Xương). Lui xuống là Động Trung, trong khi làm đất ngoài đồng, nhân dân đã đào được tiểu đồng có đề chữ “Mã Viện chi thiếp” (vợ bé của Mã Viện). Con cháu họ Mã (gia đình Mã Soang) nhận là họ nhà mình xin được trông nom. Ngôi mộ ấy còn mãi đến năm hợp tác xã san ghềnh lấp trũng mới bị mất (1960).
– Mộ cổ ở làng Mẽ (Mỹ Xá) thị trấn Hưng Nhân huyện Hưng Hà: cửa mộ dày 40cm rộng 3m, cao 1,65m. Phần chính của mộ dài 4m, rộng 3m, cao 1m65m kích thước (40x20x5cm) (theo cụ Nguyễn Văn bàn năm nay đã 90 tuổi (2007) thì sau ngày Cách mạng tháng 8-1945 khi ấy cụ làm cán bộ thông tin ở xã đã từng đi xuống hầm mộ), tại đây người ta đã tìm thấy môt con rồng bằng đất nung, được chắp nối từng khúc dài 1,2m, có hai con thú bằng kim loại, có cán gươm tượng người bằng đồng.
– Mộ cổ ở làng Phú Lạc xã Phú Xuân (cách thành phố Thái Bình 2km) dân gian thường gọi là mả Ngô. Mộ đã bị đào bới từ lâu, hiện vật còn thu được 5 bình gốm các loại, 1 bát gốm, 1 dao găm đồng… Những hiện vật cổ ở đây cho phép các nhà khảo cổ kết luận: mộ cổ Phú Xuân có niên đại vào thế kỷ III sau Công nguyên.
Từ những phát hiện trên, năm 1999 Bảo tàng Thái Bình đã xuất bản sách “Di tích khảo cổ học ở Thái Bình“. Tác giả Nguyễn Ngọc Phát và Vũ Đức Thơm viết: “Loại mộ này thường là các gò đống lớn, khối lượng ấp trúc lên tới hàng ngàn m3. Hầu hết các mộ này có kết cấu song táng hoặc đơn táng. Huyệt mộ dài 5-6m, rộng từ 1,5-3m. Móng thân vòm mộ được sử dụng loại gạch lưỡi búa, còn gọi là gạch múi bưởi, dài 40cm, rộng 20-25cm… Gạch lát mộ có loại nặng 70kg, có kích thước 53x53x10cm. Toàn bộ gạch được ấp trúc bằng đất sét hoặc đất thịt pha sét. Trên mộ người sau thường dựng miếu, trồng cây đa, cây si… Những ngôi miếu, những cây đa, cây si này có vài trăm năm tuổi”…

Hưng Vương vĩ lược cao thiên cổ

Theo chính sử thì vị vua xưng đế đầu tiên của nước ta là Lý Nam Đế, có tên thật là Lý Bôn, người phủ Long Hưng – Thái Bình. Năm 541 Lý Bôn khởi nghĩa đánh đuổi thứ sử Giao Châu của nhà Lương là Tiêu Tư, giải phóng nước ta sau mấy trăm năm Bắc thuộc. Năm 544 Lý Bôn xưng là Nam Việt Đế, lấy hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên…

Một cuộc khởi nghĩa toàn thắng, mạnh mẽ như rồng bay lên (Long Hưng). Một triều đại mang tên thật hùng tráng – Vạn Xuân. Nhưng những câu hỏi về triều đại này đặt ra lại thật quá nhiều…

Quê Lý Bôn là ở đâu?
Người bảo Thái Bình là tỉnh Thái Bình ngày nay. Người bảo đó là ở Hà Tây nơi có nhiều đền thờ Lý Nam Đế. Sau một số nghiên cứu và hội thảo các nhà sử học nước ta nay xác định … quê của Tiền Lý Nam Đế là ở thôn Cổ Pháp tận Thái Nguyên. Lý Bôn hồi nhỏ có theo Phổ Tổ thiền sư đi tu …

Đọc những thông tin trên thật không hiểu đang nói đến Lý Bôn hay … Lý Công Uẩn nữa. Cũng là ở sinh ở Cổ Pháp, đi tu ở chùa. Cũng là rồng bay lên (Long Biên – Long Hưng – Thăng Long)…

Lý Nam Đế, rồi Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử là ở thời nào? Bia cổ thời Tùy Cao Đế mới phát hiện ở Luy Lâu (Bắc Ninh) cho thấy, vào thời gian cuối thế kỷ VI chẳng có triều đại Lý nào đóng đô ở Long Biên hết…

Lần theo những dấu tích trong dân gian để giải mã “truyền thuyết” nhà Tiền Lý.

Den Vua Cha
Đền thờ Lý Nam Đế ở Vân Cát – Kim Thái – Vụ Bản – Nam Định

Một trong những nơi thờ Lý Nam Đế là ở khu vực Phủ Giầy – Nam Định. Đền Lý Nam Đế gọi là đền Đức Vua Cha, nằm cạnh Phủ Vân Cát (nơi sinh Thánh Mẫu Liễu Hạnh). Có lẽ cũng may mắn nhờ vì nằm ở khu vực tín ngưỡng dân gian sâu sắc như Phủ Giầy mà ngôi đền này còn lưu được một số tư liệu quí về Lý Bôn tới nay.

Đôi câu đối thứ nhất ở đền Lý Bôn tại Vân Cát:
Hưng Vương vĩ lược cao* thiên cổ
Tế thế phong công ký Vạn Xuân.

(* Một số tài liệu chép vế đầu là “lưu thiên cổ”, nhưng không đúng với thực tế câu đối treo ở đền này, cũng như nếu dùng chữ “lưu” sẽ bị lặp ý với chữ “ký” ở dưới).

Câu đối có dòng lạc khoản ghi “Kiến Phúc nguyên niên”, tức là làm vào năm 1883 dưới triều vua Nguyễn Phúc Ưng Đăng.

Cái tên Hưng Vương của Lý Bôn không phải chỉ nhắc đến một lần. Một câu đối khác cũng ở Vân Cát:
Tiền Phật Tử nhi hưng sơn hà nhất thống
Tự Vạn Xuân dĩ hậu hương hỏa ức niên.

Dịch:
Từ Vạn Xuân về sau, vạn năm hương khói
Trước Phật Tử hưng nghiệp, thống nhất núi sông.

Khu vực Phủ Giầy trước đây thuộc phủ Nghĩa Hưng. Cũng như các nơi thờ Lý Bôn ở Thái Bình nằm trên đất Hưng Hà, giáp Hưng Yên. Đại Nam quốc sử diễn ca thì ghi:

Cỏ cây chan chứa bụi trần
Thái Bình mới có Lý Phần Hưng vương.

Đoạn khác:

Vạn Xuân mới đặt quốc danh
Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên
Lịch đồ vừa mới kỷ niên
Hưng Vương khí tượng cũng nên một đời

Lại một lần nữa gọi danh hiệu của Lý Nam Đế là Hưng Vương.

Thần tích Quán Giang ở Hoài Đức thì gọi thẳng luôn tên chữ của Lý Bôn là Cử Long Hưng. Với từng đó bằng chứng thì không còn nghi ngờ gì nữa, Lý Bôn đã từng được gọi là Hưng Vương hay Lang Hưng.

Chữ “Hưng” này là điểm quan trọng khi xác nhận Lý Bôn chính là Hùng Trịnh Hưng Đức Lang trong Hùng triều ngọc phả ở Đền Hùng Phú Thọ. Hưng Vương Lý Bôn cũng là Lưu Bang Hán Cao, người mở đầu triều Hiếu của Trung Hoa. Hưng = Hơn, đổi thành Hớn, Hán. Lưu Bang là người thắng Hạng Vũ trong cuộc chiến Hán – Sở, Hưng – Suy tranh hùng nên được gọi là Hưng Vương.

Lưu Bang – Lý Bôn theo Hoa sử là người đất Phong, khởi nghĩa chống Tần những năm trước Công nguyên ở đất Bái, có tên là Bái Công. Đối chiếu với địa danh Việt thì đất Phong là vùng Phong Châu, là xứ Đoài, nơi nay có nhiều đền thờ Lý Bôn (từ Hà Tây sang Vĩnh Phúc, Thái Nguyên). Còn đất Bái nơi Lưu Bang “hưng” nghiệp là vùng Nghĩa Hưng – Long Hưng – Hưng Hà – Hưng Yên, tức là vùng Thái Bình – Nam Định – Hưng Yên ngày nay.

Theo sử Việt thì Lý Bôn là người Thái Bình. Thái Bình viết lại là Bình Thái, thiết Bái. Như vậy quê Thái Bình trong sử sách của Lý Bôn chính là
đất Bái nơi Lưu Bang khởi nghĩa. Lý Bôn người Thái Bình là Bái Công khởi nghĩa chống Tần.
Phạm Sư Mạnh trong bài Hành quận có xưng: “Lũng lại tranh nghênh sứ Bái qua”. Phạm Sư Mạnh là người Kinh Môn – Hải Dương. Đất Thái Bình – Bái này là vùng đồng bằng sông Hồng ven biển thì đúng hơn là ở Vân Nam.
Xứ Bái cũng có thể là quê của Lữ Hậu, nơi có Triệu Vũ Đế ở Đồng Xâm (Thái Bình) và Lữ Gia tể tướng lui về chết ở Thiên Bản (Nam Định).
Thái Bình đọc lái là Bái đình. Lưu Bang là Đình trưởng đất Bái khi khởi nghĩa chống Tần.
—-

Cổ sử Việt có nhiều chuyện chép lẫn lộn những sự kiện cách nhau cả ngàn năm vào trong một. Như trong truyền thuyết họ Hồng Bàng thì Cha Lạc Long ra biển khai mở Hoa Hạ vào 4000 năm trước lại chép cùng chuyện Mẹ Âu Cơ Lang Xương đánh Sùng Lãm lập nước Văn Lang ở Phong Châu của 1000 năm sau đó. Rồi chuyện Thục Phán thay Hùng Vương lập nước Âu Lạc vào đầu thời Chu, cách thời điểm Tần Triệu diệt nhà Chu – Thục của An Dương Vương cũng có trên 800 năm. Nay tới chuyện Lý Bôn – Lý Công Uẩn, cách nhau tới hơn 1200 năm. Thế mới biết sự nhiễu loạn, nhầm lẫn trong sử Việt tới mức nào.

Câu đối ở làng Vân Cát về Lý Nam Đế:
Hiệu kiến Vạn Xuân khai chính thống
Tử thành thập bát ứng đồ thư.

Dịch:
Lập nước Vạn Xuân mở ra nền chính thống
Thành người họ Lý ứng nghiệm địa đồ thư.

Tử thành thập bát” là chiết tự của chữ Lý 李 , họ của Lý Nam Đế. Chiết tự dạng này được biết nhiều trong bài sấm trên cây gạo về sự xuất hiện của Lý Công Uẩn ở Cổ Pháp:
Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Chấn cung kiến nhật…

Bài trước đã cho biết Lý Nam Đế còn được gọi là Hưng Vương hay Lang Hưng. Còn Thiên Nam ngữ lục thì chép Lý Công Uẩn khi lên ngôi đã đổi tên nước thành Hưng Quốc:

Thùy y củng thủ cửu trùng
Cải nguyên Hưng quốc, đề phong trong ngoài.

Lý Bôn và Lý Công Uẩn có gì quan hệ với nhau mà truyền thuyết nhà Tiền và Hậu Lý lại lẫn lộn đến như vậy?

Vào thời Ngũ đại thập quốc năm 930 Lưu Cung đánh Khúc Thừa Mỹ ở Giao Châu, thống nhất 2 miền Tĩnh Hải và Thanh Hải vào nước Đại Việt gồm Việt Đông, Việt Tây và … Việt Nam (Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt ngày nay).
Sau đó năm 947 (theo Trần Trọng Kim) Lưu Cung nhận mình là dòng dõi của Lưu Bang nên đổi tên nước thành Đại Hán, sử Tàu chép là Nam Hán để phân biệt với Bắc Hán của Lưu Sùng. Sự thực thì Hán Cao Tổ Lưu Bang là Hưng Vương Lý Bôn nên Lưu Cung phải mang họ Lý – Lý Cung và tên nước phải là Đại Hưng, chứ không phải Đại Hán. Đồng tiền Đại Hưng bình bảo cũng như Hưng Vương phủ ở Quảng Đông đã xác nhận tên nước Đại Hưng ở thời kỳ này.

Chính vì sự kiện “cải nguyên Hưng quốc”, nối tiếp quốc thống của Hưng Vương Lý Bôn, mà truyền thuyết thời Tiền Lý đã có những chi tiết chép lẫn lộn giữa Lý Bôn và Lý Cung.

Câu đối tiếp theo ở đền Vân Cát – Nam Định:

Phá Lâm Ấp trục Tiêu Tư, phục viễn linh thanh, Đinh Lý ngật kim hô hách trạc
Hiệu Vạn Xuân tự Thiên Đức, hưng vương chế độ, Lạc Hồng tự cổ dĩ văn minh.

Dịch:
Phá Lâm Ấp đuổi Tiêu Tư, tiếng linh truyền xa, Đinh Lý tới nay ngời rạng tỏ
Hiệu Vạn Xuân năm Thiên Đức, chế độ hưng vương, Lạc Hồng từ cổ vốn văn minh.

Câu đối này một lần nữa nói tới tên Hưng Vương của Lý Nam Đế, gọi là Hưng vương chế độ.
Đặc biệt trong câu đối trên chỉ thấy nói: từ thời Đinh Lý tới nay tiếng oai linh của Lý Nam Đế còn rạng tỏ. Sau nhà Tiền Lý là nhà Đinh, rồi tới Hậu Lý. Chẳng thấy nhà Tiền Lê của Lê Hoàn ở đâu cả?

Ở vế đối sau cụm từ Lạc Hồng chỉ một thời đại (thời Hùng Vương), nên đối lại cụm từ Đinh Lý ở vế trước cũng là chỉ một thời đại. Đinh Lý không phải là 2 triều đại Đinh và triều Hậu Lý, mà là chỉ một triều đại. Câu đối đã gọi rất chính xác. Đinh Lý nghĩa là triều Lý ở trên đất Đinh bộ – Tĩnh Hải, phân biệt với triều Lý của Lưu Cung (Lý Cung) ở Quảng Đông, gồm cả 2 vùng Thanh Hải và Tĩnh Hải.

Câu đối ở Vân Cát cũng tương tự như câu đối ở Quán Giang – Hoài Đức:
Hồng duy Nam Việt triệu cơ, Lạc Hùng Ngô Thục dĩ tiền, hách trạc tuấn linh, Thiên Đức kỷ nguyên sơ nhất thống
Lịch khảo đế vương thế tự, Đinh Triệu Trần Lê nhi hậu, hỗn hoàng di điển, Vạn Xuân kiến quốc kháng thiên thu.

Đinh Triệu ở đây với nghĩa là Chúa Đinh bộ (Triệu = Chúa), tức là triều đại bắt đầu từ … Đinh Bộ Lĩnh – thủ lĩnh của Đinh bộ.

Hai cụm từ Đinh Triệu Đinh Lý ở 2 câu đối về Lý Nam Đế đã một lần nữa xác nhận giả thuyết về thời Hậu Lý trên đất Tĩnh Hải (Giao Châu). Không có những triều đại Đinh, Lê, Lý riêng biệt ở thời kỳ này mà chỉ có một triều vua Lý duy nhất trên vùng đất Đinh bộ, gọi là Đinh Triệu hay Đinh Lý.

Lý Công Uẩn mở đầu triều Lý chính là Đinh Bộ Lĩnh. Tiếp tới Lê Đại Hành là vua Lý Thái Tông ẩn họ Lê. Hai vị vua Lý đầu tiên đã lấy họ Lê, nhận tước phong Tĩnh Hải tiết độ sứ, Giao Chỉ  quận vương để che mắt nhà Tống. Phải đến vị vua Lý thứ ba là Lý Thánh Tông mới công khai lấy lại họ Lý chính thức của Hưng Vương Lý Bôn, lấy tên nước riêng là Đại Việt.

Sự lắt léo của thời kỳ lập quốc Đại Việt này đã dẫn đến trong truyền thuyết Việt có chuyện Lý Bôn chép lẫn các sự kiện của nhiều thời đại khác nhau, từ Lưu Bang khởi nghĩa chống Tần ở Phong Bái, tới Lưu Cung lập nước Đại Hưng thời Mạt Đường, sang Lý Công Uẩn làm vua trên đất Tĩnh Hải. Dấu vết của các thời đại này tuy đã bị nhòa theo thời gian và bởi sự tô trát của con người, nhưng đâu đó trong dân gian, chốn đền miếu, cổ tích vẫn còn lưu được những mảnh vỡ của lịch sử. Những mảnh vỡ này chỉ có thể ghép lại được nếu có một nền tảng sử thuyết xuyên suốt thời gian, giúp khôi phục lại hình ảnh lịch sử chân thực ban đầu.

Tranh Ly Bon
Tranh thờ Lý Bôn và hoàng hậu ở Vũ Thư – Thái Bình

Hưng Vương, Hưng Quốc là những danh hiệu, danh quốc huy hoàng trong sử Việt, nay đã bị lãng quên. Nhắc lại những cái tên này có khi lại bị quy là “phản động”, đòi “phục hưng” chế độ. Nhưng chuyện Cha, chuyện Mẹ, chuyện tổ tiên nòi giống, thấy mà không nói thì cũng  chẳng thể nào ăn ngon ngủ yên được.
Đúng là:

Nước còn sử mất ngẩn ngơ
Con Hồng cháu Lạc bao giờ lại Hưng?