Tập sử ký Xuân Lan

Triệu Vũ Hoàng Đế ở Long Hưng điện, Xuân Quan.

Đế họ Triệu, tên Đà, người Chân Định. Đầu thời Tần, Nhâm Hiêu ở Nam Hải bị bệnh, cho gọi gấp Đế tới. Đế đang làm chức lệnh ở Long Châu. Nhâm Hiêu nói:

– Nhà Tần vô đạo, thiên hạ cực khổ. Ta nghe Trần Thắng tạo loạn, thiên hạ không biết lúc nào được yên. Phiên Ngung có thế núi hiểm trở, vốn có biển Nam, Đông Tây vài ngàn dặm, lại cùng Trung Quốc nương tựa. Cũng là một nơi đứng đầu các châu, có thể lập nước riêng.

Hiêu mất. Đế đảm nhận việc úy của Nam Hải, bèn tức thời gửi hịch đi các nơi, chặn đường, tụ hợp quân đội, diệt các quan lại nhà Tần, tấn công chiếm Quế Lâm, Tượng quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương, đóng đô ở thành Phiên Ngung. Khi Hán Vương dẹp Sở, lên ngôi, ban chiếu lập Đế làm Nam Việt Vương, sai Lục Giả đem ấn thao cùng với phù tín để thông sứ, khuyên hòa tập với Bách Việt để biên cương phía Nam không có tai hoạ. Khi Lục Giả đến, Đế ngồi xổm mà tiếp. Lục Giả nói:

– Vương là người Trung Quốc, phần mộ thân thích đều ở Chân Định. Nay nhân giữ khư khư đất Việt mà với thiên tử hán không chịu khuất phục. Điều này có thể được không?

Thế là Đế mới ngồi dậy, tạ lỗi rằng:

– Ta ở chốn man di đã lâu, nên đã quá thất lễ.

Rồi cùng tiếp Lục Giả. Được vài ngày nói:

– Nước Việt không có nhiều người có thể nói chuyện được cho đến khi tiên sinh đến, hàng ngày tôi được nghe những điều chưa từng được nghe.

Đế tặng cho Lục Giả túi đựng đồ đáng ngàn vàng. Lục Giả trở về nước Bắc. 

Đế cất quân xuống phía Nam, giao chiến với An Dương Vương đang đóng đô ở thành Cổ Loa. An Dương Vương lấy nỏ thần bắn ra. Đế bèn lùi quân về đóng ở chân núi Trâu Sơn (nay ở chân núi Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh có miếu thờ Thánh đế), cùng với An Dương Vương đối đầu với nhau. Rồi Đế đề nghị thông hòa. An Dương Vương vui mừng, đồng ý từ Tiểu giang về phía Bắc do Đế cai trị, từ sông đó về phía Nam do Vương cai trị. 

Nhân đó Đế giả cách sai con là Trọng Thủy vào làm cận vệ, cầu hôn với con gái Vương là Mị Châu. Vương sơ ý không biết là kế gian nên đồng ý. Trọng Thủy dụ Mị Châu trộm lấy lẫy nỏ thần giấu đi, tìm một lẫy nỏ khác đổi móng của Rùa vàng, rồi nói dối với Mị Châu là muốn về thăm hỏi cha mẹ. Nhân đó nói:

– Tình cảm vợ chồng không thể nào mất. Ơn sinh thành của cha mẹ không thể đổi. Ta nay về thăm cha mẹ. Nhỡ sau này hai nước bất hòa, Bắc Nam cách trở. Ta đến đâu để có thể gặp được nhau?

Mị Châu nói:

– Thiếp thân là nữ nhi, mà nay gặp cảnh chia biệt, tình này khó vượt. Thiếp có một chiếc gối gấm lông ngỗng, thường mang theo người, đến nơi nào thì sẽ nhổ lông mà thả trên đường để biết là ở nơi đó.

Trọng Thủy giấu lẫy nỏ mà về, tâu lên Đế. Đế được việc đó rất vui mừng, bèn phát quân tấn công An Dương Vương.  Vương không biết là lẫy nỏ đã mất, vẫn ngồi chơi cờ mà tự cười rằng:

– Quân Bắc không sợ nỏ thần của ta sao?

Đế dẫn quân đến dưới thành. Vương dương nỏ thì thấy lẫy thần đã mất, đành thua chạy. Vương để Mị Châu ngồi sau ngựa mà chạy về phía Nam. Trọng Thủy nhận theo lông ngỗng. Vương chạy đến bờ biển thì cùng đường, không có thuyền chèo, bèn cầm sừng tê bảy tấc theo Rùa vàng mở đường nước vào biển mà đi ở xứ Hải Sơn, xã Cao Xá, quận Diễn Châu. Mị Châu ngẩng lên trời nói:

– Thiếp một lòng trung tín lại bị người lừa gạt. Nay xuống nước xin hóa thành châu ngọc để rửa sạch mối thù nhục này.

Mị Châu bèn nhảy xuống nước chết bên bờ biển. Trai ngọc uống vào hóa thành minh châu. Đế dẫn quân truy đến nơi thì thấy một vùng trống không, chỉ thấy thi thể của Mị Châu ở đó. Trọng Thủy ôm xác Mị Châu về chôn cất ở Loa thành, thi thể hóa thành đá ngọc. Trọng Thủy vì đó rất đau đớn, khi đến xứ Trang Dục tưởng như thấy hình thể Mị Châu, bèn đầu thân xuống giếng mà chết (tương truyền ngọc minh châu rửa bằng nước giếng này thì sẽ trở nên trong sáng).

Đế chiếm giữ nước Âu Lạc, khai mở đất đai, phương Nam đều bình được. Khi Lã Hậu nhà Hán không cho phép thông quan mua bán đồ sắt, Đế tức giận phát binh đánh hạ Linh Lăng, Trường Sa. Nhân binh uy đó lấy tài vật đút lót mà sai khiến Mân Việt và Tây Âu Lạc. Biên cương Đông Tây mở hơn vạn dặm, tự xưng là Nam Việt Vũ Đế, lên ngôi Hoàng đế, đi xe hoàng ốc, cắm cờ tả đạo, xưng “Chế”, cùng với Hán Trung Quốc đối đầu.

Hán Vương nhân mồ mả người thân của Đế ở tại Chân Định, đặt người giữ ấp đó ngày tháng phụng thờ, gọi con cháu Đế đến ban thưởng hậu hĩ, lại sai Lục Giả đi sứ, gửi thư cho Đế rằng:

– Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế. Khi có biến họ Lã, nhờ sức của các công thần mà dẹp được yên. Trẫm vì các vương hầu không cho chối từ nên không thể không nhận lên ngôi. Trước kia nghe Vương đem quân đánh biên giới, Trường Sa khổ sở không ngừng, Nam Quận lại càng khổ. Nước của Vương có thể được lợi riêng sao? Tất phải chết nhiều quân sĩ, hại các quan tướng tài, làm cho vợ góa chồng, con mồ côi, cha mẹ mất con. Được một mất mười. Trẫm không nhẫn tâm làm vậy. Có được đất của Vương cũng không thành lớn thêm. Có được tài vật của Vương cũng không giàu thêm. Xin cùng Vương bỏ những điều hiềm khích trước đây mà thông sứ như xưa.

Lục Giả đến, Đế nhận chiếu, hạ lệnh: 

– Trong một nước không thể hai người hùng cùng lập ngôi, không thể hai người hiền ở cùng một thời. 

Nhân đó Đế gửi thư xưng:

– Man di đại trưởng lão phu, thần, vốn là quan sứ ở Việt trước đây. May mắn Cao Đế ban cho thần ấn tỉ. Huệ Đế vì nghĩa không nỡ tuyệt. Lão phu ở Việt đã 49 năm, đến nay đã có cháu bồng rồi, nhưng ngày đêm thức ngủ không yên, ăn uống không biết vị ngon, mắt nhìn không thấy sắc đẹp, tai không nghe thấy tiếng chuông trống,  vì không được phụng sự nhà Hán vậy. Nay may mắn được ban cho thông sứ như trước, Lão phu dù chết xương cũng không nát.

Đế bèn nhận hòa với Hán Đế. Đương khi đó Đế hỏi Lục Giả rằng:

– Ta so với Hán Cao Đế thì thế nào?

Lục Giả nói:

– Vương sao dám so với Cao Đế được.

Đế nói: 

– Ta hận là không khởi binh ở Phong Bái, sao lại không bằng Hán?

Lục Giả sắc mặt tiu nghỉu.

Đế ở ngôi 71 năm, trải xuân thu thọ 120 tuổi. Đế thừa khi nhà Tần loạn, chiếm hữu Lĩnh Biểu, đóng đô ở Phiên Ngung. Thời Hán Văn Đế làm đế một phương, có lòng yêu dân, có trí tuệ giữ gìn đất nước, có võ công mạnh như Tàm Tùng, văn giáo vang nơi Tượng quận. Lấy thi thư mà giáo hóa phong tục trong nước. Lấy nhân nghĩa mà cố kết lòng dân. Dạy dân trồng trọt, dệt vải, nước giàu quân mạnh, Nam Bắc giao hòa. Thiên hạ vô sự. Là vị chủ có chân tài lược anh hùng. Trị nước một thời lâu dài vậy. 

Truyền đời Văn Vương, Minh Vương, Ai Vương, Vệ Dương Vương tất cả được 5 đời. Tới khi Hán Vũ Đế thôn tính lấy được nước đó, phân đặt các quan thú lệnh. Con cháu lại tụ tập tại những nơi vắng vẻ không người ở cửa biển Thần Phù, Hoành Sơn. Chế tạo thuyền bè, vượt biển đột nhập vào đất liền, cướp đoạt người ở bờ biển, giết các quan thú lệnh nhà Hán. Dân sợ phục, gọi là Nam Triệu.

Cho tới thời Ngô Tôn Quyền thì từ các xứ núi Thiên Cầm, Hà Hoa, Cao Vọng, Điểu Tồn, Hải Ngạn, Lại Bộ, Vọng Cái, Trang Chử, Thạch Song, Lôi Sơn, núi cao biển sâu, sóng gió hiểm trở, đều có nạn Nam Triệu, thường lấy việc cướp bóc làm nghề. Đồ đảng chúng khá mạnh, bèn lấy của cải châu báu đút lót cho nước Tây Bà Dạ để cầu cứu trợ.

Cuối thời Tấn, thiên hạ đại loạn, thổ tù Triệu Ông Dịch cùng  nhiều anh em đồ đảng dũng lược hơn người, nên được chúng phục theo. Cùng với đồ đảng Nam Triệu hơn hai vạn người chia giữ bờ biển ở các đầu thành 2 lộ. Trên từ Quỳ Châu đến Diễn Châu là lộ Già La. Từ Cầm Châu đến Hoan Châu là lộ Lâm An. Mổ trâu ngựa để kết thề. Do đó xây thành ở làng Cao Xá, Diễn Châu. Đông giáp biển, Tây đến nước Bà Dạ, Nam tới Hoành Sơn, do Triệu Ông Dịch cai quản.

Nhà Tấn lệnh cho tướng quân Tào Cam tiến đánh. Trải qua 4-5 năm, quân Tấn không chịu nổi khí núi chết quá nửa. Tấn rút quân về.

Sau Triệu Việt Vương, tên húy là Quang Phục, sinh ở làng Lan Cứu (nay là xã Xuân Lan), là hậu duệ của Cổ Tiên Thánh Đế. Thời Tiền Lý Nam Đế là Tả tướng quân. Nhà Lương Tiêu Diễn lệnh cho Trần Bá Tiên dẫn quân xâm chiếm phương Nam. Nam Đế tị cư ở động Khuất Liêu rồi mất tại đó. Việt Vương thay quyền nắm giữ đất nước, thấy sức lực không thể giữ bèn lùi về Dạ Trạch. Vùng này đất trũng thấp, khó đi bằng đường bộ. Vương dùng thuyền độc mộc nhân buổi tối ra đánh, cướp lấy lương thực, cầm cự lâu dài để làm quân giặc suy yếu. Trong 3-4 năm quân Lương không giao chiến được. Bá Tiên than rằng:

– Xưa gọi là đầm một đêm bay lên trời. Nay phải gọi là đầm một đêm trộm cướp vậy.

Đến khi Hầu Cảnh gây loạn, Bá Tiên trở về nước, giao lại cho tì tướng Dương Sàn cầm quân. Việt Vương trai giới lập đàn ở trong đầm, đốt hương cầu đảo trời đất cùng thần linh bản thổ. Bỗng thấy có thần nhân cưỡi rồng hạ xuống trong đầm, nói với Vương rằng:

– Nơi ta bay lên trời là chốn linh thiêng. Nhà ngươi đã thành tâm cầu khấn, ta vì đó mà đến cứu giúp để dẹp yên tai họa, loạn lạc.

Xong bèn tháo móng rồng trao cho Vương, nói là dùng để đặt ở mũ đâu mâu, nhằm hướng đó thì giặc tất đều sẽ bị diệt.

Nói xong thì bay về trời. Vương làm theo như lời đó. Quân Lương thua to, giết được tướng Dương Sàn. Đuổi diệt được quân Lương. Vương mới lập làm Triệu Việt Vương, vào ở trong thành Long Biên. Ban chiếu sửa hai thành Loa Lộc, Vũ Ninh. Đặt tên là nước Nam Việt. 

Lại có người họ tộc của Tiền Nam Đế là tướng Lý Phật Từ từ động Dã Năng trở về. Vương thấy Phật Tử là anh họ Nam Đế, không nỡ tận tuyệt, bèn cắt đất ở Cát Châu cho ở đó. Phật Tử cho con là Nhã Lang cầu hôn với con gái Vương là Quả Nương. Vương đồng ý. 

Nhã Lang nịnh vợ rằng:

– Xưa hai cha của chúng ta còn là thù địch, nay lại là kết hôn nhân, thật là điều tốt thay! Cha nàng có thuật gì mà có thể đánh được quân của cha ta?

Quả Nương không biết thâm ý, ngầm lấy mũ đâu mâu móng rồng cho chồng xem. Nhã Lãng âm thầm tráo đổi móng đó, lại nói riêng với Quả Nương rằng:

– Ta nay dứt tình để về thăm cha mẹ. Vạn nhất chẳng may có giặc, vua cha của nàng gặp bất lợi, thì qua nơi nào nàng hãy lấy lông ngỗng ở chiếc gối gấm mà đánh dấu đường. Ta sẽ đến tương trợ.

Nhã Lang về bàn mưu với cha. Phật Tử đem quân đến. Ban đầu Vương không biết, tập hợp lính, đốc quân, đem mũ đâu mâu ra đợi giặc. Quân giặc tiến áp đến rất đông. Vương biết thế lực không chống lại được bèn đem con gái chạy về phía Nam. Giặc đều đuổi đến gần. Vương hô lớn rằng:

–  Rồng vàng thần vương không giúp ta sao?

Bỗng Long vương chỉ cho thấy con gái Việt Vương tự rắc lông ngỗng, chính là giặc vậy. Vương rút đao mà chém. Vương cưỡi ngựa đến cửa biển Đại Nhã thì gặp nước ngăn trở bèn than rằng:

– Ta tới đường cùng rồi!

Rồng vàng mới rẽ nước thành đường, dẫn Vương đi vào trong nước. Quân Phật Tử đuổi đến chỉ thấy mênh mông không biết là đâu, bèn phải quay về.

Vương ở ngôi 23 năm, lập đền ở cửa biển Đại Nhã (nay là huyện Đại An) phụng thờ. Phật Tử sau rời đô về Phong Châu, ở ngôi 32 năm. Đến khi nhà Tùy đến xâm chiếm thì ra hàng và về Bắc. Người trong nước cũng lập đền ở cửa biển Tiểu Nhã phụng thờ, đối diện với đền Việt Vương.

Ông Đùng, Bà Đà

Theo sách Văn hóa dân gian làng Đào Động. Phạm Minh Đức, Đinh Đăng Túy. NXB Hội nhà văn, 2016.

VỀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẤT HOA ĐÀO

Khi Lạc Long Quân đưa 50 người con xuống biển, người trao cho các con từng vùng đất bãi để khai khẩn phát triển nông tang (trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải) và cả phần biển để đánh bắt tôm cá…

Người bảo các con rằng:

– Dòng trưởng mạnh nhất sẽ thay cha mẹ cai quản Lạc Việt. Các con vừa là thần dân, vừa la anh em một nhà. Hãy gìn giữ và mở mang đất nước của cha mẹ truyền cho… Mẹ Âu Cơ đã về rừng còn ta về Thủy phủ… Khi đất nước có sự biến, cha mẹ sẽ tiếp sức cho các con. 

Nói rồi Người hiện nguyên hình là một con Hoàng long lớn, biến mất trong sóng biển Đông…

Người con được trao phần đất bãi tương ứng với đồng bằng Bắc Bộ bây giờ có tên là ông Đùng, rất to lớn mạnh mẽ. Lại nói ông Đùng đi dọc sông Cái (sông Hồng), đem theo những “hạt đậu” cha mẹ trao cho, trích thân mình lấy máu tẩm vào rồi rắc lên những cồn, gò và các vùng đất bằng phẳng… Các “hạt đậu” lập tức biến thành người Việt sinh sống trên vùng đất ấy…

Một ngày, ông Đùng đi đến vùng đồng bằng ven biển phía Bắc hạ lưu sông Cái, thấy những vạt đất nổi cao giữa vùng đầm lầy mênh mông nước… Ông ngắm nghía rồi gọi bọn thủy binh sông Cái khổng lồ như Thuồng luồng, Hà giải, Ngư tinh… đến khơi dòng, đào một con sông lớn lấy nước từ sông Cái về thau chua rửa mặn cho cả vùng.

Nhìn hình dạng cuộn khúc của tướng Thuồng luồng dẫn đầu “binh tướng khai sông” (Thuồng luồng là một loại Giao long), ông Đùng hình dung ra con sông sắp đào phải uốn khúc để có thể dễ đưa nước ngọt đến khắp vùng ngập lợ, liền vạch đất để bọn thủy binh đào sông ngoằn ngoèo như hình rồng cuộn, giúp tiêu nước lợ được nhanh và cuốn ra biến… Làm xong lộ trình “khai hóa” của mình, ông Đùng gọi dân bản thổ đến mà bảo:

– Nơi đây có thế đất linh, ta đặt tên con sông vừa đào cho các con là sông Vĩnh, để mong cuộc sống nơi đây vĩnh hằng tấn phát… Vua cha Lạc Long Quân cho ta sáu “vật tượng” để đánh dấu các vùng đất địa linh trong lãnh địa của ta, vậy ta đặt một vật tại đây.

Nói rồi ông Đùng móc trong tú ra một hạt đào và đặt xuống đất… Bỗng nhiên hóa ra từng dãy cây đào nở hoa rực rỡ… Vì thế sau này, Hùng Vương thứ 18 đã về đây và đặt tên vùng đất này là Hoa Đào trang.

Tương truyền, sau khi làm xong việc “khai hóa” của mình, 100 người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ đều hóa thành “Sơn thủy bách thần” nổi tiếng linh ứng, phò giúp dân nước Lạc Việt mãi mãi.

Lần theo dấu vết sáu vật linh mà ông Đùng “yểm” lại trong lãnh địa của mình, đó là các địa danh:

1. Vùng phát tích Sơn Thánh Ba Vì – Tản Viên.

2. Vùng thành Thăng Long (Hà Nội).

3. Vùng phát tích nhà Đinh – Lê (Ninh Bình).

4. Vùng phát tích nhà Lý (Bắc Ninh)

5. Vùng phát tích nhà Trần (Thái Bình).

6. Vùng phát tích Đức Vua Bát Hải (Đào Động – Thái Bình).

Trong đó trấn sơn Ba Vì và đất Đào Động là nơi lưu giữ “hồn nước”, nơi hội tụ của “Sơn thủy bách thần”, thường “chìm ẩn”. Còn các địa danh kia là hiện diện sự “khởi phát tinh hóa” của đất Việt.

ĐỐNG BÀ ĐÀ

Tại phía Bắc đất Đào Động cổ có con đường nối thẳng từ thôn Di Phúc qua quốc lộ số 10 đến đền quan Đệ Tam và quan Thượng… Khoảng giữa con đường đó nguyên có một đống cao nổi lên giống như một quả đồi trên sóng lúa. Dân gọi đó là đống Bà Đà.

Tên đống Bà Đà có từ trước thời Trần rất lâu, gắn với chuyện ông Đùng khai địa thời cổ. Ông Đùng là tên gọi của một trong 50 người con của Lạc Long Quân “xuống biển” thời thượng cổ. Ông Đùng đi dọc sông Cái (sông Hồng), lấy hạt đậu cha mẹ trao, nhuộm máu ngón tay của mình vào rồi rắc lên các vùng đất. Hạt đậu biến thành người sinh sống ở đó. Xong việc thì ông Đùng “hóa”.

Những cư dân mới được ông “rắc ra” ở vùng đồng bằng và duyên hải còn rất bỡ ngỡ trên miền đất mới. Người sống trên sông, trên biển chưa biết bắt tôm cá, thường hay vị thuồng luồng, quái ngư sát hại… Người sống trên bãi, trên đồng chưa biết canh tác nông nghiệp, cũng chưa biết khẩn hoang rửa mặn để cấy lúa trồng mầu…

Thần Nông ở trên trời nhìn xuống thương xót, lệnh cho một thuộc hạ (chính là Bà Đà) xuống trần dạy dân Bách Việt ở duyên hải canh nông, mang các giống lúa mầu cho dân, lại dạy dân đóng thuyền đánh bắt tôm cá trên sông, trên biển…

Trước khi sai Bà Đà xuống trần, vua Thần Nông dặn rằng:

– Ngươi phải lấy tình thương của từ mẫu mà lo cho con dân.

Bà Đà đi dọc miền duyên hải Bách Việt để dạy dân đánh bắt tôm cá và cấy lúa. Khi bà đi dạy dân canh nông chài lưới vừa đến hết miền duyên hải Văn Lang – Lạc Việt cũng là lúc vua Thần Nông lệnh triệu bà về trời gấp.

Với tấm lòng của một người mẹ thương con, trước khi “hóa”, Bà Đà đã “cắn răng” rứt đứt đôi “nhũ hoa” của mình để lại cho các con. Tương truyền một “nhũ hoa” chính là đống Bà Đà ở Đào Động. Còn một “nhũ hoa” là một hòn đảo hình tròn cũng rất linh ứng ở giữa hồ Động Đình.

Từ thượng cổ truyền lại rằng giữa đỉnh đống Bà Đà xưa có một miệng giếng nhỏ tự nhiên, chỉ to bằng miệng cái thúng nhưng luôn tràn trề nước trong mát. Gặp những dịp hạn hán, Vĩnh Công (Đức Vua Bát Hải) thường đến đống Bà Đà cầu khấn rồi trang trọng múc lên 28 bát nước, bày theo đúng phương vị nhị thập bát tú và làm lễ. Sau đó cả vùng sẽ nhanh chóng được mưa ngọt.

Nhiều đời sau, những khi trong trấn, trong phủ gặp hạn hán lâu ngày, quan tổng trấn được thần báo mộng cho người về đây rước Bà Đà về đảo vũ…

Ngọc phả Ling Lang Đại vương thủy thần xuất thế triều Hùng (Thần tích xã Nhuế Dương, Kim Động, Hưng Yên)

Ngọc phả Ling Lang Đại vương thủy thần xuất thế triều Hùng (chi Khảm, bộ thứ hai Thượng đẳng), chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa cháu ba đời Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi, sau đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh, lại gặp Vụ Tiên Nương mà sinh Kinh Dương Vương. Dương Vương tư chất phi thường, tự có khí tượng bậc đế vương. Đế Minh muốn truyền ngôi cho. Dương Vương cố nhượng cho anh. Do đó Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi mà phong Kinh Dương Vương ở phương Nam, hiệu là nước Xích Quỷ. Dương Vương bái từ anh và cha đến nhậm trị phương Nam, nước Việt ta đất đẹp Hoan Châu xây dựng kinh đô, thế núi hùng mạnh Nghĩa Lĩnh tu sửa miếu điện. Truyền đến đời thứ hai là Lạc Long lấy tiên nữ Động Đình là Âu Cơ, sống ở đầu núi Nghĩa Lĩnh, mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ thế rồi có mang, sinh hạ một bầu trăm trứng, nở ra điềm lành trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Cho đến khi trưởng thành mới kiến lập hầu tước, lập đất bình phong, chia trong nước thành 15 bộ. 

Thế rồi Long Quân nói với Âu Cơ:
–    Ta là giống rồng, nàng là giống tiên. Tuy khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc, vì thế phải tách biệt.

Phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần. 50 người con theo mẹ lên rừng làm sơn thần. Khi có việc thì cùng báo nhau, khắc đến giúp đỡ. Thủy thần thường xuất thế, đầu thai nhập vào các gia đình người dân làm con để giúp nước cứu dân. Nhà nào có đức dày thì sẽ gặp được.

Lại nói, khi đó cơ đồ họ Hùng 17 nhánh truyền đến Duệ Vương, đóng đô ở sông Bạch Hạc Việt Trì, kiến quốc tên Văn Lang, quốc đô gọi là thành Phong Châu. Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, kế thừa tổ mở tông thêm 17 đời, cơ đồ thịnh trị, trong tu văn đức, ngoài phòng biên phương, cố sức hưng bình để yên Trung Quốc.

Đương thời có vị quan chủ trưởng đạo Sơn Nam, vốn là dòng cháu của Hùng Duệ Vương, chủ trị Sơn Nam, lấy người xã Nhuế Dương, huyện Đông An Khoái Lộ, tên Nguyễn Thị Đào làm vợ. Cầm sắt cùng duyên, uyên ương cùng hợp. tuy là quan trưởng nhưng không tham chút tơ hào, thực hiện làm việc nhân nghĩa, giúp kẻ thiếu, cứu người nghèo, lại kính việc quỷ thần, trị nhậm ở Sơn Nam mà làm việc nhân đức, ban phát ơn nghĩa, thật là rất được lòng dân.

Trong 4-5 năm cảnh vật nơi đây đều yên ắng trù phú. Vua gọi Ngài về triều. Ngài tuân mệnh đem vợ là bà Nguyễn cùng về kinh đô. Một hôm Nguyễn phu nhân cùng với một vài thị nữ đi thuyền dạo chơi ở hồ Dâm Đàm (sau đổi là hồ Tây), thấy sóng xanh nước biếc, bèn tắm gội. Khi đó bỗng nhiên thấy trời đất tối tăm, nước trong hồ động nổi như tiếng sấm vang lên. Lại thấy có một con giao long dài hơn 2 trượng đến quấn lấy thân của bà Nguyễn. Bà bàng hoàng sợ hãi ngất đi. Sau một lúc thì dần dần tỉnh lại, bèn bỏ thuyền mà lên bộ đi về. Sau 3 ngày thì đến kinh đô.

Trước đó cùng đêm ông Hùng Kim nằm mơ thấy một người cưỡi ngựa trắng, mặc áo hồng, đeo chuỗi ngọc, tự xưng là Linh Lang, là người thứ 4 trong số 50 người con xuống biển, quyền quản Dâm Đàm. Gia đình ông Kim đều là những người có đức dày, nên tuân mệnh của Thiên đình đến đầu nhập vào nhà ông làm con.

Lời nói chưa dứt thì tự nhiên ông tỉnh lại, nhớ đến giấc mơ, tất là có điềm tốt. Lại đến khi thấy bà Nguyễn về đến nhà, thuật lại sự việc ở hồ Dâm Đàm. Ông nhớ lại bèn lập đàn cầu khấn trời đất cùng trăm thần sông núi. Từ đó thấy bà Nguyễn tự nhiên có mang thai. Năm Canh thìn mùa hè ngày 10 tháng 4 thì sinh được một bọc, nở ra một người con trai có kỳ hình dị tướng. Ông bà nhân việc trong mộng bèn đặt tên là Linh Lang. Thương thay mệnh trời đất. Năm đó người cha là chủ quan không bệnh mà mất. Bà Nguyễn làm lễ tế. Đến khi an táng xong bà Nguyễn tuân mệnh vua dẫn Linh Lang về quê Nhuế Dương nuôi dưỡng. 

Ngài bình sinh dị lạ, khi lớn rất thông minh. Năm 17 tuổi lại vào kinh đô nhập học với Hải Đường tiên sinh. Biết rộng xưa nay, hiểu thông trời đất. Thường khóc buồn thương cảm người cha mất sớm, không biết đạo trời ra sao. Năm ấy bà mẹ cũng mất. Ngài làm lễ an táng, phụng thờ 3 năm. Vua ban chiếu bái Ngài làm Đốc lĩnh thuỷ đạo Thiên sách Thượng tướng quân, cho tuần hành các đầu non góc biển. Ngài vâng mệnh đi khắp thiên hạ. Cứ đến nơi nào thì nơi đó trở nên yên ấm. Một lần lại đến Nhuế Dương, làm lễ tiến yết các bậc tổ tiên bên ngoại, khảo hưởng cho nhân dân tộc bên ngoại, xây dựng miếu cung để ở. Lại dâng biểu xin Vua cho xã Nhuế Dương, vốn là quê ngoại của Linh Lang, được miễn các việc quân dịch, để làm làng hộ nhi. Vua đồng ý. Từ đó già trẻ nhân dân ở làng xã Nhuế Dương đều được quý hiển.

Lại nói, khi đó cơ đồ họ Hùng đã mạt, thế nước đến hồi kết thúc. Vua sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa đều đã cùng nhau trở về quy tiên. Chỉ còn hai người con gái. Người thứ nhất tên là công chúa Tiên Dung, Vua bèn gả cho ông Chử Đồng Tử. Còn người thứ hai tên là công chúa Ngọc Hoa, cung thiềm còn khóa, ngọc nhụy đương thì, duyên lành chưa định. Vua bèn lập một lầu ở cửa thành Việt Trì, gửi chiếu truyền rằng thần dân trong thiên hạ ai là người có tài trí thông minh, anh hùng đức độ có thể nối được ngôi vua thì sẽ gả công chúa cho. Hôm ấy trên sông thuyền bè xe ngựa nghe chiếu thiên tử đều nổi chí trạng nguyên bốn biển. Nhưng đều chỉ là những người tầm thường, không phải toàn tài, không đáng xưng danh. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Thánh có nhiều tài lạ thông trời bạt đất, có thuật lấp sông dời núi. Vua cho là người tài bậc nhất thiên hạ, nên gọi công chúa đến gả cho và muốn nhường lại ngôi.

Lại có Thục chúa (Thục chúa là bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái của họ Hùng), nghe việc Duệ Vương tuổi trời đã cao mà 20 hoàng tử đều đã về tiên cảnh, không có người nối kế, muốn nhường cho con rể Sơn Thánh, bèn nhân cơ hội đó phát động chiến tranh, cầu viện các nước láng giềng, chỉnh đốn trăm vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, chia làm 5 đạo. Một đạo theo đường núi Thập Châu, Hoàng Tùng, Quỳnh Nhai mà tiến. Một đạo theo các châu Tuyên Quang, Tụ Long, Bảo Lạc mà tiến. Một đạo theo các châu Minh Linh, Bố Chính mà tiến. Một đạo theo đường núi Ái Châu, Tam Điệp mà tiến. Một đạo theo cửa biển Hội Thống, Hoan Châu. Thủy bộ cùng tiến, quân thanh chấn động.
Duệ Vương lo lắng, bèn gọi Sơn Thánh đến hỏi kế. Sơn Thánh tâu rằng:

–    Hơn hai ngàn năm đến nay 17 bậc vua thánh hiền đã tạo nhiều điều nhân, ơn sâu đã khắc vào tới xương tủy nhân dân. Nay đang khi nước mạnh quân cường. Uy đức của bệ hạ vang xa ngoài nước. Thế mà người Thục không biết tự giữ gìn, dám cả gan quật cường, thì việc nhận lấy thất bại đã nghiệm rõ. Đến khi thảo phạt hỏi tội, lấy nghĩa mà phục thì tất dân ta đều vì bệ hạ mà chống giặc, đâu phải lo không dẹp được. Tình hình hiện nay xin bệ hạ cho triệu Thiên sách Thượng tướng Linh Lang về cùng với thần thay vua khởi giá, tự chọn các tướng tài thì giặc Thục không quá nửa tháng có thể dẹp yên.
Vua nghe vậy rất vui mừng, lập tức sai sứ thần về xã Nhuế Dương để triệu Linh Lang về triều dẹp giặc. Ngài tuân mệnh, bèn tuyển người dân Nhuế Dương được 50 người làm gia thần thủ túc, cùng với quân bản bộ về triều, cùng với Sơn Thánh bái tạ Vua, lĩnh 30 vạn hùng binh, một ngàn danh tướng. Linh Lang tự xin được đánh đạo quân thủy của giặc. Vua thân tiễn ra ngoài 30 dặm, cầm kiếm báo với Sơn Thánh rằng:
–    Từ đây trở về phía trên đỉnh núi ngút trời là do Sơn Thánh quản chế.

Lại báo với Linh Lang rằng:
–    Từ đây xuống đến đáy biển là do tướng quân quản chế.

Sơn Thánh cùng các tướng và Linh Lang lĩnh mệnh, phân đạo mà tiến. Linh Lang thẳng theo đường thủy dẫn phát giao long, cá, rùa, trùng trùng nối thành sóng lớn vạn phái, cá côn kình lớp lớp vây quanh như sóng ngàn sông. Tiến thẳng đến cửa biển Hoan Châu cùng giao chiến với quân Thục. Bố trận hàng ngàn hàng cá rùa. Bày binh bằng vạn đôi kình nghê. Quân Thục nhìn từ xa đều đã kinh hồn vỡ mật. Linh Lang bèn tiến đánh một trận. Giặc Thục vì thế mà giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết không kể hết, bắt sống tướng chính, chém đầu ngay dưới cờ. Còn lại 4 nhánh quân giặc thì Sơn Thánh cùng các tướng hiệp lực mà đánh. Quân Thục đều thua to, chạy tán, một xe không thoát, một ngựa không còn.

Thế là Sơn Thánh triệu Ngài cùng hợp ở một nơi, dâng biểu báo chiến thắng. Vua bèn ban chiếu triệu về, gia phong tướng sĩ các cấp, lại sai phong Sơn Thánh là Nhạc phủ kiêm Thượng đẳng thần, phong Linh Lang là Ngô Vương. Được vài năm Ngài chẳng màng danh tiếng, ra vào chốn đất Nam Giao, lầu rồng gác phượng xa lánh bụi trần, tiêu dao các chốn cực lạc Bồng Lai, Tây Trúc. Vào La thành cùng Giác Hải thiền sư học thành đạo. Khi Ngài đã 80 tuổi, một hôm đi dạo đến hồ Dâm Đàm, phường Hồ Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Lúc ấy trời đất bỗng tối mịt. Linh Lang xuống Dâm Đàm mà hóa. Khi đó là mồng 10 tháng 5. Sau khi Ngài hóa được trăm ngày, phía Tây của hồ trên bờ trúc mọc thành rừng. Vua tặng phong là Đại vương, cho xã Nhuế Dương lập miếu phụng thờ.

Từ đó có rất nhiều linh ứng, thường hiển hiện chân hình mà tiêu dao miếu sở. Một hôm Vua đi thăm du các dân ấp thờ Linh Lang, mới vào xem Nhuế Dương, thấy Ngài đứng ở trước cửa miếu làm lễ bái Vua. Vua đang định hỏi thì bỗng không thấy đâu nữa. Vua nhớ lại hình dáng mà than vãn, bèn gọi nhân dân Nhuế Dương đến viết thần hiệu là Linh Lang Cửa miếu Đại vương mà thờ phụng.

Lại nói, khi Linh Lang trở về thủy phủ, lại làm thần Dâm Đàm Long Đỗ. Khi ấy Dâm Đàm có một ngọn núi nhỏ. Trong núi có một con Cáo tinh chín đuôi. Người dân địa phương ở nơi đó rất hay bị hại. Thần Long Đỗ đem sự việc đó tâu lên Thượng Đế. Thượng Đế bèn lệnh xuất thủy tộc bắt giết con Cáo tinh. Từ đó người dân địa phương mới được yên. 

Đến khi nhà họ Hùng truyền lại ngôi báu cho Thục An Dương Vương. Dương Vương trị quốc được 50 năm thì Triệu Vũ lại lấy được nước, truyền tiếp 5 đời. Từ đó nước Việt ta trở thành nội thuộc. Cho đến Đường Cao Tông niên hiệu Hàm Thông năm thứ 6 lệnh cho Cao Biền làm Đô hộ nước Việt ta để thảo phạt giặc Nam Chiếu.

Cao Biền sau dẹp được Nam Chiếu mới lập là Quốc vương Thiên tử, cưỡi diều giấy đi xem xét sông núi, đất đai hình thẳng ở nước Việt ta. Một hôm đi đến đầu xã Thanh Cầu, huyện Kim Động bỗng gặp một người, thân thể to lớn, râu tóc bạc phơ, thật là mờ mờ ảo ảo, nhân thế phù du, có có không không, sinh sinh hóa hóa, xưa qua nay lại. Cao Biền kinh dị mới hỏi tính danh. Người đó cười nói:
–    Ta là Linh Lang. Nhà ta ở gần đây.

Đến chỗ gò mối thì phất áo nhập vào trong gò mà mà biến mất (khi đó Thanh Cầu có một gò mối, tục gọi là Đông Mâu). Cao Biền kinh dị không yên. Đến khi Cao Biền xây thành Đại La, sáng hôm đó đi ra ngoài cửa Đông. Bỗng thấy mây mưa mù mịt, thấy mây năm sắc theo mặt đất mà xuất hiện, sáng lòa ánh mắt, trong thấy có một dị nhân sắc sỡ, cưỡi rồng đất màu đỏ, cầm thẻ bài vàng, theo đám mây mà phát lương. Cao Biền kinh sợ muốn yểm. Buổi tối mơ thấy thần nhân nói rằng:
–    Ta là thần Linh Lang Long Đỗ ở đây đã lâu. Nay thấy ngài xây thành tại đây nên đặc biệt đến xem. Chớ có yểm.

Cao Biền tỉnh lại than rằng:
–    Ta chẳng nhẽ không thể phục được người ở vùng xa này, sao lại tạo ra sự quái ấy.

Bèn tạo một bức phù bằng đồng đem chôn để yểm. Ngay hôm đó, mưa sấm nổi lên dữ dội, làm cho phù đồng đều biến thành bui. Biền hết sức kinh dị, do đó cho lập miếu tại đất đó để thờ phụng.

Lại nói, cho đến khi nước Việt ta trải qua các đời Tiền Lý, Hậu Lý, Đinh, Lê, Lý, Trần, đều là các bậc vua hiền, trải khi lúc hưng lúc phế. Cho tới thời Trần Nhân Tông, giặc Nguyên là Thoát Hoan, Ô Mã Nhi đến xâm phạm. Kinh thành bị vây hãm. Tướng Trần là Hưng Đạo Đại vương. Trần Quốc Tuấn lo cầu trăm thần giúp nước, đêm ngủ ở đài Việt Vương, nằm mơ gặp Triệu Việt Vương ngự ở chính điện, sai lệnh Linh Lang cầm đầu quân thủy đạo giúp Trần diệt Nguyên. Sau đến xứ Đông Mâu xã Thanh Cầu thì hóa.

Đến khi dẹp được giặc Nguyên, Hưng Đạo Vương tâu với Nhân Tông. Nhân Tông bèn gia phong là Nghị võ Uy minh Quảng tế Thượng đẳng thần, cho phép Nhuế Dương đón sắc về trong dân phụng thờ. Từ đó về sau cảm tất thông, cầu tất ứng, nên nhân dân thờ phụng bốn mùa mãi mãi không ngừng. Thật là thịnh thay!

Phong Nghị võ Uy minh Quảng tế Linh Lang Đại vương Thượng đẳng thần (cho phép xã Nhuế Dương phụng thờ).

Lại nói, từ đó về sau trải đến Hoàng triều ta khai sáng hồng đồ, thường có nhiều lần giúp nước giữ dân, cầu mưa cầu yên đều nhiều linh ứng, cho nên có nhiều đế vương gia phong mỹ tự, để vạn năm lễ tế cùng trời đất mãi còn như vậy. Tốt thay!

Tuân khai các lễ sinh hóa cùng các chữ húy, Linh Lang hai chữ đều cấm, cấm dùng y phục màu Tím làm lễ.

Ngày sinh thần mồng 10 tháng 4 (lễ dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát ba ngày).

Ngày hóa thần mồng 10 tháng 5 (lễ dùng trên chay, dưới lợn đen, xôi, rượu).

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất tháng giữa thu ngày tốt Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 tháng đầu xuân ngày tốt Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền lại theo bản chính vâng soạn.

Quan thả sử bát phẩm Hoàng Công Độ vâng chép.

Thần tích Hữu Vĩnh, tổng Phù Lưu, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông

Hoành phi Hữu long tắc linh, đền Đức Thánh Cả Hữu Vĩnh.

Nước Đại Việt xứ Sơn Tây đạo Hưng Hóa, phủ Đà Dương (nay đổi là Quảng Oai) huyện Thanh Xuyên (nay đổi là Bất Bạt), làng Lăng Sương (nay đổi là trang Hữu Vĩnh), tổ phụ Tản Viên Sơn là Nguyễn Cao Hành, tổ mẫu Tản Viên Sơn là Đinh Thị Điên, sinh Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Đinh phi chủ ngọc bệ hạ sinh được trăm con thánh cháu thần.

Xưa Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng là hậu duệ của họ Thần Nông. Kinh Dương Vương tên húy là Huyền, sinh Lạc Long Quân húy là Ai. Khi đó có người con gái của Đế Lai tên là Mỹ, còn có tên là Thầm, sống ở động Lăng Sương (tổ của Vương mẫu ở tại Bắc Biển, huyện Thanh Nguyên), đi ra chơi ở bãi Trường Sa (Vương mẫu hái dâu ở bãi Bắc xã Sơn Bạn huyện Bất Bạt). Ngài Long thích sắc đó mà kết thông. 10 tháng mang thai bầu, sinh ra trăm trứng. Qua tầm trong tháng (không mang thai là 7 ngày) trăm trứng vỡ ra, sinh xuất những người con trai, không bú mớm mà tự trưởng thành. Khi mới sinh thì ở bản châu, cho nên lấy bản châu làm đất tổ.

Một hôm Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

–          Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nay khó kết đồng.

Nhân đó cùng nhau phân chia, 50 người con theo cha về biển là Thủy tinh (Đức thánh Quảng Xung Đại vương là huynh trưởng của trăm thánh, quyền kiêm quản sông núi hồ biển ở thông cả 13 xứ, cả sông Tam Kỳ, ngự chính ở thần cung điện tại thôn Phú Dư, xã Hữu Vĩnh, Hoài An, Ứng Thiên, đạo Sơn Nam):

Lân Lang, Xích Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Cận Lang, Chiếu Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngô Lang, Hấp Lang, Chẩn Lang, Hoan Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Khốc Lang, Tán Lang, Minh Lang, Sái Lang, Thôi Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Tường Lang, Tróc Lang, Các Lang, Triêm Lang, Cật Lang, Kiềm Lang, Trưởng Lang, Đỉnh Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang

50 người con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh:

Xuân Lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Võ Lang, Lệnh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế Lang, Thỉnh Lang, Mã Lang, Thiệu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Khiêu Lang, Miên Lang, Chiêu Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Phái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Nhuận Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Tái Lang, Huyền Lang, Tào Lang, Tuấn Lang, Tỉnh Lang, Sâm Lang, Biện Lang, Triêu Lang, Quán Lang, Canh Lang, Ốc Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Lý Lang.

Lên núi xuống sông khi có việc thì cùng gọi nhau.

Vương tên là Hương Lang, tức tôn hiệu là Tản Viên Sơn Tam Vị Đại vương, là người anh cả của 50 đức thánh, sau là Tản Viên Sơn Thánh Thượng đẳng thần Quốc chủ Đại vương. Mua đất đai rừng núi với 112.300 quan tiền ở thôn Bùi Cốc, Mang Bội. Một núi có 4 vị, đất theo 8 cửa, cao 12.300 trượng, rộng 198.600 trượng. Đông giáp Ma Nghĩa, Thạch Thất; Nam giáp Mỹ Lương, Kim Bảng, Chương Đức; Tây giáp Thanh Xuyên; Bắc giáp Bất Bạt. Mặt tiền hướng chính Tây.

Phía Tây có Đại Giang Tả kiên Ma Lang Sơn thần, tôn xưng là Đồng Đô và Ma Lộ Sơn thần, gọi là Đồng Đôi. Thần cánh phải là  Thanh Non Sơn thần, gọi là  Đồng Lang. Thần cánh trái trấn ở hướng Tây nam. Thần cánh phải trấn ở hướng Tây Bắc. Thần Phi Hậu Cung Bà Liệt Sơn, gọi là Bạch Y Thần nữ, ngự ở lầu động rừng núi, gọi là Đồng Long, trấn ở chân núi men theo sông.

Các vị thần nguyên là dân giữ lệ di đến của 12 làng: làng Lăng Sương, làng Mông Hoá, làng An Lãng, làng An Đức, làng Lang Phong, làng Lang Phao, làng Thầm Bội, làng  Thủ Pháp, làng Trung Độ, làng Kỳ Cốc, làng Ly Trúc. Cùng nhau chung đất đai, hương khói. Các ngày tiết giỗ kỵ theo phong tục trong vùng giao cho làng giữ lệ Lăng Sương và Thủ Pháp thờ phụng các cung lớn thượng đẳng, để yên mạch nước, mưa gió đủ đầy.

Hoàng triều nước ta niên hiệu Bảo Thái năm thứ 6 ngày 15 tháng 9 có đôi câu đối:

Cảnh chiêm thanh u tiên tích bí

Vọng long kiều nhạc thánh uy chương.

Ngọc phả cổ chép về một vị đại vươnng công thần triều Tiền Lý Nam Đế (chi Khảm, bộ thủy thần một vị thượng đẳng). Chính bản bộ Lễ quốc triều

Nước ta khởi vận trời Nam, núi sông phân ngang theo Dực Chẩn. Nước Bắc ban đầu được phong thẳng hướng sao Đẩu Ngưu mà phân chia. từ Kinh Dương Vương triều Hùng tuân mệnh của vua cha phân phong làm tông phái đế vương phương Nam. Đất đẹp Hoan Châu dựng lập kinh đô. Nơi thế núi mạnh Nghĩa Lĩnh trùng tu điện miếu. Truyền nước đời tiếp theo xưng là Lạc Long Quân, lấy tiên nữ Động Đình, sống ở trên đầu núi Nghĩa Lĩnh. Mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ từ đó có mang, đến khi sinh sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm trăm con trai, đều là những anh hùng vượt thế, đức độ hơn người. Đến khi trưởng thành Vua bèn kiến phong hầu, lập bình phong, chia trong nước thành 15 bộ.

Khi ấy Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

–          Ta là giống rồng, nàng lại là dòng tiên. Tuy âm dương ngũ hành hợp lại mà có con. Nhưng chủng loại khác nhau, nước lửa xung khắc. Không thể chung sống.

Nhân đó mà chia biệt, phân 50 người con theo cha về biển làm thủy thần, chia trị các đầu sông góc biển. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần, chia trị  các bãi trên núi. Đương khi có việc gọi nhau, tất cùng đến giúp đỡ không tạo họa. Do đó  sau này nhà họ Hùng có các bách thần sông núi, thường có thể đầu thai xuất thế vào các gia đình người dân làm con để giúp nước giúp dân. Nhà nào có phúc tất sẽ gặp được.

Lại nói, đến khi nhà họ Hùng về cuối, ý trời đã dứt, trải qua các đời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê kế nổi, khai mở cơ đồ. Từ đó mạch thống quốc gia đến nay lâu dài vậy.

Nước Việt xưa triều Tiền Lý Nam Đế (đế họ Lý tên Bí) người Long Hưng, Thái Bình, ở ngôi 11 năm. Khi đó ở thành Phong Châu có một nhà họ Đỗ. Ông Đỗ thuộc gia đình có truyền thống ngồn gốc, là vị quan có tiếng của triều Lương. Chính thất là bà Vương Thị Tín. Vợ chồng ông tuổi đã cao, sinh đẻ khó khăn hiếm muộn nên không vui. Ông bèn xin từ quan trả chức. Vua Lương đồng ý, ban cho áo mũ, châu ngọc, xe ngựa. Ông làm lễ bái tạ, rồi trở về quê hương, chuyên làm nghề y để cứu nhân độ thế, ra sức tạo phúc, cố gắng làm điều nhân đức, tạo tượng đúc chuông, sửa chùa xây cầu, âm thầm làm các việc thiện, đã cảm động đến trời cao.

Một hôm, phu nhân nằm mơ thấy mặt trăng chiếu qua khe cửa sổ ánh sáng rạng rỡ. Từ đó cảm động mà có thai. Đến kỳ sinh được một người con gái, mắt phượng mày ngài, phong tư yểu điệu, khác xa người thường. Vợ chồng ông vui mừng vi trời đã cho thành nguyện, bèn đặt tên là Nguyệt Tuần. Đến khi trưởng thành tính tình đoan trang, lời nói uyển nhã, má phấn môi hồng như vạn điểm sóng thu, mắt Thuấn mày Nghiêu, mười phần xuân sắc. Cung thiềm còn khóa. Nhụy ngọc đương thì. Mối lương duyên chưa sớm định ước.

Nàng tuổi 18 thì cha mẹ đều mất. Đến khi an táng xong, một hôm nàng nghe nói ở trang Quyển Sơn (tên xưa là Canh Dịch) thuộc huyện Kim Bảng có sông Châu giang, trên núi Biệt có cỏ thi quý, cùng với núi Tuyết trên dãy Hương Tích có nhiều đá rất cao, mà lại xanh rậm, u vắng, sinh ra nhiều dị vật. Nàng cùng với một số thị nữ xuống thuyền theo dòng sông Hát xuôi xuống, dạo xem sông núi. Đến khi về tới trang Hữu Vĩnh ở đầu bến sông thì thấy xa xa có một ngôi đền thiêng trên núi, bèn đứng lên vọng bái trong thuyền.

Đến khi quây màn để tắm bỗng thấy một con giao long tiến lại, trườn quấn quanh thân. Nàng sợ hãi chạy vào trong thuyền, chạy ngược dòng về nhà. Từ đó cảm động mà có thai. Khi ấy (năm Giáp Thìn mồng 10 tháng 8) ban đêm thấy có một áng mây năm sắc, tròn như hình lọng, che phía trên trước sân, trùm hết mặt đất. Trong một lúc sinh được một người con trai, mặt mũi to lớn, mày thanh mắt tú, tư chất kỳ lạ, khác xa người thường. Lên 3 tuổi thì biết nói, biết lễ nghĩa, thường hay biết học kính nhường, nghe lời biết suy xét. Bèn đặt tên là Xung Lang.

Ngày qua tháng lại, Ngài tuổi lên 6. Cha mẹ không bệnh mà mất. Đến khi Ngài lên 10 tuổi học hành thông minh, văn chương dài đẹp, ý tứ sâu sắc, có học sâu của Châu Trình, có khả năng của Âu Tô. Tài thơ sánh với Lý Đỗ, thích học cung tên, hay đọc binh thư, văn võ toàn tài, trở thành một người con có trách nhiệm với gia đình.

Lại nói, khi ấy Đế ban đầu làm quan triều Lương, sau loạn thì bỏ về. Khí đó các quan thú lệnh hà khắc. Giặc Lâm Ấp đến quấy biên cương. Bốn phương trộm cướp nổi lên. Đế bèn khởi binh đánh đuổi. Lại nghe tiếng Ngài có tài văn võ, trí dũng hơn người bèn sai sứ giả đến mang chiếu mời Ngài. Ngài tuân chiếu đến bệ kiến. Đế thấy là kỳ tài, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, không có việc gì không biết, không có vật gì không hiểu. Vua lấy lạ mà hỏi nguyên nhân là như thế nào? Ngài mới tâu rằng:

–          Thần là Đệ nhất thủy quan, tuân chiếu chỉ Thiên đình giáng sinh xuất thế, giúp vua giúp nước.

Vua nghe vậy rất vui mừng nói:

–          Lòng trời muốn giúp vậy.

Bèn mở tiệc lớn, tiến phong Ngài làm Tổng thống quân vụ Thuỷ đạo Thượng tướng quân, dẫn quân đi trước để chấn hưng quân thanh và để phòng ngừa bất trắc. Thế là Ngài bái nhận quân thủy bộ cùng với Đế tiến quân đường đường ra đi. Bắc đuổi Tiêu tư, Nam dẹp Lâm Ấp, Chiêm Thành. Thiên hạ yên định. Đế lên ngôi kỷ nguyên Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên.

Khi đó giặc đã được dẹp sạch. Ngài quay trở về cung đền ở trang Hữu Vĩnh làm lễ bái yết. Cho gọi các phụ lão của trang đến hỏi cho rõ ràng. Phụ lão tâu rằng:

–          Trang của chúng thần trước đây phụng thờ một vị Thủy thần, nước cầu dân cúng rất nhiều linh thiêng tỏ rõ. Đến hơn mười năm trước có một chiếc thuyền rồng của một vị công chúa cùng các thị nữ đi qua, dừng lại tắm ở đây. Từ đó không thấy linh nghiệm nữ.

Ngài cười rằng:

–           Đó chính là mẹ đẻ của ta.

Thế là phụ lão trang Hữu Vĩnh rất sợ hãi, bèn làm lễ xin được làm gia thần. Ngài đồng ý. Hôm sau thấy sứ giả mang chiếu thư đến, trong đó nói giặc đã dẹp xong, vua ban chiếu cho Ngài về triều dự tiệc, gia phong tước lộc những người có công. Ngài tuân chiếu xa giá về đến trang Trinh Tiết. Phụ lão ở đó cũng đến đón yết. Vì Ngài vốn trước là thần xuất thế, người dân thấm ơn không bị họa do hạn hán. Ngài bèn dừng xem sông núi. Thấy trời đất đẹp đẽ, trong ngoài thì bằng phẳng, trái phải có gò bờ, sông nước chảy quanh, nước lớn tràn trề. Thấy cảnh có tình bèn truyền lập hành cung, giết mổ trâu lợn, lập đàn cáo tế trời đất nước trăm thần. Xong thì gọi các thần tử trong trang khu đến ăn uống. bỗng nhiên ở đó thấy trên không có tiếng thần rằng:

Gia gia thiên hạ dĩ quy thần

Hà tất khu khu tác thế nhân

Kim triệu Xung Lang hồi thuỷ phủ

Đồng quy vân lý hội quân thần.

Phút chốc trời đất trở nên mờ mịt, gió lớn nổi lên. Ban ngày mà như đêm. Chốc lát thì thấy một đám mây vàng chuyển thành năm sắc, từ trên trời hạ thẳng xuống nơi Ngài ngự. Lại thấy thân của Ngài phát hào quang rực rỡ, theo mây cưỡi gió bay ra ngoài bến sông. Sau đó giây lát thì đám mù tan đi, trời trở nên trong sáng. Són nổi dồn dập. Thấy các loài thủy tộc xuất hiện nghênh đón Ngài trở về đầu trang Hữu Vĩnh. Đến chỗ nhánh sông thấy sóng gió trở nên yên. Tức khi đó Ngài đã hóa mất (là ngày mồng 10 tháng 12). Khi ấy nhân dân, gia thần, quân sĩ đều sợ hãi, bèn làm biểu tâu lên vua. Vua lệnh cho đình thần đến làm lễ.

Tế xong lại cho trang Hữu Vĩnh được miễn quân lương phục dịch, sai sứ tuân sắc phong Thượng đẳng.

Phong Nam thiên Linh ứng tối linh Thượng đẳng tôn thần.

Truy tặng phong thánh mẫu là Trinh tĩnh Đoan trang Đỗ Quý phi Công chúa.

Đến triều Đinh Tiên Hoàng (Đế họ Đinh, tên Bộ Lĩnh) khởi binh ở Hoa Lư, bình định 12 sứ quân, dẫn quân tiến về thành Thăng Long (xưa gọi là Long Biên), tiến đến bến sông đầu trang Hữu Vĩnh, huyện Hoài An, phủ Ứng thiên (sau đổi là Ứng Hòa). Bỗng thấy khi đó trời đất u ám, gió lớn nổi lên, sóng cả dập dồn, ban ngày như đêm. Đế bèn vào trong đền làm lễ cầu đảo. Giây lát trời quang tạnh, sóng gió ngừng lặng. Đếm đó Đế ở trong đền, đến cuối canh ba Đế nằm mơ thấy một lão ông quần áo chỉnh tề, hình dung cổ quái, từ trong đền đi ra, tự xưng là quan thủy thần (tên là Quảng Xung), nói rằng:

–          Trời đất an bài, các nơi đã định, có vua tất có bề tôi. Tôi tuân chiếu của thiên đình muốn đến gặp, tự xin âm phù dẹp giặc. Không quá một năm thiên hạ tất sẽ quy về một mối, xin chớ lo.

Dứt lời thì hết mộng (khi đó là mồng 6 tháng 12). Đinh Tiên Hoàng tỉnh lại biết là mộng thần. Sáng hôm đó làm lễ bái tạ, lấy ở trong trang những người cường tráng được hơn 10 người của các gia thần thạo sông nước. Ngay hôm đó dẫn quân đi đánh dẹp. Từ đó mỗi trận đều thắng. Đến khi dẹp yên được 12 sứ quân nghĩ đều do lòng trời giúp đỡ, thần linh hiện ứng âm phù, bèn sai sứ tuân sắc phong thượng đẳng. Tặng phong Quảng Xung Linh tế Thông cảm Dực thánh Hồng ân Uy liệt Hiển hữu Trang dũng Ninh quốc Thượng đẳng thần. Cùng với nước nhà hưởng lành, mãi giữ như vậy. Kính thay!

Ban thêm cho trang Hữu Vĩnh 5 nén vàng để mua nhiều ruộng đất và sửa chữa đền miếu làm nơi phụng thờ. Mỗi năm ngày 11 tháng Giêng Đinh Hoàng lại xa giá đến làm lễ, liệt vào lệ để biểu dương sự linh nghiệm của thần. Từ đó trở thành lệ thường.

Lại nói, từ đó nước cầu dân cúng đều có linh ứng, thường có giúp nước cứu dân, các đời đế vương đều có sắc phong mĩ tự cho vị Thượng đẳng thần. Đến triều Trần Nhân Tông giặc Nguyên đến xâm phạm, kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh chống quân Nguyên, tiến quân đến huyện Hoài An thì gặp quân Nguyên theo đường thủy đánh đến. Hưng Đạo bèn vào đền làm lễ cầu đảo, xin được âm phù giúp. Sáng hôm sau dẫn quân ra đánh, giặc Nguyên quả nhiên thua. Đến khi được thiên hạ, ông Tuấn tâu việc này lên. Vua sắc phong mĩ tự: một vị là Vũ phấn Phong vân Đãng khấu Hộ quốc Linh ứng Thượng đẳng thần.

Đến thời Hậu Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh, đuổi Mộc Thạch, Liễu Thăng, có được thiên hạ. Thái Tổ bèn bao phong mĩ tự: một vị là Tế thế Hộ quốc Thuần hoá Trợ dân Linh phù Thượng đẳng thần, lấy nơi hành cung chốn cũ làm chỗ phụng thờ xuân thu, bốn mùa hương khói, vạn đại không ngừng, cùng trời đất còn mãi như vậy. Tốt thay!

Vâng khai các lễ sinh hóa cùng các chữ húy cấm ba chữ Quảng Xung Lang, cho trang Hữu Vĩnh là trang hộ nhi, các trang khu thần tử khác cùng phụng thờ.

Ngày sinh thần chính lệ là ngày 10 tháng 8. Lễ dùng trên chay bàn, phẩm quả, dưới xôi lợn rượu. Ca xướng.

Ngày hóa thần chính lệ là 11 tháng 12. Lễ dùng trên chay bàn, phẩm quả, bánh thanh khiết các mầu, dưới tùy nghi mà làm lễ.

Chính lệ ngày khánh hạ là mồng 6 tháng 5. Dùng lễ tùy theo.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất ngày tốt đầu xuân, Hàn lâm Lễ viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn bản chính.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 6 giữa đông ngày tốt, nội các bộ Lại tuân theo bản cũ vâng chép.

Thần tích xã Ngô Cương, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh

Thần tích xã Ngô Cương, tổng Nhân Hữu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh

Ngọc phả cổ chép về một vị Đại vương chính triều Triệu Vũ Vương phối thờ với một vị Đại vương (chi Cấn, bộ Thượng đẳng). Chính bản Quốc triều bộ Lễ.

Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ khởi vận cơ đồ, hơn hai mươi [ngàn] năm Hùng Vương dựng nước. Núi xanh vạn dặm sáng lập nền móng cung điện kinh đô. Nước biếc một dòng khởi đạo đế thánh vương sáng mà cứu vật giúp nngười, thống quản 15 bộ, gọi là vị tổ ban đầu của Bách Việt. Có thơ rằng:

Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương

Nhất thống sơn hà thập bát vương

Thập bát thế truyền thiên cổ tại

Ức niên hương hoả ức niên phương.

Lại nói, khi cơ đồ họ Hùng 18 nhánh truyền tới thời Duệ Vương ngự trị, đóng đô ở sông Bạch Hạc Việt Trì, dựng nước tên gọi Văn Lang, quốc đô là thành Phong Châu. Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, kế thừa tổ mở tông thêm, 17 đời cơ đồ thịnh thế. Trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, cố sức hưng bình mà yên Trung Quốc.

Khi đó có một gia đình ông họ Triệu tên Hiển, vợ là Tạ Thị Hinh, thi lễ gia truyền, trâm anh kế thế, cùng là môn đăng hộ đối. Vợ chồng ông một lòng có đức hậu, việc thiện nhỏ cũng làm, không làm ra chút điều ác hại người, không vì lợi ích nào mà có lòng ích kỷ riêng cho mình. Mọi người nơi ấy đều cho là gia đình có nhiều thiện đức, tất sẽ gặp được điều vui lành.

Khi ông đã gần 60, bà Tạ Thị hơn 40 tuổi, mà con trai chưa thấy. Một tối bà Tạ Thị nằm ở trong nhà, đến cuối canh ba thì mơ màng nằm mộng, bỗng thấy một ánh hào quang sao rơi từ trên trời xuống thẳng vào người bà Tạ Thị. Bà bèn ôm lấy mà nuốt đi. Thấy sợ hãi mà tỉnh ra, kể lại chuyện. Ông nói: – Tất đó là điềm tốt lành.

Từ đó bà Tạ Thị thấy trong người có mang. Khi đó (ngày mồng 3 tháng 10 năm Nhâm Thìn) sinh được một người con trai, tư chất lạ kỳ, thể mạo khôi ngô. Ông nói: – Phúc lại càng phúc, đây là được nhận trời ban phúc lớn. Bèn đặt tên là Đà.

Mười tuổi thì đi học. Đến 16 tuổi tư chất cao trội, lực học tinh thông, đức độ hơn người, văn võ toàn tài. Đến khi Ông 12 tuổi thì cha mẹ đều mất. Ông bèn tìm đất tốt làm lễ an táng, trong nhà hương khói thờ phụng theo nghi lễ. Ba năm an táng xong mỗi ra làm quan cho Tần chức lệnh đất Long Châu, thuộc trong quân nhà Tần.

Đến khi đó Duệ Vương tuổi trời đã cao mà 20 hoàng tử đều đã theo nhau về nơi cảnh tiên, không còn dấu vết, không có người để lập nối ngôi. Nên có Thục chúa tên Phán chiếm nước xưng vương. Được hơn 50 năm tạo điều bạo ngược trong dân chúng. Trời giận dân oán.

Thế là Ngài trong lòng rất phẫn nộ, chỉnh đốn quân binh trăm vạn, ngựa khỏe ba ngàn, chia làm 5 đạo. Một đạo theo đường núi Thập Châu, Hoàng Tùng, Quỳnh Nhai mà ra. Một đạo theo đường hai châu Tuyên Quang, Tụ Long mà ra. Một đạo theo đường Lạng Sơn, Thái Nguyên, Kinh Bắc mà ra. Một đạo theo đường châu Minh Linh, Bố Chính mà ra. Một đạo theo cửa Hội Thống, Hoan Châu mà ra. Quân thủy bộ cùng tiến, tiếng quân vang dội.

Hôm đó Ngài tự dẫn quân tiến đến đạo Kinh Bắc (xưa gọi là quận Vũ Ninh), huyện Gia Định, phủ Thuận An, đi đến khu Ngô Cương trang Bùng Trì thì hiệp đồng đóng quân ở đó. Thấy ở đó có một cuộc núi sông bao bọc, rồng hổ cuộn ôm. Núi không cao mà bãi rộng. Sông nước hữu tình, tiện nghi, thấy cũng là một nơi quang cảnh đẹp vậy. Ngài bèn truyền quân sĩ cùng nhân dân lập một đồn trại ở đây để sau này chống quân Thục.

Do đó, phụ lão, nhân dân khu Ngô Cương trang Bùng Trì đều sợ mà làm lễ xin làm thần tử. Nhân đó xin nơi nay là đồn sở, sau xin được làm nơi thờ phụng. Ngài đồng ý, tặng cho 15 nén vàng để sau này mua thêm ruộng lúa dùng cho việc cúng tế.

Tối hôm đó đến cuối canh ba Ngài đang nằm mơ màng bỗng thấy có một lão ông, quần áo chỉnh tề, hình thù cổ quái, từ con đường bên mà đến, tự xưng:

  • Thần vốn là thần bản cảnh, tên Cường Bạo. Nay thấy vua dẫn quân dẹp Thục, muốn lại yết kiến, tự xin được âm phù giúp. Ngày sau xin được phối thờ.

Nói xong thì biến mất. Một lúc thì Ngài tỉnh lại mới biết là thần nhân ứng mộng trợ giúp. Thục chúa tất sẽ dẹp được. Sáng hôm sau Ngài lập đàn tế cáo trời đất cùng các linh thần, mổ trâu khao đãi quân sĩ và nhân dân. Cho gọi các vị phụ lão đến nói:

  • Ta sau này khi trăm tuổi, mỗi khi cúng tế hãy phối tế cùng với linh thần bản cảnh.

Sáng hôm đó bỗng thấy giặc Thục trùng trùng điệp điệp bốn mặt tiến đến. Ngài vị giặc Thục vây hãm, rất nguy khốn. Ngài mới ngửa mặt lên trời khóc và chúc rằng:

  • Hôm nay ta sẽ phải chết ở nơi đây sao?

Bỗng nhiên trên không thấy mây mù nổi lên, trời đất u ám, ban ngày như đêm. Ở giữa lại thấy có một đám mây đỏ từ trên trời hạ thẳng xuống nơi đồn quân. Ngài cùng các gia thần tướng sĩ vài trăm đội phấn chấn hô to:

  • Đám mây đỏ này giúp chúng ta rồi.

Bèn tập hợp quân sĩ lại chống trả. Một trận phá được vòng vây, chém được tướng giặc cùng các tì tướng vài ngàn tên, thu được vô số khí giới, lương thực, ngựa. Quay lại nhìn các quân sĩ thì đám mây đã không biết ở nơi nào nữa. Ngài than rằng:

  • Sinh mệnh của ta đều ở đây. Nay ta có thể phá Thục cũng lại là nhờ đám mây đỏ trợ giúp.

Thế rồi vua khải hoàn trở về kinh, lên ngôi hoàng đế, khao đãi các cấp tướng sĩ. Lai sai rời đô về Phiên Ngu, lập nước năm đầu. Thiên hạ thanh bình, trong nước vô sự.

Khi đó đang mùa xuân trăng sáng, Đế ngự ở cung rồng, thấy có một con rắn vàng quấn quanh ở cung rồng. Hai ban văn võ giúp vua hoảng sợ rạp xuống. Bỗng nhiên trời đất nổi lên một đám mây vàng hình như sợi thừng đỏ, từ trên trời hạ thẳng xuống sân rồng. Thấy thân Hoàng đế bay ra ngoài lầu thành, ngay khi đó thì hóa. Hôm ấy là ngày 15 tháng Giêng.

Thế rồi Thái tử lên ngôi xưng vương, phụng sắc tiến phong cho các nơi thần tử đều đón mĩ tự về nơi tứ dân lập miếu thờ.

Phong Chấn Nam Triệu Đà Phân phi Hùng hào Thần [vũ] Đại vương;

Phong Bản cảnh thành hoàng Thông minh Hộ quốc Cường Bạo Bảo an Trí dũng Đại vương.

Các sắc phục màu vàng, đỏ khi làm lễ đều cấm. Cho phép Ngô Cương trang Bùng Trì thờ.

Cho đến thời vua Lê Đại Hành niên hiệu Thiên Phúc xem xét trăm thần, thấy sự linh hiển đó bèn phong thêm mĩ tự một vị là Thông đạt Đại vương, gia phong một vị là Ngưu hưng chi thần.

Lại nói, từ đó về sau có nhiều linh ứng nên có nhiều đế vương gia phong mĩ tự Cho đến thời Trần Thái Tông có giặc Nguyên đến xâm chiếm, kinh thành vị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh cầu đảo bách thần ở các đền. Hai vị có hiển ứng âm phù cho Thái Tông, bèn bao phong mĩ tự là Linh anh Triết hiển.

Cho đến khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, yên được thiên hạ, Thái Tổ bèn gia phong mĩ tự Phổ tế Cương nghị Anh linh, sắc ban cho khu Ngô Cương trang Bùng Trì trùng tu miếu điện để thờ mãi như vậy. Tốt thay!

Đồng ý cho khu Ngô Cương thờ (ba chữ Đà, Cường, Bạo đều cấm).

Ngày sinh 13 tháng 3 là chính lễ, dùng trên chay bàn phẩm quả, dưới là trâu, lợn, xôi, rượu, bánh dày bánh chưng, ca hát vui chơi 10 ngày thì ngừng.

Chính lễ ngày hóa là 15 tháng Giêng, lễ dùng như trên.

Niên hiệu Hồng Phúc thứ nhất, đầu xuân ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn bản chính.

Niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 6, giữa thu ngày tốt, nội các bộ Lại vâng theo bản cũ.

Vị trí làng Ngô Cương, Bùng Trì, Gia Định, Bắc Ninh.

Thần tích làng Tiên Cát, tổng Minh Nông, huyện Hạc Trì, Phú Thọ

Chính ban thờ lục vị thần ở đền Tiên Cát.

Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.

Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:

– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?

Thiếu nữ đáp:

– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.

Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.

Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc.

Đầu mạch đất này bên trái từ sông Lôi núi chạy sông theo, tới các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương, bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung tiên bên trái là rồng xanh, chạy tới hóa ở xứ Hải Dương thành các núi Đông Triều, Yên Tử. Mạch tới ngoài biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.

Bên phải mạch đất Hán Giang, Nhị Hà, Lô Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Giang, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung tiên bên phải là hổ trắng, đầu Sơn Nam, Ái Châu, núi Chính Đại cửa biển Thần Phù, thoát ra ngoài biển ở núi Chích Trợ, cửa Trà Lý, làm đầu hổ chầu án.

Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy sông Cả ở huyện Nam Xương làm Trung minh đường. Nam Hải, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.

Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang (phía Đông tới Nam Hải, phía Tây đến Ba Thục, phía Bắc tới Động Đình, phía Nam giáp Hồ Tôn).

Vua rời giá về cựu đô Hoan Châu. Việc dựng đô thành của Vua trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm chốn đô ấp của Cổ Việt Thường Thị.

Lại nói, đương thời Dương Vương ở châu Đại Man, huyện Yên Bình, xứ Tuyên Quang có một gia đình Trưởng ông (họ Mã tên Sùng), lấy vợ người trong châu (họ Trương tên Man). Khi ông tuổi ngoài 50, bà Trương tuổi hơn 40, một hôm bà Trương lên núi lấy củi. Trên núi có một ngôi đền cổ, đều đã đổ nát. Bên trong có tượng nữ, cũng đã hư hỏng. Bà Trương lại gần xem xét. Bà Trương mới đùa rằng thần linh ở đây ngày đêm nhàn nhã, lấy ai là người cúng tế. Xin hãy về gia đình thiếp để phụng dưỡng cơ huyền.

Tự nhiên bỗng thấy có một con rắn trắng từ trong tượng bò ra. Bà Trương kinh sợ, bỏ chạy về nhà. Ngay hôm đó bà Trương mơ thấy mặt trăng rơi vào trong miệng. Bà Trương bèn nuốt lấy, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mộng. Từ đó thấy có ý động mà có mang thai. Đến khi đầy tháng sinh được một nương tử, phong tư yểu điệu, mẵn phượng lung linh, mặt ngọc đầy đặn sánh với Hằng Nga trên cung trăng, không phải là người có thể có ở trên phàm trần, môi son má phấn, thân người tự có mùi thơm. Cha mẹ rất yêu quý.

Đến khi lên ba tuổi mới đặt tên là nàng Ngọc Hương. Khi tuổi 15 cung thiềm còn khóa, nhị ngọc đương thì, đức nữ nhi trinh hiền, nữ công tinh khéo, đàn cờ thơ phú không gì là không biết. Có lòng hiếu hiền hoà thảo, thật hiếm có trên đời. Khi 19 tuổi như trăng rằm chính độ, hoa xuân vườn thượng uyển.

Khi ấy Dương Vương ngự giá đi thăm các khu tôn lăng, đi qua Man Châu. Ngọc nương ra xem. Dương Vương thấy, thích thú sắc đẹp đó, mới triệu đến cưới, lập làm Cung phi thứ tư. Vua rất sủng ái, mới cho ở thành Phong Châu (nay tức là đất Bạch Hạc, Phù Khang, Việt Trì). Vua cho xây dựng cung dinh, để nàng sống ở cung đó, gọi tên là cung Tiên Cát (sau tức là trang Tiên Cát).

Lại nói, khi ấy Vua đi tuần thú quay về thành Hoan Châu (nay là Nghệ An). Chính cung Thần Long có mang, khí lành đỏ rạng trong nhà, trong màn trướng có hương thơm. Qua tuần Thần Long sinh Lạc Long Quân, có tư chất phi thường, tự có khí tượng của bậc đế vương.  Vua bèn lập làm Hoàng thái tử. Khi ấy có con gái của Đế Lai là Âu Cơ về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, đi ra bãi Trường Sa chơi. Long Quân bắt gặp, rất yêu quý sắc đẹp đó mới cưới về lập làm Hoàng phi.

Do đó Kinh Dương Vương sai Lạc Long Quân đến núi Nghĩa Lĩnh ở thành Phong Châu để giúp việc lớn nước nhà, lại cùng tiện cho việc thăm hỏi Thứ phi. Lạc Long Quân tuân theo mệnh chỉ, đến thành Phong Châu nhận việc vua, thiên hạ thái bình, đất nước vô sự. Quân thần đều sùng ngưỡng tiên phật, tin kính quỷ thần trời đất. Vua và dân cùng hội hợp, trăm họ vui ca lạc nghiệp. Bốn dân vinh đủ yên bình, đều là ơn đức lớn vậy.

Lại nói, Thứ phi sống ở nơi đất đó, cứ mỗi năm hai lần xa giá về chầu chính cung cửa đế. Chầu xong lại quay về đất cung dinh cũ (tức cung Tiên Cát), ngày tháng đàn thơ, hội nhạc, cờ vây ở bãi đá bên bờ sông. Khi ấy có hai nàng tiên nữ là con vua thủy cung  thường thường đi thuyền rồng lên du ngoạm nơi trần thế, cùng với Thứ phi kết làm nghĩa chị em, tưởng như con cùng bọc mà thân tình như chị em ruột thịt, nguyện cùng với trời cao không đổi (một tên là công chúa Thủy Tinh, một là công chúa Bạch Hoa). Hàng ngày thường xe rồng kiệu phượng lên chơi với Thứ phi cùng đánh cờ, đàn hát làm thơ ở nơi bờ đá bên sông.

Một hôm, Thứ phi nói với hai nàng rằng:

–          Ta thấy hai nàng tuy sông núi không cùng, nhưng đều bậc ở cửa vua, dự vào hàng tiên cung thánh nữ, không phải tầm thường.  Tục nữ nguyện ước được tình tâm phúc, xin chớ coi nhẹ ý đẹp này.

Hai vị thủy nương đáp rằng:

–          Có trời chứng giám, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa, cho dù cơ huyền trước đây như thế nào.

Đời sau có thơ rằng:

Hùng triều Tiên Cát sở cung phi

Thạch xứ tiên nương hợp dụng kỳ

Sơn thuỷ tương đồng do tích tại

Tà tiên chi xứ hữu thuỳ tri.

Lại nói, Dương Vương ở ngôi được 215 năm, thọ 260 năm thì băng. Con là Lạc Long Quân kế vị. Long Quân mới lập, cải hiệu là Hùng Hiền Vương. Khi đó Âu Cơ có mang, mang thai 3 năm 30 tháng, đầu núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc sáng rạng, đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm con trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vua mới dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ (Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn Quảng Đông, mười lăm là Quảng Tây).

Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

–          Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng.  Phân 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.

Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng. Các vương tử gọi là Quan Lang. Các vương nữ gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Là thời sung túc, trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, những người làm được cử theo việc, tùy theo khả năng. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hòa mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng.

Lại nói khi ấy Thứ phi dưới triều Tiên đế Dương Vương không có con, dòng tiên trên trần thế không còn vương vấn. Lạc Long Quân tuân theo mệnh vua cha, ngày đêm phụng dưỡng, không dám nhạt lòng. Ngày thường đến cung Tiên Cát xem ngắm địa thế, tu bổ cung lầu. Vua thấy địa hình nơi đây là nơi rất tốt, quang cảnh đất đẹp anh linh. Phía trước có sông Thao án dựa. Phía sau là núi Nghĩa Lĩnh có lân đá, voi đá, ngựa đá, trống đá, người đá, quân đá tùy vị trí mà án dựa, thị tòng hội ở xứ ấy, phong tinh năm ngọn trái phải phụ tá, củng phục chầu ở trước. Vua nhớ đến việc Tiên hoàng tìm đất, xây dựng cung cho Thứ phi ở đây, tên gọi cung Tiên Cát. Cung đó tất có phong cảnh thần tiên, mạch đất linh thiêng, không phải là khu đất thường tình.

Cho đến một năm sau, một hôm Thứ phi bỗng thấy hai nàng công chúa thủy tiên, theo sao là các nàng hầu, thuyền rồng kiệu phượng, tiến vào trong cung, nói với Thứ phi rằng:

–          Hôm nay (tức ngày 9 tháng 10) đã đến lúc được như nguyện. Chị phải vào chầu cửa đế, xin chớ trì hoãn. Chị với chúng em tuy âm dương hai ngả, sông núi tách vùng, nhưng lại cùng một nhà lầu mây gác phượng, khí huyết cùng nhau mà hội hợp, dám xin có trước sau, chị cùng với hai em về nơi Thủy quốc.

Nói xong, Thứ phi rời đi xuống thủy phủ. Thứ phi lại sai nội thần tâu lên vua trước sau như sau:

–          Hôm nay có hai vị con gái vua Thủy Tinh, là người kết nghĩa với Thứ phi, trước sau đã có hẹn ước, chị em như ruột thịt, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa. Nay thấy hai nương cưỡi xe loan đến triệu Thứ phi về chầu cửa đế. Do đó tiểu thần tuân mệnh vào tâu trước bệ, nguyên cớ là như vậy.

Vua nghe lời tâu bèn ngự giá đến cung (tức cung Tiên Cát, do Tiên hoàng dựng nên, đến cuối triều Hùng đổi thành trang ấp). Vua mới đi được nửa đường bỗng thấy mây mưa đổ xuống, gió sấm nổi lên, một lúc thì tự nhiên hết.

Vua nói Thứ phi đã đi vào cõi trường mộng vậy (tuổi Giáp Tý sinh ngày mồng 5 tháng 5, đến ngày mồng 10 tháng 10 thì hóa), bèn lệnh cho quan đến làm lễ tế khi còn chưa đến lúc an táng. Khi ấy Vua ở lại trong cung đó, mơ màng ngủ thiếp đi bỗng thấy Thứ phi xe loan kiệu phượng huy hoàng đẹp đẽ, tả hữu hai bên là hai vị tiên nương cưỡi xe loan cùng đi vào khu bãi đá bên bờ sông. Tiếp phía sau theo hầu trăm người nữ trinh đồng, khăn hồng đai tía, xe rồng kiệu phượng, theo đến nơi gặp Vua ở xứ đó. Thứ phi nói với Vua rằng:

–          Thiếp vốn là thần nữ ở tiên cung, lầu mây gác phượng giáng xuống ở nơi trần thế, năm đó vào hầu Tiên hoàng, được ơn thâm trạch hậu, hưởng lộc đã nhiều. Nhưng hận là trần duyên chưa thỏa, không mảy may chút nào ở trần thế, tất cả đều hư vô. Nay vui vì có được hai vị nương tử cùng là con gái vua thủy cung, trên dương trần hàng ngày có giao du với nhau, nguyện là chị em ruột thịt. Một vị là nàng Thủy Tinh, một là nàng Bạch Hoa, cùng như tay chân gắn bó vậy, đồng lòng kết làm chị em. Nay lầu mây quê trước quay về nơi cảnh cũ, mưa gió ra vào nơi đất tốt.

Lời chưa dứt thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Đến khi làm lễ đưa đám, liền trong 3 ngày mưa to gió lớn, một vùng mờ tỏ, cửa nhà tối mịt. Vua chôn cất bà phi ở nơi đất đó (tức xứ Gò Đá, nơi có lân đá, voi đá, ngựa đá, cờ đá, trống đá, thuyền đá, quân đá, bàn đá theo ở phía sau, hai bên trái phải hướng vào trước huyệt, có năm ngọn phong tinh chầu về hai bên, bên phải có sông Thao làm minh đường).

Nơi đó xưa khi Thứ phi còn sống, tuy Tiên đế lập cung trên vùng đất bên trong, bố trí cho Thứ phi ở đó gọi là cung Tiên Cát, nhưng Thứ phi ngày thường thích ra chơi ở đất đó (tức xứ Ghềnh Đá), cùng với hai vị thủy tiên gặp nhau đánh cờ, làm thơ, chơi nhạc, cũng như quang cảnh chốn Bồng Hồ Lãng Uyển, Đào Nguyên Trúc Lĩnh vậy. Ngày trước Vua ngự giá đến đây xem xét địa hình. Vua từng nói là vùng đất này đều rất linh anh, thật là nơi tốt. Nhân đó Vua cho an táng lăng tại nơi này. Vua nhớ lại giấc mộng khi chưa an táng. Hôm đó bèn truyền cho địa phương lập miếu ở trên khu lăng cùng thờ phụng ba vị, cùng phong là các thần nữ.

–          Phong Thứ phi là Đệ nhất A Nương Thần nữ Ngọc Tinh nương Cả Đại vương.

Phong hai vị Tả hữu Thủy tiên Công chúa:

–          Phong làm Đệ nhị Thuỷ Tinh Thần nữ Nương Hai Đại vương.

–          Phong là Đệ tam Bạch Hoa Thần nữ Nương Ba Đại vương.

Vua lại truyền cho các gia thần ở cung sở địa phương ngày trước đã theo hầu Thứ phi, cộng được ngoài trăm nhà ở đó. Vua cho ở tại đó sớm hôm hương khói để phụng thờ.

Lại nói, khi đó Vua có trăm con cùng một bọc, đều là những vị anh hùng cái thế, sức dũng động trời, làm thần thánh xuất thế, không phải thường nhân trên đời. Vua tuy còn ở tại thế cai trị trần gian nhưng cũng chia trăm con làm hai bộ. Một bộ cai quản sông hồ cửa biển. Một bộ trị các đầu núi non, cùng có chức phong làm thần tử, bố trí các nơi để trị hưởng lộc một phương.

Một hôm, Vua ngự ở cung Phượng Lâu (tức nay là trang Phượng Lâu). Khí đó mùa xuân ôn hòa, khí lành, vạn dặm răng thanh gió mát, một trời phong cảnh an hòa. Vua mới nằm ở chính cung (tức cung Phượng Lâu), bỗng nhiên mơ màng, đi vào thẳng thành Hoan Châu (tức Nghệ An), mới gặp Kinh Dương Vương ngự ở chính điện, hai bên có quan văn võ đứng chầu.

Dương Vương nói với Vua rằng:

–          Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.

Lời nói vừa dứt thì gió xuân thổi vào áo long bào, Vua tỉnh dậy biết là nằm mộng. Vương nhớ lại lời căn dặn của Tiên hoàng trong mộng, tuy âm dương hai ngả nhưng đâu dám trái mệnh.  Hôm ấy (mùng 10 tháng Giêng) Vua lệnh cho ba vị quan lang một là Cự Linh Thần tướng, hai là Ất Linh, ba là Linh Lang Thông Thủy, đều cùng là những hoàng tử từ bọc trăm trứng nguyên phân làm hai bộ (Cự Linh, Ất Linh, Linh Lang Thông Thuỷ đều thuộc thuỷ bộ), ban cho quản lý đầu sông (tức sông Thao), giữ gìn cung sở của Thứ phi (tức cung Tiên Cát). Ba vị tuân theo ngọc chỉ, quản trị ở đầu sông (tức sông Bạch Hạc ba dòng nước từ ranh giới sông Thao), giữ gìn cung miếu (tức tiên cung Thứ phi của Tiên đế Dương Vương).

Qua hai năm, khi đó Vua đã trị quốc dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt.

Hiền Vương ở ngôi 400 năm, sau về biển hóa sinh bất diệt làm Động Đình Long Quân Đế chủ. Quốc Vương tuân thừa nối đại quyền. Quốc Vương lên ngôi mới được 1 năm thì khi đó mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).

Lại nói, Quốc Vương nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, cung vua có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ,vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.

Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã.

Một ngày (15 tháng 3) Vua đến ngự ở cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát).

Nhàn xem phong cảnh, thăm thú cung lăng, tu bổ các tòa cung sở miếu điện. Vua lại mở một chợ ở bên sông, trước khu cung lăng, gọi là chợ Tiên, cho các phi nhân của vương cung cùng với các nội thần của các phu nhân, vương nữ đến hội sớm tối, những người đánh cá  trước sông  cũng cùng ở trên chợ, là nơi đô hội của thần tiên. Hôm đó (mồng 3 tháng 3) Vua lại phong cho ba vị hoàng đệ đều là Thuỷ thượng linh thần, cùng với Tiên phi vào cùng một nơi, cùng phối thờ phụng.

–          Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long Vương Đại vương.

–          Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương Đại vương.

–          Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long Vương Đại vương.

Hôm đó (mồng 3 tháng 2) Vua sai quan đế tế, làm lễ bái tạ. Làm lễ chưa dứt thì bỗng thấy gió sấm bỗng nổi lên, mây mù u ám, trên sông sóng đổi vạn nhận, cung đền bốn bên mây phủ. Lại thấy 3 con rắn từ trên đường phân nước tiến thẳng vào trong đền, bò lên giữa gác trái phải. Bên trong đền sáng huy hoàng, mùi hương thơm bao phủ. Trước sông hàng trăm đàn cá hùng dũng nối nhau. Vua lấy làm lạ bèn nói rằng:

–          Nay tuy thủy phủ và dương gian khác biệt, nhưng có tương thân khí huyết, sơn thủy một mạch, cảm được sự linh thiêng, cùng đã biết vậy.

Vua vừa dứt lời thì [ba con rắn] tự nhiên biến mất . Mưa gió tự yên, mây tan trời sáng. Làm lễ xong Vua lại tặng phong là Thượng đẳng Phúc thần, bố trí quan cùng với các gia nhân địa phương ở nơi đó bốn mùa hương khói phụng thờ.

Lại nói, Quốc Vương tên Bảo từ lúc lên ngôi được 300 năm, thọ 643 tuổi, mệnh Tân Mùi sinh giờ Mão ngày 16 tháng Giêng, mất giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5, hóa sinh sinh không thành, kim tiên thượng quán cư ở cửa ngọc mà cai quản. Tiên chủ sinh trưởng tử là Huy Vương, kế vị, truyền 8 vua tiếp sau.

Sau này Lý tiên sinh có bài tán:   

Sinh vi thánh đế hoá lai tiên

Duy hữu  Hùng đồ thập bát truyền

Thánh tử thần tôn cung miếu tại

Đức đồng nhật nguyệt hưởng trường miên.

Lại nói, thời lịch truyền 18 nhánh (từ  Kinh Dương Vương chí Hùng Hiền Vương, Quốc Vương, Hy Vương, [Hi Vương], Diệp Vương, Huy Vương, Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Uy Vương, Trinh Vương, Võ Vương, Việt Vương, Định Vương, Triêu Vương, Tạo Vương, Ninh [Nghị?] Vương, Duệ Vương, cộng 18 đời thánh chủ, hưởng nước cộng 2655 năm). Truyền đến Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương có chất thánh triết, tài lớn anh hùng, nối cơ nghiệp tổ tông khai đắp 17 đời thịnh trị, trong lo võ lược, ngoài ngự biên cương, gắng sức hưng bình để yên Trung Quốc. Lại noi gương tiền vương trị vì, sùng trọng đạo trời, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, mến giúp quốc sự. Vì thế Vua ngày càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thiên hạ c sửa thêm đền miếu, vẽ tô nghi vệ trang nghiêm. Khi đó Vua đến cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát), thăm thú lăng mộ, tăng thêm việc tu sửa đền miếu, ngày ngày hiến tế, một tháng hai lần sai quan đến làm lễ.

Than ôi, đạo vốn thịnh nhiều thì sẽ suy, đầy rồi thì sẽ tắc. Cơ đồ họ Hùng trị nước vốn đã lâu dài, ý trời tất có hạn. 20 hoàng tử và 4 công chúa đều phiêu du về nơi Bồng Lãng, thoát gót trần gian, không có ai để trông mong việc nối truyền. Chỉ còn hai người con gái, đều là bậc thần tiên đời (một nàng được gả cho Chử Đồng Tử, một nàng gả cho Tản Viên Quân).

Vua bèn nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh, là con rể mà truyền đại bảo. Nhưng Sơn Thánh vốn có phẩm chất thần tiên, không muốn nhận ngôi cai quản quốc gia. Bèn lại truyền cho Thục chúa, cũng là cháu họ Hùng ở Ai Lao. Từ khi Thục chúa (tức An Dương Vương) nối thừa ngôi báu, đóng đô ở thành Cổ Loa. Còn Phong Châu thành đất của họ Hùng, cùng các cung sở lâu đài được nhân dân các xã động chia nhau ở (đất thành Phong Châu đến Thục Dương Vương rời về ở thành Cổ Loa, từ đó thành Phong Châu đổi thành các xã trang động của người dân).

Trong thời kỳ Thục Vương, đất ngoài cung Tiên Cát có hai trăm nhà ở đó đã di cư. Chỉ còn 17 người ở lại cố giữ đất đó. Lòng người thay đổi, xưa nay là thường. Cảnh tiên cung vua đó đều theo năm tháng mà yên nhàn trôi qua, tích xưa khó thấy dấu tiên còn đọng, chỉ còn nghe tiếng chim chóc hót ca.

Khi Thục Dương Vương ở ngôi được 80 năm mới truyền vị cho Triệu Đà, cha truyền con nối trải 5 đời thánh vương. Đến khi Vệ Vương kế truyền chính thống thì có quân Tô gây loạn. Trưng nữ lại hưng (cũng là cháu gái của Hùng Vương), ở ngôi được 5 năm, tiếng thơm ngàn thủa, cũng là bậc nữ anh hùng.

Từ đó triều Hùng chấm dứt. Tới Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 350 năm cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, đều có giúp nước hộ dân, nên các đời đế vương đề có gia phong mỹ tự, vạn đời hưởng lễ, hương khói vô cùng.

Lại nói, tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền. Một hôm quân Hồ giáo mác tiến đến ở vùng đất này (tức là vùng đất trang Tiên Cát), vào trú ở trong đền (tức đền cung Tiên Cát). Lại thấy địa hình có quý cục, voi đá, ngựa đá đều hướng chầu lên núi Nghĩa Lĩnh. Hôm đó (mồng 6 tháng 6) quân Hồ sĩ tốt bắt dân phu cùng binh sĩ lấy cưa sắt cắt ngựa đá, voi đá ra thành các đoạn, lấy đá đó xếp thành lũy, đồn sở. Đang khi cắt đá chưa được một lúc, bỗng thấy mây gió lớn nổi lên, bốn bề trở nên mờ mịt, mưa dội sương mù, sấm sét vang gầm. Trên sông nổi sóng cuồn cuộn vạn nhận, sấm vang làm rụng rời phách kinh nghê, vạn dặm cuồng phong dữ dội, cá rùa hồn kinh nhảy loạn, giao long nổi đầy sông, đào thông một đường thủy tiến thẳng vào trước cung, trùng trùng hàng ngàn con. Từ trên núi xuống hàng đàn hổ chạy tới, tiếng gầm chấn động, chạy thẳng về nơi đền thờ ở địa phương (tức trang Tiên Cát), vây kín bốn phương xung quanh. Quân Hồ kinh hồn chạy tán loạn. Nhân dân đều mất vía, tất cả đều bỏ chạy khỏi cửa nhà. Nơi đó (tức đất Tiên Cát) đều bị gió lớn thổi đỏ, nước ngập tràn lan ở bên trong, tất cả đều hư hỏng. Rắn hổ tập trung ở đất đó, đuổi hết mọi người, thật là một nơi bị hại lớn, có vào mà không có thoát, chết chóc rất nhiều.

Chỉ còn có 8 người tránh ở nơi đất gần đó (tức là ở đất nội thành), thường thường buổi tối mới dám quay về ẩn phục xem xét nghe ngóng nơi đền. Thấy sáu vị thánh ở chính trong đền (tức xứ Gồ Đá có chính lăng). Ba vị nữ quan ngồi ở trên, truyền lập hai hàng trái phải các thị nữ khăn áo hơn trăm người, huy hoàng đẹp đẽ, áo quần rực rỡ, vẻ rồng mắt phượng, má phấn môi son, tai cầm phiến ngọc, đầu đeo thoa vàng, đi hài lông phượng, lưng thắt khăn hồng. Bên dưới có ba vị quan nam ngồi đó, trái phải đứng hầu hơn ngàn người, áo lân giáp rồng, bào phục huy hoàng, đứng hầu uy lẫm. Cờ xí la liệt, ngựa voi chỉnh tề, xe loan kiệu phương cùng đi, thuyền rồng phân đội.

Tám người đang nấp nghe, thì thấy ba vị nữ quan nói:

–          Thật đáng trách bọn  cuồng khấu chim chó quân Hồ không biết đất này là nơi Tiên đế mở nền, tạo nên nước Nam. Đất có linh thiêng, khí lành đều do tạo an bài. Do vậy mà các nơi đều hận quân Hồ, nhưng không nên trách dân ta mà gây họa. Nay quân thủy phủ của ta đã trả hận quân Hồ. Còn nhân dân thì không được quấy nhiễu. Quân tôm cá hãy quay về thủy phủ để dân được yên.

Lời nói chưa dứt thì tám người đều phục trước sân mà bái tạ. Bỗng thấy một tiếng động rất lớn tựa như sấm sét giáng xuống mặt đất, rồi dần dần tự biến mất. Từ đó một vùng địa giới đều yên. Tám người quay về đất cũ (tức chợ Tiên Cát), gìn giữ nơi đất đó, năm tháng cùng phụng thờ.

Cho đến khi ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu có người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa, ba ngàn thần hổ Lam Sơn tiễu trừ họ Hồ, bình định người Ngô. Lên ngôi vua ở Lam Sơn, niên hiệu Thuận Thiên (tức Thái tổ Cao Hoàng đế). Khi đó đất trang Tiên Cát chỉ có 8 nhà ở đó, mới làm bài tấu lên vua về việc quân Hồ đục phá ngựa đá, voi đá ở đền, lại thấy việc linh thiêng như thế. Vua nghe lời tâu đó, lệnh cho quan đến nơi làm lễ cầu đảo (làm lễ năm Kỷ Mùi, mồng 9 đến mồng 10 tháng 10). Nhân dân đều đến ở Gò Đá mà tế lễ. Bèn mổ lợn đen, rượu ngọt, bánh dày cùng với trăm trứng. Từ mồng 9 đến mồng 10 làm lễ thì gió sấm nổi lên, mây mưa mù mịt. Trước sông (tức sông Thao) mây nổi bay trên mặt nước, hơn ngàn đám mây bay ngang dọc trên sông, rồi tiến thẳng vào trong cung đền. làm lễ tế xong thì mây mưa tự nhiên ngừng hết. Bốn phương thanh bình, quang đãng. Nhân dân đều sợ phục. Tới ngày 11 lại tế tạ. Ca múa tới ngày 15 làm lễ. Tạ xong thì mưa gió nổi lên một hồi rồi ngừng. Quan quay về tâu lên. Vua bèn gia phong mỹ tự:

–          Phong Đệ nhị Thuỷ Tinh nương Hai Uy linh Đại vương

–          Phong Đệ nhất Ngọc Tinh nương Cả Linh ứng Đại vương

–          Phong Đệ tam Bạch Hoa nương Ba Hiển linh Đại vương

–          Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương An dân Đại vương

–          Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long vương Hùng tài Đại vương

–          Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long vương Đại vương.

Trang Tiên Cát phụng thờ 6 vị.

Lại nói, từ khi Lê Thái tổ Hoàng đế truyền qua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, qua Minh Tông đến Chiêu Tông lên nắm quyền. Khi đó họ Mạc tiếm ngôi xưng vương, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Minh Đức, kế thế con cháu 5 đời làm vua.

Tới Lê Trang Tông cùng với đại thần là Thái úy lại khởi nghĩa binh. Niên hiệu Nguyên Hòa năm Quý tỵ quan Thái úy tôn phù nhà vua, dời đến cảnh Ái Châu, truyền các tì tướng gửi hịch chiêu dụ các xứ ở Bắc thành, lại đi thuyền đến đạo Sơn Tây, giả làm thuyền buôn. Đi tới sông Thao, thuyền qua trước đền (tức đền Tiên Cát) gặp ghềnh chặn, thuyền không thể đi được. Gió lớn thổi đến, sóng to trên sông, làm cho thuyền gần bị lật. Tướng cầm quân ngẩng lên nhìn bỗng thấy đền thờ rực rỡ. Ngay hôm đó (mồng 3 tháng 8) bèn đậu thuyền làm lễ, cầu đảo khấn rằng:

–          Gia thần tuân theo mệnh lớn, chiêu dụ người tài, tiễu trừ giặc mạc. nếu phục hồi được nhà Lê Nguyễn, nguyện xin âm phù cho thông đường thủy và bảo toàn quân đội.

Khấn xong tự nhiên yên bình. Các thuyền tự thoát, thuyền đi như bay. Thuyền lên đến trang Tằng Động huyện Thanh Ba thì thấy mưa gió tập trung chỗ dân địa phương. Bèn đóng quân trong ba ngày. Hôm ấy (mồng 6 tháng Giêng) nhân dân ở đó với quân Lê cùng mơ thấy hai cánh binh mã tiến vào trong dân, nói rằng:

–          Ta là  Chàng Út Long vương Thuỷ thú cùng với Chấn cung Thần quan tuân theo mệnh vua âm phù cho mệnh nước, bảo hộ nhà Lê. Nay đến nơi dân đây còn chưa định làm lễ sao?

Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mơ. Quân sĩ và nhân dân địa phương đều sợ hãi. Hôm đó (mồng 10 tháng Giêng), lập đàn cầu tế (ngày sau ở đất này đều lập miếu phụng thờ).

Một hôm quân Lê lại quay về huyện Tam Nông xứ Hưng hóa, vào ở tại đất trang Thọ Xuyên, bị quân Mạc vây hãm. Ba ngày sau quân Lê trước khi xuất hành mới cầu đảo bách thần phù hộ. Tự nhiên gió Tây lớn nổi lên, mây mưa bao phủ theo dòng nước mà vào cả khoảnh nơi đó, tất cả thành một dòng suối lớn chảy phá vào. Quân Mạc đại bại, chạy tán loạn. Quân Lê cùng xuất toàn quân, quay về Ái Châu (sau trang Thọ Xuyên lập miếu phụng thờ Thủy thần Đại vương, cùng với 5 vị và một vị công thần nhà Lê cúng tế).

Lại nói khi đó vạn dân quản chặt, bốn phương khói bụi, nước có 2 vua trị vì, dân không có ngày nào là yên nhàn, gọi là thời một nước hai vua. Hơn 60 năm sau, Trang Tông lệnh cho Thái úy thống lĩnh hai quân thủy bộ đi dẹp giặc Mạc. Thái úy bái tạ, xuất quân thẳng đến đóng ở các huyện Phù Khang, Bạch Hạc, Phúc Lộc của đạo Sơn Tây, lập các đồn lớn ở châu Trường Sa, vân Thủy, dựng đàn dâng hương cầu đảo trăm thần âm phù trừ Mạc, giúp nước cứu dân. Sau này được thanh bình sẽ tâu lên vua tăng phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, vạn năm hưởng thờ.

Khấn xong tự nhân mây mù nổi lên, mờ mịt trong ba ngày. Thái úy ngồi ở nơi đàn thiếp đi mộng thấy trăm thần nam nữ cùng đến, sơn thủy cùng về, qua giáp khắp trời, cờ xí rợp đất, đến trước Thái úy, hoặc chào hoặc bái, xưng họ xưng tên. Thái uy trong mộng không ghi nhớ hết được. Bỗng nghe ở hướng Đông Nam có một tiếng sét động. Thái úy giật mình tỉnh lại mới biết là mộng. Lại thấy mây mờ bay tản đi, trời ban ngày rạng sáng. Thái úy cho rằng đó là điềm trung hưng, bèn lệnh lấy đồ văn phòng tứ bảo cứ theo trong mộng mà ghi lại tên hiệu các thần lên lụa để chép lại việc này. Hôm đó lệnh cho quân sĩ mổ trâu, khấn tạ trăm thần, khao hưởng tướng sĩ.

Ngày sau chia binh đến dẹp giặc mạc, đại chiến một trận ở đất Phấn Thượng, huyện Phúc Lộc, máu chảy thành sông, xác chất thành núi. Giặc Mạc thua to, chạy lên mạn Bắc, đến nơi mở trường chọn kẻ sĩ, chặn giữ biên phương, không thể dẹp hết được. Thái úy về thành Thăng Long, giải giáp ngừng binh, làm biểu tâu thắng trận, xin vua về thành. Trang Tông hôm đó xa giá đến thành Thăng Long, thưởng cho ba quân, gia phong tướng sĩ. Phong cho ông là Thái úy Hưng Quốc Công thần. Ông tuổi đã già, có ý muốn nghỉ ngơi, bèn dâng biểu tấu với vua xin các việc quốc gia lớn nhỏ giao cho con rể họ Trịnh. Trang Tông đồng ý.

Trang Tông bèn lập Thái tử, sau là Trung Tông Vũ Hoàng đế, niên hiệu Thuận Bình, sau đổi thành Thiên Hựu, là con trai của Trang Tông. Trung Tông kế truyền ngôi cho Tuấn Hoàng đế, húy Hàn trác, ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, niên hiệu Chính Trị. Khi đó có đại thần họ Trịnh phò tá, lập kỷ cương đất nước, bày chế trong ngoài. Sau Thế Tông truyền ngôi cho Nghị Tông, niên hiệu Hồng Phúc, sau đổi là Gia Thái, lại đổi là Quang Hưng, chính là con trai của vua Chính Trị. Khi ấy giặc Mạc trong nước đã diệt. Nhà Lê lại bắt đầu ngôi chính thống.

Từ đó thiên hạ thái bình, triều đình vô sự. Nhà Lê là chủ, họ Trịnh là vương, ban bố hai bộ Công và bộ Lễ đốc lệnh cho huyện doãn cùng các dân phu các xã xây dựng lại điện đình ở địa phương nơi xã Phấn Thượng, cung phụng thờ các vị vua chủ cùng các vị chư thần, lấy xã đó làm trưởng tạo lệ. Lại tiến phong các mĩ tự cho trăm thần sơn thủy nam nữ đã âm phù giúp nước, cùng luận công mà thưởng tước lộc, ban thêm cho những người có công. Công mãi mãi là thức lệ cùng với nước trường tồn. Thật thịnh thay!

Lại nói, khi đó lại phong mỹ tự cho trang Tiên Cát. Lúc ấy chỉ có 8 người về ở đó từ khi cuối họ Hồ, cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi các đời sau của 8 người đó đều sinh con cháu cùng với vợ chồng. Những người sau đều ở phụ đó, phong tục nhân dân chất phác đôn hậu, giàu mạnh, đinh dân khỏe mạnh. Bèn chia đều thành 8 giáp cùng phụng thờ nơi tiền cung khi thần còn sống (tức cung Tiên Cát, nơi Thứ phi ngày trước ở đó, sau đổi thành làng), hậu cung là chính nơi hóa của thần  (tức xứ Gò Đá, là lăng của Thứ phi, gọi là đất thủy phủ hội đồng). Sau Lê Trang Tông lại tiến phong nhiều mỹ tự.

Vâng ơn chính triều nay có phong tặng là Đương cảnh thành hoàng Linh phù Thượng thần, gia tặng là Thục diệu Tối linh thần, gia tặng là Hoằng hợp Tối linh thần, gia tặng là Dực bảo Trung hưng chi thần.

Nhất thiết húy cấm các chữ Cả, Hai, Ba, Ngọc, Hương, Bạch, Anh, Cự, Linh, Ất, Thông, Thuỷ, Chàng.

Bảo Đại năm thứ 13 ngày tháng 3 tuân sao chính bản.

Vâng sao đệ trình bởi Lý trưởng làng Tiên Cát Nguyễn Văn Tản.

Cộng tất cả 14 trang.

Ngọc phả Bà A Thánh mẫu Phương Dung Quận Phu nhân

Thần tích xã Luật Ngoại, Quan Lịch, Kiến Xương, Thái Bình.

Chính bản ngọc phả về công thần của Việt Vương Bà A Phu nhân Trang Thục Công chúa và Thạch Thần Đại vương do Quận công tước bộ Lễ quốc triều phụng soạn (bộ thứ ba).

Xưa nước Việt ta xét trục Ly Khảm núi sông phân ngang theo sao Dực Chẩn, Bắc quốc ban đầu nằm thẳng hướng phân theo sao Đẩu Ngưu. Từ Kinh Dương Vương ngự trị Nam Bang, gặp bà Tiên Vụ Nương, ở tại thành Phong Châu (tức nay là sông Bạch Hạc, sông Nhị Hà). Vua dạy dân cày cấy, đào giếng làm ruộng, bốn phương an bình. Nước không có tục dối trá, dân được yên vui. Khi đó Đế sinh được Lạc Long Quân kế ngôi. Xã tắc trải qua 400 năm thì Đế truyền ngôi lại cho Hùng Quốc Vương, Hùng Hy Vương, Hùng Hoa Vương, Hùng Huy, Hùng Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Uy Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Võ Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Định Vương, Hùng Triêu Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghị Vương tới Hùng Duệ Vương.

Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, trong sửa văn đức, ngoài phòng biên phương, dốc ý hưng bình để yên Trung Quốc. Khi Vua tuổi thọ đã cao, sinh được 20 hoàng tử và 6 công chúa đều theo nhau về tiên hương. Chỉ còn 2 con gái, tên là công chúa Tiên Dung, gả cho Chử Đồng Tử ở xã Đa Hòa, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu. Còn người thứ hai tên là công chúa Mị Nương Ngọc Dung được gả cho Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hóa. Khi đó, Thục chúa nghe vua Duệ không có con trai nối dõi, mới dẫn quân mã đến đánh, một trận lấy được nước Nam. Đóng đô ở thành Cổ Loa, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Giữ nước cộng được 50 năm thì có người Chân Định Bắc quốc, họ Triệu tên là Đà, dẫn mười vạn hùng binh tiến thẳng đến nước Nam đánh Thục Vương. Qua ngoài 3 năm, tất cả 105 trận thì Thục Dương Vương mất. Khi ấy Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở An Quảng.

Lại nói, khi đó nước ta truyền rằng ở động Nghĩa Lĩnh, tổng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao (nay là tại Cổ Tích) có một vị phụ đạo quan lang, là dòng dõi thủy thần trong trăm trứng của Hùng Vương, họ Hùng, tên là ông Tuệ, trấn ở đầu sông (tức nay là sông Đà và sông Nhị Hà), lấy người con gái của vị tiến quan miền núi, tên là nàng A Dung, có nhan sắc tuyệt thế, mặt như kính ngọc không chút bụi, miệng cười như hoa nở. Tuổi quãng 18 mà có vẻ chim sa cá lặn, đúng là diện mạo nguyệt thẹn hoa nhường. Tứ đức không thiếu, tam tòng gìn giữ. Vợ chồng một nhà trung hậu, nối được nghiệp của một gia tộc có tiếng trên đời.

Lại nói, khi ấy ông Tuệ tinh thông võ nghệ, lại có thuật lạ tài kỳ. Lúc đó Triệu Việt Vương nghe tin ông Tuệ mạnh sánh trăm người, thân dài chín thước, sức có thể bát núi, thường lên rừng đuổi hổ, được nhân dân địa phương đều xưng là thiên tướng giáng trần. Ngay hôm đó Vua mới lệnh cho sứ thần đem chiếu đến triệu Ông vào kinh, hỏi xem tài lạ thuật kỳ. Khi đó ông Tuệ tuân chiếu theo sứ thần đến yết kiến Đế, làm lễ bái tạ, trình tấu văn võ thao lược, binh pháp Thái Công, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Đế bèn phong làm quan doãn huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam Hạ. Ngày hôm đó ông Tuệ liền đi nhận chức.

Qua hơn một năm, một hôm, ngày mồng 10 tháng 3 Ông quay về cùng với vài chục gia thần, đi xem phong cảnh, xem xét động tĩnh trong nhân dân. Lúc ông đến xã Luật Nội, nhân dân làm lễ bái hạ, thì mặt trời đã gác núi, trời đã sắp tối. Ông cùng quân sĩ lưu ở trong ấp. Đến sáng ngày Ông ra xem vùng đất này, trông thấy địa thế rồng uốn khúc khuỷu, nước chảy quanh co, trống chiêng la liệt, gò đống dẫn mạch, tất cả đều quay về chầu vào chính cục. Quan huyện thả phóng tầm mắt, bèn truyền nhân dân lập một cung sở ở tại nơi đất có thế cục quý. Được một tháng làm xong thì giao cho A Phu nhân ở đó mà giúp người già, trợ nhà nghèo, đem tài sản mà chiêu kết khách khứa. Những nơi như cầu chính, đường lớn đều được sửa chữa, không nơi nào là không làm.

Khi ấy vị quan tuổi đã ngoài năm mươi, phu nhân tuổi chưa đến bốn mười, nhưng lại chưa được trải lúc sinh con, vì thế thường không vui. Một hôm Ông mới than rằng:

  • Nhà ta vốn là dòng dõi đế vương, 122 năm trị nước Nam, tới như vợ chồng ta tự cố gắng không hề có mảy may làm ác. Thế mà vợ chồng ta lại chưa có người kế tự, sau khi trăm tuổi biết ai là người hương khói. Chi bằng ta hãy cố gắng tìm kiếm nơi đền thiêng mà cầu đảo, cầu khấn để có con trai nối dõi.

Nói xong lại nghe rằng đền Phù Đổng Thiên Vương ở thôn Phù Minh, xã Phù Đổng, tổng Tiên Du, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc, có ngôi đền rất linh ứng, cầu gì được ứng, xin nguyện sẽ được theo ý, nước khấn dân cầu có nhiều linh ứng. Hôm đó ngày mồng 9 tháng 4 mới soạn lễ chay đến thẳng nơi đền làm lễ tâu rằng:

  • Vợ chồng thần ở nơi trần thế chưa có con trai nối dõi.

Chúc xong thì ở lại trong đền để cầu mộng. Đến nửa đêm phu nhân nửa tỉnh nửa mê thấy trong đền sáng rạng, lại thấy có một người từ trên điện xuống, đứng trước điện nói rằng:

  • Vợ chồng các người đúng là chăm làm việc thiện nên thiên đình cảm được đức đó. Thượng đế trên thiên đình ban cho một vị nam tử tên là Thạch Thần Đại tướng quân đầu thai nhập vào phu nhân làm con trai. Hãy mau mau quay về lập một bức tượng đá ở nhà, ngày đêm thắp hương đèn mà cầu. Ta tất sẽ ứng cho. Chớ tiết lộ! Chớ tiết lộ! Hãy cẩn thận! Hãy cẩn thận!

Dứt lời bay lên không mà biến đi. Lại nghe trên không trung có tiếng nhạc nổi lên rất to, tiếng vang liên hồi bên tai, đột nhiên tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Lại làm lễ tạ rồi quay về nhà, làm một tượng đá, thắp hương cầu chúc.

Qua một tháng quả nhiên phu nhân có mang. Mang thai 11 tháng tới mùa xuân giờ Dần ngày 15 tháng Giêng thì sinh (năm Giáp Tý). Ở nơi sinh khi đó có khí lành bao phủ, hương thơm đầy nhà, khi sinh có tướng mạo đường đường, uy nghi lẫm liệt, mặt như mặt trời lúc sớm, sau lưng lại có dòng chữ: “Thạch Thần Đại tướng quân”, bụng to, rốn sâu, chân có 7 chòm lông màu đỏ, thực có tướng kỳ dị.

Cha mẹ đều yêu quý, nuôi dưỡng. Đến khi lên ba tuổi đã hiểu âm luật. Thân phụ mới đặt tên là Thạch Công. Rồi ngày qua tháng lại, xuân sinh hạ trưởng, khi Ông được 16 tuổi thân dài 6 thước, có dũng khí trăm người không địch. Khi ấy quan huyện thân phụ làm sớ tâu lên Hoàng đế Triệu Việt Vương. Đế nghe vậy bèn gọi ông Thạch đến nói chuyện, biết được tướng mạo đúng như sớ tấu. Đế chắp tay nói:

  • Trời vì ngôi báu của ta mà sinh ra vị hiền tài trợ giúp. Ta thật may mắn vậy.

Bèn gia phong thân mẫu là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận phu nhân. Ban cho 10 nén vàng cho về ở Luật Ngoại để khi trăm tuổi thờ phụng tên húy tự đúng như sắc chỉ. Không được di dịch.

Hôm đó mồng 5 tháng 5 Phu nhân tuân mệnh Đế trở về cung sở ở xã Luật Ngoại, mở tiệc khao tiếp phụ lão nhân dân. Ba ngày sau nói với phụ lão nhân dân rằng:

  • Dân chúng cùng với ta vốn là ơn sâu đức dày, đâu phải chuyện mới ngày một ngày hai. Nay ta có ba nén vàng đem cho phụ lão nhân dân để dựng một nơi đền dựa Mão hướng Dậu mà làm nơi phụng thờ ta, cứ tuân theo lời của ta, không được thay đổi.

Lại nói, khi đó đất nước có quân Lương vào cướp bóc của cải ở Cao Bằng, Tụ Long, châu Bảo Lạc tới 12 động châu trang trại của đạo Hưng Hóa, chiếm 4 phần 10 của thiên hạ. Các quan địa phương không thể chống cự. Hôm đó, quan địa phương mới dân sớ tấu lên Đế. Đế nghe vậy rất lo lắng việc này, mới triệu tập trăm quan văn võ tại chính sân rồng để nghị luận chống giặc. Trăm quan văn võ triều đình dương mắt nhìn nhau, bó tay không có kế sách nào khả thi. Thế là lúc đó ông Thạch tâu thẳng với Đế rằng:

  • Thần xin được thay thánh giá tự tìm các tướng tài, xin cho 12 vạn tinh binh, 100 con ngựa tốt, 1000 chiến thuyền thì giặc Lương có thể dẹp được. Không quá một tháng đầu tướng giặc sẽ treo dưới trướng.

Tâu xong, Đế rất vui mừng. Hôm đó ngày mồng 1 tháng 7 tuyển chọn được 8 vạn quân, 13 viên danh tướng, bèn gia phong ông Thạch là Tổng đốc kinh lược, đốc lĩnh các việc quân thuỷ bộ, kiêm là quan đại thần tiết chế bình giặc Lương Thạch Thần Đại tướng quân. Phong xong, Ông phụng lệnh Đế, dẫn quân mã tiến công.

Khi đó Ông tiện đường quay về đến Luật Ngoại bái tạ thân mẫu. Phu nhân bỗng nhiên nổi chí tang bồng, phấn khích lòng hồ thỉ, coi giặc Lương nhẹ như lông hồng. Hôm đó bà cùng con trai Thạch công lấy các nghĩa binh mạnh khỏe ở xã Luật Ngoại là 100 người, Luật Nội là hơn 200 người làm gia thần tay chân. Lại lấy 36 người ở Nam Đường Lũ Khu, 150 người ở xã Thân Thượng, 56 người ở 2 thôn Đông Đoài của Hương Nghĩa, 20 người ở Bạt Trung Ngoại, 80 người ở Cao Bạt làm gia tướng.

Hôm ấy chia quân làm hai đạo. Một đạo tiến thuyền theo đường Ái Châu. Lúc đó Quận phu nhân tay cầm song kiếm, cưỡi ngựa trắng. Thạch Công tay cầm đao sắt, cưỡi ngựa hồng, cùng tiến vào đồn giặc ở bến Hương Xá Đông Yên, phủ Khoái Châu, sau lại ở châu Tự Nhiên ra vào giao chiến với giặc Lương. Qua hơn 5 tháng, cộng 35 trận, chém 100 đầu danh tướng, thắng bại chưa phân.

Khi ấy, mẹ con mới thu quân mã trở về Chân Định. Quận phu nhân thiết lập một đồn dinh ở xã Luật Ngoại để kiên trì chống giặc. Hôm đó, Thạch Công cũng truyền nhân dân Luật Nội lập một đồn chống giặc. Trải qua một tháng, quân mã hy sinh quá nửa. Mẹ con biết khó thoát mới ngẩng mặt lên trời than rằng:

  • Trời hại ta, không phải mắc tội vì chiến đấu.

Mới thấy trời đất mờ tỏ, mưa to gió lớn, giữa ngày mà như đêm. Mẹ con chạy tới bến bãi sông Lịch Bài, thấy một cây gỗ lớn ở đó. Cây gỗ hổng nửa bên trong. Mẹ con nhập thẳng vào lỗ hổng. Được một khắc, nước lớn dâng cao, mẹ con cùng mất. Hôm đó ngày mất là ngày 15 tháng 8.

Lại nói, khi ấy có vị Đại úy Nguyễn Đạt thấy hai vị đã hóa bèn làm biểu tấu lên Đế. Đế mới dẫn ba quân chia binh làm ba đạo, đồng thời tiến đánh, phá tan tướng giặc, thế như chẻ tre, bẻ củi khô, truy bắt các tướng giặc như sấm nổ, sét giật. Các tướng cùng quân sĩ đều bị chết đuối. Sông không thể chảy. Đồ khí giới vứt như gò núi. Quân giặc đại loạn bỏ chạy. Đế bắt sống chủ tướng, một xe không quay được, một ngựa không còn. Cả vùng sạch bóng giặc.

Đế lại rất thương cảm Quận phu nhân cùng với con trai là Thạch Công, một nhà mẹ con đã tận trung. Hôm ấy xa giá đến nơi hóa bên sông, truyền cho phụ lão hào mục Luật Nội, Luật Ngoại ra bến sông kéo cây gỗ lớn, chia làm hai đoạn, lập thành hai bức tượng, dựng hai miếu để phụng thờ. Đế lại gia phong sắc chỉ:

  • Một vị Bà A Thánh mẫu Phương Dung Quận phu nhân (cho Luật Ngoại phụng thờ).
  • Một vị Thạch Thần Hộ quốc Đại vương (cho xã Luật Nội xã phụng thờ).

Lại nói, sau khi hai vị đại vương mất có nhiều anh linh, quốc đảo ân cầu rất hiển ứng nên các đời đế vương đều truy phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, cùng hưởng với nước nhà, mãi theo cách thức đó vậy. Cho đến triều Lê, Thái tổ Cao Hoàng đế mệnh đại thần là quan Thái úy Nguyễn Kim dẫn quân đi thảo phạt các tướng Liễu Thăng, Mộc Thạch, Hoàng Phúc. Quân đi qua hai xã, thấy miếu thờ đại vương sáng rạng, hương khói không ngừng, mới chúc rằng:

  • Hai vị tôn thần xin âm linh bảo vệ quốc gia, bình thảo được giặc.

Chúc xong, bỗng thấy trên điện xuất hiện một nữ nhân, một nam nhân, tự xưng:

  • Một là Quận phu nhân Bà A phu nhân và một là Thạch Thần Đại vương, chính là những danh tướng của Việt Triệu Hoàng đế. Mẹ con trung thần có một không hai. Nay thấy nước nhà có cầu đảo, mẹ con bầy tôi xin theo quan tướng đi chinh phạt. Xin báo để quan tướng biết.

Đêm đó quan Nguyễn Thái úy khấu đầu bái tạ, rồi cử binh tiến thảo giặc ở thành Lạng Sơn. Liễu Thăng thua chạy, chạy thẳng về thành Lạng Sơn. Chém được chủ tướng cùng các quân sĩ. Hôm ấy quan Thái úy dẫn quân sĩ khải hoàn trở về, làm biểu tấu lên Đế. Đế nghe việc thần thiêng đã âm phù giúp nước, dẹp yên giặc, bèn gia phong thêm mĩ tự ba chữ:

  • Gia phong Vua Bà A Phương Dung Trinh Thục Phu nhân.
  • Gia phong Thạch Thần Linh ứng Hộ quốc Tế thế Đại vương

(chuẩn cho hai xã Nội Ngoại cùng phụng thờ)

Phong sắc các lệ của hai vị đại vương:

  • Chính lệ ngày 15 tháng 10, lễ cúng tam sinh, rượu hoa cúc, ca hát ba ngày thì ngừng.
  • Cấm chữ húy là A, Thạch hai chữ nhất thiết cấm. Các màu vàng và trắng khi nhân dân làm lễ không được mặc, nhất thiết cấm.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất, tháng giữa đông ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ, bề tôi Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ năm mồng 1 tháng 10, Quản giám tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng sao tuân theo đúng như bản chính trước đây.

Các kỳ sinh nhật của hai vị cứ theo như ngày tháng năm trong tích mà làm lễ, dùng lễ tam sinh, ca hát ba ngày thì dừng.

Trong ngày hóa việc ca hát nhất thiết cấm, chỉ tổ chức đánh cờ ba ngày thì dừng.

Sinh thời Triệu Việt Vương Thánh mẫu khâm phụng được phong mỹ tự là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận Phu nhân (Sau khi hoá phong Thánh mẫu Vua Bà A Quận phu nhân).

Thái tổ triều Lê gia phong Quốc mẫu Vua Bà A Phương Dung Trinh Thục Phu nhân Thượng đẳng phúc thần.

Nguyên bản ngọc phả ở miếu trước đây lưu giữ để phụng thờ, sau do biến loạn bị hỏng, nên mới dám tìm phụng sao bản chính của xã Luật Nội vào thời Việt Nam dân chủ cộng hoà, năm Nhâm Thìn tháng 5 ngày tốt.

Văn tế cầu phúc xuân thu

Cung duy!

Đại vương

Vụ tinh dục tú

Thái nhạc chung anh

Đức hoằng khôn tải

Công đại khiêm chinh.

Lịch giang kiếm kích ba trừng, nhất môn nghĩa liệt

Tượng lĩnh lâu đài nhật lệ, vạn cổ anh thanh.

Tư nhân xuân/thu tiết tứ thất đan thành. 

Phục duy giám cách

Tích dĩ hoà bình.

Cẩn cáo.

Thần tích xã Hương Triện, tổng Nhân Hữu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh

NGỌC PHẢ GHI CHÉP CỔ VỀ VỊ THẠC THẦN ĐẠI VƯƠNG LÀ DÒNG DÕI VUA HÙNG NƯỚC NAM VIỆT

Thần thuộc hàng Thượng đẳng Đế vương, bộ Nam Hải, bản chính Ngọc phả lưu tại bộ Lễ của Quốc triều

Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ là Tiền Hoàng đế của đất nước trời Nam tôn quý, dựng mở cơ đồ lớn, là thủy tổ của Việt Nam, khai sáng họ Việt Thường trải 18 đời thánh vương ngự trị. Mở vận ở trời Nam, núi xanh vạn dặm khai sáng nền thành đô cung điện. Tạo ra muôn vật, cứu giúp dân sinh. Thống lĩnh 15 bộ làm thế vững chãi cho đất nước.

Xét: Trước kia Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai, tên là Âu Nương, lập làm chính cung, mang thai trong ba năm, sinh một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai, đều anh hùng nổi tiếng ở đời, dũng lược hơn người. Khi trưởng thành vua mới phong tước hầu và lập thành các bộ. Bộ thứ nhất là Sơn Nam, bộ thứ hai là Sơn Tây, bộ thứ ba là Hải Dương, bộ thứ tư là Kinh Bắc, bộ thứ năm là Hoan Châu, bộ thứ sáu là Ái Châu, bộ thứ bảy là Bố Chính Châu, bộ thứ tám là Ai Lao, bộ thứ chính là Ô Châu, bộ thứ mười là Hưng Hóa, bộ thứ mười một là Cao Bằng, bộ thứ mười hai là Tuyên Quang, bộ thứ mười ba là Lạng Sơn, bộ thứ mười mười bốn là Quảng Tây, bộ thứ mười lăm là Quảng Đông,

Vua bảo Âu Nương rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa không hợp”. Nhân đó mà phân 50 người theo cha về miền biển làm thủy thần, 50 người con theo mẹ về miền núi làm sơn thần, cùng nhau trấn trị các đầu sông góc biển, chia nhau hưởng lộc trời, cha truyền con nối, phát huy đất nước thành Viêm Hồng, có vua trị nước được hơn ba ngàn năm, phù trì cơ đồ mãi mãi vững như bàn đá, hiển ứng linh thông ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương ngự trị Nam Việt muôn năm. Ở điện thánh núi Hùng lập cung lăng miếu điện. Con cháu dòng dõi, công thần lớn nhỏ hết lòng lo việc nước, đều được thờ thờ phụng trong dân, hương khói lâu dài cùng ngày tháng không mất đi vậy.

Con cháu vua nhà Hậu Trần có thơ rằng:

Thập bát hùng đồ thế hữu truyền

Hậu [chung] tốn vị Thục vương yên

Nga mao kí lộ do thiên đạo

Vật dĩ Châu Nương bất thị hiền.

Lại nói, trải truyền ngôi đến thời vua Hùng thứ mười bảy là Nghị Vương, ngự trị ở sông Bạch Hạc, Việt Trì, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đặt kinh đô ở thành Phong Châu. Nghị Vương là người đức rộng tài cao, có nhiều ý chí sáng suốt, giúp rập cho đời. Người đời sau đều khen đây là vị vua giỏi. 

Đương lúc bấy giờ ở nước ta tương truyền rằng có ông Bộ chủ, vốn là dòng dõi Hùng Vương phân từ bọc trăm trứng, họ Hùng tên [Bích], làm Bộ chủ Ai Lao, cha truyền con nối trải mười bảy đời. Chính thất phu nhân của ông Bộ chủ trước khi qua đời, sinh được hai người con trai. Sau đó ông lại lấy người con gái trong một họ lớn ở huyện Gia Định, tên là Thận Nương, lập làm Đệ nhị phu nhân. Vợ chồng như đôi chim cưu hợp lứa, duyện lứa như đàn sắt quện với đàn cầm. Trải trong mấy năm, loan phương tình nồng, cực kỳ ân ái. Khi ấy phu nhân đã 23 tuổi. 

Một hôm vợ chồng cùng pha trà uống nước ở lầu hoa gác Tây ngắm trăng hóng mát. Lúc ấy trời đã về khuya. Phu nhân dựa vào lan can bàng hoàng mơ thấy một con rồng vàng từ trời giáng xuống thẳng vào bụng mình. Phu nhân dùng hai tay ôm lấy, hét một tiếng rất to. Khi tỉnh dậy mới biết đây là giấc mộng kỳ lạ. Bèn kể lại cho ông Bộ chủ nghe. Ông bảo với phu nhân rằng:

“Giấc mộng ấy phải chăng là phúc? Nếu quả vậy nàng sẽ mang thai”.

Trải ba bốn tháng sau, phu nhân quả nhiên có mang trong mười bốn tháng. Vào ngày 15 tháng 10 năm Canh Thìn, hôm ấy trời đất tối tăm, gió mưa nổi lên dữ dội, cả một xứ có tiếng động ầm ầm, khí lành huy hoàng, hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Đến giờ Thìn, phu nhân sinh được một người con trai thần phong lẫm liệt, thể diện khôi kỳ, tai vương, nhan rồng, mắt phượng, tướng mặt hài hòa, hàm én mày ngài, hình dạng cân đối, cao lớn đĩnh đạc. Sau một trăm ngày ông Bộ chủ đặt tên cho con là Thạc công (ông Thạc).

Từ đó xuân sinh hạ trưởng, ngày tháng trôi đi, đến khi trưởng thành, vào năm 14 tuổi tính vốn thông minh, khí tượng ung dung, thiên tư cao mại, trí dũng hơn người. Đương thời có tiên sinh họ Ngô dạy học ở đất Ai Lao, Thạc công đến theo học ở thầy được trong mấy tháng. Hễ Thạc công đi lại đến đâu đều có một đám mây tựa như chiếc long che trên đỉnh đầu, cả chỗ đó trở nên mát mẻ. Tư chất thông minh kỳ dị, chỉ học trong một năm mà chư sử bách gia đều thuộc làu. Văn tài chỉ trong bảy bước đã làm xong một bài thơ. Võ nghệ tinh thông, tam lược lục thao cùng binh pháp của Thái công không chỗ nào không tinh nhạy. Thiên tư khí độ vượt hơn người bình thường. Đức rộng tài cao, khoan nhân đại lượng, bản tính anh hùng, lòng nhân nghĩa chính, lòng hiếu trung hòa.

Đương thời gian đó tiên sinh họ Ngô thường khen khí chất của Thạc công không phải là người bình thường, về sau nếu không làm vương ắt sẽ làm bá. Bạn bè không ai không kính phục.

Lại nói bấy giờ nước Nam ta có dịch khí hoành hành, nhân dân đều bị mắc bệnh không chừa một chỗ nào. Đương khi ấy Thạc công có một người dì tên là Hiếu thị, lấy con ông họ Nguyễn người đất trang Hương Triện huyện Gia Định phủ Thuận An đạo Bắc Giang (mẹ Thạc công và Hiếu thị vốn cùng là con ông huyện lệnh huyện Gia Định, cùng một cha mẹ). Do vậy khi ông nghe tin nhân dân địa phương của dì mắc bệnh, gia đình của dì cũng bị mắc bệnh nên xin cha mẹ trở về đất Hương Triện thăm dì.

Hôm ấy ông cử giá về đất Hương Triện, đến nửa đêm các họ trong đất Hương Triện (bấy giờ trong trang Hương Triện có các tộc Nguyễn, Đào, Đặng, Phạm, Đỗ, Hoàng, Bùi, Lê, Trần và Phan lập thành một trang) vốn đang có người bị mắc bệnh, cùng nhau mơ thấy ôn binh quỷ chúng đang báo tin chi nhau rằng: “ Dân chúng ở đất này có thiên tử đang trở về làm phúc thần của dân. Binh lính của ta nên gấp chóng rút khỏi đây ngay, không thể lưu cư ở đây”. Vừa nói chúng vừa tự rút hết khỏi nơi này. Nhân dân nghe thấy thế liền tỉnh giấc thì trời vừa sáng. 

Mọi người cùng thấy bệnh tật trong trang ai nấy đều qua khỏi. Hôm ấy nhân dân bàn luận, ai cũng bảo mình gặp một giấc mơ như thế. Mọi người cho là kỳ lạ, thực rất linh nghiệm, cùng nhau ra một ngôi quán đợi đến hết ngày xem sự thể ra sao. Chỉ trong một lúc quả nhiên thấy quân của Thạc công cử xa giá đến đây, thăm hỏi người dì và nhân dân bị mắc bệnh. Nhân dân ngầm nghĩ trong giấc mộng đã báo, nay lại thấy quả nhiên như vậy, lập tức làm lễ bái tạ, kể về giấc mộng, tự nguyện xin làm thần tử, xin ông cho tên húy để lập một sinh từ thờ ông làm thần, cơ hồ có nơi trấn trị quỷ xâm lấn từ bên ngoài.

Ông nghe xong đồng ý, cho tự hiệu để dân phụng thờ. Sau đó ông nhàn tản ngắm nhìn địa thế dân cư trong trang để chỉ bảo nhân dân lập sinh từ. Ông thấy địa thế nơi đây có chân long tú mạch, một dải dân cư ở gấp khúc như hình rắn bò, bên cạnh có ao hồ bao bọc, bốn hướng có phong tinh chầu về, bảng bút song hành. Núi Tam Thai chầu phía trước. Sông Thiên Đức chảy vắt ngang. Bên ngoài có một dải sông nhỏ ôm ấp. Bên trong có thế nước lòng vòng, long châu 9 khúc. 

Ông truyền nhân dân lập một sinh từ tại đầu địa giới dân cư, phía trước có đất kết cục tạo thành thế đầu rồng. Bên cạnh có giếng ẩn bút chầu phía sau. Tam Thai ứng phía trước. Bên phải bên trái lớp lớp chầu về, quanh co ở bên ngoài. Sinh từ nằm dựa Đông Bắc hướng Tây Nam, thu chính mạch rồng từ phương Tốn, tất cả đều chầu về, tạo thành quý cục. 

Nhân dân xây dựng hoàn thành, ông mới lưu nghỉ tại sinh từ, mở yến tiệc trong hơn một tháng, khoản tiếp người dì và nhân dân địa phương cùng dự hưởng. Sau đó ông lại cử giá về đất Ai Lao trải trong mấy năm. Bấy giờ ông mới 22 tuổi.

Đương thời vua nước Thục sinh muộn được một người con gái tên là Hằng Nương công chúa, không có con trai kế vị, nghe phong thanh Bộ chủ Ai Lao sinh được thứ tử Thạc công, vốn là người anh tài lương tuấn, mới dẫn quân đến  xin ông Bộ chủ cho Thạc công kết duyên với Hằng Nương công chúa, rồi nhường ngôi cho Thạc công. Ông Bộ chủ Ai Lao đồng ý. 

Từ đó Thạc công trở về nước Thục, được vua nước Thục gả công chúa và nhường ngôi báu. Đến khi vua Thục băng hà, ông lên ngôi vua xưng là Thục An Dương Vương. Ông nối thừa quyền nhạc phụ, khiến thiên hạ thanh bình, nhân dân nước Thục sống yên vui. Người dân cày ruộng đào giếng, khắp nơi rộn rã tiếng đàn ca, nghỉ việc võ, sửa việc văn, chăm lo giáo hóa, bốn biển đón cảnh tượng thái bình.

Lại nói nước ta khi Nghị Vương ở ngôi được 162 năm thì Nghị Vương băng hà. Thái tử Duệ Vương lên ngôi kế vị. Đến lúc ấy nhà Hùng đã trải 18 đời với hơn 2000 năm hưởng nước, nối truyền ngôi báu đã lâu. Do lòng trời định như thế. 

Khi Duệ Vương lên ngôi, lúc ấy thế nước cáo chung, cơ đồ mạt tạo. Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều nối nhau về nơi tiên cảnh, cùng 6 nàng công chúa chỉ còn lại 2 người. Một người gả cho Chử Đồng Tử, một người gả cho Tản Viên Sơn Thánh. Duệ Vương không có người lập hậu mới triệu Thạc công (tức Thục An Dương Vương), nguyên từ Bộ chủ Ai Lao cũng là miêu duệ nhà Hùng, đến kế vị. Nhân đó Duệ Vương trao nỏ rùa lẫy thần cho Thục Vương để quản lý thiên hạ, đó là đồ quý báu của cơ đồ họ Hùng.

Lại nói, Thục An Dương Vương (húy Thạc) từ lúc nhận ngôi báu cơ đồ họ Hùng, chỉ khoanh tay rủ áo mà nước được thịnh trị, bốn biển thanh bình, người dân vui tiếng đàn ca, trong ngục không còn tiếng người kêu oan trái, vua sáng thần mình. Đương lúc ấy có ông Cao Lỗ giữ chức Tổng chính, Vũ Công Lỗ giữ chức Nghị chính, Phan Công Bính giữ chức Tham nghị triều chính, Nguyễn Tuấn (người trang Hương Triện) giữ chức Ty chính bình vụ, đều là những trung nghĩa lương thần của Thục An Dương Vương. Cai trị hơn 60 năm, lấy đức giáo hóa dân làm gốc. Vua tự tuân theo phúc họ Hùng, dời đô đến thành Cổ Loa. Đương lúc ấy vua lấy đất Hương Triện là nơi cung sở thêm, nên cho được miễn trừ việc binh lương, vinh hiển dồi dào, thấm nhuần tước lộc, cùng nhau chung hưởng đức độ của vua, thực là thịnh vậy.

Lại nói bấy giờ có người phủ Cửu Chân, Nam Hải, họ Triệu tên Đà, phát động hùng binh kéo đến đánh Thục Vương để cướp nước. Nhưng vì Thục Vương có nỏ rùa lẫy thần là báu vật giữ cơ đồ họ Hùng nên trải bốn năm năm giữa Triệu Đà và Thục Vương rồng hổ tranh đấu nhiều phen. Hễ dương nỏ là quân của Triệu Đà đại bại Trong lúc trống mái chưa định, cò trai dằng co, không ngờ đạo trời lại khiến như thế. Tuy có nỏ rùa lẫy thần là báu vật nhưng do thế nước cáo chung nên cũng khó mà bảo vệ. 

Lúc ấy Triệu Đà thấy Thục An Dương Vương có thần cơ dị thuật, lại trong nước có nhiều người tài giỏi nên dù đem binh cũng không địch nổi. Một hôm Triệu Đà bảo với các tướng sĩ rằng: “Thục Vương có thần tài dị thuật, nếu đánh thì quân ta khó thắng. Nay tiếp tục mang quân sang đánh quân Thục thì tất lại thu lấy thất bại. Chẳng bằng dùng mưu mà lấy được nước đó. Nay ta định dùng lễ cống xin làm nước anh em, giả làm kế cầu hòa để dò xét ý của Thục Vương ra sao. Ví như được lòng trời ta sẽ đánh một trận là thành đại nghiệp”.

Các tướng nghe xong tất cả đều đồng thuận. Nhân đó Triệu Đà sai bề tôi mang kễ đến Thục An Dương Vương xin cầu hòa. Thục Vương thấy sứ giả nhà Triệu mang lễ cống cầu hòa liền đồng ý. Từ đó kết làm nước anh em, giữ tình tín ái.

Bấy giờ có ông Cao Lỗ giữ chức Đại tướng cho Thục Vương, có thừa trí dũng, trung nghĩa vô song, nhưng bị quần thần nói dèm pha, khiến Thục Vương giáng chức, đày lên Thái Nguyên cho giữ chức huyện lệnh ở châu Bạch Thông. Cao Lỗ từ khi nhậm chức ở đây hổ báo trong địa phận sơn lâm bản châu nghe uy đức của ông, tất cả đều quy phục. Cao Lỗ do chứa hận trong lòng, phát thành chứng bệnh ung thư, hóa tại đất bản châu. Hổ thú rước về đất Đồng Than an táng, về sau lập đền tại sông Thiên Đầu, nhân dân thờ tự, có nhiều linh ứng.

Lại nói, sau đó mấy năm, Triệu Đà lại nghe tin Thục Vương có người con gái tên là Mỵ Châu công chúa. Triệu Đà mới xin cầu hôn cho con trai của mình là Trọng Thủy. Thục Vương cũng đồng ý gả cho Trọng Thủy. Đường thời các trung thần đều can gián, nhưng vua không nghe, lại bảo với quần thần rằng: “Ta có lấy thần của báu của trời thì sợ gì quân Triệu? Vả lại ta không phải là người bất nhẫn”.

Các nghĩa sĩ lương thần can ngăn không được đều từ quan trả chức xin về quê. Âu cũng là do lòng trời bỏ Thục mà theo về Triệu, khiến đức của vua tối tăm, còn lương sĩ quân thần thì đều xa lánh.

Lại nói Triệu Đà nghe tin quân thần của Thục Vương tự di phế nhau, ngầm nghĩ đến việc môi hở răng lạnh, lập tức mật báo cho con trai Trọng Thủy lấy chỗ thân ái mà do thám tình hình trong nước, tất được Trọng Thủy làm theo. Từ đó Trọng Thủy ra vào chỗ bệ hạ, Thục Vương lại rất tin yêu. 

Một hôm nhân lúc rỗi, trong phủ vô sự, Trọng Thủy mới hỏi công chúa Mỵ Châu rằng: “Ngày xưa trong lúc hai cha ta hiềm khích giao tranh, cha nàng có dị thuật gì khiến cho cha ta luôn phải thất bại vậy?”.

Thế là công chúa Mỵ Châu liền chỉ vào nỏ rùa lẫy thần. Trọng Thủy hiểu rõ mới tạo một chiếc lẫy khác đem vào đánh tráo. Sau đó tâu với Thục Vương xin trở về thăm cha. Thục Vương đồng ý.

Trọng Thủy lại lấy nệm gấm lông ngỗng trao cho công chúa Mỵ Châu và dặn: “Hai nước có động tĩnh bất thường, nay ta xin về thăm thân phụ, không biết nhanh chậm thế nào. Nếu có binh cách xảy ra, thắng thua khôn lường nên có lông ngỗng cho nàng đánh dấu đường. Ta sẽ theo đó mà tìm đến sau”.

Công chúa Mỵ Châu nghe theo lời dặn. Khi Trọng Thủy về đến thành phủ mang lẫy nỏ báo cho thân phụ, Triệu Đà được lẫy nỏ liền phát động hùng binh tiến đánh Thục Vương, cho quân vậy thành. Thục Vương ngồi trên thành bảo Triệu Đà rằng: “Ta có nỏ thần, quân Triệu không sợ chăng?”.

Quân Triệu Đà ngày một mạnh, xông vào giáp công. Thục Vương dương nỏ bắn nhưng không hiệu nghiệm, biết là mất lẫy thần, bèn cưỡi ngựa cùng công chúa Mỵ Châu, cha con đều chạy.

Công chúa Mỵ Châu cưỡi ngựa chạy phía sau, cứ theo lời giao ước với Trọng Thủy mà rắc lông ngỗng đánh dấu đường. Kịp lúc quân của Triệu Đà theo lông ngỗng truy đuổi Thục Vương, đến khi cùng quẫn, Thục Vương mới ngầm cầu rùa thần đến cứu giúp (do trước đây Duệ Vương trao nỏ thần cho Thục Vương bảo rừng về sau hễ gặp nạn thì hô rùa thần đến cứu giúp). Thục Vương cầu khấn xong bỗng thấy sóng to nổi lên dữ dội. Rùa thần đột nhiên nổi trên sông quay lại bảo Thục Vương rằng: “Giặc ở phía sau nhà vua!”.

Thục Vương quay đầu nhìn phía sau thấy công chúa Mỵ Châu đang phóng ngựa rải lông ngỗng, vua mới bảo Mỵ Châu rằng: “Mỵ Nương con đã giết cha!”.

Mỵ Châu nghe xong, thề cùng trời đất, ngay lúc ấy (tức ngày mồng 2 tháng 12) nhảy xuống sông tự vẫn. Thục Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa Nam Hải thì đã thấy rùa thần rẽ nước thành đường. Thục Vương tay cầm ngọc tê dài 7 thước đi vào biển hóa sinh bất diệt. 

Về sau nhân dân địa phương ở Nam Hải đều lập đền thờ cúng. Đến triêu Hậu Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, thần có công âm phù giúp nước, có nhiều linh ứng, nên được phong là Nam Hải Đại vương.

Lại nói, đương khi ấy có ông Nguyễn Tuấn giữ chức Ty chính, người trang Hương Triện, huyện Gia Định, vốn là bề tôi của Thục Vương, do can gián vua nhưng vua không nghe, mới từ chức trở về dưỡng nhàn ở quê. Nghe tin vua đã hóa, Triệu Đà lấy được nước, mới truyền nhân dân (tức trang Hương Triện) cứ tuân theo húy tự là Thạc Đại vương mà lập đền ở hội đồng cung sở để thờ cugs. Còn Nguyễn Tuấn vào đất Ái Châu xuất gia đầu Phật, xuống tóc ăn chay, mải miết dạo ngắm trời đất, không quay về quê quán. Về sau mất tại chùa Ngọc Xá, huyện Tống Sơn, nhân dân địa phương thờ cúng.

Lại nói cho đến thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tề, Lương cộng là 349 năm, trải đến nước Nam có các đời Đinh, Lê, Lý, Trần gồm 4 họ khai sáng cơ đồ, vị Thạc Đại vương thường âm phù giúp nước, che chở dân, anh linh hiển hiện, nên được các đời đế vương gia phong là Thượng đẳng phúc thần, hương hỏa thờ cúng không dứt.

Lại nói, trải đền thời bấy giờ có người họ Lê, tên húy là Lợi, người trang Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu đứng lên khởi nghĩa, tập hợp nghĩa binh, tiễu trừ họ Hồ, tiêu diệt người Minh, lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn (tức Thái tổ Cao Hoàng đế), đặt niên hiệu Thuận Thiên. Khi đang còn khởi nghĩa, vua đi qua ngôi đền của trang Hương Triện, vào đây cầu đảo vị âm thần phù giúp nước đánh giặc, sau khi bình xong giặc Minh, sẽ bao phong mỹ tự Thượng đẳng Phúc thần, thờ cúng lâu dài cùng đất nước trường tồn giữ làm lệ thường. Về sau đánh đuổi được giặc Minh, đất nước thanh bình, vua bèn gia phong mỹ tự, vạn đời là Phúc thần. Đức của thần thịnh vậy.

– Phong cho thần là Thạc thần Đại vương. Chuẩn cho dân của trang sở tại Hương Triện phụng thờ.

Lại nói, từ khi Lê Thái Tổ khai sáng cơ đồ trải truyền các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiển Tông, Chiêu Tông đến đại thần họ Mạc tiếm quyền (tức Mạc Đăng Dung, là huyền tôn của Mạc Đĩnh Chi), trải năm đời làm vua với hơn 60 năm. Đến vua Trang Tông cùng đại thần họ Nguyễn có mưu kế lớn, khôi phục nghĩa binh, tiễu trừ họ mạc. Từ đó nhà Lê làm đế, họ Nguyễn là vương, tiền Lê, hậu Lê thần đều có công âm phù giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ. Do vậy trải các đời đế vương đều được gia phong mỹ tự là Thượng đẳng Phúc thần, cùng đất nước dài lâu giữ làm lệ thường. Đức của thần thịnh vượng vậy (đền thờ chính của thần ở Cổ Loa, là nơi quốc tế, làm dân tạo lệ)

Lệ về ngày sinh, ngày hóa của thần cùng ngày tiệc, sắc phục, tên húy nhất thiết phải cấm, được ghi như sau:

– Ngày sinh của thần: 15 tháng 10, lấy làm lệ chính. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế, sửa lễ gồm cỗ chay, lợn, xôi, trầu, rượi. Ngày hôm sau (chính nhật) sửa lễ gồm bò, ca hát trong 3 ngày thì dừng.

– Ngày hóa của thần: mồng 2 tháng 12. Sửa lễ cỗ chay, lợn, xôi, trà, hoa quả, trầu cau.

– Ngày tiệc: 12 tháng 8. Làm lễ rước thần cáo tế. Sửa dùng lợn, bò cũng có thể được, ca hát tùy nghi.

– Ngày tiệc: mồng 7 tháng Giêng. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế cáo như ngày sinh của thần. Ngày hôm sau sửa lễ gồm bò, ca hát, đánh cờ, đấu vật trong 10 ngày thì dừng.

– Ngày tiệc: 12 tháng 9. Sửa lễ dùng lợn, xôi, rượu, ca hát tùy nghi.

– Ngày tiệc: 12 tháng 3. Làm lễ, ca hát tùy nghi.

– Ngày tiệc: mồng 10 tháng 11. Làm lễ tùy nghi.

– Tên húy của thánh phụ, thánh mẫu xem trong Ngọc phả này đều cấm dùng, cùng lệ về các ngày tiệc, thánh phụ thánh mẫu đều được phối thờ.

– Tên húy gồm chữ Thạc, nhất thiết cấm dùng, cùng hai chữ Nam, Hải phải tránh âm, sắc phục khi hành lễ, màu vàng, màu tía đều không được dùng. Lông ngỗng nuôi dưỡng cấm không được dùng.

Ngày mồng 10 thánh Giêng niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất  (1572) Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính vâng mệnh soạn bản chính.

Ngày tốt tháng 2 niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737) Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh, bề tôi là Nguyễn Hiền phụng mệnh sao lại theo bản chính.

Người dịch TS. Nguyễn Hữu Mùi, Viện nghiên cứu Hán Nôm năm 2009.

Thần tích xã Cao Mại

Ngọc phả cổ chép về Phụ ký Cương nghị Hùng kiệt Đại vương phò mã Hùng triều Việt Thường Thị Lý Lang Công (lấy con gái thứ sáu của Nghị Vương là Nguyệt Cư Công chúa sinh 12 vị thần quan nhận quản 17 bộ nhánh)

Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh Tổ Nam thiên Đại bảo Tiền Hoàng đế gây dựng cơ đồ, là thủy tổ Việt Nam, lập nước Cổ Việt Thường, họ Hùng 16 đời thánh vương ngự trị trời Nam, khai mở vận đế thánh, vua sáng. Núi xanh vạn dặm dựng nền cung điện đô thành. Mở vật giúp dân, thống quản 15 bộ 

(Khi ấy vua Hùng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm chính cung, ở tại núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ mang thai 33 năm, sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm tốt trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vương bèn chia hầu, lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Hoan Châu, sáu là Ái Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.

Khi đó Vương nói với Âu Cơ rằng:

  • Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc. 

Vì thế chia tương biệt, chia 50 con theo cha về biển làm Thủy tinh, 50 con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh. Phân rõ các chư vương trấn ở sông núi, cùng là thần thuộc vậy. Sau phân thành trăm họ từ đó.) 

Thế mạnh trấn áp phiên chúng, rạng rỡ đất nước Viêm đồ. Có vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi mãi dòng giống vững như bàn đá, hiển ứng linh thiêng nơi Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương nước Nam, ngự muôn năm thánh điện núi Hùng, là Thánh tổ trời Nam, nền móng quốc gia, cơ đồ hùng mạnh, muôn năm còn lưu mãi vạn đời. Bèn lập các cung, lăng, miếu, điện. Con cháu dòng dõi hoàng gia phân ở các đầu núi, trị ở quận Giao Chỉ tại các nơi xứ phủ, huyện, dân trang, động, sách. Phụng thờ hương khói lưu truyền vạn đời. Phối cùng với nhật nguyệt rạng soi. Sánh với trời đất cao dày vậy. Sau Vương tiên sinh có bài tán rằng:

Nam thiên khởi tạo tự Hùng Vương

Vạn cổ trường lưu lập kỷ cương

Nhất thống tương truyền thập bát diệp

Nhị thiên dư tải ức niên hương

Nhất bào bách noãn giai sinh thánh

Lưỡng tế thăng thiên bất tử phương

Hoàng tử vương tôn thiên vạn tải

Thần tiên tương phối dữ tài lương.

Lại nói, triều Kinh truyền 17 đời đến thời Nghị Vương ở ngôi, đóng đô tại Việt Trì bên sông Bạch Hạc, dựng nước tên gọi Văn Lang, kinh đô gọi Phong thành. Nghị Vương có hùng tài đại lược, chính trực cương nghị, cũng có khí tượng quy mô, kế trị các đời yên bình. Thiên hạ trong nhà vui đủ, giữ bên ngoài được an ninh. Ai ai cũng gọi là vị hiền quân vậy.

Đương khi ấy, tương truyền ở sách [trang] Thủy Vân, phủ huyện Thiệu Thiên, quận Ái Châu có một nhà trưởng bộ (họ Lý húy Tuyên). Khi ông trưởng bộ 29 tuổi đã lấy người cùng trang sách là bà Võ Thị Thiệu. Được 3-4 năm, loan phương tương xứng, cầm sắt giao hòa. Than ôi, đạo trời lại đến bất hạnh. Bà Võ mất sớm. Về sau ông có việc quan đến ở kinh đô (tức thành Phong Châu). Khi ấy có người tại Thời Mại, gia đình ở kinh đô, hàng ngày lấy việc buôn bán làm nghề. Vả lại người chồng trước đây sớm mất, chỉ còn thái bà họ Nguyễn (chồng của bà họ Nguyễn tên Xuân, vốn là người xã Thời Mại, huyện Sơn Vi, phủ Thao Giang, ở tại kinh thành buôn bán, tuổi ngoài 60 thì mất), tuổi gần 70, sinh được một người con gái là Nguyễn Thị Loan. Đến tuổi 21 thật có đạo nữ hiền hòa, dung mạo thanh tú, cùng với mẹ buôn bán ở kinh thành. 

Trưởng bộ Lý khi đó có việc quan lên kinh đo, ở tại gia đình của hai mẹ con. Trưởng bộ thấy nàng có đức hạnh như vậy, trong lòng rất yêu quý nên hỏi cưới. Thái bà đồng ý gả cho. Ông ở nhà vợ tại kinh thành cho tiện làm việc quan cùng với việc buôn bán các đồ tơ vải. Vua nghe nói ông có kỳ tài, lại có đức tốt, bèn cho quản trưởng phường tơ vải trong thiên hạ. Ông từ khi yên bề gia thất, vợ chồng duyên đẹp, uyên ương hợp bạn, cầm sắt cùng vui. Được quãng 3-4 năm mà chưa thấy điềm ngọc sáng. Khi đó ông đã hơn 40 tuổi, bà Nguyễn cũng gần 30. Một hôm lúc thanh nhàn ông mới nói với bà Nguyễn rằng:

  • Nhà ta có phúc, chỉ cố tạo phúc, làm việc nhân, tấm lòng từ thiện. Nay tuổi đã cao mà chưa thấy điềm sinh nở. Liệu hoặc ý trời chưa đạt vì việc người còn khiếm khuyết. Cho nên chi bằng một lần cầu đảo, biết đâu lại được chim yến báo hỉ, như thế mới yên được nguyện ước bình sinh.

Nói rồi hôm đó chuẩn bị làm lễ chay ba ngày, lập một đàn tế tại giữa sân, cầu đảo trời đất quỷ thần. Ba ngày liền cầu nguyện trời đất đến chứng. Chúc xong lại cầu đảo ba ngày. Sau khi câu xong 3 ngày thì đêm ấy thái bà Lý (tức là vợ ông) nằm ngủ mơ màng, bỗng thấy một ông lão ngồi mây lơ lửng trên không, tay cầm một cặp cần câu ở bên sông Tam Kỳ của sông Hạc, câu được một con rồng vàng. Thái bà Lý đứng ở bên bờ sông xem việc đó. Lão ông thấy thái bà bèn nói rằng:

  • Gia đình nhà ngươi phúc hậu, đến tận Trời cao. Nay ta câu được một con rồng vàng, có thể cho vào nhà bà làm đồ quý báu.

Thái bà Lý nghe ông lão cho vậy trong lòng rất vui mừng, hai tay ôm lấy con rồng vàng rồi bay lên trời. Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là điều mộng. Thái bà đem việc trong mông nói với ông Lý. Ông bèn nói với thái bà rằng:

  • Nếu đúng như trong mộng vậy thì một là thăng quan, hai là sinh ra quý tử.  Việc tồn nghi chưa rõ thì sau này sẽ hay. Hãi cứ mạnh dạn mà đoán như vậy đã.

Sau khi nói, thái bà quả nhiên có mang. 33 tháng đến năm Đinh Mùi tháng 8 ngày 9 sinh hạ một con trai, mặt mũi rất lớn, năm gò chầu trời, hàm én mày hổ, vẻ rồng mắt phượng, tay dài quá gối, trán có điểm sao Bắc đẩu, cao hơn người thường. Thánh chất vốn bẩm thông minh. Cha mẹ cho nhập học với Lã tiên sinh. Được 4-5 năm sách của chư tử trăm nhà đều quán thông hết, lại tinh thông binh pháp Thái Công, không đâu là không biết tiếng thơm, bốn biển uy động 9 tầng, đương thời đều gọi là Thánh đồng. 

Khi ông được 5 tuổi, theo mẹ đi chơi ở chợ Phong Châu (tức chợ sông Hạc, khi đó thành đô ở tại lầu thượng, lầu hạ đất Việt Trì, đều là kinh đô của Hùng Vương) để mua giấy sách. Bỗng nhiên thấy một ông lão ở phường chài đem một con cá xanh thân dài 2 thước rưỡi đến gặp lão bà. Mẹ con cùng mua con cá xanh đó bằng 9 mạch tiền của thái bà. Mẹ con đem cá trở về nhà, rồi mổ bụng bên trong được một thanh kiếm thần, cán đều làm bằng ngọc kim cương. Lang công bèn cầm kiếm lên xem, thì nghe trong kiếm có tiếng quỷ khóc thần kêu không dứt. Lang công thấy sự đó cho là lạ, bèn cầm kiếm và nói với kiếm rằng:

  • Ta vốn có anh tài trời cho, nay có thể lại được thanh kiếm thần này.

Tiếng quỷ khóc, chúng thần đều ngừng bặt. Ông nói xong thì từ đó đều yên lặng, không còn thấy tiếng kêu nữa. Lang công từ khi được kiếm về sau tâm tự thấy khảng khái, có chí tang bồng, có nhiều tài lạ thuật dị, đức lượng hơn người, anh hùng trùm thế. Lang công tuổi 21 uy danh đã lẫy lừng, bốn biển anh hùng đều quy phục.

Khi ấy Nghị Vương đam mê tửu sắc, vui chìm trong yến ẩm, không tu luyện võ nghệ, không phòng bị biên giới. Quốc gia trở nên biến loạn bất thường, những đầu sỏ nổi lên, ở ngoài biên ải thường có trộm cướp. Vua bèn mở khoa tuyển người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài để giúp việc nước.

Vua bèn truyền hịch đi các phủ, huyện, châu quận cho nhân dân ai có tài đức thì đến kinh ứng thí. Khi ấu Lang công ứng tuyển vào trường thi ở kinh (tức trường ở Phong Châu), rồi gặp bệ rồng, hỏi thi văn võ, thật có kỳ tài dị thuật, trí dũng anh hùng, tinh thông võ nghệ, tài văn sâu rộng, đối đáp như nước. Vua cảm thấy đây tất là thiên tài giáng thế để giữ nước giúp dân, không phải người tầm thường, rất xứng đáng được trao chỉ.

Khi ấy Vua có nàng công chúa thứ sáu tên là công chúa Nguyệt Cư (39 cung phi của Nghị Vương sinh được 22 hoàng tử và 15 công chúa. Công chúa Nguyệt Cư chính là do cung phi thứ 5 mộng thấy phượng hoàng bay vào trướng mà có mang. Đến năm Đinh Mão tháng Giêng ngày mồng 3 thì sinh, tên gọi Nguyệt Cư, tính vốn thông minh, là bậc nữ trung Nghiêu Thuấn, có dung mạo chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Khi sinh công chúa được 3 ngày đã có thể thích nghe hát xoan nữ. Xưa các vương tông triều Hùng cùng trăm quan khi có sinh con đều có phường hát của huyện Phù Khang phục vụ). Vua gọi Công đến rồi sau đó gả cho Lang công, trao cho chức quan bồ chính điều phối vũ khí quân đội trong thiên hạ, phong là Phụ ký. 

Khi đó có nhiều trộm cướp. Vua sai phò mã dẫn quân đi phòng ngự biên giới, tuần du các đạo. Lúc ấy, Lang công bèn nhận mệnh đường đường từ cổng thành tiến ra, tay cầm kiếm thần, tiến thẳng đến vùng mười châu. Đi đến khu vực xã Thời Mại, hôm ấy (mồng 4 tháng 5) nhân dân dựng hành cung làm lễ bái tiếp.

Ông đóng quân, đi xem xét làng quê bên ngoại. Ông lại xem địa thế dân cư, thấy có hình dáng như rồng và rùa cùng nằm, từ núi Nghĩa Lĩnh phân mạch quay về đất tổ, thật là một thế cục quý. Ông lại thấy phong tục nhân dân thuần hậu, làng xóm hòa thuận, lại chính là làng quê bên mẹ, đâu phải đất xa lạ. Hôm ấy ông nói với nhân dân, phụ lão rằng:

  • Hôm nay vì còn việc nước, ta tuần xét trộm cướp trong thiên hạ, chinh Đông dẹp Tây, chưa được ở yên. Đến ngày sau khi thiên hạ được bình yên, ta tất sẽ lập cung ở cùng với nhân dân làm nơi đô ấp. Ngày nay thiên hạ sinh ra nhiều trộm cướp, rồi một mặt sông Thao những đảng dữ rất thịnh ở các xứ. Lại còn có quân Thục thường hay xâm nhập vào nước ta, dụ dẫn lòng người đêm tâm mưu phản quốc. 

Vì nơi sông Thao xuất quân chống quân Thục rất tiện nên Ông truyền cho binh sĩ, nhân dân lập một đồn lớn ở đất xã Thời Mại để chế ngự đạo tặc. Nhân dân nghe lời rằng sẽ lập một đồn ở đất đó để trấn thủ thì đều rất vui mừng, đồng lòng phục xin làm thần tử. Ông đồng ý. Khi ấy Ông dâng biểu tấu về triều xin được nhận trị ở đất đó (tức đất Thời Mại), chế ngự giặc cướp cùng với quân Thục, lấy làm đồn chính đóng giữ. Vua đồng ý. Ông đến nhận ở đất đó, truyền phân các đạo binh mã đến các nơi quận, huyện, châu, trang, động, sách, phân bổ lập đồn đóng quân để chế ngự đạo tặc. 

Sự xong thì đạo quân chính của Ông đi xem xét các nơi đồn binh. Hễ nơi nào có trộm cướp, gian đảng, đầu sỏ nghe đạo quân chính của Lang công tiến đến đều tự nhiên sợ phục mà hàng. Còn nơi nào gặp phải việc chiến trận, Ông lấy kiếm thần giơ lên, đảng gian không đánh tự thấy kiếm mà sợ hại bỏ chạy. Ông đi tuần chế ngự đạo tặc qua ba tháng thì những âm mưu khởi loạn trong thiên hạ đều được Lang công bắt sống hết, đuổi về nơi chốn của chúng. Đạo tặc bị quét sạch, thiên hạ thái bình. Ông phụng chiếu quay trở về thành, dâng biểu tấu, bái tạ trước bệ rồng. Vua rất vui mừng xem đó, ngay hôm ấy lại phong Lang Công là Ninh Hải quận vương (thuộc đất sáu châu), thưởng ban vàng bạc cùng sợi gấm, lụa trắng hơn trăm cân. Ông lại tâu thỉnh lập cung ở làng quê ngoại (tức trang Thời Mại) làm nơi đóng sở. Vua đồng ý cho lấy đất đó làm đất Thang mộc ấp của Ông.

Khi đó Ông khấu tạ trước bệ, xin về đất trang Thời Mại. Ngày hôm ấy (mồng 9 tháng 2) nhân dân làm lễ bái đón. Ông truyền nhân dân lập cung ở nơi có hình trán rồng (đất đó phía sau có động cao dẫn mạch đều như mây phủ rồng chầu, trái phải nhất nhất đều chầu, trước mặt có dòng suối nhỏ, hai bên và trước sau đều có dòng nước chảy quanh, quay về hội ở chính đường, trước có đầm sen bán nguyệt, chợ đối diện trước cung, là nơi anh tài đô hội, lập nơi đó làm phủ trị, một vùng trái phải đều là cách rồng mây đứng chầu, phượng rùa đến chầu ở nơi đất chính cung). 

Việc xong, hôm ấy đón công chúa Nguyệt Cư quay về cung ấp mà ở đất ấy (tức đất Thời Mại). Được vài tháng thì cha mẹ ở kinh đô bỗng nhiên đều tạ thế (tức ngày mồng 5 tháng 2). Lang công cùng với công chúa quay về kinh đô, tâu lên vua. Vua nghe tin bèn sai đình thần đến làm lễ an táng cho ông bà tại bên trong thành. Sự xong, Ông cùng công chúa ở tang 3 năm, đến khi mãn tang mới quay trở về cung ấp (tức cung ấp Thời Mại), lại mở một cái chợ ở mảnh đất trước cung để tiện cho việc quân và cùng với nhân dân buôn bán, để làm nơi đóng vương cung đô phủ. Từ đó ông bà ở tại đó đảm nhận việc phụng sự gia tiên các bên nội ngoại, lấy đức giáo hóa nhân dân, chia tài sản tạo phúc. 

Ông là người vốn có lòng khoan dung đại độ, thưởng ban dân tình, giúp nghèo, dưỡng lão, lấy nhân nghĩa mà giáo hóa nhân dân đều có được thuần phong mỹ tục, vinh dự đủ đầy có thừa. Công chúa cũng một lòng trung hậu, đức nữ hiền hòa, phong tư tốt đẹp dẫu Tề Khương, Tống Nữ cũng không bằng, con vua dòng tiên một bề kết phối. Vợ chồng đều một lòng trung hậu. Phụ lão nhân dân (tức trang Thời Mại) đều nhất nhất coi như ơn sâu như núi sông, đức lớn như trời đất. 

Khi ấy Ông tuổi đã ngoài 30. Công chúa Nguyệt Cư 28 tuổi. Một hôm buổi tối công chúa Nguyệt Cư đang nằm ở chính nơi Tây cung, mơ màng vào mộng đi lên đỉnh núi Thứu Lĩnh, bỗng thấy một áng mây năm sắc bay trên đỉnh núi. Công chúa đến nơi xem xét, mới thấy mây năm sắc đều bay lên trên không. Trong mây lại có một con rồng vàng cũng theo mây mà bay lên trời. Lại thấy ở nơi rồng mây đó có một hang huyệt bên trong có 12 chiếc trứng. Công chúa nhặt trứng bọc vào trong áo, đem về đến đường lớn thì 12 trứng đều đồng loạt nở ra 12 rồng con, tất cả đều có hình như rắn thằn lằn. Công chúa sợ hãi bèn bỏ ở giữa đường. Bỗng nhiên tỉnh lại, mới đem mộng đó nói với Lang Công.

Lang Công bèn nói với công chúa rằng:

  • Nếu quả như trong mộng thì tất là điềm sinh quý tử, đúng là những anh tài tuất kiệt, nhập làm con trong nhà ta, không phải tầm thường. Sớm như trong mộng, nửa đường đã thả, có thể có ý liên quan, chưa chắc gia đình giữ được lâu dài.

Lang Công nói xong, năm ấy công chúa quả nhiên có mang thai, tới năm Giáp Thìn mồng 6 tháng Giêng sinh ở vọng cung (tức cung Đàm Lã) một người con trai, mặt mũi to lớn, mắt tú mày thanh, thật là kỳ dị, nhân gian không có ai có tướng như vậy. Được trong trăm ngày cha mẹ đặt tên là ông Tràng. Đến năm Bính Ngọ mồng 9 tháng 8 công chúa lại sinh một bọc ba con trai. Đến năm Mậu Thân mồng 3 táng 3 lại sinh một bọc 2 con trai. Đến năm Nhâm Tí ngày 12 tháng 10 lại sinh 1 người con trai. Mỗi lần như vậy trời đất mờ tỏ trong 3 ngày, mưa gió kinh trời, sấm sét khắp đất, mùi hương thơm gió nồng nàn trong phòng sinh nở, khí lành rạng rỡ nơi sinh. 12 người con trai đều có phong tư đẹp đẽ, thể mạo khôi kỳ. Phò mã Lang Công trong lòng suy tưởng mà nói:

  • Gia đình ta có dư phúc hậu nên trời sinh đám thánh, đất xuất chúng hiền, đều cùng báo nhập vào làm con trong nhà. Nếu như không phải vậy thì tất là yêu đồ, quỷ đảng tác loạn, tự sinh ra kỳ sự vậy.

Liền hôm ấy dâng biểu tâu lên vua thuật lại chuyện sinh nở kỳ lạ, Vua nghe tấu đó bèn thốt lên:

  • Phúc đó! Phúc đó! Con gái ta đức thật nhiều nên lòng trời đã định, quần hiền các thánh đều đến nhập vào nhà làm con, đúng là những thiên tài giúp nước, những người sẽ trợ vận giúp dân vậy.

Ngay hôm đó Vua mới đặt tên cho các chàng (12 ông đều là con của công chúa Nguyệt Cư, tức cháu ngoại của Nghị Vương). Thứ nhất là chàng Tràng, thứ hai là chàng Tuệ, thứ ba là chàng Dực, thứ tư là chàng Linh, thứ năm là chàng Hải, thứ sáu là chàng Thường, thứ bảy là chàng Khắc, thứ tám là chàng Thành, thứ chín là chàng Lôi, thứ mười là chàng Quý, thứ mười một là chàng Kính, thứ mười hai là chàng Dũng. Đến khi các chàng trưởng thành, người con trưởng tuổi đã 12, còn các em đã 8-9 tuổi, đều rất thông mình, sáng dạ, dũng lược hơn người, anh hùng vượt chúng. Nhân dân đều tận phục, trong nước đều sợ. 

Người anh tính vốn thông minh cương trực, đức lớn tài cao, lại thấy có nhiều thuật lạ, độ lượng khoan dung, đều có phong độ rộng rãi, văn chương sâu rộng, tinh thông võ lược, con hiếu anh tốt, đương thế đều xưng rất đúng là người hiền. Còn chàng Quý tính hay hiếu sát, hùng dũng hơn người, rất bạo ngược, một lòng khảng khái. Nhân dân sợ phục mà tránh né (khi ấy xã Thời Mại đều sợ phục chàng Quý hơn những chàng khác). Còn các chàng khác đều anh hùng, dũng lược chế ngự. Các tài tử đều vô cùng kính phục. Khi ấy Lang Công cùng công chúa mua thêm đất đại ruộng vườn, thiết lập các cung sở để phân cho các chàng cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi vạn đời hương khói mà phụng thờ, rạng tỏ lòng hiếu kính, đức lớn sánh với trời đất vậy.

Lại nói khi ấy Thục Vương nghe thấy Trung Quốc ít khi dùng võ, muốn chiếm thành một nơi, nhưng còn sợ phương Nam có thần, do dự chưa quyết. Khi đó có chủ phụ đạo bộ Ai Lao có tài lược lớn, cũng là tông phái Hùng Vương. Thục Vương nghe vậy bèn dẫn quân đến đánh nhằm chiếm bộ Ai Lao.

Chủ phụ đạo Ai Lao đó không thể chống lại, bèn cử người đến tâu cầu cứu với Nghị Vương. Nghị Vương bèn dẫn mười vạn hùng binh và sai Ninh Hải quận vương thống lĩnh quân thủy bộ nhằm thẳng đến thành Ai Lao để ứng cứu. Thục Vương nghe Nghị Vương cùng với con rể phò mã Ninh Hải vương dẫn quân đến cứu viện, lại có kiếm thần, mới sợ hãi mà gửi thư rằng:

  • Quân Thục từ phía Tây lại chỉ muốn chiếm chủ bộ để truyền lại đất nước, đâu dám giơ càng bọ ngựa chống lại cỗ xe vạn thừa vậy.

Nghị Vương thấy thư đến bèn đem quân về. Thục Vương mới được chủ bộ đem về nước Thục, gả công chúa cho và lại nhường ngôi cho. Rồi sai sứ giả đến tạ Nghị Vương, xin Nam triều là anh, Bắc triều là em, định ước giảng hóa, hai nước kết giao. Nghị Vương đồng ý. Từ đó phía Tây Nam quân tình yên vậy.

Lại nói Ông (tức phò mã Lang Công) từ sau khi đánh Thục trở về cung ấp (tức Thời Mại) bỗng vai trái nổi ung nhọt mà nằm bệnh. Vua thường thân đến thăm hỏi. Khi đó Ông đã ngoài 80. Các chàng con tuổi đã ngoài 20. Thấy Ông tuổi đã cao lại mắc nằm bệnh, đề phòng vạn nhất có thế nào nên bèn lập con trưởng chàng Lý Tràng làm Tá thái tử (chữ Tá do Vua đặt cho) để nối vị trí Ninh Hải vương nhận trị. Còn các chàng khác đều phong làm tướng quân. 

Hôm đó Lang Công triệu các con cùng với phụ lão nhân dân lại phân phó thác các nơi đất đai, phụ lão cùng các con và nhân dân tuân theo lời giao phó, không được làm khác. Khi ấy Ông phân đều đất đai, thiết lập thành các trang cho các con để sau này phụng thờ. Lúc đó xã Thời Mại được Ông chia thành 4 trang. Một là trang Đàm Lã, giao cho chàng trưởng Tá thái tử để làm nơi sau này hương khói phụng thờ. Nơi mà Ông đã lập chợ (tức chợ Núi) đều phân làm hai, một phân cho Thái tử để phụng thờ, thuộc về Thái tử. Một phân cho các con khác để thu lấy dùng phụ tế làm lễ các tiết. Về sau thuế chợ cũng được chia đều như vậy. 

Một khu gò đã lập cung để ở, sau này ủy phó cho các con cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi đền chính phụng thờ vợ chồng ta. Lại cũng giao cho Thái tử một khoảnh ao ở bên trái trước cung, cho Thái tử lấy làm hương khói phụng thờ.

Còn các gò khác cộng 14 chỗ cùng các vùng đất các trang (đất của trang Đàm Lã, trang Lôi, trang Trung Chính, tranng Miếu, trang Lan, trang Thượng Giáp, trang Vĩnh Ninh) và nhân dân (tức ở vùng đất Thời Mại) Ông chia thành các trang thần tử, cùng cho Thái tử cùng với các con chung nhau mà hưởng đều. Không thể bỏ lời chúc thác nàu mà tranh nhau, thì không phải là đạo hiếu của các con ta.

Các chàng cùng với phụ lão, nhân dân nghe lời Ông dạy đều tuân theo lời ủy chúc mà nhận. Sau khi Ông giao chúc được vài mươi hôm thì cái nhọt ở vai trái tự nhiên khỏi. Ông lai đi vào đất Ái Châu, thăm lăng mộ tổ tiên. Phò mã Lang Công đi theo hầu Vua đến chân núi Bàn Sơn (thuộc đất Ái Châu), bỗng nhiên thấy một đám mây trắng từ trên núi bay ra đến thẳng chỗ Lang Công, quấn quanh người. Kiếm thần theo đó bay lên trên trời. Trong chốt lát biến thành một làn khói đen. Trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên. Khi ấy trong mây có tiếng tụng rõ ràng rằng:

Nhất phiến bạch vân phàm nhiễu lai

Thần long cấp cấp đáo thiên đài

Dương quân dĩ mãn thiên quân triệu

Vân giá phù long thượng đế hồi {đài}.

Tụng dừng thì tự nhiên mây khói một đường thẳng lên trên trời mà tự tan đi. Trời đất sáng tỏ. Phò mã bỗng nhiên mà hóa. Cả thân hình chỉ còn thấy áo cốt, đặt ở trên đất tại đó. Vua lấy làm lạ, ngày hôm đó (18 tháng 10) dừng lại xem xét, rồi truyền nơi đất đó cùng với nhân dân Ái Châu sửa chữa miếu đền, lập phụng thờ. Sự xong quay về đô phủ. Hôm đó bao phong tặng mĩ tự cho hưởng lễ vật hương khói vạn cổ không ngừng, cùng vận với quốc gia mà hưng thịnh vậy.

Phong Phò ký Lang Đại vương.

Khi ấy truyền các nơi nhân dân có thờ phụng đến thành đô để phụng đón sắc chỉ trở về các chốn mà thờ phụng. Vốn xã Thời Mại là nơi đền sống của Ông được cho làm thang mộc ấp, chốn hộ nhi, cùng với Bàn Sơn ở Ái Châu là nơi đền lăng của Ông. Hai đền này được truyền sai quan mang đón sắc chỉ về đền. Trăm quan làm lế tế cùng với Công chúa, Thái tử và các con. Nhân dân các trang cũng làm lễ thờ phụng.

Lại nói, khi ấy Tá Thái tử lại nhậm chức Ninh Hải, nối trị quận vương. Còn các ông con trai cùng ở nơi cung ấp (tức Thời Mại) để phụng dưỡng mẹ già (tức công chúa Nguyệt Cư). Các nơi mà Ông đã phân chia thành các cung để ở (khi đó các trang của đất Thời Mại và các xứ gò đều đã được các ông con trai lập làm nơi đô phủ. Ở nơi đó nhân dân đều phục làm thần tử), đều làm các đô phủ anh em cùng nhau quý hiền, dân ấp đều được vinh dự ơn lộc của nhà vua, danh tiếng vang xa, bốn biển anh hùng đều hướng phục.

Lại nói, khi Nghị Vương ở ngôi đã 160 năm thì mất, mới lập Thái tử Hùng Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương tư chất thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ nghiệp tổ tông 17 đời thịnh trị, trong tu luyện võ lược, ngoài ngự trấn biên cương, dốc lòng hưng bình mà yên Trung Quốc. Bèn theo gương của tiên vương mà trị, tôn sùng thiên đạo, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, xuân về trong nước. Đương thời đều gọi là vị hiền quân vậy.

Khi đó công chúa Nguyệt Cư tuổi đã ngoài 70. Một hôm (ngày 12 tháng 12) bỗng nhiên bị đau đầu mà hóa ở nơi ở chính, làm lễ an táng tại chính cung (tức cung Đàm Lã của Thái tử). Trăm quan đến tế, lại bao phong mĩ tự, truyền cho nhân dân cùng triều đình tu sửa cung miếu phụng thờ, cùng với quốc gia hưng thịnh vậy.

Duệ Vương bao phong là:

  • Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa.
  • Phong Phụ Ký Linh ứng Lang Đại vương.

Các trang của xã Thời Mại phụng thờ ở nơi chính đền (khi đó Nguyệt Cư đã thiết lập một du cung ở chợ Núi, người ở chợ đó đều xưng là thần tử. Công chúa hóa về sau, đất chợ Núi đều phụng thờ, sự tích còn ở bộ sau).

Lại nói khi cơ đồ họ Hùng đến cuối thế nước cáo chung. Duệ Vương ở ngôi sinh được 20 hoàng tử, đều lần lượt theo nhau về cố hương, 6 vị công chúa cũng chỉ còn 2 vị nữ công chúa. Một tên là công chúa Mị Châu Tiên Dung. Một tên là Mị Nương Ngọc Hoa. Rất được yêu mến. Vua sau gả Mị Châu cho Chử Đồng Tử (quê ở xứ Sơn Nam, xã Đa Hòa, huyện Đông yên, phủ Khoái Châu). Còn công chúa thứ hai là Mị Nương Vua muốn cầu người anh tài để gả kết hôn, bèn lập 2 lầu ở cửa thành Việt Trì, đằng trước treo biên là Đãi hiền lầu. Sai công chúa ở đó. Gửi hịch đi bốn phương, hễ ai có là văn nhân tài tử thì hội về thành để thi tài, sau gả công chúa cho. Thế là hào kiệt bốn biển đều vui mừng, mau chóng quy tập về quốc đô. Vua ngự ra đề thi. Người thì ngàn kinh vạn cuốn không thiếu trong tường Khổng Mạnh, bốn khóa ba truyện chẳng kém thao lược Tôn Ngô. Hiền tại trong Thiên hạ đến ở một trường thi trận,

Đều là tầm thường mà đi, không phải người toàn tài đương thời. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Tinh và Động Đình Thủy Tinh là hai người bạn đồng học có nhiều phép thông thiên, thật là anh hùng. Vua bèn nói:

  • Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, mà hai khanh đều là bậc anh hùng. Ngô vui thì Sở buồn, Hán ca thì Tần khóc. Thôi thì đành định xem trong hai người ai có khả năng đem sính lễ đến trước thì Trẫm sẽ gả con gái cho.

Thế là hai tướng Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng hẹn rằng:

  • Chúng thần cùng nhau về đem sinh lễ đến thi, xem ai đến trước.

Thủy Tinh về cung Động Đình mà cầu kỳ các vật lạ. Sơn Tinh đi thẳng ra ngoài lầu lấy gậy trúc chỉ trời xin được sính lễ. Bỗng thấy voi trắng chín ngà, ngọc kỳ vật lạ từ trời rơi xuống. Sơn Tinh nhặt lấy đến đêm gờ Tý đem lễ vào lầu rồng. Vua bèn gọi công chúa đến mà gả cho Sơn Tinh (Sơn Tinh tức Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng), bèn đón về núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thủy Tinh đem sính lễ đến. Vua nói:

  • Sơn Tinh đã đến lễ trước rồi.

Thủy Tinh tức giận mà quay về (thế là Sơn Thánh và Thủy Tinh do việc hôn nhân mà thành thâm thù, mỗi năm cứ đến tháng 6-7 lại giao chiến, mưa gió nổi lên to lớn, nhân dân thiệt hại nhiều, còn xem trong sự tích về Sơn Thánh).

Lại nói khi Duệ Vương 150 tuổi mới nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh. Tản Viên không nhận, Duệ Vương nói:

  • Cơ đồ họ Hùng đã đến cuối, con có thể thay thế được.

Tản Viên do dự chưa quyết. Khi đó Thục Vương (là chủ phụ đạo nước Ai Lao, cũng là dòng dõi Hùng Vương) nghe tin Duệ Vương tuổi trời đã đến kỳ mà 20 hoàng tử đều đã về trời, không có người lập nối dõi, định nhường ngôi cho con rể Tản Viên. Thục Vương mới âm thầm khởi binh muốn đến đánh để chiếm lấy nước. Biên phương cấp báo, Duệ Vương cùng với đình thần bàn bạc. Triều đình có quan Liêu tiến ra rằng:

  • Bệ hạ nghỉ ngơi đã lâu, quân thần tướng sĩ ở trong thời không có chiến loạn, nên hàng ngày quân luyện không tinh. Nay có động đến tất nhân dân xã tắc sẽ muốn cầu phòng thủ để các bậc Thái tổ Thái tông trên trời linh thiêng không gặp hoạn nạn. Vạn nhất mà sự quân xấu đi, quân Thục tất sẽ phá tổ tông cùng làm tổn thương dân chúng con đỏ vậy. Chẳng bằng nhân đây dùng mưu thận trọng bí mật hối lộ tướng giặc, gửi thư cho Thục Vương để xem có thê hoãn việc động binh, từ đó xem cơ sự sau này ra sao.

Vua nghe vậy, muốn theo kế này, bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh đến hỏi. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Hơn hai ngàn năm qua 17 vị thánh quân có ơn sâu đức dày, đã khắc sâu vào cốt tủy nhân dân.

Hiện nay nước giàu quân mạnh. Oai đức của bệ hạ lan xa bốn biển. Chẳng qua quân Thục không biết tự giữ mà dám quật cường, thất bại đã rõ, tất đúng như vậy. Xin bệ hạ xử tội mà thảo phạt, lấy nghĩa mà phục, tất dân ta đều theo bệ hạ. Nước giặc đánh đến không khắc gặp họa. Xin được lĩnh ba vạn quân hùng ra vào, một xe độc tiến, đất Thục sẽ yên.

Vua nghe vậy rất mừng bèn chọn ngày trai giới, lập đàn cầu đảo trời đất. Đang khi làm lễ bỗng thấy trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi tới. Việc xong, đêm ấy Duệ Vương ngự ở chính điện, mơ màng nằm mộng, bỗng thấy Hùng Anh Vương (tức là tổ năm đời của Duệ Vương) cùng binh sĩ tiến đến nói với Duệ Vương rằng:

  • Cơ đồ họ Hùng đã tận, thế nước cáo chung. Thục Vương làm loạn, nên lòng trời đã định, sai những anh tài xuất thế để trợ giúp nước nhà khi tận cuối. Có 4 vị thần quan trên thiên đình, 1 vị thần quan của thủy quốc, 7 vị thần quan thổ địa đều đầu nhập vào làm con của công chúa Nguyệt Cư, theo giúp Tản Viên Sơn Thánh để trị loạn này vậy. Không phải là vô minh đâu.

Duệ Vương trong mộng tâu lại với Anh Vương rằng:

  • Dám hỏi các vị thần quan tên như thế nào, xin được chỉ giáo.

Anh Vương nói:

  • Thứ nhất Tá Thái tử (là Thông phán sự của Thiên đình sai xuống). Thứ hai là Thái Ất. Thứ ba là Thiên Cương. Thứ tư là thần quan Áng Na (tức là thần quan nơi gò đất). Thứ năm là thần quan Thủy (là vị Linh quan của Thủy đình). Thứ sáu là thần quan Đương niên hành khiển (là vị Thiên quan). Thứ bảy là thần quan Phú. Thứ tám là thần quan Khắc. Thứ chín là thần quan Miếu. Thứ mười là thần quan Lôi. Thứ mười một là thần quan Dòng. Thứ mười hai là Đương cảnh bản thổ thành hoàng Đại vương. 7 vị thổ thần là khí lành của núi Hùng, Thời Mại đúc thiêng, cùng mang tên hiệu gò sinh ra vậy (Khi ấy Thời Mại có các gò Áng Na, gò Phú, gò Khắc, gò Miếu, gò Lôi, gò Dòng ở tại nơi cao, cùng với Đương cảnh thành hoàng quản lý nơi đó).

Anh Vương dứt lời thì xa giá tự quay đi. Duệ Vương khấu tạ, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là mộng này là Anh Vương chỉ dạy, bèn sai quan sứ truyền hịch gọi các ông đến, cùng bái làm các tả hữu tướng quân, nhận lệnh của Tản Viên Sơn Thánh đi đánh nước Thục. Khi đó Thái tử Tràng đang nhận chức Ninh Hải vương, chống đánh với một mặt quân Thục. Còn 11 ông tuân phụng mệnh vua, khấu tạ trước bệ, quay về cung ấp (xã Thời Mại), làm lễ từ đường. 

Việc xong lại chiêu mộ được các gia thần, nhân dân địa phương được ngoài 700 người khỏe mạnh làm thủ túc cầm đao cho các ông (khi ấy Đàm Lã của xã Thời Mại thuộc thủ túc của Thái tử có 121 người, còn trang Bình Chính, trang Trung Thượng, trang Lan, trang Vĩnh Ninh cộng là 276 người đều theo các ông đi chinh phạt. Còn người ở chợ Núi thì theo thần quan Thủy cùng làm thủ túc gia thần được 68 người. Còn các nơi quận huyện cũng theo các ông, cộng được 743 người).

Khi đó (mồng 10 tháng 8) mổ trâu khao đại hội binh sĩ ở cung ấp. Xong việc các ông tiến quân mã đến bệ rồng. Vua sai làm tả hữu đốc lĩnh tướng quân, cùng cho 5000 hùng binh nhập theo lệnh của Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Thánh cùng các ông khấu tạ trước bệ, lĩnh mệnh đường đường từ cửa thành tiến đi, thẳng đến đồn chính của quân Thục tại đất Mộc Châu, Quỳnh Nhai, đánh một trận đại phá, chém các tướng nước Thục cùng quân sĩ hơn ngàn đầu. Quân Thục thua to tứ tán (trận này có thiên thần là Tá thánh từ trời xuống giúp nước nhà, còn có tích riêng). Còn các dư đảng đều bị bắt sống, dẫn về kinh, một xe không thoát, một ngựa không lọt, quét sạch không yên bình vậy. Tức tốc sai tâu báo tiệp. Vua bèn chia các chiếu truyền về. Sơn Thánh cùng các ông và các tướng phụng mệnh quay về thành, đến tận cổng bái tạ. 

Vua rất vui mừng bèn mở yến tiệc khao quân sĩ, thưởng cho ba quân, gia phong các công thần lớn nhỏ. Từ đó non sông thanh bình. Các ông khấu tạ bệ rồng xin trở về cung ấp (cung ấp Thời Mại). Vua đồng ý. Các ông ngày hôm đó (mồng 5 tháng 3) quay về cung. Nhân dân làm lễ bái đón. Các ông mở yến tiệc lớn, khao các tướng sĩ, gia thần. 

Việc xong khi đó Quý Công (tên là Dũng) vốn tính hiếu sát, rất cường bạo, ngỗ nghịch nhưng lại cũng có lòng nhân lượng, nên nhân dân sợ phục, yêu mến hơn các ông khác. Hôm đó Quý Công biết giết người là quá đáng mới lập riêng một cảnh chùa, tạo làm tượng Phật để giải oan những tội lỗi cho mọi người (chùa tên là chùa Sùng Ninh) ở đất trang Vĩnh Ninh, cũng là nơi đất có hình rồng vậy. Việc xong từ đó các ông anh em thiết lập đồn dinh, tu sửa đền miếu, cùng nên quý hiển, nhận được ân lộc nước nhà, trong môn hộ có thêm người bốn biển làm gia thần, nổi tiếng một phương ở ấp tại đất Thời Mại. Nhân dân đều làm thần tử, cha con anh em một nhà thế lớn, ân sâu đức dày, mở mang mĩ tục nhân dân, người trước mở, người sau đắp, công đức rạng rỡ sánh cùng trời đất vậy.

Lại nói được gần hết 2 năm thì Thục chúa ôm hận, cầu viện các nước láng giềng tám vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, tàu thuyền 2 ngàn chiếc, thủy bộ cùng tiến thẳng đến đất Nam Giao đánh lấy nước ta. Quân bộ theo chân núi từ thập châu Hoàng Khiếu [Tùng], Quỳnh Nhai, Lượng Sơn, Văn Lãng, Châu Đại Man, Văn Bàn, An Lập, Thuỷ Vĩ, Bố Chính, Minh {Linh} 5 đạo tiến ra. Đường thủy tàu thuyền theo La Châu, cửa biển Thần Phù, cửa biển Hội Thống. Cờ xí rợp đất, chiêng trống vang trời, tiếng quân chấn động như sấm sét vạn dặm. 

Vua rất lo lắng mới hỏi đình thần, tất cả đều dương mắt nhìn nhau không có một kế khả thi. Trước đó các ông đã được cử đến trấn nhậm các nơi. Tá thái tử nhận Ninh Hải quận vương. Ông thứ hai đến nhận ở Tuyên Quang. Ông thứ ba đến Hưng Hóa. Ông thứ tư đến Ô Châu. Ông thứ năm đến Hải Dương. Ông thứ sáu đến Mộc Châu. Ông thứ bảy đến Chu Diên. Ông thứ tám đến Mai Châu. Ông thứ chín đến Việt Châu. Ông thứ mười đến Thái Nguyên. Ông thứ 11 đến Lạng Sơn. Đều cùng nhau đến nhận việc các chủ trưởng phụ đạo. Còn lại ông thứ 12 ở tại cung ấp để giữ coi đền miếu (đất Thời Mại).  Khi đó Vua gọi các ông về cùng Sơn Thánh để hỏi mưu kế. Sơn Thánh cùng các ông một lòng đánh dẹp giặc, xin nhận mười vạn quân. 

Vua rất vui mừng, bèn trao nỏ thần cho Sơn Thánh, phong làm Nhạc phủ kiêm thượng đẳng thần. 12 ông đều được phong là tả hữu thần quan, giao cho mỗi ông một thanh Kim đao, một bộ áo chiến bào, một mũ trăm sao, một con tuấn mã, theo thánh giá đi dẹp giặc. Sơn Thánh cùng các ông bái tạ, nhận mệnh phân binh thành các đạo, tiến thẳng đến các đồn quân Thục, đánh một trận lớn, lấy được dấu ấn tín của giặc. Bèn mới làm giả một bức thư của Thục chúa gửi cho tướng Thục yêu cầu giữ nguyên quân trong đồn, không được đánh. Tướng Thục nhận được thư phòng thủ không ra. 

Sơn Thánh cùng các ông mới ngày đêm tiến đến thành Thục, chia quân thành các đạo đánh một trận lớn, bắt sống nước Thục dẫn về kinh sư. Các đồn nghe biến không kịp cứu. Quân Thục bị phá tan, thua to, dẹp sạch vậy. Sơn Thánh cùng các ông làm lễ dâng biểu tâu, quay trở về thành làm lễ bái tạ. 

Vua rất vui mừng, bèn mở yến tiệc. Đang trong lúc ăn uống 11 vị ngồi ở trên triều hai bên trái phải trước bệ. Đang giữa ban ngày bỗng thấy trên trời có 3 tiếng sấm vang đất, trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên, ban ngày hóa như đêm. Mười ông bỗng nhiên cùng hóa trước bệ rồng trong chính điện. Được một lúc thì mây gió tự tan, gió to dần dần thổi đi. Trời đất sáng lạn. Thì thấy các ông đều đã hóa. Chỉ còn Thái tử và Quý Công còn ở trước triều. 

Duệ Vương lấy làm sự lạ, ngày hôm đó (mồng 1 tháng 2) làm lễ an táng các ông ở nơi đất trong thành, rồi cứ theo lời dạy của Anh Vương trong mộng mà bao phong mĩ tự, cho đón về đất nơi cung ấp (xã Thời Mại) để phụng thờ. Duệ Vương phong vậy (phong Thái tử Ất thần quan, phong Thiên Cương thần quan, phong Áng Na thần quan, phong Thuỷ thần quan, phong Đương niên hành khiển thần quan, phong Gò Phú thần quan, phong Gò Khắc thần quan, phong Gò Miếu thần quan, phong Gò Lôi thần quan, phong Ông Dòng thần quan). Còn 4 trang của xã Thời Mại cùng phụng thờ. Trang chợ Núi (theo riêng Thủy thần quan) phụng thờ riêng hai vị (Thánh mẫu cùng với Thủy thần quan), cùng cho làm làng hộ nhi cho đền chính. 

Lại nói còn Thái tử cùng với Quý Công thấy các ông cùng ngày đều hóa, tất là vận nước nhà đến cuối nên các ông trở vê cung mây, không ham muốn lợi lộc của dương gian, tránh nhiễm bụi trần. Hai ông khấu bệ rồng xin được trở về cung ấp nghỉ ngơi trả lại chức trách. Vua đồng ý, ban cho một trăm hốt vàng ròng cùng với một trăm súc vải gấm. Hai ông quay trở về. Hôm đó (mồng 6 tháng 3)

Nhân dân làm lễ bái đón. Hai ông bái yết gia tiên, tu sửa đền miều các cung tòa ở các nơi đất trong các trang. Lại cho các gia thần cùng nhân dân một trăm thỏi vàng ròng, mở yến tiệc. Hai ông gọi phụ lão nhân dân và các thần tử cùng đến ăn uống. Nhân lúc ăn uống vui vẻ hai ông nói với nhân dân rằng:

  • Nhà ta cùng với nhân dân (4 trang của Thời Mại) vốn có ân sâu đức dày đã nhập vào xương tủy. Một nhà thần tử, vạn cổ cương thường tất thành nghĩa cũ, đâu phải là tình ngày một ngày hai. Nay có một tòa nơi cung mà hai vị tiên tổ đã lập ra (là cung đền ở nơi dân cứ, bên ngoài đối diện với nơi chợ). Nay lấy đó làm đền chính phụng thờ hai bậc gia tiên. Còn các tòa dựng về sau ở các nơi trong các trang thì để là cung thờ vọng. Hôm nay chúng ta ủy phó giao cho nhân dân làm nơi sau này cùng phụng thờ cha mẹ nhà chúng ta với các anh em, để nêu cao phong tục tốt đẹp trong nhân dân, đề cao tình thầy trò, làm thịnh thêm đức này vậy.

Phụ lão nhân dân, thần tử, đều cùng lòng nhận ủy chúc này. Việc xong thì đến mùa hè ngày 11 tháng 5, hai ông đi dạo chơi săn bắn, trở về cung. Quý Công cho quân binh về và ngồi nghỉ ở chùa Sùng Ninh, ngắm xem địa hình cảnh thiền. Thái tử đem quân trở về nơi cung chính. Bỗng nhiên mưa to gió lớn nổi lên, giữa trời có một đám mây đỏ như ánh lửa màu hồng, cuốn tròn như hình mặt trời, bay đến quấn quanh dân ở nơi đó, như vạn chiếc nón úp đất, môi ngậm yên lặng một vùng. Dân ở đó kinh sợ không dám ra khỏi nhà. 

Hôm ấy (mồng 10 tháng 5) Quý Công hóa ở chùa Sùng Ninh. Thái tử hóa ở nơi cung đền chính (trong 12 người con chỉ có ông Thái tử là nhận chức Ninh Hải quận vương, lấy vợ con chủ trưởng châu Bố Chính, sinh được 3 nam 2 nữ, sau sinh được các cháu còn nhận chức phò giúp Trưng nữ vương. Sau này cháu 10 đời lại lấy con gái vua Trần Thuận Tông). 

Hai ông hóa xong thì đám mây hình ô tự biến đi, quạ bay đến thành đám, mưa gió tự nhiên hết. Gia thần, nhân dân đều ra đến chỗ các ông hóa để làm lễ an táng, nhưng đều thấy mối đã đùn thành mộ. Nhân dân bèn dâng biểu tâu về triều đình. Vua nghe vậy, nhớ tới lời báo trong mộng quả đúng nên rất kinh hãi. 

Vua thân ngự giá về nơi cung ấp, truyền nhân dân lập đền miếu phụng thờ. Lại lập một miếu ở nơi chùa Sùng Ninh thờ Quý Công. Còn Tá thái tử thờ phụng ở đền chính phối thờ cùng cha mẹ cùng các ông được truy hưởng. Hôm ấy (12 tháng 2) việc xong, Vua bao phong hai vị cùng 12 ông mĩ tự cùng áo mũ, truyền các quan cùng nhân dân làm lễ tế, cho phép 4 trang của xã Thời Mại làm nơi hộ nhi, miễn lệ các thuế dịch.

Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa (theo như quyền chính của quân nữ chi ở trên)

Phong Phò Ký Lang Cương nghị Đại vương

Phong Tá thái tử Tràng

Phong Thái Ất thần quan

Phong Thiên Cương thần quan

Phong Áng Na thần quan

Phong Thuỷ thần quan

Phong Đương niên hành khiển thần quan

Phong Gò Phú thần quan

Phong Gò Khắc thần quan

Phong Gò Miếu thần quan

Phong Gò Lôi thần quan

Phong Gò Dòng thần quan

Phong Đương cảnh thành hoàng bản thổ Đại vương.

Trang Đàm Lã xã Thời Mại là nơi thờ trưởng phụng thờ Thái tử nên việc tế khấn có ngọc phả, lưu giữ thần hiệu truyền làm căn cứ. Còn trang Bình Chính, Trung Công, Lan cùng có các tiết làm lễ phụ, hưởng cỗ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng trời đất không mất vậy. Từ đó quốc đảo dân cầu có nhiều điều linh ứng. Mỗi năm hai kỳ xuân thu làm quốc tế. Bốn mùa hương hỏa không ngơi. Sau Lê tiên sinh có thờ rằng:

Tự cổ tòng lai vị kỷ nhân

Thê vi vương tử, tử vi thần

Đồng bào thập nhị giai hiền triết

Vạn cổ lưu truyền tại xã dân

Phụ đức càn khôn giai bất mẫn

Thần công sơn hải tỷ vô ngân

Phu thê phụ tử thiên xuân tại

Danh đức như tư nhật nguyệt tân.

Lại nói, trải Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 349 năm đến khi nước Nam có 4 họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có anh linh hiển ứng, giúp nước cứu dân, nên nhiều thời các đế vương gia phong mĩ tự, hương khói không ngừng. Đến khi Lê Đại Hành dẫn quân phạt Tống, tiến quân đi qua đền (tức cung đền Thời Mại), dừng ở đây một đêm, cầu đảo âm phù giúp nước dẹp được giặc, tới khi thanh bình sẽ bao phong là Thượng đẳng phúc thần. Chúc xong đêm đó vua Lê ngự ở điện chính, nằm mơ bỗng thấy công chúa cùng phò mã và 12 người con là thần quan đều cầm Kim đao, mũ ngọc xán lạn, áo bào giáp rồng huy hoàng, quân mã đường đường tiến đến. Hai vị đều đứng trái phải trước Vua. 12 thần quan đều đứng chầu bên trái phải, quân binh mang áo giáp đứng thành 2 hàng. Vua hỏi rằng:

  • Các vị đến là thế nào?

Trả lời rằng:

  • Thần vốn là phò mã nhà Hùng, nghe vua Lê phạt Tống qua đây gọi trợ chiến, nên dẫn binh mã đến yết kiến.

Dứt lời thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ, biết là có nhiều điều linh ứng. Hôm ấy làm lễ rồi dân quân tiến thẳng, sau dẹp sạch được giặc, vua Lê bao phong mĩ tự Thượng đẳng phúc thần, hưởng lễ vạn cổ, hương khói vô cùng, cùng hưởng vận với quốc gia, thịnh sao!

Phong Nguyệt Cư công chủ Trinh thuận Minh mẫn thần vị

Phong Phò ký Lang Cương nghị Uy dũng Hùng kiệt Đại vương

Phong Tá thái tử Tràng Đại vương.

Còn 11 vị tuân theo như mĩ tự của triều trước, gia phong hai chữ Đại vương. Đền chính hộ nhi của xã Thời Mại mỗi năm hai kỳ quốc tế. Từ Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều vị đế vương truy phong mĩ tự, hương hỏa vô cùng.

Lại nói thời hậu Trần, Giản Định đế khởi nghĩa hưng binh để lập phục lại nhà Trần (là con thứ của Trần Nghệ Tông). Khi đó có quan phò mã là Lý Thái Bảo (cũng là cháu thứ hai đời thứ mười bốn của Tá Thái tử từ Lý Lang Công), đi qua đền trang Đàm Lã, xã Thời Mại, kính nghe rằng đền thờ tổ tiên có tiếng nhiều linh ứng. Khi đó quan phò đang tiến quân truy đuổi Hồ Quý Ly cùng Hán Thương, mới tiến quân đến nơi đền, cầu đảo xin được âm phù để dẹp được họ Hồ, khôi phục lại quốc gia nhà Trần. Sau này được thanh bình xin tâu với vua, tất có bao phong mĩ tự, hưởng lễ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng nhật nguyệt, trường tồn mãi mãi. 

Khi vừa chúc xong bỗng thấy gió to nổi lên thổi thẳng vào trong cung đền, làm gẫy cây, cát đá bay mù mịt, trời đất mờ tỏ. Trong đền nghe tiếng động như tiếng sấm. Phò mã lại làm lễ bái xin. Thì mưa gió tự nhiên dừng lại. Quan phò mã (vì lấy con gái của vua Trần Giản Định) nói với phụ lão nhân dân rằng:

  • Tiên tổ của ta đều rất linh thiêng, tất là vì vận hưng quốc mà âm phù vậy.

Dứt lời hôm đó cất quân thẳng đến đánh một trận với quân Hồ. Quân Hồ thua, chạy tán. Vua Giản Định phục được quốc gia, lên ngôi hoàng đế, bèn gia phong tuân như sắc chỉ của triều trước, lệnh quan đem sắc chỉ về đền (đền Đàm Lã) mà làm lễ tạ. Ch xã Thời Mại được một năm hai kỳ xuân thu quốc tế, lại lập ở trong ấp (tức xã Thời Mại) 7 nơi miếu để cùng phụng thờ. Các chữ húy cùng các tiết sinh hóa và các ngày lệ tiệc khánh hạ cùng các sắc phục được khai cụ thể như sau:

  • Lệ ngày sinh của cha mẹ cùng các ông: làm lễ ở miếu chợ chính sở, cùng xã làm lễ cỗ thịt lợn, xôi, rượu, bánh trôi. Trước đó 1 ngày là lễ tắm rửa. Ca hát một ngày đêm đến mười giờ sáng thì đón trở về các nơi làm lễ.
  • Mồng 3 tháng Giêng chính lệ ngày sinh Thánh mẫu: làm lễ chay 3 mâm, trà, bánh chay, ngũ vị hương, làm lễ tại miếu chính ở cung chợ, lúc thờ đó làm lễ tắm rửa, tới ngày mồng 4 nghênh giá Thánh phụ, Thánh mẫu về cung Thái tử Đàm Lã. Đến mồng 5 dùng lợn đen, rượu ngọt, chọn gia đình vợ chồng song toàn làm lễ. Đến mồng 6 làm lễ thịt lợn, xôi ngũ sắc, hát xoan thì có phường hát của cung tạo lệ 4 xã Phù Khang, ngâm chúc phụng thờ. Sau 3 ngày làm lễ tạ quay về cung miếu. Các giáp phụ giúp tế ở chợ Núi và các miếu ca hát.
  • Mồng 6 tháng Giêng là ngày chính lệ sinh nhật của Thái tử Đại vương: làm lễ ở cung Thái tử Đàm Lã, lợn đen tuyền, chọn gia đình có đủ vợ chồng song toàn, rượu ngọt, xôi, hát xoan do phường của 4 xã tạo lệ huyện Phù Khang cùng đến cung hát vịnh tụng chúc. Ngày Thái tử sinh nhật cũng là ngày khánh hạ của Thánh phụ, Thánh mẫu. 
  • Ngày 11 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: làm lễ lợn đen, xôi, rượu tòa xã tại chính miếu chợ.
  • Mồng 3 tháng 3 là ngày sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn đen, xôi, rượu cùng ca hát ở cung Đàm Lã và Trung Công.
  • {12 tháng 10 ngày lệ sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn, xôi, rượu, ca hát một ngày đêm ở Đàm Lã và trang Lan.
  • 20 tháng 12 là ngày hóa của Đại vương: làm lễ lợn, xôi, cơm, rượu, 7 nơi vọng cung cùng làm lễ, 12 giáp cắt cử người phụ tế ở cung Đàm Lã.
  • 12 tháng 12 là ngày hóa của Thánh mẫu: làm lễ lợn đen, các mâm gà, xôi, cơm, rượu ở cung Đàm Lã, cùng xã phụ tế và các nơi cũng làm lễ.
  • Ngày 10 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: lợn đen, xôi, rượu, cùng xã làm lễ tại chính miếu chợ.}
  • 10 tháng 5 là ngày hóa của hai vị Thái tử và thần bản thổ: lợn, xôi, cơm, rượu làm lễ ở cung Đàm Lã và chùa Sùng Ninh.
  • 10 tháng 8 là ngày khánh hạ sinh thần của Đại vương và ngày phân 12 giáp (12 giáp này đều là gia thần của 12 vị thần quan được Duệ Vương phân làm 12 giáp để phụng thờ): Trước một ngày làm lễ khánh hạ ở miếu cung tại xứ chợ đến ngày 9 thì đón giá về các vọng cung làm lễ lớn, ca hát, đánh cờ. Làm lễ lợn đen, xôi, rượu, bánh dày trắng, mỗi giáp làm bánh dày trắng 100 viên, ngày mồng 8 tế ở chính miếu chợ, ca hát một ngày đêm, quét dọn từ miếu chợ đến các nơi. Mồng 9 các giáp đón về các vọng cung làm lễ, ca hát, đánh cờ. Ngày mồng 10 toàn 12 giáp làm lễ.
  • Khai sắc khánh hạ ngày 10 tháng Giêng: lợn đen, xôi, rượu, ca hát ở cung Thái tử Đàm Lã.

Còn các tiết hai kỳ xuân thu quốc tế đều làm lễ tam sinh, ca hát ở chính xứ miếu chợ (12 tháng 2, 20 tháng 6).

Niên hiệu Hồng Đức thứ nhất, mồng 1 tháng 3.

Các chữ húy: Lang, Tràng, Nguyệt Cư, Tuệ, Dực, Linh, Hải, Thường, Khắc, Thành, Phú, Quý, Kính, Dũng, Lôi, 10 chữ húy nhất thiết cấm. Sắc phục vàng, tía, xanh tuyền nhất thiết cấm.

Còn các lệ nhỏ thì xem ở trong sự tích (làm lễ xôi gà), khi làm lễ thì trang Đàm Lã là trưởng lễ trước, sau lùi.

Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 ngày tốt 10 tháng 5 Quản giám bách thần tri điện Thiếu khanh chức tuân như bản cũ của triều triều mà phụng chép (32 trang).

Niên hiệu Bảo Đại thứ 13 ngày 10 tháng 3, hương lý xã Cao Mại thừa sao phụng.

Đình Cao Mại.

Chạm khắc đình Cao Mại.
Đền Nhà Bà Cao Mại.
Bia đền Nhà Bà Cao Mại.

Ngọc phả chép về hai vị Thiên tử họ Hùng

Thần tích  làng Hạnh Lâm, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Chi Khôn, bộ thượng đẳng thứ 7
Bản chính trong từ đường quan Thượng thư bộ Lễ quốc triều.

Xưa nước Việt ta dựng nền ở phương Nam, cương vực theo sao Ngưu, sao Đẩu. Triều Hùng mở vận, Thánh tổ gây dựng cơ đồ. Vua Kinh Dương Vương từ khi thừa mệnh vua cha ở Bắc triều nhận quyền chủ trị phương Nam, đi tìm xem hình thế sông núi nước Việt, lấy vùng đất đẹp Hoan Châu mà dựng lập kinh đô, lấy vẻ mạnh của nơi Nghĩa Lĩnh mà tu sửa miếu đền. Cha truyền con nối đều lấy Hùng Vương làm tôn hiệu.

Khi Kinh Dương Vương lấy tiên nữ Động Đình là Âu Cơ, ở tại nơi đầu núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ từ đó mang thai, được 3 năm 30 ngày sinh hạ được một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai. Tất cả đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt đời. Đến khi trưởng thành Vua mới phong tước hầu dựng các nơi làm bình phong, chia nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười năm là Quảng Đông.

Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
–    Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên. Tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con nhưng chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc, không thể cùng chung sống. 

Nhân đó mới chia biệt, phân thành trăm họ. 50 người con theo cha về biển là Thủy thần.  50 người con theo mẹ về núi làm Sơn thần. 50 người con về núi phân ra để cai quản trên từ các đầu núi, dưới tới các góc biển. Mỗi đạo có người làm đế chủ quản một phương, cùng hưởng lộc trời, là người chủ trưởng vậy.

Tới thời Huy Vương ở ngôi đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên là Văn Lang, quốc đô tên là thành Phong Châu. Vua đức rộng tài cao, khoan nhận rất mực, kế thừa vận của 6 đời trước, chuyên tâm lấy đức hóa dân, lấy công mà yên trị, cũng có thể đáng gọi là bậc quân vương vậy. 

Khi ấy có một vị đạo quan của bộ Sơn Nam, vốn là dòng dõi trong số 50 người con của một bọc trăm trứng về núi, được phân trị ở Sơn Nam, họ là Hùng, tên Khắc, lấy người trang Tức Mặc, huyện Chân Định, phủ Thiên Trường tên là Trần Thị Huệ, lập làm Chính phi. Vợ chồng tuy là nắm quyền chủ một phương nhưng cố sức làm điều phúc thiện. Tuổi đã ngoài bốn mươi mà điềm cung nỏ, buồm thuyền chưa thấy được nơi cửa huyền. Do đó vợ chồng cố gắng tạo phúc, hết sức làm điều nhân, điều nhỏ cũng vì coi dân như con. Trong năm các lễ thời, thuế khóa nhận được, tất cả đều cho dân, không lấy một điểm nào. Cửa quan không có kiện tụng, giam giữ, sân đường không có roi vọt.

Một hôm chủ bộ quan đi đến nơi đất đầu khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, chợt gặp một người con gái, tuổi độ ba lần tám (24), mặt hoa da phấn, mắt ngọc mày ngài, tỏa vẻ có đức sắc. Chính phi thích nhan sắc ấy bèn triệu tới hỏi danh tính, quê quán. Người con gái trả lời:
–    Thiếp tên là Mỹ Nương, là người khu Hàn Lâm, con gái phú ông họ Nguyễn. Mẹ thiếp mất sớm, hiện sống cùng với cha. Tới nay tuổi đã 24.

Chính phi bèn nói rằng:
–    Người đẹp ắt phải có duyên cầm sắt với người đẹp, có mối tơ hồng định sẵn. Chồng ta là chủ quan Sơn Nam, dòng dõi họ Hùng, tuổi đã cao mà chưa có con sinh dưỡng. Ta là Chính phi, muốn tìm khắp một tiểu nữ có thể có điềm sinh lan xuất huệ, thỏa nguyện bình sinh. Nay ta thấy nàng nhan sắc ngôn ngữ đều không phải người thường. Ta muốn kết nguyện Châu Trần. Không biết ý nàng có ưng không?

Cô gái đó đáp:
–    Phận thiếp bồng bềnh, duyên cầm sắt là do ở Nghiêm đường. Đâu dám tự quyết.

Chính phi bèn loan giá tìm vào nhà ông Nguyễn, hỏi Mỹ Nương cho Chủ quan. Ông Nguyễn vui mừng đồng ý, xem chọn ngày giờ làm lễ sánh duyên, rước về nhiệm sở, lập làm Đệ nhị Cung phi. 

Từ đó loan phượng tình nồng, thư cưu hợp vận. Được quãng nửa năm, một hôm Nương cùng với Chính phi cùng nằm trong buồng chính, mơ màng giấc ngủ. Chính phi bỗng mộng thấy cùng với Nương đến một nơi bốn mặt xung quanh đều là rừng núi rậm rạo. Lại có một con hổ từ hướng Nam đến. Chính phi quay ra sau, lại thấy một con hổ từ hướng Bắc tới. Hai con hổ cùng giao đấu. Các nàng đều muốn cứu một con hổ. Trong mộng ảo mới thấy hai con hổ hóa thành hai cậu thanh đồng. Một cậu chạy nhập vào Chính phi, một cậu chạy nhập vào Mỹ Nương. Bất chợt kinh sợ mà tỉnh giấc. Đem chuyện trong mộng nói với Chủ quan. 

Chủ quan vui mừng rằng:
–    Hổ thay! Hổ thay! Hổ là điềm rất tốt. Nàng mơ thấy như vậy tất nhiên nàng cùng với Mỹ Nương có điềm sẽ mang thai.

Lời nói được một ngày, quả nhiên Chính phi cùng với Đệ nhị cung cùng có mang. Mang thai được 12 tháng, tới năm Đinh Hợi, tiết mùa đông ngày 10 tháng 11, giờ Dần 1 khắc Chính phi sinh được một người con trai. Giờ Dần 6 khắc Đệ nhị cung phi cũng sinh được một con trai. Dáng rồng thân hổ, mắt phượng mày tằm, ngũ nhạc cùng chầu, tam đình bằng phẳng, thân dài tám thước, tai trắng mày xanh, tai dài quá gối, thật là khác người thường.

Sinh được trăm ngày người bố là Chủ bộ quan cùng Chính phi và Đệ nhị cung phi, với hai con trai vào gặp vua Huy Vương. Vua mở tiệc mừng lớn, lại nói với Chủ bộ quan rằng:
–    Hai đứa cháu đẹp đẽ này đúng là dòng dõi tông phái gia tộc. Trẫm nay đặt tên cho cháu trưởng là Minh Gia, cháu thứ là Minh Tông, để làm rạng nghĩa của dòng dõi gia tông. 

Chủ bộ quan nhận mệnh, cảm tạ. Xong việc lại trở về nhiệm sở Sơn Nam. Chưa được một năm Chủ bộ quan lại lấy tiền đem về khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc cho xây dựng một cung điện để hai người con Minh Gia, Minh Tông khi lớn lên sẽ ở đó. Xây cung xong lại trở về nhiệm sở.

Than ôi, sự biến đến thật vô thường! Là vận trời vậy sao? Trong 3 năm Chủ bộ quan cùng Chính phi và Mỹ Nương đều theo nhau mà mất. Minh Gia, Minh Tông kêu góc vang trời, nhưng tình thế không thể làm sao được. Lần lượt làm lễ chôn cất. Hương lửa tế lễ trong nhà theo như nghi thức.

Khi sự hiếu đã xong, hai ông tuổi đã 21. Hai ông vốn thiên tư thông minh, học tuy ít nhưng biết rộng cổ kim, hiểu khắp trời đất. Tuổi 25 vua Huy Vương cho phép kế chức của cha nhận quản đạo Sơn Nam. Người anh lmà Minh Gia Thiên tử. Người em làm Minh Tông Thiên tử. Hai vị Thiên tử cảm tạ, trở về, tới cung ở khu Hàn Lâm thì ở lại đó, khuyến khích nghề nông tang, tăng lợi trừ hại, lại cho dân Hàn Lâm được miễn việc phục dịch binh dong, tô thuế, để làm dân đất thang mộc sau này khi hai vị Thiên tử đã trăm tuổi. Thật là có công lớn với khu Hàn Lâm vậy.

Lại nói, khi đó đất nước có giặc Ân phương Bắc là Thạch Linh Thần tướng dẫn trăm vạn hùng binh đến xâm lược.  Giáo giáp khắp trời, cờ xí rợp đất. Biên cương gửi thư báo gấp. Vua rất lo lắng, bèn lập đàn cầu đảo trời đất và bách thần. Vua tự mình đến ở nơi đàn cầu đảo. Sau 3 ngày bỗng thấy có mưa gió sấm chớp nổi lên. Có một ông lão cao hơn 9 thước, ngồi ở đường lớn, cười nói nhảy múa. Mọi người thấy vậy đều cho là lạ. Dân vào tâu Vua. Vua thân đón ông lão vào trong đàn, mời ngồi trên, rồi hỏi:
–    Nay có giặc phương Bắc đến xâm lấn. Thắng bại như thế nào, xin được chỉ giáo.

Ông lão suy nghĩ hồi lâu đắn đo mưu kế, rồi nói với Vua rằng:
–     Nay hoàng gia đang có hai vị thần hổ đầu thai, hiện là chủ tể đất Sơn Nam, chính thuộc tông phái của hoàng gia. Những người này có thể gấp cho dẫn binh chống giặc trước. Sau đó cho sứ giả đi tìm trong thiên hạ để cầu được người tài. Như thế giặc phương Bắc chắc chắn có thể bình được.

Vua bèn sai sứ đến khu Hàn Lâm, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng gấp triệu hai vị Thiên tử về triều, dẫn quân chống giặc phương Bắc. Một mặt sứ giả đi chiêu mộ các nơi trong thiên hạ. Sứ giả vâng mệnh đi tìm mộ người tài. Một hôm đi đến làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh, đạo Kinh Bắc. Trước đó, làng Phù Đổng có một nhà giàu sinh được một người con trai tên là Thiết Xung Thần vương. Tuổi đã lên 3 mà chỉ biết nằm ngửa, ăn uống mà lớn, nhưng không biết cười nói. Đến khi nghe lời kêu gọi của sứ giả bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, mở miệng nói với mẹ rằng:
–    Mẹ hãy gọi sứ giả đến đây.

Thần vương nói với sứ giả:
–    Nhà ngươi mau về báo với Vua cho làm một con ngựa sắt, một chiếc nón sắt, một cây roi sắt. Giặc Bắc Vua sẽ không phải lo lắng gì nữa.

Sứ giả nghe lời vội về triều, tâu với Vua. Vua nghe vậy rất mừng, bèn gấp truyền lệnh cho thợ thu thập sắt đúc thành ngựa sắt cao mười thước, nón sắt rộng một ôm tay, roi sắt dài một trượng, chở tới cho Thần vương. Thần vương hét to lên mấy chục tiếng, tự nhiên thân vươn cao 18 thước, làm một bữa no say xong Thần vương nhảy thẳng lên ngựa, dõng dạc nói:
–    Ta đến đây!

Ngựa chạy như bay đến thẳng chân núi Trâu, quận Vũ Ninh. Thần vương lấy cờ chỉ vào. Thạch Linh Thần tướng tự nhiên ngã lăn ra mà chết. Còn lại các dư đảng chưa kịp diệt mà roi sắt đã bị rơi mất. Thần vương bèn túm bụi tre non cùng với hai vị Thiên tử đánh một trận lớn. Giặc Bắc đều đại bại mà chạy và chết vô số. Từ đó, giặc phương Bắc không dám đến xâm lấn.

Hai vị Thiên tử cùng với Thần vương cưỡi ngựa thẳng đến núi Ninh Sóc. Thần vương bay lên trời mà đi. Hai vị Thiên tử cũng theo đó mà hóa (khi đó là ngày 15 tháng 12). Sau khi hai vị Thiên tử cùng với Thần vương đã hóa, vua Huy Vương nhớ tới công lao lớn với đất nước bèn phong tặng cho Thần vương là Phù Đổng Thiên Vương, cho trăm mẫu ruộng để làm ruộng thờ phụng. Cho làng Phù Đổng lập miếu thờ cúng. Lại cho khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc được miễn các quân dịch, tô thuế để phụng thờ hai vị Thiên tử, các kỳ xuân thu đều có quốc tế, bốn mùa hương đèn, vạn đời không dứt.

Một vị Minh Gia Thiên Tử
Một vị Minh Tông Thiên Tử
Chuẩn cho khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc thờ phụng.

Lại nói từ đó về sau tới Đinh, Lý, Trần, Lê đều có giúp nước cứu dân, vốn xưa có nhiều đế vương phong tặng mỹ tự để vạn năm hưởng lộc, cùng với trời đất mãi còn. Mãi vậy! Tốt thay!

Phụng thờ mở các tiệc sinh, hóa cùng với các chữ húy nhất thiết cấm là hai chữ Gia, Tông, cùng với các sắc phục hai màu hồng và tía.
Ngày sinh thần là mồng 10 tháng 11, lễ dùng trên cỗ chay, dưới cỗ thịt trâu, rượu, ca hát 3 ngày.
Ngày hóa thần là ngày 15 tháng 12, lễ dùng lợn đen tuyền, xôi, bánh, cơm.
Ngày hội khánh hạ mồng 10 tháng 2, lễ dùng lợn, gà, xôi, rượu, ca hát 3 ngày.
Ngày hội khánh hạ mồng 10 tháng 8, lễ dùng cỗ thịt trâu, ca hát 3 ngày.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất, tháng đầu thu, ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hữu thứ 8, tháng cuối thu, ngày tốt, Quản giám bách thần, Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần là Nguyễn Hiền lại tuân theo bản chính của tiền triều phụng sao.