Lịch sử qua những lớp thành ở Cổ Loa

Theo bài công bố của các chuyên gia khảo cổ đăng trên báo Tia Sáng về kết quả khai quật tại thành Cổ Loa gần đây thì có những phát hiện mới về tòa thành sớm nhất và quy mô nhất Đông Nam Á này như sau:
Thứ nhất là phát hiện lớp văn hóa Đông Sơn nằm dưới thành do An Dương Vương đắp, trong hố khai quật thành Trung năm 2007-2008. Trong lớp văn hóa Đông Sơn ở đây, cùng với đồ gốm, hiện vật sắt, đã phát hiện được di tích phòng thủ có quy mô nhỏ hơn và khác phương vị với thành Cổ Loa của An Dương Vương. Di tích có cấu trúc (từ ngoài vào trong) là: Hào -Tường thành – Hào – Vọng gác + tường chắn. Trong nền của vọng gác còn phát hiện được di tích bếp lửa, hiện vật sắt và gốm Đông Sơn.
Phát hiện thứ hai là nền gia cố bằng đất gốc trước khi đắp thành trong hố khai quật thành Ngoại năm 2012.
Phát hiện thứ ba trong hố khai quật thành Ngoại năm 2012 tại xóm Thượng. Theo các chuyên gia khảo cổ học Nhật Bản, có một số hiện tượng lạ trong cấu trúc của đất đắp thành có thể là dấu vết của hiện tượng động đất. Vấn đề này đang tiếp tục được nghiên cứu. Nếu hiện tượng động đất được xác nhận, cũng đồng thời xác nhận cốt lõi của truyền thuyết thần Kim Quy/ Thanh Giang xứ được Huyền Thiên Trấn Vũ sai xuống giúp An Dương Vương khắc phục hiện tượng “thành cứ xây xong lại đổ”.
Phát hiện thứ tư gần đây nhất (2014) trong hố cắt thành Nội và ụ hỏa hồi tại thôn Hương đã phát hiện được di tích gốc của thành Nội và ụ hỏa hồi trong cùng bình diện xuất lộ, nằm dưới mặt thành Nội hiện nay khoảng trên 2m. Đây là phát hiện quan trọng khẳng định An Dương Vương đã đắp cả 3 vòng thành và hệ thống ụ hỏa hồi trong hệ thống thành Nội cũng được An Dương Vương đắp cùng với thành Nội.

Co Loa A3

Các giai đoạn đắp thành Trung và công trình phòng thủ sớm. Ảnh: Lại Văn Tới.

Như thế kết quả khảo cổ ở Cổ Loa cho thấy tòa thành này đã qua 2 lần xây dựng khác biệt. Lần sớm nhất là một công trình phòng thủ gồm Hào – Tường thành – Vọng gác có quy mô nhỏ. Lần thứ hai mới là lần xây thành có 3 lớp như còn thấy tới nay. Ở lần thứ hai này việc xây thành được tiến hành tới 4 giai đoạn đắp đất khác nhau. Và đặc biệt có dấu hiệu về sự xáo trộn các địa tầng, nhiều khả năng là do động đất khá mạnh trong thời gian xây thành.
Những dữ kiện khảo cổ trên là minh chứng cho nhận định Cổ Loa chính là Lạc Ấp – Đông Đô của nhà Chu. Thành Lạc Ấp của nhà Chu đầu tiên do Chu Công xây dựng làm nơi an trí đám ngoan dân của nhà Ân sau khi ông dẹp loạn Vũ Canh. Truyền thuyết Việt chép là sau khi Thánh Dóng diệt giặc Ân thì có Linh Lang đại vương đánh giặc Vĩnh Trinh, yên ổn đất nước. Chu Công cũng là tướng Cao Lỗ của truyền thuyết Việt, tương truyền là người đã xây thành Cổ Loa.
Tới khi nhà Chu dời đô từ Hạo Kinh về Lạc Dương thì Cổ Loa trở thành kinh đô của thời Đông Chu. Truyền thuyết Việt chép là An Dương Vương dời đô về đất Lạc, xây kinh thành ở đây.
Các nhà khảo cổ đã nhận định chính xác rằng trận động đất là cốt lõi của chuyện Huyền Thiên Trấn Vũ cử thần Kim Quy đến giúp An Dương Vương khắc phục việc “thành cứ xây xong lại đổ”. Nguyên nhân thành đổ là do động đất, dẫn đến việc phải đắp thành tới 4 lần như khảo cổ địa tầng thành Cổ Loa cho thấy.
Cụ thể hơn, Huyền Thiên Trấn Vũ ở Cổ Loa chính là Lão Tử như thần tích ở làng Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang) ghi nhận, là người đã giúp An Dương Vương diệt Bạch Kê tinh đắp thành. Câu đối ở cửa võng đình Thổ Hà, nơi thờ Lão Tử (Thái Thượng Lão Quân):
Quy giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỷ
Long năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên.
Dịch:
Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỷ
Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên.
Sách Lão Tử minh chép về hành trạng của Lão Tử như sau:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng Tam Xuyên bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.
Cơn địa chấn thời Chu U Vương – Chu Bình Vương ở vùng Tam Xuyên chính là nguyên nhân làm cho thành Lạc Dương – Đông Đô ở Cổ Loa “cứ xây xong lại đổ”. Vì Chu U Vương say mê Bao Tự, gây chuyện đốt lửa Ly Sơn hiệu triệu chư hầu làm trò đùa, mua tiếng cười cho Bao Tự mà nhà Chu đi vào chỗ suy thoái, buộc phải dời đô từ phía Tây sang Đông. Lão Tử là một vị “pháp sư” của triều đình nhà Chu lúc đó, đã nhân thành Đông Đô cứ xây lại đổ do động đất, bày đàn tế trời, lấy sự việc các vua đời trước (Hạ, Thương) để khuyên răn vua Chu (lúc này là Chu Bình Vương) biết làm theo lẽ trời, tôn trọng ý dân, giữ gìn sức nước. Đây mới là công nghiệp chính của Lão Tử đối với quốc gia.
Đoạn dữ liệu trên của Lão Tử minh cũng cho một thông tin quan trọng: khu vực Lạc Dương của nhà Chu còn gọi là vùng Tam Xuyên. Tam Xuyên là tên quận thời Tần, lập ra trên đất của nhà Chu. Điều này thêm một lần nữa xác nhận vùng Bắc Việt ngày nay chính là đất Đông Chu thời trước Công nguyên.

Những đồng tiền cổ của thiên hạ Trung Hoa trên đất Việt

PGS. TS. NGND. Hoàng Văn Khoán, chuyên gia hàng đầu Việt Nam hiện nay về cổ tiền học, đã giới thiệu “một số đồng tiền Trung Quốc thường gặp ở Việt Nam” trong cuốn sách Thức dậy từ quá khứ mới in của mình (2018), gồm các loại như sau:

Bố tiền (tiền hình thuổng – xẻng):
Không thủ bố. Hai mặt có chữ Tam xuyên cân 三川釿. Niên đại: Xuân Thu – Chiến Quốc, Sở đến Chu, Tấn.
Kiều túc bố. Hai mặt có chữ Ngu nhất cân 虞一釿. Niên đại: Xuân Thu trung kỳ, đúc trên đất Ngụy.
Trường bố. Mặt trước có chữ Thù bổ dương cân 殊布當釿. Mặt sau có chữ Thập hóa 十貨. Phát hiện trên đất Sở.
Kiều túc bố. Mặt trước có chữ An ấp nhất cân 安邑一釿. Mặt sau có chữ An 安. Phát hiện trên đất Ngụy.
Tam khổng bố. Mặt trước có chữ Dư 余. Mặt sau có chữ Nhất lạng 一两. Phát hiện trên đất Lỗ, Tề, Tấn, Sở, Tống, Vệ, Trần, Thái, Tào, Trịnh, Yên thời Chiến Quốc (Xuân Thu?) Đông Chu, 841-756 TCN, Tống 765 – 476 TCN.
Tam khổng bố. Mặt trước có chữ Nam hành đường 南行唐. Mặt sau có chữ Thập nhị chu 十二朱. Tiền đúc trên đất Triệu thời Chiến Quốc 442 – 111 TCN.

Đao tiền (tiền hình dao):
Tề quan hóa 齊官化. Tiền chỉ lưu thông ở thành Lâm Chung, kinh đô nước Tề.
Tam tự đaoTriệu đao. Tiền nước Triệu.
Yên Minh đao. Một mặt có chữ Minh 明. Tiền nước Yên.
Đao tiền. Thời kỳ Chiến Quốc (trong mộ Việt Khê, Hải Phòng).
Lục tự đao. Tiêm thư đao. Chiết khánh đao. Tiêm đao.

Hoàn tiền (tiền tròn có lỗ tròn):
Thử viên nhất cân 黍垣一釿. Tiền nước Ngụy.
Tiền tròn có chữ Viên 垣. Tiền nước Ngụy.
Tiền tròn có chữ Cộng Tiền nước Ngụy.


Vài hình ảnh cho các đồng tiền có tên trên (ảnh của trang bachviet18.com):

Tam khổng bố Dư Nhất lạng
Tam khổng bố có chữ Dư và Nhất lạng.
Te quan hoa
Tề quan hóa.
FullSizeRender
Yên Minh đao.

Thử viên nhất cân
Thử viên nhất cân.

Dao tien Viet KheĐao tiền trong mộ Việt Khê, Hải Phòng.

Vấn đề nổi lên là: Tại sao những bố tiền, đao tiền, hoàn tiền của các nước Triệu, Tề, Yên, Sở, Ngụy lại có “thường gặp” trên đất Việt Nam? Theo chính sử thì mãi tới thời Tần nước ta mới bị Tần chiếm đánh. Còn sau khi Tần thống nhất thiên hạ đã thực hành “xa đồng trục, thư đồng văn”, loại bỏ tiền của các nước cũ, dùng tiền tệ thống nhất là đồng tiền Bán Lạng. Vậy làm thế nào mà các nước Triệu, Ngụy, Yên, Tề ở tận Bắc sông Hoàng Hà từ 300-500 năm TCN lại đã có “giao lưu” tiền tệ với vùng Bắc Việt? Sự “giao lưu” của vùng Bắc Việt với các nước chư hầu thời Xuân Thu Chiến Quốc là như thế nào?
Sự hiện diện của những hiện vật khảo cổ – tiền cổ ở Việt Nam cho thấy, không có cách giải thích nào khác là: vùng Bắc Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc nằm cùng trong một khu vực “giao thương” chung của cả Trung Hoa. Tức đây là một trong các nước thời Đông Chu. “Nước ta” đã biết dùng tiền trong thương mại, tức là đã dùng văn tự (chữ trên tiền). Vậy “nước ta” lúc đó là nước nào trong số các chư hầu của nhà Chu?

Ngoài những đồng tiền “thường gặp” trên, ở Việt Nam còn phát hiện một số đồng tiền sau:
Bo tien Dong Chu
Bố tiền mặt trước có chữ Đông Chu 東周, mặt sau có chữ Vương cát 王吉.

Hoàn tiền Đông Chu 東周 và Tây Chu 西周
Nếu nước ta lúc đó không phải Tần, Triệu, Ngụy, Yên, Tề,… thì phải chăng khu vực Việt Nam ngày nay chính là nước của nhà Chu thời kỳ này?

Những đồng tiền cổ tìm thấy ở Việt Nam chứng tỏ một cách rõ ràng rằng khu vực Việt Nam thời Xuân Thu Chiến Quốc nằm cùng trong một thiên hạ Trung Hoa, cùng chung một loại tiền tệ, chữ viết. Hơn nữa, khu vực Bắc Việt có thể chính là nước Chu, thiên tử của cả thiên hạ phương Đông.

Những vị pháp sư thời Lý

Về sự tích của thiền sư Từ Đạo Hạnh thời Lý câu đối ở nội điện chùa Thầy (Sài Sơn) khái quát như sau:
弌杖顯神機卓錫圓成柴石峒
再生承帝統鴻圖葉繫李蓮花
Nhất trượng hiển thần cơ, trác tích viên thành Sài thạch động
Tái sinh thừa đế thống, hồng đồ diệp hệ Lý liên hoa.
Dịch:
Một gậy tỏ phép thần, chót vót thành toàn Sài động đá
Tái sinh nối dòng đế, mênh mông tiếp dõi Lý hoa sen.
Câu đối nói tới việc Từ Đạo Hành tu hành đắc đạo ở núi Sài, dùng tích trượng đánh chết kẻ thù là Đại Điên, trả thù cho cha, sau đó đầu thai thành con của Sùng Hiền Hầu, nối dõi cho nhà Lý, tức là vua Lý Thần Tông. Nội điện (chùa Thượng) của chùa Thầy thờ Từ Đạo Hạnh ở cả 3 ngôi: thánh, phật và đế.

IMG_2395Nội điện chùa Thầy.

Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không trong Lĩnh Nam chích quái chép:
Xưa ở làng Đàm Xá, huyện Đại Hoàng (còn có tên là Gia Viễn) đất Trường An có người tên là Nguyễn Chí Thành ở chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không quốc sư, lúc ít tuổi đi du học, gặp Đạo Hạnh, học được đạo giáo, trải hơn mười năm. Đạo Hạnh thấy người tiết tháo bèn truyền tâm ấn, lại đặt tên cho.
Theo truyện này thì thiền sư Nguyễn Minh Không là học trò của Từ Đạo Hạnh, là người sau này đã giải kiếp nạn hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Điều này được xác nhận hơn qua phát hiện Nguyễn Minh Không là vị pháp sư đã diệt thần hổ Xương Cuồng cùng đoạn tạp kỹ diễn các trò nhảy, lăn, phi, vỗ tay, hò hét…  Các thánh tượng (tượng đầu gỗ) trong trò rối Ổi Lỗi là dấu tích của sự kiện này. Từ Đạo Hạnh được coi là tổ của nghề múa rối, tức là “pháp thuật” biểu diễn mà Nguyễn Minh Không đã dùng diệt thần hổ Xương Cuồng là được truyền từ Từ Đạo Hạnh.
Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải của trong Lĩnh Nam chích quái lại kể, có hai vị thiền sư là người huyện Hải Thanh, đánh cá trên sông rồi cùng tu với nhau là Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải. Sư Giác Hải đã có dịp vào kinh và cùng Thông Huyền đọc thần chú diệt trừ đôi tắc kè trong cung, được vua Lý Nhân Tông làm bài thơ khen tặng:
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo diệc huyền
Thần thông kiêm biến hoá
Nhất Phật, nhất thần tiên.
Trong khi đó ở chùa Thầy có tượng thờ Nguyễn Minh Không và Giác Hải với sự tích rằng đây là những người đã cùng đi học Phật với Từ Đạo Hạnh. Câu đối ở chùa Thầy (Sài Sơn):
覺海心如海赫赫英靈真妙法
通玄道亦玄洋洋顯跡到今傳
Giác Hải tâm như hải, hách hách anh linh chân diệu pháp
Thông Huyền đạo diệc huyền, dương dương hiển tích đáo kim truyền.
Dịch:
Giác Hải lòng như biển, rõ rệt anh linh thực phép lạ
Thông Huyền đạo càng tuyệt, mênh mông dấu tỏ tới nay truyền.
Như vậy trong chuyện này có tới 5 vị thiền sư: Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không và Thông Huyền. Mối quan hệ giữa các vị thiền sư đời Lý này với nhau rất chồng chéo, khó sắp xếp cho hợp lý.

IMG_2363Ban thờ Lý Thần Tông ở chùa Thầy.

Về pháp sư Thông Huyền thì trong Sự tích đức thánh tổ cụ Đặng Xuân Bảng ở làng Hành Thiện (Nam Định) cho biết: Thông Huyền là biệt hiệu của Đức Thánh Tổ (Dương Không Lộ hoặc Nguyễn Minh Không – thánh tổ thờ ở làng Hành Thiện).
Để phân định vai trò và nhân vật giữa các vị thiền sư này, cần nhắc lại rằng cái tên gọi Không Lộ vốn không phải là tên của 1 người, mà là của một giáo phái gồm các pháp sư thời Lý. Không Lộ cũng là tên để gọi giáo chủ của giáo phái đó. Vì thế có ít nhất 2 người đã đảm đương chức giáo chủ Không Lộ này ở 2 thời gian khác nhau. Một là Dương Không Lộ người Hải Thanh (Thái Bình). Hai là Nguyễn Minh Không người Đàm Xá ở Hoa Lư.
Theo tượng thờ ở chùa Thầy (Sài Sơn) thì Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không (ở đền Lại Trì – Thái Bình chép là Dương Không Lộ) và Giác Hải thiền sư cùng nhau đi tìm học Phật và đắc đạo. Điều này có thể hiểu nghĩa là ba người này đã cùng sáng lập ra giáo phái pháp sư Không Lộ. Thử  sắp xếp thứ tự các vị giáo chủ phái Không Lộ thời Lý như sau:
– Vị giáo chủ đầu tiên của giáo phái là Dương Không Lộ, người Hải Thanh, còn có biệt hiệu là Thông Huyền.
– Giác Hải thiền sư có vẻ không từng đảm đương chức vụ giáo chủ, nhưng ông là một trong những người đồng sáng lập giáo phái cùng với Dương Không Lộ ở miền Hải Thanh.
– Từ Đạo Hạnh tương tự, có vai trò sáng lập nhưng không từng làm giáo chủ, vì như đã biết, ông quay về kinh đô để trả thù cho cha và giúp nhà Lý có con nối dõi.
– Vị giáo chủ tiếp theo sau Dương Không Lộ là Nguyễn Minh Không, người quê Ninh Bình, là người đã chữa bệnh cho hậu thân của Từ Đạo Hạnh (vua Lý Thần Tông) hóa hổ.
3 người đi Tây Trúc học Phật có lẽ là 3 vị đầu: Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ và Giác Hải. Còn Nguyễn Minh Không thuộc thế hệ sau, được truyền pháp từ Từ Đạo Hạnh hoặc từ Dương Không Lộ.

IMG_2456Cầu Nhật Tiên và đền Tam phủ trong quần thể di tích chùa Thầy ở Sài Sơn.

Một điều chú ý thêm là giáo phái này có thể đã lấy Tam phủ làm thần điện để tu và thờ cúng. Ở chùa Thầy tại Sài Sơn, là nơi tu hành và hóa của Từ Đạo Hạnh, có đền Tam phủ ở ngay trước chùa (ngoài hòn đảo trên hồ, đi qua cầu Nhật Tiên). Đền này thờ đúng 3 vị là Ngọc Hoàng, Diêm Vương và Long Vương.
Tương tự, ở Bắc Ninh (Cao Đức, Gia Bình) có đền Tam phủ hay gọi là đền Ba Vua thờ các vua Thiên phủ, Địa phủ và Thủy phủ. Đền này cũng thờ cả Dương Không Lộ vì nơi đây gần chùa Phả Lại (Quế Võ, Bắc Ninh), là nơi do Không Lộ thiền sư từng trụ trì và tu hành.
Ở làng Hành Thiện (Nam Định), nơi từng là “trụ sở” của phái Không Lộ (chùa Keo) cũng có miếu Tam phủ. Theo cụ Đặng Xuân Bảng thì miếu này thờ 3 vị Thiên phủ Chủ thiên Thánh đế, Địa phủ Diêm la Thánh đế và Thủy phủ Bát hải Long vương.

IMG_1939Chính điện Tam phủ linh từ ở Lục Đầu.

Như vậy, ở thời Lý, Tam phủ nguyên gốc chưa hề có các vị mẫu thẫn. Điều này khá rõ ràng vì lúc đó thánh mẫu Liễu Hạnh còn chưa xuất thế. Tam phủ nguyên gốc là hình thức thần điện của các pháp sư (đạo sĩ) từ thời Lý thờ đại diện của Tam tài: Thiên – Địa – Nhân, trong đó Thủy phủ đại diện cho nhân sinh.

Từ cô Tấm đến thánh Láng

Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không trong Lĩnh Nam chích quái kể:
Ông họ Từ tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, cha tên là Vinh, làm chức tăng quan đô sát ở triều Lý, thường qua chơi làng An Lãng, lấy con gái người họ Lỗ tên là Loan, nhân thế ở lại đó. Lộ tức là con bà họ Lỗ vậy. Thuở niên thiếu, thích giao du hào hiệp, phóng khoáng, có chí lớn, hành động ngôn ngữ không ai có thể lường được, thường cùng kẻ nho giả Mãi sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người con hát là Phan Ất kết bạn. Đêm thì mải miết đọc sách, ngày thì thổi sáo đánh cầu, vui sự chơi bời. Cha mẹ thường trách là trễ nải, một đêm ghé dòm qua khe cửa vào trong phòng thấy ngọn đèn gần tàn, sách vở chồng chất, Lộ gục xuống án mà ngủ, tay vẫn chưa rời khỏi sách; do đó cha mẹ không còn lo nghĩ nữa. Sau Lộ dự kỳ thi tăng hương thí, đỗ khoa Bạch Liên.

Chua Nen

Chùa Nền ở Láng Thượng, Hà Nội, nơi sinh của thánh Láng Từ Đạo Hạnh.

Không bao lâu, cha dùng tà thuật làm phật ý Diên Thành hầu, Diên Thành sai Đại Điên thiền sư dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Xác trôi tới cầu An Quyết, đến trước cửa nhà Diên Thành hầu, hốt nhiên đứng dựng lên ở đấy suốt một ngày không trôi đi. Diên Thành hầu sợ hãi nói với Đại Điên, Đại Điên đến và hét lên rằng: “Người đi tu không được phép giận quá một ngày”. Dứt lời thây đổ xuống mà trôi đi.
Lộ nghĩ việc báo thù cho cha nhưng chưa nghĩ ra mưu kế. Một hôm, rình Đại Điên ra ngoài, gây sự định đánh, bỗng nghe thấy trên không trung có tiếng thét ngăn lại. Lộ sợ hãi quăng gậy mà đi. Muốn sang chùa ấn Quốc cầu phép lạ để đánh Điên, đường đi qua đất rợ Kim Sỉ (răng vàng) thấy hiểm trở bèn quay về, ẩn cư ở núi Phật Tích, thường ngày đọc kinh Đại-bi-đà-la, đọc trọn mười vạn tám nghìn lần. Một hôm, thấy có thần nhân đến trước mặt mà nói rằng: “Kẻ đệ tử tức là Trấn Thiên Vương, cảm phục thày có công trì kinh nên lại đây để thày sai khiến”. Lộ biết là đạo pháp đã thành, thù cha có thể rửa, bèn thân đến cầu An Quyết, cầm cây gậy chống ở tay ném xuống dòng nước chảy xiết. Gậy đi ngược dòng nước tới cầu Tây Dương thì dừng lại. Lộ mừng mà nói rằng: “Phép của ta thắng được Đại Điên rồi!” Bèn đến thẳng chỗ Điên ở, thấy Điên nói rằng: “Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?” Nói rồi nhìn lên không trung, tịnh không thấy gì, bèn đánh liền. Điên phát bệnh mà chết….
Khi ấy vua Lý Nhân Tông không có con, tháng ba năm Hội tường Đại khánh thứ 3, có người ở phủ Thanh Hoa nói rằng: “ở bãi bể có đứa trẻ kỳ lạ, mới khoảng lên ba, tự xưng là hoàng đế, lấy hiệu Giác Hoàng, phàm vua làm điều gì đứa trẻ ấy cũng biết, đó chính là Đại Điên hóa sinh”. Vua sai quan trung sứ tới xem, thấy đúng như lời nói, bèn đón về kinh sư, cho ở chùa Báo Thiên. Vua thấy đứa trẻ thông minh, rất lấy làm yêu dấu, muốn lập làm kẻ kế tự, quần thần đều cố khuyên can là không thể được, và nói: “Nếu kẻ kia thực là linh dị, tất phải thác sinh ở nơi cung cấm, sau mới có thể lập được”. Vua nghe theo. Bèn mở đại hội bảy ngày đêm cho đầu thai.
Pháp Lộ nghe tin, nói với chị gái rằng: “Đứa trẻ kia là yêu tà mê hoặc người ta quá đáng. Ta há chịu ngồi yên mà không cứu, để nó làm mê hoặc lòng người, rối loạn chính pháp sao?”. Nhân sai chị gái giả đò làm người đi xem hội, mật đem mấy tấm bùa của Lộ treo ở trên rèm. Hội tới ngày thứ ba thì Giác Hoàng bị bệnh nói với mọi người rằng: “Khắp biên giới trong nước đều có lưới sắt vây che, tuy muốn thác sinh, sợ không có lối vậy”. Vua nghe có kẻ phá mất bùa chú, bèn sai người đi tìm, quả nhiên bắt được Lộ ở Hưng thánh lâu, trói lại, họp quần thần lại để xét xử. Vừa lúc đó Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Lộ năn nỉ nói: “Xin ra sức cứu bần tăng khỏi phải chịu tội, ngày sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công đức này”. Hầu gật đầu.
Sau ngày hội, quần thần tâu với vua rằng: “Bệ hạ vô tự, nên cầu kẻ kia thác sinh, thế mà tên Lộ cuồng dại dám tự ý giải chú, thật là đắc tội”. Hầu tâu rằng: “Thiết tưởng nếu Giác Hoàng có thần lực thì tuy có trăm tên Lộ giải chú, há đâu có hại được ru? Nay lại trái hẳn, Lộ hơn hẳn Giác Hoàng, thần trộm nghĩ nếu như giết, chẳng thà cho nó thác sinh”. Vua bằng lòng. Lộ đến thẳng phủ đệ nhà Hầu, nhằm chỗ phu nhân tắm, nhìn khắp cả. Phu nhân giận quá, mách với Hầu. Hầu vốn hiểu ý, để mặc không hỏi đến. Phu nhân vì thế có thai. Lộ dặn Hầu rằng đến lúc phu nhân lâm bồn phải báo cho biết trước. Đến kỳ lâm bồn, Lộ được người báo tin, bèn tắm rửa thay quần áo, bảo học trò rằng: “Mối túc nhân của ta chưa hết, phải thác sinh lần nữa ở đời, tạm làm đế vương, kíp đến khi già chết làm nhị thập thiên tử. Nếu thấy thân thể tan ra đất, đó là ta đã thâm nhập vào bùn đất không còn ở trong cõi sống chết nữa”.
Học trò nghe nói, ai cũng cảm động sụt sùi. Lộ đọc kệ rằng: Thu tới, không cho chim nhạn báo trước, Cười nhạt mà nhìn nhân gian đau xót. Khẽ bảo bọn môn nhân chớ nên luyến tiếc, Thày xưa mấy độ hóa thày nay. (dịch ý) Đọc dứt, nghiễm nhiên mà hóa. Hầu phu nhân bèn sinh con trai, đặt tên là Dương Hoán. Khi lên ba, vua nhân tông nuôi ở trong cung, lập làm hoàng thái tử. Nhân Tông băng hà, thái tử tức vị, ấy là vua Thần Tông do Lộ thác sinh ra vậy. Hình xác Lộ nay còn ở hõm đá trong chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, huyện Ninh Sơn…

Tien dinh chua Lang

Chùa Láng, Hà Nội.

Câu đối ở chùa Láng (Hà Nội):
生化何年仙是帝
英靈此地聖而神
Sinh hóa khả niên tiên thị đế
Anh linh thử địa thánh nhi thần.
Dịch:
Sinh hóa năm nào tiên chính đế
Linh thiêng đất đó thánh là thần.

Từ Đạo Hạnh là một trong những vị thần bất tử trong tín ngưỡng dân gian, được biết với chuyện trả thù cho cha và đầu thai thành Lý Thần Tông. Tuy nhiên, tại sao một vị thánh tổ Phật giáo lại nặng nghiệp trả thù, rồi tranh đầu thai để làm vua như thế? Công nghiệp thực sự của Từ Đạo Hạnh là ở chỗ nào?
Để lý giải câu chuyện của Từ Đạo Hạnh phải bắt đầu từ vị pháp sư Đại Điên, đối thủ của Từ Đạo Hạnh trong truyện trên. Đại Điên là ai mà lại dám giết cả Tăng đô sát của triều đình (Từ Vinh) và còn định đầu thai làm con vua (Giác Hoàng) nữa?
Khi tìm hiểu về Đại Điên thì có một thông tin bất ngờ. Giác Hoàng Đại Điên cũng là vị sư đã tham gia vào câu chuyện sinh nở của nguyên phi Ỷ Lan. Vua Lý Thánh Tông hiếm muộn, sau khi rước bà Ỷ Lan về cung, thường sai một thái giám là Nguyễn Bông đi cầu tự ở chùa. Sư trụ trì ở chùa này là Đại Điên, đã dùng phép để cho Nguyễn Bông đầu thai làm con của Ỷ Lan. Ỷ Lan sinh được con trai là thái tử Càn Đức, tức vua Lý Nhân Tông sau này. Về sự kiện này dân gian còn lưu lại di tích chùa Thánh Chúa ở làng Vòng (Dịch Vọng, Cầu Giấy, Hà Nội), nơi còn thờ Nguyễn Bông và nguyên phi Ỷ Lan.

Y LanTượng nguyên phi Ỷ Lan ở chùa Thánh Chúa.

Nơi trụ trì của sư Đại Điên cũng ở khu Dịch Vọng, nay là chùa Duệ Tú tại thôn Tiền. Ở đây, lý lịch của Đại Điên cho biết ông tên là Lê Nghĩa. Rất có thể vị đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa mà Từ Đạo Hạnh giao du ban đầu như trong truyện trích dẫn trên chính là Đại Điên.
Theo thần tích của chùa Duệ Tú, Đại Điên là một thiền sư đắc đạo, một lương y nổi tiếng, một công thần lớn có công giúp nước thời nhà Lý đã được tôn phong là Thánh tổ Giác Hoàng Đại Điên. Nay ở trong chùa Duệ Tú còn tượng ông tạc gỗ kích thước bằng người thật đặt trong khám để phụng thờ. Tới hội chùa Láng (nơi thờ Từ Đạo Hạnh) và chùa Duệ Tú (cùng ngày 7 tháng 3 âm lịch), còn có tục diễn trò đấu thần, khi kiệu rước Từ Đạo Hạnh đến ngõ chùa Duệ Tú (ngõ Vụt – nơi Từ Đạo Hạnh dùng gậy đánh chết Đại Điên) thì hai bên cho bắn pháo vào kiệu của nhau.

Dai Dien

Tượng Giác Hoàng Đại Điên ở chùa Duệ Tú.

Đại Điên như thế vừa là một pháp sư, vừa là một thầy thuốc. Gạt bỏ đi lớp màn sương của truyền thuyết, có thể nhận ra công lao chính của vị lương y Đại Điên chính là việc giúp nguyên phi Ỷ Lan có con trai. Nhờ người con trai này Ỷ Lan đã nắm được quyền nhiếp chính. Nếu trong dân gian Ỷ Lan được thể hiện thành hình tượng cô Tấm thì hình tượng ông Bụt luôn hiện lên giúp đỡ sẽ không phải ai khác chính là sư Đại Điên.
Thần tích xã Thuận Quang (tức làng Siêu Loại xưa) chép rõ sư Đại (Thái) Điên là người đã đến hỏi cô Tấm (Cám) “vì sao cô khóc” và giúp Tấm gặp được nhà vua. Như vậy sư Đại Điên chính là ông Bụt đỡ đầu của Ỷ Lan ngay từ lúc vào cung cho tới chuyện Nguyễn Bông đầu thai làm con trai Ỷ Lan.
Ỷ Lan vốn mang họ Lê, tên gọi Khiết Nương. Cái tên Ỷ Lan hay Yến Loan theo Mộng khuê bút đàm của nhà Tống có thể chỉ là tên phiên thiết của chữ An. Tên hiệu của bà là An phi thì hợp lý hơn. Đại Điên có  tên là Lê Nghĩa, tức là cùng họ Lê với nguyên phi Ỷ Lan. Không rõ họ Lê ở vùng Bắc Ninh này có liên quan gì tới triều Tiền Lê trước đó hay không? Không phải ngẫu nhiên mà Lý Thánh Tông lại đi chọn một cô gái thôn quê về làm phi tần một cách bất ngờ như vậy.

Den tho Y LanĐền thờ nguyên phi Ỷ Lan trên dải núi Phật Tích (Bắc Ninh).

Là người hỗ trợ nguyên phi Ỷ Lan, giúp bà sinh độ hoàng thái tử Càn Đức nên tất nhiên Đại Điên biết rất rõ các chuyện của nhà vua Lý Nhân Tông. Vì thế ông mới có tên là Giác Hoàng, nghĩa là người biết mọi chuyện của nhà vua, như trong chuyện kể về đứa trẻ mang tên Giác Hoàng: “phàm vua làm điều gì đứa trẻ ấy cũng biết, đó chính là Đại Điên hóa sinh”.
Ở đây ta lại thấy một vấn đề khác trong việc truyền thừa của nhà Lý. Lý Thánh Tông vốn hiếm muộn, nhờ Đại Điên tư vấn chữa bệnh mà nguyên phi Ỷ Lan sinh được con trai kế vị. Đến đời Lý Nhân Tông lại không có con trai.  Truyền thuyết giải thích là vì Nhân Tông là do thái giám Nguyễn Bông đầu thai nên vua không có hứng thú với chuyện phòng the. Trước tình thế đó Giác Hoàng Đại Điên hẳn đã phải tính toán một cách thức khác để cho nhà Lý có người kế vị. Mà gia đình được chọn ở đây là Diên Thành Hầu được nhắc tới trong truyện Từ Đạo Hạnh.

Chua DamNền chùa Dạm ở Quế Võ, Bắc Ninh, còn gọi là chùa bà Tấm, là ngôi chùa do nguyên phi Ỷ Lan khởi công xây dựng và từng có đền thờ bà.

Tới đây có thể nhận thấy, mâu thuẫn giữa vị Tăng đô sát Từ Vinh và ngự y Đại Điên nằm ở việc ủng hộ ai để có con trai làm hoàng thái tử. Từ Vinh hẳn đã chống lại Đại Điên chọn gia đình của Diên Thành Hầu là người kế vị, nên bị Đại Điên giết chết. Tới đời con là Từ Đạo Hạnh nối chí cha, diệt Đại Điên và phù trợ cho em vua Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu có con trai.
Tương tự như việc làm của Đại Điên dưới thời Lý Thánh Tông, công đức chính của Từ Đạo Hạnh là việc đã dùng pháp thuật (y thuật) giúp cho vợ của Sùng Hiển Hầu sinh con trai, mà người con này sau lên ngôi là vua Lý Thần Tông. Lý Thần Tông do đó coi Từ Đạo Hạnh như cha đẻ của mình, đã cho thờ cúng ông ở những nơi ông tu hành.
Sau khi Từ Vinh bị Đại Điên đánh chết, Từ Đạo Hạnh đã đi tu phép Phật. Tuy nhiên, đầu tiên không phải ông sang Ấn quốc tìm đạo mà là ông xuống Nam Định, nơi có chùa Đại Bi ở Nam Trực để tu hành. Sự tích chùa Đại Bi ở đó kể rằng đây là nơi Từ Đạo Hạnh đã lui về sau khi cha bị giết và cùng giao du học phép với Nguyễn Minh Không và Giác Hải. Bản thân chữ Đại Bi cũng gắn với sự tích Từ Đạo Hạnh niệm kinh Đại-bi-đà-la, đọc trọn mười vạn tám nghìn lần mới đắc đạo.
Hiểu một cách thực tế thì hẳn Từ Đạo Hạnh đã phải rời khỏi quê nhà ở Láng, Thăng Long, xuống trú tránh ở vùng Nam Định. Nam Định lúc này là nơi thịnh hành đạo phù thủy của phái Không Lộ. Cùng với Nguyễn Minh Không và Giác Hải, Từ Đạo Hạnh là một trong những người sáng lập của phái Không Lộ (cùng đi Tây Trúc học Phật).
Có thể nhờ sự trợ giúp của phái Không Lộ, hoặc nhờ học/cùng tu các pháp thuật của phái này mà Từ Đạo Hạnh đã có đủ bản lĩnh để về thực hiện nốt sự nghiệp của cha: diệt Đại Điên và giúp Sùng Hiền Hầu có con trai.

Gac chuong Dai Bi

Gác chuông chùa Đại Bi (Nam Trực, Nam Định).

Câu đối ở chùa Đại Bi:
西地三同行六智神通先得道
南天四不死两朝帝制登尊
Tây địa tam đồng hành, lục trí thần thông tiên đắc đạo
Nam thiên tứ bất tử, lưỡng triều đế chế biệt đăng tôn.
Dịch:
Đất Tây ba người đi, lục trí thần thông thành đạo trước
Trời Nam bốn bất tử, hai triều vua sắc trọng riêng tôn.
Sau khi diệt được Đại Điên, Từ Đạo Hạnh đã về chùa Thầy ở Sài Sơn tu hành rồi hóa ở đó. Núi Sài cũng có tên là núi Phật Tích, giống như ngọn núi ở Bắc Ninh, nơi nguyên phi Ỷ Lan đã cho xây một ngôi chùa lớn mà di tích còn lại tới nay. Không rõ đây chỉ là sự trùng lặp hay có ẩn ý gì khác trong cái tên Phật Tích của 2 nơi này.
Truyền tích cho rằng Từ Đạo Hạnh là tổ của nghề hát chèo và múa rối. Chú ý rằng khác với các Không Lộ thiền sư có xuất xứ từ dân gian, Từ Đạo Hạnh có xuất thân là con quan lớn trong kinh thành, có học hành và đỗ đạt tới khoa Bạch Liên trước khi đi tu. Có thể đóng góp của ông trong đạo phù thủy của phái Không Lộ là đã đưa diễn xướng hát, múa vào trong thực hành đạo. Hát chèo ban đầu có thể được dùng như một dạng hát chầu, kiểu lên đồng khi làm phép phù thủy.
Tương tự, dấu ấn về múa rối mang đậm màu sắc tín ngưỡng còn lưu lại trong tục múa rối đầu gỗ (Ổi Lỗi) ở di tích chùa Đại Bi, Nam Định. Không rõ có liên quan gì không, nhưng cái tên Ổi Lỗi này cũng chính là tên quê của nguyên phi Ỷ Lan ở làng Thổ Lỗi (Sủi, Lỗi Hương). Từ “Lỗi” còn có thể liên quan trực tiếp đến Từ Đạo Hạnh vì ông có tên là Lộ (họ mẹ là Lỗ). Không rõ vì sao tên họ mẹ của Từ Đạo Hạnh lại trùng với tên của nguyên phi Ỷ Lan: Loan, Lỗi.

Chan cot chua Dai BiChân cột hoa sen thời Lý ở chùa Đại Bi.

Nhận định mới về mối liên quan giữa 2 truyền tích đầu thai thời Lý, một là của Ỷ Lan – Đại Điên, hai là của Sùng Hiền Hầu – Từ Đạo Hạnh đã làm sáng tỏ hơn về sự tích của vị thánh bất tử Từ Đạo Hạnh. Điều này ghi nhận rõ ràng hơn công nghiệp của vị sư tổ này, gạt bỏ đi lời phê phán về hành động khác với giáo lý Phật của Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh là một pháp sư có tài nghệ độc đáo (hát chèo, múa rối) đã góp phần cho việc nối truyền ngôi của nhà Lý dưới thời Lý Nhân Tông.

Dịch học, tiếng Nôm và trống đồng

Bài trình bày trong hội thảo Kinh Dịch với người Việt do Trung tâm minh triết và Trung tâm Lý học phương Đông tổ chức ngày 2/6/2018.

Đối với phương Đông, Dịch lý là nền tảng của sự phát triển của xã hội và văn hóa xa xưa từ những trang lịch sử đầu tiên, thể hiện thế giới quan của cộng đồng tộc người đã làm nên Dịch học. Vì thế ngôn ngữ, văn vật và địa lý của cộng đồng này sẽ là mối liên hệ trực tiếp cho phép khám phá các ý nghĩa của Dịch học. Hoa ngữ và địa lý nước Tàu hiện nay không làm được điều này bởi chủ nhân thực sự của Dịch học không nói thứ tiếng đó và không ở chỗ đó. Tiếng Việt, trống đồng của người Việt và mảnh đất Việt Nam ngày nay mới là quê hương chân xác của Dịch lý. Bài viết sau so sánh, đối chiếu các yếu tố văn hóa địa lý Việt với các dịch tượng trong Dịch học để tìm lại nền móng căn bản của Dịch lý, đồng thời góp phần khẳng định chủ nhân tác Dịch chính là người Việt trên mảnh đất Việt ngày nay.

Nôm na là cha mách qué

Trong thành ngữ tiếng Việt có câu: “Nôm na là cha mách qué”, xưa nay nhiều người biết, nhiều người dùng, nhưng ý nghĩa thực của câu này là gì chưa thấy có ai giải thích cặn kẽ. Thực ra, câu thành ngữ này “Nôm na là cha mách qué” có nghĩa rất đặc biệt, là chiếc chìa khoá giúp ta đi vào Dịch học. Xin giải nghĩa thành ngữ trên như sau:
– “Nôm” là biến âm của “Nam”, chỉ nước Việt người Việt. Từ Nôm trong câu này chỉ chữ Nôm, từ Nôm hay âm Nôm. Nói chung ý trong câu là chỉ tiếng nói của người Việt Nam.
Ngày nay thường hiểu từ Nam là chỉ riêng người Việt Nam. Thực ra đây là từ chỉ chung cả khối Bách Việt. Thời Nguyên Mông nói chung thì người phía Bắc sông Dương Tử gọi là người Hán, phía Nam Dương Tử gọi là người Nam.
– “Na” tức “na ná”, nghĩa là “gần giống với”.
– “Cha” đồng nghĩa với thầy, cũng có thể hiểu là thầy dạy học, người chỉ dẫn.
– “Mách” là chỉ bảo, chỉ dẫn, nghĩa như trong mách bảo, mách nước v.v.
– “Qué” ở đây biến âm của từ Quái trong Hoa ngữ, hay Quẻ trong tiếng Việt, chỉ 8 quẻ căn bản của Dịch học. Quẻ đơn là Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Như vậy nghĩa của câu “Nôm na là cha mách qué” là: Na ná hay gần giống với từ Nôm là thầy chỉ bảo về ý nghĩa các quẻ Dịch. Có thể viện dẫn các ví dụ trong Dịch học để chứng tỏ ý nghĩa này:
– Quẻ Kiền hay Càn, chỉ sức mạnh hay sự to lớn có gốc từ tiếng Việt là “cồng kềnh” hay “kềnh càng”.
– Quẻ Đoài là biến âm của “điều” hay “đào” tức màu đỏ.
– Quẻ Ly là biến âm của “lửa”, tượng trưng cho sức nóng, ánh sáng và mặt trời.
– Quẻ Chấn là biến âm của “sấm”, Hoa ngữ là “lôi”.
– Quẻ Tốn hay Toán, tức “tính toán “ trong tiếng Việt, chữ cổ còn gọi là “tán”.
– Quẻ Khảm còn gọi là Cống, thực ra là “cóng”, tiếng Việt thường dùng từ kép “lạnh cóng”.
– Quẻ Cấn còn gọi là Căn, nghĩa tiếng Việt là “cán”, là cái để nắm lấy mà điều khiển như cán dao, cán cuốc v.v.
– Quẻ Khôn chỉ sự khôn ngoan nơi con người, chỉ khả năng nhận xét của não bộ, tức khả năng nhìn nhận và phán đoán sự việc.
Xem xét kỹ thì không chỉ riêng Bát quái mà Thập can cũng do “Nôm na” mà ra như:
– Giáp là “chắc” trong “chắc chắn”.
– Ất là “óp” như trong “óp ép”.
– Bính là “bấn” trong “bấn loạn”.
– Đinh là “đanh” trong “cứng như đanh”.
– Mậu là “mẹ”.
– Kỷ là “cả”.
– Canh là “nước canh”, cánh, cạnh, cành, chỉ trục ngang.
– Tân là “tâng”, tưng, tung lên, chỉ trục đứng.
– Nhâm là “nhũn”, nhung trong “mềm như nhung”.
– Quý hay Khang là khăng, “khăng khăng” không đổi.
Thực kỳ lạ, tên các thành tố của Dịch học như Thập can, Bát quái… không mang một ý nghĩa gì trong Hoa ngữ. Nó thuần là các tên để gọi mà thôi. Ngược lại khi “Nôm na” thì ý nghĩa Dịch lý lại nằm ngay chính trong tên gọi của nó. Thậm chí những từ khoá trong nguyên lý cơ bản “sinh sinh chi vị dịch” cũng có gốc từ “Nôm na” mà ra: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…”. Cực, nghi, tượng, quái v.v. đều là những “đặc từ” chỉ dùng trong Dịch học, phải có công “tu luyện” mới thấu đáo…
Khi dùng “nôm na pháp” vào đây ta có: “1 cục, hay cuộc, sinh 2 ngôi, 2 ngôi sinh 4 tạng hay dạng, 4 tạng sinh 8 quả”. Rồi cả 3 tòa, 5 hình, 9 chỗ v.v. Thì ra tất cả là những danh từ thông thường dùng trong cuộc sống hàng ngày người “bình dân” ai gặp cũng hiểu ngay, chẳng phải là “đặc ngữ đặc từ” chi cả. Có thể nói, khi “Nôm na” thì Dịch học rất gần gũi đời sống thường nhật của con người, trái hẳn với Dịch học siêu đẳng của Hoa ngữ, nói toàn chuyện trên mây như chỉ dành cho các bậc thánh triết, mà trên cõi đời này hỏi có được mấy vị?
Dựa vào yếu tố ngôn ngữ có thể khẳng định, Kinh Dịch chứa đựng những hiểu biết về sự vận động và biến đổi của mọi vật trong Không và Thời gian là thành tựu trí tuệ của người Nam hay Bách Việt mà chi duy nhất còn lại đại diện cho cả dòng giống là Lạc Việt, tức người Việt Nam ngày nay.

Chữ nguyên hình “điểu thú văn”

Trên mặt tất cả trống đồng loại 1, tức loại xưa nhất, đều được đúc theo khuôn mẫu: trung tâm là mặt trời, rồi đến các vòng đồng tâm khắc hình chim và nai, sau đó là cảnh sinh hoạt, đánh trống đồng, đo bóng mặt trời, cảnh chiến binh trên thuyền v.v. Mặt trời được người Việt cổ coi là nguồn sáng và nguồn sống cho muôn loài. Với quan niệm cha trời mẹ đất, tổ tiên ta đã hiểu rõ những gì thu hoạch được từ đất như củ, quả… không thể có được nếu không có ánh nắng mặt trời. Điều này thật đời thường nhưng cũng rất khoa học. Lúc đó người ta làm gì biết đến diệp lục tố và sự quang hợp như chúng ta ngày nay. Nhưng bằng sự quan sát và so sánh việc được mùa và không được mùa có liên quan chặt chẽ tới sự chiếu sáng của mặt trời người xưa đã hiểu được có sự phối hợp giữa trời và đất để ban của ăn nuôi sống con người, Từ đó hình thành quan niệm lưỡng hợp. Một phía là cái cụ thể có thể nắm bắt là đất, một phía ta biết rõ ràng, có đấy nhưng không thể nắm bắt đó là những gì đến từ trời. Dần dần tổng kết thành các quy luật trời đất có âm, có dương, ý niệm khởi nguồn của Kinh Dịch.
Với quan niệm mặt trời là nguồn sáng, cổ nhân coi mặt trời là khởi nguồn của văn minh, của sự sáng suốt, vì không có ánh sáng mặt trời thì bóng tối che phủ, không thể phân biệt được cao thấp, xấu đẹp, không gian trở thành một khối hỗn mang và trong màn đêm đó không biết bao sự rình rập của quỷ dữ, của ác thú, sinh mệnh con người mong manh biết bao nhiêu, và mọi vật chỉ trở nên sống động thực sự khi mặt trời ló dạng, từ đó con người sùng bái mặt trời. Với người Việt sự sùng bái đã gần như một ý thức về tôn giáo: đạo thờ Trời, thờ ông Thiên và hình ảnh biểu tượng là mặt trời. Với vị trí là tâm điểm trên trống đồng, mặt trời là trung tâm của vũ trụ. Điều này chắc mới dừng ở ý niệm siêu hình, nhưng trong đó ta đã thấy thấp thoáng bóng khoa học rồi.
Trên trái đất không biết bao nhiêu loài thú, tại sao chim và nai lại được coi trọng ngang hàng với con người, được kết hợp với người để tạo thành thế giới 3 thành phần trên mặt trống, coi như hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ?
Ta trở lại với Dịch lý. Mọi người đều nhất trí coi Hà và Lạc là một phần của Dịch lý, hoặc là cách diễn đạt Dịch lý thông qua các nút số, một loại diễn đạt khác với Dịch lý vạch quẻ của Bát quái. Vậy Hà là gì và Lạc là gì? Trải qua mấy ngàn năm, các cuộc tranh luận của các bậc trí giả “nhìn xa trông rộng” vẫn còn tiếp tục xảy ra, nào là long mã, nào là thần quy, người thì bảo là thần vật xuất hiện ở Hoàng Hà, rồi Mạnh Hà, rồi Lạc Thủy… Sở dĩ như vậy là tại các vị nhìn một vật ngay trước mắt qua “kính viễn vọng” nên hậu quả là… vẫn còn cãi nhau.
Thật ra khi ta nhìn bằng mắt trần thì sự việc trở nên đơn giản: Hà nghĩa là Trời, Lạc là biến âm của Lục, nghĩa là Đất. Hà Lạc là Trời và Đất, rất rõ ràng. Chính xác phải gọi là Hà thư – Lạc đồ, chứ không thể gọi ngược như trước đây được. Hà thư tức Thiên thư. Lạc đồ cũng là Địa đồ.
Thông điệp trên mặt trống đồng rất rõ ràng. Mặt trời là trung tâm và ở các vòng đồng tâm kế tiếp nhau là Hạc – Nhân – Lộc, tức trên là trời, giữa là người, dưới là đất nối tiếp “chạy” quanh mặt trời. Ta có:
Trời = Hà  → Hạc: chim Hạc hay hồng hạc.
Đất = Lục → Lộc: con nai.
Từ sự việc này gợi ra một ý kiến là: chữ “tượng hình” không phải là loại chữ cổ xưa nhất mà là sự tiếp nối một loại chữ khác có trước, tạm gọi là chữ “nguyên hình”. Ta liên tưởng trong Kinh Dịch phần Thuyết Quái, Khổng Tử viết: “… Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất… quan điểu thú chi văn …” rồi tổng kết lại thành các quy luật Dịch lý. Câu “quan điểu thú chi văn” được hiểu là “nhìn các nét “văn” trên (mình) chim, thú… Nay ta có thể hiểu khác đi là đã có một loại chữ có tên là “điểu thú văn”, tức chữ “nguyên hình”, từ trước khi họ Bào Hy tác Dịch.

Chu nguyen hinh

Lạc đồ đặt nằm ngang và những chữ nguyên hình.

Trong bối cảnh Văn hóa Á Đông ta có thể tìm thêm 4 chữ “nguyên hình” nữa ngoài các chữ “chim hạc” và “con nai” (= Trời và Đất).
Hướng Xích đạo là vùng nhiệt đới được tượng trưng bằng con Hổ. Hổ là biến âm của Hoả, là lửa. Tính của lửa là nóng.
Ngược với lửa là nước, nơi vùng nước này có rất nhiều con Sấu. Sấu là biến âm của Xíu, là nước (âm Quảng Đông). Trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam nó là con thuồng luồng, một loài thủy quái hại người. Sau này do biến cố khí hậu loài Sấu ở phía Bắc (cứ tạm gọi như tên hiện nay) bị tiêu diệt nên người xưa thay thế bằng con rùa, tức Quy.
Hướng Đông là biển nên biểu tượng bằng thần vật có công hút nước làm mưa mà người xưa gọi là Rồng hay Long. Trong văn hóa Việt – Hoa, Rồng được coi là chúa tể cai trị thế giới biển cả.
Ai đã từng học Dịch lý đều biết quan điểm hướng Đông là phương động, tượng trưng bởi quẻ Chấn, cũng gọi là quẻ Thìn tức quẻ con rồng. Chính xác phải gọi là hướng động vì Đông là biến âm của động. Theo nguyên lý đối lập của Dịch, phương Tây là tịnh như trong Thuyết Quái của Dịch: cứng mềm cọ sát sinh ra động tịnh. Phương Đông: mềm mà động. Phương Tây: cứng mà tịnh, định.
Việt ngữ có từ kép “định đoạt” để chỉ phương Tây. “Định” là chỉ bên không thay đổi. “Đoạt” là tên khác của quẻ Đoài.
Phương Tây là phương tịnh và ở đó có rất nhiều voi, nên con voi trở thành chữ “nguyên hình” là Tịnh, con tịnh. Như thế ta có thể coi chữ “nguyên hình” là loại chữ tối cổ. Đó cũng là điểm xuất phát của chữ “tượng hình” sau này.
Tổng số ta có được 7 “chữ”:

  • Mặt trời là Trung tâm.
  • Hạc = Trời.
  • Lộc = Đất.
  • Hổ = phương nóng, Xích đạo.
  • Sấu, Quy = phương nước, ngược với phương nóng.
  • Long, Rồng = phương Đông.
  • Tịnh = phương Tây.

Xác định như trên ta có thể khẳng định đất nước Trung Hoa hiện nay không thể là quê hương của Dịch lý được vì không thể tìm được vùng đất nào của Trung Hoa mà phương Đông là biển và phương Tây có voi. Chỉ có miền Trung của Việt Nam mới hội đủ tính chất chỉ định của 6 chữ “nguyên hình” hay “điểu thú văn” như phần trên. Loài Hổ Đông Dương ở Trường Sơn và Nam Lào đã nổi tiếng từ lâu rồi. Về hướng Bắc thì đồng bằng Bắc Bộ vài ngàn năm trước là vùng đầm lầy, chắc chắn lý tưởng cho loài Sấu. Về hướng Đông là biển, đúng là quê hương của Rồng và hướng Tây thì chỉ tên nước Lào “Triệu Voi” cũng đủ minh chứng cho sự khẳng định trên.
Trong lãnh vực tâm linh, tất cả các đền, miếu của Việt Nam đều có hình Hạc hay Hồng Hạc đứng trên mai Rùa tượng trưng cho Trời và Đất. Như thế đã đủ 6 con vật tượng trưng cho 6 cõi của 1 không gian 3 chiều. Người xưa đã dùng những con vật nổi trội ở một vùng đất như một dạng thức chữ, là chữ “nguyên hình”, để chỉ 4 phương. Còn Trung tâm là nơi sinh tụ của cộng đồng người cổ đã tạo nên Dịch lý.
Dịch lý đã là tài sản của cả nhân loại, phát nguyên từ đâu không phải là điều quan trọng đối với thiên hạ. Nhưng đối với người Việt Nam thì khác, nếu không thể làm sáng tỏ về quê hương Dịch lý thì mắc lỗi với tiền nhân. Người xưa đã lao tâm khổ tứ biết bao mới có thể ký thác được những giá trị vĩnh hằng vào trong đấy, làm tài sản cho con cháu vào đời. Quá khứ không phải qua đi là hết. Dòng linh khí từ quá khứ sâu thăm thẳm vẫn liên tục chảy về hiện tại, tạo thành sức mạnh tâm linh vô song cho mỗi người. Dù tiếp nhận trong vô thức, dòng linh khí đó trở thành bản lĩnh sống, thành năng lực bẩm sinh của trí tuệ. Đấy cũng là lý do để ta nỗ lực vượt bực mong tìm được đích xác nguồn gốc dòng giống của mình. Xác định cho được bản quyền dân tộc trên Dịch lý, một siêu phẩm của minh triết và khoa học.

Dịch học và đồ đồng Đông Sơn

Truyền tích bánh dày bánh chưng kể rằng vua Hùng đã già nghĩ ra cách để tìm người kế vị. Vua ra lệnh cho các hoàng tử (các “lang”) ai dâng lên cho vua được món ăn ngon nhất và ý nghĩa nhất sẽ được vua truyền ngôi. Trong khi các anh em đổ đi khắp nơi để tìm của ngon vật lạ thì hoàng tử Lang Liêu vốn cảnh sống rất thanh bạch và không muốn dành ngôi vua nhưng bản tính hiếu thảo nên vẫn băn khoăn không biết lấy gì dâng cho vua cha. Chợt tối ngủ Lang Liêu được một vị thần hiện ra chỉ dẫn: Lấy gạo nếp tinh tuyền đã nấu chín giã ra làm bánh màu trắng hình tròn, đặt tên là bánh dày. Lấy gạo nếp đổ trên lá, giữa cho nhân đậu xanh và thịt heo gói lại thành hình vuông đem luộc chín gọi là bánh chưng. Khi dâng vua, vua cha cho các món ngon vật lạ của các hoàng tử khác đều là tầm thường.
Riêng bánh dày và bánh chưng của Lang Liêu được vua khen ngon và hỏi ý nghĩa thì Lang Liêu tâu: Bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời. Bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất. Vua khen trời tròn đất vuông là trọn ý nghĩa của đạo trời đất và vua quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.

Trong dong

Trống đồng vuông tròn.

Ta thử giải mã từ “Lang Liêu” trong truyền thuyết trên. Lang là từ Thái ngữ, có nghĩa là thủ lãnh, biến thể sang Hoa và Việt ngữ là Long, nghĩa là con rồng hay Vua. Lang là biến âm của Năm, số 5 trung tâm của Hà thư – Lạc đồ: năm → lăm → lang. Liêu là biế́n âm của Lử̉a chỉ phương nóng, vùng nhiệt đới, hướng Xích đạo, biến âm ra: lửa → ly → la → lê → liêu → lý… Lang Liêu có nghĩa là “vua La” hay vua của người La, Liêu, Lý… “Bánh chưng bánh dày” là biến âm của “bánh trăng bánh giời” hay “bánh trăng bánh trời”.
Bánh dày hình tròn, bánh chưng hình vuông biểu thị cho nguyên lý cơ bản của Dịch học. Trời tròn chỉ sự vô hình vô ảnh… Những gì vẫn có đấy nhưng thị giác con người không thể cảm thụ được. Đường tròn biểu thị sự liên tục không đứt đoạn, khi chuyển sang hệ ký hiệu vạch là vạch liền ────. Đất vuông chỉ vậ̣̣t chất hữ̃u hình, hữu hình nên hữu hạn, biểu thị sự hữ̃u hạn là bờ và mốc, tức 4 cạnh và các góc của hình vuông. Trong hệ ký hiệ̣̣u vạch là vạch đứt chỉ sự gián cách ──   ──. Tròn và vuông cũng chỉ là tên gọi khác của Âm và Dương mà thôi.
Truyền thuyết nói Trời chỉ dạy cho Lang Liêu làm ra bánh Chưng bánh Dày, đồng nghĩa với sự truyền dạy cho hậu thế rằng: vua La là người đã làm ra Dịch học, người La là chủ của thuyết Lưỡng nghi – Tam tài sinh hóa vạn vật.
Lang Liêu là ai và đạo Tròn vuông có liên quan như thế nào với người Việt?
Trên mặt tròn của nhiều trống đồng có 4 hình cóc đắp nổi. Đấy chính là biểu tượng của nguyên lý trời tròn đất vuông. 4 con cóc biểu thị cho 4 góc của hình đất vuông trên mặt trống tròn của trời. 4 con cóc là 4 tiếp điểm của hình vuông và hình tròn. Người chế tạo ra trống đồng nói rất rõ:
Cóc là biến âm của góc hình vuông, cóc → góc (tương tự như: Kà → gà; Cái → gái).
Sự biểu diễn dịch học trên đồ đồng Đông Sơn còn thấy rõ hơn ở mặt thạp đồng Đào Thịnh đã tìm được. Ở nắp thạp đồng tròn 4 con cóc đã được thay bằng 4 cặp nam nữ đang giao hợp, ý chỉ 4 điểm giao của hình vuông và tròn cũng là giao điểm của trời và đất, âm và dương. Trống đồng người Việt xưa gọi là “cối đồng”, Hoa ngữ dịch ra “đồng cửu”, rồi biến âm thành “đồng cổ”. Cửu là cái cối, biến ra “cổ” là cái trống.

Thap dong

Thạp Đào Thịnh.

Tóm lại là có sự liên quan rất rõ ràng giữa Dịch học và trống đồng, hay rộng hơn là đồ đồng Đông Sơn. Sự khẳng định này khiến ta không thể lý giải vì theo chính sử Trung Quốc thì Văn Vương tác Dịch ở tận Thiểm Tây, Bắc Trung Quốc hiện nay và vào thủa ấy người Việt không hề biết Dịch lý là gì, cũng như Văn Vương không hề biết mặt mũi trống đồng, thạp đồng ra sao… Nhưng với những gì đã biết như trên, ta không thể nào kết luận khác hơn là “dân trống đồng”chính là chủ thể đã tác tạo ra Dịch học.
Dịch học còn có cặp quẻ Khiêm nhường – Dự phần, gọi tắt là Khiêm và Dự. Sự sáng suốt nơi con người mách bảo vạn vật và xã hội phát triển theo những quy luật. Các quy luật thì trường tồn và bất biến, con người không thể thay đổi một cách chủ quan, tùy tiện. Công thức về sự chủ động phát triển là: Khiêm nhường – Dự phần.
Muốn “dự phần” hay tham gia cùng trời và đất trong việc biến đổi vũ trụ con người phải biết tôn trọng và vận dụng các quy luật tự nhiên. Một thành tựu đạt được luôn là sự hợp tác con người – tự nhiên. Con người không thể thay đổi quy luật nhưng có thể tác động ở đầu vào để nhận được kết quả ở đầu ra. Như thế gọi là Khiêm và Dự, Dự chính là dự phần vào việc tái tạo vũ trụ.

Khiem DuÝ nghĩa quẻ Dự = Lôi/Địa: Dự nghĩa là tham gia vào là cùng trời cùng đất tạo thành bộ mặt vũ trụ, tài nhân ngang hàng tài thiên, tài địa trong thế tam tài của Dịch học. Một quan điểm triết lý tôn vinh con người rất tiến bộ so với thời đại ấy.
Lời quẻ Dự: Lợi kiến hầu, hành sư.
Quẻ Dự tạo thành bằng quẻ Lôi trên quẻ Địa, sấm nổ trên đất chính là tượng của trống đồng. Lợi kiến hầu nghĩa là dùng vào việc phong tước hầu. Hiện nay có những nhà nghiên cứu lịch sử cho trống đồng là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu. Nó tựa như một loại ấn tín sắc phong vậy. Đặc biệt trong lễ nghi đạo hiếu của Việt Nam thì các bậc vương hầu dùng trống đồng thay mặt người dân của mình để tế tổ tiên của cộng đồng. Chữ “lợi” ở đây có nghĩa là “được dùng để” (ngờ rằng sau chữ “lợi” còn có chữ “dụng” nhưng bị bỏ mất). Lợi kiến hầu nghĩa là dùng trong việc phong tước hầu. Lợi hành sư nghĩa là dùng để hành quân, quân theo tiếng trống mà tiến hoặc lùi hoặc sang phải, sang trái, công hoặc thủ v.v. Trống đồng trở thành một quân khí dùng trong quân sự.
Lời tượng của quẻ Dự: Lôi xuất địa phấn, dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo. Dịch nghĩa: Sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ Dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với anh linh tiên tổ.
Trống đồng còn gọi là trống sấm, là loại trống duy nhất khi đánh để úp xuống đất, nên lời tượng nói: lôi xuất địa phấn. Tiên vương tức tiên đế nhà Chu là Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công… Chữ “tác nhạc” cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế. Nó chính là tổ tiên của văn hóa cồng chiêng ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn đang đặt câu hỏi: trống đồng dùng để làm gì hay công dụng của nó ra sao? Lời quẻ và lời tượng quẻ Dự đã chỉ rõ 3 công dụng:

  1. Trống đồng dùng như một lệnh bài sắc phong tước vị.
  2. Dùng làm hiệu lệnh điều quân.
  3. Dùng trong âm nhạc ở các buổi tế lễ long trọng.

Qua lời quẻ và lời tượng của quẻ Lôi/Địa Dự việc liên hệ giữa Dịch học và trống đồng là điều không thể phủ nhận. Chỉ với những khám phá trên đủ khẳng định: Dân tộc là chủ nhân của trống đồng cũng chính là dân tộc đã sáng tạo Dịch học. Dịch học dứt khoát không phải là sản phẩm của nền văn minh Hán. Dân tộc sống ở lưu vực Hoàng Hà không hề biết trống đồng là gì vào thời những chiếc trống đồng cổ xưa nhất được dùng.

Trống đồng, bức thông điệp ngàn năm

Trống đồng có nhiều hình dạng, nhiều thời, do đó cũng nhiều mảng thông tin khác nhau. Ở đây bàn về thông điệp trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Mặt trống gồm 1 tâm và 3 vòng đồng tâm.

Trong Ngoc Lu

Tâm trống và vòng đồng tâm số 1: nhân sinh quan Việt

Tâm trống là mặt trời đang chiếu sáng. Vòng tròn số 1 là cảnh sống, sinh hoạt của con người.
Tâm trống đồng luôn luôn là mặt trời, mọi kiểu trống mọi thời đại đều như thế. Điều  này cho thấy có sự thống nhất và xuyên suốt nguyên tắc cơ bản trong hệ tư tưởng Việt: Mặt trời là trung tâm vũ trụ cũng chính là hình ảnh đại diện cho “ông trời” siêu hình.
Ông Trời là đấng tối cao mà quyền năng chi phối tất cả nhưng lại thân thiết gần gũi như cha mẹ nên người Việt hay gọi: “Trời đất ơi! Cha mẹ ơi!”.
Mặt trời phát ra ánh sáng cũng là phát ra sự sống. Trong tiếng Việt “sáng” và “sống” gần như là một âm. Phần hồn, tức anh linh nơi con người chính là một phần của cái khối sáng vĩ đại ấy, đến trái đất nhập vào thân xác vật chất thành ra con người sống động có thần. Thần tính ấy được quẻ Kiền gọi là Long hay con Rồng. 6 hào của quẻ Kiền là hình ảnh tượng trưng của 6 giai đoạn bay lên từ đất tới trời cao.
Khi đã đi hết đoạn đường trần thế thì xác trả về cho đất hồn trở về trời. Chính vậy mà mặt trời với người Việt trở thành chốn linh thiêng vì tổ tiên ông bà ngự nơi đấy. Quẻ Lôi/Địa Dự viết: “lôi xuất địa phấn tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức ân tiến chi thượng đế dĩ phối tổ khảo” cũng là lẽ này. “Cầu dâng lên trời mà cũng là để ông bà mình hưởng” đã chỉ ra: anh hồn tổ tiên đang ở chung với ông trời hay đấng tối cao…
Cuộc sống miên trường không bao giờ dứt, có chăng chỉ là chuyển đổi dạng thức tồn tại từ dương sang âm mà thôi. Hay nói theo dân gian là chuyển địa chỉ từ dương trần sang âm phủ.
Cuộc sống vẫn tiếp nối chỉ chuyển dạng tồn tại mà thôi, đấy là triết lý về sự sống – chết của người Việt đã được Kinh Dịch thể hiện. Hay nói cách khác: tâm và vòng đồng tâm thứ nhất của mặt trống đồng Ngọc Lũ đã thể hiện “nhân sinh quan” của người Việt. Cuộc sống sinh động nhưng hữu hạn vì có sinh, có biến đổi ắt có tử. Duy nhất chỉ nơi tâm vòng tròn là bất biến nên bất tử. “Sinh” là từ cõi Hằng bước sang cõi “Biến”. Qua một thời gian dạo chơi trần thế để biết mùi “đời” rồi “tử”, tức là trở về nơi đã ra đi. Người đời nói  “sinh ký tử quy” (sống gửi thác về) nghĩa là vậy. Nhưng ta phải luôn nhớ không phải ra đi làm sao thì trở về làm vậy. Vì qua thời gian ở cõi “biến” ta đã thành người khác. Sáng hơn hay tối hơn là tùy những gì ta đã làm nơi dương trần với tư cách con người có ỵ́ thức và chủ động trong hành vi của mình.
Với nhân sinh quan như vậy nên người Việt là dân tộc có hiếu nhất thế giới. Chữ Hiếu được nâng hẳn lên thành một tôn giáo, gọi là đạo “Hiếu” hay đạo thờ ông bà. Cao nhất là thờ ông ‘Thiên”, tổ của cả loài người. Với quốc gia thì thờ quốc tổ, làng thì thờ “thành hoàng”, tộc họ thì có nhà thờ họ và trong mỗi nhà đều có bàn thờ “gia tiên”… Trong nhân sinh quan người Việt thì quá khứ – hiện tại – tương lai, sống và chết, là sự biến đổi tiếp nối tuần hoàn không có chấm dứt. Thế nào rồi cũng có ngày phải về gặp các cụ. Lúc đó ăn làm sao, nói làm sao? Chính vì vậy nên phải lo liệu ngay từ bây giờ. Công đức tạo nên không phải chỉ để cho đời này mà là công đức cho mọi đời. Ngoại trừ những tay “siêu bịp” thì ai được kính trọng ở đời này ắt cũng được kính trọng ở đời sau và ngược lại kẻ bị người đời nguyền rủa thì cũng sẽ bị nguyền rủa đời đời.

Vòng đồng tâm thứ 2: xướng danh dân tộc

Là người Việt không ai mà không biết huyền tích Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ, con gái Động Đình Quân. Kinh Dương Vương nghĩa là vua phương Nam. Long Nữ hay Long Mẫu, con gái Động Đình Quân – vua phương Đông. Sự hợp huyết 2 dòng phương Nam và phương Đông là sự hoàn tất việc đúc kết tạo nên người Việt. Cũng vì lẽ này người Việt rất đỗi tự hào khi nhận mình là “con Rồng cháu Tiên”.
Những thông tin tạo nên tuyền thuyết này đều xuất phát từ Hà thư. Trong đồ hình Hà thư số 6 hay 6 nút trắng nằm ở phía Nam, số 8 nằm ở phía Đông. Phương Nam ngoài số 6 còn có số 1 nên phương Nam còn là phương của Đế Tiên hay bà Vũ Tiên. Vì lẽ này người Việt mới nhận mình là “cháu Tiên”.

Ha thuHà thư.

Theo Hậu thiên Bát quái phương Nam, số 6 còn là phương của nước, tức quẻ Khảm. Nước tiếng Việt cổ là nác – lác – Lạc. Đây chính là từ Lạc trong Lạc Long Quân và Lạc Việt.
Trong Hậu thiên Bái quái phương Đông, số 8 là quẻ Chấn hay Thìn, tức con Rồng. Hoa ngữ là Long.

Hau thien bat quai

Hậu thiên bát quái.

Tới đây đã rõ câu “con cháu Tiên-Rồng” hay dòng giống Lạc – Long là chỉ sự hợp nhất giữa 2 dòng người ở phương Nam số 6 và phương Đông 8 theo Hà thư vào thời Hùng Việt Vương –  Tuấn Lang.
Mặt trống đồng Ngọc Lũ đã thể hiện những thông tin lịch sử này ở vòng tròn thứ 2 bởi nửa vòng tròn khắc hình 6 con chim và 10 con nai và nửa vòng tròn còn lại là 8 con chim và 10 con nai. Ở đây tiền nhân người Việt đã  sử dụng những nút số của Hà thư, đặc biệt số 10 lại không được coi là 10 (số chẵn) mà coi như là 2 số 5, là số lẻ.
Các nút trắng – chẵn của Hà thư được thay thế bằng hình Chim và nút đen – lẻ được thay thế bằng con nai.
Nhìn lại Hà thư với các nút chẵn:

  • 10 con nai và 6 con chim chỉ người họ Hùng phương Nam, con cháu của Kinh Dương Vương.
  • 10 con nai và 8 con chim chỉ người họ Hùng phương Đông, con cháu của Long Nữ hay Long Mẫu.

Ý nghĩa thể hiện ở vòng tròn đồng tâm thứ 2 trên mặt trống đồng chính là sự tự xưng danh tính của chủ nhân trống đồng Ngọc Lũ. Dân tộc ấy chính là dòng giống Tiên – Rồng hay Lạc – Long, Tiên – Long, xác lập bởi các cặp số (6/10) và số (8/10).
Nếu không có số 10 chỉ dùng số 6 và số 8 sẽ bị hiểu là: người nước ngoài ở phía Nam và Đông nước ta. Người Việt xưa đã thêm mẫu số 10 để nói rõ đấy là: người họ Hùng, thuộc chi phương Trung – Nam và chi phương Trung – Đông.

Vòng đồng tâm thứ 3: ước vọng dân tộc trường tồn

Vòng đồng tâm thứ 3 của mặt trống đồng có tổng cộng 18 cặp chim, mỗi cặp có 1 chim lớn đang tung cánh bay và 1 con chim nhỏ đang tung tăng trên mặt đất. Từng cặp như vậy nói lên   sự nối tiếp liên tục, hễ tre già thì măng mọc, cha mẹ già khuất núi thì con cháu lớn lên, cứ như thế mà tiếp nối mãi.
Trong Dịch học chim Hạc hay Hồng hạc là chữ của điểu thú văn chỉ Trời cao, chỉ thời gian và những yếu tố văn hóa phi vật thể. Hà → hạc. Con nai Hoa ngữ là Lộc, biến âm của “lục”, là số 6, cũng là Đất, cũng là chữ điểu thú văn dùng chỉ Đất, chỉ không gian và những yếu tố văn hóa hữu hình hữu thể.
Trong danh sách 18 đời Hùng Vương có vị vua Hùng Việt Vương hiệu Tuấn Lang, Đây cũng chính là Sơn Tinh hay Tản Viên Sơn Thánh quốc chúa đại vương. ‘Tuấn” là tên chữ ký âm của ‘Tản” tiếng Việt. Sơn Tinh cũng là một vị Kinh Dương Vương (canh = 6, giêng = 1), nghĩa là chúa phương Nam vì trong Tiên thiên Bái quái quẻ Cấn là sơn – núi, chỉ phương Nam.
Truyền thuyết nói Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ như đã xác định ở vòng tròn thứ 2 mặt trống đồng Ngọc Lũ, phải chăng là nói về sự thống nhất dòng Tiên và Rồng để tạo ra “dòng giống tiên Rồng” ở triều đại Hùng Việt Vương – Tuấn Lang? Từ “người Việt” bắt đầu có từ đây.
Những cặp chim ở vòng tròn thứ 3 trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là loài chim Diệc. Diệc là  phát  âm của người Nam Bộ. Âm Bắc là Việt. Chính là từ Việt trong đế hiệu Hùng Việt Vương – Tuấn Lang.
Số 9 là “cửu”. Cửu cũng có nghĩa là lâu dài. 18 là trùng cửu (9×2), đồng âm với “trường cửu”, nghĩa là mãi mãi bất tận. Điều này xin đừng vội cho là cưỡng ép vô lối vì chính người Hoa cũng hay dùng lối đồng âm gán nghĩa này, như họ kiêng số 4 vì đọc là “tứ”, cận âm với “tử”, là chết. Bạn cũng đừng ngạc nhiên khi họ tặng bạn chiếc quan – tài… vì “quan” ở đây được hiểu là sự thăng quan tiến chức, “tài” hiểu là tấn tài tấn lộc, nghĩa là chúc có thêm tiền.
Như thế những hình tượng trên vòng đồng tâm thứ có nghĩa sau:

  • Chim Diệc đang tung cánh bay là chỉ dân tộc Việt trong vòng thời gian.
  • Mỗi cặp chim 1 trưởng thành 1 còn non chỉ sự nối tiếp kế thừa.
  • 18 cặp là trùng cửu (2 lần 9), cũng là trường cửu.

Vòng đồng tâm thứ 3 trên mặt trống đồng Ngọc Lũ với 18 cặp̣ chim Diệc là bản văn ngắn gọn nhưng rất rõ ràng: “Dân tộc Việt đời sau nối đời trước, cứ như thế tồn tại mãi mãi”.
Tới đây thì  ta hiểu rõ tại sao vua Đông Hán ra lệnh cho mặt ngựa (Mã Diện hay Viện) tịch thu và phá hủy cho bằng hết trống đồng của người Việt. Ý đồ của chúng là biến người Việt thành đám con hoang không cội nguồn, đồng thời chặt đứt ước nguyện trường tồn của dân tộc này… Nhưng trời xanh có mắt…
Việc giải mã được những thông tin chứa trên mặt trống đồng Ngọc Lũ đưa đến hệ quả hết sức quan trọng với người Việt:

  • “Con Rồng cháu Tiên” không còn là truyền thuyết lịch sử mà chính thức trở thành lịch sử, một lịch sử được ghi chép rõ ràng trên sách “đồng” bằng ngôn ngữ Dịch học đã phổ biến lưu truyền 3.000 năm nay.
  • Truyền thuyết lịch sử Việt không phải chỉ có 1 chuyện “con Rồng cháu Tiên”, mà là cả một hệ thống những truyền thuyết tương đối hoàn chỉnh, chứa đựng những thông tin của một thời gian dài mà ngày nay gọi là thời tiền sử. Chỉ cần minh xác được 1 đoạn trong cái chuỗi thông tin liên hoàn ấy cũng đủ để ta “lượng giá” về tính xác thực của cả hệ thống   truyền thuyết lịch sử đang lưu truyền.
  • Lịch sử và văn minh Việt có liên hệ “máu thịt” với Dịch lý từ khi người Hán chưa đặt chân tới mảnh đất này. Những trống đồng cổ nhất có đến 3.000 năm tuổi đã trở thành vật chứng chắc chắn, rõ ràng nhất giúp khẳng định: Dịch lý là thành tựu trí tuệ tuyệt vời của tiền nhân người Việt ngày nay.

Dịch học hình tượng

Con người chúng ta tư duy bằng 2 hệ thống dấu hiệu chính: hệ thống dấu hiệu âm thanh và hệ thống dấu hiệu hình ảnh. Đơn vị của hệ thống dấu hiệu hình ảnh là Tự hay Chữ. Tự nối kết với nhau thành Văn. Còn đơn vị của hệ thống dấu hiệu âm thanh là tiếng, nối kết nhau thành Điều. Ta hay dùng như một từ kép “điều tiếng”.
Gọi là 2 hệ chính vì còn các hệ thống dấu hiệu cá biệt khác như hệ thống chữ nổi của người mù được cảm nhận bằng xúc giác và hệ thống dấu hiệu cử chỉ dành cho người câm.
Trước khi có văn tự con người vẫn có tư duy, khám phá và chuyển giao thành quả, tức vẫn có tiến bộ. Dịch học tuần tự có 3 hệ thống:
– Dịch lý nút số.
– Dịch lý vạch quẻ.
– Dịch lý bằng văn tự.
Dịch học là tư duy của con người xưa. Vậy khi chưa có Dịch nút số con người suy nghĩ dựa trên cơ sở nào?
Trước Dịch học nút số đã có một nền Dịch học khác, đó là Dịch lý “hình tượng”, tức lấy chính các hình ảnh và hiện tượng tự nhiên làm Dịch tượng ̣để tư duy.

Hinh tuongKhi tìm hiểu về Dịch lý ta thường nói: Càn là trời, Khôn là đất, Ly là lửa… Như thế là đã đi ngược tiến trình của Dịch học. Đúng ra ta phải nói: Trời là Càn, Khôn là Đất… vì từ những hình tượng có thực trong cuộc sống người ta mới nén thông tin vào trong các Dịch tượng tạo thành hệ thống dấu hiệu làm công cụ cho tư duy.
Dịch lý thô sơ dựa trên các hình tượng đã hệ thống hóa sau. Dịch học hình tượng lấy Trời và Đất hay bầu trời và quả đất để biểu thị cho không gian. Lấy Mặt trời và Mặt trăng để biểu thị cho ngày và đêm, tức chỉ thời gian. 4 quẻ còn lại biểu diễn cho cái không gian hẹp, tức khuôn khổ trong đó con người ta sinh sống.
Dịch học nói: tại thiên thành tượng, tại địa thành hình. Hình ảnh biển cả và đất liền được dùng để tượng trưng cho mặt địa cầu là cái nền chở đỡ và dưỡng nuôi loài người. Đất và nước luôn đi đôi trở thành từ kép “đất nước”, đồng nghĩa với tổ quốc của mỗi người.
Hiện nay người ta cho là quẻ Đoài là cái hồ, thực ra không phải vậy. Khi nói Đoài là hồ, Cấn là núi là đã giảm tầm cỡ của Dịch lý. Kích cỡ của cái hồ hay quả núi có thấm tháp gì so với sự mênh mông của mặt địa cầu nên không thể nào trở thành một nguyên tố của Dịch học. Chỉ có biển cả hay đại dương, đất liền hay đại lục mới đủ tư cách gánh vác trách nhiệm đại biểu đó.
Tại thiên thành tượng. Hai hiện tượng tự nhiên trên bầu trời có ấn tượng sâu sắc trong đầu thánh nhân khi tác Dịch là: sấm sét và bão gió. Trời thì trong suốt đâu có nhìn thấy gì đâu, nhưng qua các hiện tượng chúng ta biết vật chất vẫn tồn tại ở đó. Thứ vật chất mà Dịch học gọi là nhẹ và trong, nhận định có 2 thể loại vật chất, một là chất đục và nặng, có thể nhân biết dễ dàng, còn một thứ trong suốt nên chỉ có thể nhận biết một cách gián tiếp thông qua các hiện tượng. Ở đây Dịch học chọn sấm sét và gió bão, chỉ cái không gian bao la trên đầu con người.
Bốn hình tượng: biển – đất và sấm – gió đủ để vẽ nên sinh cảnh của con người lúc ấy.
Từ 8 hình tượng của tự nhiên người xưa đã nén thông tin tạo thành 8 quẻ của Dịch học “tự nhiên”, tức Dịch học tiên khởi trước cả Dịch học nút số. Dịch học tự nhiên là tư duy của người Việt cổ hàng chục vạn năm cho tới khi được Dịch học nút số thay thế.
Hình tượng của Dịch lý tự nhiên sau đã tạo thành 8 quẻ (Bát quái):
– Trời tạo thành quẻ Kiền hay Kiện.
– Đất tạo thành quẻ Khôn hay Xuyên.
– Mặt trời hay ban ngày tạo thành quẻ Ly hay La.
– Mặt trăng hay ban đêm tạo thành quẻ Khảm hay Cống.
– Biển cả tạo thành quẻ Đoài hay Đoạt.
– Đất liền hay đại lục tạo thành quẻ Cấn hay Căn.
– Sấm sét tạo thành quẻ Chấn hay Thìn.
– Bão gió tạo thành quẻ Tốn hay Toán.
Dịch học hình tượng là Dịch học thô sơ. Sau này khi khối tri thức lớn thêm, đầu óc càng ngày càng mở mang và khi con người đã “chất biến” thì Dịch học cũng đổi thay. Dịch học nút số thay thế Dịch học tự nhiên. Hình tượng trở thành Dịch tượng với các thông tin chứa ở trong sâu xa và trừu tượng hơn.
Các hình tượng của Dịch lý tự nhiên đã cho chúng ta các thông tin về sinh cảnh lúc ấy:

Nơi sinh sống của cộng đồng người đã phát minh ra Dịch học là vùng ven biển.

Nơi đất liền với biển, từ cảnh quan cho đến sự cung ứng thực phẩm hàng ngày đều đến từ một môi trường kép “biển và đất”, từ đó mới sinh ra lưỡng nghi “Đoài và Cấn”. Quẻ Cấn còn được coi là tượng trưng cho “núi”. Việt ngữ có từ kép “khuất núi” để chỉ sự chết. Ý nghĩa này bắt nguồn từ việc mặt trời lặn ở hướng Tây. Với ý này ta thu được thông tin: người “tác” Dịch sống ở nơi phía Tây là núi và phía Đông là biển.
Thực vậy, chỉ có sống ở nơi ven biển mới có thể nhìn thấy đường “chân trời” nơi mút tầm mắt, từ đó nảy ra ý niệm: trời như cái bát úp trên mặt đất, chân trời là nơi cái miệng chén đặt trên mặt đất. Vũ trụ quan đơn sơ này chính là khởi nguyên của “trời tròn đất vuông” là ý niệm cơ bản trong Dịch học.
Xét như thế ta khẳng định Dịch học không thể ra đời ở vùng Thiểm Tây – Sơn Tây, cái nôi của Hán tộc, vì đấy là vùng đất nằm sâu trong đất liền. Ở nơi mà chỉ có cát với cỏ thì làm sao có thể tưởng tượng ra cặp lưỡng nghi Đoài và Cấn?

Cặp hình tượng “sấm sétgió bão” chỉ ra rằng cộng đồng người đã sản sinh ra Dịch học sống ở nơi mà mưa bão, sấm sét là chu kỳ lặp đi lp lại hàng năm.

2 “thiên tượng” này phải là một nếp hằn sâu đậm trong đầu óc người cổ thì nó mới có thể được cấp cho “tính đại biểu” của phần không gian hẹp trên đầu con người, tức là 1 lưỡng nghi của Dịch học. Sấm và bão ngoài sự hoành tráng vốn có nó còn là sống còn của cư dân nông nghiệp sau này vì sấm luôn kèm với mưa, mà mưa là yếu tố quyết định của canh tác lúa nước. Người Việt đã tổng kết “nước – phân – cần – giống” đủ biết mưa quan trọng như thế nào trong đời sống. Mưa bão sấm sét là một sự liên hoàn luôn đi với nhau nên thành 1 lưỡng nghi của Dịch học: Chấn và Tốn.
Lại thêm một khẳng định: quê hương của Dịch học không thể ở ngoài vùng “Châu Á gió mùa” vì chỉ ở vùng này Chấn và Tốn mới có tính chu kỳ và ảnh hưởng sâu sắc trên cuộc sống con người. Sơn Tây – Thiểm Tây, cái nôi của Hán tộc, rất ít mưa và hầu như không có sấm sét là hiện tượng sinh đôi của mưa bão, thử hỏi làm sao có thể tưởng tượng ra Chấn với Tốn?
Tổng kết thông tin trong bài viết này ta có: Dịch học đã ra đời ở Việt Nam. Cụ thể hơn là ở vùng đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, nơi mà phía Đông là biển, phía Tây là núi. Nơi mà hằng năm gánh không biết bao nhiêu là bão gió – sấm sét. Nơi mà bên Đông có rồng, bên Tây có tịnh, hướng Bắc (hướng của Dịch lý, tức hướng Xích đạo) có hổ và hướng Nam (xưa) có đầy thuồng luồng như đã chép trong truyền thuyết và trên trời nhiều hạc, mặt đất đầy hươu nai.
Riêng về loài nai thống kê khảo cổ học cho biết ở đất Việt cách nay vài ngàn năm hươu nai là loài thú săn chiếm tới trên 50% trong tổng số thú bắt được. Cá biệt có nơi xương hươu nai chiếm tới trên 75%. Vì điều này chúng ta hiểu được tại sao Dịch học nút số dùng số 6 là lục hay lộc, tức con nai, tượng trưng cho mặt đất nơi mình sinh sống. Ở Thiểm Tây – Sơn Tây có nai hay lộc nhiều như thế hay không?
Tớí đây ta có thể tạm kết về Dịch học hình tượng. Dịch học hình tượng là một hệ thống gồm:

  • 8 hình tượng tự nhiên: Trời – đất, mặt trời – mặt trăng, biển cả – đất liền và sấm sét – gió bão.
  • 6 chữ nguyên hình (điểu thú văn): Hạc – lộc – hổ – sấu – long – tịnh.

Và các hình tượng đặc biệt:

  • Mặt trời: là nguồn sáng, cũng là nguồn sống được coi như biểu tượng của đấng tối cao và được nhân cách hóa thành ông trời.
  • Con người: là trung tâm của vũ trụ nơi xuất phát mọi giá trị.
  • Biểu tượng bộ phận sinh dục nam, người Viêt gọi là “nõn” hay “lõ”, người Chăm gọi là “Linhga”.
  • Biểu tượng bộ phận sinh dục nữ, gọi là “nường” hay “lường”, người Chăm gọi là “Yoni”.

Linhga và Yoni chính là biểu tượng xưa nhất của Âm và Dương, được coi như một biểu tượng tôn giáo trong các nền văn hoá Chăm và Khơme cổ. Người Việt xưa vẫn có tục rước “nõn- nường”. Sử sách Trung Hoa chép: Chu Công đã cấm tục thờ sinh thực khí, tức “nõn-nường” trong ngôn ngữ Việt hiện nay. Linhga và yoni đã được xác định chính là Âm và Dương trong 2 danh từ “âm hộ” và “dương vật”, tức bộ phận sinh dục nữ và nam.
Như vậy qua bài viết này ta thấy Dịch học hình tượng là khởi nguyên của Dịch học, nền Dịch học ra đời từ khi con người còn chưa biết đến chữ, dù là loại chữ “kết thằng” cổ xưa, và nó đã đồng hành cùng con người cả trăm ngàn năm. Cùng với tiếng nói hay “điều – tiếng”, Dịch học tự nhiên đã trở thành cái nền của tư duy, khám phá, ứng dụng và truyền thông. Dịch học hình tượng là căn đế của một nền văn minh vô cùng rực rỡ nhưng đang tạm thời bị vùi lấp và cũng đang dần toả sáng./.

Phường Trường Súng

Trích bài viết của L. Cadière đăng trong Những người bạn của cố đô Huế, BAVH năm 1925.
Bản dịch của Hà Xuân Liêm, NXB Thuận Hóa, 2002.

II. NHỮNG HỒI KÝ VỀ CHÚA NGUYỄN
Chúng tôi sẽ không cho bắt đầu phường Trường Súng từ hướng cực Đông của con đường mang cùng tên với phường này. Như vậy chúng tôi sẽ phải nói đến toàn bộ vùng Phủ Cam. Người ta đã cho con đường Trường Súng một chiều dài quá mức. Con đường này đã được phân ra, và phần bên dưới từ cầu chợ Phủ Cam xuống đã được đặt là đường kè bờ sông mang tên là Forçant. Con đường này sẽ còn rút ngắn lại nữa, và điều này hợp lý. Vậy chúng ta sẽ khởi hành từ nhà ga, vì từ đó đến nơi ra khỏi thành phố, con đường dẫn tới Trường Súng, rất đáng được mang cái tên của di tích lịch sử này.
Con đường Trường Súng này như đã được định ranh giới cho đến xưởng máy vôi Long Thọ, hai bên đường được bao viền bởi nhiều dấu vết kỷ niệm mà các chúa Nguyễn của Huế, qua tiến trình nhiều thế kỷ, đã để lại nơi đây.

*
**

Tôi không hiểu có còn một bản đồ về phường Nhà Ga không, vì trước khi xây dựng con đường sắt làm sao khỏi dẫn đến sự đảo lộn hoàn toàn vùng đất này, có một số di tích lịch sử rất lý thú có thể đã bị phá hủy mà kỷ niệm về chúng đã bị quên lãng hẳn, hoặc chỉ được lưu giữ bởi những người mà người ta không dễ gì đến hỏi han tham cứu. Trong vùng đất mà ngày nay người ta dựng lên xưởng làm nước đá của ông Bogaert, ngày xưa đã có những chuồng nuôi voi của nhà chúa. Chúng ta cũng sẽ thấy những chuồng khác nuôi voi ở thượng lưu, gần Trường Súng. Xưa kia, nhiều đội tượng binh được lập rải rác ở nhiều nơi. Chính trong Hoàng cung cũng có một đội tượng binh, và những đội khác thì có chuồng nhốt ở trung tâm làng Kim Long. Tôi đã nói ở một bài khác, tất cả những điều có liên quan đến các con vật đi diễu hành và đi đánh trận này (BAVH, 1922). Hôm nay tôi không nói lại ở đây nữa.
Những chuồng voi này được thiết lập trên con đường phục vụ giao thông cho chuyến đò ngang gọi là đò Trường Súng. Con đò này tạo sự thông thương giữa bờ phải với bờ bên trái con sông. Nếu người ta tiếp tục đi theo con đường này về hướng Nam, thì có một đoạn giốc đứng dẫn lên đỉnh một vách đứng thống ngự gần nhà Ga, và con đường đã kéo dài ra bởi đoạn mà các bản đồ của Sở Công chánh gọi là đường “song song phía Tây”, ngày xưa đường này thường được dùng trước khi người ta cho mở đại lộ Nam Giao.
Về phía trái, người ta thấy có ngôi chùa Phật giáo là chùa Báo Quốc, mà ông Labonde đã kể cho chúng ta biết về lịch sử của nó (BAVH, 1917), và về phía phải có hai ngôi miếu quan trọng: miếu Lịch Đại, và miếu thờ vua Lê Thánh Tôn. Miếu Lịch Đại, được xây dựng trên đất Dương Xuân, và được dành để thờ “các triều vua chúa” ngày xưa (*). Miếu này được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ tư, như bức hoành ở gian giữa miếu đã chỉ rõ điều này: “Minh Mạng năm thứ tư, tháng năm, ngày tốt tạo lập (9 Jiun – 8 Juill. 1823). Toàn bộ được trở mặt về hướng Nam và gồm có ngôi miếu chính năm gian, hai nhà tả hữu vu, ngôi tả vụ bên trái ở hướng Đông, ngôi hữu vu bên phải ở hướng Tây. Ở gian chính giữa của ngôi miếu chính người ta thờ các vị hoàng đế huyền thoại hoặc thuộc lịch sử vào thời đầu của đế quốc Trung Hoa. Gian thứ nhất bên trái, nghĩa là gian về hướng Đông tôn trí những bài vị của các vị vua thuộc cổ tích, hoặc có tính cách bán lịch sử của nước Nam, người ta đã phối thờ vào gian này vị vua lập nên triều đại quốc gia đầu tiên là Đinh Tiên Hoàng. Gian thứ nhất bên phải, hướng Tây, được dành để thờ các vị vua sáng lập ra triều đại nhà Tiền Lê, các vị Hoàng đế chính của triều đại nhà Lý. Gian thứ hai bên trái và bên phảo được kính cẩn dành để thờ một số vị vua đời nhà Trần và nhà Hậu Lê. Cuối cùng, hay dãy tả vu hữu vu tôn trí những bài vị các vị công thần của các vua nói trên, mười lăm vị thờ ở tả vu và mười lăm vị thờ ở hữu vu. Vua Minh Mạng thích định quy tắc thờ tự một cách tỉ mỉ cũng như mọi điều khác, nên vào năm 1830, ngài cho chạm bài vị Sãi Vương, để đưa vào thờ ở Văn Miếu, một cách thuần túy và đơn giản, ngài đã bỏ những tôn thờ vinh dự dành cho vua Lê Anh Tôn. Vào năm 1835, ngài cho thỉnh bài vị Thái Công Vọng vào thờ ở Võ Miếu.
Với toàn thể các ngôi nhà ấy, ở đàng sau còn có một ngôi nhà để sửa soạn đồ lễ cúng hiến, tất cả được một bức tường không cao lắm bao quanh. Trước mặt tiền chính,  người ta cho xây lên một cổng tam quan có 3 cửa vào miếu mà ngày xưa có trình bày nhiều câu văn khắc, cả bên trong lẫn bên ngoài. Trên của chính giữa, ở bên trong người ta đọc được câu văn khắc: “Khi nhìn ở phía trước thì quang cảnh này rất tuyệt diệu” và câu văn khắc ở bên ngoài là: “Các vị hoàng đế và các vị quốc chúa kế vị nhau“. Trên hai cửa ở bên trái, hướng Đông, ở bên phải, hướng Tây thì bên phía trong khắc: “Nguyên tắc về lễ mà các đấng tiên vương đã vạch ra, chói lọi trong sử sách thời quá khứ“, và “Ảnh hưởng đáng trọng của chư vị tiên vương đem lại thái bình an lạc cho Nam quốc“; và ở phía ngoài khắc: “Danh thơm về đạo đức của các tiên vương hiện nay vẫn còn phảng phất nơi đây cũng như trong các thế kỷ quá khứ” và “Quy tắc trị nước cũng lan truyền khắp phương Bắc phương Nam“. Những câu chữ khắc này nay không còn nữa.
Năm Thành Thái thứ 14 (1902), đều được trùng tu toàn bộ. Điều này không muốn nói rằng miếu đang ở tình trạng tốt (ĐNNTC, q.1 tờ 16).

*
**

Miếu thờ Lê Thánh Tôn cũng không còn. Miếu đã bị triệt hạ và người ta chuyển hết vật liệu đi nơi khác, để dùng vào các công việc khác. Người ta không còn thấy gì hơn là cái nền miếu, những mảnh vụn của tường thành và phần bên dưới cổng vào mà phần trên của nó đã được xây theo một kiểu thức đặc biệt. Miếu này không quan trọng bằng miếu Lịch Đại, mà chỉ có một mái nhà ở giữa với phần máu nhô ra trước mặt. Miếu này xây về mặt hướng Đông. Vị hoàng đế mà người ta thờ trong đó thì ngày xưa, tại Huế, cũng đã có một miếu thờ riêng, nhưng miếu này đã bị hư hoại từ lâu, khi vua Gia Long cho xây lại miếu này, vào năm 1809, ở phía Đông và có hơi xích xuống phía miếu Lịch Đại…. (Lược đoạn nói về vua Lê Thánh Tôn).

*
**

Nếu từ miếu Lịch Đại, người ta đi theo con đường “song song hướng Tây”, leo qua nhiều ụ đất nhỏ màu hơi đỏ, thì khi đi hết hai hoặc ba trăm mét người ta đến một ngôi miếu được dành để thờ Hỏa Thần, miếu dựng trên địa vực làng Phú Xuân.
Ngôi miếu này vừa được cải dụng; chính quyền đã nhượng lại cho Đệ Cửu, thuộc thành phố Huế (phường Nhà Ga) là đình phường tại đây và thờ các vị thổ thần vùng ngoại ô.
Chính vào năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nhà vua đã xuống dụ xây dựng miếu Hỏa Thần, ngài đã phong cho vị Hỏa Thần một đạo sắc phong. Hằng năm, ngày 23 tháng 6 âm lịch, người ta phải dân tế thần một lễ tam sinh: trâu, heo, dê và xôi. Các quan tỉnh Thừa Thiên được ủy nhiệm cúng tế, và 9 người dân làng Phú Xuân được giao cho việc canh gác, giữ gìn ngôi miếu. Vào năm 1825, việc xây miếu hoàn thành, vua Minh Mạng đã ban hành một chỉ dụ cho tổ chức lễ khánh thành vào ngày 15 tháng 6 âm lịch (30 Juillet) để làm lễ “an vị thần vị” của thần. Một đại biểu của Lục bộ đứng làm chánh tế biểu lễ.
Ngày xưa, miếu Hỏa Thần được xây dựng trong kinh thành, ở phía Bắc kinh Ngự Hà, trên địa vực làng Phú Xuân. Tôi không tìm được tư liệu chỉ rõ năm nào thì đền được chuyển về vị trí mà chúng tôi đang nghiên cứu hiện nay.
Vào năm Đồng Khánh nguyên niên (1886), người ta thiết thêm ở miếu này nhiều thần vị của các Hỏa Bác Thần mà ngôi miếu của Hỏa Bác Thần vừa bị triệt hạ.
Ngôi cổ miếu thờ Hỏa Bác Thần cũng có lịch sử của nó. Chính vào năm 1826, vua Minh Mạng đã cho xây dựng miếu này. Vua đã ban hành một sắc chỉ về vấn đề không kém thú vị để nghiên cứu tín ngưỡng của người nước Nam.
Súng đại bác có một tầm quan trọng cực kỳ trong nghệ thuật chiến tranh; sức mạnh phá địch của súng do một oai linh đáng sợ mà có. Tuy nhiên cho đến bây giờ, người ta chưa hề có một sự thờ cúng thần đại bác. Vậy, Trẫm xuống dụ cho các quan có thẩm quyền chọn một nơi thích đáng và xây lên một ngôi miếu tại đó, và người ta sẽ tôn thờ vị đại bác thần tại miếu này, vài những lúc phải có, thì lễ cúng bái thần được cử hành tại miếu. Ngoài ra, Trẫm sẽ phong cho vị thần này tước hiệu: “Linh Uy viễn Chấn hỏa Bác chi Thần”. Các quan phải tuân theo lời dụ này. Miếu sẽ được xây trên địa vực làng Phú Xuân, hàng năm, vào ngày mùng một tháng 9 âm lịch, các quan phải dâng một lễ tế ở miếu này cũng như ở miếu Hỏa Thần, một quan Quản vệ của súng Đại bác và Hỏa thần sẽ đứng ra chủ tế trong lễ này; 9 người dân làng Phú Xuân được giao nhiệm vụ giữ miếu“.
Vào năm 1836, vua Minh Mạng đã quy định việc thờ cúng tám khẩu đại bác đã được chở vào Sài Gòn vào những năm trước, trong dịp nổi loạn của Lê Văn Khôi, sau đó súng lại được đưa về Huế sau khi khôi phục được thành Gia Định (Sài Gòn) và quân nahf vua chiến thắng. Tám khẩu thần công này đã nhận được sắc phong tước để thờ cúng. Đó là “Thần Vũ Phá địch Thượng tướng quân Bác vị Oai linh chi Thần”. Tước này được khắc trên biển đồng của một khẩu súng, Một ngôi đền được dựng lên để thờ tám khẩu đại bác thần công này; mỗi năm trong đền đó, vị quản vệ Thần công và Đại bác sẽ lo liệu sửa lễ dâng cúng tám vị thần công này. Một chỉ dụ khác đã quy định chỉ rõ việc thờ cúng các khẩu thần công này, trước khi xây dựng ngôi đền, trong chính xưởng để súng; tại đây một ông Quản vệ của Thần công và Đại bác cũng đã phải dâng biện một lễ cúng vào ngày mồng 2 tháng 9 âm lịch mỗi năm. Người ta thấy rằng vua Minh Mạng đã nôn nóng để tỏ sự biết ơn của ngài đối với những khẩu đại thần công đã đem lại chiến thắng cho ngài đối với cuộc nổi loạn đáng sợ đã đe dọa ngôi báu của ngài.
Vào năm 1844, vua Thiệu Trị cho đặt vào miếu Hỏa Bác Thần, một số thần vị của vài ba khẩu súng cũng được nâng cao giá trị thiêng liêng của chúng lên. Một chỉ dụ lạ lùng đã dành để nói về việc này: chỉ dụ ấy đã cho chúng ta biết lịch sử của các khẩu súng đó và đồng thời, nó cũng cho chúng ta biết về những tình cảm của nhà vua.
Ngày xưa, người ta rất thánh phục cây cung và những mũi tên. Ngày nay người ta đã sáng chế ra súng thần công, chúng đã bỏ xa sau lưng chúng tất cả những vũ khí về quân sự và chúng nắm hết mọi giá trị về chiến tranh.
Đấng cao hoàng Gia Long của Trẫm, được trời phú cho tất cả mọi phẩm chất, về quân sự cũng như về nhân sự, đã chỉ hay những đạo quân của ngài với sự thành công trọn vẹn và đã bình định được toàn quốc gia. Trong những trận đánh của ngài, ngài đã sử dụng một khẩu súng có giá rất đắt, khẩu súng có tiếng nổ uy nghiêm của sấm sét, và nó làm cho khắp nơi đều run sợ. Nhờ vào thứ vũ khí đó, ngài đã phục hưng được triều Nguyễn và nhất thống toàn quốc dưới vương quyền của ngàu, và nhờ nỗ lực của ngài, ngài đã mở rộng biên cương của quốc gia. Thứ vũ khí này, mạnh hơn tất cả các thứ vũ khí mà người ta đã từng thấy, nó đã vượt qua cả Kiếm Hán và Cung Đường.
Dưới triều Minh Mạng, phụng du nhà vua, khẩu súng này đã nhận tước phong là “Võ Công Lương khí Bửu thương”.
Hoàng đế Minh Mạng, phụ hoàng của Trẫm, mà đức độ của ngài đã thấm nhuần toàn vương quốc và võ công của ngài đã vang dội vượt qua cả biên giới, vào mùa xuân, ngài đã đi săn để giải lao. Vào ngày hôm đó, trong vùng mà người ta đã bao vây, có một con cọp rất lớn, nhảy từ núi ra, bắt người để ăn thịt, mà không có ai dám đuổi nó. Phụ hoàng của Trẫm, đầy dũng khí uy nghi đáng sợ, đã chụp ngay khẩu súng quý mà ngàu thường dùng, kê súng lên vai và bắn chết ngay con cọp hung dữ, và như vậy, ngài đã giải thoát cho những người dân luôn luôn lo sợ quanh vùng. Khẩu súng ấy được phụ hoàng Trẫm ban cho tên là “Sát Hổ thương” (Về khẩu súng này, xin xem bài: Lăng Gia Long (L. Cadière) trong BAVH, 1923). Sau đó, ngài luôn luôn dùng khẩu súng này trong những cuộc săn bắn mà ngài tổ chức để săn các động vật phá hoại mùa màng.
Khi Trẫm còn nhỏ, Trẫm thường theo hầu phụ hoàng; ngài đã dạy cho Trẫm những quy tắc lễ giáo, Trẫm đã luyện tập võ nghệ. Phụ hoàng Trẫm đã ban cho Trẫm khẩu súng quý mà ngài thường sử dụng nó, ngài dạy Trẫm tập bắn cho trúng đích; nhờ hồng ân đấng cao xanh, Trẫm đã ngắm bắn trúng đích, và khẩu súng được phong tên là “Toản Võ thương”.
“Ngày xưa, vào thời nhà Hán, người ta đã xây dựng một ngôi miếu, trong đó thiết lập sự thờ tự cây kiếm; vào thời đại nhà Đường, người ta đặt vào xưởng quân giới một cây cung lớn và một cây tên dài, mà người ta thường tôn thờ cung tên ấy khi có lễ tế Trời, tế Đất; người ta đặt lễ vật trước những vũ khí ấy, để tỏ lòng cầu nguyện mà người ta muốn cầu cho sức mạnh chiến trận của chúng. Hiện nay, người ta dùng súng đại vác và súng thường để đánh quân địch với sức mạnh hơn nhiều, những thứ vũ khí ấy bẩm sinh một sức mạnh siêu nhiên, vậy nên Trẫm hạ chỉ dụ rằng khẩu “Võ Công Lương Khí Bửu Thương”, sẽ được gọi “Thần Võ Phá Địch Đại Tướng Quân Oai Linh chi Thần”. Khẩu súng tay “Sát Hổ thương”, bên cạnh tên gọi cũ, được phong tước “Thần Võ Oai Linh Đại Tướng quân…” Khẩu súng “Toản Võ Thương”, ngoài tên thường gọi, cũng sẽ được gọi “Thần Võ Hộ Quốc Oai Linh, Đại Tướng quân…“.
Các đạo sắc phong được giao cho súng, các bài vị để dành cho súng để thờ trong miếu “Hỏa Bác Thần”, có mục đích nhắc người ta nhớ lại giá trị của các vũ khí bằng cách thờ tự chúng liên tục, và trong các lễ cúng hiến thường kỳ, nhắc người ta nhớ lại các vũ khí đó mà quân nổi loạn bị dẹp tắt và dân được hưởng hòa bình.
Trong các gian ở hai bên miếu thờ, người ta sẽ đặt hai ban thờ thứ cấp, trên bàn thờ bên trái, sẽ thờ vị thần “Võ Công…” và thần súng “Sát Hổ…”; trên bàn thờ bên phải người ta dành để thờ thần súng “Toản Võ Thương”. Ở mỗi bàn thờ, cũng như ở mỗi bàn thờ tại Hỏa Bác thần miếu, mỗi năm, người ta dâng cúng một con heo luộc, một mâm xôi, và ba mâm quả. Vị Quản Vệ Thần Công và Đại Bác sẽ đứng chủ lễ lễ tế này”.
Ngày nay, sau việc cải dụng miếu Hỏa Bác Thần, việc thờ tụng tất cả các vị thần có tiếng nổ như sấm vang và có sức phá hoại, nhưng lại là những vị thần bảo hộ sức mạnh của quốc gia ấy, được đem thờ, theo như người ta nói với tôi, trong miếu Hội Đồng, xây trên địa vực làng Triều Sơn.
Theo tín ngưỡng dân gian An-nam, tất cả mọi vật đem lại sự phụng sự con người đều được xem là có bẩm sinh đức hạnh đặc thù cần phải bồi đắp, bởi vì đức hạnh này có thể hiển lộ ra, khi con người có vận may hạnh phúc; hoặc nó có thể tạo nên sai lầm, và lúc đó chính là sự thiệt hại cho con người. Hơn nữa, những vật này đều được xem như nằm dưới sự che chở của một vị thần, vị thần này sẽ sử dụng chúng theo ý muốn để đem lại phúc hoặc họa cho con người. Cũng chính một số trong các vật này, khi chúng mang tính cách dị thường, hoặc bởi những công việc lặp đi lặp lại mà chúng đã đem đến cho con người, hoặc bởi những tai họa mà chúng gây ra cho con người, thì đều được xem đó là chính những vị thần và phải tôn thờ như vậy. Ở đây không phải là nơi để nói rộng về các lý thuyết này, cũng không phải là nơi để dẫn ra những ví dụ, vì chúng nhiều vô số. Mặt khác dân gian còn tôn thờ nhiều yếu tố, trong số đó thì “Bà Hỏa” giữ một vai trò quan trọng nhất.
Chúng ta thấy rằng sự thờ cúng chính thức của nhà nước thuận theo những tín ngưỡng thờ cúng của dân gian. Thần Súng, mà vua Minh Mạng đã cho dựng miếu thờ, và theo những quy định đã ghi thành văn bản, chính quyền địa phương phải dâng vật cúng nhiều lần trong năm cho thần súng thờ trong miếu đó, đều phù hợp tương ứng với “Bà Hỏa” mà dân gian tôn thờ. Mặt khác, các khẩu đại bác vốn có một hỏa lực mạnh, và chúng đã đảm trách những công việc không gì sánh nổi cho vương quốc: bởi vậy , chúng được đặt dưới sự bảo hộ của một vị thần, vị thần này đã ban cho chúng sức mạnh mà chúng hiện có, và vị thần này đã đặt sức mạnh này vào việc phụng sự Quốc GIa. Vậy phải đền đáp những ân huệ của vị thần này bằng sự thờ phụng chính thức. Cũng vì vậy mà một vị quan có phẩm trật cao coi về Thần Công và Đại Bác tức là quan Quản Vệ, được giao trách nhiệm lo biện lễ thờ cúng vị thần ấy.
Ngoài những khẩu đại bác và những súng cầm tay được thần hóa mà chúng ta vừa nói đến, thì một số khác cũng đã nhận được những vinh dự như vậy. Mọi người đều biết những khẩu Đại Thần Công, có 9 khẩu tất cả, được đặt trước cửa Ngọ Môn. Đó là những “Vị chỉ huy tối cao của quân đội hay là những vị Đại Tướng Quân, mà tính cách Uy Nghi của các vị Đại Tướng Quân ấy cũng ngang với với vẻ Uy Nghi của các vị Thần, không có gì sánh nổi” (BAVH 1914). Linh mục Kofffler vào năm 1750, cũng đã thấy được những khẩu thần công tương tự đặt ở cổng vào chính dinh của Võ Vương, một vị chúa Nguyễn ở Huế; và ông Dampier, một khách du lịch người Anh đã sống ở Thăng Long (Hà Nội) vào cuối thế kỷ thứ XVII, cũng đã thấy được một khẩu đại thần công như thế và cũng giữ nhiệm vụ của vị thần siêu phàm bảo hộ cho vương quốc, đặt trước cung ohur Trịnh Căn (BAVH, 1915). Những khẩu đại thần công hiện nay ở Hoàng Cung, cũng như những khẩu đại thần công ngày xưa, hẳn đã mang tính cách tôn giáo. Chúng đã mang tính chất này ở nơi chiều kích của chúng, tính chất này tưởng chừng là có một sức mạnh rất lớn. Nhưng, những súng cầm tay đơn giản cũng đã có sức mạnh của một vật siêu phàm, như vua Thiệu Trị đã nói về điều này trong chỉ dụ của ngài. Bởi vậy, người ta phải thờ tự tôn sùng các vị thần công ấy, hay đúng hơn là vị thần đã trao cho chúng sức mạnh của chúng. Tôi nói cái gì nhỉ? Những ống đồng tầm thường mà buổi chiều, khi đêm xuống, buổi sáng, vào lúc bình minh, người ta cho nổ lệnh đóng mở các cửa Kinh Thành; và, vào buổi trưa, cho nổ để chỉ nửa ngày thì đều được những người lính có phận sự giữ để cho nổ lệnh ấy gọi là “Ông Linh”, và họ cũng tổ chức việc cúng bái thờ phụng chúng, thật là thô lỗ và ấu trĩ, hay là cúng bái ông thần đã cho chúng tính năng hiệu lực đó (**).

*
**

Không phải là không có ý định mà người ta đã đặt ở vùng này những ngôi miếu thờ Hỏa Thần và thờ Hỏa Bác thần. Cẩ hai ngôi miếu ấy có quan hệ chặt chẽ với nhau với một toàn bộ những kỷ niệm có liên quan đến pháo binh.
Chúng ta thấy ngay rằng, những xưởng đúc súng đại bác đều đặt ở một hoặc hai cây số trên đỉnh đồi vùng chúng ta đang đứng; và, không xa các xưởng đúc đại bác là các kho thuốc súng. Chúng taooi đã nói đến chuyến đò ngang, gần nhà Ga, làm phương tiện nối vờ phải của con sông với bờ bên trái, có tên là đò Trường Súng, có nghĩa là “trường bắn súng đại bác”. Chính là chuyến đò ngang này đã đưa những toán lính ở Vệ Hỏa Pháo sang sông để đi lên trường bắn. Chính Trường Súng lại nằm cạnh miều Hỏa Bác Thần, ngày nay trở thành đình chung của phường Đệ Cửu. Thực vậy, trước đền này, trên bờ những đám ruộng như tấm thảm xanh của vùng thung lũng nhỏ, có một cái giếng cổ, tất cả dân làng lân cận đều ăn uống nhờ nước giếng này; bởi vậy, giếng phải có từ thời rất xa xưa. Giếng có cái tên gọi là giếng Trường Bia. Giếng này nằm ở cực hạ của miitj miều trũng nhỏ, vùng trũng này dài khoảng một trăm mét, rộng từ hai mươi đến ba mươi mét, trũng này tách ngọn đồi nhỏ trên đó người ta xây miếu Hỏa Bác Thần với một mô đất khác trên đó, chính giữa các vườn tộng, người ta xây lên ngôi chùa Huệ Lâm thuộc Phật giáo theo lời những người dân ở vùng đó thì chính trong vùng trũng này người ta đã thực hiện những lần tập bắn. Hẳn đây là sân tập bắn súng cầm tay, vì, đối với việc tập bắn đại bác, thì phải tập ở một nơi khác như chúng ta sẽ đến xem sân bắn đó, ở phía Tây miếu thờ Đại Bác thần. Thật là thú vị khi đến viếng chùa Huệ Lâm. Sát bên chùa , có một cái giếng cổ, hiện nay đã cạn, với hang cột bằng nề đỡ cái tời (treuil) gang ngang, ngày xưa dùng kéo gàu múc nước. Hơi xa một ít, người ta cũng thấy một cái mộ nhỉ, được trang trí một mô típ mỹ miều của ngành điêu khắc, tháp mộ nhỏ này trà táng xương cốt của nhà sư gọi là “Thiền sư, Hòa thượng Tịnh Công, được vua ân ban thụy hiệu này“.

*
**

Về phía Tây của ngôi miếu Bác Hỏa Thần, những ngọn đồi nhỏ tiếp nhau hạ thấp dần sườn đồi xuống một cách nhẹ nhàng và chìm sơn mạch xuống cánh đồng bằng toàn ruộng. Tại cánh đồng đó có hai mô đất lớn, gọi theo tiếng nước Nam là “Hòn Mô” tức là “những mô đất để làm bia bắn”, nhắc lại dấu tích trường tập bắn súng của Pháo binh. Cả hai mô đất trường bắn đều nằm trên địa vực làng DươnG Xuân Hạ. Mô thứ nhất nằm gần thôn Xuân Giang, mà chúng ta sẽ đến xem tức khắc, vì vấn đề là cung vui chơi của Võ Vương gần đấy; mô này đo được 32 bộ chiều dài, 20 bộ chiều rộng và gần 2m chiều cao. Mô thứ hai, không xa miếu Thành Hoàng, có chiều kích gần bằng mô trên, nhưng nó lại cao hơn nhiều: dài 35 nộ, rộng 15 bộ và cao gần đến 5. Cả hai gò đất ấy, ngày nay đều giảm thấp xuống và đã bị cây cỏ hoang dại xâ, chiếm; nhưng những chiều kích của chúng còn lưu dấu có thể cho ta đoán được tầm quan trọng ngày xưa và công dụng của chúng vậy.
Người ta nói đến việc xây dựng “Một sân bắn cho súng đại bác” vào năm 1747, trong tháng 9 âm lịch, kéo dài từ mồng 4 tháng October đến mồng 3 Nomvembre. Chính dưới triều Võ Vương, vị chúa đã tổ điểm nhiều cho Huế, và chúng ta sẽ gặp tức khắc một kỷ niệm mới. Người ta không nói rõ nơi mà trường bắn này đã được lập, nhưng một cách chắc chắn là nơi mà chúng tôi hiện đứng đây.
Thực vậy, tôi không biết chỗ nào khác, trong các vùng quanh Huế, có mang cái tên Trường Súng này. Người ta đã tập bắn súng đại bác ở Thanh Phước, những bục bắn ở đây được dành cho các khẩu súng của Thủy quân; bục bắn này được sử dụng vào đầu thế kỷ thứ XIX, nhưng Biên niên triều Nguyễn lại nói rõ là việc xây dựng từ 1642. Cũng vậy, bục bắn mà Dutreuil de Rhins đã thấy ở Thuận An, vào năm 1876, dùng để tập bắn súng tay. Hơn nữa, thật là bình thường khi cho rằng Trường Súng nằm cạnh vùng mà tại đó người ta đúc hỏa pháo; thế mà, người ta đã biết điều này, từ hơn một thế kỷ, xưởng đúc đại bác lại nằm khoảng chưa đầy một cây số phía bên trên vùng mà chúng tôi đang đứng. Một lý luận mới lại xuất hiện từ sự hiện hữu cung điện mùa hạ của Vĩ Vương, ở cách trường bắn vài trăm mét về bên trên. Chúng ta đang ở vào năm 1747. Thế mà, từ khi lên ngôi chúa từ năm 1738, Võ Vương đã không ngừng xây dựng cung điện; vào năm 1744, tất cả đều hoàn thành; nói một cách đúng đắn, thì cách một khoảng ngắn nằm phía trên sân bắn, đã có cung Trường Lạc dùng làm nơi nghỉ mát cho Võ Vương. Vị chúa này đã thường tổ chức những cuộc nghỉ ngơi tại đây. Hiển nhiên là Võ Vương đã xây dựng trường bắn đại bác không xa cung điện của ngài, để kiểm soát những bài tập luyện đội quân hỏa pháo của ngài. Vậy, một cách chắc chắn là trường bắn mà chúng tôi đang nói đây thì sự thiết lập nên nó đã được nói đến trong các tập Biên Niên Sử năm 1747.
Trường bắn này không phải là vô dụng. Pierre Poive, thương gia người Pháp đã đến Huế vào thời này, đã cung cấp cho chúng ta chứng cứ. “Ngày 10 [Novembre 1749]. Tôi đã đến viếng một ông quan lớn hay còn gọi là quan Hieou tlaon(***). Ông quan này có nhiệm vụ tập luyện bắn súng đại bác, ông đã gởi cho tôi biết những lời biện giải của ông mà ông không có khả năng nhận cho tôi, và ông đã cầu xin tôi hãy lui tới nhà ông ba hoặc bốn lần trong tháng này [12 hoặc 13 Nomvembre]”.
Tôi tin rằng những bục bắn này cũng đã được dùng để làm bãi tập cho những Vệ Hỏa Pháp và vệ lính bộ, trong tiến trình của thế kỷ thứ XX. Nhưng tôi không thể dựa ý trên một tư liệu nào cả….
(Lược bỏ đoạn cuối).

* Lịch Đại Đế Vương Miếu – Con đường đi đến miếu này khá khó tìm. Người ta đi theo con đường lớn Nam Giao, và ngay sau khi đi ngang qua đường sắt ngã vào Đà Nẵng, thì quay về phía phải, đi dọc theo cổng chắn của nhà ga, và leo lên cái dốc dẫn đến cách núi đá thẳng đứng thống ngự cả vùng nhà ga; một con đường đất nhỉ, đi khá khó khăn, dẫn đến miếu Lê Thánh Tôn và đến miếu Lịch Đại Đế Vương – hoặc là, sau khi đi qua kênh Phủ Cam ở cầu Ga, đi theo đường Trường Súng, vượt qua con đường ga ngập nước, và sau độ một trăm mét đi theo con đường chạy về phía trái, xuyên qua đường đi Quảng Trị, và các lối của xưởng sửa chữa, leo lên cái dốc dần đến đỉnh vách núi đá thẳng đứng thống ngự vùng nhà Ga, và tiếp tục đi đến miếu Lịch Đại. – Người nước Nam thường đọc thành Lịch Đợi hay Lịch Đại.
** Cũng là một điều thú vị để nói rằng, hoặc theo quan điểm lịch sử, hoặc theo quan điểm niềm tin của An-nam, về miếu thờ thần Mưa được xây dựng gần đền thờ Thần Súng. Hai miếu thờ này đã dự phần vào cùng một vòng thờ phụng, cũng như sự thờ phụng các vị Thần khác nhau: thần nước, thần bốn mùa, thần gió; các miếu thờ các vị thần này đều được xây dựng trong vùng Thuận An, ở cửa con sông Hương, và sự thờ phụng các vị thần núi.
*** Ông Hữu Trọng, danh hiệu thường để gọi một trong bốn vị quan lớn của vương quốc, mà danh hiệu hành chánh của ông là “Nội Hữu”.