Kinh Dương Vương mở nước kỷ Hồng Bàng

Thần tích làng Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ là một bản thần tích đặc biệt, khác với những thần tích hay gặp khác vì nó không phải được biên soạn bởi các vị quan của triều đình, mà là tư liệu được ghi chép và lưu giữ bởi những người dân ở địa phương tại vùng đất tổ Phong Châu. Trong thần tích Tiên Cát có rất nhiều chi tiết về thời kỳ Kinh Dương Vương – Hùng Vương và có lẽ đây chính là tư liệu gốc cho việc biên soạn các bản ngọc phả Hùng Vương sau này. Đây cũng là một bằng chứng rõ ràng cho việc các truyền tích Hùng Vương đã được lưu truyền rất lâu từ trước thời Lê.

Thần tích Tiên Cát mở đầu: Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.

Nước ta bắt đầu được dựng nước từ vùng Nghệ Tĩnh, nơi có núi Hồng Lĩnh, được truyền thuyết gọi là Thứu Lĩnh, gần cửa biển Hội Thống. Vị Kinh Dương Vương đầu tiên đã mở nước và đóng đô tại đây.

Thần tích Tiên Cát kể tiếp: Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc….

Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang.

Vị Kinh Dương Vương đi tuần thú rồi mở kinh đô tại Phong Châu trên núi Nghĩa Lĩnh thì phải là Đế Minh. Truyện Họ Hồng Bàng cho biết: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ.

Ý nghĩa của đoạn truyện mở nước này là Đế Minh đã hình thành nên một vùng thiên hạ vạn bang với kinh đô đóng ở 2 đầu Nam Bắc. Thời kỳ mở nước Hồng Bàng có 2 phần là Lạc và Hồng (tức Nam và Bắc) với 2 kinh đô là Nghĩa Lĩnh và Thứu Lĩnh, do 2 vị vua chủ trị là Lộc Tục ở đất Lạc và Đế Nghi ở đất Hồng. Đất nước ban đầu được mở theo trục Bắc Nam.

Trong thần tích Tiên Cát, Kinh Dương Vương đã căn dặn con cháu: Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.

Đế Nghi là dòng chính thống của Đế Minh, nên tiếp nối cai quản ở vùng Cựu đô Ngàn Hống trên núi Thứu Lĩnh (dãy Hồng Lĩnh – vùng đất Hồng). Lộc Tục (Lạc tộc) là dòng bà Vụ Tiên, được thần tích Tiên Cát kể là bà Thứ phi của Kinh Dương Vương (Đế Minh), xuất xứ từ vùng miền núi châu Đại Man. Bà Thứ phi là dòng Tiên tộc (tức là dòng trên núi, chữ Tiên là người ở trên núi) nên nơi bà ở và được thờ mang tên là đền Tiên.

Câu kể thường gặp trong các thần tích: “Hoan Châu thắng địa kiến lập kinh đô. Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu miếu điện” diễn tả đúng quá trình mở nước theo hướng Nam Bắc của họ Hồng Bàng.

Thần tích Tiên Cát kể:

Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.

Nước Hồng Lạc sau khi phát triển theo trục Nam Bắc thì chuyển sang giai đoạn mở rộng theo hướng Đông Tây, mà được đánh dấu bằng sự kiện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Động Đình là vùng sông nước ven biển phía Đông, do một bộ tộc cư trú gọi là Long tộc. Kinh Dương Vương lúc này là Tản Viên Sơn Thánh đã kết duyên cùng với Thủy Tinh Động Đình, mở rộng dòng giống Lạc Hồng theo hướng tiến về phía Đông.

Tản Viên Sơn Thánh là vị chủ trị vùng Sơn Tây thì đã rõ. Bản thân chữ Tản là tính chất của quẻ Tốn, chỉ hướng Tây. Còn vị vua cai quản miền sông nước phía Đông chính là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương và Thần Long Động Đình. Long Quân được ghi là hóa sinh về biển làm Động Đình Đế Quân.

Đền Tiên Cát cũng thể hiện sự kết hợp của 2 dòng sông và núi, thể hiện ở việc Ngọc Tiên nương (Thứ phi của Kinh Dương Vương) kết nghĩa với 2 người con gái thủy phủ Long cung là Thủy Tinh và Bạch Hoa nương. Lạc Long Quân sau này còn cử thêm 3 hoàng tử trong dòng thủy phủ là Cự Linh, Ất Linh và Thông Thủy Long vương đến hộ giá các vị tiên nương ở cung Tiên Cát.

Như thế, cho tới Lạc Long Quân, người Việt họ Hồng Bàng đã hoàn thành thời mở nước họ Hùng về 4 hướng qua các triều đại Kinh Dương Vương ban đầu là:

  • Đế Minh, vị Hùng Vương đầu tiên, được thờ ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương, là vị Thái tổ khai sinh họ Hồng Bàng.
  • Đế Nghi, vị vua Hùng thứ hai, được thờ ở đền Hùng là Viễn Sơn Thánh Vương. Kinh đô chính ở Thứu Lĩnh trên đất Hồng phương Bắc xưa.
  • Lộc Tục, vị vua Hùng thứ ba, được thờ ở đền Hùng là Ất Sơn Thánh Vương. Lộc Tục là dòng Tiên tộc ở phương Nam xưa, kinh đô đóng tại núi Nghĩa Lĩnh, vùng đất Lạc.
  • Tản Viên Sơn Thánh, vị vua Hùng thứ tư, thường được gọi là Kinh Dương Vương, chủ trị miền rừng núi phía Tây.
  • Lạc Long Quân, vị vua Hùng thứ năm, chủ trị miền sông nước Động Đình ở phía Đông.

Thần tích Tiên Cát cho biết, Hùng Vương từ Kinh Dương Vương trải 18 đời tới Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Vương. Thục Vương khi đó đã rời đô về Cổ Loa, còn đất Phong Châu trở thành nơi sinh sống của nhân dân. Tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền, kéo đến bãi đá bên sông cạnh đền Tiên Cát, cho cưa phá những voi đá, ngựa đá chầu về núi tổ tại đây, chạm vào địa mạch linh thiêng từ thời Kinh Dương Vương. Hổ báo, kinh nghê đều nổi giận, tiến vào đất Tiên Cát mà giết đuổi quân nhà Hồ… Chi tiết này cho thấy những di tích bằng đá về Kinh Dương Vương và Hùng Vương đã hiện hữu ít nhất là trước thời nhà Hồ. Chắc chắn các tư liệu ghi chép và di tích thờ phụng Hùng Vương đã có từ rất sớm.

5 vị Kinh Dương Vương mở nước họ Hùng đầu tiên ở 5 phương, khởi đầu cho các nhóm tộc người Bách Việt sau này. Tản Viên Sơn Thánh là Nam Thiên Thánh tổ của Lạc tộc, tức là nhóm người Kinh Mường. Long Quân là Vua cha của Long tộc, sau này là nhóm Tày Thái. Đế Nghi là tổ của Viêm tộc phương Bắc xưa (Nam nay), sau là người La Lồi hay người Chiêm Hồ. Lộc Tục dòng bà Vụ Tiên là tổ của nhóm Miêu tộc, tức người Miêu Dao sau này. Một nhánh dòng Đế Minh là Đế Lai do cuộc tranh chấp với Lạc Long Quân đã phải chạy về phía Tây, sau là người Di Lão hay người Âu (trong Âu Cơ, Âu Lạc).

Ngũ tộc thời lập quốc họ Hùng đã bao trùm đầy đủ các nhóm tộc người của vùng Đông Nam Á. Cho nên vua Hùng là tổ của Bách Việt là chính xác. Thần tích chép: “Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt“.

Thần tích Tiên Cát cũng cho biết ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương vào tháng 3 âm lịch. Mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).

Trăm người con trai họ Hùng đã đồng sinh cùng bọc đồng bào và đồng hóa vào ngày 12 tháng 3. Ngày tháng 3 này chính là ngày giỗ tổ của trăm họ Bách Việt, gồm cả 5 nhóm tộc người đã nói ở trên. Giỗ tổ Hùng Vương không phải chỉ là giỗ tổ người Kinh hay người Mường, mà của trăm tộc người trên mảnh đất Việt, Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.

Thần tích làng Tiên Cát, tổng Minh Nông, huyện Hạc Trì, Phú Thọ

Chính ban thờ lục vị thần ở đền Tiên Cát.

Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.

Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:

– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?

Thiếu nữ đáp:

– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.

Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.

Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc.

Đầu mạch đất này bên trái từ sông Lôi núi chạy sông theo, tới các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương, bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung tiên bên trái là rồng xanh, chạy tới hóa ở xứ Hải Dương thành các núi Đông Triều, Yên Tử. Mạch tới ngoài biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.

Bên phải mạch đất Hán Giang, Nhị Hà, Lô Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Giang, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung tiên bên phải là hổ trắng, đầu Sơn Nam, Ái Châu, núi Chính Đại cửa biển Thần Phù, thoát ra ngoài biển ở núi Chích Trợ, cửa Trà Lý, làm đầu hổ chầu án.

Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy sông Cả ở huyện Nam Xương làm Trung minh đường. Nam Hải, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.

Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang (phía Đông tới Nam Hải, phía Tây đến Ba Thục, phía Bắc tới Động Đình, phía Nam giáp Hồ Tôn).

Vua rời giá về cựu đô Hoan Châu. Việc dựng đô thành của Vua trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm chốn đô ấp của Cổ Việt Thường Thị.

Lại nói, đương thời Dương Vương ở châu Đại Man, huyện Yên Bình, xứ Tuyên Quang có một gia đình Trưởng ông (họ Mã tên Sùng), lấy vợ người trong châu (họ Trương tên Man). Khi ông tuổi ngoài 50, bà Trương tuổi hơn 40, một hôm bà Trương lên núi lấy củi. Trên núi có một ngôi đền cổ, đều đã đổ nát. Bên trong có tượng nữ, cũng đã hư hỏng. Bà Trương lại gần xem xét. Bà Trương mới đùa rằng thần linh ở đây ngày đêm nhàn nhã, lấy ai là người cúng tế. Xin hãy về gia đình thiếp để phụng dưỡng cơ huyền.

Tự nhiên bỗng thấy có một con rắn trắng từ trong tượng bò ra. Bà Trương kinh sợ, bỏ chạy về nhà. Ngay hôm đó bà Trương mơ thấy mặt trăng rơi vào trong miệng. Bà Trương bèn nuốt lấy, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mộng. Từ đó thấy có ý động mà có mang thai. Đến khi đầy tháng sinh được một nương tử, phong tư yểu điệu, mẵn phượng lung linh, mặt ngọc đầy đặn sánh với Hằng Nga trên cung trăng, không phải là người có thể có ở trên phàm trần, môi son má phấn, thân người tự có mùi thơm. Cha mẹ rất yêu quý.

Đến khi lên ba tuổi mới đặt tên là nàng Ngọc Hương. Khi tuổi 15 cung thiềm còn khóa, nhị ngọc đương thì, đức nữ nhi trinh hiền, nữ công tinh khéo, đàn cờ thơ phú không gì là không biết. Có lòng hiếu hiền hoà thảo, thật hiếm có trên đời. Khi 19 tuổi như trăng rằm chính độ, hoa xuân vườn thượng uyển.

Khi ấy Dương Vương ngự giá đi thăm các khu tôn lăng, đi qua Man Châu. Ngọc nương ra xem. Dương Vương thấy, thích thú sắc đẹp đó, mới triệu đến cưới, lập làm Cung phi thứ tư. Vua rất sủng ái, mới cho ở thành Phong Châu (nay tức là đất Bạch Hạc, Phù Khang, Việt Trì). Vua cho xây dựng cung dinh, để nàng sống ở cung đó, gọi tên là cung Tiên Cát (sau tức là trang Tiên Cát).

Lại nói, khi ấy Vua đi tuần thú quay về thành Hoan Châu (nay là Nghệ An). Chính cung Thần Long có mang, khí lành đỏ rạng trong nhà, trong màn trướng có hương thơm. Qua tuần Thần Long sinh Lạc Long Quân, có tư chất phi thường, tự có khí tượng của bậc đế vương.  Vua bèn lập làm Hoàng thái tử. Khi ấy có con gái của Đế Lai là Âu Cơ về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, đi ra bãi Trường Sa chơi. Long Quân bắt gặp, rất yêu quý sắc đẹp đó mới cưới về lập làm Hoàng phi.

Do đó Kinh Dương Vương sai Lạc Long Quân đến núi Nghĩa Lĩnh ở thành Phong Châu để giúp việc lớn nước nhà, lại cùng tiện cho việc thăm hỏi Thứ phi. Lạc Long Quân tuân theo mệnh chỉ, đến thành Phong Châu nhận việc vua, thiên hạ thái bình, đất nước vô sự. Quân thần đều sùng ngưỡng tiên phật, tin kính quỷ thần trời đất. Vua và dân cùng hội hợp, trăm họ vui ca lạc nghiệp. Bốn dân vinh đủ yên bình, đều là ơn đức lớn vậy.

Lại nói, Thứ phi sống ở nơi đất đó, cứ mỗi năm hai lần xa giá về chầu chính cung cửa đế. Chầu xong lại quay về đất cung dinh cũ (tức cung Tiên Cát), ngày tháng đàn thơ, hội nhạc, cờ vây ở bãi đá bên bờ sông. Khi ấy có hai nàng tiên nữ là con vua thủy cung  thường thường đi thuyền rồng lên du ngoạm nơi trần thế, cùng với Thứ phi kết làm nghĩa chị em, tưởng như con cùng bọc mà thân tình như chị em ruột thịt, nguyện cùng với trời cao không đổi (một tên là công chúa Thủy Tinh, một là công chúa Bạch Hoa). Hàng ngày thường xe rồng kiệu phượng lên chơi với Thứ phi cùng đánh cờ, đàn hát làm thơ ở nơi bờ đá bên sông.

Một hôm, Thứ phi nói với hai nàng rằng:

–          Ta thấy hai nàng tuy sông núi không cùng, nhưng đều bậc ở cửa vua, dự vào hàng tiên cung thánh nữ, không phải tầm thường.  Tục nữ nguyện ước được tình tâm phúc, xin chớ coi nhẹ ý đẹp này.

Hai vị thủy nương đáp rằng:

–          Có trời chứng giám, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa, cho dù cơ huyền trước đây như thế nào.

Đời sau có thơ rằng:

Hùng triều Tiên Cát sở cung phi

Thạch xứ tiên nương hợp dụng kỳ

Sơn thuỷ tương đồng do tích tại

Tà tiên chi xứ hữu thuỳ tri.

Lại nói, Dương Vương ở ngôi được 215 năm, thọ 260 năm thì băng. Con là Lạc Long Quân kế vị. Long Quân mới lập, cải hiệu là Hùng Hiền Vương. Khi đó Âu Cơ có mang, mang thai 3 năm 30 tháng, đầu núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc sáng rạng, đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm con trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vua mới dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ (Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn Quảng Đông, mười lăm là Quảng Tây).

Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:

–          Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng.  Phân 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.

Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng. Các vương tử gọi là Quan Lang. Các vương nữ gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Là thời sung túc, trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, những người làm được cử theo việc, tùy theo khả năng. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hòa mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng.

Lại nói khi ấy Thứ phi dưới triều Tiên đế Dương Vương không có con, dòng tiên trên trần thế không còn vương vấn. Lạc Long Quân tuân theo mệnh vua cha, ngày đêm phụng dưỡng, không dám nhạt lòng. Ngày thường đến cung Tiên Cát xem ngắm địa thế, tu bổ cung lầu. Vua thấy địa hình nơi đây là nơi rất tốt, quang cảnh đất đẹp anh linh. Phía trước có sông Thao án dựa. Phía sau là núi Nghĩa Lĩnh có lân đá, voi đá, ngựa đá, trống đá, người đá, quân đá tùy vị trí mà án dựa, thị tòng hội ở xứ ấy, phong tinh năm ngọn trái phải phụ tá, củng phục chầu ở trước. Vua nhớ đến việc Tiên hoàng tìm đất, xây dựng cung cho Thứ phi ở đây, tên gọi cung Tiên Cát. Cung đó tất có phong cảnh thần tiên, mạch đất linh thiêng, không phải là khu đất thường tình.

Cho đến một năm sau, một hôm Thứ phi bỗng thấy hai nàng công chúa thủy tiên, theo sao là các nàng hầu, thuyền rồng kiệu phượng, tiến vào trong cung, nói với Thứ phi rằng:

–          Hôm nay (tức ngày 9 tháng 10) đã đến lúc được như nguyện. Chị phải vào chầu cửa đế, xin chớ trì hoãn. Chị với chúng em tuy âm dương hai ngả, sông núi tách vùng, nhưng lại cùng một nhà lầu mây gác phượng, khí huyết cùng nhau mà hội hợp, dám xin có trước sau, chị cùng với hai em về nơi Thủy quốc.

Nói xong, Thứ phi rời đi xuống thủy phủ. Thứ phi lại sai nội thần tâu lên vua trước sau như sau:

–          Hôm nay có hai vị con gái vua Thủy Tinh, là người kết nghĩa với Thứ phi, trước sau đã có hẹn ước, chị em như ruột thịt, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa. Nay thấy hai nương cưỡi xe loan đến triệu Thứ phi về chầu cửa đế. Do đó tiểu thần tuân mệnh vào tâu trước bệ, nguyên cớ là như vậy.

Vua nghe lời tâu bèn ngự giá đến cung (tức cung Tiên Cát, do Tiên hoàng dựng nên, đến cuối triều Hùng đổi thành trang ấp). Vua mới đi được nửa đường bỗng thấy mây mưa đổ xuống, gió sấm nổi lên, một lúc thì tự nhiên hết.

Vua nói Thứ phi đã đi vào cõi trường mộng vậy (tuổi Giáp Tý sinh ngày mồng 5 tháng 5, đến ngày mồng 10 tháng 10 thì hóa), bèn lệnh cho quan đến làm lễ tế khi còn chưa đến lúc an táng. Khi ấy Vua ở lại trong cung đó, mơ màng ngủ thiếp đi bỗng thấy Thứ phi xe loan kiệu phượng huy hoàng đẹp đẽ, tả hữu hai bên là hai vị tiên nương cưỡi xe loan cùng đi vào khu bãi đá bên bờ sông. Tiếp phía sau theo hầu trăm người nữ trinh đồng, khăn hồng đai tía, xe rồng kiệu phượng, theo đến nơi gặp Vua ở xứ đó. Thứ phi nói với Vua rằng:

–          Thiếp vốn là thần nữ ở tiên cung, lầu mây gác phượng giáng xuống ở nơi trần thế, năm đó vào hầu Tiên hoàng, được ơn thâm trạch hậu, hưởng lộc đã nhiều. Nhưng hận là trần duyên chưa thỏa, không mảy may chút nào ở trần thế, tất cả đều hư vô. Nay vui vì có được hai vị nương tử cùng là con gái vua thủy cung, trên dương trần hàng ngày có giao du với nhau, nguyện là chị em ruột thịt. Một vị là nàng Thủy Tinh, một là nàng Bạch Hoa, cùng như tay chân gắn bó vậy, đồng lòng kết làm chị em. Nay lầu mây quê trước quay về nơi cảnh cũ, mưa gió ra vào nơi đất tốt.

Lời chưa dứt thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Đến khi làm lễ đưa đám, liền trong 3 ngày mưa to gió lớn, một vùng mờ tỏ, cửa nhà tối mịt. Vua chôn cất bà phi ở nơi đất đó (tức xứ Gò Đá, nơi có lân đá, voi đá, ngựa đá, cờ đá, trống đá, thuyền đá, quân đá, bàn đá theo ở phía sau, hai bên trái phải hướng vào trước huyệt, có năm ngọn phong tinh chầu về hai bên, bên phải có sông Thao làm minh đường).

Nơi đó xưa khi Thứ phi còn sống, tuy Tiên đế lập cung trên vùng đất bên trong, bố trí cho Thứ phi ở đó gọi là cung Tiên Cát, nhưng Thứ phi ngày thường thích ra chơi ở đất đó (tức xứ Ghềnh Đá), cùng với hai vị thủy tiên gặp nhau đánh cờ, làm thơ, chơi nhạc, cũng như quang cảnh chốn Bồng Hồ Lãng Uyển, Đào Nguyên Trúc Lĩnh vậy. Ngày trước Vua ngự giá đến đây xem xét địa hình. Vua từng nói là vùng đất này đều rất linh anh, thật là nơi tốt. Nhân đó Vua cho an táng lăng tại nơi này. Vua nhớ lại giấc mộng khi chưa an táng. Hôm đó bèn truyền cho địa phương lập miếu ở trên khu lăng cùng thờ phụng ba vị, cùng phong là các thần nữ.

–          Phong Thứ phi là Đệ nhất A Nương Thần nữ Ngọc Tinh nương Cả Đại vương.

Phong hai vị Tả hữu Thủy tiên Công chúa:

–          Phong làm Đệ nhị Thuỷ Tinh Thần nữ Nương Hai Đại vương.

–          Phong là Đệ tam Bạch Hoa Thần nữ Nương Ba Đại vương.

Vua lại truyền cho các gia thần ở cung sở địa phương ngày trước đã theo hầu Thứ phi, cộng được ngoài trăm nhà ở đó. Vua cho ở tại đó sớm hôm hương khói để phụng thờ.

Lại nói, khi đó Vua có trăm con cùng một bọc, đều là những vị anh hùng cái thế, sức dũng động trời, làm thần thánh xuất thế, không phải thường nhân trên đời. Vua tuy còn ở tại thế cai trị trần gian nhưng cũng chia trăm con làm hai bộ. Một bộ cai quản sông hồ cửa biển. Một bộ trị các đầu núi non, cùng có chức phong làm thần tử, bố trí các nơi để trị hưởng lộc một phương.

Một hôm, Vua ngự ở cung Phượng Lâu (tức nay là trang Phượng Lâu). Khí đó mùa xuân ôn hòa, khí lành, vạn dặm răng thanh gió mát, một trời phong cảnh an hòa. Vua mới nằm ở chính cung (tức cung Phượng Lâu), bỗng nhiên mơ màng, đi vào thẳng thành Hoan Châu (tức Nghệ An), mới gặp Kinh Dương Vương ngự ở chính điện, hai bên có quan văn võ đứng chầu.

Dương Vương nói với Vua rằng:

–          Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.

Lời nói vừa dứt thì gió xuân thổi vào áo long bào, Vua tỉnh dậy biết là nằm mộng. Vương nhớ lại lời căn dặn của Tiên hoàng trong mộng, tuy âm dương hai ngả nhưng đâu dám trái mệnh.  Hôm ấy (mùng 10 tháng Giêng) Vua lệnh cho ba vị quan lang một là Cự Linh Thần tướng, hai là Ất Linh, ba là Linh Lang Thông Thủy, đều cùng là những hoàng tử từ bọc trăm trứng nguyên phân làm hai bộ (Cự Linh, Ất Linh, Linh Lang Thông Thuỷ đều thuộc thuỷ bộ), ban cho quản lý đầu sông (tức sông Thao), giữ gìn cung sở của Thứ phi (tức cung Tiên Cát). Ba vị tuân theo ngọc chỉ, quản trị ở đầu sông (tức sông Bạch Hạc ba dòng nước từ ranh giới sông Thao), giữ gìn cung miếu (tức tiên cung Thứ phi của Tiên đế Dương Vương).

Qua hai năm, khi đó Vua đã trị quốc dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt.

Hiền Vương ở ngôi 400 năm, sau về biển hóa sinh bất diệt làm Động Đình Long Quân Đế chủ. Quốc Vương tuân thừa nối đại quyền. Quốc Vương lên ngôi mới được 1 năm thì khi đó mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).

Lại nói, Quốc Vương nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, cung vua có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ,vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.

Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã.

Một ngày (15 tháng 3) Vua đến ngự ở cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát).

Nhàn xem phong cảnh, thăm thú cung lăng, tu bổ các tòa cung sở miếu điện. Vua lại mở một chợ ở bên sông, trước khu cung lăng, gọi là chợ Tiên, cho các phi nhân của vương cung cùng với các nội thần của các phu nhân, vương nữ đến hội sớm tối, những người đánh cá  trước sông  cũng cùng ở trên chợ, là nơi đô hội của thần tiên. Hôm đó (mồng 3 tháng 3) Vua lại phong cho ba vị hoàng đệ đều là Thuỷ thượng linh thần, cùng với Tiên phi vào cùng một nơi, cùng phối thờ phụng.

–          Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long Vương Đại vương.

–          Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương Đại vương.

–          Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long Vương Đại vương.

Hôm đó (mồng 3 tháng 2) Vua sai quan đế tế, làm lễ bái tạ. Làm lễ chưa dứt thì bỗng thấy gió sấm bỗng nổi lên, mây mù u ám, trên sông sóng đổi vạn nhận, cung đền bốn bên mây phủ. Lại thấy 3 con rắn từ trên đường phân nước tiến thẳng vào trong đền, bò lên giữa gác trái phải. Bên trong đền sáng huy hoàng, mùi hương thơm bao phủ. Trước sông hàng trăm đàn cá hùng dũng nối nhau. Vua lấy làm lạ bèn nói rằng:

–          Nay tuy thủy phủ và dương gian khác biệt, nhưng có tương thân khí huyết, sơn thủy một mạch, cảm được sự linh thiêng, cùng đã biết vậy.

Vua vừa dứt lời thì [ba con rắn] tự nhiên biến mất . Mưa gió tự yên, mây tan trời sáng. Làm lễ xong Vua lại tặng phong là Thượng đẳng Phúc thần, bố trí quan cùng với các gia nhân địa phương ở nơi đó bốn mùa hương khói phụng thờ.

Lại nói, Quốc Vương tên Bảo từ lúc lên ngôi được 300 năm, thọ 643 tuổi, mệnh Tân Mùi sinh giờ Mão ngày 16 tháng Giêng, mất giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5, hóa sinh sinh không thành, kim tiên thượng quán cư ở cửa ngọc mà cai quản. Tiên chủ sinh trưởng tử là Huy Vương, kế vị, truyền 8 vua tiếp sau.

Sau này Lý tiên sinh có bài tán:   

Sinh vi thánh đế hoá lai tiên

Duy hữu  Hùng đồ thập bát truyền

Thánh tử thần tôn cung miếu tại

Đức đồng nhật nguyệt hưởng trường miên.

Lại nói, thời lịch truyền 18 nhánh (từ  Kinh Dương Vương chí Hùng Hiền Vương, Quốc Vương, Hy Vương, [Hi Vương], Diệp Vương, Huy Vương, Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Uy Vương, Trinh Vương, Võ Vương, Việt Vương, Định Vương, Triêu Vương, Tạo Vương, Ninh [Nghị?] Vương, Duệ Vương, cộng 18 đời thánh chủ, hưởng nước cộng 2655 năm). Truyền đến Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương có chất thánh triết, tài lớn anh hùng, nối cơ nghiệp tổ tông khai đắp 17 đời thịnh trị, trong lo võ lược, ngoài ngự biên cương, gắng sức hưng bình để yên Trung Quốc. Lại noi gương tiền vương trị vì, sùng trọng đạo trời, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, mến giúp quốc sự. Vì thế Vua ngày càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thiên hạ c sửa thêm đền miếu, vẽ tô nghi vệ trang nghiêm. Khi đó Vua đến cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát), thăm thú lăng mộ, tăng thêm việc tu sửa đền miếu, ngày ngày hiến tế, một tháng hai lần sai quan đến làm lễ.

Than ôi, đạo vốn thịnh nhiều thì sẽ suy, đầy rồi thì sẽ tắc. Cơ đồ họ Hùng trị nước vốn đã lâu dài, ý trời tất có hạn. 20 hoàng tử và 4 công chúa đều phiêu du về nơi Bồng Lãng, thoát gót trần gian, không có ai để trông mong việc nối truyền. Chỉ còn hai người con gái, đều là bậc thần tiên đời (một nàng được gả cho Chử Đồng Tử, một nàng gả cho Tản Viên Quân).

Vua bèn nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh, là con rể mà truyền đại bảo. Nhưng Sơn Thánh vốn có phẩm chất thần tiên, không muốn nhận ngôi cai quản quốc gia. Bèn lại truyền cho Thục chúa, cũng là cháu họ Hùng ở Ai Lao. Từ khi Thục chúa (tức An Dương Vương) nối thừa ngôi báu, đóng đô ở thành Cổ Loa. Còn Phong Châu thành đất của họ Hùng, cùng các cung sở lâu đài được nhân dân các xã động chia nhau ở (đất thành Phong Châu đến Thục Dương Vương rời về ở thành Cổ Loa, từ đó thành Phong Châu đổi thành các xã trang động của người dân).

Trong thời kỳ Thục Vương, đất ngoài cung Tiên Cát có hai trăm nhà ở đó đã di cư. Chỉ còn 17 người ở lại cố giữ đất đó. Lòng người thay đổi, xưa nay là thường. Cảnh tiên cung vua đó đều theo năm tháng mà yên nhàn trôi qua, tích xưa khó thấy dấu tiên còn đọng, chỉ còn nghe tiếng chim chóc hót ca.

Khi Thục Dương Vương ở ngôi được 80 năm mới truyền vị cho Triệu Đà, cha truyền con nối trải 5 đời thánh vương. Đến khi Vệ Vương kế truyền chính thống thì có quân Tô gây loạn. Trưng nữ lại hưng (cũng là cháu gái của Hùng Vương), ở ngôi được 5 năm, tiếng thơm ngàn thủa, cũng là bậc nữ anh hùng.

Từ đó triều Hùng chấm dứt. Tới Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 350 năm cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, đều có giúp nước hộ dân, nên các đời đế vương đề có gia phong mỹ tự, vạn đời hưởng lễ, hương khói vô cùng.

Lại nói, tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền. Một hôm quân Hồ giáo mác tiến đến ở vùng đất này (tức là vùng đất trang Tiên Cát), vào trú ở trong đền (tức đền cung Tiên Cát). Lại thấy địa hình có quý cục, voi đá, ngựa đá đều hướng chầu lên núi Nghĩa Lĩnh. Hôm đó (mồng 6 tháng 6) quân Hồ sĩ tốt bắt dân phu cùng binh sĩ lấy cưa sắt cắt ngựa đá, voi đá ra thành các đoạn, lấy đá đó xếp thành lũy, đồn sở. Đang khi cắt đá chưa được một lúc, bỗng thấy mây gió lớn nổi lên, bốn bề trở nên mờ mịt, mưa dội sương mù, sấm sét vang gầm. Trên sông nổi sóng cuồn cuộn vạn nhận, sấm vang làm rụng rời phách kinh nghê, vạn dặm cuồng phong dữ dội, cá rùa hồn kinh nhảy loạn, giao long nổi đầy sông, đào thông một đường thủy tiến thẳng vào trước cung, trùng trùng hàng ngàn con. Từ trên núi xuống hàng đàn hổ chạy tới, tiếng gầm chấn động, chạy thẳng về nơi đền thờ ở địa phương (tức trang Tiên Cát), vây kín bốn phương xung quanh. Quân Hồ kinh hồn chạy tán loạn. Nhân dân đều mất vía, tất cả đều bỏ chạy khỏi cửa nhà. Nơi đó (tức đất Tiên Cát) đều bị gió lớn thổi đỏ, nước ngập tràn lan ở bên trong, tất cả đều hư hỏng. Rắn hổ tập trung ở đất đó, đuổi hết mọi người, thật là một nơi bị hại lớn, có vào mà không có thoát, chết chóc rất nhiều.

Chỉ còn có 8 người tránh ở nơi đất gần đó (tức là ở đất nội thành), thường thường buổi tối mới dám quay về ẩn phục xem xét nghe ngóng nơi đền. Thấy sáu vị thánh ở chính trong đền (tức xứ Gồ Đá có chính lăng). Ba vị nữ quan ngồi ở trên, truyền lập hai hàng trái phải các thị nữ khăn áo hơn trăm người, huy hoàng đẹp đẽ, áo quần rực rỡ, vẻ rồng mắt phượng, má phấn môi son, tai cầm phiến ngọc, đầu đeo thoa vàng, đi hài lông phượng, lưng thắt khăn hồng. Bên dưới có ba vị quan nam ngồi đó, trái phải đứng hầu hơn ngàn người, áo lân giáp rồng, bào phục huy hoàng, đứng hầu uy lẫm. Cờ xí la liệt, ngựa voi chỉnh tề, xe loan kiệu phương cùng đi, thuyền rồng phân đội.

Tám người đang nấp nghe, thì thấy ba vị nữ quan nói:

–          Thật đáng trách bọn  cuồng khấu chim chó quân Hồ không biết đất này là nơi Tiên đế mở nền, tạo nên nước Nam. Đất có linh thiêng, khí lành đều do tạo an bài. Do vậy mà các nơi đều hận quân Hồ, nhưng không nên trách dân ta mà gây họa. Nay quân thủy phủ của ta đã trả hận quân Hồ. Còn nhân dân thì không được quấy nhiễu. Quân tôm cá hãy quay về thủy phủ để dân được yên.

Lời nói chưa dứt thì tám người đều phục trước sân mà bái tạ. Bỗng thấy một tiếng động rất lớn tựa như sấm sét giáng xuống mặt đất, rồi dần dần tự biến mất. Từ đó một vùng địa giới đều yên. Tám người quay về đất cũ (tức chợ Tiên Cát), gìn giữ nơi đất đó, năm tháng cùng phụng thờ.

Cho đến khi ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu có người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa, ba ngàn thần hổ Lam Sơn tiễu trừ họ Hồ, bình định người Ngô. Lên ngôi vua ở Lam Sơn, niên hiệu Thuận Thiên (tức Thái tổ Cao Hoàng đế). Khi đó đất trang Tiên Cát chỉ có 8 nhà ở đó, mới làm bài tấu lên vua về việc quân Hồ đục phá ngựa đá, voi đá ở đền, lại thấy việc linh thiêng như thế. Vua nghe lời tâu đó, lệnh cho quan đến nơi làm lễ cầu đảo (làm lễ năm Kỷ Mùi, mồng 9 đến mồng 10 tháng 10). Nhân dân đều đến ở Gò Đá mà tế lễ. Bèn mổ lợn đen, rượu ngọt, bánh dày cùng với trăm trứng. Từ mồng 9 đến mồng 10 làm lễ thì gió sấm nổi lên, mây mưa mù mịt. Trước sông (tức sông Thao) mây nổi bay trên mặt nước, hơn ngàn đám mây bay ngang dọc trên sông, rồi tiến thẳng vào trong cung đền. làm lễ tế xong thì mây mưa tự nhiên ngừng hết. Bốn phương thanh bình, quang đãng. Nhân dân đều sợ phục. Tới ngày 11 lại tế tạ. Ca múa tới ngày 15 làm lễ. Tạ xong thì mưa gió nổi lên một hồi rồi ngừng. Quan quay về tâu lên. Vua bèn gia phong mỹ tự:

–          Phong Đệ nhị Thuỷ Tinh nương Hai Uy linh Đại vương

–          Phong Đệ nhất Ngọc Tinh nương Cả Linh ứng Đại vương

–          Phong Đệ tam Bạch Hoa nương Ba Hiển linh Đại vương

–          Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương An dân Đại vương

–          Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long vương Hùng tài Đại vương

–          Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long vương Đại vương.

Trang Tiên Cát phụng thờ 6 vị.

Lại nói, từ khi Lê Thái tổ Hoàng đế truyền qua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, qua Minh Tông đến Chiêu Tông lên nắm quyền. Khi đó họ Mạc tiếm ngôi xưng vương, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Minh Đức, kế thế con cháu 5 đời làm vua.

Tới Lê Trang Tông cùng với đại thần là Thái úy lại khởi nghĩa binh. Niên hiệu Nguyên Hòa năm Quý tỵ quan Thái úy tôn phù nhà vua, dời đến cảnh Ái Châu, truyền các tì tướng gửi hịch chiêu dụ các xứ ở Bắc thành, lại đi thuyền đến đạo Sơn Tây, giả làm thuyền buôn. Đi tới sông Thao, thuyền qua trước đền (tức đền Tiên Cát) gặp ghềnh chặn, thuyền không thể đi được. Gió lớn thổi đến, sóng to trên sông, làm cho thuyền gần bị lật. Tướng cầm quân ngẩng lên nhìn bỗng thấy đền thờ rực rỡ. Ngay hôm đó (mồng 3 tháng 8) bèn đậu thuyền làm lễ, cầu đảo khấn rằng:

–          Gia thần tuân theo mệnh lớn, chiêu dụ người tài, tiễu trừ giặc mạc. nếu phục hồi được nhà Lê Nguyễn, nguyện xin âm phù cho thông đường thủy và bảo toàn quân đội.

Khấn xong tự nhiên yên bình. Các thuyền tự thoát, thuyền đi như bay. Thuyền lên đến trang Tằng Động huyện Thanh Ba thì thấy mưa gió tập trung chỗ dân địa phương. Bèn đóng quân trong ba ngày. Hôm ấy (mồng 6 tháng Giêng) nhân dân ở đó với quân Lê cùng mơ thấy hai cánh binh mã tiến vào trong dân, nói rằng:

–          Ta là  Chàng Út Long vương Thuỷ thú cùng với Chấn cung Thần quan tuân theo mệnh vua âm phù cho mệnh nước, bảo hộ nhà Lê. Nay đến nơi dân đây còn chưa định làm lễ sao?

Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mơ. Quân sĩ và nhân dân địa phương đều sợ hãi. Hôm đó (mồng 10 tháng Giêng), lập đàn cầu tế (ngày sau ở đất này đều lập miếu phụng thờ).

Một hôm quân Lê lại quay về huyện Tam Nông xứ Hưng hóa, vào ở tại đất trang Thọ Xuyên, bị quân Mạc vây hãm. Ba ngày sau quân Lê trước khi xuất hành mới cầu đảo bách thần phù hộ. Tự nhiên gió Tây lớn nổi lên, mây mưa bao phủ theo dòng nước mà vào cả khoảnh nơi đó, tất cả thành một dòng suối lớn chảy phá vào. Quân Mạc đại bại, chạy tán loạn. Quân Lê cùng xuất toàn quân, quay về Ái Châu (sau trang Thọ Xuyên lập miếu phụng thờ Thủy thần Đại vương, cùng với 5 vị và một vị công thần nhà Lê cúng tế).

Lại nói khi đó vạn dân quản chặt, bốn phương khói bụi, nước có 2 vua trị vì, dân không có ngày nào là yên nhàn, gọi là thời một nước hai vua. Hơn 60 năm sau, Trang Tông lệnh cho Thái úy thống lĩnh hai quân thủy bộ đi dẹp giặc Mạc. Thái úy bái tạ, xuất quân thẳng đến đóng ở các huyện Phù Khang, Bạch Hạc, Phúc Lộc của đạo Sơn Tây, lập các đồn lớn ở châu Trường Sa, vân Thủy, dựng đàn dâng hương cầu đảo trăm thần âm phù trừ Mạc, giúp nước cứu dân. Sau này được thanh bình sẽ tâu lên vua tăng phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, vạn năm hưởng thờ.

Khấn xong tự nhân mây mù nổi lên, mờ mịt trong ba ngày. Thái úy ngồi ở nơi đàn thiếp đi mộng thấy trăm thần nam nữ cùng đến, sơn thủy cùng về, qua giáp khắp trời, cờ xí rợp đất, đến trước Thái úy, hoặc chào hoặc bái, xưng họ xưng tên. Thái uy trong mộng không ghi nhớ hết được. Bỗng nghe ở hướng Đông Nam có một tiếng sét động. Thái úy giật mình tỉnh lại mới biết là mộng. Lại thấy mây mờ bay tản đi, trời ban ngày rạng sáng. Thái úy cho rằng đó là điềm trung hưng, bèn lệnh lấy đồ văn phòng tứ bảo cứ theo trong mộng mà ghi lại tên hiệu các thần lên lụa để chép lại việc này. Hôm đó lệnh cho quân sĩ mổ trâu, khấn tạ trăm thần, khao hưởng tướng sĩ.

Ngày sau chia binh đến dẹp giặc mạc, đại chiến một trận ở đất Phấn Thượng, huyện Phúc Lộc, máu chảy thành sông, xác chất thành núi. Giặc Mạc thua to, chạy lên mạn Bắc, đến nơi mở trường chọn kẻ sĩ, chặn giữ biên phương, không thể dẹp hết được. Thái úy về thành Thăng Long, giải giáp ngừng binh, làm biểu tâu thắng trận, xin vua về thành. Trang Tông hôm đó xa giá đến thành Thăng Long, thưởng cho ba quân, gia phong tướng sĩ. Phong cho ông là Thái úy Hưng Quốc Công thần. Ông tuổi đã già, có ý muốn nghỉ ngơi, bèn dâng biểu tấu với vua xin các việc quốc gia lớn nhỏ giao cho con rể họ Trịnh. Trang Tông đồng ý.

Trang Tông bèn lập Thái tử, sau là Trung Tông Vũ Hoàng đế, niên hiệu Thuận Bình, sau đổi thành Thiên Hựu, là con trai của Trang Tông. Trung Tông kế truyền ngôi cho Tuấn Hoàng đế, húy Hàn trác, ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, niên hiệu Chính Trị. Khi đó có đại thần họ Trịnh phò tá, lập kỷ cương đất nước, bày chế trong ngoài. Sau Thế Tông truyền ngôi cho Nghị Tông, niên hiệu Hồng Phúc, sau đổi là Gia Thái, lại đổi là Quang Hưng, chính là con trai của vua Chính Trị. Khi ấy giặc Mạc trong nước đã diệt. Nhà Lê lại bắt đầu ngôi chính thống.

Từ đó thiên hạ thái bình, triều đình vô sự. Nhà Lê là chủ, họ Trịnh là vương, ban bố hai bộ Công và bộ Lễ đốc lệnh cho huyện doãn cùng các dân phu các xã xây dựng lại điện đình ở địa phương nơi xã Phấn Thượng, cung phụng thờ các vị vua chủ cùng các vị chư thần, lấy xã đó làm trưởng tạo lệ. Lại tiến phong các mĩ tự cho trăm thần sơn thủy nam nữ đã âm phù giúp nước, cùng luận công mà thưởng tước lộc, ban thêm cho những người có công. Công mãi mãi là thức lệ cùng với nước trường tồn. Thật thịnh thay!

Lại nói, khi đó lại phong mỹ tự cho trang Tiên Cát. Lúc ấy chỉ có 8 người về ở đó từ khi cuối họ Hồ, cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi các đời sau của 8 người đó đều sinh con cháu cùng với vợ chồng. Những người sau đều ở phụ đó, phong tục nhân dân chất phác đôn hậu, giàu mạnh, đinh dân khỏe mạnh. Bèn chia đều thành 8 giáp cùng phụng thờ nơi tiền cung khi thần còn sống (tức cung Tiên Cát, nơi Thứ phi ngày trước ở đó, sau đổi thành làng), hậu cung là chính nơi hóa của thần  (tức xứ Gò Đá, là lăng của Thứ phi, gọi là đất thủy phủ hội đồng). Sau Lê Trang Tông lại tiến phong nhiều mỹ tự.

Vâng ơn chính triều nay có phong tặng là Đương cảnh thành hoàng Linh phù Thượng thần, gia tặng là Thục diệu Tối linh thần, gia tặng là Hoằng hợp Tối linh thần, gia tặng là Dực bảo Trung hưng chi thần.

Nhất thiết húy cấm các chữ Cả, Hai, Ba, Ngọc, Hương, Bạch, Anh, Cự, Linh, Ất, Thông, Thuỷ, Chàng.

Bảo Đại năm thứ 13 ngày tháng 3 tuân sao chính bản.

Vâng sao đệ trình bởi Lý trưởng làng Tiên Cát Nguyễn Văn Tản.

Cộng tất cả 14 trang.

Thần tích xã Cao Mại

Ngọc phả cổ chép về Phụ ký Cương nghị Hùng kiệt Đại vương phò mã Hùng triều Việt Thường Thị Lý Lang Công (lấy con gái thứ sáu của Nghị Vương là Nguyệt Cư Công chúa sinh 12 vị thần quan nhận quản 17 bộ nhánh)

Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh Tổ Nam thiên Đại bảo Tiền Hoàng đế gây dựng cơ đồ, là thủy tổ Việt Nam, lập nước Cổ Việt Thường, họ Hùng 16 đời thánh vương ngự trị trời Nam, khai mở vận đế thánh, vua sáng. Núi xanh vạn dặm dựng nền cung điện đô thành. Mở vật giúp dân, thống quản 15 bộ 

(Khi ấy vua Hùng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm chính cung, ở tại núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ mang thai 33 năm, sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm tốt trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vương bèn chia hầu, lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Hoan Châu, sáu là Ái Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.

Khi đó Vương nói với Âu Cơ rằng:

  • Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc. 

Vì thế chia tương biệt, chia 50 con theo cha về biển làm Thủy tinh, 50 con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh. Phân rõ các chư vương trấn ở sông núi, cùng là thần thuộc vậy. Sau phân thành trăm họ từ đó.) 

Thế mạnh trấn áp phiên chúng, rạng rỡ đất nước Viêm đồ. Có vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi mãi dòng giống vững như bàn đá, hiển ứng linh thiêng nơi Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương nước Nam, ngự muôn năm thánh điện núi Hùng, là Thánh tổ trời Nam, nền móng quốc gia, cơ đồ hùng mạnh, muôn năm còn lưu mãi vạn đời. Bèn lập các cung, lăng, miếu, điện. Con cháu dòng dõi hoàng gia phân ở các đầu núi, trị ở quận Giao Chỉ tại các nơi xứ phủ, huyện, dân trang, động, sách. Phụng thờ hương khói lưu truyền vạn đời. Phối cùng với nhật nguyệt rạng soi. Sánh với trời đất cao dày vậy. Sau Vương tiên sinh có bài tán rằng:

Nam thiên khởi tạo tự Hùng Vương

Vạn cổ trường lưu lập kỷ cương

Nhất thống tương truyền thập bát diệp

Nhị thiên dư tải ức niên hương

Nhất bào bách noãn giai sinh thánh

Lưỡng tế thăng thiên bất tử phương

Hoàng tử vương tôn thiên vạn tải

Thần tiên tương phối dữ tài lương.

Lại nói, triều Kinh truyền 17 đời đến thời Nghị Vương ở ngôi, đóng đô tại Việt Trì bên sông Bạch Hạc, dựng nước tên gọi Văn Lang, kinh đô gọi Phong thành. Nghị Vương có hùng tài đại lược, chính trực cương nghị, cũng có khí tượng quy mô, kế trị các đời yên bình. Thiên hạ trong nhà vui đủ, giữ bên ngoài được an ninh. Ai ai cũng gọi là vị hiền quân vậy.

Đương khi ấy, tương truyền ở sách [trang] Thủy Vân, phủ huyện Thiệu Thiên, quận Ái Châu có một nhà trưởng bộ (họ Lý húy Tuyên). Khi ông trưởng bộ 29 tuổi đã lấy người cùng trang sách là bà Võ Thị Thiệu. Được 3-4 năm, loan phương tương xứng, cầm sắt giao hòa. Than ôi, đạo trời lại đến bất hạnh. Bà Võ mất sớm. Về sau ông có việc quan đến ở kinh đô (tức thành Phong Châu). Khi ấy có người tại Thời Mại, gia đình ở kinh đô, hàng ngày lấy việc buôn bán làm nghề. Vả lại người chồng trước đây sớm mất, chỉ còn thái bà họ Nguyễn (chồng của bà họ Nguyễn tên Xuân, vốn là người xã Thời Mại, huyện Sơn Vi, phủ Thao Giang, ở tại kinh thành buôn bán, tuổi ngoài 60 thì mất), tuổi gần 70, sinh được một người con gái là Nguyễn Thị Loan. Đến tuổi 21 thật có đạo nữ hiền hòa, dung mạo thanh tú, cùng với mẹ buôn bán ở kinh thành. 

Trưởng bộ Lý khi đó có việc quan lên kinh đo, ở tại gia đình của hai mẹ con. Trưởng bộ thấy nàng có đức hạnh như vậy, trong lòng rất yêu quý nên hỏi cưới. Thái bà đồng ý gả cho. Ông ở nhà vợ tại kinh thành cho tiện làm việc quan cùng với việc buôn bán các đồ tơ vải. Vua nghe nói ông có kỳ tài, lại có đức tốt, bèn cho quản trưởng phường tơ vải trong thiên hạ. Ông từ khi yên bề gia thất, vợ chồng duyên đẹp, uyên ương hợp bạn, cầm sắt cùng vui. Được quãng 3-4 năm mà chưa thấy điềm ngọc sáng. Khi đó ông đã hơn 40 tuổi, bà Nguyễn cũng gần 30. Một hôm lúc thanh nhàn ông mới nói với bà Nguyễn rằng:

  • Nhà ta có phúc, chỉ cố tạo phúc, làm việc nhân, tấm lòng từ thiện. Nay tuổi đã cao mà chưa thấy điềm sinh nở. Liệu hoặc ý trời chưa đạt vì việc người còn khiếm khuyết. Cho nên chi bằng một lần cầu đảo, biết đâu lại được chim yến báo hỉ, như thế mới yên được nguyện ước bình sinh.

Nói rồi hôm đó chuẩn bị làm lễ chay ba ngày, lập một đàn tế tại giữa sân, cầu đảo trời đất quỷ thần. Ba ngày liền cầu nguyện trời đất đến chứng. Chúc xong lại cầu đảo ba ngày. Sau khi câu xong 3 ngày thì đêm ấy thái bà Lý (tức là vợ ông) nằm ngủ mơ màng, bỗng thấy một ông lão ngồi mây lơ lửng trên không, tay cầm một cặp cần câu ở bên sông Tam Kỳ của sông Hạc, câu được một con rồng vàng. Thái bà Lý đứng ở bên bờ sông xem việc đó. Lão ông thấy thái bà bèn nói rằng:

  • Gia đình nhà ngươi phúc hậu, đến tận Trời cao. Nay ta câu được một con rồng vàng, có thể cho vào nhà bà làm đồ quý báu.

Thái bà Lý nghe ông lão cho vậy trong lòng rất vui mừng, hai tay ôm lấy con rồng vàng rồi bay lên trời. Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là điều mộng. Thái bà đem việc trong mông nói với ông Lý. Ông bèn nói với thái bà rằng:

  • Nếu đúng như trong mộng vậy thì một là thăng quan, hai là sinh ra quý tử.  Việc tồn nghi chưa rõ thì sau này sẽ hay. Hãi cứ mạnh dạn mà đoán như vậy đã.

Sau khi nói, thái bà quả nhiên có mang. 33 tháng đến năm Đinh Mùi tháng 8 ngày 9 sinh hạ một con trai, mặt mũi rất lớn, năm gò chầu trời, hàm én mày hổ, vẻ rồng mắt phượng, tay dài quá gối, trán có điểm sao Bắc đẩu, cao hơn người thường. Thánh chất vốn bẩm thông minh. Cha mẹ cho nhập học với Lã tiên sinh. Được 4-5 năm sách của chư tử trăm nhà đều quán thông hết, lại tinh thông binh pháp Thái Công, không đâu là không biết tiếng thơm, bốn biển uy động 9 tầng, đương thời đều gọi là Thánh đồng. 

Khi ông được 5 tuổi, theo mẹ đi chơi ở chợ Phong Châu (tức chợ sông Hạc, khi đó thành đô ở tại lầu thượng, lầu hạ đất Việt Trì, đều là kinh đô của Hùng Vương) để mua giấy sách. Bỗng nhiên thấy một ông lão ở phường chài đem một con cá xanh thân dài 2 thước rưỡi đến gặp lão bà. Mẹ con cùng mua con cá xanh đó bằng 9 mạch tiền của thái bà. Mẹ con đem cá trở về nhà, rồi mổ bụng bên trong được một thanh kiếm thần, cán đều làm bằng ngọc kim cương. Lang công bèn cầm kiếm lên xem, thì nghe trong kiếm có tiếng quỷ khóc thần kêu không dứt. Lang công thấy sự đó cho là lạ, bèn cầm kiếm và nói với kiếm rằng:

  • Ta vốn có anh tài trời cho, nay có thể lại được thanh kiếm thần này.

Tiếng quỷ khóc, chúng thần đều ngừng bặt. Ông nói xong thì từ đó đều yên lặng, không còn thấy tiếng kêu nữa. Lang công từ khi được kiếm về sau tâm tự thấy khảng khái, có chí tang bồng, có nhiều tài lạ thuật dị, đức lượng hơn người, anh hùng trùm thế. Lang công tuổi 21 uy danh đã lẫy lừng, bốn biển anh hùng đều quy phục.

Khi ấy Nghị Vương đam mê tửu sắc, vui chìm trong yến ẩm, không tu luyện võ nghệ, không phòng bị biên giới. Quốc gia trở nên biến loạn bất thường, những đầu sỏ nổi lên, ở ngoài biên ải thường có trộm cướp. Vua bèn mở khoa tuyển người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài để giúp việc nước.

Vua bèn truyền hịch đi các phủ, huyện, châu quận cho nhân dân ai có tài đức thì đến kinh ứng thí. Khi ấu Lang công ứng tuyển vào trường thi ở kinh (tức trường ở Phong Châu), rồi gặp bệ rồng, hỏi thi văn võ, thật có kỳ tài dị thuật, trí dũng anh hùng, tinh thông võ nghệ, tài văn sâu rộng, đối đáp như nước. Vua cảm thấy đây tất là thiên tài giáng thế để giữ nước giúp dân, không phải người tầm thường, rất xứng đáng được trao chỉ.

Khi ấy Vua có nàng công chúa thứ sáu tên là công chúa Nguyệt Cư (39 cung phi của Nghị Vương sinh được 22 hoàng tử và 15 công chúa. Công chúa Nguyệt Cư chính là do cung phi thứ 5 mộng thấy phượng hoàng bay vào trướng mà có mang. Đến năm Đinh Mão tháng Giêng ngày mồng 3 thì sinh, tên gọi Nguyệt Cư, tính vốn thông minh, là bậc nữ trung Nghiêu Thuấn, có dung mạo chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Khi sinh công chúa được 3 ngày đã có thể thích nghe hát xoan nữ. Xưa các vương tông triều Hùng cùng trăm quan khi có sinh con đều có phường hát của huyện Phù Khang phục vụ). Vua gọi Công đến rồi sau đó gả cho Lang công, trao cho chức quan bồ chính điều phối vũ khí quân đội trong thiên hạ, phong là Phụ ký. 

Khi đó có nhiều trộm cướp. Vua sai phò mã dẫn quân đi phòng ngự biên giới, tuần du các đạo. Lúc ấy, Lang công bèn nhận mệnh đường đường từ cổng thành tiến ra, tay cầm kiếm thần, tiến thẳng đến vùng mười châu. Đi đến khu vực xã Thời Mại, hôm ấy (mồng 4 tháng 5) nhân dân dựng hành cung làm lễ bái tiếp.

Ông đóng quân, đi xem xét làng quê bên ngoại. Ông lại xem địa thế dân cư, thấy có hình dáng như rồng và rùa cùng nằm, từ núi Nghĩa Lĩnh phân mạch quay về đất tổ, thật là một thế cục quý. Ông lại thấy phong tục nhân dân thuần hậu, làng xóm hòa thuận, lại chính là làng quê bên mẹ, đâu phải đất xa lạ. Hôm ấy ông nói với nhân dân, phụ lão rằng:

  • Hôm nay vì còn việc nước, ta tuần xét trộm cướp trong thiên hạ, chinh Đông dẹp Tây, chưa được ở yên. Đến ngày sau khi thiên hạ được bình yên, ta tất sẽ lập cung ở cùng với nhân dân làm nơi đô ấp. Ngày nay thiên hạ sinh ra nhiều trộm cướp, rồi một mặt sông Thao những đảng dữ rất thịnh ở các xứ. Lại còn có quân Thục thường hay xâm nhập vào nước ta, dụ dẫn lòng người đêm tâm mưu phản quốc. 

Vì nơi sông Thao xuất quân chống quân Thục rất tiện nên Ông truyền cho binh sĩ, nhân dân lập một đồn lớn ở đất xã Thời Mại để chế ngự đạo tặc. Nhân dân nghe lời rằng sẽ lập một đồn ở đất đó để trấn thủ thì đều rất vui mừng, đồng lòng phục xin làm thần tử. Ông đồng ý. Khi ấy Ông dâng biểu tấu về triều xin được nhận trị ở đất đó (tức đất Thời Mại), chế ngự giặc cướp cùng với quân Thục, lấy làm đồn chính đóng giữ. Vua đồng ý. Ông đến nhận ở đất đó, truyền phân các đạo binh mã đến các nơi quận, huyện, châu, trang, động, sách, phân bổ lập đồn đóng quân để chế ngự đạo tặc. 

Sự xong thì đạo quân chính của Ông đi xem xét các nơi đồn binh. Hễ nơi nào có trộm cướp, gian đảng, đầu sỏ nghe đạo quân chính của Lang công tiến đến đều tự nhiên sợ phục mà hàng. Còn nơi nào gặp phải việc chiến trận, Ông lấy kiếm thần giơ lên, đảng gian không đánh tự thấy kiếm mà sợ hại bỏ chạy. Ông đi tuần chế ngự đạo tặc qua ba tháng thì những âm mưu khởi loạn trong thiên hạ đều được Lang công bắt sống hết, đuổi về nơi chốn của chúng. Đạo tặc bị quét sạch, thiên hạ thái bình. Ông phụng chiếu quay trở về thành, dâng biểu tấu, bái tạ trước bệ rồng. Vua rất vui mừng xem đó, ngay hôm ấy lại phong Lang Công là Ninh Hải quận vương (thuộc đất sáu châu), thưởng ban vàng bạc cùng sợi gấm, lụa trắng hơn trăm cân. Ông lại tâu thỉnh lập cung ở làng quê ngoại (tức trang Thời Mại) làm nơi đóng sở. Vua đồng ý cho lấy đất đó làm đất Thang mộc ấp của Ông.

Khi đó Ông khấu tạ trước bệ, xin về đất trang Thời Mại. Ngày hôm ấy (mồng 9 tháng 2) nhân dân làm lễ bái đón. Ông truyền nhân dân lập cung ở nơi có hình trán rồng (đất đó phía sau có động cao dẫn mạch đều như mây phủ rồng chầu, trái phải nhất nhất đều chầu, trước mặt có dòng suối nhỏ, hai bên và trước sau đều có dòng nước chảy quanh, quay về hội ở chính đường, trước có đầm sen bán nguyệt, chợ đối diện trước cung, là nơi anh tài đô hội, lập nơi đó làm phủ trị, một vùng trái phải đều là cách rồng mây đứng chầu, phượng rùa đến chầu ở nơi đất chính cung). 

Việc xong, hôm ấy đón công chúa Nguyệt Cư quay về cung ấp mà ở đất ấy (tức đất Thời Mại). Được vài tháng thì cha mẹ ở kinh đô bỗng nhiên đều tạ thế (tức ngày mồng 5 tháng 2). Lang công cùng với công chúa quay về kinh đô, tâu lên vua. Vua nghe tin bèn sai đình thần đến làm lễ an táng cho ông bà tại bên trong thành. Sự xong, Ông cùng công chúa ở tang 3 năm, đến khi mãn tang mới quay trở về cung ấp (tức cung ấp Thời Mại), lại mở một cái chợ ở mảnh đất trước cung để tiện cho việc quân và cùng với nhân dân buôn bán, để làm nơi đóng vương cung đô phủ. Từ đó ông bà ở tại đó đảm nhận việc phụng sự gia tiên các bên nội ngoại, lấy đức giáo hóa nhân dân, chia tài sản tạo phúc. 

Ông là người vốn có lòng khoan dung đại độ, thưởng ban dân tình, giúp nghèo, dưỡng lão, lấy nhân nghĩa mà giáo hóa nhân dân đều có được thuần phong mỹ tục, vinh dự đủ đầy có thừa. Công chúa cũng một lòng trung hậu, đức nữ hiền hòa, phong tư tốt đẹp dẫu Tề Khương, Tống Nữ cũng không bằng, con vua dòng tiên một bề kết phối. Vợ chồng đều một lòng trung hậu. Phụ lão nhân dân (tức trang Thời Mại) đều nhất nhất coi như ơn sâu như núi sông, đức lớn như trời đất. 

Khi ấy Ông tuổi đã ngoài 30. Công chúa Nguyệt Cư 28 tuổi. Một hôm buổi tối công chúa Nguyệt Cư đang nằm ở chính nơi Tây cung, mơ màng vào mộng đi lên đỉnh núi Thứu Lĩnh, bỗng thấy một áng mây năm sắc bay trên đỉnh núi. Công chúa đến nơi xem xét, mới thấy mây năm sắc đều bay lên trên không. Trong mây lại có một con rồng vàng cũng theo mây mà bay lên trời. Lại thấy ở nơi rồng mây đó có một hang huyệt bên trong có 12 chiếc trứng. Công chúa nhặt trứng bọc vào trong áo, đem về đến đường lớn thì 12 trứng đều đồng loạt nở ra 12 rồng con, tất cả đều có hình như rắn thằn lằn. Công chúa sợ hãi bèn bỏ ở giữa đường. Bỗng nhiên tỉnh lại, mới đem mộng đó nói với Lang Công.

Lang Công bèn nói với công chúa rằng:

  • Nếu quả như trong mộng thì tất là điềm sinh quý tử, đúng là những anh tài tuất kiệt, nhập làm con trong nhà ta, không phải tầm thường. Sớm như trong mộng, nửa đường đã thả, có thể có ý liên quan, chưa chắc gia đình giữ được lâu dài.

Lang Công nói xong, năm ấy công chúa quả nhiên có mang thai, tới năm Giáp Thìn mồng 6 tháng Giêng sinh ở vọng cung (tức cung Đàm Lã) một người con trai, mặt mũi to lớn, mắt tú mày thanh, thật là kỳ dị, nhân gian không có ai có tướng như vậy. Được trong trăm ngày cha mẹ đặt tên là ông Tràng. Đến năm Bính Ngọ mồng 9 tháng 8 công chúa lại sinh một bọc ba con trai. Đến năm Mậu Thân mồng 3 táng 3 lại sinh một bọc 2 con trai. Đến năm Nhâm Tí ngày 12 tháng 10 lại sinh 1 người con trai. Mỗi lần như vậy trời đất mờ tỏ trong 3 ngày, mưa gió kinh trời, sấm sét khắp đất, mùi hương thơm gió nồng nàn trong phòng sinh nở, khí lành rạng rỡ nơi sinh. 12 người con trai đều có phong tư đẹp đẽ, thể mạo khôi kỳ. Phò mã Lang Công trong lòng suy tưởng mà nói:

  • Gia đình ta có dư phúc hậu nên trời sinh đám thánh, đất xuất chúng hiền, đều cùng báo nhập vào làm con trong nhà. Nếu như không phải vậy thì tất là yêu đồ, quỷ đảng tác loạn, tự sinh ra kỳ sự vậy.

Liền hôm ấy dâng biểu tâu lên vua thuật lại chuyện sinh nở kỳ lạ, Vua nghe tấu đó bèn thốt lên:

  • Phúc đó! Phúc đó! Con gái ta đức thật nhiều nên lòng trời đã định, quần hiền các thánh đều đến nhập vào nhà làm con, đúng là những thiên tài giúp nước, những người sẽ trợ vận giúp dân vậy.

Ngay hôm đó Vua mới đặt tên cho các chàng (12 ông đều là con của công chúa Nguyệt Cư, tức cháu ngoại của Nghị Vương). Thứ nhất là chàng Tràng, thứ hai là chàng Tuệ, thứ ba là chàng Dực, thứ tư là chàng Linh, thứ năm là chàng Hải, thứ sáu là chàng Thường, thứ bảy là chàng Khắc, thứ tám là chàng Thành, thứ chín là chàng Lôi, thứ mười là chàng Quý, thứ mười một là chàng Kính, thứ mười hai là chàng Dũng. Đến khi các chàng trưởng thành, người con trưởng tuổi đã 12, còn các em đã 8-9 tuổi, đều rất thông mình, sáng dạ, dũng lược hơn người, anh hùng vượt chúng. Nhân dân đều tận phục, trong nước đều sợ. 

Người anh tính vốn thông minh cương trực, đức lớn tài cao, lại thấy có nhiều thuật lạ, độ lượng khoan dung, đều có phong độ rộng rãi, văn chương sâu rộng, tinh thông võ lược, con hiếu anh tốt, đương thế đều xưng rất đúng là người hiền. Còn chàng Quý tính hay hiếu sát, hùng dũng hơn người, rất bạo ngược, một lòng khảng khái. Nhân dân sợ phục mà tránh né (khi ấy xã Thời Mại đều sợ phục chàng Quý hơn những chàng khác). Còn các chàng khác đều anh hùng, dũng lược chế ngự. Các tài tử đều vô cùng kính phục. Khi ấy Lang Công cùng công chúa mua thêm đất đại ruộng vườn, thiết lập các cung sở để phân cho các chàng cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi vạn đời hương khói mà phụng thờ, rạng tỏ lòng hiếu kính, đức lớn sánh với trời đất vậy.

Lại nói khi ấy Thục Vương nghe thấy Trung Quốc ít khi dùng võ, muốn chiếm thành một nơi, nhưng còn sợ phương Nam có thần, do dự chưa quyết. Khi đó có chủ phụ đạo bộ Ai Lao có tài lược lớn, cũng là tông phái Hùng Vương. Thục Vương nghe vậy bèn dẫn quân đến đánh nhằm chiếm bộ Ai Lao.

Chủ phụ đạo Ai Lao đó không thể chống lại, bèn cử người đến tâu cầu cứu với Nghị Vương. Nghị Vương bèn dẫn mười vạn hùng binh và sai Ninh Hải quận vương thống lĩnh quân thủy bộ nhằm thẳng đến thành Ai Lao để ứng cứu. Thục Vương nghe Nghị Vương cùng với con rể phò mã Ninh Hải vương dẫn quân đến cứu viện, lại có kiếm thần, mới sợ hãi mà gửi thư rằng:

  • Quân Thục từ phía Tây lại chỉ muốn chiếm chủ bộ để truyền lại đất nước, đâu dám giơ càng bọ ngựa chống lại cỗ xe vạn thừa vậy.

Nghị Vương thấy thư đến bèn đem quân về. Thục Vương mới được chủ bộ đem về nước Thục, gả công chúa cho và lại nhường ngôi cho. Rồi sai sứ giả đến tạ Nghị Vương, xin Nam triều là anh, Bắc triều là em, định ước giảng hóa, hai nước kết giao. Nghị Vương đồng ý. Từ đó phía Tây Nam quân tình yên vậy.

Lại nói Ông (tức phò mã Lang Công) từ sau khi đánh Thục trở về cung ấp (tức Thời Mại) bỗng vai trái nổi ung nhọt mà nằm bệnh. Vua thường thân đến thăm hỏi. Khi đó Ông đã ngoài 80. Các chàng con tuổi đã ngoài 20. Thấy Ông tuổi đã cao lại mắc nằm bệnh, đề phòng vạn nhất có thế nào nên bèn lập con trưởng chàng Lý Tràng làm Tá thái tử (chữ Tá do Vua đặt cho) để nối vị trí Ninh Hải vương nhận trị. Còn các chàng khác đều phong làm tướng quân. 

Hôm đó Lang Công triệu các con cùng với phụ lão nhân dân lại phân phó thác các nơi đất đai, phụ lão cùng các con và nhân dân tuân theo lời giao phó, không được làm khác. Khi ấy Ông phân đều đất đai, thiết lập thành các trang cho các con để sau này phụng thờ. Lúc đó xã Thời Mại được Ông chia thành 4 trang. Một là trang Đàm Lã, giao cho chàng trưởng Tá thái tử để làm nơi sau này hương khói phụng thờ. Nơi mà Ông đã lập chợ (tức chợ Núi) đều phân làm hai, một phân cho Thái tử để phụng thờ, thuộc về Thái tử. Một phân cho các con khác để thu lấy dùng phụ tế làm lễ các tiết. Về sau thuế chợ cũng được chia đều như vậy. 

Một khu gò đã lập cung để ở, sau này ủy phó cho các con cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi đền chính phụng thờ vợ chồng ta. Lại cũng giao cho Thái tử một khoảnh ao ở bên trái trước cung, cho Thái tử lấy làm hương khói phụng thờ.

Còn các gò khác cộng 14 chỗ cùng các vùng đất các trang (đất của trang Đàm Lã, trang Lôi, trang Trung Chính, tranng Miếu, trang Lan, trang Thượng Giáp, trang Vĩnh Ninh) và nhân dân (tức ở vùng đất Thời Mại) Ông chia thành các trang thần tử, cùng cho Thái tử cùng với các con chung nhau mà hưởng đều. Không thể bỏ lời chúc thác nàu mà tranh nhau, thì không phải là đạo hiếu của các con ta.

Các chàng cùng với phụ lão, nhân dân nghe lời Ông dạy đều tuân theo lời ủy chúc mà nhận. Sau khi Ông giao chúc được vài mươi hôm thì cái nhọt ở vai trái tự nhiên khỏi. Ông lai đi vào đất Ái Châu, thăm lăng mộ tổ tiên. Phò mã Lang Công đi theo hầu Vua đến chân núi Bàn Sơn (thuộc đất Ái Châu), bỗng nhiên thấy một đám mây trắng từ trên núi bay ra đến thẳng chỗ Lang Công, quấn quanh người. Kiếm thần theo đó bay lên trên trời. Trong chốt lát biến thành một làn khói đen. Trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên. Khi ấy trong mây có tiếng tụng rõ ràng rằng:

Nhất phiến bạch vân phàm nhiễu lai

Thần long cấp cấp đáo thiên đài

Dương quân dĩ mãn thiên quân triệu

Vân giá phù long thượng đế hồi {đài}.

Tụng dừng thì tự nhiên mây khói một đường thẳng lên trên trời mà tự tan đi. Trời đất sáng tỏ. Phò mã bỗng nhiên mà hóa. Cả thân hình chỉ còn thấy áo cốt, đặt ở trên đất tại đó. Vua lấy làm lạ, ngày hôm đó (18 tháng 10) dừng lại xem xét, rồi truyền nơi đất đó cùng với nhân dân Ái Châu sửa chữa miếu đền, lập phụng thờ. Sự xong quay về đô phủ. Hôm đó bao phong tặng mĩ tự cho hưởng lễ vật hương khói vạn cổ không ngừng, cùng vận với quốc gia mà hưng thịnh vậy.

Phong Phò ký Lang Đại vương.

Khi ấy truyền các nơi nhân dân có thờ phụng đến thành đô để phụng đón sắc chỉ trở về các chốn mà thờ phụng. Vốn xã Thời Mại là nơi đền sống của Ông được cho làm thang mộc ấp, chốn hộ nhi, cùng với Bàn Sơn ở Ái Châu là nơi đền lăng của Ông. Hai đền này được truyền sai quan mang đón sắc chỉ về đền. Trăm quan làm lế tế cùng với Công chúa, Thái tử và các con. Nhân dân các trang cũng làm lễ thờ phụng.

Lại nói, khi ấy Tá Thái tử lại nhậm chức Ninh Hải, nối trị quận vương. Còn các ông con trai cùng ở nơi cung ấp (tức Thời Mại) để phụng dưỡng mẹ già (tức công chúa Nguyệt Cư). Các nơi mà Ông đã phân chia thành các cung để ở (khi đó các trang của đất Thời Mại và các xứ gò đều đã được các ông con trai lập làm nơi đô phủ. Ở nơi đó nhân dân đều phục làm thần tử), đều làm các đô phủ anh em cùng nhau quý hiền, dân ấp đều được vinh dự ơn lộc của nhà vua, danh tiếng vang xa, bốn biển anh hùng đều hướng phục.

Lại nói, khi Nghị Vương ở ngôi đã 160 năm thì mất, mới lập Thái tử Hùng Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương tư chất thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ nghiệp tổ tông 17 đời thịnh trị, trong tu luyện võ lược, ngoài ngự trấn biên cương, dốc lòng hưng bình mà yên Trung Quốc. Bèn theo gương của tiên vương mà trị, tôn sùng thiên đạo, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, xuân về trong nước. Đương thời đều gọi là vị hiền quân vậy.

Khi đó công chúa Nguyệt Cư tuổi đã ngoài 70. Một hôm (ngày 12 tháng 12) bỗng nhiên bị đau đầu mà hóa ở nơi ở chính, làm lễ an táng tại chính cung (tức cung Đàm Lã của Thái tử). Trăm quan đến tế, lại bao phong mĩ tự, truyền cho nhân dân cùng triều đình tu sửa cung miếu phụng thờ, cùng với quốc gia hưng thịnh vậy.

Duệ Vương bao phong là:

  • Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa.
  • Phong Phụ Ký Linh ứng Lang Đại vương.

Các trang của xã Thời Mại phụng thờ ở nơi chính đền (khi đó Nguyệt Cư đã thiết lập một du cung ở chợ Núi, người ở chợ đó đều xưng là thần tử. Công chúa hóa về sau, đất chợ Núi đều phụng thờ, sự tích còn ở bộ sau).

Lại nói khi cơ đồ họ Hùng đến cuối thế nước cáo chung. Duệ Vương ở ngôi sinh được 20 hoàng tử, đều lần lượt theo nhau về cố hương, 6 vị công chúa cũng chỉ còn 2 vị nữ công chúa. Một tên là công chúa Mị Châu Tiên Dung. Một tên là Mị Nương Ngọc Hoa. Rất được yêu mến. Vua sau gả Mị Châu cho Chử Đồng Tử (quê ở xứ Sơn Nam, xã Đa Hòa, huyện Đông yên, phủ Khoái Châu). Còn công chúa thứ hai là Mị Nương Vua muốn cầu người anh tài để gả kết hôn, bèn lập 2 lầu ở cửa thành Việt Trì, đằng trước treo biên là Đãi hiền lầu. Sai công chúa ở đó. Gửi hịch đi bốn phương, hễ ai có là văn nhân tài tử thì hội về thành để thi tài, sau gả công chúa cho. Thế là hào kiệt bốn biển đều vui mừng, mau chóng quy tập về quốc đô. Vua ngự ra đề thi. Người thì ngàn kinh vạn cuốn không thiếu trong tường Khổng Mạnh, bốn khóa ba truyện chẳng kém thao lược Tôn Ngô. Hiền tại trong Thiên hạ đến ở một trường thi trận,

Đều là tầm thường mà đi, không phải người toàn tài đương thời. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Tinh và Động Đình Thủy Tinh là hai người bạn đồng học có nhiều phép thông thiên, thật là anh hùng. Vua bèn nói:

  • Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, mà hai khanh đều là bậc anh hùng. Ngô vui thì Sở buồn, Hán ca thì Tần khóc. Thôi thì đành định xem trong hai người ai có khả năng đem sính lễ đến trước thì Trẫm sẽ gả con gái cho.

Thế là hai tướng Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng hẹn rằng:

  • Chúng thần cùng nhau về đem sinh lễ đến thi, xem ai đến trước.

Thủy Tinh về cung Động Đình mà cầu kỳ các vật lạ. Sơn Tinh đi thẳng ra ngoài lầu lấy gậy trúc chỉ trời xin được sính lễ. Bỗng thấy voi trắng chín ngà, ngọc kỳ vật lạ từ trời rơi xuống. Sơn Tinh nhặt lấy đến đêm gờ Tý đem lễ vào lầu rồng. Vua bèn gọi công chúa đến mà gả cho Sơn Tinh (Sơn Tinh tức Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng), bèn đón về núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thủy Tinh đem sính lễ đến. Vua nói:

  • Sơn Tinh đã đến lễ trước rồi.

Thủy Tinh tức giận mà quay về (thế là Sơn Thánh và Thủy Tinh do việc hôn nhân mà thành thâm thù, mỗi năm cứ đến tháng 6-7 lại giao chiến, mưa gió nổi lên to lớn, nhân dân thiệt hại nhiều, còn xem trong sự tích về Sơn Thánh).

Lại nói khi Duệ Vương 150 tuổi mới nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh. Tản Viên không nhận, Duệ Vương nói:

  • Cơ đồ họ Hùng đã đến cuối, con có thể thay thế được.

Tản Viên do dự chưa quyết. Khi đó Thục Vương (là chủ phụ đạo nước Ai Lao, cũng là dòng dõi Hùng Vương) nghe tin Duệ Vương tuổi trời đã đến kỳ mà 20 hoàng tử đều đã về trời, không có người lập nối dõi, định nhường ngôi cho con rể Tản Viên. Thục Vương mới âm thầm khởi binh muốn đến đánh để chiếm lấy nước. Biên phương cấp báo, Duệ Vương cùng với đình thần bàn bạc. Triều đình có quan Liêu tiến ra rằng:

  • Bệ hạ nghỉ ngơi đã lâu, quân thần tướng sĩ ở trong thời không có chiến loạn, nên hàng ngày quân luyện không tinh. Nay có động đến tất nhân dân xã tắc sẽ muốn cầu phòng thủ để các bậc Thái tổ Thái tông trên trời linh thiêng không gặp hoạn nạn. Vạn nhất mà sự quân xấu đi, quân Thục tất sẽ phá tổ tông cùng làm tổn thương dân chúng con đỏ vậy. Chẳng bằng nhân đây dùng mưu thận trọng bí mật hối lộ tướng giặc, gửi thư cho Thục Vương để xem có thê hoãn việc động binh, từ đó xem cơ sự sau này ra sao.

Vua nghe vậy, muốn theo kế này, bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh đến hỏi. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Hơn hai ngàn năm qua 17 vị thánh quân có ơn sâu đức dày, đã khắc sâu vào cốt tủy nhân dân.

Hiện nay nước giàu quân mạnh. Oai đức của bệ hạ lan xa bốn biển. Chẳng qua quân Thục không biết tự giữ mà dám quật cường, thất bại đã rõ, tất đúng như vậy. Xin bệ hạ xử tội mà thảo phạt, lấy nghĩa mà phục, tất dân ta đều theo bệ hạ. Nước giặc đánh đến không khắc gặp họa. Xin được lĩnh ba vạn quân hùng ra vào, một xe độc tiến, đất Thục sẽ yên.

Vua nghe vậy rất mừng bèn chọn ngày trai giới, lập đàn cầu đảo trời đất. Đang khi làm lễ bỗng thấy trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi tới. Việc xong, đêm ấy Duệ Vương ngự ở chính điện, mơ màng nằm mộng, bỗng thấy Hùng Anh Vương (tức là tổ năm đời của Duệ Vương) cùng binh sĩ tiến đến nói với Duệ Vương rằng:

  • Cơ đồ họ Hùng đã tận, thế nước cáo chung. Thục Vương làm loạn, nên lòng trời đã định, sai những anh tài xuất thế để trợ giúp nước nhà khi tận cuối. Có 4 vị thần quan trên thiên đình, 1 vị thần quan của thủy quốc, 7 vị thần quan thổ địa đều đầu nhập vào làm con của công chúa Nguyệt Cư, theo giúp Tản Viên Sơn Thánh để trị loạn này vậy. Không phải là vô minh đâu.

Duệ Vương trong mộng tâu lại với Anh Vương rằng:

  • Dám hỏi các vị thần quan tên như thế nào, xin được chỉ giáo.

Anh Vương nói:

  • Thứ nhất Tá Thái tử (là Thông phán sự của Thiên đình sai xuống). Thứ hai là Thái Ất. Thứ ba là Thiên Cương. Thứ tư là thần quan Áng Na (tức là thần quan nơi gò đất). Thứ năm là thần quan Thủy (là vị Linh quan của Thủy đình). Thứ sáu là thần quan Đương niên hành khiển (là vị Thiên quan). Thứ bảy là thần quan Phú. Thứ tám là thần quan Khắc. Thứ chín là thần quan Miếu. Thứ mười là thần quan Lôi. Thứ mười một là thần quan Dòng. Thứ mười hai là Đương cảnh bản thổ thành hoàng Đại vương. 7 vị thổ thần là khí lành của núi Hùng, Thời Mại đúc thiêng, cùng mang tên hiệu gò sinh ra vậy (Khi ấy Thời Mại có các gò Áng Na, gò Phú, gò Khắc, gò Miếu, gò Lôi, gò Dòng ở tại nơi cao, cùng với Đương cảnh thành hoàng quản lý nơi đó).

Anh Vương dứt lời thì xa giá tự quay đi. Duệ Vương khấu tạ, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là mộng này là Anh Vương chỉ dạy, bèn sai quan sứ truyền hịch gọi các ông đến, cùng bái làm các tả hữu tướng quân, nhận lệnh của Tản Viên Sơn Thánh đi đánh nước Thục. Khi đó Thái tử Tràng đang nhận chức Ninh Hải vương, chống đánh với một mặt quân Thục. Còn 11 ông tuân phụng mệnh vua, khấu tạ trước bệ, quay về cung ấp (xã Thời Mại), làm lễ từ đường. 

Việc xong lại chiêu mộ được các gia thần, nhân dân địa phương được ngoài 700 người khỏe mạnh làm thủ túc cầm đao cho các ông (khi ấy Đàm Lã của xã Thời Mại thuộc thủ túc của Thái tử có 121 người, còn trang Bình Chính, trang Trung Thượng, trang Lan, trang Vĩnh Ninh cộng là 276 người đều theo các ông đi chinh phạt. Còn người ở chợ Núi thì theo thần quan Thủy cùng làm thủ túc gia thần được 68 người. Còn các nơi quận huyện cũng theo các ông, cộng được 743 người).

Khi đó (mồng 10 tháng 8) mổ trâu khao đại hội binh sĩ ở cung ấp. Xong việc các ông tiến quân mã đến bệ rồng. Vua sai làm tả hữu đốc lĩnh tướng quân, cùng cho 5000 hùng binh nhập theo lệnh của Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Thánh cùng các ông khấu tạ trước bệ, lĩnh mệnh đường đường từ cửa thành tiến đi, thẳng đến đồn chính của quân Thục tại đất Mộc Châu, Quỳnh Nhai, đánh một trận đại phá, chém các tướng nước Thục cùng quân sĩ hơn ngàn đầu. Quân Thục thua to tứ tán (trận này có thiên thần là Tá thánh từ trời xuống giúp nước nhà, còn có tích riêng). Còn các dư đảng đều bị bắt sống, dẫn về kinh, một xe không thoát, một ngựa không lọt, quét sạch không yên bình vậy. Tức tốc sai tâu báo tiệp. Vua bèn chia các chiếu truyền về. Sơn Thánh cùng các ông và các tướng phụng mệnh quay về thành, đến tận cổng bái tạ. 

Vua rất vui mừng bèn mở yến tiệc khao quân sĩ, thưởng cho ba quân, gia phong các công thần lớn nhỏ. Từ đó non sông thanh bình. Các ông khấu tạ bệ rồng xin trở về cung ấp (cung ấp Thời Mại). Vua đồng ý. Các ông ngày hôm đó (mồng 5 tháng 3) quay về cung. Nhân dân làm lễ bái đón. Các ông mở yến tiệc lớn, khao các tướng sĩ, gia thần. 

Việc xong khi đó Quý Công (tên là Dũng) vốn tính hiếu sát, rất cường bạo, ngỗ nghịch nhưng lại cũng có lòng nhân lượng, nên nhân dân sợ phục, yêu mến hơn các ông khác. Hôm đó Quý Công biết giết người là quá đáng mới lập riêng một cảnh chùa, tạo làm tượng Phật để giải oan những tội lỗi cho mọi người (chùa tên là chùa Sùng Ninh) ở đất trang Vĩnh Ninh, cũng là nơi đất có hình rồng vậy. Việc xong từ đó các ông anh em thiết lập đồn dinh, tu sửa đền miếu, cùng nên quý hiển, nhận được ân lộc nước nhà, trong môn hộ có thêm người bốn biển làm gia thần, nổi tiếng một phương ở ấp tại đất Thời Mại. Nhân dân đều làm thần tử, cha con anh em một nhà thế lớn, ân sâu đức dày, mở mang mĩ tục nhân dân, người trước mở, người sau đắp, công đức rạng rỡ sánh cùng trời đất vậy.

Lại nói được gần hết 2 năm thì Thục chúa ôm hận, cầu viện các nước láng giềng tám vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, tàu thuyền 2 ngàn chiếc, thủy bộ cùng tiến thẳng đến đất Nam Giao đánh lấy nước ta. Quân bộ theo chân núi từ thập châu Hoàng Khiếu [Tùng], Quỳnh Nhai, Lượng Sơn, Văn Lãng, Châu Đại Man, Văn Bàn, An Lập, Thuỷ Vĩ, Bố Chính, Minh {Linh} 5 đạo tiến ra. Đường thủy tàu thuyền theo La Châu, cửa biển Thần Phù, cửa biển Hội Thống. Cờ xí rợp đất, chiêng trống vang trời, tiếng quân chấn động như sấm sét vạn dặm. 

Vua rất lo lắng mới hỏi đình thần, tất cả đều dương mắt nhìn nhau không có một kế khả thi. Trước đó các ông đã được cử đến trấn nhậm các nơi. Tá thái tử nhận Ninh Hải quận vương. Ông thứ hai đến nhận ở Tuyên Quang. Ông thứ ba đến Hưng Hóa. Ông thứ tư đến Ô Châu. Ông thứ năm đến Hải Dương. Ông thứ sáu đến Mộc Châu. Ông thứ bảy đến Chu Diên. Ông thứ tám đến Mai Châu. Ông thứ chín đến Việt Châu. Ông thứ mười đến Thái Nguyên. Ông thứ 11 đến Lạng Sơn. Đều cùng nhau đến nhận việc các chủ trưởng phụ đạo. Còn lại ông thứ 12 ở tại cung ấp để giữ coi đền miếu (đất Thời Mại).  Khi đó Vua gọi các ông về cùng Sơn Thánh để hỏi mưu kế. Sơn Thánh cùng các ông một lòng đánh dẹp giặc, xin nhận mười vạn quân. 

Vua rất vui mừng, bèn trao nỏ thần cho Sơn Thánh, phong làm Nhạc phủ kiêm thượng đẳng thần. 12 ông đều được phong là tả hữu thần quan, giao cho mỗi ông một thanh Kim đao, một bộ áo chiến bào, một mũ trăm sao, một con tuấn mã, theo thánh giá đi dẹp giặc. Sơn Thánh cùng các ông bái tạ, nhận mệnh phân binh thành các đạo, tiến thẳng đến các đồn quân Thục, đánh một trận lớn, lấy được dấu ấn tín của giặc. Bèn mới làm giả một bức thư của Thục chúa gửi cho tướng Thục yêu cầu giữ nguyên quân trong đồn, không được đánh. Tướng Thục nhận được thư phòng thủ không ra. 

Sơn Thánh cùng các ông mới ngày đêm tiến đến thành Thục, chia quân thành các đạo đánh một trận lớn, bắt sống nước Thục dẫn về kinh sư. Các đồn nghe biến không kịp cứu. Quân Thục bị phá tan, thua to, dẹp sạch vậy. Sơn Thánh cùng các ông làm lễ dâng biểu tâu, quay trở về thành làm lễ bái tạ. 

Vua rất vui mừng, bèn mở yến tiệc. Đang trong lúc ăn uống 11 vị ngồi ở trên triều hai bên trái phải trước bệ. Đang giữa ban ngày bỗng thấy trên trời có 3 tiếng sấm vang đất, trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên, ban ngày hóa như đêm. Mười ông bỗng nhiên cùng hóa trước bệ rồng trong chính điện. Được một lúc thì mây gió tự tan, gió to dần dần thổi đi. Trời đất sáng lạn. Thì thấy các ông đều đã hóa. Chỉ còn Thái tử và Quý Công còn ở trước triều. 

Duệ Vương lấy làm sự lạ, ngày hôm đó (mồng 1 tháng 2) làm lễ an táng các ông ở nơi đất trong thành, rồi cứ theo lời dạy của Anh Vương trong mộng mà bao phong mĩ tự, cho đón về đất nơi cung ấp (xã Thời Mại) để phụng thờ. Duệ Vương phong vậy (phong Thái tử Ất thần quan, phong Thiên Cương thần quan, phong Áng Na thần quan, phong Thuỷ thần quan, phong Đương niên hành khiển thần quan, phong Gò Phú thần quan, phong Gò Khắc thần quan, phong Gò Miếu thần quan, phong Gò Lôi thần quan, phong Ông Dòng thần quan). Còn 4 trang của xã Thời Mại cùng phụng thờ. Trang chợ Núi (theo riêng Thủy thần quan) phụng thờ riêng hai vị (Thánh mẫu cùng với Thủy thần quan), cùng cho làm làng hộ nhi cho đền chính. 

Lại nói còn Thái tử cùng với Quý Công thấy các ông cùng ngày đều hóa, tất là vận nước nhà đến cuối nên các ông trở vê cung mây, không ham muốn lợi lộc của dương gian, tránh nhiễm bụi trần. Hai ông khấu bệ rồng xin được trở về cung ấp nghỉ ngơi trả lại chức trách. Vua đồng ý, ban cho một trăm hốt vàng ròng cùng với một trăm súc vải gấm. Hai ông quay trở về. Hôm đó (mồng 6 tháng 3)

Nhân dân làm lễ bái đón. Hai ông bái yết gia tiên, tu sửa đền miều các cung tòa ở các nơi đất trong các trang. Lại cho các gia thần cùng nhân dân một trăm thỏi vàng ròng, mở yến tiệc. Hai ông gọi phụ lão nhân dân và các thần tử cùng đến ăn uống. Nhân lúc ăn uống vui vẻ hai ông nói với nhân dân rằng:

  • Nhà ta cùng với nhân dân (4 trang của Thời Mại) vốn có ân sâu đức dày đã nhập vào xương tủy. Một nhà thần tử, vạn cổ cương thường tất thành nghĩa cũ, đâu phải là tình ngày một ngày hai. Nay có một tòa nơi cung mà hai vị tiên tổ đã lập ra (là cung đền ở nơi dân cứ, bên ngoài đối diện với nơi chợ). Nay lấy đó làm đền chính phụng thờ hai bậc gia tiên. Còn các tòa dựng về sau ở các nơi trong các trang thì để là cung thờ vọng. Hôm nay chúng ta ủy phó giao cho nhân dân làm nơi sau này cùng phụng thờ cha mẹ nhà chúng ta với các anh em, để nêu cao phong tục tốt đẹp trong nhân dân, đề cao tình thầy trò, làm thịnh thêm đức này vậy.

Phụ lão nhân dân, thần tử, đều cùng lòng nhận ủy chúc này. Việc xong thì đến mùa hè ngày 11 tháng 5, hai ông đi dạo chơi săn bắn, trở về cung. Quý Công cho quân binh về và ngồi nghỉ ở chùa Sùng Ninh, ngắm xem địa hình cảnh thiền. Thái tử đem quân trở về nơi cung chính. Bỗng nhiên mưa to gió lớn nổi lên, giữa trời có một đám mây đỏ như ánh lửa màu hồng, cuốn tròn như hình mặt trời, bay đến quấn quanh dân ở nơi đó, như vạn chiếc nón úp đất, môi ngậm yên lặng một vùng. Dân ở đó kinh sợ không dám ra khỏi nhà. 

Hôm ấy (mồng 10 tháng 5) Quý Công hóa ở chùa Sùng Ninh. Thái tử hóa ở nơi cung đền chính (trong 12 người con chỉ có ông Thái tử là nhận chức Ninh Hải quận vương, lấy vợ con chủ trưởng châu Bố Chính, sinh được 3 nam 2 nữ, sau sinh được các cháu còn nhận chức phò giúp Trưng nữ vương. Sau này cháu 10 đời lại lấy con gái vua Trần Thuận Tông). 

Hai ông hóa xong thì đám mây hình ô tự biến đi, quạ bay đến thành đám, mưa gió tự nhiên hết. Gia thần, nhân dân đều ra đến chỗ các ông hóa để làm lễ an táng, nhưng đều thấy mối đã đùn thành mộ. Nhân dân bèn dâng biểu tâu về triều đình. Vua nghe vậy, nhớ tới lời báo trong mộng quả đúng nên rất kinh hãi. 

Vua thân ngự giá về nơi cung ấp, truyền nhân dân lập đền miếu phụng thờ. Lại lập một miếu ở nơi chùa Sùng Ninh thờ Quý Công. Còn Tá thái tử thờ phụng ở đền chính phối thờ cùng cha mẹ cùng các ông được truy hưởng. Hôm ấy (12 tháng 2) việc xong, Vua bao phong hai vị cùng 12 ông mĩ tự cùng áo mũ, truyền các quan cùng nhân dân làm lễ tế, cho phép 4 trang của xã Thời Mại làm nơi hộ nhi, miễn lệ các thuế dịch.

Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa (theo như quyền chính của quân nữ chi ở trên)

Phong Phò Ký Lang Cương nghị Đại vương

Phong Tá thái tử Tràng

Phong Thái Ất thần quan

Phong Thiên Cương thần quan

Phong Áng Na thần quan

Phong Thuỷ thần quan

Phong Đương niên hành khiển thần quan

Phong Gò Phú thần quan

Phong Gò Khắc thần quan

Phong Gò Miếu thần quan

Phong Gò Lôi thần quan

Phong Gò Dòng thần quan

Phong Đương cảnh thành hoàng bản thổ Đại vương.

Trang Đàm Lã xã Thời Mại là nơi thờ trưởng phụng thờ Thái tử nên việc tế khấn có ngọc phả, lưu giữ thần hiệu truyền làm căn cứ. Còn trang Bình Chính, Trung Công, Lan cùng có các tiết làm lễ phụ, hưởng cỗ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng trời đất không mất vậy. Từ đó quốc đảo dân cầu có nhiều điều linh ứng. Mỗi năm hai kỳ xuân thu làm quốc tế. Bốn mùa hương hỏa không ngơi. Sau Lê tiên sinh có thờ rằng:

Tự cổ tòng lai vị kỷ nhân

Thê vi vương tử, tử vi thần

Đồng bào thập nhị giai hiền triết

Vạn cổ lưu truyền tại xã dân

Phụ đức càn khôn giai bất mẫn

Thần công sơn hải tỷ vô ngân

Phu thê phụ tử thiên xuân tại

Danh đức như tư nhật nguyệt tân.

Lại nói, trải Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 349 năm đến khi nước Nam có 4 họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có anh linh hiển ứng, giúp nước cứu dân, nên nhiều thời các đế vương gia phong mĩ tự, hương khói không ngừng. Đến khi Lê Đại Hành dẫn quân phạt Tống, tiến quân đi qua đền (tức cung đền Thời Mại), dừng ở đây một đêm, cầu đảo âm phù giúp nước dẹp được giặc, tới khi thanh bình sẽ bao phong là Thượng đẳng phúc thần. Chúc xong đêm đó vua Lê ngự ở điện chính, nằm mơ bỗng thấy công chúa cùng phò mã và 12 người con là thần quan đều cầm Kim đao, mũ ngọc xán lạn, áo bào giáp rồng huy hoàng, quân mã đường đường tiến đến. Hai vị đều đứng trái phải trước Vua. 12 thần quan đều đứng chầu bên trái phải, quân binh mang áo giáp đứng thành 2 hàng. Vua hỏi rằng:

  • Các vị đến là thế nào?

Trả lời rằng:

  • Thần vốn là phò mã nhà Hùng, nghe vua Lê phạt Tống qua đây gọi trợ chiến, nên dẫn binh mã đến yết kiến.

Dứt lời thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ, biết là có nhiều điều linh ứng. Hôm ấy làm lễ rồi dân quân tiến thẳng, sau dẹp sạch được giặc, vua Lê bao phong mĩ tự Thượng đẳng phúc thần, hưởng lễ vạn cổ, hương khói vô cùng, cùng hưởng vận với quốc gia, thịnh sao!

Phong Nguyệt Cư công chủ Trinh thuận Minh mẫn thần vị

Phong Phò ký Lang Cương nghị Uy dũng Hùng kiệt Đại vương

Phong Tá thái tử Tràng Đại vương.

Còn 11 vị tuân theo như mĩ tự của triều trước, gia phong hai chữ Đại vương. Đền chính hộ nhi của xã Thời Mại mỗi năm hai kỳ quốc tế. Từ Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều vị đế vương truy phong mĩ tự, hương hỏa vô cùng.

Lại nói thời hậu Trần, Giản Định đế khởi nghĩa hưng binh để lập phục lại nhà Trần (là con thứ của Trần Nghệ Tông). Khi đó có quan phò mã là Lý Thái Bảo (cũng là cháu thứ hai đời thứ mười bốn của Tá Thái tử từ Lý Lang Công), đi qua đền trang Đàm Lã, xã Thời Mại, kính nghe rằng đền thờ tổ tiên có tiếng nhiều linh ứng. Khi đó quan phò đang tiến quân truy đuổi Hồ Quý Ly cùng Hán Thương, mới tiến quân đến nơi đền, cầu đảo xin được âm phù để dẹp được họ Hồ, khôi phục lại quốc gia nhà Trần. Sau này được thanh bình xin tâu với vua, tất có bao phong mĩ tự, hưởng lễ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng nhật nguyệt, trường tồn mãi mãi. 

Khi vừa chúc xong bỗng thấy gió to nổi lên thổi thẳng vào trong cung đền, làm gẫy cây, cát đá bay mù mịt, trời đất mờ tỏ. Trong đền nghe tiếng động như tiếng sấm. Phò mã lại làm lễ bái xin. Thì mưa gió tự nhiên dừng lại. Quan phò mã (vì lấy con gái của vua Trần Giản Định) nói với phụ lão nhân dân rằng:

  • Tiên tổ của ta đều rất linh thiêng, tất là vì vận hưng quốc mà âm phù vậy.

Dứt lời hôm đó cất quân thẳng đến đánh một trận với quân Hồ. Quân Hồ thua, chạy tán. Vua Giản Định phục được quốc gia, lên ngôi hoàng đế, bèn gia phong tuân như sắc chỉ của triều trước, lệnh quan đem sắc chỉ về đền (đền Đàm Lã) mà làm lễ tạ. Ch xã Thời Mại được một năm hai kỳ xuân thu quốc tế, lại lập ở trong ấp (tức xã Thời Mại) 7 nơi miếu để cùng phụng thờ. Các chữ húy cùng các tiết sinh hóa và các ngày lệ tiệc khánh hạ cùng các sắc phục được khai cụ thể như sau:

  • Lệ ngày sinh của cha mẹ cùng các ông: làm lễ ở miếu chợ chính sở, cùng xã làm lễ cỗ thịt lợn, xôi, rượu, bánh trôi. Trước đó 1 ngày là lễ tắm rửa. Ca hát một ngày đêm đến mười giờ sáng thì đón trở về các nơi làm lễ.
  • Mồng 3 tháng Giêng chính lệ ngày sinh Thánh mẫu: làm lễ chay 3 mâm, trà, bánh chay, ngũ vị hương, làm lễ tại miếu chính ở cung chợ, lúc thờ đó làm lễ tắm rửa, tới ngày mồng 4 nghênh giá Thánh phụ, Thánh mẫu về cung Thái tử Đàm Lã. Đến mồng 5 dùng lợn đen, rượu ngọt, chọn gia đình vợ chồng song toàn làm lễ. Đến mồng 6 làm lễ thịt lợn, xôi ngũ sắc, hát xoan thì có phường hát của cung tạo lệ 4 xã Phù Khang, ngâm chúc phụng thờ. Sau 3 ngày làm lễ tạ quay về cung miếu. Các giáp phụ giúp tế ở chợ Núi và các miếu ca hát.
  • Mồng 6 tháng Giêng là ngày chính lệ sinh nhật của Thái tử Đại vương: làm lễ ở cung Thái tử Đàm Lã, lợn đen tuyền, chọn gia đình có đủ vợ chồng song toàn, rượu ngọt, xôi, hát xoan do phường của 4 xã tạo lệ huyện Phù Khang cùng đến cung hát vịnh tụng chúc. Ngày Thái tử sinh nhật cũng là ngày khánh hạ của Thánh phụ, Thánh mẫu. 
  • Ngày 11 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: làm lễ lợn đen, xôi, rượu tòa xã tại chính miếu chợ.
  • Mồng 3 tháng 3 là ngày sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn đen, xôi, rượu cùng ca hát ở cung Đàm Lã và Trung Công.
  • {12 tháng 10 ngày lệ sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn, xôi, rượu, ca hát một ngày đêm ở Đàm Lã và trang Lan.
  • 20 tháng 12 là ngày hóa của Đại vương: làm lễ lợn, xôi, cơm, rượu, 7 nơi vọng cung cùng làm lễ, 12 giáp cắt cử người phụ tế ở cung Đàm Lã.
  • 12 tháng 12 là ngày hóa của Thánh mẫu: làm lễ lợn đen, các mâm gà, xôi, cơm, rượu ở cung Đàm Lã, cùng xã phụ tế và các nơi cũng làm lễ.
  • Ngày 10 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: lợn đen, xôi, rượu, cùng xã làm lễ tại chính miếu chợ.}
  • 10 tháng 5 là ngày hóa của hai vị Thái tử và thần bản thổ: lợn, xôi, cơm, rượu làm lễ ở cung Đàm Lã và chùa Sùng Ninh.
  • 10 tháng 8 là ngày khánh hạ sinh thần của Đại vương và ngày phân 12 giáp (12 giáp này đều là gia thần của 12 vị thần quan được Duệ Vương phân làm 12 giáp để phụng thờ): Trước một ngày làm lễ khánh hạ ở miếu cung tại xứ chợ đến ngày 9 thì đón giá về các vọng cung làm lễ lớn, ca hát, đánh cờ. Làm lễ lợn đen, xôi, rượu, bánh dày trắng, mỗi giáp làm bánh dày trắng 100 viên, ngày mồng 8 tế ở chính miếu chợ, ca hát một ngày đêm, quét dọn từ miếu chợ đến các nơi. Mồng 9 các giáp đón về các vọng cung làm lễ, ca hát, đánh cờ. Ngày mồng 10 toàn 12 giáp làm lễ.
  • Khai sắc khánh hạ ngày 10 tháng Giêng: lợn đen, xôi, rượu, ca hát ở cung Thái tử Đàm Lã.

Còn các tiết hai kỳ xuân thu quốc tế đều làm lễ tam sinh, ca hát ở chính xứ miếu chợ (12 tháng 2, 20 tháng 6).

Niên hiệu Hồng Đức thứ nhất, mồng 1 tháng 3.

Các chữ húy: Lang, Tràng, Nguyệt Cư, Tuệ, Dực, Linh, Hải, Thường, Khắc, Thành, Phú, Quý, Kính, Dũng, Lôi, 10 chữ húy nhất thiết cấm. Sắc phục vàng, tía, xanh tuyền nhất thiết cấm.

Còn các lệ nhỏ thì xem ở trong sự tích (làm lễ xôi gà), khi làm lễ thì trang Đàm Lã là trưởng lễ trước, sau lùi.

Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 ngày tốt 10 tháng 5 Quản giám bách thần tri điện Thiếu khanh chức tuân như bản cũ của triều triều mà phụng chép (32 trang).

Niên hiệu Bảo Đại thứ 13 ngày 10 tháng 3, hương lý xã Cao Mại thừa sao phụng.

Đình Cao Mại.

Chạm khắc đình Cao Mại.
Đền Nhà Bà Cao Mại.
Bia đền Nhà Bà Cao Mại.

Na Tra Đổng Thiên Vương

Câu chuyện về Na Tra Thái tử trong Phong Thần diễn nghĩa, cuốn truyện lịch sử về quá trình sụp đổ của nhà n Thương và sự thành lập nhà Chu vào thời điểm cách nay trên 3000 năm, tưởng như không có quan hệ gì với lịch sử nước ta. Nhưng những di tích và sự tích về Phù Đổng Thiên Vương ở Việt Nam lại là những dấu tích lưu truyền cuộc đời và sự nghiệp của Na Tra Thái tử.

Linh đồng giáng thế

Phong Thần diễn nghĩa kể Na Tra là Linh Châu Tử được Thái Ất Chân Nhân cho giáng sinh vào nhà của tướng trấn thủ Trần Đường quan là Lý Tịnh. Mẹ của Na Tra là n phu nhân thai nghén 3 năm rưỡi, sinh ra một bọc lớn có mùi thơm ngào ngạt. Cái bọc nứt ra một đứa bé nhanh nhẹn, khác thường, người quấn dải lụa đỏ Hỗn Nguyên lăng, tay cầm vòng Càn khôn.
Bản Sự tích đền thiêng Bộ Đầu ở Thường Tín, Hà Nội trích lại sách Thượng Phúc cổ tự danh lam, kể rằng đời Hùng Vương có bà góa phụ là Bùi Thị Dung, một hôm đi chơi động Hoàng Nham, bà thấy chiếc bàn đá, trên sạch sẽ liền ngả lưng nằm nghỉ. Tiếp đó, bà nhìn thấy một vết chân người rất to, bất giác bà đặt chân ướm thử. Bỗng một chiếc bọc từ trời rơi xuống đúng vào bụng, bà bàng hoàng đứng dậy rồi từ đó có mang. Mang thai được 31 tháng, sinh ra một chiếc bọc hình như búp sen hồng, trong bọc có tiếng khóc và tiếng cựa quậy. Bà Dung rất kinh sợ, liền gửi lại động Hoàng Nham rồi trở về nhà …
Chuyện kể về Đổng Thiên Vương xuất sinh ở Bộ Đầu hoàn toàn giống mô tả trong chuyện về Na Tra Thái tử khi bà mẹ mang thai tới gần 3 năm, sinh ra một bọc có mùi thơm, nứt ra thành một cậu bé khổng lồ…
Cách kể thông thường về Thánh Dóng hạ sinh như trong thần tích xã Phù Đổng là bà mẹ, dẫm lên một dấu chân, rồi thấy có ánh hào quang từ trên trời rớt xuống người, từ đó mang thai. Sinh con qua 3 năm mà không nói câu gì, chỉ nằm 1 chỗ. Cách kể này xét ra chỉ là dị bản của cách kể như ở đền Bộ Đầu về sự sinh nở kỳ lạ với điềm trời hào quang giáng xuống, kéo dài hơn 3 năm mới thành hình hài con người.
Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả chép rằng: Thần là Bắc Đẩu Tinh Quân giáng sinh làm Xung Thiên Thần Vương, so với sự tích Linh Châu Tử đầu thai giáng trần trong Phong Thần diễn nghĩa cũng không khác nhau nhiều.

Tắm ở hồ Tây và giết giao long

Phong Thần diễn nghĩa kể, một hôm Na Tra đi chơi, xuống tắm trên sông, cởi dây lưng đỏ Hỗn Thiên Lăng của mình ra giặt làm cho cả sông nổi sóng, rung rinh tới tận Thủy cung. Dạ Xoa Lý Cấn và Tam thái tử của Long Vương biển Đông hiện lên đều bị Na Tra đánh chết. Na Tra còn rút gân rồng, bóc vảy rồng của họ nhà Long Vương. Long Vương Đông Hải định kiện lên tận trời, rồi kéo cả Tứ hải Long Vương đến hỏi tội, bắt trói cha mẹ của Na Tra. Na Tra đành phải bóc thịt, lóc xương trả cho cha mẹ.
Sự tích Phù Đổng Thiên Vương cũng có chuyện Thánh Dóng đi tắm và giết rồng như Na Tra. Thần tích xã Xuân Tảo (Từ Liêm, Hà Nội) chép: Cậu bé ruỗi chân rồi đứng lên, hắt hơi mười cái, thành người cao lớn hơn 10 trượng, áo quần không thể may kị, tiếng dõng dạc nói: Ta là Thiên tướng, rồi cưỡi lên ngựa sắt, nhảy vút lên ngựa phi như bay, thoặt đã được trăm dặm, rồi ra tắm ở bến Tây Hồ, tức giáp ranh xã Minh Cảo.
Di tích nơi Thánh Dóng đi tắm bên Hồ Tây nay là đền Sóc ở xã Xuân Tảo. Nơi đây còn cả một khu “mộc dục” của Thánh Dóng. Sự kiện Thánh Dóng tắm Hồ Tây không phải là sau khi đi đánh giặc về, mà là trước khi Thánh Dóng ra trận.
Sách Thăng Long cổ tích khảo kể về đền Sóc Thiên Vương: Ở trên gò Phượng Cảnh thuộc ấp Minh Tảo, Tây Hồ huyện Vĩnh Thuận. Vương người ở hương Thường Lạc, nay thuộc làng Sóc Sơn huyện Kim Anh. Vương là vị chân nhân người thời Hùng Vương, sau khi đắc đạo về trời, mẹ ngài ở trần thế bị giao long trong hồ làm hại, Vương liền giáng trần giết chết giao long, rước mẹ trở về rồi hóa. Khi thần giáng đã để lại dấu chân lớn trên gò, nên dân ở đây lập đền thờ phụng. Triều Lý đắp tượng ngài để thờ, tượng rất cao lớn, sau khi công việc hoàn thành phong cho thần là Xung Thiên Thần vương… Vương chính là Trấn Bắc sơn thần hóa thành.
Có thể thấy việc Thánh Dóng tắm ở hồ đi liền với việc Thánh giết rồng cứu mẹ, giống hệt chuyện Na Tra Thái tử giết Tam thái tử Long cung và bắt cả Long Vương Đông Hải mà bóc vảy. Hồ Tây vốn là kinh đô của Thủy quốc Động Đình, nơi có các vị Long Vương ngự trú như trong truyền thuyết về Uy Linh Lang ở các làng Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm phía bên kia hồ.
Cùng giống sự tích Thiên Vương giết giao long là thần tích làng Bộ Đầu ở xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội: Đổng Xung Thần Vương lập tức giáng xuống, thân hình cao hơn 31 thước, đầu đội bách tinh rực rỡ, mình khoác áo long bào kim giáp, mặt tựa vầng dương, mắt như sao sáng, tay cắp long đao. Một chân đặt giữa cánh đồng, chân kia dẫm lên đôi giao long ngoài bãi sông. Rồi ngài nâng Vương mẫu trên bàn tay trái, trong chốc lát Vương mẫu đã biến thành một ngôi tháp lớn. Thần vương giết đôi giao long cứu mẹ, sau đó đặt mẹ trong lòng bàn tay trái và bay vút về trời.
Dòng sông Hồng xưa kia vốn nối liền với Hồ Tây và dọc sông Hồng từ khu vực Hồ Tây xuôi xuống vùng Thường Tín – Hà Nam là vùng thờ các vị thủy thần Linh Lang, tức là khu vực của Thủy phủ Long Vương.
Câu đối ở đền Bộ Đầu:
Tự đa đào chú thành chân tượng
Trực thượng phi đằng sính dị long.

Nghĩa là:
Bởi nhiều đất đúc thành chân tượng
Thẳng từ trời xuống diệt rồng kinh.

Một di tích khác có liên quan đến Thánh Dóng đi tắm và Long Vương là đền Sọ hay đền Tam Tổng ở Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội. Đền Sọ là nơi Thánh Dóng đã gội đầu ở giếng nước trước sân đền. Giếng nước xưa nay vẫn còn. Trong nội điện đền Sọ là tượng Thánh Dóng cùng bài vị Mẫu thân và Long Vương. Ban thờ bên trong điện còn có bức tranh vẽ một thiếu niên mặc giáp, cưỡi ngựa, tay cầm bụi tre ngà. Các cụ giữ đền cho biết đây là bức vẽ… Na Tra thái tử.

Diệt giặc Ân và thành Thiên tào

Khi Na Tra róc xương thịt trả cha mẹ thì hồn được thầy là Thái Ất dùng hoa sen làm cốt cho nhập hoàn sinh. Na Tra được thầy giao cho vũ khí là cây giáo Hỏa tiêm thương và cặp bánh xe Phong hỏa luân làm chân thay cho ngựa. Còn cha của Na Tra là Lý Tịnh được các đại tiên ban cho Lung linh tháp làm bảo bối để chế ngự tính hiếu sát của Na Tra. Sau này Lý Tịnh trở thành Thác Tháp Lý Thiên Vương.
Cha con Na Tra và Lý Tịnh cùng đầu quân cho Tây Kỳ nhà Chu chống lại Trụ Vương nhà Ân Thương. Na Tra trở thành là tướng tiên phong của Tây Kỳ, lập nhiều chiến công lẫy lừng. Sau khi Trụ Vương bị diệt, Khương Tử Nha đăng đàn Phong thần, cả nhà Lý Tịnh và Na Tra lên trời đắc đạo làm thiên tướng.
Cặp bánh xe lửa bay của Na Tra so với ngựa sắt phun lửa của Phù Đổng Thiên Vương rất tương đồng. Còn vũ khí của Na Tra là cây giáo Hỏa tiêm thương cũng giống như vũ khí của Thánh Dóng. Trong thần tích ở Bộ Đầu, Thần Vương đã yêu cầu nhà vua đúc cho thanh đao sắt:
Trăm cân sắt thép luyện thành đao
Lưỡi sắc cao dài hơn trượng
Cứ luyện xong đao người khắc hiện
Dương Tào sẽ gặp được Thiên tào.

Đổng Thiên Vương ở đây xưng mình là Thiên tào, là chức quan trên Thiên đình.
Còn ở Sóc Sơn có truyền thuyết Thần Vương hiển thánh trên sông ở đất Thái Nguyên trong cuộc chiến chống Tống thời Lê Hoàn. Khi đó Thần vương mặc bộ giáp vàng, tay cầm giáo vàng. Câu đối đền Thượng Sóc Sơn mô tả:
Thiên thượng giáng thần, thiết mã thiết tiên Chu Việt động
Thủy trung hiển thánh, kim thương kim giáp Thái Nguyên hàn.

Nghĩa là:
Thần xuống từ trời, ngựa sắt roi sắt rung Chu Việt
Thánh hiện trên sóng, giáo vàng giáp vàng lạnh Thái Nguyên.

Lại nữa, sách Thiền uyển tập anh kể thiền sư Khuông Việt khi lên núi Vệ Linh, đêm đến mộng thấy một vị thần, tay trái cầm câu thương vàng, tay phải cầm bảo tháp, theo sau có hơn mười người.
Bài thơ Phù Đổng sự tích diễn âm diễn tả đoạn quốc sư Khuông Việt gặp Xung Thiên Thần Vương như sau:
Vốn ta nay Thái tử Na Tra
Vị Hùng Vương loạn quốc gia
Khâm sai đế mệnh dẹp trừ n binh.
Non Vệ Linh, Sóc Sơn ruổi ngựa
Thoát chiến bào thụ hạ thăng thiên
Lên triều thượng đế ngự tiền
Lại hoàn cựu chức cầm quyền lục cung.

Thần tích xã Phù Đổng cũng chép: Ta là “Cha Sa” thái tử. Xưa ta là Cảnh Kỳ, phụng mệnh Thiên đế tiêu trừ giặc cho Hùng Vương, sau trở về bổ chức cũ ở Thiên Tào. Trên đỉnh núi cao kia là nhà của ta.
Tới đây thì không còn nghi ngờ gì nữa, Thần Vương đã hiển linh trước quốc sư Khuông Việt, xưng mình là Na Tra Thái tử, đã giúp vua Hùng diệt giặc n rồi bay lên trên núi Vệ Linh, lên trời nhận chức Thiên tào. Ngay cả hình ảnh Na Tra biến hóa 3 đầu 6 tay cũng có trong sự tích Đổng Thiên Vương. Đó là khi Đổng Thiên Vương hiển linh ở Bộ Đầu thời vua Lê chúa Trịnh, có 8 người đi theo tùy tùng, gọi là Bát Bộ Kim Cương. Hay như trong Thiền uyển tập anh cũng chép, theo sau Thần Vương có hơn mười người.
Na Tra Thiên Tử được thờ ngay trong các di tích thờ phụng Phù Đổng Thiên Vương. Đền Hạ Mã ở thôn Phù Mã, xã Phù Linh, Sóc Sơn, tương truyền là nơi Thánh Dóng sau khi thắng giặc n đã xuống ngựa để lại yên cương và ngọc duẩn. Trước sân đền còn cây cọc đá buộc ngựa, lâu ngày đã có cây đa cổ thụ đã mọc trùm lên. Trong đền ở hậu cung bài trí 3 pho tượng thờ gồm Phù Đổng Thiên Vương, Vu Điền Quốc Vương, Na Tra Thiên Tử.
Đền Thượng ở xã Phù Linh, Sóc Sơn, là đền thờ chính của Thánh Dóng tại núi Sóc, nơi Thánh cởi áo giáp bay lên trời. Trong hậu cung của đền Thượng có 7 bức tượng thờ ở tư thế đứng. 7 bức tượng này là gồm: Phù Đổng Thiên Vương, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Nữ Oa Bộ Thiên, Na Tra Thiên Tử, Tả Xiên Xiên Lực Sĩ, Hữu Vạn Vạn Tinh Binh. Đền ngày hội Sóc hàng năm, các làng khi làm lễ tại đền đều đọc lời tế cầu thỉnh tên của 7 vị thánh này.
Cho dù ở những nơi như đền Sọ, đền Sóc, đền Hạ Mã thờ song song cả Phù Đổng Thiên Vương và Na Tra Thiên Tử, nhưng có thể thấy trong quan niệm của người dân, Na Tra là vị thần tướng oai dũng đã tham gia và làm nên chiến thắng của nước Văn Lang trước giặc n cường bạo. Sự việc Na Tra giúp vua Hùng đánh giặc n đã cho thấy nước Văn Lang của Hùng Vương lúc này chính là nhà Chu từ Văn Vương Cơ Xương. Sau chiến thắng diệt nhà Ân Thương, Hùng Vương đã lập quốc Văn Lang, phân phong đất đai cho các công thần thành các nước chư hầu phiên dậu bình phong, truy phong các tướng sĩ tử trận trong cuộc chiến vệ quốc thành bách thần. Na Tra – Đổng Thiên Vương không nhận phong đất, cũng không rơi vào bảng phong thần, mà lánh thế bỏ lên núi tu thành đắc đạo, hóa nên vị thần bất tử của nước ta, nhiều lần sau đó hiển linh giúp nước hộ quốc, được muôn người tín ngưỡng.
Xem lại câu chuyện cậu bé Linh Châu giáng thế, vươn mình bỗng chốc thành người khổng lổ, xuống nước diệt rồng, lên núi đánh giặc, lúc thắng trận không màng danh lợi mà bay về trời, còn sống mãi trong tâm trí của người dân Việt. Hàng năm, lễ hội Dóng ở Phù Đổng, Sóc Sơn, Bộ Đầu, Xuân Tảo… lại tái hiện lại sự tích, công lao của Na Tra Đổng Thiên Vương và là lễ hội mừng chiến thắng lẫy lừng, một chiến thắng đã dựng nên triều đại Văn Lang huy hoàng trong sử Việt.

MINH XUÂN

Khu Mộc Dục ở đền Sóc Xuân Tảo.

Mộc dục đài ở Xuân Tảo.

Đền Bộ Đầu.

Đổng Thiên Vương ở đền Bộ Đầu.

Bát Bộ Kim Cương ở đền Bộ Đầu.

Bát Bộ Kim Cương ở đền Bộ Đầu.

Tượng thờ đền Thượng Sóc Sơn: Phù Đổng Thiên Vương, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Nữ Oa Bộ Thiên, Na Tra Thiên Tử.

Ban thờ Phù Đổng Thiên Vương, Mẫu thân và Long Vương ở đền Sọ.

Ban thờ Na Tra Thái tử ở đền Sọ.

Cây đa trùm lên bia và cột đá buộc ngựa ở đền Hạ Mã.

Giếng nước đền Sọ

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền

Cùng với quá trình phát triển kỹ thuật luyện kim đồ đồng, xã hội người Việt đã có những bước tiến dài từ chế độ cha truyền con nối sang chế độ phân chia đất đai cho các chư hầu, chia nhau cai quản đầu non góc biển.

Cây Chu đá lá chu đồng trong sử thi Mường lúc này là một biểu tượng nhiều mặt, tượng trưng cho quyền lực hiệu triệu trăm chư hầu, cho sự thăng hoa của văn hóa văn minh, là Bảng phong thần trong cuộc chiến phân định thiên hạ thời Ân – Chu và thậm chí có thể là chiếc móng rùa của thần Kim Quy đã tặng cho Thục Vương làm bảo bối trấn quốc.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 1.
Sơ đồ so sánh sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước và Huyền sử Việt.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 2.
“Long khuyển” đồng thời Thương.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 3.
Đồ đồng, văn hóa Tam Tinh Đôi. Rất có thể đây là hình tượng “Đười Ươi” được kể trong sử thi Mường.
Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể

Người thợ săn Tặm Tạch, còn có tên trong bản sử thi ở Hòa Bình là Đá Đèn Đá Đẹc, đã đánh bạn với Đười Ươi, nhờ đó được chỉ đường tìm đến cây chu đồng ở đồi Lai Ly Lai Láng. Cái cây thần kỳ này là cây chu đá, lá chu đồng, bông thau quả thiếc, xung quanh có cọp, sên, lợn lòi, hươu, mang, phượng hoàng đứng chầu, vàng anh bắt sâu trên cành. Tặm Tạch lấy được 2 quả chu mang về, trở nên giàu có hơn cả nhà Cun Khương.

Cun Khương bày tiệc rượu, lừa Tặm Tạch nói ra việc tìm thấy cây chu, rồi bắt dẫn đường tìm chu. Cây chu bị đốn đổ thì Tặm Tạch cũng phải chết, bị róc xương lột da để kéo chu về. Đường “cổn chu kéo lội” qua rất nhiều đất mường. Có lúc cây chu rơi xuống nơi nước sâu, Cun Khương phải nhờ Rái cá xỏ dây mới kéo được chu lên. Cây chu mang về được đến mường, nộp cho Lang Cun.

Thế rồi dân mường làm nhà cho Chu (lúc này là Lang Cun Khương). Nhà Chu dựng nên rộng rộng, trước vườn dựng nhà Khú nhà Rồng, đàng trong dựng nhà Long nhà Phụng. Nhà Chu làm xong Lang Cun Cần lại bắt Rùa vàng về để cho sáng tỏ sáng tường, sáng cả binh mường, sáng trời sáng đất.

Con của Tặm Tạch, trong bản sử thi ở Hòa Bình gọi là Đạo Cun Tre Nghè Tróng, tìm đến nhà mới của Chu thì bị đuổi. Đạo Cun Tre Nghè Tróng tức giận, đốt lửa cháy nhà Chu và bỏ trốn, tụ tập dân mường đánh lại Dịt Dàng, trả thù cho cha. Dịt Dàng cất binh đánh Đạo Cun Tre Nghè Tróng. Đạo Cun Tre Nghè Tróng trốn vào cây, hóa thành cây dây cản đường Cun Khương. Cun Khương chém cây dây, máu chảy ra biến thành con Moong lớn tên là Tin Vin Tượng Vượng.

Con Moong Tin Vin Tượng Vượng vằn vện như con hổ Lào, to lớn hung dữ, ăn thịt trâu bò, ăn thịt người, bắt cả bà Lang Khương. Lang Cun Khương tập hợp người mang lưới mang dây đi săn moong, giết được con Moong Tượng Vượng, đem về nhà Lang làm thịt.

Người Lào đến trước lấy được da moong đằng hông nên biết dệt đẹp như hoa. Mường trong đến lột da đằng lưng, nên biết thêu thùa hình lưng ngựa. Người Tày đến muộn phải lấy da đằng đuôi, chỉ biết thêu hình con sâu con ong. Người Mường giữ được da trước ngực biết dệt đầu váy con hươu. Người Kinh ở xa đến chỉ còn thịt pha, lòng, mỡ, nên biết nấu thịt ngon. 

Máu thịt con Moong rơi ra làm chó hóa điên, rồi cá dưới nước hóa thành cá dại, quạ trên trời thành quạ dữ, cắn phá dân mường và nhà cun. Cun Khương lần lượt diệt chó dại, cá điên, quạ điên.

Cuối cùng là chuyện Dịt Dàng tìm ra khâu lạc mình đồng, tức là trống đồng. Mọi người đón Dịt Dàng hay Lang Cun Cần về đất Đồng chì Tam quan Kẻ chợ…

Triều đại Hùng Duệ Vương 

Cây chu đồng thần kỳ là hình tượng nổi bật trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước. Nhưng thật không thể ngờ rằng, có một cây thiêng như thế đã được ngành khảo cổ học phát hiện. Cây sự sống bằng đồng tìm thấy trong nền văn hóa Tam Tinh Đôi tại vùng đất Thục Tứ Xuyên với chiều cao gần 4 mét, là văn vật bằng đồng lớn nhất được khai quật trên thế giới. Cây đồng này có niên đại ước chừng cách nay trên 3.000 năm. Cây chia làm ba tầng, mỗi lớp ba cành, trên cành có một con chim đứng, tổng cộng có chín con, còn có một con rồng bay xuống dọc theo thân cây chính, nhìn tựa như sắp cất cánh.

Cũng chính trong nền văn hóa đồng thau sớm ở Tứ Xuyên, thường gặp những mặt nạ đồng hay tượng người với đôi mắt và đôi tai được phóng to một cách khác thường. Rất có thể đó là hình tượng “Đười Ươi” được kể đến trong sử thi Mường.

Người thợ săn Tặm Tạch còn gọi là Đá Đèn Đá Đẹc. Từ “Đá” như đã biết chỉ vị tổ thời cổ. Tặm Tạch lấy được bông thau quả thiếc, tức là bắt đầu học được công nghệ đúc đồng. Nối tiếp thời kỳ đồng thau phát triển rực rỡ ở vùng gần Tứ Xuyên trên 3000 năm trước là nhà Thương. Tặm Tạch tương ứng với Thành Thang, vị vua tổ của nhà Thương. Sử thi Mường kể rõ, Tặm Tạch trở nên giàu có còn hơn cả Cun Khương, tức là Thành Thang đã trở thành một thủ lĩnh hùng mạnh, đứng đầu thiên hạ.

Người con kế nối Tặm Tạch có tên là Đạo Cun Tre Nghè Tróng. Cách gọi Đạo Cun cho thấy đây cũng là một vị thủ lĩnh (vua). Cun Tre Nghè Tróng thậm chí còn tập hợp quân đội đánh lại Cun Khương. Có thể xác định đây là giai đoạn thứ hai của nhà Thương, được biết là nhà Ân. Dưới thời nhà Ân có sự kiện Ân Cao Tông chinh phạt nước Quỷ phương như được chép trong Kinh Dịch. Nước Quỷ phương nghĩa là nước nằm ở phía Tây của nhà Ân Thương, không gì khác chính là vùng đất Thục Tứ Xuyên, nơi xuất xứ của cây chu đồng và mặt nạ đười ươi.

Máu thịt của Đạo Cun Tre Nghè Tróng hóa thành cây dây cản đường, rồi thành con Moong khổng lồ Tượng Vượng hung dữ. Tiếp tục so sánh có thể thấy con Moong lồ là chỉ thời kỳ cuối của nhà Ân, khi đó Ân Trụ Vương là một vị vua dũng mạnh nhưng lại vô cùng tàn bạo. Trụ Vương làm hại nhiều sinh linh và đã nhiều lần tấn công vùng đất Thục Tây Kỳ, nơi phát tích của nhà Chu. 

Nên chú ý rằng nhà Thương Ân có thành phần dân tộc chính là nhóm người Miêu Dao. Trong đó tới nay người Dao vẫn còn có tín ngưỡng thờ Bàn Hồ là tổ. Bàn Hổ theo truyện kể trong sách người Dao để lại vốn là một con Long khuyển ngũ sắc, do lập công lớn, giết được vua kẻ thù nên được phong đất và trở thành tổ của 12 họ người Dao. Con Moong Tin Vin Tượng Vượng như vậy là hình ảnh của Long khuyển, biểu tượng của dòng dõi người Dao nhà Ân Thương.

Sử thi Mường kể rằng người Lào, Tày, Mường học được cách thêu dệt từ da của con Moong. Người Kinh học được cách nấu ăn từ thịt con Moong. Điều này rất đúng với sự thật là hoa văn của người Dao và lối sống của triều đại nhà Ân Thương đã có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa các tộc người Lào, Tày, Mường, Kinh… sau này.

Trong huyền sử Hùng Vương của người Việt, nhà Ân là triều đại cuối cùng của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống biển, được gọi là Hùng Duệ Vương. Truyện Giếng Việt kể sau cuộc chiến với Phù Đổng Thiên Vương, Ân Vương chết dưới chân núi Vũ Ninh, trở thành vua Địa phủ. Rồi hậu duệ của vua Hùng đã biến thành đủ thứ yêu quỷ như Bạch Kê tinh, Hồ Ly tinh, Quỷ núi cản trở Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Trong sử thi Mường đó là chuyện máu của con Moong lồ biến thành chó điên, cá dại, quạ dữ, quấy phá thời Lang Cun Khương.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 4.
Người Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 5.
Thầy cúng người Dao.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 6.
Người Dao ở Bắc Kạn.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 7.
Người Dao ở Bắc Kạn.

Đón vua Thục An Dương Vương

Ở phần cuối của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, mỗi bản khác nhau gọi vị vua lúc này một cách khác nhau. Chỗ kể là Dịt Dàng, chỗ là Lang Cun Cần, chỗ thì dường như là Lang Cun Khương. Thực ra cả 3 cách gọi đều đúng và chỉ cùng 1 người. Dịt Dàng – Việt Vương lúc này không phải là vị Dịt Dàng của thời kỳ Hùng Vương Thánh Tổ ban đầu, mà là Hùng Quốc Vương, người con theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang. Hùng Quốc Vương là vị vua đầu của thời kỳ phong kiến phân quyền, nên sử thi Mường gọi là Lang Cun Cần, với nghĩa là vị Lang Cun đứng đầu thiên hạ. 

Cun Khương là thủ lĩnh của dòng lên núi trong sử thi Mường. Khương là tính chất Khang, Tĩnh của hướng Tây. Cun Khương nghĩa là thủ lĩnh của hướng Tây. Hướng Tây còn gọi là Thục (thụt) nên Cun Khương cũng là Thục Chúa trong truyền thuyết Việt. Cun Khương là con của nàng Ả Sao Ả Sáng, dòng dõi Vua trời. Trong truyền thuyết họ Hồng Bàng thì đây là dòng dõi của Đế Nghi – Đế Lai, tức là Âu Cơ, người đã lên núi về đất Phong Châu.

Cun Khương – thủ lĩnh Tây Kỳ, sau khi chiến thắng nhà Ân Thương và dòng Lạc Long (Tóng In) đã trở thành Thiên tử của cả thiên hạ, nên đã đổi danh xưng là Việt Vương (Dịt Dàng – An Dương Vương) hay Lang Cun Cần (Hùng Quốc Vương). Nhờ sự nhìn nhận đúng về lịch sử thời Hùng Vương đã có thể lý giải được vấn đề tại sao 2 danh xưng từ thời mở Mường là Dịt Dàng và Lang Cun Cần, lại vẫn còn đến tận cuối cùng trong sử thi khi rước vua về Kẻ chợ.

Cun Khương là người đã tìm và chặt được cây chu đồng ở vùng Tứ Xuyên, kéo về Kinh kỳ Kẻ chợ qua rất nhiều vùng đất. Đây là sự kiện Tây Bá Hầu Cơ Xương từ vùng đất Tây Kỳ (Quý Châu, giáp với Tứ Xuyên), khởi binh đánh chiếm các nước Mật Tu (Vân Nam), nước Sùng (tức miền Bắc Việt) vào cuối thời nhà Ân Thương. Sử Việt kể là Thục Chúa phát hàng chục vạn binh chia các ngả tiến đánh Hùng Duệ Vương. Cuối cùng Hùng Duệ Vương nghe lời Sơn Thánh, nhường lại ngôi cho Thục Chúa. 

Thục Chúa về đất Phong Châu, xưng vương, lập cột đá thề trung thành với Thánh Tổ họ Hùng (tức Hữu Hùng Đế Minh). Truyện họ Hồng Bàng kể là Âu Cơ lên núi về Phong Châu lập nước Văn Lang. Còn sử thi Mường gọi đích xác triều đại của Cun Khương là “Chu” như trong đoạn “Làm nhà cho Chu”.

Người đánh bại Ân Trụ Vương, hay con Moong Tin Vin Tượng Vượng, là Cơ Phát, con của Tây Bá Cơ Xương. Truyền thuyết Việt gọi Cơ Phát là Thục Phán, là một vị Cun Khương – thủ lĩnh Tây Kỳ. Cây chu đồng lúc này như một biểu tượng của Thiên mệnh, có khả năng hiệu triệu và thần phục thiên hạ trăm chư hầu. Cun Khương – Cơ Phát – Thục Phán hoàn thành đại nghiệp diệt Ân, lên ngôi Thiên tử, phân phong cho các anh em, công thần thành các nước chư hầu Bách Việt. Sử thi Mường kể điều này trong chuyện Đẻ trống đồng (vật phẩm dùng để tế lễ tổ tiên và phân phong chư hầu) và Rước vua về Đồng chì Tam quan Kẻ chợ.

Chuyện Làm nhà cho Chu trong sử thi Mường mang đậm hình ảnh của truyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Khác với việc “đẻ nhà” thời Lang Cun Cần mở nước, nhà cho Chu lúc này là một dạng cung điện to lớn, trang trí lộng lẫy hình rồng rắn, long phượng với nhiều gian nhiều nếp. Rùa Vàng lúc này làm cho sáng nhà tỏ cửa, sáng người, sáng trời đất…, tương tự truyện thần Kim Quy trao móng rùa cho An Dương Vương làm bảo bối trấn quốc.

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước không chỉ là một bản anh hùng ca dựng nước của người Mường mà nó là lịch sử thực sự qua hàng ngàn năm của cả thiên hạ trời Đông. So sánh sử thi Mường với những bộ sử dân gian của người Kinh (Hùng Vương ngọc phả), của người Dao (truyền tích Bàn Hồ) có thể thấy được sự thống nhất tiến trình lịch sử chung của các dân tộc Bách Việt. Từ ông Bàn Cổ – mụ Dạ Dần khai thiên lập địa, trong Thái cực sinh ra con người, con người có vua tổ khai sáng, thần truyền thánh kế, thay nhau ngự trị đầu non góc biển, xuống biển chinh phục Thủy phủ, lên rừng đốn cây Chu đồng, dựng nên thành quách, sáng tạo văn hóa văn minh, tôn rước Thiên tử về kinh kỳ kẻ chợ. Tất cả lịch sử Việt Mường đã hóa về chốn linh thiêng, nơi con người khi qua thế giới bên kia lại quay về với ông bà tiên tổ, với quá khứ huy hoàng Đẻ Đất Đẻ Nước.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 8.
Trình diễn trang phục người Dao ở Sơn La.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 9.
Trình diễn trang phục người Dao ở Sơn La.

https://congdankhuyenhoc.vn/su-thi-muong-de-dat-de-nuoc-va-huyen-su-thoi-hung-vuong-thoi-phong-kien-phan-quyen-17923011623430006.htm

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo

Sau thời đẻ đất, đẻ nước, đẻ người, dân mường có vua, có cuộc sống ấm no, xã hội người Việt Mường cổ bước sang thời kỳ phụ đạo, cha truyền con nối. Những xung đột giữa các tộc người trong thiên hạ cũng nảy sinh, tranh giành vị trí thủ lĩnh đứng đầu đất nước.

Cuộc đấu tranh giữa 2 dòng lên núi và xuống biển của người Việt Mường bắt đầu từ đây.

Ngũ tộc Tản Viên

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể rằng, Lang Cun Cần lấy tất cả tới 5 người vợ. Đầu tiên là lấy nàng Vạ Hai Kịt, là người cùng sinh ra từ trứng Chiếng, đẻ ra 12 chàng Ma ếm, tức không phải là những thủ lĩnh cộng đồng (Cun). Thứ đến Lang Cun Cần lấy nàng Vậm Đầu Đất, là con vua Bình Lạc, đẻ được Cun Đồi. Sau đó Lang Cun Cần lại lấy nàng Vật Đầu Nước, sinh được Cun Đàng. Đám cưới to nhất của Lang Cun Cần là lấy nàng Ả Sao Ả Sáng, con ông Vua Trời. Ngựa chín hồng mao đưa Lang Cun Cần đi rước vợ. Ả Sao Ả Sáng sinh được Cun Khương. Cuối cùng Lang Cun Cần lấy Ả Gái nuôi trong mường, không phải lễ lạt đưa đón gì, sinh ra Tóng In.

Câu chuyện về Lang Cun Cần lấy 5 vợ là sự kiện Tản Viên Sơn Thánh đã thành công trong việc hợp nhất 5 tộc người ở Ngũ phương, xây dựng Ngũ thần cung điện ở vùng Ngũ Lĩnh, tức vùng Sơn Tây ngày nay. Đầu tiên, như đã bàn trong bài trước, nàng Vạ Hai Kịt đại diện cho dòng Tiên tộc của Tây Thiên Quốc Mẫu và Ất Sơn Hùng Vương Thánh Tổ ở phía Nam xưa (phía Bắc nay). Trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh đó là dòng của bà Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ, người đã di chúc quyền cai quản đất nước cho Sơn Thánh.

Trong việc nàng Vậm Đầu Đất sinh ra Cun Đồi, xét những từ Đất và Đồi thì đây là dòng tộc vùng miền núi ở hướng Tây, tức là Cửu Lê tộc. Còn trong chuyện nàng Vật Đầu Nước sinh ra Cun Đàng, những từ Nước và Đàng chỉ ra rằng đây là dòng tộc ở vùng đồng bằng, tức là dòng Lạc tộc. Chữ Lạc vốn nghĩa là Nác – Nước.

Người vợ thứ tư của Lang Cun Cần là Ả Sao Ả Sáng, con vua Trời, tức là dòng tộc nối tiếp vua Dịt Dàng và Tá Cần ở phương Bắc xưa (phương Nam nay), gọi là Viêm tộc. Chi tiết đặc biệt là Lang Cun Cần đưa ngựa chín hồng mao đi rước Ả Sao Ả Sáng, cho thấy đây là chuyện Tản Viên Sơn Thánh lấy công chúa Mỵ Nương, con gái vua Hùng trong truyền thuyết Việt.

Ả Gái nuôi trong mường chỉ tộc người bản địa của nơi Lang Cun Cần sinh sống, tức là tộc người ở vùng trung tâm của đất nước. Xét vậy thì Tóng In, con của Ả Gái nuôi, mới là người con trưởng của vùng đất Lang Cun Cần đang cai quản. Truyền thuyết Việt kể đó là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương với Long Nữ Động Đình.

Dưới thời Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh người Việt Mường đã thống nhất 5 tộc người ở 5 phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung tâm, được hình tượng hóa trong sử thi Mường là việc Lang Cun Cần lấy 5 vợ, sinh ra 4 vị Cun. Tiếp theo, có sự phân chia lại phương vị của các tộc người này bởi sự chia đất của Lang Cun Cần và quá trình tranh giành giữa các Cun với nhau.

Sơn Tinh – Thủy Tinh

Khi Lang Cun Cần chia đất cho các con, tuy nói chia đất phải chia bằng nhau cho khỏi mất lòng con sau, con trước, nhưng thực tế thì:

Cun Đồi được chia đất Khấm Ngang

Cun Tàng được chia đất Khấm Dọc

Ruộng sâu, ruộng nông chia cho Tóng In.

Còn men ruộng mạ nhỏ bằng tai khỉ, chân đất xấu nhỏ như tai mèo… thì chia cho Cun Khương. Cun Khương tức giận, chạy về nhà ngoại kêu khóc. Nhà ngoại khuyên nhủ, Cun Khương về chăm chỉ làm ăn, trở nên giàu mạnh.

Tóng In được vùng đất nhiều ruộng tốt nhất nhưng mải chơi nên bị đói, phải đến xin ăn nhà Cun Khương mấy lần. Cuối cùng Cun Khương không cho nữa. Tóng In lôi kéo Cun Đồi, Cun Đàng đem quân đánh Cun Khương. Cun Khương bỏ chạy, nhờ bên ngoại là nhà trời giúp, làm hạn hán đồng cạn xơ xác, rồi lại làm mưa to dầm dề, ngập bờ ngập bụi. Cun Khương bắt ép Cun Đồi, Cun Đàng phải giết Tóng In mới chịu về ngừng làm ngập lụt.

Tóng In chết làm ma ruộng, ôm hận thù, bèn tập hợp ma rắn, ma lửa, ma mỏ vàng… đánh lại Cun Khương, Cun Đồi và Cun Đàng. Tóng In thua, lại lặn xuống Thủy phủ với Long Vương, kêu xin Vua Nước. Vua Nước bèn cho Tóng In làm Ma May cướp đường, Ma Lang giữ sông giữ bến. Tóng In có vằn lưng cá chép, áo vây cá mè, đầu cá trê, mắt cá ngạo, lại có mào đỏ to, lưng rồng uốn éo. Tóng In sai tướng Ba Ba bắt Cun Đồi, Cun Đàng phải chịu chết. Cun Khương ra trận đánh nhau với Tóng In, chém chết rồng. Từ đó Ma Ruộng đã ngăn, Ma May Ma Lang đã diệt…

Trong cuộc tranh chấp lần đầu, Cun Đồi, Cun Đàng theo Tóng In đánh Cun Khương. Dòng lên núi là Cun Khương thua, phải chạy trốn về bên ngoại nhà trời. Tóng In trở thành người cầm đầu mường. Đây là chuyện Lạc Long Quân, con trai của Kinh Dương Vương đã đánh đuổi Đế Lai, con của Đế Nghi, về Bắc được kể trong Truyện họ Hồng Bàng. Lạc Long Quân làm vua Thủy phủ, cai quản toàn bộ vùng thấp gồm ruộng đồng, sông biển, hoàn toàn tương ứng với việc Tóng In làm Ma Ruộng rồi Ma May Ma Lang. Sử thi Mường còn mô tả rõ Tóng In hóa Rồng có vằn, có vảy, có mào ở Thủy phủ Long cung. Chữ Tóng có thể là phát âm khác của chữ Đông vì dòng Long Vương Thủy phủ ở hướng Đông ra biển.

Khác với người Kinh ở miền xuôi, người Mường là bộ phận người theo dòng lên núi nên không tôn thờ vua cha Lạc Long Quân của dòng xuống biển. Ngược lại, trong sử thi Mường khắc họa hình ảnh của Tóng In khá phản diện, từ việc mải chơi đến mức phải đi xin ăn, rồi hóa thành ma ruộng, ma sông, ma biển dữ tợn, gây hại cho mường.

Bộ 3 Cun Khương, Cun Đồi, Cun Đàng của dòng lên núi làm thành Tam Vị Tản Viên gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh, mà Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các vị Sơn Tinh. Tóng In làm Ma Ruộng, rồi Ma May Ma Lang của Thủy phủ, chính là Thủy Tinh. Ma May Ma Lang tương ứng với Linh Lang, là tên gọi khác của Long Vương Thủy phủ, hay của các vị xuống biển cai quản vùng sông nước, như Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các “Thủy thượng Linh thần”.

Cun Đồi, Cun Đàng của 2 vùng đất Ngang và Dọc đại diện cho chư hầu các nơi ở trên cao (Đồi) và dưới thấp (Đàng). Ban đầu các chư hầu theo dòng xuống biển là Tóng In, đuổi dòng Cun Khương phải chạy trốn lên núi về phía Tây. Sau này, các chư hầu lại theo về với dòng lên núi của Cun Khương, đánh lại dòng Thủy phủ Long quân của Tóng In.

Cuộc đấu tranh giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh, giữa Cun Khương – Tóng In, được mô tả rất ác liệt, dai dẳng nhiều năm, qua nhiều lần đụng độ. Hai bên đều có nhiều thương vong. Ban đầu dòng xuống biển của Long Quân thắng, nắm đại quyền thiên hạ. Cuối cùng về sau, dòng lên núi của con cháu Đế Lai là Âu Cơ quay trở lại, đánh thắng dòng xuống biển, trở thành vua Việt (Dịt Dàng).

Lang Cun Cần – Kinh Dương Vương dựng nên thiên hạ, rồi chia đất cho các con, dẫn đến xung đột tranh giành giữa các dòng tộc. Thời kỳ này dân mường không chọn người có tài có đức ra giữ binh mường như trước nữa, mà bắt đầu chế độ phụ hệ, cha chia quyền cho con, rồi con trưởng con thứ tranh chấp, bên nào mạnh thì chư hầu các nơi phục theo. Mốc lịch sử 4.000 năm của người Việt Mường được xác lập chính là tính theo thời kỳ thị tộc phụ đạo từ Lạc Long Quân – Tóng In.

(Còn tiếp)

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 1.
Đền An Trì ở bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội, thờ Uy Linh Lang thủy thần.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 2.
Nhà tiền tế đền Và, Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 3.
Miếu Đầm Đượng ở Thụy Phiêu, Ba Vì, nơi thờ diễn ra cuộc chiến ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 4.
Đình Kẻ Đầm ở Sơn Đông, Sơn Tây, là nơi đầm nước rộng lớn của Đồng Mô, nhưng vẫn thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 5.
Đền Thượng ở Đan Thượng, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi thờ Cao Sơn Đại vương.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 6.
Tế lễ hội đền Và, Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 7.
Nghi môn đền Và – Đông cung Tản Viên ở Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 8.
Đình Yên Phụ ở hồ Tây, Hà Nội thờ Linh Lang Đại vương và 2 người em cùng là thủy thần hồ Dâm Đàm.

https://congdankhuyenhoc.vn/su-thi-muong-de-dat-de-nuoc-va-huyen-su-thoi-hung-vuong-thoi-thi-toc-phu-dao-179230115215405335.htm

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng

Tháng 12 năm 2022 vừa rồi hồ sơ Mo Mường đã được Việt Nam đệ trình lên UNESCO để ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể bảo vệ khẩn cấp. Trong đó sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước hay Mo kể chuyện là phần dài nhất của di sản Mo Mường.

Ý nghĩa thực sự của bộ sử thi Mường chỉ có thể được làm sáng tỏ khi đối chiếu với lịch sử chân xác của thời đại Hùng Vương.

Tam Sơn Thánh Tổ họ Hùng

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, bản sưu tầm ở huyện Bá Thước, Thanh Hóa kể:

Dịt Dàng, người đầu tiên sinh ra từ trứng Chiếng được mời ra giữ binh mường. Dân làng cho rằng khi có người cầm mường, cầm binh thì mường nước mới sang, dân mường mới giàu. Dịt Dàng ra điều kiện dân mường cúng 10 con thịt nướng và 9 gánh vàng. Dân mường dọn cây để vua có lối, hạ cành hạ cối để vua có cầu, kẻ đón đằng trước, người rước đằng sau. Nhưng Dịt Dàng bị Ma ếm đón đường, thè 99 cái lưỡi đỏ, trỏ 99 cái răng cọc. Dịt Dàng đành phải trở lại.

Tá Cài là người thứ hai sinh ra từ trứng Chiếng, được dân mời ra coi giữ binh mường. Tá Cài ra điều kiện dân mường phải cúng to hơn nữa, thịt 10 con thú lớn, cúng 9 gánh vàng 10 gánh bạc. Dân làng dọn cây, làm cầu cho Lang đi. Nhưng khi Tá Cái ra thì lại bị rồng cuốn nhe nanh, thuồng luồng xanh nhe nọc… Tá Cài đành phải quay chân về.

Dân mường lại kéo nhau mời Tá Cần, người thứ ba sinh ra từ trứng Chiếng, ra giữ binh mường. Tá Cần là người hiền lành, khiêm tốn, cũng ra các điều kiện, nhưng là điều kiện mở đường mở xá, xua đuổi ma quỷ. Với con người đức độ như vậy ma quỷ không cần đánh giết cũng phải chạy tránh xa. Ma rồng sợ trói, Thuồng luồng sợ đánh. Tá Cần trở thành người cầm mường, gọi là Lang Cun Cần…

Dịt Dàng như trong sử thi Mường gọi là Vua. Dịt Dàng là phát âm chệch của Việt Vương. Có nhiều ý kiến trước đây đã nhận định Dịt Dàng là Hùng Vương, điều này rất chính xác. Vị Hùng Vương đầu tiên, mở đầu thời kỳ lịch sử người Việt, thời kỳ có thủ lĩnh cộng đồng (có người giữ binh mường) là Đế Minh trong Truyện họ Hồng Bàng. Đế Minh được thờ tại đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh dưới tên gọi Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ hay Đột Ngột Cao Sơn.

Thời Hữu Hùng Đế Minh xảy ra cuộc chiến đánh lại giặc “Ngô Thục” hay Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê. Hùng Vương được sự giúp đỡ của Tây Thiên Quốc mẫu đã chiến thắng Xi Vưu, lên giữ vị trí Minh chủ của thiên hạ vạn bang. Sử thi Mường gọi giặc Thục là Ma ếm thè 99 cái lưỡi đỏ, trỏ 99 cái răng cọp. Số 9 là số chỉ hướng Tây theo Hà thư tương ứng với bộ tộc Cửu Lê, là bộ tộc ở phía Tây lúc này. Thục cũng có nghĩa là hướng Tây, nơi mặt trời lặn (thụt). Chữ Xi là âm đọc của từ Tây theo như tiếng Hán ngày nay. Ví dụ Guangxi là phiên âm của tên tỉnh Quảng Tây. Vưu có thể là Vua. Xi Vưu thực nghĩa là vua phía Tây. Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê là con Ma ếm được nhắc tới trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước.

Vị trí nắm quyền thủ lĩnh cộng đồng thứ hai theo Truyện họ Hồng Bàng là Đế Nghi. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả chép là Viễn Sơn Thánh Vương. Người ra nắm binh mường thứ hai là Tá Cài, nên Tá Cài tương ứng với Đế Nghi Viễn Sơn Thánh Vương. Chữ Tá trong tiếng Mường còn đọc là Đá, chỉ người cao tuổi đáng kính. Như thế có liên hệ rõ ràng về ngôn ngữ: Đá – Sơn, Tá – Tổ. Đây là lý do vì sao người Việt dùng từ Sơn để chỉ các vị Tổ thời sơ quốc họ Hùng.

Đế Nghi tuy lên nắm giữ đại quyền thiên hạ nhưng lại chỉ làm vua phương Bắc xưa, tức phương Nam ngày nay, ở vùng cựu đô Ngàn Hống trên dãy Hồng Lĩnh ở Nghệ Tĩnh. Sử thi Mường do đó kể Tá Cài ra nắm giữ binh mường bị rồng cuốn, thuồng luồng xanh chặn lối. Đây là hình ảnh của cơn đại hồng thủy thời Đường Nghiêu nước ngập ngang trời được chép trong truyền thuyết Việt.

Người thứ ba lên nắm được binh mường, cầm đầu thiên hạ người Việt một cách chắc chắn, xua tan được ma quỷ là Lộc Tục. Lộc Tục tương ứng với Tá Cần trong sử thi Mường. Lộc Tục làm vua phương Nam xưa ở vùng miền Bắc Việt, xưng là Kinh Dương Vương. Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước tôn ông là Lang Cun Cần, vị Lang Cun đầu tiên của người Mường.

Ở giai đoạn này còn một vị trí thủ lĩnh tuy không được sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước nói tới một cách trực tiếp, nhưng vẫn có những lời kể đề cập tới. Đó là chuyện bà Dịt Dàng tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm. Rõ ràng bà Dịt Dàng tương ứng với Tây Thiên Quốc mẫu, vợ của vua Hùng (Dịt Dàng), tương truyền là người đã dạy dân Việt cách chăn tằm ươm tơ.

Dị bản khác của sử thi Mường kể người tìm ra cách ươm tơ dệt vải là nàng Vạ Hai Kịt, cũng là một người sinh ra từ quả trứng Chiếng. So sánh với Ngọc phả Hùng Vương Thánh Tổ thì nàng Vạ Hai Kịt tương ứng với vị Ất Sơn Thánh Vương, là vị Hùng Vương Thánh Tổ thứ ba được thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và ở vùng đất tổ Phong Châu nói chung. Ất Sơn Thánh Vương có xuất xứ từ vùng núi Lịch ở Sơn Dương, Tuyên Quang, nơi mà mãi tới gần đây vẫn còn gọi là tổng Ất Sơn. Dãy núi Lịch nằm nối tiếp dãy núi Tam Đảo, tức là Ất Sơn Thánh Tổ cùng dòng hệ với Tây Thiên Quốc Mẫu ở Tam Đảo.

Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh

Lang Cun Cần là vị thủ lĩnh có vai trò đặc biệt trong lịch sử người Mường bởi những công lao to lớn mang tính chất khai mở mọi mặt trong đời sống nhân dân. Bản thân chữ Cần có nghĩa là đầu tiên, trước tiên. Lang Cun Cần nghĩa là vị thủ lĩnh đầu tiên của người Mường, rất tương đồng với Kinh Dương Vương, vị Nam Thiên Thánh Tổ đầu tiên của người Việt.

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể: sau khi Lang Cun Cần cầm yên binh mường, ông bắt đầu tìm ra cách làm nhà từ hình dáng của con rùa, tìm ra cách đánh lửa bằng cách cọ xát vào bùi nhùi vót từ cây nứa, học cách lấy giống lúa và trồng lúa để có lúa nà đồng trước, lúa vượt đồng sau, bắt trâu nuôi để cày bừa, tìm ra cách nấu rượu cần. Tất cả những “công nghệ” này được sử thi Mường gọi là “đẻ”: đẻ nhà, đẻ lửa, đẻ gạo, đẻ trâu, đẻ rượu cần… Ý nghĩa của chữ Đẻ ở đây gần với chữ Tác, nghĩa là tìm ra, sáng tạo ra, chứ không chỉ có nghĩa là “sinh ra” như từ Đẻ trong ngôn ngữ Việt. Chữ Tác xưa được ký âm bằng chữ Sạ, rất cận âm với từ Đẻ.

Người Mường ở các vùng Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa thường tôn thờ Bua Ba Vì, tức Tản Viên Sơn Thánh theo cách gọi của người Việt. So sánh những công nghiệp của Lang Cun Cần đẻ nhà, đẻ lửa, đẻ gạo, đẻ trâu… với các sự tích của Tản Viên Sơn Thánh thì có thể thấy rõ sự tương đồng. Ví dụ chuyện kể Thánh Tản dạy dân làng Cẩm Đái dùng bùi nhùi để đánh lửa, hoàn toàn giống với cách đẻ lửa của Lang Cun Cần. Tới nay ở vùng Cẩm Đái vẫn lưu truyền sự tích “đàn ông Cẩm Đái không râu” do việc lấy lửa cháy râu và tục đánh lửa bằng bùi nhùi vẫn được diễn lại trong các dịp lễ Tản Viên Sơn Thánh.

Ở chân núi Ba Vì có làng Rùa với cây đa khổng lồ gắn với sự tích Thánh Tản. Sự tích này cho thấy sự tương đồng với chuyện kể người dân theo hình dáng con rùa mà làm nhà cho Lang Cun Cần. Thánh Tản còn dạy dân cày cấy ở vùng Cổ Đằng Tam Vật Lại, đánh cá trên sông Tích, đi săn ở Mang Sơn, đào giếng ở Quy Mông, lấy gỗ xây đền ở Chàng Sơn… Tất cả những sự tích này đều tương tự chuyện kể về Lang Cun Cần trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước.

Lang Cun Cần là người đã xua đuổi được ma quỷ khi ra cầm mường. Ma rồng, thuồng luồng chạy từng bầy vì sợ Lang Cun Cần. Đây là chuyện Sơn Tinh chiến thắng đám thủy quái của Thủy Tinh, trị thủy thắng lợi thời Hồng Bàng mở nước. Lang Cun Cần trong sử thi Mường là Tản Viên Sơn Thánh trong tín ngưỡng dân gian của người Việt.

Trong cuốn sách mới ra mắt gần đây của Nhóm nghiên cứu di sản Đền Miếu Việt mang tên Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn đã đưa ra nhận định chứng minh rằng Tản Viên Sơn Thánh chính là Kinh Dương Vương trong huyền sử Việt. Vì thế Tản Viên Sơn Thánh hay Bua Ba Vì cũng chính là Lang Cun Cần, vị thủ lĩnh thần thánh đầu tiên được ghi trong sử thi Mường.

Giai đoạn thủ lĩnh cộng đồng được gọi trong huyền sử Việt là thời kỳ Tam vị Hùng Vương Thánh Tổ ở Phong Châu và Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn ở vùng Ngũ Lĩnh Ba Vì. Cả 2 khu vực đất tổ của thời kỳ Sơn triều Hùng Vương này cũng đều là vùng đất gốc của người Mường. Do đó sử thi Mường kể giai đoạn thủ lĩnh binh mường gồm những vị Hùng Vương Thánh Tổ tương ứng là Dịt Dàng, Đá Cài, Vạ Hai Kịt và Lang Cun Cần. Bắt đầu từ Lang Cun Cần – Kinh Dương Vương, người Mường – Việt như cá vượt Vũ Môn hóa rồng, đã có cuộc sống thực sự ấm no nhờ tìm ra lửa, ở nhà sàn, trồng lúa, đánh cá, chăn trâu, nấu rượu, dệt tơ…

Bài Ngã Ba Hạc Phú của Tiến sĩ đời Lê Nguyễn Bá Lân có lời nói về giai đoạn dựng nhà hình rùa, thắng thủy hóa rồng của vùng xứ Đoài như sau:

Nắm đất Đoài phương

Cạnh giời Nam quốc.

Ba góc bờ chia vành vạnh, huyệt Kim Quy hẻm đá rộng hông hênh

Hai bên cỏ mọc lâm dâm, hang Anh Vũ giữa dòng sâu huếch hoác.

(Còn nữa)

https://congdankhuyenhoc.vn/su-thi-muong-de-dat-de-nuoc-va-huyen-su-thoi-hung-vuong-thoi-thu-linh-cong-dong-179230109110126742.htm

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 1.
Phong cảnh vườn tược ở Bá Thước, Thanh Hóa.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 2.
Bà con người Mường ở Bá Thước, Thanh Hóa.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 3.
Cây đa làng Rùa, Vân Hòa, Ba Vì.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 4.
Ban thờ Tản Viên Sơn Thánh ở làng Cẩm An, xưa là Cẩm Đái, Cẩm Lĩnh, Ba Vì.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 5.
Đình Bằng Tạ, Cẩm Lĩnh, Ba Vì, nơi còn tục lệ đánh lửa bằng bùi nhùi vào ngày lễ.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 6.
Đình Sủ Ngòi ở thành phố Hòa Bình, là ngôi đình của người Mường thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 7.
Đình Thạch Khoán ở xứ Mường trên đất Thanh Sơn, Phú Thọ.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương

Đẻ Đất Đẻ Nước là bộ sử thi đồ sộ của người Mường được lưu truyền và sử dụng cho tới nay trong các dịp may chay, cưới hỏi…

Sử thi bao quát từ khi mở ra đất ra nước, sinh ra con người, lập nên thủ lĩnh Mường… cho đến khi rước Vua về vùng Đồng chì Tam quan Kẻ chợ, hoàn thành công cuộc dựng nước của người Mường.

Người Việt (người Kinh) và người Mường được biết là 2 tộc người có quan hệ nguồn gốc rất gần gũi, nên rõ ràng lịch sử nguồn cội của người Mường cũng chính là lịch sử tổ tiên người Việt. Thực vậy, các nhân vật, sự kiện được kể trong suốt sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước hoàn toàn trùng khớp với huyền sử thời Hùng Vương của người Việt. Đẻ Đất Đẻ Nước không gì khác là sự tích Lên Núi Xuống Biển của trăm họ người Việt thời Hùng Vương.

Phần 1: Thời Thần thoại

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, bản sưu tầm ở huyện Bá Thước, Thanh Hóa kể: Ngày xưa dưới đất chưa có đất, trên trời chưa có trời. Đất còn rời rạc, nước còn bùng nhùng. Có một năm mưa dầm mưa dãi. 50 ngày nước rút, mọc lên một cây xanh có 90 cành. Những cành trên cùng có ông Thu Tha, bà Thu Thiên. Ông bà đã tạo ra cây cỏ và các loài tôm cá. Đó là Đẻ Đất. Rồi hạn chín tháng trời, nắng mười hai năm xác đất. Ông Pồng Pêu (thần nước) cầu ước mưa. Mưa dầm dề, mưa rào rào. Đó là Đẻ Nước. 

Trên đất trũng mọc lên một Cây Si cao tới tận trời. Sâu Hốc sâu Giang đục hết lõi cây. Cây đổ, 1919 cành Si thành 1919 đất mường. Đó là Đẻ Mường. Cây Si còn hóa ra Mụ Dạ Dần. Mụ Dạ Dần đẻ ra Cun Bướm Bạc, Cun Bướm Bờ. Cun Bướm Bạc và Cun Bướm Bờ lấy các nàng tiên trời đẻ được 10 con. Con út là Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót. Chim này đẻ trứng Chiếng. Trứng vuông nở thành người, trong đó có ông Dịt Dàng, Đá Cài, Lang Cun Cần và nàng Vạ Hai Kịt. Đó là Đẻ Người.

Thủa ấy có ông Cuông Minh Vàng Rậm, có nàng Ả Sấm Trời đúc ra 9 chín mặt trời, 12 mặt trăng. Nắng gay gắt. Họ nhà Ngao thần Nỏ Ná bắn rơi 8 mặt trời, 11 mặt trăng. Ông Thu Tha, bà Thu Thiên truyền làm năm tháng. Mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Có năm đầy năm vơi, có tháng no tháng thiếu…

Quan niệm về khai sinh vũ trụ của người Mường hoàn toàn trùng với của người Kinh. Câu mở đầu trong Thiên Nam ngữ lục, cuốn “sử thi Nôm” từ thế kỷ 17 ghi:

Nhớ từ Thái cực sinh ra
Trên trời dưới đất giữa hòa nhân gian.

Câu đối ở chính điện thờ Kinh Dương Vương ở Á Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh:

Thái cực nhất nguyên thiên địa thủy
Viêm Giao Bàn Cổ đế vương tiên.

Ông Bàn Cổ trên đất Viêm Giao đã dùng rìu bổ vỡ khối hỗn mang Thái cực ban đầu mở ra trời – đất. Ông Bàn Cổ với chiếc rìu sáng thế khổng lồ tương ứng với Mụ Dạ Dần và Cây Si trong sử thi Mường. 4 hình tượng Bướm Bạc, Bướm Bờ, Chim Tùng, Chim Tót là 4 tượng trong Thái cực đồ: Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Thiếu Dương. Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng. Thái cực đồ với Tứ tượng chính là quả trứng Chiếng hình vuông đã biến hóa vô cùng mà Đẻ Người.

Người đúc ra Mặt trời là Phục Hy, vị thần hướng Đông (hướng mặt trời mọc), được sử thi Mường gọi là Cuông Minh Vàng Rậm. Chữ Cuông Minh nghĩa là Quang Minh, chỉ vị thần tạo ra ánh sáng. Người đúc ra Mặt trăng là Nàng Ả Sấm Trời, tương ứng với Nữ Oa. Cặp thần thoại Phục Hy – Nữ Oa trong quan niệm xưa gắn với Âm Dương (Mặt trăng – Mặt trời) và Tứ tượng. Trong dân gian người Việt thì Phục Hy – Nữ Oa được gọi là Ông Đùng – Bà Đà.

Hùng Vương Thánh Tổ Tổ Ngọc phả, phần Lịch kỷ họ Hùng chép rõ về thời kỳ thần thoại:

“Xét như tiếng đức Tiền hoàng đế thời Thái cổ, từ kỷ Tam Hoàng Ngũ Đế đến nay, theo nguyên mệnh của xuân thu, bao gồm thời mở mang hồng hoang trước trời đất. Trời ban đầu mở vào Giáp Tí. Đất tụ mang ở Ất Sửu. Vận người sinh ở Giáp Dần. Vạn vật ra đời ở gian Ất Mão. Từ thời Bàn Cổ, Thái cực sinh Lưỡng Nghi, là Thiên Địa. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương. Tứ tượng biến hóa thành nhiều hình trạng.

Thời Hỗn Mang còn chưa biết đạo trời đất khởi đầu thế nào, đến Âm dương biến làm Tam tài, vị quân thủ dẫn đường dần dần mở ra phong khí, dần dần có văn minh, làm rõ ràng các giáo lý trị dân. Trời xuất hiện nhiều bậc đại thánh. Cha trời Mẹ đất là Thiên tử xuất hiện đầu tiên. Sau đến các vật ở vạn nước được yên định, nhận trọng trách lớn như thế sao.

Thiên Hoàng nối Bàn Cổ mà trị ở ngôi Thiên tử, nắm quyền chế độ, mới chế ra Can chi. Mười can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mười hai chi là Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Vị, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Lấy đó để định thời gian, giúp nhân dân biết phương hướng. Cứ mỗi đời có bậc quân vương lại tất có sự sáng chế của quân vương đó. Các vua sau từ đó noi theo trăm đời không lay. Lấy việc giải quyết cho dân làm khó. Lấy sự an định làm nguy. Xem hiền mà sửa mình.

Địa Hoàng định hai thời phân làm ngày đêm, lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Gộp những sai lệch mà bày ra nhuận, cuối cùng thì phục hồi lại thời gian như ban đầu, lấy thời khí theo đó. Các anh em của người cứ một vạn tám ngàn năm là chúa tể thiên hạ các phương, sáng chế lập ra pháp luật, ban bố vạn đời. Khiến cho hậu thế đều biết được chỗ sáng tối, tháng năm như thế”.

Thiên Hoàng, Địa Hoàng hay Cha Trời, Mẹ Đất tương ứng với bà Thu Thiên, ông Thu Tha trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, là những người đã tạo ra năm tháng cho hậu thế biết phân thời gian. Họ nhà Ngao bắn rơi Mặt trăng Mặt trời tương ứng với truyền thuyết Vua Nghiêu (Ngao – Hữu Ngu) đã sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn hạ Mặt trời, cân bằng lại Thái cực, tạo nên một vũ trụ yên ổn, phân định trời đất, ngày đêm.

Có thể thấy quan niệm lịch sử Hùng Vương hoàn toàn trùng với giai đoạn mở đầu của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, từ việc Mụ Dạ Dần – Bàn Cổ mở trời đất, sinh Thái cực, Thái cực sinh vạn vật, đến việc Cha Trời Mẹ Đất phân chia thời gian, giữ yên vũ trụ. 

Bài Ngã Ba Hạc phú của Tiến sĩ thời Lê là Nguyễn Bá Lân diễn tả thời thần thoại:

Vũ trụ mơ màng,
Càn khôn xếch xác.
Vua Bàn Cổ khai lò tạo hoá, hồng mông đà phơi phới hơi xuân,
Họ Hữu Ngu khơi mạch sơn hà, cương giới vẫn rành rành dấu tạc.

(Còn tiếp)

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 1.
Núi Cột Cờ Mường Bi, Tân Lạc, Hòa Bình là di chỉ khảo cổ nền Văn hóa Hòa Bình, quê hương của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 2.
Đền Á Lữ.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 3.
Nghi môn đền Á Lữ nhìn từ bên ngoài.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 4.
Nghi môn đền Á Lữ nhìn từ bên trong.

Đôi câu đối về Thái cực và Bàn Cổ ở đền Á Lữ.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương (congdankhuyenhoc.vn)

Những vị Tiên nữ Việt thời Hùng Vương

Hình tượng Tiên nữ đã xuất hiện trong văn hóa Việt từ rất sớm, với ý nghĩa biểu tượng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của xã hội. Ngay từ thời đại Hùng Vương, trong các truyền tích về thời dựng nước. chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những vị Tiên nữ.

Các vị Tiên nữ thời kỳ này là những hoàng phi, hoàng hậu của các đời vua Hùng và đều đã trở thành những bậc “Mẫu nghi thiên hạ” trong tín ngưỡng dân gian.

Vụ Tiên Thần nữ

Vụ Tiên là vị Tiên siêu cổ của người Việt. Bà là vợ của Thái tổ Hữu Hùng Đế Minh trong truyền thuyết họ Hồng Bàng. Đế Minh nhân đi Nam tuần gặp được bà Vụ Tiên Thần nữ, vô cùng vui mừng, đã kết duyên mà sinh ra Lộc Tục…

Dấu vết của bà Vụ Tiên lưu truyền tới nay là trong tục thờ Tây Thiên Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo, nơi ngọc phả kể rằng có một người con gái là tiên từ Cửu thiên giáng hạ, nhan sắc chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, thông thạo văn ấn, nữ tắc nữ công, lại tài năng võ nghệ, binh thư thao lược, nữ lưu hào kiệt. Khi có giặc xâm lăng, bà đã chiêu mộ quân binh, kéo về chi viện cho Hùng Vương, dẫn quân ra trận diệt giặc. Thắng trận bà được vua Hùng phong là Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, đời đời thờ phụng.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 1.
Tây Thiên Quốc Mẫu ở đền Thượng Tây Thiên.

Bản thân chữ “Tây Thiên” khi đọc lướt sẽ cho chữ “Tiên”. “Vụ Tiên” chính thực nghĩa là “Vua Tiên”. Tây Thiên Quốc mẫu đã trở thành Mẫu Thượng Thiên trong tín ngưỡng Tứ phủ, cai quản Thiên phủ, tức là đứng đầu quần Tiên trên Thượng giới.

Mẫu Thượng Thiên là bà Mẹ Trời của người Việt, ngự trị trên đỉnh Tam Nguy của núi Côn Lôn (tên khác của núi Tam Đảo). Đây cũng là nơi bắt nguồn của dòng suối Bát Nhã, chảy từ ngọn Phù Nghi (Nghĩa) xuống qua chín khúc hồi hoàn. Vua cha Đế Minh ở núi Thái Hùng Lĩnh và Mẹ trời Tây Thiên bên dòng suối Nghĩa đã đi vào câu ca dao bất hủ của người Việt:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Câu đối ở đền Thỏng, là chính đền thờ Tây Thiên Quốc Mẫu tại xã Đại Đình, Tam Đảo, Vĩnh Phúc:

Thạch lộ phó Tây Thiên, linh địa tồn danh Tiên giáng

Cao sơn đăng Phù Nghị, cổ đài ký lập Mẫu nghi.

Dịch:

Đường đá tới Tây Thiên, đất thiêng còn danh tiên hạ thế

Núi cao lên Phù Nghị, đài xưa ghi lập mẫu oai nghiêm.

Thủy Tiên Thần Long

Đẹp thay Tiên nữ!” là lời thốt lên của Kinh Dương Vương khi gặp mẫu Thần Long bên bờ Động Đình. Kinh Dương Vương là dòng Sơn thần từ bà Vụ Tiên trên núi Tam Đảo. Còn Mẫu Thần Long là Thủy Tinh công chúa Xích Lân Long Nữ, con của Động Đình Đế Quân. Cuộc hội ngộ giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh đầu tiên này đã sinh ra đức vua Lạc Long Quân. Vị Tiên nữ Động Đình đã trở thành Mẫu Thoải trong tín ngưỡng Tứ phủ, vị mẫu cai quản Thủy phủ.

Chính đền thờ Xích Lân Long Nữ ở Việt Trì gọi là đền Tiên Cát, cho thấy rõ ràng rằng Mẫu Thoải là một vị Tiên. Thủy Tiên Thánh Mẫu còn được thờ ở nhiều nơi khác tại vùng đồng bằng ven sông Hồng, dưới những tên gọi và chuyện kể khác nhau. Điển hình là chuyện bà Phan Cù Nương ở làng La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ) bên bãi Trường Sa của sông Đà. Hay chuyện Quý Nương sinh Hoàng Xà trong sự tích đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ, Thái Bình… Tựu chung các sự tích về Thủy Tiên Thánh Mẫu đều kể bà Mẹ Rồng sinh một bọc, nở ra mấy người con dưới hình rắn – rồng, rồi trở thành các vị thủy quan ngự trị các lưu vực sông ngòi.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 2.
Ban thờ Mẫu Thần Long ở đền Tiên Cát.

Đền Á Lữ, nơi thờ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành, Bắc Ninh có đôi câu đối về mẫu Thần Long:

Tương truyền Lĩnh động Tiên sinh Thánh

Tòng thử Viêm phương quốc hữu quân.

Dịch:

Tương truyền chốn Lĩnh Tiên sinh Thánh

Từ đó phương Viêm nước có vua.

Tiên Dung Công chúa

Vị công chúa con vua Hùng thứ ba, có vẻ đẹp như trăng rằm, được Hùng Vương đặt tên là Tiên Dung và vô cùng yêu quý. Công chúa trên đường đi ngao du sơn thủy, xuôi dòng sông Hồng qua bãi Tự Nhiên ở đất Khoái Châu đã có cuộc kỳ ngộ với chàng trai Chử Đồng Tử. Hai vợ chồng cùng nhau học được Tiên đạo, một gậy một nón dựng nên cơ đồ bề thế, lâu đài cung điện ở vùng đầm nước bãi sông. Chử Đồng Tử được nhân dân theo về, lập thành nước riêng, nên Tiên Dung cũng đã trở thành Hoàng phi của một bậc Thiên tử.

Cùng với vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung còn có vị Tây Sa Công chúa, là con của Tây Vương Mẫu giáng phàm, giúp Chử Đồng Tử chữa bệnh cứu dân. Kết cục Chử gia tam tiên một đêm đã bay lên trời hóa thành bất tử, nhập vào bóng trăng với sự tích chú Cuội, chị Hằng và thỏ ngọc.

Câu đối ở đền Đa Hòa, là nơi cung quách xưa của Chử Đạo Tổ và Tiên Dung Công chúa:

Hóa cảnh thị hà niên, Tự Nhiên vi châu, nhất dạ thành trạch

Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên.

Dịch:

Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ

Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền.

Bạch Kê Ma Cô Tiên

Truyền thuyết về thành Cổ Loa kể rằng, các Tiên nữ đêm đêm đã xuống trần giúp An Dương Vương xây thành, nhưng bị yêu quỷ hóa thành con gà trắng gáy báo sáng, làm các Tiên nữ bỏ đất xây thành mà bay về trời. Thực ra, vị Tiên nữ ở Cổ Loa chính là Mẫu Bạch Kê, mà nay đền thờ còn sau núi Thất Diệu ở xã Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 6.
Nghi môn miếu Bạch Kê ở Yên Phong, Bắc Ninh.
Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 7.
Bia đá chùa Ma Cô Tiên ở Châu Cầu, Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh.

Đôi câu đối ở nghi môn đền Mẫu Bạch Kê ghi:

Hồng Lạc di phong trang thể thế

Tiên Long dư duệ khải hồng cơ.

Dịch:

Phong tục Lạc Hồng hình thể đẹp

Rồng Tiên dòng dõi mở cơ đồ.

Mẫu Bạch Kê là dòng dõi Lạc Hồng của Hùng Vương đã cản trở An Dương Vương xây thành, bởi An Dương Vương là triều đại đã thế ngôi Hùng Vương trên đất này. Người đã chống lại vua nước Âu Lạc chính là nhà Ân Thương. Cầm đầu đội quân nhà Ân khi đó là các nữ tướng, mà tới nay vẫn còn được tái hiện trong vai 28 cô tướng của hội Dóng Phù Đổng.

Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương

Ân sai hai tám tướng cường nữ nhung

Xâm cương cậy thế khoe hùng

Kéo sang đóng chật một vùng Vũ Ninh.

Truyện Giếng Việt kể, trong cuộc chiến với Phù Đổng Thiên Vương, vua Ân chết ở chân núi Vũ Ninh, trở thành vua của Địa phủ. Tới thời Tần Hán có người Thôi Vĩ đã lạc vào núi này, rơi xuống lòng đất gặp được Ân Hậu, rồi được một vị tiên nữ là Ma Cô Tiên đem cho ngọc báu, thuốc tiên. Thôi Vĩ trở nên giàu có, hạnh phúc và trường thọ. Ma Cô Tiên từ đó trở thành một vị phúc thần và thọ thần nổi tiếng trong văn hóa phương Đông.

Ma Cô Tiên là một hoàng phi của vua Ân, nên đây cũng chính là vị Mẫu Địa phủ trong quan niệm xưa. Bản thân chữ “Ma” có nghĩa là “má”, “mẹ” hay “mẫu”, là cách gọi xưng đối với vợ vua thời cổ. Nơi thờ vị Tiên mẫu này ở chân núi Vũ Ninh miền Châu Sơn là ngôi chùa cổ mang chính tên chùa Ma Cô Tiên, tại thôn Châu Cầu, xã Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh.

Vua Tiên Âu Cơ

Nói đến Tiên nữ thời Hùng Vương ai cũng nghĩ ngay đến bà Âu Cơ, bà mẹ đã sinh bọc trăm trứng, nở ra trăm trai Bách Việt. 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi, tôn người con trưởng lên làm vua Hùng, lập nước Văn Lang, đóng đô ở Việt Trì… Tiên mẫu Âu Cơ đã về trời ở xã Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ), nay còn di tích là ngôi đền mẫu nổi tiếng tại đây.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 4.
Hoành phi “Bách Việt chi Tổ” ở đình Ngọc Trục, nơi thờ bà Âu Cơ ở Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

Đôi câu đối tại chính điện đền mẫu Hiền Lương nói tới bà Âu Cơ là tổ của dòng Tiên lên núi, lưu truyền vạn đại, cùng đất nước và nhân dân mãi trường tồn:

Tố hồng mang đế kết dĩ lai, Tiên chủng vĩnh truyền lưu quốc tổ

Lịch Tượng quận triệu tu nhi hậu, nhân quần miễn mộ bá Viêm bang.

Dịch:

Nhớ thủa hồng mang gắn kết tới nay, nòi tiên mãi lưu truyền là Quốc tổ

Trải đất Tượng quận dựng sửa sau về, bầy dân luôn ngưỡng mộ khắp Viêm bang.

Mẫu Âu Cơ còn gặp trong hình tượng bà mẹ đẻ của Tản Viên Sơn Thánh ở vùng đất Lăng Sương (Thanh Thủy, Phú Thọ). Người Mường thờ bà là Quốc Mẫu Vua Bà, như một vị thủy tổ của dân tộc. Cũng bởi sự tích 50 người con lên núi lập quốc và là mẹ của Sơn Thánh mà bà Âu Cơ đã trở thành thánh Mẫu lâm cung Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ ngày nay. Hình tượng Tiên mẫu Âu Cơ gắn liền với hình chim Âu bay lượn trên mặt các trống đồng, hay chim Phượng hoàng gáy báo điềm lành mở nước trong Tứ linh vật.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 5.
Mẹ đẻ Tản Viên Sơn Thánh ở đền Lăng Sương.

Tiên nữ Tây Thiên Ngọc Tiêu

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 9.
Bà Ngọc Tiêu ở đền thờ Thanh Sơn Đại vương trên núi Tây Thiên.

Cũng là Tiên nữ núi Tam Đảo, nhưng bà Ngọc Tiêu được Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể tới không phải là vị Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu đánh giặc thời Đế Minh, mà là một tiên nữ yêu kiều, kết duyên cùng với Hùng Chiêu Vương.

Ngọc phả kể rằng vua Hùng thứ bảy là Chiêu Vương đã tâm thành hướng Phật, quyết chí cầu Tiên. Vua đến núi Tam Đảo, lập Vọng Tiên đàn hành lễ bảy ngày bảy đêm để mong gặp được Tiên nhân. Đêm đó, nhà vua đã được ứng mộng qua một bài thơ Tiên, dùng cách chiết tự (những chữ trong ngoặc kép) mách bảo nơi Tiên giáng:

Tây Thiên “sơn nhân thượng”

Bất kiến “tâm hạ tướng”.

Niệm Đông “túc các” nhân

“Doãn cư thượng khẩu” vượng.

Dịch:

Trên Tây Thiên tiên đó

Không thấy điều mong chờ

Gặp người nơi Đông Lộ

Vua sẽ được như mơ.

Vua theo lời trong mộng, quay xuống chân núi, đã gặp được tiên nữ Ngọc Tiêu ở làng Đông Lộ (Đại Đình, Tam Đảo), kết nên duyên lành, đón về Phong Châu sinh cư. Rồi cả 2 người học được tiên thuật, thọ sánh ngang tuế nguyệt, hóa sinh bất diệt.

Trong thời Hùng Vương, hình tượng các Tiên nữ đều là những vị hoàng phi, hoàng hậu, vợ của các vua Hùng. Các phi hậu này người có công giúp vua Hùng đánh giặc, oanh liệt tử chiến sa trường, người có công khai dân mở đất, sinh con nối dòng tiếp dõi họ Hùng. Tam tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng Tứ phủ đều có nguồn gốc sâu xa từ những Tiên Mẫu thời Hùng Vương.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 8.
Tam Tòa Thánh Mẫu ở chùa Á Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh, gồm bà Vụ Tiên, Âu Cơ và Thần Long.

Ngọc phả chép về hai vị Thiên tử họ Hùng

Thần tích  làng Hạnh Lâm, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Chi Khôn, bộ thượng đẳng thứ 7
Bản chính trong từ đường quan Thượng thư bộ Lễ quốc triều.

Xưa nước Việt ta dựng nền ở phương Nam, cương vực theo sao Ngưu, sao Đẩu. Triều Hùng mở vận, Thánh tổ gây dựng cơ đồ. Vua Kinh Dương Vương từ khi thừa mệnh vua cha ở Bắc triều nhận quyền chủ trị phương Nam, đi tìm xem hình thế sông núi nước Việt, lấy vùng đất đẹp Hoan Châu mà dựng lập kinh đô, lấy vẻ mạnh của nơi Nghĩa Lĩnh mà tu sửa miếu đền. Cha truyền con nối đều lấy Hùng Vương làm tôn hiệu.

Khi Kinh Dương Vương lấy tiên nữ Động Đình là Âu Cơ, ở tại nơi đầu núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ từ đó mang thai, được 3 năm 30 ngày sinh hạ được một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai. Tất cả đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt đời. Đến khi trưởng thành Vua mới phong tước hầu dựng các nơi làm bình phong, chia nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười năm là Quảng Đông.

Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
–    Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên. Tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con nhưng chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc, không thể cùng chung sống. 

Nhân đó mới chia biệt, phân thành trăm họ. 50 người con theo cha về biển là Thủy thần.  50 người con theo mẹ về núi làm Sơn thần. 50 người con về núi phân ra để cai quản trên từ các đầu núi, dưới tới các góc biển. Mỗi đạo có người làm đế chủ quản một phương, cùng hưởng lộc trời, là người chủ trưởng vậy.

Tới thời Huy Vương ở ngôi đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên là Văn Lang, quốc đô tên là thành Phong Châu. Vua đức rộng tài cao, khoan nhận rất mực, kế thừa vận của 6 đời trước, chuyên tâm lấy đức hóa dân, lấy công mà yên trị, cũng có thể đáng gọi là bậc quân vương vậy. 

Khi ấy có một vị đạo quan của bộ Sơn Nam, vốn là dòng dõi trong số 50 người con của một bọc trăm trứng về núi, được phân trị ở Sơn Nam, họ là Hùng, tên Khắc, lấy người trang Tức Mặc, huyện Chân Định, phủ Thiên Trường tên là Trần Thị Huệ, lập làm Chính phi. Vợ chồng tuy là nắm quyền chủ một phương nhưng cố sức làm điều phúc thiện. Tuổi đã ngoài bốn mươi mà điềm cung nỏ, buồm thuyền chưa thấy được nơi cửa huyền. Do đó vợ chồng cố gắng tạo phúc, hết sức làm điều nhân, điều nhỏ cũng vì coi dân như con. Trong năm các lễ thời, thuế khóa nhận được, tất cả đều cho dân, không lấy một điểm nào. Cửa quan không có kiện tụng, giam giữ, sân đường không có roi vọt.

Một hôm chủ bộ quan đi đến nơi đất đầu khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, chợt gặp một người con gái, tuổi độ ba lần tám (24), mặt hoa da phấn, mắt ngọc mày ngài, tỏa vẻ có đức sắc. Chính phi thích nhan sắc ấy bèn triệu tới hỏi danh tính, quê quán. Người con gái trả lời:
–    Thiếp tên là Mỹ Nương, là người khu Hàn Lâm, con gái phú ông họ Nguyễn. Mẹ thiếp mất sớm, hiện sống cùng với cha. Tới nay tuổi đã 24.

Chính phi bèn nói rằng:
–    Người đẹp ắt phải có duyên cầm sắt với người đẹp, có mối tơ hồng định sẵn. Chồng ta là chủ quan Sơn Nam, dòng dõi họ Hùng, tuổi đã cao mà chưa có con sinh dưỡng. Ta là Chính phi, muốn tìm khắp một tiểu nữ có thể có điềm sinh lan xuất huệ, thỏa nguyện bình sinh. Nay ta thấy nàng nhan sắc ngôn ngữ đều không phải người thường. Ta muốn kết nguyện Châu Trần. Không biết ý nàng có ưng không?

Cô gái đó đáp:
–    Phận thiếp bồng bềnh, duyên cầm sắt là do ở Nghiêm đường. Đâu dám tự quyết.

Chính phi bèn loan giá tìm vào nhà ông Nguyễn, hỏi Mỹ Nương cho Chủ quan. Ông Nguyễn vui mừng đồng ý, xem chọn ngày giờ làm lễ sánh duyên, rước về nhiệm sở, lập làm Đệ nhị Cung phi. 

Từ đó loan phượng tình nồng, thư cưu hợp vận. Được quãng nửa năm, một hôm Nương cùng với Chính phi cùng nằm trong buồng chính, mơ màng giấc ngủ. Chính phi bỗng mộng thấy cùng với Nương đến một nơi bốn mặt xung quanh đều là rừng núi rậm rạo. Lại có một con hổ từ hướng Nam đến. Chính phi quay ra sau, lại thấy một con hổ từ hướng Bắc tới. Hai con hổ cùng giao đấu. Các nàng đều muốn cứu một con hổ. Trong mộng ảo mới thấy hai con hổ hóa thành hai cậu thanh đồng. Một cậu chạy nhập vào Chính phi, một cậu chạy nhập vào Mỹ Nương. Bất chợt kinh sợ mà tỉnh giấc. Đem chuyện trong mộng nói với Chủ quan. 

Chủ quan vui mừng rằng:
–    Hổ thay! Hổ thay! Hổ là điềm rất tốt. Nàng mơ thấy như vậy tất nhiên nàng cùng với Mỹ Nương có điềm sẽ mang thai.

Lời nói được một ngày, quả nhiên Chính phi cùng với Đệ nhị cung cùng có mang. Mang thai được 12 tháng, tới năm Đinh Hợi, tiết mùa đông ngày 10 tháng 11, giờ Dần 1 khắc Chính phi sinh được một người con trai. Giờ Dần 6 khắc Đệ nhị cung phi cũng sinh được một con trai. Dáng rồng thân hổ, mắt phượng mày tằm, ngũ nhạc cùng chầu, tam đình bằng phẳng, thân dài tám thước, tai trắng mày xanh, tai dài quá gối, thật là khác người thường.

Sinh được trăm ngày người bố là Chủ bộ quan cùng Chính phi và Đệ nhị cung phi, với hai con trai vào gặp vua Huy Vương. Vua mở tiệc mừng lớn, lại nói với Chủ bộ quan rằng:
–    Hai đứa cháu đẹp đẽ này đúng là dòng dõi tông phái gia tộc. Trẫm nay đặt tên cho cháu trưởng là Minh Gia, cháu thứ là Minh Tông, để làm rạng nghĩa của dòng dõi gia tông. 

Chủ bộ quan nhận mệnh, cảm tạ. Xong việc lại trở về nhiệm sở Sơn Nam. Chưa được một năm Chủ bộ quan lại lấy tiền đem về khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc cho xây dựng một cung điện để hai người con Minh Gia, Minh Tông khi lớn lên sẽ ở đó. Xây cung xong lại trở về nhiệm sở.

Than ôi, sự biến đến thật vô thường! Là vận trời vậy sao? Trong 3 năm Chủ bộ quan cùng Chính phi và Mỹ Nương đều theo nhau mà mất. Minh Gia, Minh Tông kêu góc vang trời, nhưng tình thế không thể làm sao được. Lần lượt làm lễ chôn cất. Hương lửa tế lễ trong nhà theo như nghi thức.

Khi sự hiếu đã xong, hai ông tuổi đã 21. Hai ông vốn thiên tư thông minh, học tuy ít nhưng biết rộng cổ kim, hiểu khắp trời đất. Tuổi 25 vua Huy Vương cho phép kế chức của cha nhận quản đạo Sơn Nam. Người anh lmà Minh Gia Thiên tử. Người em làm Minh Tông Thiên tử. Hai vị Thiên tử cảm tạ, trở về, tới cung ở khu Hàn Lâm thì ở lại đó, khuyến khích nghề nông tang, tăng lợi trừ hại, lại cho dân Hàn Lâm được miễn việc phục dịch binh dong, tô thuế, để làm dân đất thang mộc sau này khi hai vị Thiên tử đã trăm tuổi. Thật là có công lớn với khu Hàn Lâm vậy.

Lại nói, khi đó đất nước có giặc Ân phương Bắc là Thạch Linh Thần tướng dẫn trăm vạn hùng binh đến xâm lược.  Giáo giáp khắp trời, cờ xí rợp đất. Biên cương gửi thư báo gấp. Vua rất lo lắng, bèn lập đàn cầu đảo trời đất và bách thần. Vua tự mình đến ở nơi đàn cầu đảo. Sau 3 ngày bỗng thấy có mưa gió sấm chớp nổi lên. Có một ông lão cao hơn 9 thước, ngồi ở đường lớn, cười nói nhảy múa. Mọi người thấy vậy đều cho là lạ. Dân vào tâu Vua. Vua thân đón ông lão vào trong đàn, mời ngồi trên, rồi hỏi:
–    Nay có giặc phương Bắc đến xâm lấn. Thắng bại như thế nào, xin được chỉ giáo.

Ông lão suy nghĩ hồi lâu đắn đo mưu kế, rồi nói với Vua rằng:
–     Nay hoàng gia đang có hai vị thần hổ đầu thai, hiện là chủ tể đất Sơn Nam, chính thuộc tông phái của hoàng gia. Những người này có thể gấp cho dẫn binh chống giặc trước. Sau đó cho sứ giả đi tìm trong thiên hạ để cầu được người tài. Như thế giặc phương Bắc chắc chắn có thể bình được.

Vua bèn sai sứ đến khu Hàn Lâm, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng gấp triệu hai vị Thiên tử về triều, dẫn quân chống giặc phương Bắc. Một mặt sứ giả đi chiêu mộ các nơi trong thiên hạ. Sứ giả vâng mệnh đi tìm mộ người tài. Một hôm đi đến làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh, đạo Kinh Bắc. Trước đó, làng Phù Đổng có một nhà giàu sinh được một người con trai tên là Thiết Xung Thần vương. Tuổi đã lên 3 mà chỉ biết nằm ngửa, ăn uống mà lớn, nhưng không biết cười nói. Đến khi nghe lời kêu gọi của sứ giả bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, mở miệng nói với mẹ rằng:
–    Mẹ hãy gọi sứ giả đến đây.

Thần vương nói với sứ giả:
–    Nhà ngươi mau về báo với Vua cho làm một con ngựa sắt, một chiếc nón sắt, một cây roi sắt. Giặc Bắc Vua sẽ không phải lo lắng gì nữa.

Sứ giả nghe lời vội về triều, tâu với Vua. Vua nghe vậy rất mừng, bèn gấp truyền lệnh cho thợ thu thập sắt đúc thành ngựa sắt cao mười thước, nón sắt rộng một ôm tay, roi sắt dài một trượng, chở tới cho Thần vương. Thần vương hét to lên mấy chục tiếng, tự nhiên thân vươn cao 18 thước, làm một bữa no say xong Thần vương nhảy thẳng lên ngựa, dõng dạc nói:
–    Ta đến đây!

Ngựa chạy như bay đến thẳng chân núi Trâu, quận Vũ Ninh. Thần vương lấy cờ chỉ vào. Thạch Linh Thần tướng tự nhiên ngã lăn ra mà chết. Còn lại các dư đảng chưa kịp diệt mà roi sắt đã bị rơi mất. Thần vương bèn túm bụi tre non cùng với hai vị Thiên tử đánh một trận lớn. Giặc Bắc đều đại bại mà chạy và chết vô số. Từ đó, giặc phương Bắc không dám đến xâm lấn.

Hai vị Thiên tử cùng với Thần vương cưỡi ngựa thẳng đến núi Ninh Sóc. Thần vương bay lên trời mà đi. Hai vị Thiên tử cũng theo đó mà hóa (khi đó là ngày 15 tháng 12). Sau khi hai vị Thiên tử cùng với Thần vương đã hóa, vua Huy Vương nhớ tới công lao lớn với đất nước bèn phong tặng cho Thần vương là Phù Đổng Thiên Vương, cho trăm mẫu ruộng để làm ruộng thờ phụng. Cho làng Phù Đổng lập miếu thờ cúng. Lại cho khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc được miễn các quân dịch, tô thuế để phụng thờ hai vị Thiên tử, các kỳ xuân thu đều có quốc tế, bốn mùa hương đèn, vạn đời không dứt.

Một vị Minh Gia Thiên Tử
Một vị Minh Tông Thiên Tử
Chuẩn cho khu Hàn Lâm, trang Liên Phúc thờ phụng.

Lại nói từ đó về sau tới Đinh, Lý, Trần, Lê đều có giúp nước cứu dân, vốn xưa có nhiều đế vương phong tặng mỹ tự để vạn năm hưởng lộc, cùng với trời đất mãi còn. Mãi vậy! Tốt thay!

Phụng thờ mở các tiệc sinh, hóa cùng với các chữ húy nhất thiết cấm là hai chữ Gia, Tông, cùng với các sắc phục hai màu hồng và tía.
Ngày sinh thần là mồng 10 tháng 11, lễ dùng trên cỗ chay, dưới cỗ thịt trâu, rượu, ca hát 3 ngày.
Ngày hóa thần là ngày 15 tháng 12, lễ dùng lợn đen tuyền, xôi, bánh, cơm.
Ngày hội khánh hạ mồng 10 tháng 2, lễ dùng lợn, gà, xôi, rượu, ca hát 3 ngày.
Ngày hội khánh hạ mồng 10 tháng 8, lễ dùng cỗ thịt trâu, ca hát 3 ngày.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất, tháng đầu thu, ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hữu thứ 8, tháng cuối thu, ngày tốt, Quản giám bách thần, Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần là Nguyễn Hiền lại tuân theo bản chính của tiền triều phụng sao.