Những thẻ ngọc quân lệnh của Trọng Thủy (phần 2)

Trong bài trước đã trình bày về phát hiện các thẻ ngọc thời Tần ở vùng Sóc Sơn – Mê Linh mang các chữ tiểu triện cổ. Bài trước cũng đã điểm qua quan hệ của nước Tần với vua Chu ở miền đất Bắc Việt và đưa ra nhận định, những chiếc thẻ ngọc này thuộc về đời Tần Trang Tương Vương, là vị Tần Vương đã chiếm Bắc Việt và chấm dứt triều đại nước Văn Lang của thiên tử Chu tại đây. Bài này tiếp tục đi sâu phân tích ý nghĩa của những dòng chữ khắc trên những lệnh bài thời Tần này.

Tấm thẻ lệnh mang dòng chữ Đồ báo nhi thuyết, nhắc tới chuyện đời Tần Mục Công được các binh sĩ dốc lòng ra sức chiến đấu bảo vệ Mục Công để đền ơn ban rượu và thịt ngựa. Tần Mục Công là vị thủ lĩnh nước Tần nổi lên trong số Xuân Thu Ngũ bá với sự phò trợ của tướng quốc Bách Lý Hề. Đồ báo nhi thuyết trên lênh bài có thể hiểu là khẩu hiện cho các chiến sĩ nước Tần chiến đấu để đền báo ơn vua.

Đồ báo nhi thuyết

Tấm thẻ lệnh có chữ Tín lễ Tần Vương chi chủ và mặt sau có 3 dòng chữ:

Giáp Ngọ trung hưng

Hành tẩu biến địa

Chúng sinh bình đẳng,

Đây là nói đến mốc nước Tần xưng Vương, ngang với Thiên tử Chu, xảy ra vào đời Tần Huệ Văn Vương năm Giáp Ngọ 325 TCN. Đây cũng là lúc mà Tần trở thành một trong những nước mạnh nhất của thời Chiến Quốc Thất hùng. Với sự phò trợ của tướng quốc là Trương Nghi, nước Tần lúc này bắt đầu các cuộc Đông chinh, Tây phạt đúng với phương châm “Hành tẩu biến địa” trên ngọc giản.

Điều đặc biệt nữa là ngọc giản này nêu câu khẩu hiệu “Chúng sinh bình đẳng“, một tư tưởng rất tiến bộ ở thời phong kiến. Tư tưởng này bắt nguồn từ quan niệm của phái Pháp gia: Trước pháp luật mọi người đều bình đẳng. Người có tội sẽ bị xử phạt. Người có công sẽ được ban thưởng. Không phân biệt là công tộc hay thứ dân, nô lệ. 

Tư tưởng của Pháp gia được Thương Ưởng bắt đầu thực hành tại nước Tần dưới thời Tần Hiếu Công và nó trở thành động lực rất lớn cho nước Tần và quân Tần hùng mạnh. Phương châm “Chúng sinh bình đẳng” ở trên lệnh bài hàm nghĩa các quân sĩ chiến đấu hy sinh vì nước Tần, vì Tần Vương thì sẽ được báo đáp đầy đủ và công bằng.

Tấm thẻ ngọc thứ ba bằng chất liệu đá thạch anh, được sơn màu đen. Khác với những thẻ ngọc cẩm thạch và ngọc bính, thẻ ngọc thạch anh lại có đục lỗ ở phía dưới của các chữ. Trên đó một mặt có 2 dòng chữ:

Xuất kỳ bất dụng

Bảo vệ binh hoang.

Như đã bàn ở bài trước, những tấm thẻ ngọc này thuộc về đời Tần Trang Tương Vương, tức cũng là Trọng Thủy trong truyền thuyết Việt. Nhà Tần lúc này đã diệt Chu thiên tử, lấy màu Đen, phương Bắc (nay), hành Thủy làm biểu tượng. Có thể vì vậy mà tấm thẻ đã được sơn màu đen.

Trong câu “khẩu quyết” Xuất kỳ bất dụng thì chữ “dụng” ở đây dùng với nghĩa cổ là dụng ý, ý định, nên câu đó tương đương trong ngôn ngữ ngày nay là Xuất kỳ bất ý, nghĩa là xuất binh bất ngờ. Khi liên hệ với câu chuyện của Trọng Thủy thì chợt nhận ra đây là chỉ sự việc Trọng Thủy đã đánh lừa An Dương Vương (cưới Mỵ Châu và đánh tráo lẫy nỏ thần) trong truyền thuyết Việt. Sau khi đã lừa được An Dương Vương (Chu Noãn Vương), Trọng Thủy (Tần Trang Tương Vương) cùng với tiên tổ là Tần Chiêu Tương Vương (Triệu Đà) đã xuất quân bất ngờ tấn công nhà Đông Chu, chấm dứt hơn 800 tồn tại của triều đại nhà Chu. Mưu mô này giúp Tần đạt được mục đích với sự tiêu hao binh lực thấp nhất (Bảo vệ binh hoang) cho việc thay đổi triều đại từ Chu sang Tần.

Mặt sau của tấm thẻ đen còn có 4 chữ, được đọc là Song thương? thọ phúc 雙 商 壽 福. Mặt này của ngọc giản được trang trí khá cầu kỳ bởi một hình rồng và một hình chim phượng lớn. Các chữ viết ở dạng cách điệu như cầu chúc. 

Tần Trang Tương Vương cầu thọ phúc cho 2 bên nào? Rất có thể nghĩa ở đây là đảm bảo sự lâu bền cho cả 2 bên Tần và Chu. Sau khi diệt Chu, Tần Vương không bạc đãi hay tận diệt con cháu vua Chu, mà vẫn ban cho Đông Chu Quân một vùng đất để thờ cúng. Lý do chính cho hành động này là 2 họ nước Chu và Tần vốn có quan hệ sâu xa.

Sử ký Tư Mã Thiên, Tần bản kỷ chép: Thái sử công bàn rằng: Tổ tiên của nhà Tần mang họ Doanh, về sau được phân phong, lấy nước làm họ… Song Tần vì tổ tiên là Tạo Phụ được phong ở Triệu thành nên mang họ Triệu.

Như vậy nhà Tần còn vốn mang họ Triệu. Tần Trang Tương Vương diệt Chu dưới thời thừa tướng Lã Bất Vi, với câu chuyện “buôn vua” nổi tiếng ở nước Triệu. Thực ra chuyện Tử Sở ở rể là ở đất Đông Chu, trong truyền thuyết về Trọng Thủy ở Việt Nam.Chính vì mối lương duyên sâu sắc của 2 bên Triệu Trọng Thủy và Thục Mỵ Châu mà Tần Trang Tương Vương khi xuất binh dù là đánh úp, nhưng vẫn muốn bảo vệ thọ phúc cho nhà Chu.

Còn một liên hệ nữa, là chuyện của Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Thanh Lãng (Bình Xuyên, Phú Thọ). Bà Khoan Hòa là vợ của vua Vệ Dương Vương nước Nam Việt nhưng được ngọc phả ghi là “dòng dõi của Thục An Dương Vương”. Dòng dõi Thục Vương lại là họ Triệu (Triệu Thị) thì phải là dòng dõi nhà Tần. 

Bà Triệu Thị Khoan Hòa sau đó có 5 người con tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương Ả Lã. Rất có thể họ Lã của Trưng Vương vốn cũng bắt đầu từ Tần tướng Lã Bất Vi thời Trọng Thủy, truyền qua thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt. Bản thân danh xưng nhà Triệu đối lập với nhà Hiếu (Tây Hán) cũng có ý muốn nhấn mạnh rằng nước Nam Việt là nối tiếp dòng đế vương của nhà Tần?Chiếc “móng rồng” của họ Tần Triệuliệu có phải đã được truyền cho nước Nam Việt của Triệu Quang Phục?

Ban thờ ngũ vị đại vương ở đền Thánh mẫu Thanh Lãng

Câu đối ở ban thờ 5 vị tướng ở Thanh Lãng, là các “đế tử” họ Triệu, con của bà Khoan Hòa:
徵氏多忠臣母之教也
蜀王有後裔神其盛乎
Trưng thị đa trung thần, mẫu chi giáo dã
Thục vương hữu hậu duệ, thần kỳ thịnh hồ.

Dịch nghĩa:
Họ Trưng nhiều trung thần, do mẫu dạy dỗ
Vua Thục có hậu duệ, thịnh thay ý thần.

Theo Phụ quốc Đại thần Đỗ Tế Công phu phụ Ngọc phả ở làng Mỹ Giang, nay là xã Tam Hiệp, Phúc Thọ, Hà Nội thì cha của Trưng Vương là Lạc tướng Phong Châu dòng dõi Hùng Định Vương. Hùng Định Vương đã được xác định chính là triều đại nhà Tần trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả, nên nhận định rằng Trưng Vương (hay một số tướng lĩnh thân cận của bà) là dòng dõi của nhà Tần lại càng trở nên khả tín.

Những tấm thẻ ngọc của Tần Vương trên đất Việt mang những thông điệp của đội quân Tần hùng mạnh hơn 2000 năm trước, từ việc Đền báo ơn vua, Trung hưng vương đạo, Mở rộng lãnh thổ, Thưởng phạt bình đẳng, Dùng mưu bất ngờ, Bảo vệ binh lực, Giữ gìn thọ phúc, là bằng chứng hiển hiện cho câu chuyện Trọng Thủy – Mỵ Châu, cũng như mối tương quan của nhà Triệu Nam Việt và khởi nghĩa của Trưng Vương với dòng dõi nhà Tần.

Những thẻ ngọc quân lệnh của Trọng Thủy

Theo quan niệm hiện nay, vào khoảng năm 217 TCN Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất lục quốc mới phát 50 vạn quân đánh chiếm Lĩnh Nam, đặt ra các quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng quận. Chữ viết theo lối tượng hình của văn hóa Trung Hoa từ đó mới được truyền vào đất Việt… Tuy nhiên, những khám phá khảo cổ gần đây lại cho những thông tin hoàn toàn khác về thời điểm có mặt của nhà Tần, cũng như sự xuất hiện của chữ viết sớm ở miền đất Bắc Việt ngày nay.

Chuông đồng Cốc Lếu

Một loạt các hiện vật đồ đồng Đông Sơn được tìm thấy ở vùng Bắc Việt có những dòng chữ tượng hình như trống đồng Cổ Loa, bình đồng Nghi Vệ, chuông đồng Cốc Lếu… Những chữ triện này cổ hơn loại chữ Tiểu triện mà Tần Thủy Hoàng đã cho dùng thống nhất văn tự trên toàn đế quốc. Các nhà khảo cổ học buộc phải thừa nhận rằng người Việt thời Đông Sơn đã có chữ viết và gọi đó là chữ “Nam Việt”, cho dù các hiện vật này có trước thời Nam Việt của nhà Triệu rất nhiều.

Cách đây vài năm, ở khu vực Sóc Sơn, Mê Linh khi đào móng nhà người dân địa phương đã phát hiện được hàng chục thanh đá ngọc màu nâu cam (cẩm thạch), màu xanh lục (ngọc bích) hay màu đen. Những tấm ngọc này có kích thước 28,5 x 8,5 cm. Bên trên những thanh ngọc có chạm hoa văn rồng, phượng, hổ phù và ghi những chữ tượng hình. Trên các thanh đều có đục 1 lỗ. Đây là dạng lệnh bài cổ vì ngay trên đó đã khắc chữ Lệnh 令 ở thể chữ tiểu triện. 

Bộ ngọc giản Tần Vương (Hiện vật Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt)

Cụ thể hơn nữa, có thanh ngọc giản màu đen (chất liệu bằng đá thạch anh) chạm nổi chữ Lệnh 令 và 2 dòng chữ tiểu triện là:

Xuất kỳ bất dụng 出 其 不 用

Bảo vệ binh hoang 保 衛 兵 荒

Dịch là: Xuất kỳ bất ý, bảo vệ binh lực.

Những dòng chữ này cho thấy rõ ràng đây là lệnh bài dùng trong quân đội.

Về niên đại của những thanh ngọc giản này rõ nhất là loại ở một mặt có dòng chữ: Lễ tín Tần Vương chi chủ 禮 信 秦 王 之 主, cũng được khắc bằng thể chữ Tiểu triện của thời Tần. Tức là những thanh ngọc giản này có niên đại tương đương với những tượng đất nung được phát hiện trong các lăng mộ của thời Tần bên Trung Quốc ngày nay.

Mặt sau của thanh ngọc giản được trang trí bằng một hình tròn biểu tượng của Ngũ hành và một mặt hổ phù. Bên dưới có 3 dòng chữ tiểu triện là:

Giáp Ngọ trung hưng 甲 午 中 興

Hành tẩu biến địa 行 走 徧 地

Chúng sinh bình đẳng 眾 生 平 等 

Ngọc giản có chữ: Giáp Ngọ trung hưng…

Đến đây cần giải thích ý nghĩa của những dòng chữ trên thanh ngọc giản này. Trước hết là về danh xưng “Tần Vương”. Danh xưng Vương bắt đầu được Chu Vũ Vương sử dụng khi thắng Trụ diệt Ân, lên ngôi thiên tử. Ý nghĩa của chữ Vương 王 là người làm chủ Tam tài: Trời Đất và Người. Chỉ có Thiên tử Chu mới được gọi là Vương. Còn những tên gọi Công, Hầu, Bá, Tử, Nam được dùng để phong cho các chư hầu của nhà Chu.

Tổ tiên nước Tần thời Tây Chu có thể kể từ Tạo Phụ, là người đánh xe cho Chu Mục Vương rong ruổi khắp nơi, sau nhờ giúp Chu Mục Vương lúc loạn mà được phong ở đất Triệu. Tới thời Chu Tuyên Vương lấy Tần Trọng làm đại phu để đánh dẹp Khuyển Nhung thì con cháu Tần bắt đầu được phong là tước Công. Tần Tương Công hộ tống Chu Bình Vương dời đô về Lạc Ấp, khởi đầu thời Đông Chu. Con cháu của Tần được phong các vùng đất phía Tây Kỳ Sơn và những nơi dẹp được Khuyển Nhung. Dưới thời Đông Chu, Tần Mục Công nổi lên là một trong số Xuân Thu Ngũ bá.

Tuy nhiên, suốt thời Tây Chu sang Xuân Thu, chưa hề có danh xưng “Tần Vương”. Sang thời Chiến Quốc, nhờ có biến pháp của Thương Ưởng mà nước Tần trở nên hùng mạnh. Vị vua Tần đầu tiên xưng Vương là Tần Huệ Văn Vương vào năm 325 TCN. Năm 325 TCN gọi theo can chi là năm Giáp Ngọ. Như vậy, câu Giáp Ngọ trung hưng trên chiếc ngọc giản Lễ tín Tần Vương là chỉ sự kiện Tần Huệ Văn xưng Vương, khởi đầu một thời đại mới mà Tần là chủ.

Tiếp sau đó Tần Huệ Văn Vương và Tần Võ Vương đã “hành tẩu biến địa”, tức là tung hoành quân đội đánh chiếm khắp nơi, từ giao chiến với Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, chiếm Thục, Nghĩa Cừ… Sang tới thời Tần Chiêu Tương Vương thì Tần trở thành nước mạnh nhất trong số thất hùng của thời Chiến Quốc. Sau khi tướng Tần là Bạch Khởi thắng nước Triệu ở trận Trường Bình thì thiên hạ đã sớm định về tay Tần Vương. Năm 256 TCN Tần Chiêu Tương Vương chiếm Tây Chu, thu cửu đỉnh mang về Tần. Còn Đông Chu sau đó bị diệt dưới thời Tần Trang Tương Vương bởi tướng quốc Lã Bất Vi.

Phả đồ Chu – Tần

Điểm qua lịch sử nước Tần ta thấy danh xưng Tần Vương chỉ có thể có từ năm 325 TCN đến năm 221 TCN là năm Tần Thủy Hoàng xưng đế. Đây cũng là niên đại cho những thanh Tần giản phát hiện được ở miền Bắc Việt Nam. Điều ngạc nhiên là những thanh ngọc giản Lễ tín Tần Vương chi chủ đã cho thấy rằng sự hiện diện trên đất Việt của nước Tần có trước khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi xưng đế. Nhà Tần đánh chiếm Việt rõ ràng không phải vào năm 217 TCN mà trước đó một quãng thời gian vài chục năm, vào thời Tần Chiêu Tương Vương hoặc Tần Trang Tương Vương. Chuyện này phải giải thích thế nào?

Trên một loại ngọc giản khác tìm thấy cùng với thanh Tần giản trên, có cùng kích thước, có đề 4 chữ tiểu triện: Đồ báo nhi thuyết 圖 報 而 說.  Dịch nghĩa là “Có ơn tất báo”. Một lần nữa, đây cũng là chuyện của nhà Tần. Đó là chuyện dưới thời Tần Mục Công, được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên như sau:

Quân Tấn đánh Mục Công, Mục Công bị thương. Lúc đó ba trăm người từng ăn thịt ngựa tốt dưới núi Kỳ Sơn ruổi ngựa xông vào quân Tấn. Quân Tấn bỏ vây, nên khiến Mục Công thoát hiểm, lại còn bắt sống vua Tấn. Ban đầu, Mục Công để mất con ngựa tốt, hơn ba trăm thổ dân dưới chân núi Kỳ Sơn cùng bắt được, giết ăn. Quan quân đuổi bắt, định xử theo luật. Mục Công nói: “Người quân tử không vì súc vật mà hại người. Ta nghe nói ăn thịt ngựa tốt mà không uống rượu sẽ tổn thương người”. Đoan ban rượu mà tha cho. Ba tră người nghe tin Tần đánh Tấn, đều xin theo. Họ đi theo, thấy Mục Công bị vây khốn, ai nấy đều xung phong cảm tử, để đền ơn tha tội ăn thịt ngựa vậy.

Ngọc giản có chữ:
Đồ báo nhi thuyết

Những tấm ngọc quân lệnh của Tần Vương tìm được ở miền Bắc Việt Nam đã hé lộ về một sự thật khác cho cuộc chiến Tần Việt trong thế kỷ 3 trước Công nguyên. Người đánh chiếm vùng đất Lạc ở miền Bắc Việt không phải là Tần Thủy Hoàng, mà là Tần Vương. Sử Việt gọi người này là Thục Vương, người đã chấm dứt nước Văn Lang của Hùng Vương năm 257 TCN. Đối chiếu với các sự kiện của nước Tần thì đây chính là thời điểm Tần Chiêu Tương Vương diệt nhà Chu, với vị vua cuối cùng là Chu Noãn Vương.

Sự kiện Tần (Thục) đánh Văn Lang được kể trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả vào đời Hùng Nghị Vương như sau:

Vua nước Thục từ xa nghe tin Trung Quốc không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ nước Nam có phép thần nên còn do dự chưa quyết. Bấy giờ chúa Phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái họ Hùng. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa Phụ đạo. Chúa Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị Vương. Vua thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục Vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Nghị Vương, nói: 

– Quân Thục từ phía Tây đến chỉ muốn bắt bộ chủ để truyền cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua.

Hùng Nghị Vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bắt được bộ chủ phụ đạo đem về Thục, gả công chúa cho, rồi nhường ngôi cho. Thục Vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị Vương, xin coi triều Nam là anh, triều Tây là em, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị Vương bằng lòng như thế. Từ đó triều Tây ngừng việc binh. 

Trang ngọc phả về Hùng Nghị Vương

Đây là chuyện Tần Chiêu Tương Vương chiếm đất Tây Chu, là vùng đất Âu (Ai Lao thiết Âu), uy hiếp Chu Noãn Vương, đoạt lấy đồ tế tự của thiên tử Chu (cửu đỉnh) mang về Tần năm 256 TCN. Còn sách Hoài Nam Tử ghi là chuyện Tần đánh Việt, giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Phần đất Đông Chu (đất Lạc) ở miền Bắc Việt sau đó cũng bị Tần chiếm nốt dưới thời Tần Trang Tương Vương năm 249 TCN. Như vậy bộ ngọc Tần giản là quân lệnh bài của nhà Tần từ quãng năm 249 TCN đến 221 TCN khi Tần Thủy Hoàng xưng đế.

Khảo cổ ở Bắc Việt đã cho thấy “Thục Vương” thực sự là từ vùng đất Tứ Xuyên mà đánh chiếm Hùng Vương ở Bắc Việt, do sự tương đồng các hiện vật (chủ yếu là kiếm trận) của 2 khu vực này. Thục Vương ở đây không phải là con cháu của nước Thục ở Tứ Xuyên, nước đã bị Tần diệt từ hàng chục năm trước (316 TCN). Thục Vương trong truyền thuyết Việt ở giai đoạn này là chỉ vua Tần.

Xem kỹ về cội nguồn thì nhà Tần vốn là con cháu của Bá Ích dưới thời Hạ Vũ, tức là cùng gốc với các vua Chu. Thậm chí tới thời Chu Hiển Vương khi nước Tần trở nên hùng mạnh, vua Chu còn trao cả việc tế tự Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương cho Tần Huệ Văn Công. Điều này chứng tỏ vua Chu và Tần có cùng nguồn gốc tổ tiên. Còn truyền thuyết Việt thì gọi Thục Vương, bộ chủ Ai Lao là dòng dõi hoàng đế đời trước của vua Hùng.

Rồng trên lệnh bài thời Tần

Vào thời Chu Mục Vương, tổ nhà Tần là Tạo Phụ được phân phong ở Triệu thành nên Tần có họ Triệu. Đây là một dữ kiện mới giúp giải mã vấn đề “Triệu Đà”, bố của Trọng Thủy trong truyền thuyết Việt. Nàng Mỵ Châu theo tên gọi là con gái vua Châu – Chu thì đã rõ. Còn Trọng Thủy mang họ Triệu, họ từ vị tổ nước Tần là Tạo Phụ. “Triệu Đà”, bố của Trọng Thủy, không phải là nhà Triệu nước Nam Việt lập ra sau khi nhà Tần sụp đổ. Trọng Thủy là Doanh Tử Sở – Tần Trang Tương Vương, nên những chiếc thẻ ngọc này chính là thẻ ngọc Trọng Thủy.

Những tấm ngọc giản của Tần Vương phát hiện trên vùng đất Việt đã đem lại một cách nhìn mới về giai đoạn bản lề trong sử Việt, đó là sự thực về nhà nước Văn Lang của vua Chu, nhà Thục họ Triệu của vua Tần Trọng Thủy.

Ngọc phả về đức Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Xuân Lãng

Ngọc phả được ghi trong bản khai thần tích thần sắc năm 1938 của Thôn Miêng Lương, làng Yên Lan, tổng Xuân Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên. 

Chùa Quảng Hựu (Thanh Lãng)

Hiệu ngài là Quốc mẫu Hoàng hậu Công chúa, húy là Khoan Hòa, tên gọi thường là đức Quốc mẫu.

Ngài là: Thiên thần.

Ngài vốn là dòng dõi vua Thục An Dương Vương, ngày sinh không biết, ngày hóa là ngày 11 tháng 11. Ngài hiển thánh về đời vua Trần Nhân Tôn và vua Trần Dụ Tôn.

Sự tích hiện có sách ngọc phả. Sách ngọc phả ấy từ Hồng Phúc nguyên niên, mạnh hạ cát nhật, Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn. Đến Cảnh Hưng nhị thập ngũ niên, trọng xuân cát nhật Quản giám Bách thần Tri điện Hùng Lĩnh Bá thần tái nguyên bản phụng tả.

Cứ theo trong ngọc phả sao diễn ra rằng:

Ngài vốn là dòng vua Thục An Dương Vương lấy cháu sáu đời vua Triệu Vũ Đế là vua Vệ Dương Vương. Nhưng gặp thời nhà Triệu thất quốc, bên Hán sai tướng là Lộ Bác Đức với Dương Bộc hai tướng đem quân sang đánh nhà Triệu, bắt sống vua Vệ Dương Vương về Hán. Nghe ngài là người nhan sắc phương phi, nhân gian tuyệt phẩm, lại sai quân muốn bắt đem về. Nhưng ngài lánh đi được, đến huyện Chu Diên, xã Thanh Lãng (tức là xã Yên lan, chùa Quảng Hựu). 

Ngài trú ở chùa ấy, nhưng nghĩ rằng phải lúc nhà vua mất nước, không lòng cấm tịch phong lưu, lâu đài phú quí mới cắt tóc làm người ni, dốc lòng niệm Phật, thú vị thiền lâm. Được một hai năm thanh nhàn tự tại, gặp lúc trời quang trăng sáng ra đón mát ở cửa gác chuông, rồi ra tắm mát ở cái giếng phía Đông chùa ấy. Khi về nằm nghỉ, đến nửa đêm mộng có một thần nhân, đầu đội mũ lông, mình mặc án hoa từ trên trời sa xuống đứng trước mặt ngài bảo rằng:

– Người là Hoàng vương hậu phu. Tôi là Áp thần bản thổ. Sao bây giờ mới biết nhau.

Ngài chợt tỉnh dậy mới biết rằng thần nhân lại hiếp. Trong lòng có khác. Đầy kỳ sinh được một bọc năm trứng, tục gọi là nhất bào ngũ noãn. Càng ngày càng lớn. Hương nhân lấy làm điềm lạ, được 90 ngày sinh hóa được 5 vị con giai. Ngài nhân lấy làm y như mộng trung sơ kiến mới đặt tên năm ông là Áp Lương. Kịp đến khi năm ông trưởng thành, tài sức hơn người, văn hay võ mạnh, có chí phù vương giúp nước. Nhưng đến bấy giờ là ngày mồng mười tháng mười một năm ấy, ngài tuổi 60. Ngài mất ở chính tẩm chùa ấy.

Năm ông con cùng người làng mấy đạo trang đem nghinh táng ngài ở xứ gò Minh Lương. Ba năm xong trở, gặp thời vua Đông Hán sai Tô Định sang làm Thái thú bên này. Tô Định là người tham tàn bạo ngược, giết hại nhân dân, các nơi dứt khổ. Bà Trưng phu nhân là người huyện Mê Linh, thực là nữ trung anh kiệt, quyết đoán sự cơ, tài nghề vũ dũng, muốn đem lại giang sơn nước nhà, thu được nữ tốt hai ba nghìn người, nhưng chưa tìm được người đàn ông thao lược ninh cơ. 

Bấy giờ năm vị con đức Thánh mẫu chúng con, cùng nhau họp tập được tướng tài quân sĩ hơn nghìn người ra yết kiến bà Trưng ở cửa sông Hát Giang. Bà Trưng trông thấy năm người đều là anh hùng kiêu dũng, nan đệ nan huynh, gươm đòng sáng quắc, quân mạnh tướng bền. Bà Trưng lấy làm mừng rõ, có thể giúp ta lấy lại được giang sơn. Nhân đặt yến đại hội thết đãi năm ông cùng quân sĩ. Hỏi rõ họ tên năm ông, bấy giờ mới phong một ông làm Triều Đình Áp Lương tướng quân. Một ông phong làm Giám Sát Nhung Vụ tướng quân. Một ông phong làm Điều Lương tướng quân chuyên vận xướng mễ. Một ông phong làm Cương Đoán tướng quân, hướng tiền đại lộ. 

Phong tước xong rồi, bấy giờ Bà Trưng mới di hịch cho các quận huyện châu trang động sách, kịp quan lang phụ đạo đều đem quân đến thề, cùng cố sức cần vương, đồng tâm báo quốc, dẹp yên Tô tặc, đều hưởng giàu sang.

Trong một tháng Bà Trưng thu được năm sáu vạn người, binh uy cả nước. Đánh được quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố các quận. Bà Trưng lại sai năm ông đem quân thủy lục đều tiến, thuyền kỵ song hành, đến thành Tô Định đánh nhau với giặc hơn mười trận, được thua chưa quyết. Các quân sĩ không quen thủy thổ chẳng chịu sương hàn. Nhiều người phải bệnh sâu sương. Quân không đi đánh được.

Áp Lương tướng quân bắt tìm lấy trứng chim vịt để làm thuốc, nhưng lấy toàn lòng đỏ đổ cho quân sĩ. Vì thế quân sĩ được khỏi cả. Trong quân reo sướng gọi Triều Đình Áp Lương là Nga Hoàng Đại vương. Quân sĩ gắng mạnh, một người địch được trăm người, đánh một trận Tô tặc cả thua, chết không biết bao nhiêu mà kể. Đuổi được Tô Định về Tàu đem lại Lĩnh Nam hơn 60 thành.

Bà Trưng mới lên ngôi làm vua, phong cho em là bà Trưng Nhị làm Bình Khôi công chúa. Bà Trưng lấy năm ông làm thủy ứng nghĩa kỳ, có công lao lớn. Nhân ngày trước cùng trong quân sở xưng gia ban cho năm ông đều được Đại vương hai chữ, đều có phong ấp truy tặng cho đức Quốc mẫu là Quốc mẫu Hoàng hậu Công chúa. Còn các tướng tá trở xuống đều được hành thưởng.

Vừa thời ấy gội tắm đức vua, đượm nhuần ơn thánh. Mới được ba năm, vua nhà Đông Hán lại sai Mã Viện, Lưu Long hai tướng đem 30 vạn quân sang đánh vào thành Lạng Sơn. Hơn 1 năm được thua chưa quyết. Bà Trưng nấp quân ở sông Tam Kỳ đánh lại không được. Bên Hán quân sĩ mạnh, thịnh thế không chống nổi, lui giữ ở Cấm Khê. Chẳng may quân sĩ vỡ tan. Hai Bà Trưng thế cô chết ở trong trận. Năm ông ở trong trùng vi đánh phá đem được thánh thể Hai Bà Trưng về chôn ở núi Hi Sơn, rồi lại đánh quân Hán chém được hơn hai trăm người, vừa đánh vừa chạy.

Tướng Hán thấy năm ông là người anh hùng kiêu dũng, muốn bắt sống đem về, truyền trong quân không được bắn tên vì có thế năm ông được thoát đến đêm chạy về đến bản ấp. Quân Hán theo ríp năm ông tiến lui đều khó, chạy ra xứ Cổ Rùa gần lăng đức Quốc mẫu, liệu không chống được, năm ông đều khấn rằng:

– Hoàng Thiên soi xét, chết rồi có thiêng được gặp Bà Trưng ở dưới Hoàng tuyền để giả cái ơn tri ngộ.

Đương ngày ấy là ngày 10 tháng 5. Khấn xong năm ông đều tự tận. Đến ngay mai mối đắp thành gò. Hương dân sửa lễ cúng tế. Được một hai tháng gà gáy chó cắn, nhân vật không được yên, mới dựng đền để thờ.

Rồi đến đời vua Trần Nhân Tôn, nhà Nguyên sai tướng Ô Mã Nhi đem quân sang đánh. Vua Trần cùng Hưng Quốc Công tự tướng đem quân đi đánh giặc Nguyên. Đi qua đền Quốc mẫu dừng quân ở đây, trông thấy có bốn chữ Quốc mẫu Triều Đình, đòi hương nhân ra hỏi. Hương nhân đều lấy thực tâu. Vua Trần khấn rằng:

– Nhất môn mẫu tự vạn cổ anh thanh. Tôn thần có thiêng giúp ta dẹp được giặc Nguyên. Dẹp yên rồi là sẽ trọng thưởng gia phong.

Đêm hôm ấy vua Trần mộng thấy một mẹ năm con bái yết tâu rằng:

– Chúng tôi là thành hoàng bản xứ. Xin âm phù để đánh giặc Nguyên, giả ơn triều đình, rửa giận ngày trước.

Rồi vua Trần tiến quân đến sông Bạch Đằng đánh giặc Nguyên. Giặc Nguyên cả thua. Vua Trần kính làm sách mệnh sắc phong là phúc thần. Cấp thêm cho ngân tiền bảo hương nhân sửa sang chốn đền thờ cho nghiêm cẩn.

Rồi đến đời vua Trần Dụ Tôn giời nắng không mưa. Vua Trần Dụ Tôn đi tuần thú bốn phương đi qua đền đức Quốc mẫu trông thấy miếu vũ nguy nga uy dung nghiễm nhược, mệnh Uy Tĩnh Thiền sư vào mật đảo, được một phút giời cả mưa to. Vua Trần mệnh đem bạch mễ thanh tiền tế tạ. Rồi thấy gạo trắng hóa làm gạo đen. Vua Trần lấy làm linh ứng, đều y tôn hiệu trước gia ban là Thượng đẳng phúc thần, cúng tế muôn đời, hương nhân dựng đền thờ cúng mãi mãi sau này.

Mâm vàng Âu Cơ và sách trời định phân thiên hạ

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể về sự ra đời của trăm người con trai của đức Hiền vương Lạc Long Quân và Âu Cơ:
Tới đầy tuần sinh nở, vào năm Canh Ngọ ngày 5 tháng 5, đúng ban ngày giờ Ngọ, mặt trời chiếu thẳng. Cái thai thần của Âu Cơ chuyển động, rồng mây đầy nhà, ánh sáng loé lên. Trong trướng, hoàng phi sinh ra một bọc ánh như ngọc trắng, hương lạ thơm nức. Sơ sinh ở núi Nghĩa Lĩnh, đất tổ Phong Thứu, dưới lọng ngọc ở khu núi đá bên đầm sen… Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện ngọc. Rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ… nói rằng:
– Bào ngọc trăm trứng, thần khí rạng thiêng, điềm rồng giáng sinh.
Thiên sứ báo cho Hiền Vương đặt bào ngọc lên chiếc mâm vàng, lệnh cho triều đình các tướng đến tề tựu ở ngôi chùa cổ ở Viễn Sơn, tức Từ Sơn Thiên Quang Hòa Thượng Thiền Thứu Lĩnh, đặt ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt.

Chùa Thiên Quang trên núi Hùng Nghĩa Lĩnh, nơi mâm vàng đựng bào ngọc nở ra trăm trai

Đầy 100 ngày sau khi bào ngọc nở ra trăm trai, có 8 vị tướng xưng là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Thượng Thiên Chư Phật Ngọc Đế sai xuống trợ giúp… Trời ban cho Hiền Vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một viên ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển sách trời, một chiếc thước ngọc, để trên mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện.
Các hoàng tử đã thành những người lớn, nhưng trong triều không có ai có thể phân biệt được trưởng thứ và tên gọi. Hiền Vương lập đàn cầu trời thì có một vị Tiên ông xuất hiện, cầm gậy trúc, rửa chân trên bàn đá ở bến sông Việt Trì. Vua cho mời Tiên ông vào hỏi chuyện và nhờ giúp cho việc đặt tên trăm người con trai.
Tiên ông nói: Vua có thành tâm, Lão bốc một quẻ trong Sách trời tính xem tiền định thế nào, để xác lập vương tử, cùng với tên gọi cho trăm người con, xem tướng trăm trai thì Vua sẽ cử được người tài lập làm con trưởng, phân định thứ bậc anh em, vị trí trái phải.
Tiên ông lấy bút viết ra, đặt trăm tên cho các thần tướng, đặt lên chiếc mâm vàng, phân định thứ bậc anh em. Trăm hoàng tử đến hội ở chính điện, mà nhận chữ đề tên, trong tên có cùng một tiếng. Một người là con trưởng, theo như lời định được lập làm Thái tử nối ngôi vua. Còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban.

Tranh vẽ Lão tiên ông bên bến Việt Trì

Trong sự tích bào ngọc của mẹ Âu Cơ nở ra trăm người con trai, trưởng thành và được phân thứ bậc thì luôn nhắc tới một chiếc “mâm vàng” (nguyên văn là “kim bàn”). Chiếc mâm này đã đựng bào ngọc đặt ở trên núi Nghĩa Lĩnh, rồi lại dùng để đựng các bảo khí trời ban, và sau đó dùng để ghi tên và thứ tự cho trăm hoàng tử. Chiếc mâm vàng này là thứ gì mà lại quan trọng đến vậy trong huyền sử lập quốc của người Việt?
Thật vô cùng bất ngờ khi nhận ra rằng, chiếc mâm vàng của Hiền Vương Âu Cơ là hình ảnh của một vật hoàn toàn có thật, mang ý nghĩa lớn lao như những dòng sử đầu tiên khi cha sinh mẹ đẻ, khai mở nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Một chiếc mâm vàng như vậy là một cổ vật từ thời Tây Chu, cách đây khoảng 3000 năm, tương đương với thời lập quốc Văn Lang.
Chiếc mâm bồng đúc bằng đồng, có 3 chân là hình 3 tượng người đang ngồi quỳ như hành lễ. Thành mâm phía bên ngoài được trang trí bằng các hoa văn rồng và họa tiết vân lôi tinh tế. Trong lòng mâm, trên nền vàng óng ánh của đồng cổ, là một bài minh văn đúc chìm, gồm 12 dòng, cộng tất cả là 144 chữ. Khoảng giữa thành của mâm có 2 dòng chữ chạy xung quanh mâm, mỗi dòng gồm 10 chữ Kim văn. Đây là dạng chữ Kim văn, được đúc chìm, sâu, còn khá sắc nét, thể hiện thư pháp tiêu biểu của thể chữ này vào thời kỳ Tây Chu.

Mâm vàng Âu Cơ (Hiện vật sưu tầm của Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt)

Bài minh văn trên mâm vàng này có thể được đọc như sau:
照曰乍文王初于政匍右上下武
右王征上下畯民永丕長伐 夷于
嗣憲左右用邦行王井宇天子
卲子文武天丐子祁上下 亟昊邦
宗亡司保命福年方亡不見荊
生高帥尹卲周兮荊惟征祁
揚祖在微武王哉微 使烈祖天
亡乃來見令周公舍寓于乙王
休祖辛子多光其祀文公得宇
公屯日曆弗抯習史夜 辟戊永
襲休命用乍祖文弋录生厥民
抯辟其年永心厥匹啖所用尹

王蚤壽用子子周孝单祀之
先作豆寶用永孫孫子子庀萬
Phiên âm và ngắt câu:
Chiếu viết: sạ Văn Vương sơ vu chính, bồ hữu thượng hạ. Võ hữu Vương chinh thượng hạ, tuấn dân vĩnh phi, trường phạt Di. Ư tự hiến, tả hữu dụng bang, hành vương tỉnh vũ. Thiên tử thiệu tử, văn võ thiên cái tử, kỳ thượng hạ cức. Hạo bang tông vong, ty bảo mệnh phúc niên, phương vong bất kiến, Kinh sinh cao suý, doãn Thiệu Chu hề Kinh duy chinh. Kỳ dương tổ tại Vi. Võ Vương tai Vi, sử liệt tổ thiên vong, nãi lai kiến, lệnh Chu Công xá ngụ, ư Ất Vương hưu. Tổ Tân tử đa, quang kỳ tự. Văn Công đắc vũ. Công truân nhật lịch, phất tra tập sử, dạ tịch mậu vĩnh, tập hưu mệnh dụng, sạ Tổ Văn dặc lục, sinh quyết dân, tra tịch kỳ niên, vĩnh tâm quyết thất, đạm sở dụng doãn.
Vương tảo thọ dụng, tử tử Chu hiếu đan tự chi.
Tiên tác đậu, bảo dụng vĩnh, tôn tôn tử tử phỉ vạn.

Dòng chữ Kim văn: Tiên tác đậu bảo dụng vĩnh tử tử tôn tôn phỉ vạn.

Dịch nghĩa:
Minh rằng: khi [Chu] Văn Vương lên nắm chính sự, gian nan để có được trên dưới. [Chu] Võ Vương chinh chiến khắp nơi, khuyến dân được lâu bền tốt đẹp, liên tục phạt Di. Khi lập con nối ngôi [Chu Thành Vương], có các đại thần tả hữu giúp trị, thi hành khuôn phép của Vương.
Thiên tử là một người cao cả. Trời ban cho các bậc văn võ xử lý công việc trên dưới.
Tông thất của Hạo bang [Thiếu Hạo là tổ của nhà Thương] mất, sau nhờ giữ mệnh phúc nên nhánh Kinh vẫn còn. Lại sinh ra việc dấy quân. Các quan Thiệu Chu chinh phạt Kinh.
Tốt đẹp thay tổ ở đất Vi. Võ Vương chiếm đất Vi, sai liệt tổ của nước đã mất đến gặp, [Võ Vương] lệnh cho Chu Công ân xá, cho dời đến vùng đất thờ của Ất Vương [Thiên Ất, tức Thành Thang]. Tổ Tân có nhiều con cháu, duy giữ việc tế tự. Văn Công nối nghiệp, ông vất vả ngày tháng, tìm hiểu học sử, phép tắc đầy đủ, kế nối điều lành. Sau đó Tổ Văn ghi chép lại, quyết vì dân sinh, làm thành phép tắc, năm đó bền lòng quyết hợp, lấy đó mà dùng để cai quản.
Vua sớm thọ. Con cháu nhà Chu dùng hiếu lễ tế tự.
Những chuyện trên được dùng để tạo ra chiếc mâm, làm đồ quý dùng lâu dài, cho con cháu vạn đời.

Bài Kim văn trong chiếc mâm vàng kể về giai đoạn lập triều của nhà Chu, từ khi Văn Vương khởi dựng, Võ Vương chinh phạt, yên định thiên hạ, đến Thành Vương cùng các đại thần Thiệu Công, Chu Công phụ tá, lập ra khuôn phép chế độ, bình định Kinh phương. 
Quân Kinh thời Chu Thành Vương thì không phải là Kinh Sở, mà là chỉ cuộc nổi loạn của Vũ Canh. Có Canh = Kinh. Đây cũng là dẫn chứng cho thấy, nước Sở vốn là địa bàn chính của nhà Ân Thương. Cuộc đụng độ giữa Chu và Ân được huyền sử Việt kể trong sự tích Thánh Dóng đánh giặc Ân. Nước Văn Lang, phía Bắc giáp Hồ Nam, chính là địa bàn của Kinh – Ân. Còn Thánh Dóng, không phải ai khác, là lão tiên ông “câu cá” bên sông Nhị, đã đăng đàn dùng sách trời và mâm vàng đặt tên cho trăm trai như Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả đã kể.
Người tạo ra chiếc mâm này là con cháu của nhà Ân Thương, được gọi là họ Vi. Khi Chu Võ Vương phạt Ân, đã triệu kiến Liệt tổ họ Vi đến gặp, rồi cho hưởng phong ở vùng đất nơi Thiên Ất Thành Thang đã khởi nghiệp lập Thương. Đến vị tổ tiếp theo của họ Vi tên là Tân, có nhiều con, giữ gìn việc tế tự. Sau đó vị tổ Văn (có lẽ là cha của người làm ra chiếc mâm này) ra sức học tập, ghi lại những dòng sử này vào chiếc mâm, dùng để cúng tế hiếu lễ với thiên tử Chu và truyền đời đời cho con cháu.
Lịch sử cho biếtt, Vi Tử Khải là anh em ruột của Trụ Vương. Chu Võ Vương diệt Trụ, vẫn tôn trọng các vị vua của triều đại trước, nên phong cho Vi Tử Khải ở đất Tống. Điều đáng nói là thông tin trên chiếc mâm cho biết rằng, vùng đất phong của họ Vi là vùng đất khởi nghiệp ban đầu của Thành Thang nhà Thương (“Ất Vương hưu”). Đất Tống do đó không phải ở miền Bắc Dương Tử, mà ở phía Nam, quãng tỉnh Quảng Đông ngày nay.
Những thông tin được ghi lại trên chiếc mâm vàng là nỗ lực ghi chép lịch sử rất sớm về thời kỳ nhà Chu lập quốc, phân phong chư hầu cho các đại công thần và cho con cháu các triều đại trước đó. Trong bài sử này, vị vua Chu cuối cùng được nhắc đến là Chu Thành Vương, nên ước đoán, chiếc mâm có bài minh văn này được tạo ra dưới thời vị vua Chu tiếp theo là Khang Vương (1020 TCN – 996 TCN).
Ở Trung Quốc, một chiếc mâm có chữ Kim văn tương tự đã được phát hiện, có tên là “Sử Tường bàn” (mâm Sử Tường) và được xếp là 1 trong số 64 bảo vật cấm mang ra khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, bài Kim văn trên mâm Sử Tường dài hơn, kể sự việc tới thời Chu Mục Vương, nên niên đại của nó sau chiếc mâm mô tả ở trên khoảng 60 năm. Ngoài ra, khác với mâm Sử Tường, chiếc mâm được mô tả ở đây có 3 chân hình tượng người, nên trong bài minh văn được thể hiện là chữ Đậu 豆 (mâm bồng), có vẽ nguyên cả 2 quai của mâm.

Hình người quỳ lễ là chân của chiếc mâm

Những bài minh văn trên mâm vàng đúng là những cuốn “sách trời”, chứa đựng lịch sử 3.000 năm trước, từ khi Hiền Vương Âu Cơ (Chu Văn Vương) mang nặng đẻ đau, gian nan khởi dựng nước Văn Lang, đến Hùng Quốc Vương (Chu Võ Vương) lên ngôi thiên tử, phân định thiên hạ, chia các anh em ở trăm nơi đầu núi góc biển làm chư hầu, cha con nối tiếp nhau, đời đời thế tập dòng họ và đất đai. Những dòng Kim văn đúc trên các đồng khí Thương Chu là những tấm bia hàng ngàn năm của lịch sử cổ đại, chứng tích cho thời kỳ xã hội người Việt chuyển mình từ chế độ thị tộc sang chế độ phong kiến, lập nên một thiên hạ rộng lớn bao trùm toàn cõi trời Đông.

Từ thần tích làng Yên Phú bàn về khởi nghĩa Trưng Vương thời Tây Hán và các vị thủy thần dòng Lạc Long Quân ven sông Hồng

Bài tham luận trình bày tại hội thảo “Sư bà Phương Dung với đạo pháp và dân tộc” do Viện nghiên cứu tôn giáo tổ chức tại Hà Nội ngày 7/4/2021.

Làng Yên Phú, xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội còn lưu giữ được một bản thần tích có nhan đề là: Phả chép về Một vị âm thần Thái hậu, Hai vị dương thần Đại vương triều Trưng Nữ Vương

Thần tích Yên Phú được Hàn lâm lễ viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn dưới thời nhà Lê, niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (1572). Cuốn thần phả hiện lưu giữ tại chùa Yên Phú là bản chép tay trên giấy dó, được viết bởi một vị đạo sĩ trong xã vào năm Thánh Thái thứ 17 (1906), ghi theo bản chính lưu của bộ Lại nhà Lê năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740), chỉ sửa có 7 chữ.

Nghiên cứu kỹ lưỡng bản thần phả này và đối chiếu với các di tích, sự tích còn truyền tụng cho phép thu nhận thêm nhiều thông tin, đặc biệt về diễn biến lịch sử và văn hóa nước ta thời kỳ những năm trước Công nguyên. Bài viết sau tập trung tham luận về hai vấn đề: 

– Thứ nhất là thời điểm, thân thế và vai trò của Bà Phương Dung trước và trong cuộc khởi nghĩa Trưng Vương từ thần tích địa phương trong liên hệ với các thần tích nơi khác cùng thời. 

– Thứ hai là 2 vị thủy thần xuất thế Trung Vũ và Đài Liệu là những vị thần đã được thờ phụng tại khu vực Thanh Trì từ trước trong mối liên hệ với tín ngưỡng Thủy thần Lạc Long Quân của cả khu vực, mà cụ thể là dọc sông Hồng nơi đất Thăng Long xưa. 

I.    SƯ BÀ PHƯƠNG DUNG VÀ KHỞI NGHĨA TRƯNG VƯƠNG

Thời điểm của khởi nghĩa Trưng Vương qua thần tích ở Yên Phú

Thần tích làng Yên Phú chép về một vị thần nữ (âm thần) là bà Phương Dung, quê ở đạo Sơn Nam Hạ, năm 16 tuổi đã xuất gia đi tu cửa Phật tại chùa Thanh Vân, thuộc đất làng Yên Phú ngày nay. Khi Trưng Nữ Vương phất cờ khởi nghĩa, sư bà Phương Dung cùng 2 người con nuôi đã theo Trưng Vương làm tướng, đánh đuổi Tô Định, lập công trạng lớn.

Khám tượng thờ Hoàng bà Phương Dung tại đình Yên Phú

Thần tích Yên Phú ghi: Thời đó, có người Tô Định đem binh đến cõi, xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương không người cứu giúp. Đến khi có người cháu gái họ Hùng trước đây, tên là Trắc, vốn bậc hào kiệt trong giới nữ, là bậc đại thánh thần trên trần thế, dậy khởi oai hùng, dẫn binh đến đánh.

Đây là một thông tin hết sức lạ vì theo chính sử hiện nay, Trưng Vương khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định vào năm 40 sau Công nguyên, dưới thời nhà Đông Hán. Còn thần tích ở Yên Phú lại kể Tô Định đem quân đến xâm chiếm nước Nam Việt của họ Triệu và Trưng Nữ Vương là dòng dõi các vua Hùng, đánh giặc Tô Định vào lúc này. Vị vua cuối cùng của nhà Triệu là Vệ Dương Vương, mất nước vào tay nhà Tây Hán năm 111 trước Công nguyên (TCN). Như thế thông tin của thần tích Yên Phú so với chính sử chênh lệch nhau tới 150 năm cho thời điểm của cuộc khởi nghĩa Trưng Vương.

Thần tích của Yên Phú không phải là trường hợp duy nhất nói về khả năng khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra dưới thời Tây Hán. Một di tích được ghi nhận là nơi Trưng Vương chiêu quân tụ nghĩa là chùa Bối Linh ở làng Lâu Thượng, nay là xã Trưng Vương của thành phố Việt Trì. Bản Lâu Thượng thần tích ngọc phả cổ truyền chép:

Triệu Đà được quốc gia mà lên ngôi, cha truyền con nối được 5 đời thánh vương, trước sau cộng 149 năm. Tới khi Vệ Dương Vương nối truyền chính thống, ở ngôi được 1 năm thì có Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Trăm họ điêu tàng, không người cứu giúp. Lúc bấy giờ có hai người cháu gái (thuộc chi trưởng đời thứ 24 của nhà Hùng), nàng cả là Ả Nương Công chúa, nàng hai là Bình Khôi Công chúa. Nàng cả húy là Trắc, nàng hai húy là Trong…

Còn cuốn ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh có tên Tản Lĩnh ngọc ký ở sách Tang Ma (Thanh Thủy, Phú Thọ) cũng có đoạn tương tự: [Triệu] Đà được quốc gia mà lên ngôi vào năm Bính Ngọ. Cha truyền con nối được 5 đời thánh vương. Trước sau cộng 149 năm. Tới khi Vệ Dương Vương nối truyền chính thống, ở ngôi được 1 năm thì có Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu sớm bại vong, không người cứu giúp. Cho tới khi có người chắt gái của Hùng Vương tên Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, bậc thánh thần trên trần thế, dấy nổi oai hùng, cất quân đến đánh.

Cũng như thần tích ở Yên Phú, ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh cho một thông tin tưởng chừng như không đúng: Trưng nữ, cháu gái cuar vua Hùng, khởi nghĩa ngay sau khi nhà Triệu nước Nam Việt bị diệt. Tuy nhiên, khi xem xét đầy đủ các di tích và ghi chép về cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương thì thấy đây là một thông tin hết sức mới nhưng trung thực và chính xác.

Tóm tắt các sự kiện lịch sử nước ta thời kỳ Công nguyên như sau. Hùng Vương lập nước Văn Lang truyền quốc tới thời Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Phán, hoặc bị quân Tần tấn công Lĩnh Nam chiếm đất nước. Một thời gian ngắn sau đó Triệu Đà, người Chân Định, nổi lên, đánh thắng vua Thục và quân Tần, lập ra nước Nam Việt. 

Nam Việt nhà Triệu truyền ngôi 5 đời đến Vệ Dương Vương lên kế vị mới được 1 năm thì nhà Tây Hán cử Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức tấn công. Kinh đô Phiên Ngung thất thủ. Thừa tướng Lữ Gia đưa vua Vệ Dương Vương và cả hoàng tộc lên thuyền chạy về phía Tây. Lữ Gia tử nạn ở cửa biển thuộc đất Nam Định, hoặc chạy về đến vùng Trúc Viên (Sài Sơn) thì thất thủ. Nhà Triệu diệt vong, không người cứu giúp từ đó. Đó là năm 111 TCN.

Sử cũng chép tiếp rằng, ở vùng đất Phong Châu lúc này nổ ra một cuộc khởi nghĩa quy mô lớn, do một thủ lĩnh gọi là Tây Vu Vương cầm đầu, chống lại quân đội của Tây Hán. Tây Vu Vương ban đầu rõ ràng đã khởi nghĩa thành công, xưng là Vương vùng đất Tây Vu, đóng đô thành ở Cổ Loa. Khởi nghĩa Tây Vu Vương sau vài năm thì bị dập tắt. Nhà Tây Hán lấy đất Nam Việt cũ chia thành 9 quận, 7 quận trong đó sau lập thành Giao Châu. Thạch Đái, Nhâm Diên, Tích Quang, Đặng Nhượng là những thái thú, thứ sử Giao Châu đầu tiên được sử sách nhắc tới, với công đức tốt đẹp là giáo hóa nhân dân, truyền bá chữ viết.

Năm 9 sau Công nguyên, Tây Hán bị một ngoại thích là Vương Mãng soán ngôi, đổi thành nhà Tân. Các thái thú và thứ sử Giao Châu vẫn tiếp tục làm quan cho Vương Mãng. Khi Đông Hán là Lưu Tú diệt nhà Tân, chiếm Giao Châu thì từ đó chế độ cai trị của Hán Quang Vũ ở Giao Châu trở nên vô cùng hà khắc. Từ đó dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40. 

Điểm lại suốt các sự kiện của thời kỳ này thì rõ ràng thấy, cuộc khởi nghĩa do con cháu Hùng Vương dấy lên ngay sau khi nhà Triệu Nam Việt mất thì phải là khởi nghĩa của Tây Vu Vương. Chính sử có rất ít ghi chép về Tây Vu Vương, nhưng các thần tích đã có thể bổ sung nhiều thông tin cho cuộc khởi nghĩa này khi nhận ra khởi nghĩa của Trưng Vương được chép là thông tin về khởi nghĩa của Tây Vu Vương thời Tây Hán trước Tây lịch.

Tại xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) có tục thờ Thánh Mẫu và năm anh em chàng Vịt. Câu chuyện này tóm tắt như sau. Bà Triệu Thị Khoan Hòa là vợ của Triệu Vệ Dương Vương, chạy lánh nạn về ở chùa Quảng Hựu tại Thanh Lãng. Một đêm bà nằm mơ thấy một người kỳ dị, sau đó sinh được 5 quả trứng, nở ra 5 anh em trai có tài bơi lội, nên gọi là 5 chàng Vịt. Các chàng trai này lớn lên đầu quân cho Trưng Vương, tham gia đánh trận trên sông Nguyệt Đức, phá Tô Định. Khi Nhị Trưng Vương hy sinh, 5 anh em chàng Vịt đã xông pha đem được thi hài của các nữ vương về táng ở Hy Cương.

Đền Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Thanh Lãng

Câu đối ở đền Thánh Mẫu tại Thanh Lãng:

青朗寺生神北同簡狄南同粤
白藤江破賊母為陽王子為徵

Thanh Lãng tự sinh thần, Bắc đồng Giản Địch Nam đồng Việt
Bạch Đằng giang phá tặc, mẫu vị Dương Vương tử vị Trưng.

Dịch:

Chùa Thanh Lãng sinh thần, Bắc tựa Giản Địch, Nam tựa Việt
Sông Bạch Đằng phá giặc, mẹ vì Dương Vương, con vì Trưng.

Giản Địch là tổ của nhà Thương trong tích “chim huyền điểu sinh Thương”. Vế đối đầu muốn nói tới việc bà Triệu Thị Khoan Hòa sinh trứng nở ra 5 chàng Vịt như bà Giản Địch, hay như truyền thuyết Việt về Âu Cơ sinh bọc trăm trứng.

Chỗ khó hiểu của câu đối trên là ở vế thứ hai. Thời Trưng Vương thì phá giặc trên “sông Bạch Đằng” lúc nào? Vấn đề quan trọng hơn, bà Triệu Thị Khoan Hòa là cung phi hay hoàng hậu của Triệu Vệ Dương Vương từ năm 111 TCN. Còn khởi nghĩa Hai Bà Trưng lại nổ ra vào năm 40 sau Công nguyên. Tính ra giữa 2 việc này có đến trên 150 năm. Làm sao có thể “mẹ vì Dương Vương, con vì Trưng” được?

Truyền tích về Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa và năm anh em chàng Vịt mang đến một suy nghĩ bất ngờ. Khởi nghĩa của Nhị Trưng Vương không phải xảy ra vào những năm 40 dưới thời Đông Hán, mà là ngay sau thất bại của nhà Triệu Nam Việt, thời Tây Hán. Ý tưởng này nghe thật vô lý, nhưng có lẽ lại là hợp lý nhất trong chuyện về Trưng Vương, giải đáp và gắn kết được phần lớn những di tích, truyền thuyết còn lại trong dân gian với sử sách.

GS. Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Đạo Thánh ở Việt Nam cho biết Thánh bà Ả Lã Nàng Đê là con gái của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt, đã giúp Trưng Vương đánh giặc Hán. Theo thần tích đình Đại Mỗ thuộc huyện Từ Liêm thì Ả Lã Nàng Đê là con gái tể tướng Lữ Gia quê ở Thiên Phúc, huyện An Sơn. Cuối thời Triệu, vua tôi nhà Hán muốn thôn tính Nam Việt, thừa tướng Lữ Gia đã chỉ huy quân sĩ giết giặc xâm lược là Hàn Thiên Thu. Mua chuộc không được, Hán Võ Đế sai tướng Bác Đức và Dương Phác đem quân xâm lược nước ta. Tướng Lữ Gia tổ chức kháng chiến chống lại, sau bị giặc bắt và sát hại. Ả Lã Nàng Đê đến tuổi trưởng thành, tiếp thu tinh thần của cha, đã đứng ra chiêu mộ dân binh, tụ nghĩa ở sông Hát cùng Hai Bà Trưng. Sau Ả Lã Nàng Đê được Hai Bà Trưng ban tước lộc và cho về lập ấp luyện quân ở cửa sông Đáy. Ba năm sau Mã Viện đem quân tiến đánh, Ả Lã Nàng Đê tham gia chiến đấu trận Lãng Bạc và Cấm Khê, cuối cùng bà trầm mình ở sông Hát.

Thần tích Đại Mỗ một lần nữa cho thấy mối liên quan trực tiếp giữa khởi nghĩa Trưng Vương với nhà Triệu Nam Việt, mà con gái của Thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu là Ả Lã, là một trong những người cầm đầu của cuộc nổi dậy ở Phong Châu thời Tây Hán. Ả Lã là vị thần được thờ ở nhiều nơi nhất trong số các nữ tướng thời Trưng Vương. Thậm chí ở làng Nại Xá (xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội), là miếu thờ ông Thi Sách, thần tích còn cho biết Trưng Vương có tên thời con gái là Ả Lã Nàng Đê.

Ban thờ Triệu Mỵ Nương và bà Phạm Tĩnh ở chùa Nôm

Ở Hưng Yên có đình Đại Đồng (Văn Lâm) hay còn gọi là đình Nôm, thờ vị thành hoàng là đức thánh Tam Giang thời Hai Bà Trưng. Đặc biệt là vị đại tướng của Trưng Vương này theo thần tích lại lấy vợ là cháu gái Triệu Đà. Hiện đình Nôm thờ đức thánh Tam Giang, còn bà mẹ Phạm Tĩnh và vợ ông là Triệu Mỵ Nương được thờ tại chùa Nôm.

Ở Hưng Yên còn một di tích là đình và đền thôn Thượng Bùi ở xã Trung Hòa, Yên Mỹ. Thần tích kể về vị tướng thống lĩnh nội vệ của Trưng Vương là Nguyệt Nga công chúa, nhưng bố của Nguyệt Nga là Phạm Cầu, làm đến chức Thái phó ở đời Triệu Ai Vương. 

Một trong những nữ tướng nổi danh nhất của Hai Bà Trưng là Thánh Thiên công chúa, nay còn đền thờ ở thôn Ngọc Lâm (Tân Mỹ, TP. Bắc Giang). Thần tích đền Ngọc Lâm cho biết thân phụ của Thánh Thiên là Nguyễn Huyến, vốn là một vị quan nhà Triệu ở Kinh Môn, Hải Dương. Sau khi cha mất Thánh Thiên đã cùng với cậu của mình khởi nghĩa ở vùng Yên Dũng – Bắc Giang, sau đó về tụ nghĩa với Hai Bà Trưng.

Chưa thể khảo sát hết các thần tích về các vị tướng thời Hai Bà Trưng mà lại có liên quan trực tiếp đến nhà Triệu Nam Việt, nhưng vài ví dụ ở trên cũng đã đủ để khẳng định, tại miền Bắc Việt đã có một cuộc khởi nghĩa nổ ra dưới thời Tây Hán, mà người cầm đầu là con cháu của họ Lữ của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu. Thư tịch Trung Hoa gọi là khởi nghĩa của Tây Vu Vương. Còn các thần tích ngọc phả của Việt Nam gọi là khởi nghĩa của Trưng Vương. Thời điểm nổ ra cuộc khởi nghĩa này khoảng năm 110 trước Công nguyên và kéo dài nhiều năm sau đó.

Vai trò của Hoàng bà Phương Dung trong khởi nghĩa Trưng Vương

Làng Yên Phú còn lưu giữ được 23 sắc phong của thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Trong đó có 18 sắc phong thời Lê từ niên hiệu Dương Hòa thứ 5 (1639) đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783) sắc cho Hoàng bà Phương Dung.5 sắc phong thời Nguyễn từ niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853) đến niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) cho 2 vị tôn thần Trung Vũ và Đài Liệu.

Theo sắc phong sớm nhất là sắc phong năm Dương Hòa thứ 5 (1639) thì nguyên tên gọi của bà Phương Dung là: Khâm từ Hoàng Thái hậu Hoàng bà Thái phó Tả giai dự hiến Vương thượng vị. Tên gọi này được duy trì trong tất cả các sắc phong về sau cho đến hết thời Lê. Điều rõ ràng rằng tên gọi trên không phải là những “mĩ tự” được sắc phong gia tặng cho thần sau khi hóa, mà là chức vị của bà Phương Dung lúc còn sống.

Thần tích Yên Phú chỉ ghi bà Phương Dung tham gia khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, được phong là Công chúa. Sau khi đánh đuổi được giặc thì bà cùng với 2 người con nuôi được ban phong trở về nơi cư trú. Tuy nhiên, sắc phong lưu giữ tại Yên Phú cho biết bà Phương Dung là Hoàng Thái hậu – Hoàng bà Thái phó – Tả giai dự hiến – Vương thượng vị. Cụ thể về ý nghĩa của những chức sắc này xin được bàn dưới đây.

Hàng loạt từ “Hoàng Thái hậu”, “Hoàng bà”, “Vương thượng vị” trong sắc phong cho thấy bà Phương Dung là người trong hoàng tộc của cuộc khởi nghĩa Trưng Vương. Như phần trên đã phân tích, hoàng tộc của Trưng Vương lúc này là người của 2 họ Triệu (của vua Nam Việt) và họ Lữ (của thừa tướng Lữ Gia). Thần tích Yên Phú cũng có nhan đề: “Phả chép về Một vị âm thần Thái hậu”, càng khẳng định hơn vị trí trong hoàng tộc Trưng Vương của bà Phương Dung.

Sắc phong ở Yên Phú cho bà Phương Dung cho biết bà là Thái phó, Tả giai dự hiến, Vương thượng vị. Thái phó là chức vị thứ nhì trong hàng Tam công, gồm Thái sư, Thái phó, Thái bảo thời phong kiến. “Tả giai dự hiến” cũng là một chức vụ rất cao trong triều đình, tương đương với Tả thừa tướng, là một trong những rường cột của nước nhà (ý của chữ “giai”) và tham dự vào chính sự quốc gia (dự hiến). Vị trí “tả giai” là vị trí còn quan trọng hơn “hữu giai”, vì theo thứ tự xưa tả là vị trí cao hơn “hữu”. “Vương thượng vị” có thể cũng chỉ chức vụ đứng vào hàng đầu trong triều đình, như chức Thượng công.

Theo sử sách thì Trưng Vương sau khi đánh đuổi được Tô Định thì lên ngôi xưng vương, cai quản đất nước trong ba năm. Khi đã lên ngôi xưng vương thì chắc chắn đã phải thiết lập triều đình một cách quy củ có trên dưới. Với thân phận là người trong hoàng thất, có công lớn trong cuộc khởi nghĩa dẹp giặc, bà Phương Dung đã giữ một vị trí tương đương với Tướng quốc, đứng đầu văn võ bá quan trong triều đình Trưng Vương.

Điều đặc biệt khác rút ra được khi nghiên cứu các sắc phong cho Thái hậu Phương Dung là trong tên phong trên sắc ngoài bà Phương Dung còn có 2 người nữa. Đó là:

–    Trương thị công hầu Thượng phẩm phán thú hầu Điều Quý Công 

–    Điều Quý Nương.

Cụm từ “Trương thị” – họ Trương cho thấy đây không phải là tên gọi hay mĩ tự được phong, mà là tên riêng chỉ người. Trong khi đó, thần tích Yên Phú cho biết: 

Ở làng Lưu Hàm, huyện Thượng Hiền, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam Hạ có ông Trương Công Điều (tên húy là Điều) là người được kế thừa tập ấm, lấy vợ là Phùng Thị, tên húy là Huệ, vốn là người cùng quận, dòng dõi trâm anh nức tiếng đã lâu, cũng là chỗ môn đăng hậu đối. Ông bà đã sinh mấy người con trai, sau này sinh thêm con gái đặt tên là Phương Dung.”

Theo thần tích bố của bà Phương Dung có tên là Trương công Điều, mẹ là Phùng thị Huệ. Rõ ràng, tên trên sắc phong chính là tên bố và mẹ của bà Phương Dung. Trong đó ông Trương công Điều có tước phong là “Thượng phẩm phán thú hầu”. Tước “hầu” là một tước vị khá lớn, chỉ sau tước “công” trong bộ máy phong kiến xưa. Chữ phán 判 chỉ sự xét xử. Chữ thú ở sắc phong ghi là 獸. Tuy nhiên, khả năng phải là chữ 守với nghĩa là coi giữ thì mới hợp lý. “Thượng phẩm phán thú hầu” có thể hiểu là vị hầu tước đứng đầu phụ trách việc xét xử trong triều đình, hay ngày nay nôm na gọi là “Thẩm phán tòa án tối cao”.

Sắc phong thời Lê ở Yên Phú như vậy phong tặng mĩ tự không chỉ cho Hoàng bà Phương Dung mà còn cho bố và mẹ của bà. Mĩ tự dài nhất phong cho ông Trương công là trong sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783): Trương thị công hầu Thượng phẩm Phán thú Anh hùng Vũ dũng Cương nghị Trung chính Linh thông Bác đạt Điều Quý Công. Mĩ tự này là những mĩ tự dùng phong tặng cho một vị quan võ.

Mẹ của bà Phương Dung được sắc phong gọi theo tên của chồng là Điều Quý Nương. Mĩ tự dài nhất được phong cho bà mẹ là trong sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783): Phù tộ Hợp nghi Đoan mục Gia huệ Thuận mỹ Điều Quý Nương.

Việc sắc phong cho cả bố và mẹ của Hoàng bà Phương Dung càng củng cố thêm giả thuyết rằng bà Phương Dung có xuất thân là người trong hoàng tộc. Rất có thể ông Trương công Điều, một vị quan lớn trong triều đình, là người trong họ với Trưng Vương (có liên hệ Trương – Trưng).

Về nơi thờ Hoàng bà Phương Dung, ở Yên Phú trong đình làng có khám thờ và tượng của bà. Bên cạnh đình còn có một phủ bà, trong cung thờ Hoàng bà Phương Dung với tượng khá đẹp. Phủ này tuy nhiên đã bị “tứ phủ hóa” thành miếu Hai cô.

Cung thờ Thánh mẫu Phương Dung ở Phủ Bà (miếu Hai cô)

Như vậy, qua phân tích các tên gọi trong sắc phong ở Yên Phú có thể nhận định Thái hậu Phương Dung vốn là người trong vương thất của nhà Triệu nước Nam Việt. Khi Nam Việt bị nhà Tây Hán tấn công, bà Phương Dung đã về vùng đất Thanh Trì đi tu ẩn mình ở ngôi chùa cổ Thanh Vân, chờ cơ hội báo quốc. Đến khi Trưng nữ phất cờ khởi nghĩa ở đất Tây Vu – Phong Châu, bà Phương Dung lại hội quân tham gia cùng với Trưng Vương và trở thành một trong những đại thần bậc nhất của Trưng triều. Lịch sử thật sự của cuộc khởi nghĩa của hậu quân nước Nam Việt đã được ẩn giấu trong các di tích, sắc phong, tín ngưỡng của người dân Việt trên khắp vùng miền Bắc Việt ngày nay.

II.    HAI VỊ THỦY THẦN Ở YÊN PHÚ TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN RỒNG LINH LANG 

Thần tích Yên Phú kể, sư bà Phương Dung lúc tu ở chùa Thanh Vân (Yên Phú, Thanh Trì) đêm nằm mơ thấy có Thủy quan báo mộng, sáng ra sông Tô Lịch nhặt được 2 quả trứng, đem về chùa nở thành 2 vị thủy thần đầu người thân rắn. Hai vị thủy thần nói với các phụ lão trong làng rằng:

Anh em chúng ta vốn là thủy thần mà các ông thờ phụng lâu nay, một người tên là Trung Vũ, một người tên là Đài Liệu. Nay phụng mệnh Thiên đình giáng sinh để giúp đỡ cho đất nước.

2 vị thủy thần xuất thế Trung Vũ và Đài Liệu là những vị thần đã được thờ phụng tại khu vực Thanh Trì từ lâu, trước thời Trưng Vương. Trước thời Trưng Vương tức là thời kỳ Hùng Vương, mà bản thân Trưng nữ là cháu gái dòng dõi của của vua Hùng. 

Khám tượng thờ Trung Vũ và Đài Liệu

Ở phần mở đầu của thần tích Yên Phú, cũng như trong các ngọc phả thời Hùng Vương, đều ghi chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra trăm trai, rồi chia 50 con theo cha xuống biển là Thủy thần, cai quản nguồn sông, góc biển. 50 con theo mẹ về núi làm Sơn thần, cai quản các ngọn núi và ruộng đồng. Như vậy, các vị “thủy thần” trong các thần tích thực ra chính là những người con đất Việt đã theo cha Rồng Lạc Long Quân xuống khai phá, cai quản vùng sông biển. Đây hoàn toàn không phải là các “nhiên thần” (thần có nguồn gốc từ các vật thể tự nhiên), mà là nhân vật lịch sử thực sự đã được “thần thánh hóa” hoặc là những hình tượng đại diện cho bộ phận người Việt đã tiến ra miền ven biển Đông của thời mở nước.

Đình Yên Phú

Trưng Nữ Vương khi phất cờ khởi nghĩa đã lập tế đàn cầu khấn bách thần tại cửa sông Hát Môn, đọc lời thề trừ tàn diệt giặc, khôi phục tông miếu, cứu vớt nhân dân, nguyện mong thần linh chứng giám. Khi đó, hai vị thủy thần Trung Vũ và Đài Liệu cùng với mẹ nuôi là sư bà Phương Dung đã đến tụ quân với Trưng Vương như một sự ứng nghiệm của thần linh. Hai vị được phong là Tả, Hữu tướng quân, dẫn binh đánh đuổi Tô Định. Đại công cáo thành, hai thần trở về bản quán ở Thanh Trì, xây sửa lại miếu điện…

Đôi câu đối ở nghi môn đình Yên Phú:

二氣良能扶國攻勳千古仰
一誠可格庇民事業萬年芳

Nhị khí lương năng, phù quốc công huân thiên cổ ngưỡng
Nhất thành khả cách, tí dân sự nghiệp vạn niên phương.

Dịch nghĩa:

Hai khí tốt lành, công danh giúp nước nghìn năm ngưỡng
Một lòng cảm cách, sự nghiệp hộ dân vạn thế thơm.

Bên cạnh công lao đánh giặc, đúng với vai trò của “Thủy thần”, hai vị Trung Vũ và Đài Liệu còn có công cầu mưa cứu hạn, được nhân dân trong vùng Thanh Trì hết sức kính phục. Sự tích truyền khẩu ở Yên Phú (được chép trong bản khai thần tích – thần sắc năm 1938 của làng Yên Phú) còn kể, khi đê ở Giầy Kẻ bị sạt vỡ, 2 vị đã hóa thân thành 2 ông rắn nằm ngăn nước để dân đắp, hộ được đê. Lúc hộ đê 1 ông bị đứt một tí đuôi, nên có hèm là Cụt.

Đê Kẻ Giầy được truyền khẩu là đê sông Hồng ở vùng Yên Phụ. Thông tin này là một đầu mối quan trọng để lần lại gốc tích và ý nghĩa lịch sử của nhị vị thủy thần của làng Yên Phú.

Khảo sát khu vực Yên Phụ thì những vị thủy thần đã hộ đê Yên Phụ là những vị thần được phong xung quanh hồ Tây. Trong số đó, có sự tích 2 vị thủy thần ở làng Hồ Khẩu là rất tương đồng với thần tích ở Yên Phú. Thần tích các vị nam thần làng Hồ Khẩu như sau:

“Xưa, vào đời Hùng Vương, ở động Đản Thánh, châu Bố Chính có ông Lê Quốc Công húy là Tín Phệ, làm quan trong triều…Ông cùng với phu nhân cầu tự ở đền Đông Hải Vương. Một hôm phu nhân du chơi Hồ Tây, thấy một con cá chép vẩy đỏ lấp lánh, đùa rỡn sóng nước. Trong lòng cảm động mà có thai. Đến khi mang thai đủ tháng, nằm mơ thấy có hai người mũ áo chỉnh tề, tới chắp tay nói rằng:

–  Chúng thần là ở bộ Lễ Long cung, vâng sắc mệnh đầu thai.

Phu nhân giật mình tỉnh giấc, bỗng thấy trời đất mù mịt, mưa gió ập tới, trong phòng hương thơm tỏa khắp, mây lành rực rỡ, sinh hạ được một bọc hai người con trai.

Ông liền theo giấc mộng đặt tên cho người con trưởng là Cống Lễ, người con thứ là Cá Lễ. Cống Lễ sinh ra đã cao 9 thước, tướng mạo đường hoàng. Cá Lễ sinh ra hàm én râu hổ, tay dài quá gối. Đều là bậc anh hùng cái thế, dũng lược hơn người, tài năng xuất chúng, sức nâng đỉnh bạt núi.

Duệ Vương lên ngôi, xuống chiếu tìm người có học vấn quảng bác, văn võ toàn tài. Hai ông liền ra ứng tuyển. Vua thấy nơi gần hai ông đứng có gió mát thổi quanh người. Vua biết là thủy thần xuất thế, bèn cùng cho nhận chức thị tòng.

Bấy giờ… Thục Vương bèn đem quân sang xâm chiếm. Vua bèn lệnh cho hai ông chỉ huy thủy quân (ông Cống Lễ làm Tả chưởng quản, ông Cá Lễ làm Hữu chưởng quản), lãnh ấn đại tướng quân ra sông Bạch Đằng nghênh địch…

Ngày khải hoàn, thuyền đến bên sông Tô Lịch, chợt trời đất tối sầm, gió thổi sóng cuồn cuộn, ánh cầu vồng đỏ như thép luyện từ trên trời chiếu thẳng vào thuyền. Hai ông bèn buộc lại mũ đai, hướng về cửa thành bái mệnh. Trong chốc lát, bay lên trời mà hóa…

Vào những năm Vĩnh Thọ triều nhà Lê, vỡ đê phường Yên Phụ. Cứ đắp lại đến đâu lại bị nước đánh trôi đến đó. Triều đình sai quan đến đền của hai vương cầu đảo. Lũ lụt mới tạm dừng. Bèn gia phong hai chữ Hiển ứng Uy linh.” 

2 vị thủy thần sinh ra có báo mộng hình cá chép đỏ, sinh cùng một bọc trứng, tướng mạo dị thường, khi đánh giặc được phong làm Tả Hữu chưởng quản, khi hóa về sông Tô Lịch, hiển linh thời Lê hộ đê Yên Phụ. Những chi tiết này hoàn toàn khớp với 2 vị thủy thần Trung Vũ và Đài Liệu ở làng Yên Phú.

Các vị thủy thần Hồ Tây theo ghi chép của các thần tích từng làng ven hồ thì đã có nhiều lần giáng thế. Như tại đình Tây Hồ, địa phương đã có nhận định: Uy Linh Lang là thủy thần là con trưởng của Lạc Long Quân theo cha xuống biển trấn trị khai thác sông biển lãnh đạo muôn dân xây dựng cuộc sống phồn thịnh. Ngay từ đầu thời Hùng Vương, Thần đã hóa thành bảy con rồng bay lên trời; làng Nhật Chiêu đã trồng bảy cây gạo để ghi dấu sự kiện này. Đình ấp Tây Hồ xưa kia chính là đền thờ Ngài.

Đến thời Hùng Vương thứ 18, Thần lại đầu thai làm con Lạc Hầu Lê Quốc Tín và bà Thục Nương, người phường Hồ Khẩu là Cống Lễ và Cá Lễ. Hai ông được vua Hùng thứ 18 phong là Tả Hữu chưởng quan chỉ huy giúp nhà vua dẹp giặc. Sau đó hóa đi về Thủy Quốc, nhà vua nhớ công ơn hai ông ban cho sắc phong, lập đền thờ nay là đền Vệ Quốc và đền Dực Thánh thuộc phường Bưởi.

Đến thời Lý Nam Đế thần nhân hóa thành Bảo Trung, Minh Khiết để giúp vua chống giặc ngoại xâm, trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa nên Châu Xuyên Bảo gồm các làng: Nội Châu, Ngoại Châu, Vạn Châu, Xuyên Châu thuộc phường Tứ Liên đều có đình để phụng thờ.

Thời Lý thần nhân hóa thành Thái tử Hoàng Lang con vua Lý Thái Tông giúp vua đánh giặc Chiêm Thành. Năm Đinh Tỵ Thái tử lại giúp vua Lý Thánh Tông đánh bại quân Tống tại sông Phả Lại và sông Cầu, đất nước trở lại thanh bình, Quốc gia hưng thịnh.Ngày 12 tháng 2 âm lịch, Thái tử không bệnh mà hóa, có thuyết lại nói Thái Tử bị bệnh đậu mùa rồi hóa thành con rắn khổng lồ chui xuống hồ Tây. Nhà vua biết tin vô cùng thương tiếc phong là Linh Lang đại vương cho lập đền thờ ở Voi Phục.

Thời Trần thần nhân hóa thành Hoàng tử thứ 7 con vua Trần Nhân Tông để giúp vua đánh giặc Chiêm Thành và giặc Nguyên xâm lược. Sau khi khải hoàn trở về Hoàng tử không nhận tước thưởng lui về tu thiền ở chùa Vân Hồ. Triều đình luận công phong thưởng phong là Dâm Đàm Đại Vương được thờ ở đình Tây Hồ, sau đó là các đình Nhật Tân, Yên Phụ, Yên Trì.

Vị trí một số nơi thờ thủy thần Uy Linh Lang ven Thăng Long – Hà Nội

Vị thần Dâm Đàm Đại vương (thủy thần Hồ Tây) là Uy Linh Lang, được thờ ở các làng Yên Phụ, Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân, là vị thủy thần trong dòng Lạc Long Quân đã có công đánh giặc và hộ đê Yên Phụ. Sự tích kể Uy Linh Lang sinh ra trong bọc trứng, nở thành 7 con rồng bay trên sông Nhị ở điện Nhật Chiêu, đánh giặc rồi hóa thần ở làng Yên Phụ.

Ngoài khu vực hồ Tây, cả dải sông Hồng từ Nhật Tân đến Lý Nhân (Hà Nam) rải rác có nhiều đền thờ Uy Linh Lang. Đình Thanh Trì là đình của làng Thanh Trì, trung tâm của huyện Thanh Trì xưa, cũng thờ Uy Linh Lang. Hay đình đền Lưu Phái (xã Ngũ Hiệp) cùng huyện Thanh Trì cũng là nơi thờ Uy Linh Lang. Thanh Trì xưa vốn có tên là Thanh Đàm, hay từ xa xưa là Long Đàm. Đây là đầm rồng, nơi có vị Rồng Uy Linh Lang làm thần chủ.

Nơi thờ Uy Linh Lang bên sông Hồng gần với làng Yên Phú là làng Xâm Dương (xã Đại Lộ) và làng Xâm Hồ (xã Vân Tảo) nay thuộc huyện Thường Tín. Đây là những di tích nằm trong khu vực tín ngưỡng thờ của Thoải phủ với đền Dầm là trung tâm thờ Mẫu Thoải nằm ở Xâm Dương. Mẫu Thoải được biết là vợ của vua Kinh Dương Vương, có tên là Xích Lân Long Nữ Động Đình Thủy Tinh Công chúa. Bà là người sinh ra Lạc Long Quân. 

Có thể thấy hệ thống thờ các thủy thần gắn với sự tích của Uy Linh Lang từ thời Lạc Long Quân và Long Nữ Động Đình nằm ven sông Hồng ở đoạn qua Thăng Long (Hà Nội). Đây là một dẫn chứng khác bổ sung cho lời chép trong các thần tích và ngọc phả rằng, các Thủy thần là dòng những người con đã theo Lạc Long Quân đi cai quản vùng sông biển. Những vị thủy thần này do đó được hình tượng hóa trong hình dáng của Rồng (thân rắn có vảy…) với nhiều lần giáng sinh ở các triều đại khác nhau.
Đôi câu đối cổ ở đình Yên Phú ca ngợi các vị thần thờ tại đây:

降生持近玄王蹟
掃患相傳夏禹功

Giáng sinh trì cận Huyền Vương tích
Tảo hoạn tương truyền Hạ Vũ công.

Dịch nghĩa:

Giáng sinh gần với tích Huyền Vương
Trừ nạn tương truyền công Hạ Vũ.
 

Tiền tế đình Yên Phú và đôi câu đối cổ

Vế đối đầu so sánh chuyện 2 vị Trung Vũ và Đài Liệu giáng sinh trong trứng, có đầu người thân rắn, mình có vảy, giống như sự tích Huyền Đế Chuyên Húc hóa thành “ngư phụ” được ghi trong Sơn Hải Kinh – Đại Hoang Tây Kinh. Vế đối sau nói tới công lao hộ đê giúp dân, sánh với công nghiệp của vua Đại Vũ nhà Hạ trong cổ sử Trung Hoa.

Như vậy, hai vị là Thủy thần tức là dòng dõi Lạc Long Quân, mở cõi nơi đất Thăng Long vùng ven bờ sông Nhị xưa, qua ngàn năm vẫn được phản ánh trong tín ngưỡng văn hóa, cũng như ghi chép lại trong các thần tích, hương khói thờ phụng ở đình chùa đền miếu. Hai vị là thần bản thổ linh ứng chống ngoại xâm và lũ lụt đi cùng chiều dài lịch sử dân tộc hàng ngàn năm. Cũng như rất nhiều vị thần thành hoàng làng khác trên cả miền đất cổ, họ đều là những bậc tiền nhân có công lao mở đất, phù trợ muôn đời cho con cháu, bao đời nay vẫn được ngưỡng vọng phụng thờ./.

Linh thần của kim thạch

Hùng Vương Thánh tổ ngọc phả kể người cầm đầu quân đội nhà Ân kéo sang nước ta là Thạch Linh thần tướng. Trận chiến giữa Thánh Dóng với Thạch Linh thần tướng diễn ra dưới chân núi Châu Sơn (núi Vũ Ninh) và tướng Ân đã tử trận.

Trong hội Dóng làng Phù Đổng, có bài hát:

Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương

Ân sai hai tám tướng cường nữ nhung

Xâm cương cậy thế khoe hùng

Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh.

Bài ca dao và lễ hội Phù Đổng cho biết, tướng Ân là nữ. Vậy Thạch Linh thần tướng ở núi Vũ Ninh cũng chính là nữ tướng Ân. 

Thời nhà Ân các nữ tướng cầm quân ra trận cũng thường cũng là vợ vua Ân. Điển hình là nữ tướng Phụ Hảo nổi tiếng dưới thời Ân Vũ Đinh đã cầm quân đánh các nước như Khương Phương, Ba Phương, Thổ Phương…

(Nhân đây bàn thêm, sử ghi Vũ Đinh đánh nước Quỷ Phương, nhưng lại ghi Phụ Hảo đánh nước Khương Phương. Như thế Khương và Quỷ là 2 từ cùng dùng để chỉ 1 phương hướng. Ở đây là hướng Tây vì ta biết người Khương ở phía Tây. Thực ra Khương hay Khăng là tính chất của phương Tây. Quỷ là đọc sai của Cửu, con số chỉ hướng Tây của Hà thư. Vũ Đinh đánh nước Quỷ Phương là nước của người Khương ở hướng Tây nhà Ân, chứ không có nước “Xích Quỷ” nào vào thời này cả.)

Mộ Phụ Hảo là ngôi mộ lớn của thời Ân Thương, được phát hiện ở thôn Tiểu Đồn, huyện An Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ngôi mộ của vị nữ chúa này có một lượng đồ tùy táng lớn gồm các đồ đồng, ngọc, gốm, xương ngà, mã não, pha lê. Các hiện vật đồ đồng rất phong phú trong mộ cho biết Phụ Hảo còn có “miếu hiệu” là Mẫu Tân, căn cứ vào dòng chữ khắc trên một chiếc đỉnh và các đồ minh khí bồi táng kèm theo.

Một đồ đồng bồi táng mang tên Mẫu Tân cũng được thấy ở Việt Nam. Đó là một chiếc quang (dạng cốc đựng rượu có 4 chân) có hình con Dê với cặp sừng cong cuộn. Xung quanh chiếc quang được đúc trang trí bằng những hoa văn rồng phượng kỳ lạ, đặc trưng của văn hóa thời Ân Thương.

Chiếc Dương quang thời Ân Thương. Hiện vật sưu tầm của Nhóm Đền miếu Việt

Bên dưới chiếc “dương quang” này có dòng chữ đúc chìm, mà thường được đọc là Tư Mẫu Tân 司母辛 và được giải nghĩa là “Dành tế Mẫu Tân”. Cách đọc này tương tự như trên chiếc đỉnh lớn nhất thời Thương đã được phát hiện, với chữ Tư Mẫu Mậu 司母戊. Trong đó chữ cuối cùng là tên một trong thập can, là cách dùng thời Ân Thương để gọi các vị vua (như các tên của Vũ Đinh, Đế Tân).

Tuy nhiên thứ tự đọc này không đúng với nguyên tắc đọc của chữ Nho, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Thứ tự đọc theo nguyên tắc này phải là Mẫu Tư Mậu hoặc Mẫu Tư Tân. Vấn đề là khi đó chữ Tư (nghĩa là quản lý) sẽ trở nên vô nghĩa khi ghép với tên của một can.

Ở vùng Vĩnh Phú từng đã phát hiện được 2 chiếc di đồng khá lớn, có hình dạng rất giống với những hiện vật trong mộ Phụ Hảo ở An Dương. Trong lòng 2 chiếc di đồng này có khảm 2 dòng gồm 8 chữ, được đọc là:  

Tôn thủ tác vĩnh bảo Mẫu hậu Dậu 尊守作永寶母后酉

3 chữ cuối cùng của chiếc phương di này cũng như hình chữ trên các đồ bồi táng ở mộ Phụ Hảo và đỉnh Tư Mẫu Mậu cho thấy thứ tự đọc đúng cách viết tên thời Thương ở đây là:

  • Chữ đầu tiên là chữ Mẫu 母 hoặc chữ Phụ 婦.
  • Chữ thứ hai là chữ Tư 司 hoặc chữ Hậu 后 do trong văn tự thời Ân Thương 2 chữ này viết giống nhau.
  • Chữ thứ ba là tên gọi một trong thập can, cũng là tên người được cúng tế.

Với thứ tự đọc này thì chữ thứ 2 phải đọc là Hậu 后 (nghĩa là hoàng hậu) mới có nghĩa, vì chữ Tư 司 (nghĩa là quản lý) không thể ghép được với tên gọi của thập can.

Chữ Mẫu Hậu Tân ở đáy chiếc Dương quang (Hiện vật sưu tầm của nhóm Đền miếu Việt)

Như vậy chữ ở chiếc quang hình dê và ở mộ Phụ Hảo đọc là Mẫu Hậu Tân 母后辛. Chữ trên chiếc phương di ở Vĩnh Phú đọc là Mẫu Hậu Dậu 母后酉. Còn chữ trên chiếc đỉnh trọng khí đồ đồng lớn nhất thời Ân Thương phải đọc là Mẫu Hậu Mậu 母后戊.

Tới đây ta thấy, các vị hoàng hậu của nhà Ân đều được gọi là Mẫu 母. Như đã biết, các vua Ân được gọi là Phụ 父, như Phụ Ất, Phụ Đinh… Phụ và Mẫu vào thời đó không phải là chỉ cha, mẹ đẻ, mà là chỉ các thủ lĩnh của quốc gia gồm vua và hoàng hậu.

Thường là chính các vị Mẫu Hậu này là tướng thống lĩnh quân đội của nhà Ân đi viễn chinh như trường hợp của Phụ Hảo (Mẫu Hậu Tân). Do đó, vị tướng Ân đã dẫn quân đánh sang nước Văn Lang của vua Hùng cũng có thể đúng là “nữ nhung” như trong câu ca dao và đây là một trong các vị Mẫu của nhà Ân được nhắc tới.

Thạch Linh thần tướng chết dưới chân núi Vũ Ninh là hoàng hậu nhà Ân hay Ân Hậu. Đây là một nhận định rất mới, cho phép hiểu rõ hơn truyền thuyết ở vùng núi Vũ Ninh. Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể:

Đời vua Hùng Vương thứ ba, nhà Ân cử binh sang xâm chiếm nước Nam, đóng quân ở dưới chân núi Trâu (Trâu Sơn). Hùng Vương cầu cứu với Long Quân, Long Quân hóa thành Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc, quân nhà Ân đều thua chạy. Vua nhà Ân chết trận dưới chân núi, biến thành vua ở địa phủ, dân phải lập miếu thờ, bốn mùa đều phải hương khói.”

Sau đó tới thời Tần, có người là Thôi Vĩ đi lạc vào núi Trâu Sơn, gặp được Ân Hậu và một vị thần nữ là Ma Cô Tiên…

Như trên đã phân tích, người chết trận dưới chân núi không phải vua Ân mà là Ân Hậu – Thạch Linh thần tướng. Cũng vì thế mà Thôi Vĩ chỉ gặp Ân Hậu chứ không gặp Ân Vương. Ân Hậu “hiển linh” và được thờ phụng tại vùng núi Châu Sơn này dưới tên Ma Cô Tiên, như một loạt các di tích còn ở đây. Rõ nhất là ngôi chùa mang tên Ma Cô Tiên ở thôn Châu Cầu, xã Châu Phong (huyện Quế Võ, Bắc Ninh). Đây là khám phá hết sức bất ngờ, giải thích được vấn đề “Vua nhà Ân chết trận dưới chân núi” Châu Sơn và truyền tích ở Bắc Ninh.

Suy xét xa hơn, từ Ma Cô đọc thiết âm là , là cách phát âm khác của từ Mẫu 母. Nói cách khác, Ma Cô cũng là một vị Mẫu như được đúc rõ trên các hiện vật thời Ân Thương.

Cũng Truyện Giếng Việt kể, Thôi Vĩ sau khi gặp Ân Hậu và Ma Cô Tiên đã được một người là Dương quan dẫn đường trở về. “Dương quan nhân biến thành một con dê đá đứng ở trong núi, nay con dê ấy còn ở sau chùa Việt Vương trên núi Trâu.” Con “dê đá” này ngày nay vẫn còn, là một bức tượng bằng đá cổ hình nửa thân một con thần thú trông có dáng dấp của con Dê do có cặp sừng cong.

Con “Dê đá” ở núi Vũ Ninh

Thật trùng khớp khi chiếc quang hình dê thời Ân Thương được thấy có chữ “Mẫu Hậu Tân” lại khớp với tên gọi của “Dương quan” trong truyện Giếng Việt. Chiếc quang này là bằng chứng hiển hiện cho sự tham gia của Ân Hậu trong cuộc chiến với Thánh Dóng ở nước ta.

Ân Hậu – Ma Cô Tiên không chỉ hiển linh ở núi Châu Sơn. Truyền thuyết Việt còn kể, khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa thì có oan hồn của các vua đời trước nhập vào người con gái chủ quán trọ ở chân núi Ma Lôi, đến đêm hiện hình thành con gà trắng mà phá hoại. Hoặc sự tích ở núi Thất Diệu, nơi có đền Bạch Kê thờ Mẫu là dòng dõi vua Hùng, đã biến thành cô tiên gánh đất giúp An Dương vương xây thành…

Một lần nữa ta lại thấy, nhân vật hiển linh báo oán cho đời trước là nữ, chứ không phải nam. Người con gái ở núi Ma Lôi và Mẫu Bạch Kê ở núi Thất Diệu chính là Ma Cô Tiên hay Ân Hậu được nhắc tới tại Vũ Ninh.

Miếu Bạch Kê ở núi Thất Diệu tại Yên Phong, Bắc Ninh có đôi câu đối ở nghi môn
千秋鈥鈿前王澤
百越山河故國恩

Thiên thu hỏa điền tiền vương trạch
Bách Việt sơn hà cố quốc ân.

Dịch:
Hỏa điền ngàn năm lộc vua trước
Núi sông Bách Việt ơn nước xưa.

Câu đối nói rất rõ, Mẫu Bạch Kê hay Ma Cô Tiên chính dòng dõi Bách Việt của “cố quốc” xưa và các đồ vật kim thạch tế khí của vua đời trước này vẫn còn lưu truyền ngàn năm. 

Phù điêu bên giếng Cô Tiên trên núi Thất Diệu

Cái tên “Thạch Linh thần tướng” của Ma Cô Tiên cho một liên hệ sau. Thạch Linh nghĩa là linh khí của đá. Ma Cô Tiên cũng được biết là vị phúc thần mang lại tài phúc cho nhân gian, như Thôi Vĩ đã được Ma Cô Tiên cho viên ngọc Long Tụy của Hoàng Đế mà trở nên giàu có. Còn ở núi Thất Diệu, sau khi An Dương Vương diệt được Bạch Kê tinh đã cho đào núi, lấy được nhạc khí và xương cốt cổ. “Nhạc khí” thời này là chuông, trống làm bằng đồng, dùng trong việc tế lễ. Ma Cô Tiên là chủ thần về môn “kim thạch học”, tức là tên gọi của ngành Khảo cổ học xưa. Chiếc cốc hình dê (dương quang) và con dê đá ở núi Vũ Ninh đúng là “kim thạch”, là con thần thú chở tài vật của Thạch Linh thần tướng Ma Cô Tiên.

Bài đăng trên báo Lao Động cuối tuần số 22 ngày 28-30/5/2021

Chữ viết của người Việt thời Hùng Vương

Tiến sĩ Nguyễn Việt (Trung tâm tiền sử Đông Nam Á) từng khảo sát các chữ viết trên các trống đồng, thạp đồng, bình đồng thời Đông Sơn và có đưa ra nhận định như sau:

Logic thông thường thì chữ Hán được coi như đã theo chân đoàn quân xâm lược Tần xuống vùng đất phía bắc Giao Châu từ khoảng cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên. Với sự ra đời và tồn tại hơn một thế kỷ của nhà nước Nam Việt, chữ Hán đã chính thức trở thành văn tự chính thống của vùng này, mặc dầu trong một phạm vi rất hạn hẹp của triều đình Nam Việt mà thôi.

Bằng chứng khảo cổ cho thấy ba loại văn tự chữ Hán cùng tồn tại trong phạm vi nước Nam Việt:

1- Minh văn phương hình chuẩn thường thấy ở những đồ lễ khí chính thức của nhà nước Nam Việt hoặc trên những đồ được dâng tặng có nguồn gốc phía bắc,

2- Văn tự thẻ tre mang phong cách văn tự Hán Sở,

3- Minh văn Nam Việt thường thấy trên đồ đồng Đông Sơn bản địa với lối khắc dài, phương hình không chuẩn và sai hoặc thiếu nét.”

Chữ trên trống đồng Trạch Bái (ảnh theo TS Nguyễn Việt)

Chữ viết trên trống đồng thì hiển nhiên người dùng là người Việt bản địa, cho nên đầu tiên phải khẳng định rằng thời Tần người Việt đã có chữ viết.

TS Nguyễn Việt còn phát biểu rằng, theo nghiên cứu khảo cổ thì người Việt khi đó “chưa có nhu cầu dùng chữ viết”. Ở phía Bắc như vùng Lưỡng Quảng thì có thể “đã có nhu cầu” này (???)

Không rõ dựa vào khảo cổ nào mà lại nghĩ ra như vậy? Trong khi ngay sau đó TS. Nguyễn Việt cho biết, Giao Chỉ và Cửu Chân là nơi đông đúc dân cư nhất thời đó với dân số vượt xa ở các quận khác trên đất Lưỡng Quảng sau này. Nơi mật độ dân số lớn thì “không cần chữ viết”, còn nơi vắng người hơn thì lại có? Đây gọi là kết luận của “khảo cổ học thật” hay sao?

Điều lạ là loại chữ này được TS. Nguyễn Việt gọi là chữ “Nam Việt” với hình thức thô sơ hơn thể chữ Triện thời Tần Hán. Thậm chí trong số các chữ đó còn có những chữ ghi theo “lối cổ”:

– “chữ “lục” (sáu) vẫn giữ lối viết cổ”

– “chữ Cửu Chân trên trống Trạch Bái cho thấy một kiểu chữ cổ hơn”. 

Tới đây nảy sinh ra vấn đề. Nếu theo quan niệm của TS Nguyễn Việt, loại chữ này mới theo chân quân Tần mà xâm nhập vào đất Việt, thì tại sao lại có những chữ cổ như trên? Cần nhớ rằng Tần Thủy Hoàng đã cho thống nhất văn tự trên toàn quốc, lấy chữ Tiểu triện do Lý Tư tu chỉnh làm “quốc tự”. “Thư đồng văn” được thực hiện trên toàn cõi Trung Hoa. Vậy nếu đội quân Tần đến dạy chữ cho người Nam Việt thì họ phải dạy chữ Tiểu triện, chứ sao lại dùng những chữ cổ hơn của Đại triện Kim văn?

Điều này cho thấy thứ chữ mà TS Nguyễn Việt gọi là chữ Nam Việt ấy thực ra đã tồn tại ở đất Nam Việt từ trước khi Tần xâm lược rất lâu. Người Nam Việt đã dùng thứ chữ này một cách thành thạo và phổ biến trên các đồ vật của họ như trống đồng, thạp đồng. Còn chữ mới mang vào là chữ Tiểu triện như dùng để khắc trên các văn bản bằng thẻ tre và trên ấn tín.

Chữ viết của người Việt thực không cần tìm đâu xa. Nó vốn được ghi rất rõ trên các hiện vật. Chẳng qua chúng ta không chịu nhìn nhận nó là chữ mà người Việt đã dùng trước thời Tần mà thôi. Trước thời Tần trên đất Nam Việt là thời Hùng Vương. Nói cách khác loại chữ Nam Việt ấy là chữ mà các vua Hùng nước Văn Lang đã dùng.