Vài suy nghĩ về thân thế Lý Công Uẩn – Đinh Bộ Lĩnh

Vị vua đầu tiên của triều Lý là Lý Thái Tổ có thân thế xuất xứ khá mờ ảo. Qua truyền thuyết chỉ biết rằng ông là con của bà Phạm Thị, sinh ra ở thôn Cổ Pháp (Bắc Ninh), lúc nhỏ tá túc trong chùa tại đây… Điều khó hiểu nhất là tại sao một nhân vật không có xuất xứ rõ ràng, có thể nói là “mồ côi” cha mẹ từ nhỏ như vậy mà bỗng nhiên tiến đoạt ngôi của nhà Tiền Lê một cách dễ dàng. Ngôi báu mà Đinh Tiên Hoàng mất công dẹp loạn các sứ quân, Lê Hoàn nam chinh bắc chiến, Lê Long Đĩnh huynh đệ tương tàn tranh ngôi mới có được. Thế mà Lý Công Uẩn chỉ vì có công… ôm xác vua khóc than, lại có thể dành được không gặp một cản trở nào, không phải động đến binh đao… Rõ ràng xuất xứ và công nghiệp của Lý Công Uẩn còn ẩn chứa những diễn biến lớn chưa được làm sáng tỏ.
Vài dòng trong Ngọc phả các vua triều Lê ở các di tích cố đô Hoa Lư, Ninh Bình hé lộ: Lý Công Uẩn hàng năm theo thiền sư Lý Vạn Hạnh vào hầu vua Lê (Lê Đại Hành) ở thành Hoa Lư, Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Vua lại gả con gái cả là công chúa Lê Thị Phất Ngân, sinh ra Lý Phật Mã và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần, Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền chỉ huy sứ.
Đây là một thông tin quan trọng vì nó cho biết Lý Công Uẩn là phò mã của vua Lê, được vua Lê gả con gái là Lê Thị Phất Ngân cho. Công chúa Lê Thị Phất Ngân hiện vẫn được thờ tại một số nơi ở vùng Ninh Bình, Hà Nam và Nghệ An vì bà là mẹ của các hoàng tử Lý Phật Mã (Lý Thái Tông) và Lý Nhật Quang. Phải là địa vị hoàng thân quốc thích như vậy thì Lý Công Uẩn mới có thể tiếp ngôi nhà Lê một cách dễ dàng, không gặp sự cản trở nào. Nhưng vấn đề lịch sử công nghiệp lập quốc của Lý Công Uẩn không dừng lại ở chỗ là phò mã của tiền triều. Thông tin này dẫn đến liên tưởng khác nữa…
Theo những điều mới biết trong sử thuyết Hùng Việt thì Lý Công Uẩn, vị vua đầu nhà Lý, cũng chính là Đinh Bộ Lĩnh, là thủ lĩnh của đất Đinh Bộ – Tĩnh Hải, đã gây dựng quốc gia sau khi triều đình Đại Việt – Đại Hưng ở Phiên Ngung bị nhà Tống tiến chiếm. Đinh Bộ Lĩnh theo sự tích hiện hành là con của Thứ sử Hoan Châu Đinh Công Trứ, đã đầu quân cho sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải khẩu, được Trần Lãm yêu mến như thân thuộc và giao cho binh quyền. Tư liệu dân gian còn cho biết Trần Lãm đã gả con gái của mình là Trần Nương cho Đinh Bộ Lĩnh, rồi tuyên cáo trao lại quyền bính quân binh, còn mình lui về vui thú điền viên, chu du thiên hạ…
So sánh 2 thông tin của Lý Công Uẩn và Đinh Bộ Lĩnh thì có thể thấy cả 2 đều là con rể của tiền triều. Lý Công Uẩn lấy công chúa Lê Thị Phất Ngân, con gái vua Lê. Đinh Bộ Lĩnh lấy Trần Nương, con gái sứ quân Trần Lãm. Vì Lý Công Uẩn cũng là Đinh Bộ Lĩnh nên suy ra sứ quân Trần Lãm chính là vua Lê được nói tới. Vua Lê đây không phải Lê Đại Hành mà là dòng họ Lê khác…
Tác giả Văn Nhân đã đưa ra nhận định Đinh Bộ Lĩnh là Lý Tiến, phò mã của vua Lưu Cung nước Đại Hưng ở Phiên Ngung. Lý Tiến đọc phiên thiết là Liễn, Đinh Liễn là Đinh Bộ Lĩnh. Lưu Cung thực ra mang họ Lê vì cha là Lưu Tri Khiêm, Lưu Tri thiết Li, Lê.
Kết hợp 3 dòng thông tin ta có Lý Công Uẩn = Đinh Liễn = Lý Tiến là phò mã của vua Lê. Sứ quân Trần Lãm cũng chính là Lưu Cung hay Lê Cung. Lưu Cung vốn có tên là Lưu Nham, đọc phiên thiết cho chữ Lãm. Anh của Lưu Cung là Lưu Ẩn từng là Tiết độ sứ Thanh Hải quân. Sau khi Lưu Ẩn mất Lưu Cung tiếp nhận chức này. Tiết độ sứ Thanh Hải quân Lưu Nham có thể được hiểu thành sứ quân Trần Lãm vì Trần là Đông A, chỉ hướng Đông, cũng là vùng Thanh Hải. Sứ quân Trần Lãm xưng Trần Minh Công, hiểu đơn giản nghĩa là vị minh chủ ở phía Đông.
Bản thân tiểu sử của Trần Lãm cho biết ông là người gốc Quảng Đông, cha là Trần Công Đức sang chiếm giữ, lập nghiệp ở vùng ven biển Bố Hải Khẩu. Trần Công Đức như vậy tương ứng với Lưu Tri Khiêm, vốn là Thứ sử đất Phong Châu. Còn Bố Hải Khẩu không phải chỉ là đất Thái Bình mà là vùng Thanh Hải, cửa biển ở Quảng Châu.
Đình Xám (hay đình Hát) ở xã Hồng Quang, Nam Trực, Nam Định nơi thờ Trần Lãm có câu đối:
Bố Hải thiếp kình ba, hùng cứ danh lưu thiên cổ lục
Trường Châu ninh nhạn tháp, mặc phù công tại tứ phương dân.
Dịch:
Biển Bố lặng sóng kình, hùng cứ danh còn lưu ngàn thủa
Châu Trường vững non nhạn, bao trùm công giúp dân bốn phương.
Vế đối đầu nói tới việc “hùng cứ” của sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải khẩu. Vế đối sau liên quan đến sự nghiệp công đức của Đinh Bộ Lĩnh ở Trường Châu (Ninh Bình).
Một đầu mối khác về sứ quân Trần Lãm là trong Thiền uyển tập anh có chuyện về Trưởng lão La Quý An:
Chân nhân họ Đinh… Trước khi thị tịch, sư gọi đệ tử là Thiền Ông đến bảo rằng:
– Trước đây Cao Biền đắp thành ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điềm Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả mười chín nơi. Ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn chỗ đất bị cắt long mạch, đời sau tất có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng chính pháp của ta. Sau khi ta mất, ngươi nên cho đắp đất, dựng nhiều bảo tháp, dùng pháp thuật mà yểm tàng, không để cho người ngoài biết…
Nhân vật Khúc Lãm đã hồi phục long mạch do Cao Biền trấn yểm thì sẽ phải nhờ đó mà nên nghiệp vương. Khúc Lãm đã đắp lại chỗ trấn yểm ở Điềm Giang, không phải ở Cổ Pháp mà là sông Hoàng Long ở Hoa Lư. Phù Chẩn đọc thiết là Phấn, chính là sách Bông (biến âm thành Phấn), quê của Đinh Bộ Lĩnh
Sử thuyết Hùng Việt cho rằng Tiên chủ Khúc Thừa Dụ là Lưu Tri Khiêm, Trung chủ Khúc Hạo là Lưu Ẩn, còn Hậu chủ Khúc Thừa Mỹ là Lưu Cung. Như vậy Khúc Lãm cũng mang họ Lưu – Lê, chính là sứ quân Trần Lãm hay Lưu Nham (Lưu Cung). Đây là một dẫn chứng nữa về liên hệ của họ Khúc ở đất Hồng Châu và họ Lưu của nước Đại Hưng và là dẫn chứng xác nhận thêm nhận định rằng sứ quân Trần Lãm chính là Tiết độ sứ Lưu Nham, cũng như mối liên hệ giữa Lý Công Uẩn ở Cổ Pháp và Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư.
“Gia phả” triều đại Lê – Lý của Đại Hưng – Đại Việt nay viết thêm:

le-ly-2

Tới đây có thể tóm tắt lại giai đoạn lịch sử này như sau:
Cao Biền, vị Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân đầu tiên sau khi đánh dẹp quân Nam Chiếu đã cho xây dựng một số căn cứ quân sự, trong đó có La thành (Thăng Long) và Hoa Lư. Vì quân Nam Chiếu vốn xuất phát từ vùng phía Nam (Trung Bộ) nên Hoa Lư lúc này đóng một vai trò quan trọng trong việc trấn giữ phía Nam. Sự có mặt của lớp gạch Giang Tây quân ở Hoa Lư, Hoàng thành Thăng Long và đất An Tôn (thành nhà Hồ) là bằng chứng của thời này. Khu vực ven biển Thái Bình cũng có một tiền đồn quân sự của Tĩnh Hải quân lúc này, với di vật là gạch Giang Tây quân tìm thấy ở Thái Thụy.
Sang thời Mạt Đường, Lưu Tri Khiêm hay Khúc Thừa Dụ là thứ sử Phong Châu bắt đầu dựng nghiệp, đầu tiên nhận chức Tiết độ sứ Tĩnh Hải cai quản toàn bộ đất Giao Châu. Con của Khúc Thừa Dụ là Khúc Hạo hay Lưu Ẩn không dừng lại đó mà đã dẫn quân đánh chiếm vùng Quảng Đông (Nghiễm Châu, Triệu Khánh), nhận tiếp chức Tiết độ sứ của đất Thanh Hải. Sang tới thời Lưu Nham, vị sứ quân Thanh Hải này đã xưng đế vương, lập quốc gia riêng lấy tên là Đại Việt, sau một thời gian đổi thành Đại Hưng. Truyền sử Việt gọi Lưu Nham là sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải khẩu. Truyền thuyết dân gian (Thiền uyển tập anh) gọi là Khúc Lãm.
Lý Công Uẩn người ở châu Cổ Pháp (Bắc Ninh), con của thứ sử Hoan châu Đinh Công Trứ. Quê ngoại của Lý Công Uẩn như vậy là ở Cổ Pháp, còn quê nội là ở Hoa Lư. Lý Công Uẩn – Đinh Bộ Lĩnh đã “đầu quân” cho sứ quân Trần Lãm, tức là theo Hưng đế Lưu Nham, được Lưu Nham gả con gái cho là công chúa Lê Thị Phất Ngân hay Trần Nương.
Lý Công Uẩn tên thật là Liễn. Uẩn là chỉ làng Diên Uẩn, quê mẹ của ông. Lý Công Uẩn là vị tước công họ Lý ở làng Diên Uẩn. Lý Liễn hay Lý Tiến là phò mã của Lưu Nham, là người có công đánh Nam Chiếu và thu vùng Tây Bắc vào đất đai nước Đại Hưng. Lý Liễn được Lê Nham phong làm thứ sử Giao Châu, cai quản vùng đất phía Tây của nước Đại Hưng. Sử Việt chép thành Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp bọn Lã Xử Bình rồi tự lĩnh làm Giao Châu soái…
Nước Đại Việt – Đại Hưng truyền tới đời Hậu Chủ Lưu Sưởng – Lưu Kế Hưng thì bị nhà Tống tiến đánh. Tên vua Lưu Kế Hưng chỉ rõ nước mà Lưu Cung lập ra là nước Đại Hưng, không phải Đại Hán, được Lưu Sưởng kế tục. Khi kinh đô Hưng Vương phủ (Phiên Ngung) thất thủ, Lưu Sưởng bị bắt đưa về Tống. Những viên gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên ở Hoa Lư và Hoàng thành Thăng Long là minh chứng của thời kỳ Đại Việt – Đại Hưng này trên đất Việt.
Khi nước Đại Hưng bị diệt, phò mã Lý Liễn ở Giao Châu nhận mình là truyền nhân của họ Lê (Lê Nham – Lưu Cung), giả theo nhà Tống, nhận sắc phong Tiết độ sứ Tĩnh Hải và Giao Chỉ quận vương. Ở trong châu thực chất Đinh Bộ Lĩnh – Lý Thái Tổ âm thầm chuẩn bị phục quốc, nhằm đòi lại cơ đồ nước Đại Việt mà bố vợ (Lưu Nham) đã lập nên. Đời Đinh Bộ Lĩnh việc này chưa làm được, đến đời con là Lý Thái Tông, sử Việt gọi là Lê Đại Hành tiếp tục công nghiệp. Cuộc chiến phá Tống của Lê Đại Hành – Lý Thái Tông mới là bắt đầu sự đụng độ giữa Việt và Tống. Phải tới thời Lý Thánh Tông, vị vua thứ 3 của nhà Lý, thì đất Tĩnh Hải Giao Châu mới đủ mạnh để xưng đế, lập quốc gia độc lập, lấy lại tên nước cũ là Đại Việt. Lý Thánh Tông chính thức tuyên bố họ Lý xưng vương, truy phong cho ông mình Đinh Liễn là Lý Thái Tổ, và cha mình Lê Đại Hành là Lý Thái Tông, tiến hành dời đô từ trị sở Giao Châu ở Hoa Lư về kinh Thành Thăng Long. Lịch sử nước Đại Việt như ta biết ngày nay bắt đầu từ đây…

Tái bút: 
Như trên, trong một số đoạn truyền thuyết Việt thì triều đình nước Đại Hưng ở Quảng Châu được gọi là triều Tiền Lê, Lưu Nham tương ứng với vua Lê Đại Hành. Xét vậy thì đoạn chuyện về Lê Long Đĩnh tranh ngôi với các huynh đệ cũng là chuyện của nước Đại Hưng.
Lưu Nham khi gần mất thì ngôi thái tử có 3 người con trai ngấp nghé là Tần vương Lưu Hoằng Độ, Tấn vương Lưu Hoằng Hi và Việt vương Lưu Hoằng Xương. Lưu Nham mất, con cả là Tần vương Lưu Hoằng Độ nối ngôi, lấy tên là Lưu Phần. Chỉ được ít lâu bị Lưu Phần bị người em là Lưu Hoằng Hi ra tay sát hại, đoạt ngôi, lấy tên là Lưu Thịnh. Lưu Thịnh sau đó giết hại nốt Việt vương Lưu Hoằng Xương.
Những cái tên Tần vương, Tấn vương và Việt vương này rất giống với thời Ngô ở Việt Nam. Còn chuyện 3 anh em họ Lưu tranh đoạt ngôi vua giống như chuyện 3 anh em Lê Long Đĩnh, Lê Long Việt và Lê Long Tích của triều Tiền Lê.
Lưu Thịnh đọc thiết là Lĩnh, còn Long Đĩnh cũng thiết Lĩnh. Như thế Lê Long Đĩnh tương ứng với Trung Tông Lưu Thịnh. Còn chuyện về sự xa hoa, trụy lạc của Lê Ngọa Triều có thể tương ứng với vị vua Lê cuối cùng của nước Đại Hưng là Lưu Sưởng.

VĂN BIA ĐẠI TÙY-THỨ SỬ LÊ HẦU VÀ LỊCH SỬ VIỆT NAM THẾ KỶ 6-7

Bài viết Trần Trọng Dương. Văn bia Đại Tùy Cửu Chân – Thứ sử Lê Hầu và lịch sử Việt Nam thế kỷ VI-VII. Suối nguồn. Nxb Hồng Đức. 2014. tr.13- 72.

Tấm bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn được giáo sư Đào Duy Anh phát hiện năm 1960 và ông đã công bố một bài nghiên cứu vào năm 1963. Tấm bia được tìm thấy tại đền thờ Lê Cốc (hay Lê Ngọc) làng Trường Xuân, xã Đông Minh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Giáo sư Đào gọi là “bia cổ Trường Xuân”, học giả Trần Văn Giáp gọi là “bia đời Tùy”, nay chúng tôi gọi tắt là “bia Đại Tùy Cửu Chân” để tiện trình bày. Văn bia hiện đang lưu trữ tại khu trưng bày hiện vật giai đoạn Bắc thuộc (tầng 1) trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Hà Nội. Tác giả bài văn bia này là Kiểm hiệu Giao Chỉ quận, Nhật Nam quận thừa, kiêm Nội sử Xá nhân, Nguyên Nhân Khí người ở Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc (xem chú thích 11 trong phần dịch). Văn bản được khắc vào năm Nhâm Dần, ghi niên hiệu đời nhà Tùy năm Đại Nghiệp thứ 14 (618). Từ năm 1960 đến năm 2012, văn bia này được coi là hiện vật văn hiến có niên đại sớm nhất tại Việt Nam [Đào Duy Anh 1963, Trần Văn Giáp 1969, Trịnh Khắc Mạnh 2008], trong đó có chứa nhiều sử liệu có giá trị không thấy được ghi nhận trong các bộ sử lớn của Trung Quốc và Việt Nam. Bài viết này sẽ tiến hành nghiên cứu về vấn đề văn bản học, sử liệu học của văn bia Đại Tùy để từ đó góp phần soi sáng những góc khuất chưa từng biết đến của lịch sử Việt Nam từ nửa sau thế kỷ thứ sáu đến đầu thế kỷ thứ bảy.

1. Một số vấn đề văn bản học của bia Đại Tùy Cửu Chân

Tấm bia Đại Tùy Cửu Chân có chiều cao quãng 152-153cm, rộng quãng 76-78 cm, dày 10,5cm. Tấm bia được làm bằng phiến thạch, nhưng trải qua gần 1.500 năm, đến nay chất đá đã bở thành nhiều lớp. Bố cục bia chia làm 3 phần: trán bia, thân bia và chân bia.
Phần trán bia (bi ngạch) được đẽo thành hình bán nguyệt cao 46 cm, diềm trán bia không đẽo góc vuông như các bia đời sau mà trực tiếp tạc lên đó hình đôi rồng liền thân , hai đầu rồng hướng sang hai bên cạnh bia, hướng miệng cắm vuông góc với mặt đất. Miệng rồng há, để lộ 4 cặp răng hàm bằng đều và hai chiếc răng nanh dài nhọn. Bờm rồng vuốt từ khóe miệng ra phía sau, áp sát theo thân rồng. Phía dưới cằm và trên môi trên chạm các tua râu bó sát đầu rồng. Phía trên đầu là lông mày tạc nổi, che phần hốc mắt phía trong. Ngay sau phần mày rồng, tai rồng và sừng rồng cũng kéo dài về phía sau áp theo khối thân. Riêng cuống tai dài bằng cả phần chính của tai. Giữa thân rồng có ba vạch khắc sâu. Cách tạc này cho thấy, bia được tạc khối chữ nhật trước, sau đó mới chém các cạnh mà chạm sâu vào thớ đá. Cách tạc này khiến cho hình mình rồng chính là phần trên cùng của trán bia (cả ở hai mặt, dù mặt âm không có chữ), bụng rồng ôm lấy phần không gian khắc chữ trên ngạch bia.

Phần chữ trên ngạch bia có thể khảo tả lại như sau. Trong phần bán nguyệt phía trong, còn lại trên trán bia, không gian được đặt ở chính giữa bởi một hình chữ nhật. Hình chữ nhật này được chia đều thành 12 ô vuông, và cách nhau bởi các gờ tự nhiên sau khi đã giật lòng tạo nét trong từng ô đó. Trong mỗi ô là một chữ triện khắc dương bản, là các chữ: 大隋九真 郡寶安道場之碑文. Các chữ này được sắp theo hàng dọc từ phải sang trái, gồm 4 hàng, mỗi hàng 3 chữ. Những phong cách mỹ thuật và thư pháp trên trán bia có thể cho phép đi đến nhận định rằng, tấm bia này giống như các văn bia đời Lục Triều khác hiện còn . Bia còn kỵ húy chữ “tùy”, nhà Tùy cho chữ “隨” có bộ quai xước (辶), trỏ việc chạy đi chạy lại long đong vất vả, nên mới dùng tự dạng “隋” . Từ tiêu chí mỹ thuật và văn tự học, có thể khẳng định, đây là một tấm bia nguyên bản có từ đời Tùy.

Phần thân bia cao 106 cm. Mặt bia nhiều chỗ đã bị bào mòn, nhiều chữ bị mờ không nhìn thấy chữ nữa. Bia không giật lòng, chữ viết được khắc trên mặt phẳng với trán bia. Phần phía dưới cùng bên tay phải của bia bị vỡ mất một miếng lớn, phía sau vỡ rộng hơn và cao hơn mặt trước. Dòng thứ nhất các chữ bị mất là “Nhân Khí soạn”, dòng thứ hai mở đầu bằng chữ “phù” và các chữ bị vỡ mất là “hỏa trạch”, dòng thứ 3 là chữ “dẫn” mở đầu, kết thúc là các chữ “kỳ hồi hướng phúc địa”, trong đó chữ “phúc địa” cũng đã bị vỡ mất. Mặt dương của bia có ba đường kẻ sọc, tạo thành 2 phần diềm bia nhỏ hai bên và ba không gian lòng bia dùng để khắc chữ. Hiện trạng văn bia chỉ còn đọc được khoảng 40-50 chữ. Song có thể đếm được văn bia có 26 dòng, mỗi dòng khoảng 38-40 chữ, viết bằng chữ chân (khải thư) . Dòng đầu tiên ghi lại tên bia, hết tên bia để quãng cách không gian, để phần cuối của dòng đó khắc tên và chức vụ của người soạn văn, dòng cuối cùng là tên người lập bia và niên đại dựng. Phần chân bia không rõ nguyên bản ra sao, còn hay mất. Chỉ thấy hiện vật trưng bày trong bảo tàng ngày nay được gắn liền trên một chân bia bằng bê tông! Trần Văn Giáp đoán có khả năng chân bia hiện vẫn còn ở địa phương [1969: 3]. Nhưng theo thông tin từ một số cán bộ văn hóa ở Thanh Hóa hiện nay, chân bia đã bị đem nung vôi vào quãng cuối những năm 1960. Bản rập của tấm bia mang số ký hiệu 20945 hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tiếc rằng bản rập có niên đại quá muộn nên cũng không có tác dụng nhiều cho việc giải độc tự dạng và khôi phục văn bản.

Văn bản còn lại nhiều chữ nhất đến nay còn giữ được là một bản sao của ông Chu Văn Liên, được thực hiện vào ngày mùng 9 tháng 4 năm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nhâm Dần (1962) có tên là Tùy thì Đại Nghiệp bi văn, hiện cũng được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, số ký hiệu VHv.2369, có ghi nhận ông Nguyễn Tấn Minh là người kiểm duyệt việc sao chép. Văn bản này chép lại một bản sao vào đời Nguyễn, vào ngày 26 tháng 02 niên hiệu Thiệu Trị (1842). Bản này dùng để giao cho xã Đồng Pho để phụng thờ, lưu chiểu .

Bản chép đời Thiệu Trị nguyên chép lại một bản khác cổ hơn do thân hào các xã Phù Liễn, Đồng Pho, Vạn Lộc, Hữu Bộc thuộc tổng Thạch Khê huyện Đông Sơn đã hội họp cùng nhau, rửa bia đọc chữ, rồi sao chép lại vào ngày 28 tháng 4 năm Vĩnh Khánh thứ 3 (1731). Các cụ ở Thạch Khê đời Thiệu Trị đã dựa trên bản này mà chép thành năm bản, một bản lưu lại đền thờ Lê Cốc ở Thạch Khê, bốn bản còn lại giao cho các xã Phù Liễn, Đồng Pho, Vạn Lộc, Hữu Bộc để thờ truyền đời . Cũng theo Đào Duy Anh, ông đã nộp bài văn bia đời Vĩnh Khánh cùng các thần tích về Lê Hầu và vợ con ngài, biếu cho Thư viện Khoa học Trung ương năm 1963. Nhưng đến nay, chúng tôi chưa tìm ra ký hiệu của các sách này .

Dựa trên các văn bản văn bia, bản rập, các bản sao còn lại, nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo dị, khôi phục và chú thích bài văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn này. Đầu tiên là bản in trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Tập 1, Từ Bắc thuộc đến thời Lý, Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp và Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện, Paris-Hà Nội 1998: 7-9). Năm 2000, phó giáo sư Trần Nghĩa công bố một bản chỉnh lý mới, kèm thêm các phần phiên âm khảo dị trong chuyên luận Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X (tr. 262-271). Đối chiếu tất cả các bản trên, chúng tôi thấy tình trạng văn tự của văn bản này như sau. Bài minh có 30 câu, mỗi câu 4 chữ, độ dài văn bản là 120 chữ, hiện chỉ còn đọc được 102 chữ. Toàn bài văn bia có độ dài 957 chữ, hiện đã mờ mất 246 chữ, chỉ còn đọc được 711 chữ.

Đến đây chúng tôi thấy có thể chia ra làm ba hệ văn bản của bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn như sau.
(1) Hệ 1: [1a] văn bản gốc văn bia tại Bảo tàng (niên đại tuyệt đối 618) > [1b] bản dập thác bản văn bia (niên đại bản dập đầu thế kỷ 20) > [1c] các bản ảnh ấn lại thác bản này trong Tổng tập văn bia Việt Nam (2009), Một số vấn đề về văn bia Việt Nam (2008), [1d] các bản ảnh điện tử chụp văn bia và thác bản văn bia của chúng tôi (chụp năm 2012) được in lại trong lần xuất bản này, [1e] bản ảnh điện tử chụp lại thác bản văn bia của Viện NC Hán Nôm (niên đại: XX-2000).

(2) Hệ 2: các văn bản ghi chép-giải độc văn tự của đời sau. [2a] Bản chép tay của các cụ lão nhiều địa phương thực hiện vào năm Vĩnh Khánh thứ 3, gọi là bản 1731 (đã mất); [2b] Bản chép tay lại bản này vào đời Thiệu Trị, ta gọi là bản 1842. [2c] Bản chép tay lại bản Thiệu Trị vào năm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nhâm Dần, ta gọi là bản 1962. Hai bản [2a] và [2b] chúng ta không có trong tay. Bản [2a] khả năng cao là không thể tìm lại được. Bản [2b] có thể sưu tầm lại ở địa phương. Chúng tôi chỉ có bản [2c] để làm căn cứ đối chiếu.

(3) Hệ 3: các văn bản phục dựng của các nhà nghiên cứu. Trước nay chỉ có hai bản làm theo hướng này. Đó là bản của nhóm Phan Văn Các – Claudine Salmon năm 1998 và bản Trần Nghĩa năm 2000. Các tác giả đã tiến hành phục dựng một số vị trí đã mất, và cũng đã có những thảo luận khác nhau ở từng trường hợp cụ thể. Các phương pháp mà các nhà khoa học đưa ra là tiêu chí văn bản học, văn tự học, ngữ nghĩa học. Song, về cơ bản, hai bản này tuy không phải là bản gốc, và nếu tính về thời gian thì đây là hai bản muộn nhất, nhưng với phương pháp làm việc khoa học, đây có thể coi là hai bản tốt nhất đầy đủ nhất hiện còn.

Chúng tôi tạm lấy bản của nhóm Phan Văn Các và Claudine Salmon làm bản nền, bản Trần Nghĩa làm bản đối chiếu. Cách làm như vậy là ngược so với các thao tác văn bản học truyền thống. Sở dĩ như vậy là vì bản văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn còn lại đến nay đã tàn khuyết, hư hại nặng nề. Hiện chỉ còn đọc được vài chục chữ. Tuy nhiên, với vài chục chữ này, chúng tôi vẫn coi đây như là một văn bản gốc đáng tin cậy nhất để đưa ra những nhận định khoa học cuối cùng cho những vị trí ở trong các văn bản thuộc hệ 2 và hệ 3. Ví dụ, các hệ bản số 3 và số 2 không có tên phụ của bia, nay dựa trên bản gốc [1a] chúng tôi bổ sung thêm dòng này ngay đầu văn bản, rồi tiếp đó mới đến tên họ chức danh người soạn bia.

Ví dụ thứ hai, trước đây các nhà nghiên cứu có cân nhắc về tên hiệu con trai trưởng của Lê Hầu. Nhóm Phan Văn Các nhìn trên văn bia thì các nét bút còn lại không cho phép nghĩ rằng đó là chữ “益”, nên tạm để khuyết, và xác định tên của nhân vật này là “[…] Tự”. Nay dựa trên văn bia bản [1a] và bản 1962 [1c] , chúng tôi đưa ra hai kết luận như sau. (I) Tự dạng mà nhóm Phan Văn Các để khuyết là chữ “益”, vì lối viết liên bút trong hành thư khiến cho các nét chấm trong phần trên của chữ “ích” bị liền thành hai nét ngang ( ). (II) Tên hiệu của nhân vật này là “Ích Từ”. Nguyên văn chúng tôi xin đánh máy lại như sau: 長子益慈嗣… Sở dĩ, có thuyết cho đó là Ích Tự (益嗣) vì đọc sót chữ “từ”. Đoạn trên có thể phân tích như sau: “trưởng tử Ích Từ” là chủ ngữ, “tự” là động từ vị ngữ trong câu. Rất tiếc là sau chữ “tự” bị mất mấy chữ, nên không rõ tân ngữ/ hoặc bổ ngữ đầy đủ là gì, nhưng ngay sau đó còn một số chức danh và quan trọng nhất là chức Nhật Nam thứ sử. Chúng tôi tạm dịch cả câu như sau: “con trai trưởng [của Lê Hầu] tên hiệu là Ích Từ, nối [chức cha trước đây…], làm Thái thú quận Nhật Nam, kiêm [Tuyên] uy Tướng quân”. Bản 1962 là bản cũng khá muộn, song được sao chép có chủ đích về khoa học và có người giám sát về văn bản học, nên tạm thời có thể làm một bản tham khảo, đối chiếu. Bản Phan Văn Các có phục dựng được một số chữ và quan trọng nhất là lần đầu tiên có một bản làm đúng theo thao tác văn bản học, và bản này còn có trên 50 chú thích về từ ngữ, khảo dị, biện luận văn tự học. Bản của Trần Nghĩa chỉ có khoảng 20 chú thích. Đây chính là lý do khiến chúng tôi không lấy bản Trần Nghĩa mà chọn bản phục dựng của nhóm Phan Văn Các làm bản nền.

Công việc lần này của chúng tôi gồm:
1. Khảo tả lại tình trạng và mỹ thuật văn bia như đã thực hiện ở đầu bài khảo cứu.
2. Tái lập một số chữ đã bị mất thông qua con đường văn tự học, thi vận học, ngữ nghĩa học.
3. Tiến hành chú thích bổ sung các khái niệm Phật học, Nho học, nhân danh, địa danh, chức quan.
4. Phiên âm, hiệu điểm (chấm câu), ngắt ngữ đoạn.
5. Và quan trọng nhất, lần đầu tiên văn bản văn bia này được dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, vì số lượng chữ mất quá nhiều, cho nên bản dịch này chỉ mang tính chất phỏng đoán ở nhiều đoạn (được đặt trong ngoặc vuông […] ), riêng đoạn giữa tàn khuyết nặng nhất, nên có khi chỉ dịch đôi ba chữ lẻ, không thể dịch thành một ngữ đoạn, chỉ có phần bài minh còn khá đầy đủ nên chúng tôi dịch đúng văn vận, một số câu, chữ bị mất thì được chúng tôi phỏng dựng bằng phương pháp ngôn ngữ học và từ chương học cổ điển.
Về cách trình bày, mỗi chữ bị mất đều được ký hiệu bằng một ô vuông (cả ở phần chính văn Hán văn và phần phiên âm), các chữ bị mờ trên văn bia hoặc trên các bản sao được đoán đọc thì tự dạng tái lập cùng phiên âm, dịch nghĩa của các vị trí tái lập đó sẽ được đặt trong ngoặc vuông. Các chú thích được đánh số ở cả chính văn, phiên âm và dịch nghĩa.

2. Sự nghiệp Lê Hầu và lịch sử Việt Nam thế kỷ 6-7 qua sử liệu bia Đại Tùy Cửu Chân

Về nội dung, tấm bia Đại Tùy Cửu Chân đề cập đến một nhân vật lịch sử họ Lê, giữ chức Thứ sử ở quận Cửu Chân, ông từng trải các chức Ái Châu Thứ sử, Đô đốc Ái-Đức-Minh-Lị-Hoan chư quân sự vào thời nhà Lương, sau giữ các chức Thường thị Uy vũ Tướng quân, Cửu Chân thứ sử, tước Mục Phong hầu. Cho nên, ông còn được Nguyên Nhân Khí gọi là Lê Hầu, Lê Thứ sử hay Sứ quân Lê.
Bài văn bia ghi lại việc Lê Hầu dựng đạo tràng Bảo An (chùa Bảo An) tại quận Cửu Chân. Như truyền thống dựng chùa tháp và lập bi văn, chúng ta có thể thấy, Lê Hầu chính là hưng công hội chủ để xây dựng chùa này. Sau khi dựng chùa, ông đã mời Nguyên Nhân Khí viết văn bia, khi đó ông này đang giữ các chức Kiểm hiệu Giao Chỉ quận, Nhật Nam quận thừa, kiêm Nội sử xá nhân. Xét về chức quan, thì Lê Hầu giữ chức vụ cao hơn Nguyên Nhân Khí. Nguyên Nhân Khí có lẽ khi đó ít tuổi hơn, nhưng vì là người “thông minh mẫn tiệp”, giỏi văn chương và hiểu sâu về đạo Phật, nên đã được Lê Hầu nhờ soạn minh văn. Nguyên Nhân Khí là người Bắc, đến làm quan tại Nhật Nam, là em trai của Nguyên Huy – một người đang rất được trọng vọng ở triều đình nhà Tùy thời bấy giờ (cụ thể xem chú thích 11 trong phần dịch văn bia ở sau). Việc Lê Hầu nhờ Nhân Khí, hẳn thấy được sự quan hệ ở tầm cấp cao của hệ thống chính quyền thời bấy giờ. Lê Hầu trước đó hẳn đã nghe được văn tài cũng như thưởng đọc các tác phẩm của Nhân Khí, nên mới giao trọng trách này cho ông. Và ta biết, bài văn bia này cũng là tác phẩm văn chương duy nhất còn lại của Nguyên Nhân Khí. Qua lời văn bia, ta có thể thấy phần nào văn tài cũng như học vấn về Phật giáo của nhân vật này:

夫 法理靈符,非世智之可求;
法性幽深,豈石言之所測。
故 梵魔之境,猶為化城;
三界之間,方稱火宅。
Phù,
Pháp lý linh phù, phi thế trí chi khả cầu;
Pháp tính u thâm, khởi thạch ngôn chi sở trắc.
Cố,
Phạm ma chi cảnh, do vi hóa thành;
Tam giới chi gian, phương xưng hỏa trạch.

Tạm dịch sang văn vần:
Ôi,
Pháp Phật thiêng liêng, trí tuệ thế gian há thửa cầu.
Pháp tính thâm sâu, lời nói của trời khôn đoán hết.
Nên,
Cảnh Phạm thiên, còn là hóa thành
Chốn tam giới, cũng là nhà lửa.

Quay trở lại với nội dung tấm bia, chúng ta thấy, văn bia này còn ghi lại nhiều địa danh hành chính cổ vào nửa sau thế kỷ 6, đầu thế kỷ 7, như quận Giao Chỉ, quận Nhật Nam, châu Đức, châu Ái, châu Lị, châu Minh, châu Hoan, huyện Cửu Chân, quận Cửu Chân, quận Nam, huyện Vệ An, Giao Chỉ và một số khe động ở quận Cửu Chân. Những mảnh chữ rời còn sót lại như vậy ít nhiều cho phép chúng ta mường tượng các cấp hành chính vào thời này. Khe và Động có khả năng là những đơn vị cư dân bản địa, hẳn sẽ có tên nhưng không thấy chép trong văn bia hoặc đã mờ mất, chỉ biết Lê Hầu từng đem ân đức tưới tắm ở các khe động này, khiến nhân dân đều an cư lạc nghiệp ([ân] toại phú dân) mà tôn sùng ông, theo về với ông.

Người đầu tiên nghiên cứu về Lê Ngọc/Lê Hầu là Le Breton, ông cho rằng Lê Ngọc là Đô hộ Giao Châu (sic), là người đã dựng một quốc gia riêng và đóng đô ở Trường Xuân (Cửu Chân), sau đó ông chia các vùng lãnh thổ cho các con. Con cả Ích Trí (sic) được giao trị nhậm ở Cửu Chân, con thứ hai là Trung Quốc được làm Tả Quốc, con gái Tưng Liệt (sic, có lẽ là Trung Liệt – TTD chú) được trấn ở Đông Kinh. Sau đó, gia tộc của Lê Ngọc đã bị nhà Đường đánh lui về Cửu Chân, rồi bị tiêu diệt. Ông cho rằng thời đại của Lê Ngọc tồn tại từ năm 612 đến năm 619 [Le Breton 1924: 29]. Tuy nhiên, học giả người Pháp lại không thấy dẫn sử liệu nào từ văn bia, ông cũng không nhắc đến sự tồn tại của bia này. Theo phán đoán của chúng tôi, ông đã chủ yếu dựa vào thần tích.

Năm 1960, giáo sư Đào Duy Anh đã trở về Thanh Hóa khảo sát thực địa. Trong chuyến điền dã này, ông đã phát hiện ra tấm bia Đại Tùy Cửu Chân tại Trường Xuân. Sau đó, giáo sư Đào Duy Anh đã kết hợp với các tư liệu thần phả sưu tầm được tại địa phương và xác định rằng Thứ sử Lê tên thật là Lê Cốc hay Lê Ngọc, tổ tiên làm quan đời Tấn ở Trung Quốc và được phong hầu, đến đời Lương thì đã trải được ba đời, đều được phong hầu cả. Đến đời Tùy thì Lê Hầu được bổ làm Tuyên Uy Tướng quân, Nhật Nam Thái thú, đến niên hiệu Đại Nghiệp thì đổi làm Cửu Chân Thái thú [Đào Duy Anh 1963: 27]. Những nghiên cứu của Le Breton và Đào Duy Anh sau đó được một số nhà nghiên cứu như Trần Quốc Vượng , Lê Cường [2007: 83] kế thừa. Những nghiên cứu trên tưởng đã khép lại về một nhân vật lịch sử vào cuối thế kỷ 6 – đầu thế kỷ 7. Thế nhưng, điểm đáng ngạc nghiên nhất mà khi chúng tôi thực hiện nghiên cứu này, là sau hơn 50 năm phát hiện, bia Đại Tùy Cửu Chân chưa từng được bất kỳ học giả nào tiến hành dịch chú, và lạ hơn nữa là chỉ có một vài thông tin trong tấm bia này được các nhà nghiên cứu khai thác, còn phần lớn các sử liệu về Lê Ngọc chủ yếu lấy từ… thần tích. Ví dụ: tên chức Đô hộ (có từ đời Đường về sau), tên con trai cả là Ích Trí (chứ không phải Ích Từ như văn bia), rồi Ích Trí được giao trị nhậm ở Cửu Chân (thay vì Thái thú Nhật Nam như văn bia), rồi con gái út là Trung Liệt trấn ở Đông Kinh (một địa danh rất muộn về sau này, thuộc miền Bắc),… Vì thế, những khảo cứu giới thiệu dưới đây, sẽ đưa ra một tình hình khác về Lê Ngọc so với những công trình trước đây.

Theo như văn bia Đại Tùy Cửu Chân, gia tộc họ Lê đến thời Lê Hầu là đã “ba đời tự lập” (tự vị tam đại) . Tổ tiên Lê Hầu vào đời Tấn, nhân loạn Vĩnh Gia (xem giải thích trong phần chú thích văn bia) nên đã chạy về phía Nam lánh nạn. Thân sinh của ông có khả năng đã làm Thứ sử Triều Châu kiêm [Tổng quản] Tướng soái. Sau đó, đến đời nhà Lương, Lê Ngọc mới chuyển về vùng phên dậu biên viễn phía Nam, giữ các chức Thứ sử Ái Châu, rồi Thứ sử quận Cửu Chân đồng thời kiêm luôn các chức Đô đốc Ái-Đức-Minh-Lị-Hoan ngũ châu chư quân sự, Thường thị Uy vũ Tướng quân. Việc các viên quan đứng đầu các châu quận đồng thời nắm luôn quyền quân sự là điều có thể hiểu được. Những thông tin ở trên cho phép đi đến nhận định rằng Lê Hầu đã chuyển đến làm quan và lưu trú tại Giao Châu cho đến khi ông mất, tức là thời gian lưu trú của ông ở Cửu Chân trên dưới 60 năm (xem giải thích thêm về tuổi tác của Lê Hầu tại chú về “Hữu Lương” trong phần chú thích). Như vậy, ông đã trị nhậm qua bốn triều đại là Lương (502-557), Trần (557-589), Tùy (581-618) và Đường (618-907). Văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn cho biết đời Lương, Lê Hầu giữ chức Ái Châu thứ sử kiêm Đô đốc quân sự năm châu Ái-Đức-Minh-Lị-Hoan. Cả giai đoạn nhà Trần, không thấy chép ông giữ các chức gì. Chỉ thấy đến đời Tùy ông vẫn giữ chức tướng quân, làm Thứ sử các quận châu, được ban Thường thị Uy vũ tướng quân và vẫn nhậm Ái Châu Thứ sử. Từ đời Lương ông đã được phong tước Mục Phong hầu, đến đời Tùy ông vẫn ở tước đó, không được tấn phong thêm.

Với một bề dày trên chính trường, trải giữ nhiều chức vụ tại Cửu Chân trong quãng 60 năm, Lê Hầu đã có những quan hệ mật thiết với tầng lớp quan lại ở khắp các nơi từ Ái Châu đến Nhật Nam. Chính vì lẽ đó, trong văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận, chúng ta còn thấy một số các chức vụ quan lại ở một số nơi, ví dụ như Bằng Thừa Tự là Huyện lệnh huyện Cửu Chân. Thông tin này cho thấy, Bằng Thừa Tự là một viên quan dưới cấp của ông. Vào thời ông làm Thái thú quận Cửu Chân thì lị sở có khả năng là huyện Cửu Chân. Ngoài ra, còn có Huyện lệnh huyện Vệ An, hiện cũng chưa rõ huyện Vệ An ở đâu, và vị huyện lệnh này tên là gì, song có lẽ địa danh hành chính này cũng nằm đâu đó trong vùng đất Cửu Chân mà thôi.

Theo như nghiên cứu của giáo sư Đào Duy Anh, khi làm Nhật Nam Thứ sử, Lê Hầu đã lấy một người vợ ở đất Nhật Nam (Nghệ An ngày nay), sinh được ba người con trai và một con gái [Đào Duy Anh 1963: 27]. Qua tư liệu văn bia Đại Tùy Cửu Chân, chúng tôi thấy có nhắc đến con trai cả của ông tên là Ích Từ. Theo các tư liệu thần phả và các nghiên cứu của Le Breton và Đào Duy Anh, thì con trai trưởng của Lê Hầu hiệu là Ích Trí, tục gọi là đức Thánh Cả, con trai thứ hai là Trung Quốc, tục gọi là đức Thánh Hai, con thứ ba hiệu là Tham Xung được gọi là đức Thánh Lưỡng, vợ và con gái của ông không rõ tên nhưng thần hiệu là Tam Giang Trinh Liệt Thần Mẫu và Liệt Nữ Công Chúa [Le Breton 1924: 29; Đào Duy Anh 1963: 22]. Trên bia Đại Tùy Cửu Chân, đoạn nhắc đến trưởng nam Ích Từ còn thấy chép một số chức vụ như [Tuyên] uy Tướng quân, Nhật Nam Thái thú. Chưa nhà nghiên cứu nào trước đây nhắc đến chi tiết này. Chúng tôi tạm đưa ra giả thuyết rằng, khi Lê Hầu làm Thái thú quận Cửu Chân thì con trai cả của ông đồng thời giữ chức Thái thú quận Nhật Nam kiêm [Tuyên] uy tướng quân. Điều này lý giải vì sao, Nguyên Nhân Khí – một viên quan dưới quyền của Lê Ích Từ được mời viết minh văn cho bia Trường Xuân.

Đặt trong hệ thống các sử liệu trước nay về giai đoạn này, chúng tôi thấy văn bia Đại Tùy Cửu Chân đã góp thêm một số sử liệu bổ sung cho diện mạo chính trường Giao Châu giai đoạn này như sau. Khi Lê Hầu mới sinh (quãng năm 535-540, có lẽ sinh ở Triều Châu) , Lý Bôn đánh Thứ sử nhà Lương là Tiêu Tư. Năm 546, Thứ sử Giao Châu là Dương Phiêu đánh bại Lý Bôn ở thành Giao Ninh, năm sau Lý Bôn bị chém đầu [Lương thư q3, chuyển dẫn Đào Duy Anh 1963: 23]. Quãng những năm 550-557, khi đang ở độ tuổi khoảng từ 20-25 tuổi, Lê Ngọc giữ chức Ái Châu Thứ sử, Đô đốc quân sự năm châu. Đến năm 557, nhà Lương mất, nhà Trần lập quốc. Trong quãng từ năm 557-602, Lê Ngọc có khả năng vẫn trấn giữ đất Ái Châu. Trong khi, chính trường có nhiều biến động. Sách Trần thư chép, năm 558, nhà Trần sai Âu Dương Ngỗi đem con em là Thứ sử Giao Châu Thịnh đi đánh Chu Địch ở phía Bắc Ngũ Lĩnh. Sách Trần thư không hề chép thêm một chi tiết nào về Giao Châu giai đoạn này, mà chỉ chép các thông tin về vùng Quảng. Việt sử lược chỉ ghi chép một số biến động chính trị như sau. Thời Vũ Đế nhà Lương, có Trần Bá Tiên đã dẹp được Lý Bôn nên được giao làm Binh uy Tướng quân, Thứ sử Giao châu, rồi được gọi về Bắc. Đến năm 602, Lưu Phương làm Hành quân Tổng quản đánh Phật Tử ở thành Việt Vương và Đại Quyền ở Long Biên. Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-616) đời Tùy Dạng Đế vì Lâm Ấp làm phản nên vua nhà Tùy đổi Nhật Nam làm Hoan Châu, dùng Lưu Phương làm chức Hoan đạo Hành quân Tổng quản để đánh Lâm Ấp. Đánh xong, Lưu Phương khắc đá ghi công rồi trở về. Giữa đường bị bệnh mà chết. Năm 622, vua Cao Tổ nhà Đường trao cho Khâu Hòa (người Lạc Dương) chức Đại tổng Quản, tước Đàm quốc công, Hòa lại tâu xin đặt chức Đô hộ Phủ chúa. Những sử liệu trên cho thấy, những vùng đất có biến loạn, buộc các quan tướng triều Tùy đến đánh dẹp là thuộc phạm vi quận Giao Chỉ (tương ứng Bắc Bộ) và Lâm Ấp, không thấy có đoạn nào ghi chép về việc chinh phạt quận Cửu Chân do Lê Hầu trấn giữ trong quãng 60 năm.

Như vậy, khoảng thời gian từ những năm 557 đến năm 622, cả một vùng rộng lớn của quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều không thấy xuất hiện một dòng nào về việc chiến tranh tranh giành quyền lực với các thế lực phương Bắc. Điều ấy chứng tỏ rằng, Lê Hầu cùng với các con và thuộc tướng của mình đã tiến hành các phương thức chính trị hiệu quả. Một mặt, ông vẫn có những ứng xử mềm dẻo với chính quyền phương Bắc – để không bị nghi ngờ là kẻ có âm mưu làm phản. Mặt khác, đối với các thế lực quân sự tại quận Giao Chỉ, ông dường như “án binh bất động”. Tức là, ông chỉ chăm chú vào việc cai quản địa hạt của mình, và không tham gia vào các hoạt động tranh giành quyền lực của các thế lực địa phương. Về mặt ngoại giao, Lê Hầu trong khoảng 60 năm trải giữ các chức vụ quan trọng nơi vùng biên ải (Nhật Nam Thái thú, và Cửu Chân Thái thú) tiếp giáp và gần kề nhất đối với Lâm Ấp. Nhưng khi Lâm Ấp tỏ ra không thần phục ông cũng không khởi phát một cuộc chiến nào. Những việc chinh phạt ấy, dường như ông đã “đẩy” hết về các lực lượng của phương Bắc. Cuộc chinh phạt Lâm Ấp của Lưu Phương năm 605 hẳn đằng sau phải có bàn tay hậu thuẫn của các Thứ sử địa phương – Lê Hầu và Lê Ích Từ. Nhưng, những sử liệu hiện còn không thấy chép hai cha con ông có trực tiếp tham gia vào bất kỳ một trận tuyến nào. Văn bia chỉ ghi các hoạt động quân sự của Lê Hầu chủ yếu là huy động cơ binh để giữ an ninh trong phạm vi lãnh thổ. Đó là một sự khôn ngoan, sáng suốt đủ để an định cuộc sống của nhân dân và không làm hao tổn binh lực của bản quận, cũng như quyền lợi gia tộc. Có thể nói, Cửu Chân-Nhật Nam dưới thời của cha con Lê Hầu-Lê Ích Từ là một vùng đất thái bình, thịnh trị. Cho nên, Nguyên Nhân Khí trong văn bia Trường Xuân mới ca ngợi ông là “Lê hoàng” (vua Lê) của vùng đất này. Tên tước Mục Phong hầu dành tặng cho ông hẳn cũng vận đúng vào con người của ông.

Văn bia và những sử liệu không cho biết ông mất khi nào. Theo thần phả mà giáo sư Đào Duy Anh khai thác, sau khi nhà Đường diệt Tiêu Tiển thì Lê Hầu lui giữ Cửu Chân mà trấn thủ địa phương. Ông cùng các con đã kháng chiến với quân nhà Đường rồi tử trận [Đào Duy Anh tb2010: 90-92]. Trên đây là giả thuyết của Đào Duy Anh từ một số sử liệu gạn lọc được từ thần phả. Tuy nhiên, một số ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư đã nêu ra bối cảnh lịch sử khiến cho chúng ta nghĩ đến nhiều khả năng khác. Năm 622, Khâu Hòa làm Thái thú Giao Châu, cậy uy thế của nhà Tùy, thường đi tuần các khe động ở biên giới, ở châu hơn 60 năm (sic), sở hữu rất nhiều châu báu, giàu như vương giả [1998: 188-189]. Nhưng thông tin “ở châu 60 năm” hẳn là có vấn đề. Bởi lúc mà Khâu Hòa chuyển về trấn nhậm ở biên viễn phía Nam là lúc ông đã 60 tuổi [Taylor 1982: 166], nhận xét này của Taylor trùng khít với các sử liệu trong Cựu Đường thư. Sách này chép: Cuối đời Đại Nghiệp Hòa lánh mình ở Hải Nam, quan lại ở đấy thường cướp của thuyền chài, bách tính đều hàm oan, nên dấy loạn. Khưu Hòa khi đó đang trị lý hai quận đều thi hành chính sách nhân ái, rất nổi tiếng nên được Tùy Dạng Đế sai làm Giao Chỉ Thái thú, vỗ về hào kiệt, rất được lòng người Man. Đến khi nhà Tùy mất, bọn Tiêu Tiển, Nịnh Trường Chân đem quân đến đánh. Hòa dẫn thủ lĩnh các châu Giao-Ái, đánh lui bọn Trường Chân. Bờ cõi vẹn yên. Sau đấy, Hòa mới biết nhà Tùy đã mất bèn theo Tiêu Tiển. Đến khi Tiển bị dẹp, thì Hòa lại lấy đất Hải Nam dâng về nhà Đường. Vua Đường sai sứ Lý Đạo Dụ đến trao chức Thượng Trụ quốc Đàm Quốc công-Giao Châu Tổng quản. Hòa lại sai Cao Sĩ Liêm dâng biểu xin về triều. Vua thuận cho. Lại thêm, Khưu Hòa mất năm Trinh Quán 11 (636), thọ 86 tuổi. Năm 60 tuổi ông nhậm chức tại Giao Châu, suy ra năm ông nhậm chức tại Giao Châu là năm 816. Những thông tin này cho thấy có khả năng xung đột giữa Khâu Hòa và Lê Hầu. Nếu như khả năng này xảy ra thì đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự tiêu vong của dòng họ nhà Lê trên đất Cửu Chân đúng như giả thuyết của Le Breton và Đào Duy Anh.

Nhưng chúng tôi muốn hướng đến một giả thuyết khác, rằng Lê Hầu vẫn giữ chức Thái thú Cửu Chân cho đến hết đời. Tức là đã không xảy ra một cuộc chiến tranh nào giữa lực lượng của Lê Hầu cũng như của con trai ông – Thái thú Nhật Nam Lê Ích Từ với Thái thú Giao Châu-Khưu Hòa (từ 616 trở về sau). Có hai lý do khiến chúng tôi đưa ra giả thuyết như vậy.

Trước nay, các nhà khoa học cho rằng tấm bia Đại Tùy Cửu Chân do Lê Hầu dựng vào năm 618 tức là vào năm nhà Đường lật đổ nhà Tùy. Thế nhưng, văn bia vẫn cứ ghi “Đại Tùy” mà không ghi niên hiệu nhà Đường. Điều này chứng tỏ, Lê Hầu đã không đầu hàng nhà Đường mà đã đứng lên nổi dậy chống lại thế lực phương Bắc. Nhưng tính chi tiết thì không hẳn như vậy, văn bia Trường Xuân dựng vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Nhâm Dần niên hiệu Đại Nghiệp thứ 14 (618), trong khi nhà Đường chính thức thay nhà Tùy vào ngày 18 tháng 6 năm này. Nghĩa là, bia dựng trước hai tháng mười ngày.

Thứ nữa, đến sau năm 618, Lê Hầu lúc đó có khả năng đã từ 85-90 tuổi, một độ tuổi đã rất cao để trực tiếp lãnh đạo chiến tranh để đến mức bị giết do thất bại. Cuối cùng, và quan trọng nhất, như chúng tôi đã phân tích ở trên, Lê Hầu luôn là một người có một độ lùi mẫu mực trên con đường chính trị, khiến cho suốt cuộc đời làm quan 60 năm, giữ chức Tướng quân năm quận, Thứ sử các châu quận của ông không hề phải “ra trận” một lần nào với các Thứ sử cùng cấp (như Lý Bôn, Lý Bí, Lý Phật Tử, Tiêu Tiển, Âu Dương Ngỗi, Chu Địch, Trần Bá Tiên…). Bất luận là triều đại nào, Lương, Trần hay Tùy ông đều mềm mỏng lĩnh chức để yên ổn với vùng đất “sinh địa” của mình. Những thay đổi triều đại dường như không có tác động nào đến cuộc đời chính trị của ông. Cho nên, từ sau năm 618, mặc dầu là quan nhà Tùy, nhưng trong bối cảnh toàn bộ lãnh thổ Hoa Hạ đã thuộc về nhà Đường, thì một người lão luyện về chính trị như ông cũng phải biết rằng vận của nhà Tùy đã hết. Khưu Hòa kiêu dũng vậy mà vẫn phải quy thuận huống hồ là một người chủ trương “vô vi nhi trị”, và đằm mình trong Phật pháp như ông.

Qua văn bia, ta vẫn thấy Lê Hầu vẫn là người thung dung trên dặm thanh vân, thảng thích trong nguồn Phật học (tâm tùy vô môn, thị yên du xứ). Ông đã cho xây dựng một số công trình như đạo tràng Bảo An (chùa bảo hộ sự an lành) , đài Sủng Tịnh (đài tôn thờ sự thanh tịnh) , và theo thông tin từ thần tích do giáo sư Đào Duy Anh khai thác, ông còn cho xây dựng thêm cả thọ oanh (sinh phần) . Có thể nói, sự mềm mỏng lão luyện trên chính trường cùng với tinh thần từ bi của nhà Phật đã làm nên công tích bình trị của Lê Hầu tại đất Cửu Chân-Ái châu-Nhật Nam.

Mặt khác, xét về cán cân lực lượng thì gia đình ông lúc đó đã chiếm đến 2/3 lãnh thổ thời và non nửa dân số thời bấy giơ . Ông giữ Cửu Chân, con trai ông giữ Nhật Nam, Khưu Hòa giữ Giao Châu. Cho nên, chiến tranh giữa Lê Hầu với nhà Đường đã là một chuyện khó xảy ra, xung đột giữa gia tộc nhà ông với Khưu Hòa có lẽ cũng khó trở thành hiện thực.

Việc ông cùng vợ con và tướng lĩnh khác được thờ làm phúc thần ở nhiều nơi trong Thanh Hóa ngày nay, theo chúng tôi, có lẽ không chắc là do ông đã hy sinh cho việc “đấu tranh giữ nước” (chúng tôi muốn chua thêm rằng khái niệm “đấu tranh giữ nước” là của đời sau dùng cho thế kỷ thứ 6-7). Người được thờ làm phúc thần còn là người suốt đời làm phúc cho nhân dân, khiến cho cuộc sống của dân được yên ổn hạnh phúc. Lê Hầu cùng gia tộc ông có lẽ thuộc về trường hợp này.

Xét ở khía cạnh nào đó, Lê Hầu có thể coi như là “một vị vua” ở vùng đất Cửu Chân-Nhật Nam vào cuối thế kỷ 6, đầu thế kỷ 7. Sự tự trị mang tính chất “mềm” đối với nhà Lương, nhà Trần, nhà Tùy cũng như nhà Đường đã làm nên tính ổn định cho sự độc lập, cho vương quyền của gia tộc họ Lê trên mảnh đất này. Sự độc lập ấy đã khiến Lê Hầu được nhân dân của Cửu Chân cũng như quan lại địa phương coi ông như là vị “Vương” của họ. Điều ấy được thể hiện qua hàng loạt các từ ngữ của Nguyên Nhân Khí dành cho ông trong văn bia Trường Xuân như Lê hoàng, vương cung, khâm minh (chữ dùng để ca ngợi vua Nghiêu), ngự điện, thiệu long (dùng để trỏ việc nhà vua kế nối sự nghiệp của tiên vương), nhân phong (từ dùng để ca ngợi công nghiệp trị lý của nhà vua)… Nguyên Nhân Khí đã coi ông như là “đấng triết vương ở nước Bội nước Dung làm phên giậu cho nhà Chu đời trước”, đã ca ngợi ông như là một vị Điều ngự “từ bi tính Phật, làu thông đạo học” để dắt đám lê dân còn mê muội đến với cõi Phật an lạc:
Lê hoàng kết thiêng,
Bốn bể hòa đồng.
Kính cẩn trên ngôi,
Chỉnh sửa huân nhung!
“Ơn trạch của ông đã tưới khắp, khiến muôn dân sung túc” giống như “ngọn gió xuân nuôi dưỡng muôn loài” (Mục Phong hầu). Nhân dân đời sau, nhớ đến công đức của Lê Hầu cũng như gia tộc ông nên đã tôn ông lên làm phúc thần ở nhiều nơi. Theo văn bia Tu tập uy linh miếu bi ký do tiến sĩ Nguyễn Thực soạn, đến thế kỷ 17, Lê Hầu đã được nhân dân thờ phụng, và tôn xưng là Cao Tổ Lê Ngọc hoàng đế . Theo khảo sát thực địa của giáo sư Đào Duy Anh, thì Lê Ngọc cùng với vợ và các con được thờ tại hơn trăm đền thờ tại Thanh Hóa ngày nay .

3. Văn bia Đại Tùy Cửu Chân: giá trị văn học và lịch sử Phật giáo

So với văn bia Xá lị tháp minh đời Tùy năm 601, thì văn bia Đại Tùy Cửu Chân có giá trị hơn hẳn về mặt văn học cũng như những thông tin sử học có liên quan đến các nhân vật lịch sử. Độ dài văn bia quãng trên 900 chữ, là một bài văn của đại bút Nguyên Nhân Khí. So với Xá lị tháp minh là một bài văn bia không có chất văn chương, thuần túy là “rập khuôn” theo một mẫu để chôn dưới các tháp xá lị do vua Tùy sai xây dựng. Tức là, bia Xá lị tháp minh chỉ có nêu những nội dung tương tự như vài chục bia xá lị được làm cùng đợt như vậy ở Trung Quốc.

Vì thế, ở phần này, chúng tôi thiết nghĩ cũng cần phải có đôi dòng khảo luận về thể thức, nội dung và nghệ thuật ngôn từ của văn bia Trường Xuân.
Về mặt nội dung, văn bia Trường Xuân rõ ràng được viết ra là nhằm mục đích ca ngợi Lê Hầu cũng như dòng họ nhà ông trong việc chăn dân. Thế nhưng, như phân tích của chúng tôi về phương thức chính trị của Lê Hầu ở phần trên, Lê Hầu tuy là người đứng ở vị trí “cai trị nhân dân”, nhưng ông luôn là người ứng xử như là một vị Phật sống để dẫn dắt nhân dân khỏi khổ ải lầm than của cõi nhân sinh. Ngay từ thời quãng 17 đến 25 tuổi, nhận thấy xã hội nhà Lương động loạn, ông đã tự đi tìm cho mình một mảnh đất mới xa xôi và an lạc. Cha ông là Thứ sử Triều Châu, còn ông đã chuyển về làm Thứ sử Nhật Nam (theo như thần tích), hay Thứ sử Ái châu. Khi đó, như ta biết, Nhật Nam hay Cửu Chân là mảnh đất biên viễn, là cực Nam của nhà Lương lúc bấy giờ. Phía Tây Bắc là giáp Đại Lý, phía Bắc giáp Giao Chỉ, phía Tây là giáp Bồn Man, phía Nam là giáp Lâm Ấp. Thường thì, trong tâm lý người đời, phải đi làm quan xứ ấy không khác gì phải đi đày, bởi khí hậu khắc nghiệt, nhiều lam chướng. Những câu chuyện chép trong một số bộ sử quan phương có thể cho thấy rõ việc này. Chuyện Lưu Phương, năm 605, dù có chiến thắng Lâm Ấp, nhưng cũng đã chết trên đường trở về. Chuyện tông thất nhà Đường chết nơi đất Giao Chỉ. Chuyện một viên quan nhà Đường sau đó, thà “khi quân” chịu chém đầu còn hơn phải đi nhậm chức ở Giao Châu. Thế nhưng, Lê Hầu đã chọn cái mảnh đất không ai muốn đến ấy, để xây dựng một triều đại 60 năm của mình kéo dài đến ba đời (từ ông, đến con trai ông Lê Ích Từ, và có thể cả cháu chắt ông nữa ). Chọn một nơi xa xôi như thế, Lê Hầu đã gần như cách li hoàn toàn khỏi những động loạn xã hội, những bể dâu thay đổi triều đại từ Lương, Trần, Tùy rồi đến Đường. Sự lựa chọn ấy thể hiện sự tinh tế và tầm viễn kiến của một người vừa lão luyện trên chính trường, vừa minh tuệ về mặt triết học nhân sinh.

Văn bia có ca ngợi ông một đoạn như sau:
“Ôi, Lê Hầu [sứ quân ta], [tính bẩm] thiên tư, đạo học dần đủ, trước xưng Thứ sử, [sau] gọi Lê Hầu. [Người trị lý đất Cửu Chân so với Hoa Hạ rộng lớn] như đấng triết vương ở nước Bội nước Dung [làm phên giậu cho nhà Chu thuở nọ], vì thế mới vâng mệnh [đến đây]. [Trước đây] khi [loạn] đời Vĩnh Gia, [tổ tiên ông lánh nạn đến]囗囗囗囗. [Thân phụ]囗囗囗囗囗囗, tổ cao làm [Tổng quản] tướng soái, Thứ sử quận Triều Châu. Khi nhà Lương còn đang cai trị, [ông] làm Đô đốc quân sự năm châu Ái-Đức-Minh-Lị-Hoan, [nhiếp] chức Thứ sử Ái [châu], 囗囗囗囗囗囗囗囗 tướng quân, [được] phong tước Mục Phong hầu. [Cho nên] mới biết [việc cũ], [nhà ông] tự lập đã ba đời, hưởng năm lâu dài [vậy]. Ông ở nhàn tĩnh nơi vùng đất mới yên ổn [tránh được những động loạn các đời Lương, Trần, Tùy], ơn trạch tưới khắp, khiến muôn dân sung túc. [Ông vốn là người ham chuộng Phật pháp], khi theo học luôn có đức lại giữ pháp môn, [nên] phẩm hạnh được viên mãn. [Ông] thường hay lễ Phật tụng kinh, [thấy] linh tượng tỏa sáng; [lại lấy] Thiền tông làm lòng, thường tự thảng thích trong đó”.

Mặc dầu, câu chữ trên văn bia không còn nguyên vẹn, song những khắc họa về thân thế, gia tộc, công nghiệp và đức hạnh của Lê Hầu dưới ngòi bút của Nguyên Nhân Khí, có thể nói là hiện lên một cách khá sắc nét, rõ ràng. Ông tư chất vốn là một người nhân từ, lại thêm từ nhỏ đã được học hành, cho nên đức tài đều viên mãn (đạo học tiệm cụ). Chính cái sở học, cái thiên tư ấy đã giúp ông có được cái quyết định đúng đắn: coi đất Ái Châu-Nhật Nam là một miền đất hứa, một miền đất để định cư mà an lạc, ông đã coi đó như là “sinh địa” của cuộc đời ông, gia tộc ông.

Trong văn bia, Nguyên Nhân Khí cũng ca ngợi về phép cư xử của Lê Hầu. Dưới nhãn quan của Nho gia, Nguyên Nhân Khí coi hành động “trấn giữ Ái Châu” của Lê Hầu là một hình mẫu ứng xử chính trị tiêu biểu của sự nghiệp “tu tề”. Ông viết: “[Người trị lý đất Cửu Chân so với Hoa Hạ rộng lớn] như đấng triết vương ở nước Bội nước Dung [làm phên giậu cho nhà Chu thuở nọ]”. Có thể nói, đây là một biểu hiện rất sinh động cho thấy Nho giáo đã được thực thi như thế nào ở Việt Nam trong thế kỷ 6 thế kỷ 7. Chính vì thế, Lê Hầu được phong tước là “Mục Phong hầu”. Chữ “mục phong” là một điển ngữ xuất nguồn trong Kinh thi để trỏ ngọn gió mùa xuân mát lành thổi đến khiến cho muôn cây cỏ tốt tươi, sinh sôi nảy nở. “Mục Phong” là cái đức của người quân tử, là cái dụng của bậc vương chủ. Trong văn bia, Nguyên Nhân Khí đã dùng nhiều từ ngữ của Nho gia để ca ngợi Lê Hầu, nhưng quan trọng hơn cả các từ ngữ đó đều mang sắc thái tôn vinh, xưng tụng đối với các vị vua, các vị quân chủ.

Song, điểm nổi trội hơn cả trong văn bia Đại Tùy Cửu Chân chính là nội dung về Phật học. Như trên đã nêu, Lê Hầu là người ham chuộng Phật pháp, thường hay tụng kinh, là người biết giữ pháp môn, phẩm hạnh viên mãn. Ông đã cho xây dựng chùa Bảo An, cho khắc bia Trường Xuân, cho dựng đài Sủng Tịnh,… đây đều là những công trình có liên quan đến việc hoằng dương Phật pháp. Chính vì thế, Nguyên Nhân Khí đã sử dụng sáu bảy chục thuật ngữ Phật giáo trong bài văn bia này để nói về sự nghiệp của “đại hộ pháp” họ Lê trên đất Cửu Chân. Trong vòng 60 năm cai trị ở mảnh đất này, ông đã đem ơn đức, ân trạch, đã đem ánh sáng trí tuệ của Phật pháp chiếu rọi cho lê dân, đã đem đuốc tuệ (trí cự), nước tuệ (tuệ thủy) để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi lầm than khổ ải. Cho nên, nhân dân mới coi ông như là một vị Phật sống, là người nối được chân tông, là đức “điều ngự” để “cứu vớt sinh linh”.

Đặt trong bối cảnh thời đại, thời Lương, Trần, Tùy là thời đại Phật giáo đang hết sức phát triển. Xã hội càng động loạn, con người càng cần đến chốn nương tựa tâm linh. Vào thời Lương, chùa Hồng Lô thuộc về Thiền tông. Cũng trong thời gian này, các thiền sư Thiên Trúc đã rộng truyền thiền pháp vào Trung Quốc. Trong đó nổi tiếng nhất là Bồ Đề Đạt Ma. Lương Vũ Đế nghe danh, mà mời vị sư này đến kinh đô Kiến Khang. Như thế, Phật giáo từ thời Lương đã đi vào chốn cung đình. Trải đến triều nhà Tùy, Phật giáo đã lên đến cực thịnh. Tùy Văn Đế từng tự nhận “công nghiệp của mình là do Phật pháp” (ngã hưng do Phật pháp), thậm chí sau còn chuyển sang bài xích Nho học, coi Phật giáo là quốc giáo. Tùy Văn Đế cũng là người dùng tôn giáo nhằm mục đích chính trị, ông này đã từng hiệu triệu sư tăng xuất sơn để “hành đạo vì quốc gia”. Đến thời Tùy Dạng Đế, thì ông vua bạo ngược này còn đích thân thụ giới của tông Thiên Thai, trở thành đệ tử nhà Phật. Nhà Tùy đã cho xây dựng hơn 5000 chùa tháp, tạo đắp vài vạn tượng Phật, phiên dịch vài vạn cuốn kinh Phật, khiến cho Phật giáo phát triển gấp bội so với các triều đại trước. Tùy Văn Đế còn cho xây dựng 83 tháp xá lị ở khắp nơi, trong đó có một tháp ở Long Biên (Bắc Ninh ngày nay).

Trong bối cảnh như vậy, việc Lê Hầu đi theo Phật pháp cũng là điều có thể hiểu được. Thế nhưng, lối “tu đạo” của Lê Hầu khác hẳn về chất so với các hoàng đế phương Bắc. Các vua Tùy Văn Đế, Tùy Dạng Đế tuy đẩy Phật giáo lên địa vị quốc giáo, khiến Phật giáo có địa vị tối cao, song cũng là những người đã thế tục hóa tôn giáo này. Hẳn không ít nhà sư đã nghe lời kêu gọi của Văn Đế mà lao vào cuộc chiến tranh “hành đạo” của ông vua này. Nhà Tùy, dựa trên chiêu bài Phật giáo để tiến hành thôn tính, chinh phạt hàng loạt các quốc gia láng giềng như Đột Quyết, Lâm Ấp, Khiết Đan, Cao Ly, Lưu Cầu, Y Ngô… Trong khi đó, Lê Hầu trong suốt 60 năm cai trị ở Cửu Chân, Nhật Nam ông không hề tiến hành bất kỳ một cuộc chiến tranh nào với các thế lực đương thời. Ông chuyên chú chăm lo cho dân chúng đi theo Phật pháp. Nhân Nguyên Khí ca ngợi ông là người “nối được chân tông”, hẳn cũng là vì thế.

Về mặt ngôn ngữ, văn bia Trường Xuân, tuy bị khuyết nhiều chữ, không còn đọc được toàn văn. Nhưng chúng ta còn thấy được thể thức, bố cục của văn bia thời này như sau. Ngoài tên bia trên bi ngạch, còn có tên phụ ở lòng bia. Ngay dưới tên phụ là chức tước tên tuổi, quê quán người soạn văn bia. Tên văn bản ghi rõ thể loại là “bi văn” trong đó, phần chính văn gồm đoạn thuyết lý duyên khởi về đạo Phật. Sau đó, là đoạn ký thuật về tông tộc, hành trạng, công nghiệp của Lê Hầu. Đoạn cuối là bài minh độc vận ca ngợi Phật pháp và công cuộc hoằng dương Phật giáo, dẫn dắt chúng sinh của Lê Hầu.

Văn bia Trường Xuân thể hiện rõ lối dùng văn xen kẽ giữa văn xuôi và văn biền ngẫu. Vì thế, có những đoạn lên xuống nhịp nhàng, cân đối mà thanh thoát, có những chỗ lại trần thuật lớp lang, giàu giá trị thông tin. Ví như:
Ôi,
Pháp Phật thiêng liêng, trí tuệ thế gian há thửa cầu;
Pháp tính thâm sâu, lời nói của trời khôn đoán hết.
Nên,
Cảnh Phạm thiên, còn là hóa thành;
Chốn tam giới, cũng là nhà lửa.
[Chúng sinh] khốn khổ, nhạo báng làm trái đạo […], [nên] khiến cho [thân…] phải chịu khổ ải.
Tùy cơ trời mà làm lợi cho muôn vật, [như] vua Dục Vương [dựng] tháp báu, Đế Thích [có] chùa chiền, [thực] đều [là để] chiêm ngưỡng dung nhan tôn quý. [Các đấng ấy] đã bắc cầu bến cứu vớt muôn loài, [khiến chúng sinh] hồi hướng về nơi tịnh độ đất phúc vậy.
Có thể thấy, ngay cả trong những đoạn văn xuôi, tác giả thỉnh thoảng xen cả những tiểu đối, khiến cho câu văn cũng trở nên duyên dáng hơn, mượt mà hơn.
Phần bài minh được tác giả soạn bằng thể 4 chữ thông dụng, với lối gieo vần độc vận. Lối gieo vần này khác so với một số bài minh đời Lí đời Trần. Nhưng nhìn chung, bút khí đi khá đều đặn, ngôn từ trau chuốt, ca ngợi nhưng không sáo mòn:
[Theo nối] chân tông,
Tâm pháp khó cùng.
Đức sinh 囗 ngự,
Xem dấu vương cung.
Từ bi tính Phật,
Học đạo làu thông.
Bừng bừng đuốc tuệ,
Dắt đám mung lung.
Nên xưng Điều ngự,
Làm đức Thế tông.
[Người] phá [đạo] pháp,
Thảy đều về không.
Lê Hoàng kết thiêng,
Bốn bể hòa đồng.
Kính cẩn trên ngôi,
Chỉnh sửa huân nhung.
Đẹp thay [Lê Hầu]!
Truyền nối hết lòng.
Tầng đài cao vút,
Giảng đạo thung dung .
[Lòng] [theo] [cửa] [Phật]
Tính [khua] cầu vồng.
Trong điện chính giác,
Mà tỏ thần công.
Nước tuệ nhuần tưới,
Hoa tiên thắm nồng.
Nên xem bia đá,
Gìn giữ nhân phong.
Hoa ngân [đầy] [đủ]
[Với] [thiên] [địa] [cùng]
Có thể nói, văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn tại Trường Xuân là một áng văn chương cổ có giá trị về mặt văn học.
Hình thức, nội dung, thể chức văn bia đã khá ổn định, do một người nổi tiếng tài hoa là Nguyên Nhân Khí soạn. Văn bia này đánh dấu mốc son khởi đầu cho thể loại bi kí cả ở mặt vật chất lẫn phương diện thể loại, để sau đó nó được tiếp tục phát huy trong thời đại Lí Trần. Văn chương Lí Trần trong đó bi kí Lí Trần là một đỉnh cao, đỉnh cao ấy bắt nguồn từ văn hóa đời Tùy-Đường. Hay nói cách khác, Tùy Đường là bệ phóng cho những yếu tố văn hóa, văn chương cho thời đại Lý Trần cũng như nhiều nước khác trong khu vực.

Với bài văn bia cũng như bài minh trong bia Đại Tùy Cửu Chân, Nguyên Nhân Khí là tác gia văn học sớm hàng đầu mà chúng ta hiện biết. Bài văn bia không chỉ có ý nghĩa cho văn học mà còn là hiện vật giá trị để cung cấp thông tin cho các ngành lịch sử, mỹ thuật cổ (điêu khắc, thư pháp),… Có thể nói, những thông tin sử liệu qua bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn tại Trường Xuân đã bổ sung một số cứ liệu quan trọng làm sáng tỏ hơn một giai đoạn lịch sử của mảnh đất Cửu Chân-Ái Châu-Thanh Hóa cũng như Nhật Nam-Hoan Châu-Nghệ An rộng hơn là lịch sử Việt Nam vào giai đoạn từ năm 557 đến 618 mà trước nay các bộ sử quan phương không hề nhắc đến. Những khôn khéo trong việc đối nội, đối ngoại, thù trong giặc ngoài cũng như lối “ứng xử mềm” của Lê Hầu đối với các triều đại phong kiến phương Bắc, đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự và lịch sử!

Tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh, “Cái bia cổ ở Trường Xuân với vấn đề nhà Tiền Lý”, Nghiên Cứu Lịch Sử, 50 (5.1963), tr. 22-28.
2. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tb. 2010.
3. Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2000.
4. Le Breton, La Province de Thanh-Hoa, Imprimerie Kim Duc Giang, 1924.
5. Le Breton, Monuments et Lieux Historiques du Thanh Hoa (Contribution à l’inventaire des Vestiges), Revue Indochinoise, mars-avril-1921, XXIV, 3-4: 163-191.
6. Phan Văn Các – Claudine Salmon, Épigraphie en Chinois du Viet-Nam (Văn khắc Hán Nôm Việt Nam), Tập 1, École Française d’Extrême-Orient, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Paris-Hà Nội, 1998, tr. 1-12.
7. Nguyễn Du Chi, Hoa văn Việt Nam từ thời tiền sử đến nửa đầu thời kỳ phong kiến, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Hà Nội, 2003.
8. Lê Cường, “Nghiên cứu Mỹ thuật truyền thống: chặng đường dài”, Nghiên Cứu Mỹ Thuật, Nxb. Mỹ Thuật, H, 2007, tr. 80-89.
9. Trần Trọng Dương, “Đinh Bộ Lĩnh-loạn sứ quân: từ sử liệu đến sử thực”, Tạp chí Nghiên Cứu Và Phát Triển, Huế, số 01.2012.
10. Trần Trọng Dương, “Biểu tượng núi vũ trụ Tu Di-Meru trong văn hóa Việt Nam và châu Á”, Tạp chí Nghiên Cứu Mỹ Thuật, 06. 2012, tr. 23-36.
11. Trần Văn Giáp, “Văn bia Việt Nam (công dụng thác bản văn bia Việt Nam đối với Khoa học Xã hội và những thác bản văn bia hiện còn có ở Thư viện Khoa học Xã hội”, Nghiên Cứu Lịch Sử, 118 (1.1969), tr. 3-6.
12. (Khuyết danh), XIII (?), Đại Việt sử lược, Trần Kinh Hòa biên hiệu, Soka daigaku Asia kenkyujo, Tokyo, 1987.
13. Nguyễn Quang Hà, “Về tấm bia đời Tùy (601) mới phát hiện tại chùa Giàn – Huệ Trạch tự (xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh)”, Thông Báo Khảo Cổ Học, 2012.
14. Nguyễn Quang Hồng vcs, Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H, 1992.
15. Phạm Lê Huy, “Việc xây dựng tháp Xá lợi dưới thời Tùy Văn Đế và minh văn tháp Xá lợi mới phát hiện tại Bắc Ninh”, Thông Báo Khảo Cổ Học 2012.
16. Hoàng Lê, “Tình hình sưu tầm và nghiên cứu văn bia”, Tạp chí Khảo Cổ Học, số 02.1982.
17. Trịnh Khắc Mạnh, Một số vấn đề về văn bia Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2008.
18. Trịnh Khắc Mạnh – Nguyễn Văn Nguyên – Philippe Papin, Corpus des Inscriptions Anciennes du Viet-Nam (Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam), Tập 21, Viện Cao học Thực hành-Viện Nghiên cứu Hán Nôm-Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp. Hà Nội, 2009.
19. Lê Viết Nga, “Về hai cổ vật niên đại thời Tùy ở Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh”, Báo Bắc Ninh, 2012.
20. Thủy kinh chú sớ, Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính-Hùng Hội Trinh sớ, Đoàn Hy Trọng điểm hiệu, Trần Kiều Địch phúc hiệu, Nguyễn Bá Mão dịch, Nxb. Thuận Hóa-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Huế, 2005 [dịch từ ấn bản Thủy kinh chú sớ, Cổ Tịch xuất bản xã, Giang Tô, 1999].
21. Ngô Thị Thanh Tâm, “Nghiên cứu văn bia huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa” (Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm), Thư viện khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2008.
22. Đinh Khắc Thuân, Văn bia thời Mạc, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1996.
23. Keith Weller Taylor, The ‘twelve lords’ in tenth-century Vietnam, Journal of Southeast Asian Studies 14, 1 (March 1983), pp. 46-62.
24. Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam, University of California Press, Berkeley, 1983.
25. Trần Thái Tông, XIII, Thiền tông khóa hư ngữ lục, Tuệ Tĩnh (tk 14) dịch Nôm, Trần Trọng Dương khảo cứu-phiên chú, Nxb. Văn Học, TP. HCM.
26. Tỉnh ủy-Hội đồng Nhân dân-Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Địa chí Thanh Hóa (Tập 2: Văn hóa xã hội), Nxb. KHXH, Thanh Hóa, 2004.
27. Lê Trắc, (1335) An Nam chí lược, Mạnh Nghị Trần Kinh Hòa dịch (Nxb. Thuận Hóa-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Huế, tb. 2002.
28. Chu Quang Trứ, “Bia và bia chùa Việt Nam”, Mỹ thuật Lý Trần – Mỹ thuật Phật giáo, Nxb. Mỹ thuật, H, 2012, tr. 506-557.
29. Trần Quốc Vượng, “Xứ Thanh-vài nét về lịch sử-văn hóa”, Theo dòng lịch sử: những vùng đất, thần và tâm thức người Việt, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1996.
30. Khuyết danh, (đời Trần), (Đại) Việt sử lược, trong Tứ khố toàn thư (đời Càn Long nhà Thanh).
31. Chính Hòa thứ 18 (1697), Đại Việt sử ký toàn thư, Nội các quan bản, Bản khắc in, Bản dịch, 1998, Tập 1, Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
32. 阮實。《修葺昭慶廟碑》。1996。
33. 阮實。《修葺威靈廟碑記》。 1635。
34. 丁福寶。《佛教大辭典》 。文物出本社, 北京, 1984。
35. 葉昌熾 (撰) 。 柯昌泗 (評) 。 《石語異同評》。 中華書局。 北京。 1994。
36. 張正烺 (名譽主編) 。 呂宗力 (主編) 。 《中國歷代官制大辭典》。 北京出版社。 北京。 1994。
37. [唐] 林寶 (撰) 。 《元和姓篡》。四庫全書。(總纂:紀昀,陸錫熊,孫士毅)。
38. [唐] 李吉甫。《元和郡縣圖志》。四庫全書。(總纂:紀昀,陸錫熊,孫士毅)。
39. [唐] 魏徵, 顏師古、孔颖达。《随書》。 中华書局。北京。 2008。
40. 辭源。 商務印書館。
41. 沈起炜。徐光烈。《中国历代職官词典》。 上海辭書出版社。 上海。 1992。
42. 許慎。《說文解字》。 段玉裁注。 清代陳昌治刻本。

Từ thần tích của một ngôi đình ở ngã ba sông Bạch Hạc

Đình Viên Châu ở xã Cổ Đô (Ba Vì, Hà Nội) là một ngôi đình cổ nằm trên khu đất ở khu vực hợp lưu của 3 con sông lớn của miền Bắc là sông Đà, sông Thao và sông Lô. Khu vực này được gọi là ngã ba Bạch Hạc (Bạch Hạc Tam Giang).
Theo thần tích thì đình Viên Châu thờ 2 vị thủy thần thời Hùng Vương. Bà mẹ của 2 vị này là một công chúa có tên Thụy Hoa, đi tu ở chùa trên đất làng Viên Châu. Một hôm công chúa ra bãi sông Viên Châu, mơ thấy rắn cuốn, về sinh đôi được 2 người con trai có dị tướng, đặt tên là Lân và Lý… Về sau 2 người con được vua phong làm “quản trưởng đội thuyền rồng, tả hữu thủy quân tuần sông“, có công cầu đảo mưa và hiển ứng báo vua đánh giặc Thục… Hai vị được sắc phong danh hiệu là:
– Thông Hà hiển ứng an dân đại vương
– Thủy Giang linh ứng đương cảnh đại vương.
Bà mẹ cũng được phong là Mục Phật công chúa và thờ ở am bên cạnh đình.

p1270862

Ngã ba Hạc nhìn từ Viên Châu.

Các di vật thờ ở đình Viên Châu đã bị mất mát khá nhiều. Đình còn lưu giữ được một số vế đối thờ như sau:
Vế đối khác:
春臺壽域竝生竝育遂吾胞
Xuân đài thọ vực tịnh sinh tịnh dục toại ngô bào.
Dịch:
Đài xuân cõi thọ, cùng sinh cùng dưỡng thỏa anh em.
Vế đối này nói tới sự việc hai anh em thủy thần cùng sinh đôi và lớn lên, lập công nghiệp tại đất Viên Châu.
青龍包白虎四民同樂奠洪基
Thanh long bao bạch hổ tứ dân đồng lạc điện hồng cơ
Dịch:
Rồng xanh ôm hổ trắng, bốn dân vui thích yên cơ nghiệp.
Khi xét kỹ thì sự tích 2 vị thần ở đình Viên Châu thì thấy đây cũng là chuyện của các vị thần Bạch Hạc Tam Giang. Viên Châu nằm đúng ngã 3 sông Bạch Hạc. Các vị Thần Bạch Hạc Tam Giang trong Lĩnh Nam chích quái là Thổ Lệnh và Thạch Khanh, đã hiển linh vào thời Đường khi xây đạo quán ở Bạch Hạc.
Truyện thần sông Bạch Hạc kể:
Khoảng các năm Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, Lý Thường Minh làm chức đô hộ đất Phong Châu … xây Đạo Thánh linh quán ở ven sông Bạch Hạc, đặt tượng Tam Thanh ở trong quán để phụng thờ. Lại xây hai ngôi am ở phía trước và phía sau quán, muốn tạc tượng thờ… Canh ba đêm ấy, mộng thấy có hai dị nhân, diện mạo hùng vĩ, phong tư nhàn nhã, đều mang theo quân hầu, trước hò sau hét, …, tranh nhau chiếm am trước… Hai người riêng xưng tên họ, một tên là Thạch Khanh, một tên là Thổ Lệnh. Thường Minh xin đọ tài nghệ, nếu ai thắng sẽ ở am trước. Thạch Khanh ứng tiếng mà chạy, mới tới bờ sông đã thấy Thổ Lệnh ở cạnh sông từ trước rồi… Thổ Lệnh được ở am trước…
Lý Thường Minh cho đắp tượng thờ thần Thổ Lệnh tại Thông Thánh Quán (nay là đền Tam Giang tại phường Bạch Hạc, Việt Trì) và Thạch Khanh được thờ ở đền Chi Cát (nay thuộc phường Tiên Cát, Việt Trì). Cuộc thi nhảy qua sông của hai vị thần đã để lại dấu ấn đến nay, một vết chân trước đền Tam Giang và một gót chân tại Bến Gót (nay thuộc phường Bến Gót, thành phố Việt Trì). Nếu từ đền Tam Giang hay Bến Gót mà “nhảy” qua sông thì chính là vùng đất Viên Châu.
Như đã từng nhiều lần khảo cứu, Thổ Lệnh Tam Giang là Trung Thành phổ tế đại vương, được thờ phổ biến ở khu vực Phú Xuyên (Hà Nội), cũng là vị Quan lớn đệ Tam của tín ngưỡng Tứ phủ, thờ chính tại đền Lảnh (= Lệnh) ở Duy Tiên, Hà Nam. Thần tích ở Viên Châu chép là “quản trưởng đội thuyền rồng” (= Trưởng Lệnh). Còn Thạch Khanh là Quan lớn đệ Ngũ Tuần Tranh của Thoải phủ. Thần tích ở Viên Châu chép là “tả hữu thủy quân tuần sông”.
Thổ Lệnh và Thạch Khanh là 2 anh em, 2 vị tướng đã giúp vua cha Bát Hải Động Đình, hay đức Lạc Long Quân đánh giặc Thục, lập nên vương triều đầu tiên của người Việt. Vì công lao phò vua lập quốc từ thời sơ sử này nên các vị quan lớn (các vị thủy thần Bạch Hạc) mới trở nên cực kỳ linh thiêng, được người dân nhiều nơi tôn thờ như vậy.
Đền Tam Giang ở Việt Trì vẫn trong lễ hội hàng năm vẫn diễn lại tích thần Thổ Lệnh đưa tiễn Tản Viên Sơn Thánh khi ngài đến thăm Bạch Hạc. Tương tự, trong thần tích đình Viên Châu thì Thông Hà và Thủy Giang đại vương đã báo mộng cho vua Hùng, phò tá Tản Viên Sơn Thánh đánh Thục. Thực ra “Tản Viên” ở trong chuyện này là Lạc Long Quân như đã nói ở trên.
Bà mẹ của 2 vị quan lớn của Thoải phủ là Quý Nương, cũng là Mẫu Thoải, là con gái Thần Long Động Đình. Bà là vợ của vua Kinh Dương Vương, người đã sinh ra Lạc Long Quân. Như vậy Thụy Hoa công chúa ở đình Viên Châu cũng là Mẫu Thoải. Đền thờ Xích Lân Long Nữ là đền Tiên Cát nay ở thành phố Việt Trì.

p1270875Đình Viên Châu ở xã Cổ Đô, Ba Vì, Hà Nội.

Câu đối khác còn lưu được, nay treo trước cung thờ ở đình Viên Châu là:
神異昭天一之生産瑶琪扵龜峒
英武顯乾三之躍誇屋纛扵龍宫
Thần dị chiêu Thiên nhất chi sinh, sản dao kỳ ư quy động
Anh vũ hiển Càn tam chi dược, khoa ốc đạo ư long cung.
Giải nghĩa câu đối này trong từng vế. Ở vế đối đầu, Thần dị là sự lạ, sự khác thường của thần. Thiên nhất: Thiên là quẻ Càn (Kiền). Thiên nhất là hào sơ cửu của quẻ Càn “Tiềm long vật dụng” (Rồng còn đang ẩn mình, chưa hành động). Ý chỉ lúc bắt đầu. Dao kỳ: là tạo ra 2 loại ngọc quý, ý chỉ 2 vị Thông Hà và Thủy Giang. Quy động: động rùa giải, có thể chỉ vùng đất bãi Viên Châu. Vế đầu nói đến sự ra đời kỳ lạ của 2 vị thánh vương tại đất Viên Châu.
Vế đối sau: Anh vũ: sức mạnh tài năng hơn người. Càn tam: Là hào cửu tam của quẻ Kiền “Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu”. Hào này ý nói là người quân tử làm việc liên tục, cẩn thận, tránh lỗi. Khoa ốc đạo: Khoa trương thanh thế cờ xe. Ví dụ như Hoàng ốc tả đạo là xe mui vàng cắm cờ tiết mao, chỉ bậc quân trưởng. Long cung: cung rồng, chỉ cung vua hoặc thủy cung vì đây là 2 vị thủy thần. Vế sau nói tới công nghiệp của 2 vị thần này.
Dịch câu đối ở cung thờ Viên Châu:
Thần dị chiếu khi xuất thánh vương, đúc ngọc dao kỳ nơi động giải
Tài sức tỏ lúc gây công nghiệp, dương màu xe đạo chốn cung rồng.
Trong tên của 2 vị thủy thần ở đình Viên Châu là Thông Hà và Thủy Giang thì chữ Hà ở đây phải hiểu nghĩa là Trời, không phải nghĩa là sông. Thông Hà tương tự như Thông Thiên.

p1270943

Trang cuối trong thần tích đình Viên Châu.

Phần cuối thần tích đình Viên Châu còn kể một “sự lạ” khác:
…Nói tới Thục Vương (chính là An Dương Vương) ở ngôi được 50 năm thì Triệu Đà mang quân chiếm đất nước, cha truyền con nối được 5 đời thánh vương, trước sau tổng cộng là 149 năm. Đến đời Vệ Vương chỉ được 1 năm, Tô Định đem quân tới bờ cõi. Bà Trưng (là con gái của nhà họ Hùng), cất quân khởi nghĩa, tự xưng nữ vương, được 5 năm thì đến thời Đông Hán. Qua các thời Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương gồm 340 năm thì tới nước Nam. Các triều đại có Đinh, Lê, Lý, Trần 4 nhà khai sáng hồng đồ…
Phiên âm trích nguyên gốc từ thần tích:
Tức thuyết Thục Vương (tức An Dương Vương thị dã) tại vị phương ngũ thập niên gian, Triệu Đà nãi đề binh thủ quốc, phụ truyền tử kế đắc ngũ đại thánh vương, tiền hậu cộng nhất bách tứ thập cửu niên. Hựu chí Vệ Vương phương đắc nhất niên, Tô Định đề binh chiêm giới. Trưng nữ (tức Hùng gia tính nữ) hưng sư phương đắc ngũ niên tự xưng vương nữ thời chí Đông Hán. Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương phàm tam bách tứ thập niên chí thử Nam Bang. Lịch hữu Đinh, Lê, Lý, Trần tứ tính khai sáng hồng đồ…
Theo bản thần tích này thì vào thời Vệ Vương, vị vua cuối cùng của nhà Triệu Nam Việt, tướng Tô Định đã đem quân xâm chiếm bờ cõi. Sau đó Bà Trưng mới khởi nghĩa, xưng vương được 5 năm, rồi mới tới nhà Đông Hán.
Thông tin này hoàn toàn khác so với chính sử. Chính sử hiện nay cho rằng người đánh Triệu Vệ Vương (Thuật Dương Vương) là Lộ Bác Đức của nhà Tây Hán. Sau đó là thời kỳ cai trị của nhà Tân của Vương Mãng với các thái thú châu mục Đặng Nhượng, Tích Quang ở Giao Châu, rồi mới đến Tô Định làm thái thú Đông Hán và nổ ra khởi nghĩa của Trưng nữ vương. Thần tích đình Viên Châu lại cho biết người đánh Vệ Vương là Tô Định và khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra ngay sau đó, trước thời Đông Hán. Như thế khởi nghĩa Trưng Vương là vào thời Tây Hán, ngay sau khi nhà Nam Việt bị diệt. Tướng Tô Định trong thần tích tương đương với tướng Lộ Bác Đức của nhà Tây Hán.
Liệu có phải người biên lập thần tích ở Viên Châu đã nhầm? Hay chính sử đang bị nhầm?
Không phải chỉ có một mình thần tích đình Viên Châu cho biết một thời điểm khác của khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Thần tích của xã Phú Lạc (Cẩm Khê, Phú Thọ) theo bản dịch của Nguyễn Duy Hinh trong sách Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam (AE a9/6) cũng kể hoàn toàn tương tự:
… Triệu Đà được nước cha truyền con nối 5 đời cộng 149 năm. Đến đời Thuật Dương Vương kế ngôi chính thống vừa được một năm thì có Tô Định mang quân vào đất nước chiếm Trung Hoa, họ Triệu tàn tạ không người cứu nước. Đến đó cháu gái Hùng Vương húy là Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt thánh thần trong đời oai hùng cử binh đánh thẳng đến thành Tô, đại phá. Tô Định thuy chạy. Bà Trưng bèn xây 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục toàn bộ cảnh thổ nước Nam. Bà Trưng tức vị tự lập làm vua.
Hàng loạt những tư liệu dân gian ở nhiều nơi khác nữa cho thấy, có một cuộc khởi nghĩa của Trưng nữ vương nổ ra ngay sau khi nhà Triệu Nam Việt mất nước, dưới thời Hiếu Vũ Đế của nhà Tây Hán. Chính sử Việt hiện tại đang có sự nhầm lẫn về thời điểm và bản chất của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.