Lan man chuyện biển đảo trong cổ sử Việt

Hôm qua xem chương trình Giai điệu tự hào, chủ đề “Xa khơi” về biển đảo. Thấy có một “bình luận viên” trẻ phát biểu, đại ý là: nước ta phải mãi đến triều Nguyễn mới quan tâm đến vấn đề biển, lập các hải đội quản lý biển đảo. Còn trong truyền thuyết thì thiên về “lên rừng” nhiều hơn. Sơn Tinh thắng Thủy Tinh… Việt Nam không được biết đến là nước có truyền thống chinh phục biển…
Nhận thức sai lệch về lịch sử chinh phục biển đảo của Việt Nam không phải chỉ do giới trẻ kém hiểu biết. Đây là do quan niệm sai của cả ngành lịch sử Việt Nam về những vấn đề trong cổ sử, dẫn đến những nhận định xa sự thực.
Nói về biển trong cổ sử Việt trước hết phải nói chuyện Lạc Long Quân mang 50 người con xuống biển. Lạc Long Quân, quốc tổ người Việt, đã đem một nửa dân tộc xuống khai phá miền biển sau cơn đại hồng thủy thời Sơn Tinh – Thủy Tinh. Lạc Long Quân còn diệt loài Ngư tinh trên biển. Lịch sử khai thác biển của người Việt như vậy đã bắt đầu ít nhất từ 4.000 năm trước.
Câu hỏi là tại sao sử Việt chỉ chép Mẹ Âu Cơ đưa 50 người con lên rừng, đến Phong Châu lập con cả làm Hùng Vương, mở nước Văn Lang, bắt đầu quốc gia đầu tiên trong sử Việt. Còn Cha Lạc Long đi xuống biển là đi đâu? Dấu tích 50 người con xuống biển ở đâu? 50 người con theo mẹ lập nước Văn Lang. Vậy 50 người con theo cha không lập nên quốc gia nào hay sao?

i125vngoc9Hình ảnh người Việt cổ trên trống đồng.

Không phải Lạc Long quân không để lại dấu tích về quốc gia đã hình thành ở miền duyên hải mà là các nhà nghiên cứu chưa nhận ra, hay không muốn nhìn nhận những dấu tích này mà thôi. Dấu vết của Cha Lạc Long để lại rất sâu đậm trong … tín ngưỡng của người Việt. Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển mở mang Thủy phủ. Do vậy Lạc Long Quân chính là người đứng đầu Thủy phủ hay là vị Vua cha Thoải phủ trong Đạo Mẫu Việt Nam.
Vua cha của Thoải phủ là Bát Hải Động Đình, với di tích thờ chính là ở đền Đồng Bằng (xã An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình). Văn công đồng kể:
Dưới Thoải phủ giang hà hải ngoại
Chốn Động Đình Bát Hải long vương
Tam nguyên, tam phẩm, tam quan
Quản chi tội phúc nhân gian cầm quyền.
Vua cha Bát Hải Động Đình là cha của các hoàng tử và thập vị quan lớn từ Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam… Sau Ngọc Hoàng Thượng đế, Vua cha Bát Hải Động Đình là vị thần quan trọng chủ yếu của tín ngưỡng Tứ phủ.
Động Đình là nơi Lạc Long và Âu Cơ đã gặp gỡ mà sinh ra nòi giống Việt. Đây là cái nôi của người Việt cổ. Động Đình không phải là cái hồ nước sâu vài mét ở Hồ Nam. Tên Bát Hải Động Đình của vua cha Thoải phủ chỉ rõ: Động Đình là biển. Biển ở phương Tám (Bát) tức là phương Đông. Động Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn (to như cái Đình) ở phía Đông, tức là biển Đông, hay là Vịnh Bắc Bộ với bờ biển khoanh tròn hình cái hồ lớn.
Quốc gia mà Lạc Long Quân lập nên theo truyền thuyết là Xích Quỷ. Nơi mà Vua cha Bát Hải Động Đình cùng dân khai phá lập ấp là Hoa Đào trang theo thần tích đền Đồng Bằng. Thực ra Xích là màu đỏ, màu của xứ nóng. Hoa Đào cũng là màu đỏ. Nước là Lạc Long Quân lập nên là … Hoa Hạ. Hạ hay hè cũng là xứ nóng. Lạc Long Quân là tổ của Hoa Hạ, cũng là quốc tổ người Việt vì Hoa và Việt thời cổ sử là một.
Ngọc phả đền Hùng chép một trong 18 đời Hùng Vương có vị Hùng Hoa Vương, hiệu là Hải Lang. Đây là tên của Lạc Long Quân, vị vua đã khai mở Hoa Đào trang ở vùng Bát Hải.
Câu đối ở cổng đền Đồng Bằng:
Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích
Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giàng hổ lược chấn linh thanh.
Dịch:
Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ
Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.
Hoa Đào trang của Bát Hải Động Đình là vùng ven Vịnh Bắc Bộ ngày nay, tồn tại vào thời 4.000 năm trước. “Biển Bát” (biển Đông) đã được người Việt khai phá từ thời quốc gia, dân tộc mới hình thành.

SabahVị trí của Sabah, nơi tìm thấy trống đồng Đông Sơn.

Bằng chứng hiện hữu hơn quan niệm và truyền thuyết về việc khai phá biển đảo của người Việt là di vật được tìm thấy ở … Malaysia. Bang Sabah nước này, nằm phía Bắc của đải Borneo, nơi có ngọn núi Kinabalu cao nhất Đông Nam Á (trên 4.000m). Sabah nằm ngay sát quần đảo Trường Sa. Nếu lên thuyền từ Việt Nam đi Sabah thì sẽ phải qua quần đảo Trường Sa.
Khảo cổ khu vực Sabah thời kỳ trước Công nguyên không có gì ngoài đúng 1 ngôi mộ cổ trong đó lại có một chiếc trống đồng Đông Sơn được chôn cùng. Chiếc trống đồng “Việt Nam” này có niên đại khoảng 2.000 – 2.500 trước, tức là thời Hùng Vương ở nước ta. Ở khu vực này không có những hiện vật đồ đồng khác của nền văn hóa đồ đồng bản địa nên chiếc trống đồng này chỉ có thể là mang từ nơi khác đến đây. Chiếc trống đồng Việt Nam ở Sabah này là một bằng chứng rõ ràng, người Việt đã có mặt ở khu vực này từ thời trước Công nguyên.

Trong dong KotaKinabalu 008KotaKinabalu 009_1Trống đồng dạng Đông Sơn ở bảo tàng bang Sabah tại thành phố Kota Kinabalu, Malaysia.

Những người dân bản địa đảo Borneo (người Dayak) có trang phục cởi trần, đóng khố, xăm mình đầu đội lông chim trĩ dài, giống y hệt trang phục cư dân Việt cổ được thể hiện trên mặt trống đồng.  Đây hẳn cũng là dòng giống những người Việt cổ đã vượt biển tới định cư ở hòn đảo Borneo xa xôi này.
Trong truyền thuyết Việt khi An Dương Vương bị Triệu Đà đuổi, chạy đến vùng Mộ Dạ ở Diễn Châu (Nghệ An) rồi cầm sừng văn tê 7 tấc mà đi vào biển. Hiểu theo ngôn ngữ ngày nay, An Dương Vương đã lên thuyền đi ra biển tránh giặc. Nếu lên thuyền từ Diễn Châu mà ra khơi xuống phía Nam thì nơi đến đầu tiên của An Dương Vương rất có thể là đảo Borneo vì đây là hòn đảo lớn gần bờ biển Việt Nam nhất. Từ đây nền văn hóa trống đồng tiếp tục lan tỏa xuống khu vực phía Nam trên vùng đất của Indonesia ngày nay, nơi có những chiếc trống đồng và tộc người dùng trống đồng đã được biết.

P1070930_1P1070939_1 Trang phục người bản địa được trình diễn ở Sabah.

Người Việt đã đặt biển Động Đình và vua cha Lạc Long quân ở sâu thẳm trong tâm trí và tín ngưỡng của mình. Những hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn, hiện vật trống đồng ở đảo Borneo cho thấy truyền thống chinh phục biển đảo của người Việt đã có từ thời đại Hùng Vương.

Nước Nam Việt và 2 vị vua Triệu

Nếu như thời đại Hùng Vương, kể cả thời Thục An Dương Vương, bị chìm trong huyền thoại, dẫn đến sự nghi ngờ về tính chân thực của những câu truyện còn truyền lại thì chuyện nước Nam Việt của Triệu Đà không còn là truyền thuyết nữa. Nhưng tại sao những câu hỏi về quốc gia “đầu tiên” trong chính sử Việt này lại nhiều đến vậy mà chưa có lời giải? Những nhận định về tính chính thống của nhà Triệu trong sử Việt cứ bị đảo qua đảo lại mãi mà không có kết luận.
Tạ Đức trong nghiên cứu Nguồn gốc người Việt người Mường của mình đã làm một tổng quan đầy đủ các nhận định từ trước tới nay về nhà Triệu và nước Nam Việt. Tuy nhiên tác giả cũng không đi đến kết luận gì cụ thể mà chỉ đưa ra khuyến cáo: “việc thừa nhận Triệu Đà là một vị vua của Việt Nam… rất đáng để … lắng nghe, thấu hiểu, cảm thông và trân trọng”…
Cái sự “lờ mờ” về nguồn gốc và công trạng của Triệu Đà là do từ những “hỏa mù” đã được các sử gia Tàu tung ra quanh các tư liệu về vị vua này. Các nhà nghiên cứu không loại bỏ đám “bụi mù” đó thì còn lẫn lộn ta và giặc mãi.
Ví dụ, Tạ Đức viết: “Về thân thế Triệu Đà, Sử ký và Hán thư ghi ông là người Chân Định, Hà Bắc, xưa thuộc nước Triệu nên mang họ Triệu. Năm 228 TCN, Tần diệt Triệu, Triệu Đà thành người Tần, làm tướng Tần…”.
Sử kýHán thư chỉ ghi: “Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy”. Chẳng có cổ thư nào chép Chân Định là Hà Bắc và Hà Bắc là nước Triệu cả. Việc sử dụng những “định vị thứ cấp” của sử Tàu này dẫn đến nhận định hoàn toàn sai về vua Nam Việt. Chân Định là tên cũ của huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nơi đây còn di tích đền Đồng Xâm ở xã Hồng Thái thờ Triệu Vũ Đế và vợ là Trình Thị. Triệu Đà quê ở Thái Bình, là người Việt rõ ràng chứ không phải người nước Triệu ở tận bắc Hoàng Hà.

KHỞI NGHĨA KHÁNG TẦN
Sử ký Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ chép: Năm thứ 33 (năm 216 TCN), Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ.
Sách Hoài Nam tử cho biết tiếp: Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người Tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư.
Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương.
3 đoạn trích này có thể tóm tắt thành như sau: Năm 216 TCN Tần Thủy Hoàng lập 3 quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải trên vùng đất Việt. Người Việt bỏ vào rừng chống lại quân Tần. Năm 207 TCN Triệu Đà, quận úy Nam Hải, đánh chiếm Quế Lâm, Tượng Quân, xưng là Nam Việt Vũ Vương.
Như vậy là “hai năm rõ mười”, Triệu Đà chứ không phải ai khác là người đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng Tần những năm 216 – 207 TCN, đã toàn thắng, chiếm lại 3 quận mà Tần lập ra trên đất Việt trước đó. Các sử gia ngày nay hoàn toàn sai lầm khi cho rằng “người Tuấn kiệt” làm tướng kháng Tần những năm này là Thục Phán. Dòng dõi cuối cùng Âm Dương Vương (An Dương Vương) là Dịch Hậu Tông (Dịch Hu Tống) đã bị Tần diệt từ năm 256 TCN sau chuyện con thứ của Tần Vương là Trọng Thủy lừa nàng Mỵ Châu, dẫn đến cơ đồ nhà Thục “đắm biển sâu”. Làm gì còn vua Thục nào chống Tần vào sau đó nữa.

Dong Xam_1Đền Đồng Xâm, xã Hồng Thái, Kiến Xương, Thái Bình.

Câu đối ở cổng đền Đồng Xâm, bên cửa sông Trà Lý:
弌方海島別拓太平基為我國帝统之始
萬古江山長存南越號與漢家天子熟賢
Nhất phương hải đảo biệt thác Thái Bình cơ /vi ngã quốc đế thống chi thủy
Vạn cổ giang sơn trường tồn Nam Việt hiệu /dữ Hán gia thiên tử thục hiền.
Dịch:
Một phương biển đảo riêng mở cơ đồ Thái Bình, là đế quân nước ta khởi thủy
Vạn năm sông núi mãi còn tên hiệu Nam Việt, cùng nhà Hán thiên tử tốt lành.
Triệu Vũ Đế là người Chân Định đúng như sử sách chép, tức là người Thái Bình. Khởi nghĩa của Triệu Đà bắt đầu từ huyện Long Xuyên nơi Triệu Đà trấn nhiệm. Long Xuyên nay là Long Biên, nơi còn điện Long Hưng thờ Triệu Vũ Đế tại xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên. Từ Long Biên Triệu Vũ Đế mới dẫn quân đánh chiếm các nơi, lấy lại 3 quận mà Tần lập ra trên đất Việt trước đó là Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng quận (Vân Nam). Chi tiết này còn được ghi trong câu nói của Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn:
Nước ta thuở xưa, Triệu Vũ Vương dựng nghiệp, Hán đế đem binh đến đánh, Vũ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quận Trường Sa, dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời…
Nếu Triệu Vũ Đế bắt đầu sự nghiệp ở Quảng Đông (Phiên Ngung) thì còn đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm làm gì? Huyện Long Xuyên nơi Triệu Đà trấn nhiệm là Long Biên nằm ở cạnh bờ sông Hồng chứ không phải ở bên Quảng Tây.

HAI VỊ TRIỆU ĐÀ
Sử ký Tư Mã Thiên, Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “… Cao Hậu mất… Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”, chẳng kém gì Trung Quốc”.
Cao Hậu là Lữ Hậu, vợ của Lưu Bang, mất năm 180 TCN. Các sử gia hiện nay dựa vào đoạn trích trên xác định lại: năm 179 TCN Triệu Đà mới đánh Âu Lạc của An Dương Vương…, tức là tới gần 30 năm sau so với thời điểm Triệu Đà xưng Nam Việt Vũ Vương trước đó khi nhà Tần sụp đổ… Kết quả thành ra Triệu Đà thọ 121 tuổi như Đại Việt sử ký toàn thư chép.

Trieu Vu De_1

Tượng Triệu Vũ Đế ở điện Long Hưng, Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên.

Câu đối ở điện Long Hưng, Xuân Quan:
一指已無秦萬里開先閩貉絶
两立何難漢億年倡始帝王基
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch:
Một vùng vắng bóng Tần, vạn dặm mở ra vời xa Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, ngàn năm gây nền vững vàng đế vương.
Cần chú ý là cuốn Sử ký được Tư Mã Thiên viết dưới thời Hiếu Vũ Đế từ quãng năm 109 đến 91 TCN. Còn nhà Triệu Nam Việt thì mới chỉ kết thúc trước đó vài năm vào năm 111 TCN khi Lộ Bác Đức bắt vị vua Triệu cuối cùng của Nam Việt là Vệ Dương Vương. Nước Nam Việt như vậy đã tồn tại độc lập với nhà Tây Hán khoảng 70 năm. Thậm chí không chỉ là độc lập mà còn là quốc gia đã đối đầu với nhà Tây Hán trong suốt thời gian này. Trong bối cảnh như vậy, Tư Mã Thiên hẳn sẽ không có đủ tư liệu để nhìn nhận đúng nguồn gốc các vị vua khai sáng nước Nam Việt, dẫn đến những khúc mắc khó hiểu trong sử liệu để lại.
Những thiếu sót này được tư liệu dân gian từ vùng đất quê gốc của Triệu Vũ Đế ở Chân Định (Kiến Xương, Thái Bình) bổ sung, chỉnh lý. Đôi câu đối trước cửa đền thờ hoàng hậu của Triệu Đà là Trình Thị ở Đồng Xâm chép:
何年開七君帝途正金殿留双府月
此地肇二南王化前恭古至一神能
Hà niên khai thất quân đế đồ/ chính kim điện lưu song phủ nguyệt
Thử địa triệu nhị Nam vương hóa/ tiền cung cổ chí nhất thần năng.
Dịch:
Năm nào mở nghiệp bảy vương quân, chính điện vàng lưu ánh trăng hai phủ
Đất này sinh hóa hai Nam đế, trước đền xưa tỏ tài sức một thần.

Trinh thi_1Cửa đền Trình Thị ở Đồng Xâm và đôi câu đối.

Câu đối này cho thông tin rất lạ. Hoàng hậu Trình Thị và Triệu Vũ Đế đã mở nghiệp cho 7 vị quân đế nhà Triệu. Và vùng đất này đã khởi đầu 2 vị Nam vương.
Vế đối sau cho một gợi ý: có 2 vị vua khai sáng nước Nam Việt nhà Triệu… Chỉ như vậy mới giải quyết được những khúc mắc về 2 lần xưng đế của Triệu Đà ghi trong Sử ký Tư Mã Thiên và tuổi thọ 121 năm của vị vua này.
Vị vua Triệu thứ nhất được gọi là Vũ Đế, là người đã lãnh đạo nhân dân Việt từ huyện Long Biên kháng Tần thắng lợi năm 207 TCN. Vị vua Triệu thứ hai là người đã nổi dậy ở Phiên Ngung sau khi Cao Hậu mất năm 180 TCN, thu phục Mân Việt và Tây Âu Lạc vào nước Nam Việt. Vị vua Triệu thứ hai là Triệu Văn Vương, là cháu của Triệu Vũ Đế (vị vua Triệu thứ nhất) theo đúng như “gia phả” nhà Triệu đã chép trong Sử ký Tư Mã Thiên. Công nghiệp của 2 vị vua Triệu này đã bị chép chung thành 1, dẫn đến những điều mâu thuẫn như đã nêu trên.
Lăng mộ Triệu Mạt được tìm thấy ở Quảng Đông với ấn Văn đế hành tỷ là lăng mộ của Triệu Đà thứ hai, người khởi đầu nước Nam Việt sau thời Lữ Hậu. Mạt = Một, Đà = Đầu. Triệu Mạt nghĩa là Triệu Một hay Triệu Đầu, vị vua đầu của Nam Việt. Cả Triệu Vũ Đế và Triệu Văn Đế đều gọi là Triệu Đà vì đều mở đầu nước Nam Việt, là 2 vị Nam vương được nhắc đến trong câu đối ở đền Trình Thị.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên nhà Triệu Nam Việt có 5 vị vua nối tiếp nhau là Vũ Vương, Văn Vương, Minh Vương, Ai Vương và Vệ Dương Vương. Nhưng câu đối ở đền Trình Thị (Đồng Xâm) lại cho biết dòng dõi nhà Triệu có tới 7 vị quân đế. Như vậy khoảng giữa Triệu Vũ Vương (Triệu Đà 1) và Triệu Văn Vương (Triệu Đà 2) còn có 2 vị vua nữa. Vì Văn Vương là cháu của Vũ Vương nên suy ra 2 vị vua “dư ra” này phải là hàng con của Triệu Vũ Vương và hoàng hậu Trình Thị. Đây là Hiếu Huệ Đế và Thiếu Đế của nhà Tây Hán, 2 vị vua nối tiếp Hiếu Cao Lưu Bang… bởi vì Triệu Vũ Đế chính là Lưu Bang, người đã chiếm Quan Trung của nhà Tần năm 206 TCN (trùng thời điểm với thắng lợi của Triệu Vũ Đế trước nhà Tần).
Lưu Bang khi khởi nghĩa được gọi là Bái Công, tế cờ ở Bái Đình. Bái Đình là đọc phản của Thái Bình, Thái Bình phản thiết Bái. Bái Công Lưu Bang là Triệu Vũ Đế ở Thái Bình. Hoàng hậu Trình Thị không phải ai khác chính là Lữ Hậu, vợ của Lưu Bang. Trình Thị thiết Trị hay Trĩ, là tên của Lữ Hậu theo sử sách.

Cũng vì Lưu Bang và Lữ Hậu là tiền nhân của Triệu Văn Vương (Triệu Đà 2) nên vị vua Triệu này mới có “mồ mả cha mẹ” ở phương Bắc như Sử ký Tư Mã Thiên chép. Điều này đã dẫn đến nhận định sai rằng Triệu Đà là người phương Bắc.

Câu đối ở đền Đồng Xâm:
炎郊創始輿圖保龍父僊母之子孫同大漢時雙帝國
戚里屹成宫闕萃茶海桐江之靈秀亦潘隅外弌神京
Viêm Giao sáng thủy dư đồ /bảo long phụ tiên mẫu chi tử tôn /đồng đại Hán thời song đế quốc
Thích lý ngật thành cung khuyết /tụy Trà hải Đồng giang chi linh tú /diệc Phan Ngung ngoại nhất thần kinh.
Dịch:
Viêm Giao sáng lập địa đồ, giữ con cháu cha Rồng mẹ Tiên, đương cùng triều Hán hai đế quốc
Làng quê ngất thành cung khuyết, hợp linh tú biển Trà sông Động, với ngoài Phiên Ngung một kinh thần.
Nhà Triệu Nam Việt là một triều đại của đất Viêm Giao (Viêm Bang Giao Chỉ, tức là đất Việt), là con Rồng cháu Tiên chính thống. Triệu Vũ Đế quê ở miền sông Trà (Trà Lý) biển Động Đình (biển Đông). Cái tên nước Nam, vua Triệu còn in đậm trong suốt chiều dài lịch sử nước ta. Tới thời Lý nước Nam, vua Nam của người Việt còn vang trong bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Đừng ai vì không hiểu biết mà dại dột hạ bức hoành phi “Nam Việt triệu tổ” ở cửa đền Hùng (Phú Thọ) xuống, kẻo mà mang tội bất kính với tổ tiên.

Ba câu chuyện của nước Âu Lạc

Thời kỳ An Dương Vương trong lịch sử nước ta hiện nay đang được xem là “nửa thật, nửa hư”. “Thật” vì An Dương Vương đánh Hùng Vương, lập ra nước Âu Lạc, chấm dứt các “huyền thoại thời Hùng”. Lại còn có cả chứng tích là thành Cổ Loa do An Dương Vương xây dựng vẫn còn. “Hư” vì Thục An Dương Vương không hề được thư tịch cổ nào ghi chép ngoài các truyền thuyết Việt. Và hơn nữa, những câu chuyện về An Dương Vương có nhiều chi tiết thật khó hiểu khi so với chính sử hiện tại.

Thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc có 3 câu chuyện hay được kể đến. Thứ nhất là chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa sau khi thắng Hùng Vương. Thứ hai là mối tình ngang trái của Mỵ Châu – Trọng Thủy. Cuối cùng là chuyện Lý Ông Trọng được cử làm tướng Tần chống Hung Nô. Xem xét thời kỳ nước Âu Lạc của An Dương Vương không thể không đi tìm sự thật lịch sử của 3 câu chuyện này.

XÂY THÀNH CỔ LOA

Ai đã giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa? Có lẽ đến đứa trẻ học cấp 1 cũng biết đó là thần Kim Quy. Có ý kiến còn cho rằng thành Cổ Loa là thành Rùa, theo mô hình của Quy Thành xây bên nước Thục… Do đó Thục An Dương Vương là con cháu dòng Thục Khai Minh “thiên di” tới nước Văn Lang… Nhưng không hẳn vậy…

Điểm tất cả các di tích tín ngưỡng còn lại trong dân gian thì thần Kim Quy không được thờ ở đâu cả. Thay vào đó, người được thờ trong chuyện này là Huyền Thiên Trấn Vũ. Vị thần này không xa lạ gì vì đây là một trong Thăng Long tứ trấn mà Trấn Vũ quán là Quán Thánh ở đầu đường Thụy Khuê cạnh Hồ Tây bây giờ.

Nơi thờ gốc của Huyền Thiên là ở đền Sái tại làng Thụy Lôi, Đông Anh, gần thành Cổ Loa. Núi Sái tương truyền là có lối thông với núi Thất Diệu, nơi quỷ tinh Gà Trắng quấy nhiễu việc xây thành đã bị chém chết. Thậm chí cách đó không xa ở Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh còn có cả đền thờ Bạch Kê. Huyền Thiên đại thánh mới là người đã giúp An Dương Vương xây thành bằng cách cử thần Kim Quy đến giúp trừ yêu diệt quỷ.

Từ núi Thất Diệu đi thêm một đoạn, qua đò ngang dòng sông Cầu là tới làng Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang). Người được thờ làm thành hoàng ở Thổ Hà là Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử. Tương truyền Lão Tử đã tu hành, đắc đạo và “hóa” ở trang Thổ Hà. Nhưng kỳ lạ hơn thần tích Thổ Hà cho biết Lão Tử mới là người đã điều thần Kim Quy đến giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa.

Câu đối ở đình Thổ Hà:

Quy giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỷ
Long năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên.

Dịch:

Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỷ
Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên.

Như vậy Lão Tử là Huyền Thiên đại thánh, người đã giúp An Dương Vương xây thành ở núi Sái. Vào thời Đường, Lão Tử được tôn phong là Thái Thượng Lão Quân Huyền Nguyên hoàng đế. Do vậy Lão Tử được gọi là Huyền Nguyên hay Huyền Thiên ở các đạo quán.

Lão Tử, vị giáo chủ Đạo giáo của Trung Hoa sao lại có mặt ở nước Nam, lại còn giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa nữa. Chuyện này phải hiểu như thế nào?

Sách Lão Tử minh cho biết: Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.

Vùng ba sông – Tam Xuyên là đất của nhà Chu vì khi Tần diệt Chu đã lấy đất nhà Chu lập quận Tam Xuyên. U Vương là vị vua cuối cùng của nhà Tây Chu. Sau đó tới Chu Bình Vương, nhà Chu chuyển về Lạc Dương, bắt đầu thời kỳ Đông Chu.

Cơn địa chấn lúc giao thời Tây và Đông Chu trên chính là cái nền thật của chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa ở Việt Nam. Nhà Chu khi dời đô từ Tây sang Đông đã gặp một trận động đất lớn, Đông Đô Lạc Dương bị rung chuyển. Lão Tử nhân cơ hội đó bày đàn thờ ở núi Sái giả chuyện trừ yêu diệt quỷ của đời trước để răn dạy vua Chu. Câu đối ở đình Thổ Hà:

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Dịch:

Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng nắm chốn thanh hư, mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một truyền phép màu nhiệm, tạo thần tiên.

Thời là thời Đông Chu, còn đất là đất Nam Việt. An Dương Vương xây thành ở Đông Đô (tên cũ của Hà Nội) chính là thiên tử Chu của Trung Hoa. Đạo Giáo của Trung Hoa khởi đầu bởi Lão Tử – Huyền Thiên ở núi Vũ Đương (Võ Đang), là tên của núi Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh. Sự thần kỳ của Đạo Giáo chính là bắt đầu từ chuyện trừ quỷ tinh để xây thành cho Đông Đô.

MỴ CHÂU – TRỌNG THỦY

Một câu chuyện cười: Thầy giáo hỏi học sinh: “Ai đã đánh cắp nỏ thần của An Dương Vương”. Học sinh sợ hãi đáp: “Dạ, không phải em ạ!”…

Lẫy nỏ thần, vũ khí lợi hại mà thần  Kim Quy trao cho Thục An Dương Vương đã bị Trọng Thủy đánh cắp. Tuy nhiên, nếu hỏi Trọng Thủy là ai thì có lẽ cả các giáo sư ngày nay cũng phải lúng túng chứ nói gì đến các em học sinh.

Truyền thuyết kể Trọng Thủy là con trai của Triệu Đà đã cầu hôn con gái An Dương Vương là Mỵ Châu và xin ở rể. Họ Triệu đây là Triệu nào?

Ở thành Cổ Loa trong am thờ Mỵ Châu nay có bài thơ đề trên bảng gỗ:

Thành hoang khuất khúc xanh rì cỏ
Việc cũ đau lòng biết hỏi ai?
Tần Việt nhân duyên thành cập oán
Non sông vận kiếp tới mày ngài
Quyên kêu nước cũ trời sương muộn
Trai nở dòng băng biển biếc hay
Mờ mịt nỏ thần đâu biệt mất
Rùa vàng lầm lỡ tới ai đây.

Cụm từ “Nhân duyên Tần Việt” cho thấy Mỵ Châu là Việt, còn Trọng Thủy là Tần. Nhà Tần có họ Triệu, như Tần Thủy Hoàng tên Triệu Chính. Chuyện nhà Tần cho con trai đi ở rể trên đất Việt này là thế nào?

Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn lời bình của Ngô Sĩ Liên khi nói tới chuyện Nhã Lang – Cảo Nương thời Triệu Quang Phục: Đàn bà gọi việc lấy chồng là “quy” thì nhà chồng tức là nhà mình. Con gái vua đã gả cho Nhã Lang thì sao không cho về nhà chồng mà lại theo tục ở gửi rể của nhà Doanh Tần để đến nỗi bại vong?

Trong lịch sử nhà Tần thì chỉ có một chuyện “gửi rể” duy nhất là việc công tử Dị Nhân làm con tin ở đất Triệu, lấy nàng Triệu Cơ, thiếp của Lã Bất Vi… Câu chuyện Lã Bất Vi “buôn vua” nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa này chỉ là sự bịa đặt bóp méo sự thực về nhân duyên Tần Việt của chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy ở Việt Nam.

Nàng Triệu Cơ trong ngôn ngữ xưa được gọi là Châu Cơ. Như Đại Nam quốc sử diễn ca kể:

Bấy giờ gặp hội cường Tần
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam
Châu Cơ muốn nặng túi tham
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi.

Châu Cơ chính là nàng Mỵ Châu họ Cơ. Họ Cơ là họ của các vua Chu. Mỵ Châu là con gái vua Châu (Chu), rất rõ ràng.

Trọng Thủy là công tử Dị Nhân – Doanh Tử Sở, cháu của Tần Chiêu Tương Vương, đi ở rể ở nước Chu, bị tráo đổi thành ở nước Triệu. Tần Chiêu Tương Vương, người đã diệt nhà Chu năm 256 TCN, mới là Triệu Đà trong Truyện Rùa Vàng. Năm này cũng là thời điểm được xem là Thục An Dương Vương đánh Hùng Vương. Sử Việt đã chép gộp hai sự kiện: việc Thục Phán – Cơ Phát phát động chư hầu diệt Ân Trụ Vương và việc Tần Chiêu Tương Vương đánh Chu Noãn Vương, vị vua cuối cùng của nhà Chu. Sự kiện đầu mở màn cho cơ nghiệp thiên tử của nhà Chu. Sự kiện sau kết thúc vương triều này của Trung Hoa, kéo dài gần 1000 năm.

LÝ ÔNG TRỌNG

Dựa vào chuyện Lý Ông Trọng là tướng của An Dương Vương nhưng lại giúp Tần Thủy Hoàng trấn giữ Hung Nô mà các sử gia ngày nay cho rằng đã có một sự “hòa hoãn” giữa Thục Phán và Tần, để sau đó Thục Phán lãnh đạo nhân dân Việt trường kỳ kháng chiến, đã dành lại được nước Âu Lạc sau khi Thủy Hoàng mất…

Về cuộc tấn công của nhà Tần vào đất Việt sách Hoài Nam tử chép: Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người Tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư.

Quân trưởng Tây Âu Dịch Hu Tống là ai? Có người đoán đó là bố của Thục Phán (Thục Vương), để Thục Phán thành người Tuấn kiệt làm thủ lĩnh kháng Tần những năm này…

An Dương Vương hay Âm Dương Vương, chỉ vị vua đã làm nên Dịch học (Âm dương). Người tác dịch của Trung Hoa là Chu Văn Vương. Truyền thuyết Việt kể là Lang Liêu nghĩ ra bánh chưng bánh dày. “Bánh chưng báy dày” hay “bánh trăng bánh giời” là hình ảnh của trời tròn đất vuông, âm dương mà thôi.

Các vị vua Chu do vậy được gọi là An Dương Vương (Âm Dương Vương), là những người đã nắm bắt được Kinh Dịch (do thần Kinh Quy – Kim Quy trao tặng) mà cai quản cả thiên hạ Trung Hoa. Khi xác định vậy thì cái tên Dịch Hu Tống có thể được giải nghĩa như sau:

–          Hu = Hậu
–          Tống = Tông.

Dịch Hu Tống = Dịch Hậu Tông, nghĩa là dòng dõi cuối cùng của Dịch Vương. Quân Tần đã đánh diệt hậu duệ của Dịch Vương, tức là đánh Chu Noãn Vương, vị vua Chu cuối cùng ở thành Cổ Loa, “quân trưởng” của nước Âu Lạc.

Trở lại chuyện Lý Ông Trọng. Như đã trình bày ở trên, nhà Tần xuất phát từ hướng Tây (Thục) đánh nhà Chu ở hướng Đông (Đông Chu) nên sự kiện Tần diệt Chu còn được chép là An Dương Vương đánh Hùng Vương của nước Văn Lang (Lang Văn Cơ Xương). An Dương còn có nghĩa là “dẹp yên phương Đông” nên An Dương Vương ở đây chỉ nhà Tần. Lý Ông Trọng làm tướng của An Dương Vương, không phải là làm tướng cho nhà Thục (Chu) mà là cho nhà Tần, đúng như truyền thuyết đã kể. Ông Trọng đỗ Hiếu Liêm, được Tần Thủy Hoàng phong làm chức Tư lệ hiệu úy và gả con gái cho.

Sách Từ Nguyên viết: Nguyễn Ông Trọng đời Tần, người Nam Hải, thân dài một trượng ba thước, khí chất đoan dũng, khác với người thường. Vua Thủy Hoàng sai cầm quân giữ đất Lâm Thao, thanh thế chấn động Hung Nô. Ông Trọng chết. Vua sai đúc tượng đồng để ở của Tư Mã, coi giữ cung Hàm Dương.

Sách này không hề đả động gì tới Thục Phán hay Hùng Vương mà nói rõ Ông Trọng người Nam Hải làm tướng Tần ở đất Lâm Thao.

Đại Nam quốc sử diễn ca kể về Lý Ông Trọng:

Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân
Làm quan hiệu úy đem quân ngữ Hồ
Uy danh đã khiếp Hung Nô
Người về Nam quốc hình đồ Bắc phương.

Hung Nô trong khổ thơ này là từ tương đương với quân Hồ. Thực vậy, bởi vì khi dùng phép thiết thì Hung Nô thiết Hồ. Lý Ông Trọng trấn giữ quần Hồ, Hồ là người ở phía Nam nước Văn Lang (nước Hồ Tôn), tức là người Chiêm Thành sau này.

Ông Trọng sinh ra ở Từ Liêm. Từ Liêm thiết Tiêm hay Chiêm, đọc sai thành Chèm. Đức thánh Chèm (Lý Ông Trọng) như vậy là đức thánh Chiêm, chỉ rõ thành tích trấn giữ Chiêm – Hồ của Ông Trọng. Lâm Thao là Lâm Ấp, tức là miền Tây Bắc và Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay, chứ không phải ở tận Cam Túc.

Nơi đặt tượng Lý Ông Trọng là Hàm Dương. Hàm Dương thiết Hương. Làng Thụy Hương là quê của Lý Ông Trọng. Tượng của Lý Ông Trọng không đặt ở kinh đô của Tần mà ở làng Hương, tức là ở Chèm – Từ Liêm, bên bờ sông Hồng ngày nay. Phải đặt tượng ở đó thì uy danh mới khiếp quần Hồ – người Chiêm được.

Ba câu chuyện cổ của nước Âu Lạc đã ghi lại những sự kiện chính của thời kỳ Chu – Tần với những địa danh trên đất Việt. Có 2 An Dương Vương. Một là Thục An Dương Vương, hay Âm Dương Vương là vua Dịch học, tức là vua Chu. Vua Dịch học đầu tiên là Chu Văn Vương hay Lang Văn (Văn Lang). Chu U Vương – Chu Bình Vương xây thành Cổ Loa ở Đông Đô được sự trợ giúp của Lão Tử, bắt đầu thời kỳ Đông Chu. Dòng dõi Dịch vương cuối cùng bị Tần diệt là Dịch Hu Tống hay Dịch Hậu Tông là Chu Noãn Vương.

An Dương Vương thứ hai với nghĩa là vị vua đã dẹp yên phương Đông, chỉ nhà Tần. Trọng Thủy là con của vua Tần lấy nàng Châu Cơ – Mỵ Châu và ở rể trên đất của nhà Chu. Tần Chiêu Tương Vương diệt Chu, tới Tần Thủy Hoàng dời kinh đô về quãng giữa hai nhà Chu, ở gần biển hơn. Đó cũng là nơi giáp với người Chiêm Hồ (Hung Nô), nơi mà đại tướng nhà Tần là Lý Ông Trọng trấn giữ.