Thần tích xã Hương Triện ở Gia Bình, Bắc Ninh cung cấp những thông tin hết sức hiếm lạ về nguồn gốc của Thục An Dương Vương. Bản thần tích Hương Triện ngay tên gọi là Ngọc phả ghi chép cổ về Thục đế Thạc thần là dòng dõi vua Hùng nước Nam Việt. Thông tin này có thể tóm tắt như sau:
Vào thời vua Hùng thứ 17 là Nghị Vương, có vị Bộ chủ bộ Ai Lao, là dòng dõi của người con thứ 8 từ bọc trăm trứng, mang họ Hùng tên Bích. Chính thất phu nhân của ông sinh được 2 người con trai rồi mất sớm. Ông Bộ chủ lấy thêm một người vợ nữa, con của vị huyện lệnh họ Trần huyện Gia Định đạo Bắc Giang, là bà Thận Nương làm đệ nhị phu nhân. Thận Nương nằm mơ thấy rồng nhập mà mang thai, sinh được người con đặt tên là Thạc công.
Khi đó vua nước Thục có con gái là công chúa Hằng Nương, nghe tin Bộ chủ Ai Lao sinh được Thạc công có hùng tài dũng lược, nên đã dẫn quân đến bộ Ai Lao, xin Thạc công về làm con rể. Thạc công lấy công chúa nước Thục rồi kế ngôi của nhạc phụ, xưng là Thục An Dương Vương.
Tới thời vua Hùng thứ 18 là Duệ Vương do không có con trai nối dõi nên đã nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. An Dương Vương nhận thụ truyền lẫy nỏ thần từ Hùng Duệ Vương, dời về đóng đô ở Cổ Loa. Vua lại đi xem xét thế đất, thấy khu vực núi Đông Cứu có thế đất đẹp, lại là quê mẹ, nên đã lập hành cung ở đó, thường hay lui tới du lãm.
Lại nói bấy giờ có người phủ Cửu Chân, Nam Hải, họ Triệu tên Đà, phát động hùng binh kéo đến đánh Thục Vương để cướp nước. Vì Thục Vương có nỏ rùa lẫy thần nên Triệu Đà nhiều lần thất bại. Triệu Đà mới bày kế xin giảng hòa, hai nước coi nhau như anh em, rồi cử con trai là Trọng Thủy cầu hôn với con gái An Dương Vương là công chúa Mỵ Châu. An Dương Vương đồng ý.
Trọng Thủy gạt Mỵ Châu đánh tráo lẫy nỏ thần, rồi xin trở về Triệu. Trước khi về Trọng Thủy đưa cho Mỵ Châu chiếc áo lông ngỗng, dặn khi có sự biến thì rắc lông ngỗng làm dấu để tìm nhau. Trọng Thủy lấy được lẫy nỏ thần về Triệu thì Triệu Đà lập tức dẫn quân tấn công Cổ Loa. Nỏ thần vô dụng, An Dương Vương dẫn Mỵ Châu bỏ chạy. Khi gặp đường cùng bên sông, cầu khấn thần rùa hiện lên, nói: Giặc ở sau lưng nhà vua đó.
Mỵ Châu thề với trời rồi tự tiết xuống sông. An Dương Vương chạy ra đến cửa Nam Hải thì được thần rùa rẽ nước, cầm ngọc văn tê bảy tấc mà đi xuống biển, hóa sinh bất diệt.
Câu chuyện về An Dương Vương ở Hương Triện đọc qua có vẻ không có gì khác so với chuyện kể thông thường về Thục Vương. Tuy nhiên, thông tin đặc biệt ở đây chính là nguồn gốc cha mẹ của An Dương Vương được kể một cách rất rõ ràng. Cha là Bộ chủ Ai Lao, là dòng dõi họ Hùng. Mẹ là thứ phu nhân, người Gia Bình, Bắc Ninh. Hơn nữa, chi tiết khó giải là việc vua nước Thục dẫn quân tấn công Ai Lao lại chỉ để xin chàng rể cho con gái của mình và nhường ngôi cho Thạc công.
Sự kiện này vào thời Hùng Nghị Vương cũng được Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả kể:
Hùng Nghị Vương thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình. Vua sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin Trung Quốc không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ phương Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết.
Bấy giờ chúa phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng Vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị Vương. Hùng Nghị Vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục Vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị Vương, nói: “Quân Thục từ phía Tây đến, chỉ muốn bộ chủ [Ai Lao] truyền lại cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua”.
Hùng Nghị Vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bắt được bộ chủ phụ đạo [Ai Lao] đem về Thục, gả công chúa cho, rồi bắt nhường ngôi cho mình. Thục Vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị Vương, xin coi triều Nam là anh, triều Tây là em, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị Vương bằng lòng như thế. Từ đó triều Tây ngừng việc binh.
Thần tích xã Cao Mại ở Phú Thọ cũng cho biết, người dẫn quân cùng với Hùng Nghị Vương đi ứng cứu Ai Lao là Phò mã Lý Lang Công. Sự kiện vua Thục đánh Ai Lao rõ ràng không đơn giản chỉ là để xin con rể, mà là một sự tranh chấp lớn giữa Hùng và Thục. Sự thực của việc này là như thế nào?
Để kiến giải việc này phải lần theo từng dữ kiện dựa trên sử thuyết Hùng Việt. Trước hết, Ai Lao là đất Âu, vào cuối thời Hùng Vương (Thiên tử Chu) vùng đất này do Tây Chu Quân cai quản. Thục Vương là con của Bộ chủ Ai Lao tức là con của Tây Chu Quân, nhưng lại làm chủ vùng Bắc Việt, đóng đô ở Cổ Loa. Như thế Thục Vương trong chuyện này chính là Đông Chu Quân.
Lịch sử phân liệt Tây Chu Quân và Đông Chu Quân tóm tắt từ Sử ký Tư Mã Thiên như sau: Năm 440 TCN, Chu Khảo Vương Cơ Nguy sau khi lên ngôi đã phân phong cho em trai là Cơ Yết ở đất Vương Thành giữ chức Chu công để phụ giúp triều đình. Cơ Yết có hiệu là Tây Chu Hoàn công hoặc Tây Chu quân. Sau khi Cơ Yết mất, con là Cơ Táo nối ngôi, tức Tây Chu Uy công.
Năm Chu Hiển Vương thứ hai (367 TCN), Tây Chu Uy công mất, hai con là công tử Căn và công tử Triêu tranh đoạt ngôi vị với nhau. Hai nước chư hầu là Hàn và Triệu lập công tử Căn ở đất Củng, tức là Đông Chu Huệ công hoặc Đông Chu quân, Chu Hiển Vương không biết cư xử thế nào cũng không có thực lực để chống lại nên đành chấp nhận thực tế. Đó là nguồn gốc dẫn đến sự phân chia thành 2 nước Tây Chu và Đông Chu, sự chia rẽ này làm cho nhà Chu càng ngày càng thêm suy nhược. Thiên tử nhà Chu ở nhờ Tây Chu quân.
So sánh lịch sử này với chuyện Thục đế Thạc thần ở trên có thể thấy:
– Tây Chu Quân là Bộ chủ Ai Lao, dòng dõi họ Cơ của nhà Chu, được truyền thuyết Việt chép là họ Hùng. Vua Hùng Nghị Vương lúc này tương ứng với Chu Khảo Vương.
– Đông Chu Quân là con thứ của Tây Chu Uy Quân, do tranh chấp với người anh nên được chư hầu Hàn và Triệu giúp, lập riêng nước, xưng Đông Chu. Đông Chu Quân tương ứng với Thạc công, được vua Thục (Hàn Triệu) giúp mà xưng là An Dương Vương. Vua Hùng Duệ Vương lúc này là Chu Hiển Vương, buộc nhường vùng đất Đông Chu cho Thục Vương.
– Sự việc tiếp theo thì người diệt nhà Chu (Thục) là Tần Chiêu Tương Vương, nên tương ứng được truyền thuyết Việt gọi là Triệu Đà. Nhà Tần vốn mang họ Triệu theo đất phong ban đầu từ thời Chu Mục Vương.
– Người đã “ở rể” ở Cổ Loa (Trọng Thủy) như thế chính là Dị Nhân Doanh Tử Sở, sau là Tần Trang Tương Vương, bố của Tần Thủy Hoàng. Công chúa Mỵ Châu được Hoa sử chép là Triệu Cơ, trong đó Cơ chính là họ của các vua Chu.
Truyền thuyết về Thục Vương ở nước ta như thế có thể kể đến 4 giai đoạn với tình tiết khá tương đồng, đều cùng là đến từ vùng Ai Lao phía Tây, chiếm được vùng Bắc Việt mà xưng đế vương:
– Thục Vương I trong trận đánh với hàng chục vạn quân chia làm nhiều đạo tiến vào miền Bắc Việt, thắng lợi thì định đô ở Phong Châu. Đây là sự kiện Cơ Xương Chu Văn Vương đánh chiếm đất Sùng và dời về Phong kinh.
– Thục Vương II dời đô về xây thành Cổ Loa, với sự tích rùa vàng trừ Bạch Kê Tinh ở núi Thất Diệu. Đây là chuyện Chu Bình Vương dời đô từ Cảo kinh (Vân Nam) về Lạc Dương, khởi đầu thời kỳ Đông Chu.
– Thục Vương III là con Bộ chủ Ai Lao, được nhường ngôi ở miền Bắc Việt, rồi bị nhà Triệu lừa mà mất nước. Đây là sự kiện Đông Chu Quân kế nối Chu Noãn Vương rồi bị Tần Chiêu Tương Vương diệt, kết thúc 800 năm vương triều Chu trong lịch sử.
– Thục Vương IV cũng từ phía Tây đến, thống nhất thiên hạ các chư hầu thành một nước và là người đã mở rộng quy mô thành Cổ Loa 3 vòng thành rồi bị Triệu Vũ Đế – Lý Bôn lật đổ. Đây là nhà Tần với sự hiện diện của phò mã Lý Thân trấn giữ Hồ ở thành Cổ Loa và đạo sĩ Yên Kỳ Sinh gặp Tần Thủy Hoàng ở chân núi Yên Tử.
Chính bởi do có tới 4 sự kiện có chiều hướng rất giống nhau từ Tây chinh Đông, nên dẫn đến sự nhầm lẫn rất khó phân định trong các tư liệu sử Việt. Một sơ đồ sau khái quát lại thời kỳ này một cách mạch lạc.
Những Thục triều trong sử Việt.Nội điện An Dương Vương từ ở Hương Triện.
NGỌC PHẢ GHI CHÉP CỔ VỀ VỊ THẠC THẦN ĐẠI VƯƠNG LÀ DÒNG DÕI VUA HÙNG NƯỚC NAM VIỆT
Thần thuộc hàng Thượng đẳng Đế vương, bộ Nam Hải, bản chính Ngọc phả lưu tại bộ Lễ của Quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ là Tiền Hoàng đế của đất nước trời Nam tôn quý, dựng mở cơ đồ lớn, là thủy tổ của Việt Nam, khai sáng họ Việt Thường trải 18 đời thánh vương ngự trị. Mở vận ở trời Nam, núi xanh vạn dặm khai sáng nền thành đô cung điện. Tạo ra muôn vật, cứu giúp dân sinh. Thống lĩnh 15 bộ làm thế vững chãi cho đất nước.
Xét: Trước kia Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai, tên là Âu Nương, lập làm chính cung, mang thai trong ba năm, sinh một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai, đều anh hùng nổi tiếng ở đời, dũng lược hơn người. Khi trưởng thành vua mới phong tước hầu và lập thành các bộ. Bộ thứ nhất là Sơn Nam, bộ thứ hai là Sơn Tây, bộ thứ ba là Hải Dương, bộ thứ tư là Kinh Bắc, bộ thứ năm là Hoan Châu, bộ thứ sáu là Ái Châu, bộ thứ bảy là Bố Chính Châu, bộ thứ tám là Ai Lao, bộ thứ chính là Ô Châu, bộ thứ mười là Hưng Hóa, bộ thứ mười một là Cao Bằng, bộ thứ mười hai là Tuyên Quang, bộ thứ mười ba là Lạng Sơn, bộ thứ mười mười bốn là Quảng Tây, bộ thứ mười lăm là Quảng Đông,
Vua bảo Âu Nương rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa không hợp”. Nhân đó mà phân 50 người theo cha về miền biển làm thủy thần, 50 người con theo mẹ về miền núi làm sơn thần, cùng nhau trấn trị các đầu sông góc biển, chia nhau hưởng lộc trời, cha truyền con nối, phát huy đất nước thành Viêm Hồng, có vua trị nước được hơn ba ngàn năm, phù trì cơ đồ mãi mãi vững như bàn đá, hiển ứng linh thông ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương ngự trị Nam Việt muôn năm. Ở điện thánh núi Hùng lập cung lăng miếu điện. Con cháu dòng dõi, công thần lớn nhỏ hết lòng lo việc nước, đều được thờ thờ phụng trong dân, hương khói lâu dài cùng ngày tháng không mất đi vậy.
Con cháu vua nhà Hậu Trần có thơ rằng:
Thập bát hùng đồ thế hữu truyền
Hậu [chung] tốn vị Thục vương yên
Nga mao kí lộ do thiên đạo
Vật dĩ Châu Nương bất thị hiền.
Lại nói, trải truyền ngôi đến thời vua Hùng thứ mười bảy là Nghị Vương, ngự trị ở sông Bạch Hạc, Việt Trì, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đặt kinh đô ở thành Phong Châu. Nghị Vương là người đức rộng tài cao, có nhiều ý chí sáng suốt, giúp rập cho đời. Người đời sau đều khen đây là vị vua giỏi.
Đương lúc bấy giờ ở nước ta tương truyền rằng có ông Bộ chủ, vốn là dòng dõi Hùng Vương phân từ bọc trăm trứng, họ Hùng tên [Bích], làm Bộ chủ Ai Lao, cha truyền con nối trải mười bảy đời. Chính thất phu nhân của ông Bộ chủ trước khi qua đời, sinh được hai người con trai. Sau đó ông lại lấy người con gái trong một họ lớn ở huyện Gia Định, tên là Thận Nương, lập làm Đệ nhị phu nhân. Vợ chồng như đôi chim cưu hợp lứa, duyện lứa như đàn sắt quện với đàn cầm. Trải trong mấy năm, loan phương tình nồng, cực kỳ ân ái. Khi ấy phu nhân đã 23 tuổi.
Một hôm vợ chồng cùng pha trà uống nước ở lầu hoa gác Tây ngắm trăng hóng mát. Lúc ấy trời đã về khuya. Phu nhân dựa vào lan can bàng hoàng mơ thấy một con rồng vàng từ trời giáng xuống thẳng vào bụng mình. Phu nhân dùng hai tay ôm lấy, hét một tiếng rất to. Khi tỉnh dậy mới biết đây là giấc mộng kỳ lạ. Bèn kể lại cho ông Bộ chủ nghe. Ông bảo với phu nhân rằng:
“Giấc mộng ấy phải chăng là phúc? Nếu quả vậy nàng sẽ mang thai”.
Trải ba bốn tháng sau, phu nhân quả nhiên có mang trong mười bốn tháng. Vào ngày 15 tháng 10 năm Canh Thìn, hôm ấy trời đất tối tăm, gió mưa nổi lên dữ dội, cả một xứ có tiếng động ầm ầm, khí lành huy hoàng, hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Đến giờ Thìn, phu nhân sinh được một người con trai thần phong lẫm liệt, thể diện khôi kỳ, tai vương, nhan rồng, mắt phượng, tướng mặt hài hòa, hàm én mày ngài, hình dạng cân đối, cao lớn đĩnh đạc. Sau một trăm ngày ông Bộ chủ đặt tên cho con là Thạc công (ông Thạc).
Từ đó xuân sinh hạ trưởng, ngày tháng trôi đi, đến khi trưởng thành, vào năm 14 tuổi tính vốn thông minh, khí tượng ung dung, thiên tư cao mại, trí dũng hơn người. Đương thời có tiên sinh họ Ngô dạy học ở đất Ai Lao, Thạc công đến theo học ở thầy được trong mấy tháng. Hễ Thạc công đi lại đến đâu đều có một đám mây tựa như chiếc long che trên đỉnh đầu, cả chỗ đó trở nên mát mẻ. Tư chất thông minh kỳ dị, chỉ học trong một năm mà chư sử bách gia đều thuộc làu. Văn tài chỉ trong bảy bước đã làm xong một bài thơ. Võ nghệ tinh thông, tam lược lục thao cùng binh pháp của Thái công không chỗ nào không tinh nhạy. Thiên tư khí độ vượt hơn người bình thường. Đức rộng tài cao, khoan nhân đại lượng, bản tính anh hùng, lòng nhân nghĩa chính, lòng hiếu trung hòa.
Đương thời gian đó tiên sinh họ Ngô thường khen khí chất của Thạc công không phải là người bình thường, về sau nếu không làm vương ắt sẽ làm bá. Bạn bè không ai không kính phục.
Lại nói bấy giờ nước Nam ta có dịch khí hoành hành, nhân dân đều bị mắc bệnh không chừa một chỗ nào. Đương khi ấy Thạc công có một người dì tên là Hiếu thị, lấy con ông họ Nguyễn người đất trang Hương Triện huyện Gia Định phủ Thuận An đạo Bắc Giang (mẹ Thạc công và Hiếu thị vốn cùng là con ông huyện lệnh huyện Gia Định, cùng một cha mẹ). Do vậy khi ông nghe tin nhân dân địa phương của dì mắc bệnh, gia đình của dì cũng bị mắc bệnh nên xin cha mẹ trở về đất Hương Triện thăm dì.
Hôm ấy ông cử giá về đất Hương Triện, đến nửa đêm các họ trong đất Hương Triện (bấy giờ trong trang Hương Triện có các tộc Nguyễn, Đào, Đặng, Phạm, Đỗ, Hoàng, Bùi, Lê, Trần và Phan lập thành một trang) vốn đang có người bị mắc bệnh, cùng nhau mơ thấy ôn binh quỷ chúng đang báo tin chi nhau rằng: “ Dân chúng ở đất này có thiên tử đang trở về làm phúc thần của dân. Binh lính của ta nên gấp chóng rút khỏi đây ngay, không thể lưu cư ở đây”. Vừa nói chúng vừa tự rút hết khỏi nơi này. Nhân dân nghe thấy thế liền tỉnh giấc thì trời vừa sáng.
Mọi người cùng thấy bệnh tật trong trang ai nấy đều qua khỏi. Hôm ấy nhân dân bàn luận, ai cũng bảo mình gặp một giấc mơ như thế. Mọi người cho là kỳ lạ, thực rất linh nghiệm, cùng nhau ra một ngôi quán đợi đến hết ngày xem sự thể ra sao. Chỉ trong một lúc quả nhiên thấy quân của Thạc công cử xa giá đến đây, thăm hỏi người dì và nhân dân bị mắc bệnh. Nhân dân ngầm nghĩ trong giấc mộng đã báo, nay lại thấy quả nhiên như vậy, lập tức làm lễ bái tạ, kể về giấc mộng, tự nguyện xin làm thần tử, xin ông cho tên húy để lập một sinh từ thờ ông làm thần, cơ hồ có nơi trấn trị quỷ xâm lấn từ bên ngoài.
Ông nghe xong đồng ý, cho tự hiệu để dân phụng thờ. Sau đó ông nhàn tản ngắm nhìn địa thế dân cư trong trang để chỉ bảo nhân dân lập sinh từ. Ông thấy địa thế nơi đây có chân long tú mạch, một dải dân cư ở gấp khúc như hình rắn bò, bên cạnh có ao hồ bao bọc, bốn hướng có phong tinh chầu về, bảng bút song hành. Núi Tam Thai chầu phía trước. Sông Thiên Đức chảy vắt ngang. Bên ngoài có một dải sông nhỏ ôm ấp. Bên trong có thế nước lòng vòng, long châu 9 khúc.
Ông truyền nhân dân lập một sinh từ tại đầu địa giới dân cư, phía trước có đất kết cục tạo thành thế đầu rồng. Bên cạnh có giếng ẩn bút chầu phía sau. Tam Thai ứng phía trước. Bên phải bên trái lớp lớp chầu về, quanh co ở bên ngoài. Sinh từ nằm dựa Đông Bắc hướng Tây Nam, thu chính mạch rồng từ phương Tốn, tất cả đều chầu về, tạo thành quý cục.
Nhân dân xây dựng hoàn thành, ông mới lưu nghỉ tại sinh từ, mở yến tiệc trong hơn một tháng, khoản tiếp người dì và nhân dân địa phương cùng dự hưởng. Sau đó ông lại cử giá về đất Ai Lao trải trong mấy năm. Bấy giờ ông mới 22 tuổi.
Đương thời vua nước Thục sinh muộn được một người con gái tên là Hằng Nương công chúa, không có con trai kế vị, nghe phong thanh Bộ chủ Ai Lao sinh được thứ tử Thạc công, vốn là người anh tài lương tuấn, mới dẫn quân đến xin ông Bộ chủ cho Thạc công kết duyên với Hằng Nương công chúa, rồi nhường ngôi cho Thạc công. Ông Bộ chủ Ai Lao đồng ý.
Từ đó Thạc công trở về nước Thục, được vua nước Thục gả công chúa và nhường ngôi báu. Đến khi vua Thục băng hà, ông lên ngôi vua xưng là Thục An Dương Vương. Ông nối thừa quyền nhạc phụ, khiến thiên hạ thanh bình, nhân dân nước Thục sống yên vui. Người dân cày ruộng đào giếng, khắp nơi rộn rã tiếng đàn ca, nghỉ việc võ, sửa việc văn, chăm lo giáo hóa, bốn biển đón cảnh tượng thái bình.
Lại nói nước ta khi Nghị Vương ở ngôi được 162 năm thì Nghị Vương băng hà. Thái tử Duệ Vương lên ngôi kế vị. Đến lúc ấy nhà Hùng đã trải 18 đời với hơn 2000 năm hưởng nước, nối truyền ngôi báu đã lâu. Do lòng trời định như thế.
Khi Duệ Vương lên ngôi, lúc ấy thế nước cáo chung, cơ đồ mạt tạo. Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều nối nhau về nơi tiên cảnh, cùng 6 nàng công chúa chỉ còn lại 2 người. Một người gả cho Chử Đồng Tử, một người gả cho Tản Viên Sơn Thánh. Duệ Vương không có người lập hậu mới triệu Thạc công (tức Thục An Dương Vương), nguyên từ Bộ chủ Ai Lao cũng là miêu duệ nhà Hùng, đến kế vị. Nhân đó Duệ Vương trao nỏ rùa lẫy thần cho Thục Vương để quản lý thiên hạ, đó là đồ quý báu của cơ đồ họ Hùng.
Lại nói, Thục An Dương Vương (húy Thạc) từ lúc nhận ngôi báu cơ đồ họ Hùng, chỉ khoanh tay rủ áo mà nước được thịnh trị, bốn biển thanh bình, người dân vui tiếng đàn ca, trong ngục không còn tiếng người kêu oan trái, vua sáng thần mình. Đương lúc ấy có ông Cao Lỗ giữ chức Tổng chính, Vũ Công Lỗ giữ chức Nghị chính, Phan Công Bính giữ chức Tham nghị triều chính, Nguyễn Tuấn (người trang Hương Triện) giữ chức Ty chính bình vụ, đều là những trung nghĩa lương thần của Thục An Dương Vương. Cai trị hơn 60 năm, lấy đức giáo hóa dân làm gốc. Vua tự tuân theo phúc họ Hùng, dời đô đến thành Cổ Loa. Đương lúc ấy vua lấy đất Hương Triện là nơi cung sở thêm, nên cho được miễn trừ việc binh lương, vinh hiển dồi dào, thấm nhuần tước lộc, cùng nhau chung hưởng đức độ của vua, thực là thịnh vậy.
Lại nói bấy giờ có người phủ Cửu Chân, Nam Hải, họ Triệu tên Đà, phát động hùng binh kéo đến đánh Thục Vương để cướp nước. Nhưng vì Thục Vương có nỏ rùa lẫy thần là báu vật giữ cơ đồ họ Hùng nên trải bốn năm năm giữa Triệu Đà và Thục Vương rồng hổ tranh đấu nhiều phen. Hễ dương nỏ là quân của Triệu Đà đại bại Trong lúc trống mái chưa định, cò trai dằng co, không ngờ đạo trời lại khiến như thế. Tuy có nỏ rùa lẫy thần là báu vật nhưng do thế nước cáo chung nên cũng khó mà bảo vệ.
Lúc ấy Triệu Đà thấy Thục An Dương Vương có thần cơ dị thuật, lại trong nước có nhiều người tài giỏi nên dù đem binh cũng không địch nổi. Một hôm Triệu Đà bảo với các tướng sĩ rằng: “Thục Vương có thần tài dị thuật, nếu đánh thì quân ta khó thắng. Nay tiếp tục mang quân sang đánh quân Thục thì tất lại thu lấy thất bại. Chẳng bằng dùng mưu mà lấy được nước đó. Nay ta định dùng lễ cống xin làm nước anh em, giả làm kế cầu hòa để dò xét ý của Thục Vương ra sao. Ví như được lòng trời ta sẽ đánh một trận là thành đại nghiệp”.
Các tướng nghe xong tất cả đều đồng thuận. Nhân đó Triệu Đà sai bề tôi mang kễ đến Thục An Dương Vương xin cầu hòa. Thục Vương thấy sứ giả nhà Triệu mang lễ cống cầu hòa liền đồng ý. Từ đó kết làm nước anh em, giữ tình tín ái.
Bấy giờ có ông Cao Lỗ giữ chức Đại tướng cho Thục Vương, có thừa trí dũng, trung nghĩa vô song, nhưng bị quần thần nói dèm pha, khiến Thục Vương giáng chức, đày lên Thái Nguyên cho giữ chức huyện lệnh ở châu Bạch Thông. Cao Lỗ từ khi nhậm chức ở đây hổ báo trong địa phận sơn lâm bản châu nghe uy đức của ông, tất cả đều quy phục. Cao Lỗ do chứa hận trong lòng, phát thành chứng bệnh ung thư, hóa tại đất bản châu. Hổ thú rước về đất Đồng Than an táng, về sau lập đền tại sông Thiên Đầu, nhân dân thờ tự, có nhiều linh ứng.
Lại nói, sau đó mấy năm, Triệu Đà lại nghe tin Thục Vương có người con gái tên là Mỵ Châu công chúa. Triệu Đà mới xin cầu hôn cho con trai của mình là Trọng Thủy. Thục Vương cũng đồng ý gả cho Trọng Thủy. Đường thời các trung thần đều can gián, nhưng vua không nghe, lại bảo với quần thần rằng: “Ta có lấy thần của báu của trời thì sợ gì quân Triệu? Vả lại ta không phải là người bất nhẫn”.
Các nghĩa sĩ lương thần can ngăn không được đều từ quan trả chức xin về quê. Âu cũng là do lòng trời bỏ Thục mà theo về Triệu, khiến đức của vua tối tăm, còn lương sĩ quân thần thì đều xa lánh.
Lại nói Triệu Đà nghe tin quân thần của Thục Vương tự di phế nhau, ngầm nghĩ đến việc môi hở răng lạnh, lập tức mật báo cho con trai Trọng Thủy lấy chỗ thân ái mà do thám tình hình trong nước, tất được Trọng Thủy làm theo. Từ đó Trọng Thủy ra vào chỗ bệ hạ, Thục Vương lại rất tin yêu.
Một hôm nhân lúc rỗi, trong phủ vô sự, Trọng Thủy mới hỏi công chúa Mỵ Châu rằng: “Ngày xưa trong lúc hai cha ta hiềm khích giao tranh, cha nàng có dị thuật gì khiến cho cha ta luôn phải thất bại vậy?”.
Thế là công chúa Mỵ Châu liền chỉ vào nỏ rùa lẫy thần. Trọng Thủy hiểu rõ mới tạo một chiếc lẫy khác đem vào đánh tráo. Sau đó tâu với Thục Vương xin trở về thăm cha. Thục Vương đồng ý.
Trọng Thủy lại lấy nệm gấm lông ngỗng trao cho công chúa Mỵ Châu và dặn: “Hai nước có động tĩnh bất thường, nay ta xin về thăm thân phụ, không biết nhanh chậm thế nào. Nếu có binh cách xảy ra, thắng thua khôn lường nên có lông ngỗng cho nàng đánh dấu đường. Ta sẽ theo đó mà tìm đến sau”.
Công chúa Mỵ Châu nghe theo lời dặn. Khi Trọng Thủy về đến thành phủ mang lẫy nỏ báo cho thân phụ, Triệu Đà được lẫy nỏ liền phát động hùng binh tiến đánh Thục Vương, cho quân vậy thành. Thục Vương ngồi trên thành bảo Triệu Đà rằng: “Ta có nỏ thần, quân Triệu không sợ chăng?”.
Quân Triệu Đà ngày một mạnh, xông vào giáp công. Thục Vương dương nỏ bắn nhưng không hiệu nghiệm, biết là mất lẫy thần, bèn cưỡi ngựa cùng công chúa Mỵ Châu, cha con đều chạy.
Công chúa Mỵ Châu cưỡi ngựa chạy phía sau, cứ theo lời giao ước với Trọng Thủy mà rắc lông ngỗng đánh dấu đường. Kịp lúc quân của Triệu Đà theo lông ngỗng truy đuổi Thục Vương, đến khi cùng quẫn, Thục Vương mới ngầm cầu rùa thần đến cứu giúp (do trước đây Duệ Vương trao nỏ thần cho Thục Vương bảo rừng về sau hễ gặp nạn thì hô rùa thần đến cứu giúp). Thục Vương cầu khấn xong bỗng thấy sóng to nổi lên dữ dội. Rùa thần đột nhiên nổi trên sông quay lại bảo Thục Vương rằng: “Giặc ở phía sau nhà vua!”.
Thục Vương quay đầu nhìn phía sau thấy công chúa Mỵ Châu đang phóng ngựa rải lông ngỗng, vua mới bảo Mỵ Châu rằng: “Mỵ Nương con đã giết cha!”.
Mỵ Châu nghe xong, thề cùng trời đất, ngay lúc ấy (tức ngày mồng 2 tháng 12) nhảy xuống sông tự vẫn. Thục Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa Nam Hải thì đã thấy rùa thần rẽ nước thành đường. Thục Vương tay cầm ngọc tê dài 7 thước đi vào biển hóa sinh bất diệt.
Về sau nhân dân địa phương ở Nam Hải đều lập đền thờ cúng. Đến triêu Hậu Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, thần có công âm phù giúp nước, có nhiều linh ứng, nên được phong là Nam Hải Đại vương.
Lại nói, đương khi ấy có ông Nguyễn Tuấn giữ chức Ty chính, người trang Hương Triện, huyện Gia Định, vốn là bề tôi của Thục Vương, do can gián vua nhưng vua không nghe, mới từ chức trở về dưỡng nhàn ở quê. Nghe tin vua đã hóa, Triệu Đà lấy được nước, mới truyền nhân dân (tức trang Hương Triện) cứ tuân theo húy tự là Thạc Đại vương mà lập đền ở hội đồng cung sở để thờ cugs. Còn Nguyễn Tuấn vào đất Ái Châu xuất gia đầu Phật, xuống tóc ăn chay, mải miết dạo ngắm trời đất, không quay về quê quán. Về sau mất tại chùa Ngọc Xá, huyện Tống Sơn, nhân dân địa phương thờ cúng.
Lại nói cho đến thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tề, Lương cộng là 349 năm, trải đến nước Nam có các đời Đinh, Lê, Lý, Trần gồm 4 họ khai sáng cơ đồ, vị Thạc Đại vương thường âm phù giúp nước, che chở dân, anh linh hiển hiện, nên được các đời đế vương gia phong là Thượng đẳng phúc thần, hương hỏa thờ cúng không dứt.
Lại nói, trải đền thời bấy giờ có người họ Lê, tên húy là Lợi, người trang Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu đứng lên khởi nghĩa, tập hợp nghĩa binh, tiễu trừ họ Hồ, tiêu diệt người Minh, lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn (tức Thái tổ Cao Hoàng đế), đặt niên hiệu Thuận Thiên. Khi đang còn khởi nghĩa, vua đi qua ngôi đền của trang Hương Triện, vào đây cầu đảo vị âm thần phù giúp nước đánh giặc, sau khi bình xong giặc Minh, sẽ bao phong mỹ tự Thượng đẳng Phúc thần, thờ cúng lâu dài cùng đất nước trường tồn giữ làm lệ thường. Về sau đánh đuổi được giặc Minh, đất nước thanh bình, vua bèn gia phong mỹ tự, vạn đời là Phúc thần. Đức của thần thịnh vậy.
– Phong cho thần là Thạc thần Đại vương. Chuẩn cho dân của trang sở tại Hương Triện phụng thờ.
Lại nói, từ khi Lê Thái Tổ khai sáng cơ đồ trải truyền các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiển Tông, Chiêu Tông đến đại thần họ Mạc tiếm quyền (tức Mạc Đăng Dung, là huyền tôn của Mạc Đĩnh Chi), trải năm đời làm vua với hơn 60 năm. Đến vua Trang Tông cùng đại thần họ Nguyễn có mưu kế lớn, khôi phục nghĩa binh, tiễu trừ họ mạc. Từ đó nhà Lê làm đế, họ Nguyễn là vương, tiền Lê, hậu Lê thần đều có công âm phù giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ. Do vậy trải các đời đế vương đều được gia phong mỹ tự là Thượng đẳng Phúc thần, cùng đất nước dài lâu giữ làm lệ thường. Đức của thần thịnh vượng vậy (đền thờ chính của thần ở Cổ Loa, là nơi quốc tế, làm dân tạo lệ)
Lệ về ngày sinh, ngày hóa của thần cùng ngày tiệc, sắc phục, tên húy nhất thiết phải cấm, được ghi như sau:
– Ngày sinh của thần: 15 tháng 10, lấy làm lệ chính. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế, sửa lễ gồm cỗ chay, lợn, xôi, trầu, rượi. Ngày hôm sau (chính nhật) sửa lễ gồm bò, ca hát trong 3 ngày thì dừng.
– Ngày hóa của thần: mồng 2 tháng 12. Sửa lễ cỗ chay, lợn, xôi, trà, hoa quả, trầu cau.
– Ngày tiệc: 12 tháng 8. Làm lễ rước thần cáo tế. Sửa dùng lợn, bò cũng có thể được, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: mồng 7 tháng Giêng. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế cáo như ngày sinh của thần. Ngày hôm sau sửa lễ gồm bò, ca hát, đánh cờ, đấu vật trong 10 ngày thì dừng.
– Ngày tiệc: 12 tháng 9. Sửa lễ dùng lợn, xôi, rượu, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: 12 tháng 3. Làm lễ, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: mồng 10 tháng 11. Làm lễ tùy nghi.
– Tên húy của thánh phụ, thánh mẫu xem trong Ngọc phả này đều cấm dùng, cùng lệ về các ngày tiệc, thánh phụ thánh mẫu đều được phối thờ.
– Tên húy gồm chữ Thạc, nhất thiết cấm dùng, cùng hai chữ Nam, Hải phải tránh âm, sắc phục khi hành lễ, màu vàng, màu tía đều không được dùng. Lông ngỗng nuôi dưỡng cấm không được dùng.
Ngày mồng 10 thánh Giêng niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất (1572) Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính vâng mệnh soạn bản chính.
Ngày tốt tháng 2 niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737) Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh, bề tôi là Nguyễn Hiền phụng mệnh sao lại theo bản chính.
Người dịch TS. Nguyễn Hữu Mùi, Viện nghiên cứu Hán Nôm năm 2009.
Ngọc phả cổ chép về Phụ ký Cương nghị Hùng kiệt Đại vương phò mã Hùng triều Việt Thường Thị Lý Lang Công (lấy con gái thứ sáu của Nghị Vương là Nguyệt Cư Công chúa sinh 12 vị thần quan nhận quản 17 bộ nhánh)
Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh Tổ Nam thiên Đại bảo Tiền Hoàng đế gây dựng cơ đồ, là thủy tổ Việt Nam, lập nước Cổ Việt Thường, họ Hùng 16 đời thánh vương ngự trị trời Nam, khai mở vận đế thánh, vua sáng. Núi xanh vạn dặm dựng nền cung điện đô thành. Mở vật giúp dân, thống quản 15 bộ
(Khi ấy vua Hùng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm chính cung, ở tại núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ mang thai 33 năm, sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm tốt trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vương bèn chia hầu, lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Hoan Châu, sáu là Ái Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.
Khi đó Vương nói với Âu Cơ rằng:
Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc.
Vì thế chia tương biệt, chia 50 con theo cha về biển làm Thủy tinh, 50 con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh. Phân rõ các chư vương trấn ở sông núi, cùng là thần thuộc vậy. Sau phân thành trăm họ từ đó.)
Thế mạnh trấn áp phiên chúng, rạng rỡ đất nước Viêm đồ. Có vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi mãi dòng giống vững như bàn đá, hiển ứng linh thiêng nơi Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương nước Nam, ngự muôn năm thánh điện núi Hùng, là Thánh tổ trời Nam, nền móng quốc gia, cơ đồ hùng mạnh, muôn năm còn lưu mãi vạn đời. Bèn lập các cung, lăng, miếu, điện. Con cháu dòng dõi hoàng gia phân ở các đầu núi, trị ở quận Giao Chỉ tại các nơi xứ phủ, huyện, dân trang, động, sách. Phụng thờ hương khói lưu truyền vạn đời. Phối cùng với nhật nguyệt rạng soi. Sánh với trời đất cao dày vậy. Sau Vương tiên sinh có bài tán rằng:
Nam thiên khởi tạo tự Hùng Vương
Vạn cổ trường lưu lập kỷ cương
Nhất thống tương truyền thập bát diệp
Nhị thiên dư tải ức niên hương
Nhất bào bách noãn giai sinh thánh
Lưỡng tế thăng thiên bất tử phương
Hoàng tử vương tôn thiên vạn tải
Thần tiên tương phối dữ tài lương.
Lại nói, triều Kinh truyền 17 đời đến thời Nghị Vương ở ngôi, đóng đô tại Việt Trì bên sông Bạch Hạc, dựng nước tên gọi Văn Lang, kinh đô gọi Phong thành. Nghị Vương có hùng tài đại lược, chính trực cương nghị, cũng có khí tượng quy mô, kế trị các đời yên bình. Thiên hạ trong nhà vui đủ, giữ bên ngoài được an ninh. Ai ai cũng gọi là vị hiền quân vậy.
Đương khi ấy, tương truyền ở sách [trang] Thủy Vân, phủ huyện Thiệu Thiên, quận Ái Châu có một nhà trưởng bộ (họ Lý húy Tuyên). Khi ông trưởng bộ 29 tuổi đã lấy người cùng trang sách là bà Võ Thị Thiệu. Được 3-4 năm, loan phương tương xứng, cầm sắt giao hòa. Than ôi, đạo trời lại đến bất hạnh. Bà Võ mất sớm. Về sau ông có việc quan đến ở kinh đô (tức thành Phong Châu). Khi ấy có người tại Thời Mại, gia đình ở kinh đô, hàng ngày lấy việc buôn bán làm nghề. Vả lại người chồng trước đây sớm mất, chỉ còn thái bà họ Nguyễn (chồng của bà họ Nguyễn tên Xuân, vốn là người xã Thời Mại, huyện Sơn Vi, phủ Thao Giang, ở tại kinh thành buôn bán, tuổi ngoài 60 thì mất), tuổi gần 70, sinh được một người con gái là Nguyễn Thị Loan. Đến tuổi 21 thật có đạo nữ hiền hòa, dung mạo thanh tú, cùng với mẹ buôn bán ở kinh thành.
Trưởng bộ Lý khi đó có việc quan lên kinh đo, ở tại gia đình của hai mẹ con. Trưởng bộ thấy nàng có đức hạnh như vậy, trong lòng rất yêu quý nên hỏi cưới. Thái bà đồng ý gả cho. Ông ở nhà vợ tại kinh thành cho tiện làm việc quan cùng với việc buôn bán các đồ tơ vải. Vua nghe nói ông có kỳ tài, lại có đức tốt, bèn cho quản trưởng phường tơ vải trong thiên hạ. Ông từ khi yên bề gia thất, vợ chồng duyên đẹp, uyên ương hợp bạn, cầm sắt cùng vui. Được quãng 3-4 năm mà chưa thấy điềm ngọc sáng. Khi đó ông đã hơn 40 tuổi, bà Nguyễn cũng gần 30. Một hôm lúc thanh nhàn ông mới nói với bà Nguyễn rằng:
Nhà ta có phúc, chỉ cố tạo phúc, làm việc nhân, tấm lòng từ thiện. Nay tuổi đã cao mà chưa thấy điềm sinh nở. Liệu hoặc ý trời chưa đạt vì việc người còn khiếm khuyết. Cho nên chi bằng một lần cầu đảo, biết đâu lại được chim yến báo hỉ, như thế mới yên được nguyện ước bình sinh.
Nói rồi hôm đó chuẩn bị làm lễ chay ba ngày, lập một đàn tế tại giữa sân, cầu đảo trời đất quỷ thần. Ba ngày liền cầu nguyện trời đất đến chứng. Chúc xong lại cầu đảo ba ngày. Sau khi câu xong 3 ngày thì đêm ấy thái bà Lý (tức là vợ ông) nằm ngủ mơ màng, bỗng thấy một ông lão ngồi mây lơ lửng trên không, tay cầm một cặp cần câu ở bên sông Tam Kỳ của sông Hạc, câu được một con rồng vàng. Thái bà Lý đứng ở bên bờ sông xem việc đó. Lão ông thấy thái bà bèn nói rằng:
Gia đình nhà ngươi phúc hậu, đến tận Trời cao. Nay ta câu được một con rồng vàng, có thể cho vào nhà bà làm đồ quý báu.
Thái bà Lý nghe ông lão cho vậy trong lòng rất vui mừng, hai tay ôm lấy con rồng vàng rồi bay lên trời. Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là điều mộng. Thái bà đem việc trong mông nói với ông Lý. Ông bèn nói với thái bà rằng:
Nếu đúng như trong mộng vậy thì một là thăng quan, hai là sinh ra quý tử. Việc tồn nghi chưa rõ thì sau này sẽ hay. Hãi cứ mạnh dạn mà đoán như vậy đã.
Sau khi nói, thái bà quả nhiên có mang. 33 tháng đến năm Đinh Mùi tháng 8 ngày 9 sinh hạ một con trai, mặt mũi rất lớn, năm gò chầu trời, hàm én mày hổ, vẻ rồng mắt phượng, tay dài quá gối, trán có điểm sao Bắc đẩu, cao hơn người thường. Thánh chất vốn bẩm thông minh. Cha mẹ cho nhập học với Lã tiên sinh. Được 4-5 năm sách của chư tử trăm nhà đều quán thông hết, lại tinh thông binh pháp Thái Công, không đâu là không biết tiếng thơm, bốn biển uy động 9 tầng, đương thời đều gọi là Thánh đồng.
Khi ông được 5 tuổi, theo mẹ đi chơi ở chợ Phong Châu (tức chợ sông Hạc, khi đó thành đô ở tại lầu thượng, lầu hạ đất Việt Trì, đều là kinh đô của Hùng Vương) để mua giấy sách. Bỗng nhiên thấy một ông lão ở phường chài đem một con cá xanh thân dài 2 thước rưỡi đến gặp lão bà. Mẹ con cùng mua con cá xanh đó bằng 9 mạch tiền của thái bà. Mẹ con đem cá trở về nhà, rồi mổ bụng bên trong được một thanh kiếm thần, cán đều làm bằng ngọc kim cương. Lang công bèn cầm kiếm lên xem, thì nghe trong kiếm có tiếng quỷ khóc thần kêu không dứt. Lang công thấy sự đó cho là lạ, bèn cầm kiếm và nói với kiếm rằng:
Ta vốn có anh tài trời cho, nay có thể lại được thanh kiếm thần này.
Tiếng quỷ khóc, chúng thần đều ngừng bặt. Ông nói xong thì từ đó đều yên lặng, không còn thấy tiếng kêu nữa. Lang công từ khi được kiếm về sau tâm tự thấy khảng khái, có chí tang bồng, có nhiều tài lạ thuật dị, đức lượng hơn người, anh hùng trùm thế. Lang công tuổi 21 uy danh đã lẫy lừng, bốn biển anh hùng đều quy phục.
Khi ấy Nghị Vương đam mê tửu sắc, vui chìm trong yến ẩm, không tu luyện võ nghệ, không phòng bị biên giới. Quốc gia trở nên biến loạn bất thường, những đầu sỏ nổi lên, ở ngoài biên ải thường có trộm cướp. Vua bèn mở khoa tuyển người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài để giúp việc nước.
Vua bèn truyền hịch đi các phủ, huyện, châu quận cho nhân dân ai có tài đức thì đến kinh ứng thí. Khi ấu Lang công ứng tuyển vào trường thi ở kinh (tức trường ở Phong Châu), rồi gặp bệ rồng, hỏi thi văn võ, thật có kỳ tài dị thuật, trí dũng anh hùng, tinh thông võ nghệ, tài văn sâu rộng, đối đáp như nước. Vua cảm thấy đây tất là thiên tài giáng thế để giữ nước giúp dân, không phải người tầm thường, rất xứng đáng được trao chỉ.
Khi ấy Vua có nàng công chúa thứ sáu tên là công chúa Nguyệt Cư (39 cung phi của Nghị Vương sinh được 22 hoàng tử và 15 công chúa. Công chúa Nguyệt Cư chính là do cung phi thứ 5 mộng thấy phượng hoàng bay vào trướng mà có mang. Đến năm Đinh Mão tháng Giêng ngày mồng 3 thì sinh, tên gọi Nguyệt Cư, tính vốn thông minh, là bậc nữ trung Nghiêu Thuấn, có dung mạo chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Khi sinh công chúa được 3 ngày đã có thể thích nghe hát xoan nữ. Xưa các vương tông triều Hùng cùng trăm quan khi có sinh con đều có phường hát của huyện Phù Khang phục vụ). Vua gọi Công đến rồi sau đó gả cho Lang công, trao cho chức quan bồ chính điều phối vũ khí quân đội trong thiên hạ, phong là Phụ ký.
Khi đó có nhiều trộm cướp. Vua sai phò mã dẫn quân đi phòng ngự biên giới, tuần du các đạo. Lúc ấy, Lang công bèn nhận mệnh đường đường từ cổng thành tiến ra, tay cầm kiếm thần, tiến thẳng đến vùng mười châu. Đi đến khu vực xã Thời Mại, hôm ấy (mồng 4 tháng 5) nhân dân dựng hành cung làm lễ bái tiếp.
Ông đóng quân, đi xem xét làng quê bên ngoại. Ông lại xem địa thế dân cư, thấy có hình dáng như rồng và rùa cùng nằm, từ núi Nghĩa Lĩnh phân mạch quay về đất tổ, thật là một thế cục quý. Ông lại thấy phong tục nhân dân thuần hậu, làng xóm hòa thuận, lại chính là làng quê bên mẹ, đâu phải đất xa lạ. Hôm ấy ông nói với nhân dân, phụ lão rằng:
Hôm nay vì còn việc nước, ta tuần xét trộm cướp trong thiên hạ, chinh Đông dẹp Tây, chưa được ở yên. Đến ngày sau khi thiên hạ được bình yên, ta tất sẽ lập cung ở cùng với nhân dân làm nơi đô ấp. Ngày nay thiên hạ sinh ra nhiều trộm cướp, rồi một mặt sông Thao những đảng dữ rất thịnh ở các xứ. Lại còn có quân Thục thường hay xâm nhập vào nước ta, dụ dẫn lòng người đêm tâm mưu phản quốc.
Vì nơi sông Thao xuất quân chống quân Thục rất tiện nên Ông truyền cho binh sĩ, nhân dân lập một đồn lớn ở đất xã Thời Mại để chế ngự đạo tặc. Nhân dân nghe lời rằng sẽ lập một đồn ở đất đó để trấn thủ thì đều rất vui mừng, đồng lòng phục xin làm thần tử. Ông đồng ý. Khi ấy Ông dâng biểu tấu về triều xin được nhận trị ở đất đó (tức đất Thời Mại), chế ngự giặc cướp cùng với quân Thục, lấy làm đồn chính đóng giữ. Vua đồng ý. Ông đến nhận ở đất đó, truyền phân các đạo binh mã đến các nơi quận, huyện, châu, trang, động, sách, phân bổ lập đồn đóng quân để chế ngự đạo tặc.
Sự xong thì đạo quân chính của Ông đi xem xét các nơi đồn binh. Hễ nơi nào có trộm cướp, gian đảng, đầu sỏ nghe đạo quân chính của Lang công tiến đến đều tự nhiên sợ phục mà hàng. Còn nơi nào gặp phải việc chiến trận, Ông lấy kiếm thần giơ lên, đảng gian không đánh tự thấy kiếm mà sợ hại bỏ chạy. Ông đi tuần chế ngự đạo tặc qua ba tháng thì những âm mưu khởi loạn trong thiên hạ đều được Lang công bắt sống hết, đuổi về nơi chốn của chúng. Đạo tặc bị quét sạch, thiên hạ thái bình. Ông phụng chiếu quay trở về thành, dâng biểu tấu, bái tạ trước bệ rồng. Vua rất vui mừng xem đó, ngay hôm ấy lại phong Lang Công là Ninh Hải quận vương (thuộc đất sáu châu), thưởng ban vàng bạc cùng sợi gấm, lụa trắng hơn trăm cân. Ông lại tâu thỉnh lập cung ở làng quê ngoại (tức trang Thời Mại) làm nơi đóng sở. Vua đồng ý cho lấy đất đó làm đất Thang mộc ấp của Ông.
Khi đó Ông khấu tạ trước bệ, xin về đất trang Thời Mại. Ngày hôm ấy (mồng 9 tháng 2) nhân dân làm lễ bái đón. Ông truyền nhân dân lập cung ở nơi có hình trán rồng (đất đó phía sau có động cao dẫn mạch đều như mây phủ rồng chầu, trái phải nhất nhất đều chầu, trước mặt có dòng suối nhỏ, hai bên và trước sau đều có dòng nước chảy quanh, quay về hội ở chính đường, trước có đầm sen bán nguyệt, chợ đối diện trước cung, là nơi anh tài đô hội, lập nơi đó làm phủ trị, một vùng trái phải đều là cách rồng mây đứng chầu, phượng rùa đến chầu ở nơi đất chính cung).
Việc xong, hôm ấy đón công chúa Nguyệt Cư quay về cung ấp mà ở đất ấy (tức đất Thời Mại). Được vài tháng thì cha mẹ ở kinh đô bỗng nhiên đều tạ thế (tức ngày mồng 5 tháng 2). Lang công cùng với công chúa quay về kinh đô, tâu lên vua. Vua nghe tin bèn sai đình thần đến làm lễ an táng cho ông bà tại bên trong thành. Sự xong, Ông cùng công chúa ở tang 3 năm, đến khi mãn tang mới quay trở về cung ấp (tức cung ấp Thời Mại), lại mở một cái chợ ở mảnh đất trước cung để tiện cho việc quân và cùng với nhân dân buôn bán, để làm nơi đóng vương cung đô phủ. Từ đó ông bà ở tại đó đảm nhận việc phụng sự gia tiên các bên nội ngoại, lấy đức giáo hóa nhân dân, chia tài sản tạo phúc.
Ông là người vốn có lòng khoan dung đại độ, thưởng ban dân tình, giúp nghèo, dưỡng lão, lấy nhân nghĩa mà giáo hóa nhân dân đều có được thuần phong mỹ tục, vinh dự đủ đầy có thừa. Công chúa cũng một lòng trung hậu, đức nữ hiền hòa, phong tư tốt đẹp dẫu Tề Khương, Tống Nữ cũng không bằng, con vua dòng tiên một bề kết phối. Vợ chồng đều một lòng trung hậu. Phụ lão nhân dân (tức trang Thời Mại) đều nhất nhất coi như ơn sâu như núi sông, đức lớn như trời đất.
Khi ấy Ông tuổi đã ngoài 30. Công chúa Nguyệt Cư 28 tuổi. Một hôm buổi tối công chúa Nguyệt Cư đang nằm ở chính nơi Tây cung, mơ màng vào mộng đi lên đỉnh núi Thứu Lĩnh, bỗng thấy một áng mây năm sắc bay trên đỉnh núi. Công chúa đến nơi xem xét, mới thấy mây năm sắc đều bay lên trên không. Trong mây lại có một con rồng vàng cũng theo mây mà bay lên trời. Lại thấy ở nơi rồng mây đó có một hang huyệt bên trong có 12 chiếc trứng. Công chúa nhặt trứng bọc vào trong áo, đem về đến đường lớn thì 12 trứng đều đồng loạt nở ra 12 rồng con, tất cả đều có hình như rắn thằn lằn. Công chúa sợ hãi bèn bỏ ở giữa đường. Bỗng nhiên tỉnh lại, mới đem mộng đó nói với Lang Công.
Lang Công bèn nói với công chúa rằng:
Nếu quả như trong mộng thì tất là điềm sinh quý tử, đúng là những anh tài tuất kiệt, nhập làm con trong nhà ta, không phải tầm thường. Sớm như trong mộng, nửa đường đã thả, có thể có ý liên quan, chưa chắc gia đình giữ được lâu dài.
Lang Công nói xong, năm ấy công chúa quả nhiên có mang thai, tới năm Giáp Thìn mồng 6 tháng Giêng sinh ở vọng cung (tức cung Đàm Lã) một người con trai, mặt mũi to lớn, mắt tú mày thanh, thật là kỳ dị, nhân gian không có ai có tướng như vậy. Được trong trăm ngày cha mẹ đặt tên là ông Tràng. Đến năm Bính Ngọ mồng 9 tháng 8 công chúa lại sinh một bọc ba con trai. Đến năm Mậu Thân mồng 3 táng 3 lại sinh một bọc 2 con trai. Đến năm Nhâm Tí ngày 12 tháng 10 lại sinh 1 người con trai. Mỗi lần như vậy trời đất mờ tỏ trong 3 ngày, mưa gió kinh trời, sấm sét khắp đất, mùi hương thơm gió nồng nàn trong phòng sinh nở, khí lành rạng rỡ nơi sinh. 12 người con trai đều có phong tư đẹp đẽ, thể mạo khôi kỳ. Phò mã Lang Công trong lòng suy tưởng mà nói:
Gia đình ta có dư phúc hậu nên trời sinh đám thánh, đất xuất chúng hiền, đều cùng báo nhập vào làm con trong nhà. Nếu như không phải vậy thì tất là yêu đồ, quỷ đảng tác loạn, tự sinh ra kỳ sự vậy.
Liền hôm ấy dâng biểu tâu lên vua thuật lại chuyện sinh nở kỳ lạ, Vua nghe tấu đó bèn thốt lên:
Phúc đó! Phúc đó! Con gái ta đức thật nhiều nên lòng trời đã định, quần hiền các thánh đều đến nhập vào nhà làm con, đúng là những thiên tài giúp nước, những người sẽ trợ vận giúp dân vậy.
Ngay hôm đó Vua mới đặt tên cho các chàng (12 ông đều là con của công chúa Nguyệt Cư, tức cháu ngoại của Nghị Vương). Thứ nhất là chàng Tràng, thứ hai là chàng Tuệ, thứ ba là chàng Dực, thứ tư là chàng Linh, thứ năm là chàng Hải, thứ sáu là chàng Thường, thứ bảy là chàng Khắc, thứ tám là chàng Thành, thứ chín là chàng Lôi, thứ mười là chàng Quý, thứ mười một là chàng Kính, thứ mười hai là chàng Dũng. Đến khi các chàng trưởng thành, người con trưởng tuổi đã 12, còn các em đã 8-9 tuổi, đều rất thông mình, sáng dạ, dũng lược hơn người, anh hùng vượt chúng. Nhân dân đều tận phục, trong nước đều sợ.
Người anh tính vốn thông minh cương trực, đức lớn tài cao, lại thấy có nhiều thuật lạ, độ lượng khoan dung, đều có phong độ rộng rãi, văn chương sâu rộng, tinh thông võ lược, con hiếu anh tốt, đương thế đều xưng rất đúng là người hiền. Còn chàng Quý tính hay hiếu sát, hùng dũng hơn người, rất bạo ngược, một lòng khảng khái. Nhân dân sợ phục mà tránh né (khi ấy xã Thời Mại đều sợ phục chàng Quý hơn những chàng khác). Còn các chàng khác đều anh hùng, dũng lược chế ngự. Các tài tử đều vô cùng kính phục. Khi ấy Lang Công cùng công chúa mua thêm đất đại ruộng vườn, thiết lập các cung sở để phân cho các chàng cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi vạn đời hương khói mà phụng thờ, rạng tỏ lòng hiếu kính, đức lớn sánh với trời đất vậy.
Lại nói khi ấy Thục Vương nghe thấy Trung Quốc ít khi dùng võ, muốn chiếm thành một nơi, nhưng còn sợ phương Nam có thần, do dự chưa quyết. Khi đó có chủ phụ đạo bộ Ai Lao có tài lược lớn, cũng là tông phái Hùng Vương. Thục Vương nghe vậy bèn dẫn quân đến đánh nhằm chiếm bộ Ai Lao.
Chủ phụ đạo Ai Lao đó không thể chống lại, bèn cử người đến tâu cầu cứu với Nghị Vương. Nghị Vương bèn dẫn mười vạn hùng binh và sai Ninh Hải quận vương thống lĩnh quân thủy bộ nhằm thẳng đến thành Ai Lao để ứng cứu. Thục Vương nghe Nghị Vương cùng với con rể phò mã Ninh Hải vương dẫn quân đến cứu viện, lại có kiếm thần, mới sợ hãi mà gửi thư rằng:
Quân Thục từ phía Tây lại chỉ muốn chiếm chủ bộ để truyền lại đất nước, đâu dám giơ càng bọ ngựa chống lại cỗ xe vạn thừa vậy.
Nghị Vương thấy thư đến bèn đem quân về. Thục Vương mới được chủ bộ đem về nước Thục, gả công chúa cho và lại nhường ngôi cho. Rồi sai sứ giả đến tạ Nghị Vương, xin Nam triều là anh, Bắc triều là em, định ước giảng hóa, hai nước kết giao. Nghị Vương đồng ý. Từ đó phía Tây Nam quân tình yên vậy.
Lại nói Ông (tức phò mã Lang Công) từ sau khi đánh Thục trở về cung ấp (tức Thời Mại) bỗng vai trái nổi ung nhọt mà nằm bệnh. Vua thường thân đến thăm hỏi. Khi đó Ông đã ngoài 80. Các chàng con tuổi đã ngoài 20. Thấy Ông tuổi đã cao lại mắc nằm bệnh, đề phòng vạn nhất có thế nào nên bèn lập con trưởng chàng Lý Tràng làm Tá thái tử (chữ Tá do Vua đặt cho) để nối vị trí Ninh Hải vương nhận trị. Còn các chàng khác đều phong làm tướng quân.
Hôm đó Lang Công triệu các con cùng với phụ lão nhân dân lại phân phó thác các nơi đất đai, phụ lão cùng các con và nhân dân tuân theo lời giao phó, không được làm khác. Khi ấy Ông phân đều đất đai, thiết lập thành các trang cho các con để sau này phụng thờ. Lúc đó xã Thời Mại được Ông chia thành 4 trang. Một là trang Đàm Lã, giao cho chàng trưởng Tá thái tử để làm nơi sau này hương khói phụng thờ. Nơi mà Ông đã lập chợ (tức chợ Núi) đều phân làm hai, một phân cho Thái tử để phụng thờ, thuộc về Thái tử. Một phân cho các con khác để thu lấy dùng phụ tế làm lễ các tiết. Về sau thuế chợ cũng được chia đều như vậy.
Một khu gò đã lập cung để ở, sau này ủy phó cho các con cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi đền chính phụng thờ vợ chồng ta. Lại cũng giao cho Thái tử một khoảnh ao ở bên trái trước cung, cho Thái tử lấy làm hương khói phụng thờ.
Còn các gò khác cộng 14 chỗ cùng các vùng đất các trang (đất của trang Đàm Lã, trang Lôi, trang Trung Chính, tranng Miếu, trang Lan, trang Thượng Giáp, trang Vĩnh Ninh) và nhân dân (tức ở vùng đất Thời Mại) Ông chia thành các trang thần tử, cùng cho Thái tử cùng với các con chung nhau mà hưởng đều. Không thể bỏ lời chúc thác nàu mà tranh nhau, thì không phải là đạo hiếu của các con ta.
Các chàng cùng với phụ lão, nhân dân nghe lời Ông dạy đều tuân theo lời ủy chúc mà nhận. Sau khi Ông giao chúc được vài mươi hôm thì cái nhọt ở vai trái tự nhiên khỏi. Ông lai đi vào đất Ái Châu, thăm lăng mộ tổ tiên. Phò mã Lang Công đi theo hầu Vua đến chân núi Bàn Sơn (thuộc đất Ái Châu), bỗng nhiên thấy một đám mây trắng từ trên núi bay ra đến thẳng chỗ Lang Công, quấn quanh người. Kiếm thần theo đó bay lên trên trời. Trong chốt lát biến thành một làn khói đen. Trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên. Khi ấy trong mây có tiếng tụng rõ ràng rằng:
Nhất phiến bạch vân phàm nhiễu lai
Thần long cấp cấp đáo thiên đài
Dương quân dĩ mãn thiên quân triệu
Vân giá phù long thượng đế hồi {đài}.
Tụng dừng thì tự nhiên mây khói một đường thẳng lên trên trời mà tự tan đi. Trời đất sáng tỏ. Phò mã bỗng nhiên mà hóa. Cả thân hình chỉ còn thấy áo cốt, đặt ở trên đất tại đó. Vua lấy làm lạ, ngày hôm đó (18 tháng 10) dừng lại xem xét, rồi truyền nơi đất đó cùng với nhân dân Ái Châu sửa chữa miếu đền, lập phụng thờ. Sự xong quay về đô phủ. Hôm đó bao phong tặng mĩ tự cho hưởng lễ vật hương khói vạn cổ không ngừng, cùng vận với quốc gia mà hưng thịnh vậy.
Phong Phò ký Lang Đại vương.
Khi ấy truyền các nơi nhân dân có thờ phụng đến thành đô để phụng đón sắc chỉ trở về các chốn mà thờ phụng. Vốn xã Thời Mại là nơi đền sống của Ông được cho làm thang mộc ấp, chốn hộ nhi, cùng với Bàn Sơn ở Ái Châu là nơi đền lăng của Ông. Hai đền này được truyền sai quan mang đón sắc chỉ về đền. Trăm quan làm lế tế cùng với Công chúa, Thái tử và các con. Nhân dân các trang cũng làm lễ thờ phụng.
Lại nói, khi ấy Tá Thái tử lại nhậm chức Ninh Hải, nối trị quận vương. Còn các ông con trai cùng ở nơi cung ấp (tức Thời Mại) để phụng dưỡng mẹ già (tức công chúa Nguyệt Cư). Các nơi mà Ông đã phân chia thành các cung để ở (khi đó các trang của đất Thời Mại và các xứ gò đều đã được các ông con trai lập làm nơi đô phủ. Ở nơi đó nhân dân đều phục làm thần tử), đều làm các đô phủ anh em cùng nhau quý hiền, dân ấp đều được vinh dự ơn lộc của nhà vua, danh tiếng vang xa, bốn biển anh hùng đều hướng phục.
Lại nói, khi Nghị Vương ở ngôi đã 160 năm thì mất, mới lập Thái tử Hùng Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương tư chất thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ nghiệp tổ tông 17 đời thịnh trị, trong tu luyện võ lược, ngoài ngự trấn biên cương, dốc lòng hưng bình mà yên Trung Quốc. Bèn theo gương của tiên vương mà trị, tôn sùng thiên đạo, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, xuân về trong nước. Đương thời đều gọi là vị hiền quân vậy.
Khi đó công chúa Nguyệt Cư tuổi đã ngoài 70. Một hôm (ngày 12 tháng 12) bỗng nhiên bị đau đầu mà hóa ở nơi ở chính, làm lễ an táng tại chính cung (tức cung Đàm Lã của Thái tử). Trăm quan đến tế, lại bao phong mĩ tự, truyền cho nhân dân cùng triều đình tu sửa cung miếu phụng thờ, cùng với quốc gia hưng thịnh vậy.
Duệ Vương bao phong là:
Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa.
Phong Phụ Ký Linh ứng Lang Đại vương.
Các trang của xã Thời Mại phụng thờ ở nơi chính đền (khi đó Nguyệt Cư đã thiết lập một du cung ở chợ Núi, người ở chợ đó đều xưng là thần tử. Công chúa hóa về sau, đất chợ Núi đều phụng thờ, sự tích còn ở bộ sau).
Lại nói khi cơ đồ họ Hùng đến cuối thế nước cáo chung. Duệ Vương ở ngôi sinh được 20 hoàng tử, đều lần lượt theo nhau về cố hương, 6 vị công chúa cũng chỉ còn 2 vị nữ công chúa. Một tên là công chúa Mị Châu Tiên Dung. Một tên là Mị Nương Ngọc Hoa. Rất được yêu mến. Vua sau gả Mị Châu cho Chử Đồng Tử (quê ở xứ Sơn Nam, xã Đa Hòa, huyện Đông yên, phủ Khoái Châu). Còn công chúa thứ hai là Mị Nương Vua muốn cầu người anh tài để gả kết hôn, bèn lập 2 lầu ở cửa thành Việt Trì, đằng trước treo biên là Đãi hiền lầu. Sai công chúa ở đó. Gửi hịch đi bốn phương, hễ ai có là văn nhân tài tử thì hội về thành để thi tài, sau gả công chúa cho. Thế là hào kiệt bốn biển đều vui mừng, mau chóng quy tập về quốc đô. Vua ngự ra đề thi. Người thì ngàn kinh vạn cuốn không thiếu trong tường Khổng Mạnh, bốn khóa ba truyện chẳng kém thao lược Tôn Ngô. Hiền tại trong Thiên hạ đến ở một trường thi trận,
Đều là tầm thường mà đi, không phải người toàn tài đương thời. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Tinh và Động Đình Thủy Tinh là hai người bạn đồng học có nhiều phép thông thiên, thật là anh hùng. Vua bèn nói:
Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, mà hai khanh đều là bậc anh hùng. Ngô vui thì Sở buồn, Hán ca thì Tần khóc. Thôi thì đành định xem trong hai người ai có khả năng đem sính lễ đến trước thì Trẫm sẽ gả con gái cho.
Thế là hai tướng Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng hẹn rằng:
Chúng thần cùng nhau về đem sinh lễ đến thi, xem ai đến trước.
Thủy Tinh về cung Động Đình mà cầu kỳ các vật lạ. Sơn Tinh đi thẳng ra ngoài lầu lấy gậy trúc chỉ trời xin được sính lễ. Bỗng thấy voi trắng chín ngà, ngọc kỳ vật lạ từ trời rơi xuống. Sơn Tinh nhặt lấy đến đêm gờ Tý đem lễ vào lầu rồng. Vua bèn gọi công chúa đến mà gả cho Sơn Tinh (Sơn Tinh tức Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng), bèn đón về núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thủy Tinh đem sính lễ đến. Vua nói:
Sơn Tinh đã đến lễ trước rồi.
Thủy Tinh tức giận mà quay về (thế là Sơn Thánh và Thủy Tinh do việc hôn nhân mà thành thâm thù, mỗi năm cứ đến tháng 6-7 lại giao chiến, mưa gió nổi lên to lớn, nhân dân thiệt hại nhiều, còn xem trong sự tích về Sơn Thánh).
Lại nói khi Duệ Vương 150 tuổi mới nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh. Tản Viên không nhận, Duệ Vương nói:
Cơ đồ họ Hùng đã đến cuối, con có thể thay thế được.
Tản Viên do dự chưa quyết. Khi đó Thục Vương (là chủ phụ đạo nước Ai Lao, cũng là dòng dõi Hùng Vương) nghe tin Duệ Vương tuổi trời đã đến kỳ mà 20 hoàng tử đều đã về trời, không có người lập nối dõi, định nhường ngôi cho con rể Tản Viên. Thục Vương mới âm thầm khởi binh muốn đến đánh để chiếm lấy nước. Biên phương cấp báo, Duệ Vương cùng với đình thần bàn bạc. Triều đình có quan Liêu tiến ra rằng:
Bệ hạ nghỉ ngơi đã lâu, quân thần tướng sĩ ở trong thời không có chiến loạn, nên hàng ngày quân luyện không tinh. Nay có động đến tất nhân dân xã tắc sẽ muốn cầu phòng thủ để các bậc Thái tổ Thái tông trên trời linh thiêng không gặp hoạn nạn. Vạn nhất mà sự quân xấu đi, quân Thục tất sẽ phá tổ tông cùng làm tổn thương dân chúng con đỏ vậy. Chẳng bằng nhân đây dùng mưu thận trọng bí mật hối lộ tướng giặc, gửi thư cho Thục Vương để xem có thê hoãn việc động binh, từ đó xem cơ sự sau này ra sao.
Vua nghe vậy, muốn theo kế này, bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh đến hỏi. Sơn Thánh tâu rằng:
Hơn hai ngàn năm qua 17 vị thánh quân có ơn sâu đức dày, đã khắc sâu vào cốt tủy nhân dân.
Hiện nay nước giàu quân mạnh. Oai đức của bệ hạ lan xa bốn biển. Chẳng qua quân Thục không biết tự giữ mà dám quật cường, thất bại đã rõ, tất đúng như vậy. Xin bệ hạ xử tội mà thảo phạt, lấy nghĩa mà phục, tất dân ta đều theo bệ hạ. Nước giặc đánh đến không khắc gặp họa. Xin được lĩnh ba vạn quân hùng ra vào, một xe độc tiến, đất Thục sẽ yên.
Vua nghe vậy rất mừng bèn chọn ngày trai giới, lập đàn cầu đảo trời đất. Đang khi làm lễ bỗng thấy trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi tới. Việc xong, đêm ấy Duệ Vương ngự ở chính điện, mơ màng nằm mộng, bỗng thấy Hùng Anh Vương (tức là tổ năm đời của Duệ Vương) cùng binh sĩ tiến đến nói với Duệ Vương rằng:
Cơ đồ họ Hùng đã tận, thế nước cáo chung. Thục Vương làm loạn, nên lòng trời đã định, sai những anh tài xuất thế để trợ giúp nước nhà khi tận cuối. Có 4 vị thần quan trên thiên đình, 1 vị thần quan của thủy quốc, 7 vị thần quan thổ địa đều đầu nhập vào làm con của công chúa Nguyệt Cư, theo giúp Tản Viên Sơn Thánh để trị loạn này vậy. Không phải là vô minh đâu.
Duệ Vương trong mộng tâu lại với Anh Vương rằng:
Dám hỏi các vị thần quan tên như thế nào, xin được chỉ giáo.
Anh Vương nói:
Thứ nhất Tá Thái tử (là Thông phán sự của Thiên đình sai xuống). Thứ hai là Thái Ất. Thứ ba là Thiên Cương. Thứ tư là thần quan Áng Na (tức là thần quan nơi gò đất). Thứ năm là thần quan Thủy (là vị Linh quan của Thủy đình). Thứ sáu là thần quan Đương niên hành khiển (là vị Thiên quan). Thứ bảy là thần quan Phú. Thứ tám là thần quan Khắc. Thứ chín là thần quan Miếu. Thứ mười là thần quan Lôi. Thứ mười một là thần quan Dòng. Thứ mười hai là Đương cảnh bản thổ thành hoàng Đại vương. 7 vị thổ thần là khí lành của núi Hùng, Thời Mại đúc thiêng, cùng mang tên hiệu gò sinh ra vậy (Khi ấy Thời Mại có các gò Áng Na, gò Phú, gò Khắc, gò Miếu, gò Lôi, gò Dòng ở tại nơi cao, cùng với Đương cảnh thành hoàng quản lý nơi đó).
Anh Vương dứt lời thì xa giá tự quay đi. Duệ Vương khấu tạ, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là mộng này là Anh Vương chỉ dạy, bèn sai quan sứ truyền hịch gọi các ông đến, cùng bái làm các tả hữu tướng quân, nhận lệnh của Tản Viên Sơn Thánh đi đánh nước Thục. Khi đó Thái tử Tràng đang nhận chức Ninh Hải vương, chống đánh với một mặt quân Thục. Còn 11 ông tuân phụng mệnh vua, khấu tạ trước bệ, quay về cung ấp (xã Thời Mại), làm lễ từ đường.
Việc xong lại chiêu mộ được các gia thần, nhân dân địa phương được ngoài 700 người khỏe mạnh làm thủ túc cầm đao cho các ông (khi ấy Đàm Lã của xã Thời Mại thuộc thủ túc của Thái tử có 121 người, còn trang Bình Chính, trang Trung Thượng, trang Lan, trang Vĩnh Ninh cộng là 276 người đều theo các ông đi chinh phạt. Còn người ở chợ Núi thì theo thần quan Thủy cùng làm thủ túc gia thần được 68 người. Còn các nơi quận huyện cũng theo các ông, cộng được 743 người).
Khi đó (mồng 10 tháng 8) mổ trâu khao đại hội binh sĩ ở cung ấp. Xong việc các ông tiến quân mã đến bệ rồng. Vua sai làm tả hữu đốc lĩnh tướng quân, cùng cho 5000 hùng binh nhập theo lệnh của Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Thánh cùng các ông khấu tạ trước bệ, lĩnh mệnh đường đường từ cửa thành tiến đi, thẳng đến đồn chính của quân Thục tại đất Mộc Châu, Quỳnh Nhai, đánh một trận đại phá, chém các tướng nước Thục cùng quân sĩ hơn ngàn đầu. Quân Thục thua to tứ tán (trận này có thiên thần là Tá thánh từ trời xuống giúp nước nhà, còn có tích riêng). Còn các dư đảng đều bị bắt sống, dẫn về kinh, một xe không thoát, một ngựa không lọt, quét sạch không yên bình vậy. Tức tốc sai tâu báo tiệp. Vua bèn chia các chiếu truyền về. Sơn Thánh cùng các ông và các tướng phụng mệnh quay về thành, đến tận cổng bái tạ.
Vua rất vui mừng bèn mở yến tiệc khao quân sĩ, thưởng cho ba quân, gia phong các công thần lớn nhỏ. Từ đó non sông thanh bình. Các ông khấu tạ bệ rồng xin trở về cung ấp (cung ấp Thời Mại). Vua đồng ý. Các ông ngày hôm đó (mồng 5 tháng 3) quay về cung. Nhân dân làm lễ bái đón. Các ông mở yến tiệc lớn, khao các tướng sĩ, gia thần.
Việc xong khi đó Quý Công (tên là Dũng) vốn tính hiếu sát, rất cường bạo, ngỗ nghịch nhưng lại cũng có lòng nhân lượng, nên nhân dân sợ phục, yêu mến hơn các ông khác. Hôm đó Quý Công biết giết người là quá đáng mới lập riêng một cảnh chùa, tạo làm tượng Phật để giải oan những tội lỗi cho mọi người (chùa tên là chùa Sùng Ninh) ở đất trang Vĩnh Ninh, cũng là nơi đất có hình rồng vậy. Việc xong từ đó các ông anh em thiết lập đồn dinh, tu sửa đền miếu, cùng nên quý hiển, nhận được ân lộc nước nhà, trong môn hộ có thêm người bốn biển làm gia thần, nổi tiếng một phương ở ấp tại đất Thời Mại. Nhân dân đều làm thần tử, cha con anh em một nhà thế lớn, ân sâu đức dày, mở mang mĩ tục nhân dân, người trước mở, người sau đắp, công đức rạng rỡ sánh cùng trời đất vậy.
Lại nói được gần hết 2 năm thì Thục chúa ôm hận, cầu viện các nước láng giềng tám vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, tàu thuyền 2 ngàn chiếc, thủy bộ cùng tiến thẳng đến đất Nam Giao đánh lấy nước ta. Quân bộ theo chân núi từ thập châu Hoàng Khiếu [Tùng], Quỳnh Nhai, Lượng Sơn, Văn Lãng, Châu Đại Man, Văn Bàn, An Lập, Thuỷ Vĩ, Bố Chính, Minh {Linh} 5 đạo tiến ra. Đường thủy tàu thuyền theo La Châu, cửa biển Thần Phù, cửa biển Hội Thống. Cờ xí rợp đất, chiêng trống vang trời, tiếng quân chấn động như sấm sét vạn dặm.
Vua rất lo lắng mới hỏi đình thần, tất cả đều dương mắt nhìn nhau không có một kế khả thi. Trước đó các ông đã được cử đến trấn nhậm các nơi. Tá thái tử nhận Ninh Hải quận vương. Ông thứ hai đến nhận ở Tuyên Quang. Ông thứ ba đến Hưng Hóa. Ông thứ tư đến Ô Châu. Ông thứ năm đến Hải Dương. Ông thứ sáu đến Mộc Châu. Ông thứ bảy đến Chu Diên. Ông thứ tám đến Mai Châu. Ông thứ chín đến Việt Châu. Ông thứ mười đến Thái Nguyên. Ông thứ 11 đến Lạng Sơn. Đều cùng nhau đến nhận việc các chủ trưởng phụ đạo. Còn lại ông thứ 12 ở tại cung ấp để giữ coi đền miếu (đất Thời Mại). Khi đó Vua gọi các ông về cùng Sơn Thánh để hỏi mưu kế. Sơn Thánh cùng các ông một lòng đánh dẹp giặc, xin nhận mười vạn quân.
Vua rất vui mừng, bèn trao nỏ thần cho Sơn Thánh, phong làm Nhạc phủ kiêm thượng đẳng thần. 12 ông đều được phong là tả hữu thần quan, giao cho mỗi ông một thanh Kim đao, một bộ áo chiến bào, một mũ trăm sao, một con tuấn mã, theo thánh giá đi dẹp giặc. Sơn Thánh cùng các ông bái tạ, nhận mệnh phân binh thành các đạo, tiến thẳng đến các đồn quân Thục, đánh một trận lớn, lấy được dấu ấn tín của giặc. Bèn mới làm giả một bức thư của Thục chúa gửi cho tướng Thục yêu cầu giữ nguyên quân trong đồn, không được đánh. Tướng Thục nhận được thư phòng thủ không ra.
Sơn Thánh cùng các ông mới ngày đêm tiến đến thành Thục, chia quân thành các đạo đánh một trận lớn, bắt sống nước Thục dẫn về kinh sư. Các đồn nghe biến không kịp cứu. Quân Thục bị phá tan, thua to, dẹp sạch vậy. Sơn Thánh cùng các ông làm lễ dâng biểu tâu, quay trở về thành làm lễ bái tạ.
Vua rất vui mừng, bèn mở yến tiệc. Đang trong lúc ăn uống 11 vị ngồi ở trên triều hai bên trái phải trước bệ. Đang giữa ban ngày bỗng thấy trên trời có 3 tiếng sấm vang đất, trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên, ban ngày hóa như đêm. Mười ông bỗng nhiên cùng hóa trước bệ rồng trong chính điện. Được một lúc thì mây gió tự tan, gió to dần dần thổi đi. Trời đất sáng lạn. Thì thấy các ông đều đã hóa. Chỉ còn Thái tử và Quý Công còn ở trước triều.
Duệ Vương lấy làm sự lạ, ngày hôm đó (mồng 1 tháng 2) làm lễ an táng các ông ở nơi đất trong thành, rồi cứ theo lời dạy của Anh Vương trong mộng mà bao phong mĩ tự, cho đón về đất nơi cung ấp (xã Thời Mại) để phụng thờ. Duệ Vương phong vậy (phong Thái tử Ất thần quan, phong Thiên Cương thần quan, phong Áng Na thần quan, phong Thuỷ thần quan, phong Đương niên hành khiển thần quan, phong Gò Phú thần quan, phong Gò Khắc thần quan, phong Gò Miếu thần quan, phong Gò Lôi thần quan, phong Ông Dòng thần quan). Còn 4 trang của xã Thời Mại cùng phụng thờ. Trang chợ Núi (theo riêng Thủy thần quan) phụng thờ riêng hai vị (Thánh mẫu cùng với Thủy thần quan), cùng cho làm làng hộ nhi cho đền chính.
Lại nói còn Thái tử cùng với Quý Công thấy các ông cùng ngày đều hóa, tất là vận nước nhà đến cuối nên các ông trở vê cung mây, không ham muốn lợi lộc của dương gian, tránh nhiễm bụi trần. Hai ông khấu bệ rồng xin được trở về cung ấp nghỉ ngơi trả lại chức trách. Vua đồng ý, ban cho một trăm hốt vàng ròng cùng với một trăm súc vải gấm. Hai ông quay trở về. Hôm đó (mồng 6 tháng 3)
Nhân dân làm lễ bái đón. Hai ông bái yết gia tiên, tu sửa đền miều các cung tòa ở các nơi đất trong các trang. Lại cho các gia thần cùng nhân dân một trăm thỏi vàng ròng, mở yến tiệc. Hai ông gọi phụ lão nhân dân và các thần tử cùng đến ăn uống. Nhân lúc ăn uống vui vẻ hai ông nói với nhân dân rằng:
Nhà ta cùng với nhân dân (4 trang của Thời Mại) vốn có ân sâu đức dày đã nhập vào xương tủy. Một nhà thần tử, vạn cổ cương thường tất thành nghĩa cũ, đâu phải là tình ngày một ngày hai. Nay có một tòa nơi cung mà hai vị tiên tổ đã lập ra (là cung đền ở nơi dân cứ, bên ngoài đối diện với nơi chợ). Nay lấy đó làm đền chính phụng thờ hai bậc gia tiên. Còn các tòa dựng về sau ở các nơi trong các trang thì để là cung thờ vọng. Hôm nay chúng ta ủy phó giao cho nhân dân làm nơi sau này cùng phụng thờ cha mẹ nhà chúng ta với các anh em, để nêu cao phong tục tốt đẹp trong nhân dân, đề cao tình thầy trò, làm thịnh thêm đức này vậy.
Phụ lão nhân dân, thần tử, đều cùng lòng nhận ủy chúc này. Việc xong thì đến mùa hè ngày 11 tháng 5, hai ông đi dạo chơi săn bắn, trở về cung. Quý Công cho quân binh về và ngồi nghỉ ở chùa Sùng Ninh, ngắm xem địa hình cảnh thiền. Thái tử đem quân trở về nơi cung chính. Bỗng nhiên mưa to gió lớn nổi lên, giữa trời có một đám mây đỏ như ánh lửa màu hồng, cuốn tròn như hình mặt trời, bay đến quấn quanh dân ở nơi đó, như vạn chiếc nón úp đất, môi ngậm yên lặng một vùng. Dân ở đó kinh sợ không dám ra khỏi nhà.
Hôm ấy (mồng 10 tháng 5) Quý Công hóa ở chùa Sùng Ninh. Thái tử hóa ở nơi cung đền chính (trong 12 người con chỉ có ông Thái tử là nhận chức Ninh Hải quận vương, lấy vợ con chủ trưởng châu Bố Chính, sinh được 3 nam 2 nữ, sau sinh được các cháu còn nhận chức phò giúp Trưng nữ vương. Sau này cháu 10 đời lại lấy con gái vua Trần Thuận Tông).
Hai ông hóa xong thì đám mây hình ô tự biến đi, quạ bay đến thành đám, mưa gió tự nhiên hết. Gia thần, nhân dân đều ra đến chỗ các ông hóa để làm lễ an táng, nhưng đều thấy mối đã đùn thành mộ. Nhân dân bèn dâng biểu tâu về triều đình. Vua nghe vậy, nhớ tới lời báo trong mộng quả đúng nên rất kinh hãi.
Vua thân ngự giá về nơi cung ấp, truyền nhân dân lập đền miếu phụng thờ. Lại lập một miếu ở nơi chùa Sùng Ninh thờ Quý Công. Còn Tá thái tử thờ phụng ở đền chính phối thờ cùng cha mẹ cùng các ông được truy hưởng. Hôm ấy (12 tháng 2) việc xong, Vua bao phong hai vị cùng 12 ông mĩ tự cùng áo mũ, truyền các quan cùng nhân dân làm lễ tế, cho phép 4 trang của xã Thời Mại làm nơi hộ nhi, miễn lệ các thuế dịch.
Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa (theo như quyền chính của quân nữ chi ở trên)
Phong Phò Ký Lang Cương nghị Đại vương
Phong Tá thái tử Tràng
Phong Thái Ất thần quan
Phong Thiên Cương thần quan
Phong Áng Na thần quan
Phong Thuỷ thần quan
Phong Đương niên hành khiển thần quan
Phong Gò Phú thần quan
Phong Gò Khắc thần quan
Phong Gò Miếu thần quan
Phong Gò Lôi thần quan
Phong Gò Dòng thần quan
Phong Đương cảnh thành hoàng bản thổ Đại vương.
Trang Đàm Lã xã Thời Mại là nơi thờ trưởng phụng thờ Thái tử nên việc tế khấn có ngọc phả, lưu giữ thần hiệu truyền làm căn cứ. Còn trang Bình Chính, Trung Công, Lan cùng có các tiết làm lễ phụ, hưởng cỗ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng trời đất không mất vậy. Từ đó quốc đảo dân cầu có nhiều điều linh ứng. Mỗi năm hai kỳ xuân thu làm quốc tế. Bốn mùa hương hỏa không ngơi. Sau Lê tiên sinh có thờ rằng:
Tự cổ tòng lai vị kỷ nhân
Thê vi vương tử, tử vi thần
Đồng bào thập nhị giai hiền triết
Vạn cổ lưu truyền tại xã dân
Phụ đức càn khôn giai bất mẫn
Thần công sơn hải tỷ vô ngân
Phu thê phụ tử thiên xuân tại
Danh đức như tư nhật nguyệt tân.
Lại nói, trải Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 349 năm đến khi nước Nam có 4 họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có anh linh hiển ứng, giúp nước cứu dân, nên nhiều thời các đế vương gia phong mĩ tự, hương khói không ngừng. Đến khi Lê Đại Hành dẫn quân phạt Tống, tiến quân đi qua đền (tức cung đền Thời Mại), dừng ở đây một đêm, cầu đảo âm phù giúp nước dẹp được giặc, tới khi thanh bình sẽ bao phong là Thượng đẳng phúc thần. Chúc xong đêm đó vua Lê ngự ở điện chính, nằm mơ bỗng thấy công chúa cùng phò mã và 12 người con là thần quan đều cầm Kim đao, mũ ngọc xán lạn, áo bào giáp rồng huy hoàng, quân mã đường đường tiến đến. Hai vị đều đứng trái phải trước Vua. 12 thần quan đều đứng chầu bên trái phải, quân binh mang áo giáp đứng thành 2 hàng. Vua hỏi rằng:
Các vị đến là thế nào?
Trả lời rằng:
Thần vốn là phò mã nhà Hùng, nghe vua Lê phạt Tống qua đây gọi trợ chiến, nên dẫn binh mã đến yết kiến.
Dứt lời thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ, biết là có nhiều điều linh ứng. Hôm ấy làm lễ rồi dân quân tiến thẳng, sau dẹp sạch được giặc, vua Lê bao phong mĩ tự Thượng đẳng phúc thần, hưởng lễ vạn cổ, hương khói vô cùng, cùng hưởng vận với quốc gia, thịnh sao!
Phong Nguyệt Cư công chủ Trinh thuận Minh mẫn thần vị
Phong Phò ký Lang Cương nghị Uy dũng Hùng kiệt Đại vương
Phong Tá thái tử Tràng Đại vương.
Còn 11 vị tuân theo như mĩ tự của triều trước, gia phong hai chữ Đại vương. Đền chính hộ nhi của xã Thời Mại mỗi năm hai kỳ quốc tế. Từ Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều vị đế vương truy phong mĩ tự, hương hỏa vô cùng.
Lại nói thời hậu Trần, Giản Định đế khởi nghĩa hưng binh để lập phục lại nhà Trần (là con thứ của Trần Nghệ Tông). Khi đó có quan phò mã là Lý Thái Bảo (cũng là cháu thứ hai đời thứ mười bốn của Tá Thái tử từ Lý Lang Công), đi qua đền trang Đàm Lã, xã Thời Mại, kính nghe rằng đền thờ tổ tiên có tiếng nhiều linh ứng. Khi đó quan phò đang tiến quân truy đuổi Hồ Quý Ly cùng Hán Thương, mới tiến quân đến nơi đền, cầu đảo xin được âm phù để dẹp được họ Hồ, khôi phục lại quốc gia nhà Trần. Sau này được thanh bình xin tâu với vua, tất có bao phong mĩ tự, hưởng lễ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng nhật nguyệt, trường tồn mãi mãi.
Khi vừa chúc xong bỗng thấy gió to nổi lên thổi thẳng vào trong cung đền, làm gẫy cây, cát đá bay mù mịt, trời đất mờ tỏ. Trong đền nghe tiếng động như tiếng sấm. Phò mã lại làm lễ bái xin. Thì mưa gió tự nhiên dừng lại. Quan phò mã (vì lấy con gái của vua Trần Giản Định) nói với phụ lão nhân dân rằng:
Tiên tổ của ta đều rất linh thiêng, tất là vì vận hưng quốc mà âm phù vậy.
Dứt lời hôm đó cất quân thẳng đến đánh một trận với quân Hồ. Quân Hồ thua, chạy tán. Vua Giản Định phục được quốc gia, lên ngôi hoàng đế, bèn gia phong tuân như sắc chỉ của triều trước, lệnh quan đem sắc chỉ về đền (đền Đàm Lã) mà làm lễ tạ. Ch xã Thời Mại được một năm hai kỳ xuân thu quốc tế, lại lập ở trong ấp (tức xã Thời Mại) 7 nơi miếu để cùng phụng thờ. Các chữ húy cùng các tiết sinh hóa và các ngày lệ tiệc khánh hạ cùng các sắc phục được khai cụ thể như sau:
Lệ ngày sinh của cha mẹ cùng các ông: làm lễ ở miếu chợ chính sở, cùng xã làm lễ cỗ thịt lợn, xôi, rượu, bánh trôi. Trước đó 1 ngày là lễ tắm rửa. Ca hát một ngày đêm đến mười giờ sáng thì đón trở về các nơi làm lễ.
Mồng 3 tháng Giêng chính lệ ngày sinh Thánh mẫu: làm lễ chay 3 mâm, trà, bánh chay, ngũ vị hương, làm lễ tại miếu chính ở cung chợ, lúc thờ đó làm lễ tắm rửa, tới ngày mồng 4 nghênh giá Thánh phụ, Thánh mẫu về cung Thái tử Đàm Lã. Đến mồng 5 dùng lợn đen, rượu ngọt, chọn gia đình vợ chồng song toàn làm lễ. Đến mồng 6 làm lễ thịt lợn, xôi ngũ sắc, hát xoan thì có phường hát của cung tạo lệ 4 xã Phù Khang, ngâm chúc phụng thờ. Sau 3 ngày làm lễ tạ quay về cung miếu. Các giáp phụ giúp tế ở chợ Núi và các miếu ca hát.
Mồng 6 tháng Giêng là ngày chính lệ sinh nhật của Thái tử Đại vương: làm lễ ở cung Thái tử Đàm Lã, lợn đen tuyền, chọn gia đình có đủ vợ chồng song toàn, rượu ngọt, xôi, hát xoan do phường của 4 xã tạo lệ huyện Phù Khang cùng đến cung hát vịnh tụng chúc. Ngày Thái tử sinh nhật cũng là ngày khánh hạ của Thánh phụ, Thánh mẫu.
Ngày 11 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: làm lễ lợn đen, xôi, rượu tòa xã tại chính miếu chợ.
Mồng 3 tháng 3 là ngày sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn đen, xôi, rượu cùng ca hát ở cung Đàm Lã và Trung Công.
{12 tháng 10 ngày lệ sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn, xôi, rượu, ca hát một ngày đêm ở Đàm Lã và trang Lan.
20 tháng 12 là ngày hóa của Đại vương: làm lễ lợn, xôi, cơm, rượu, 7 nơi vọng cung cùng làm lễ, 12 giáp cắt cử người phụ tế ở cung Đàm Lã.
12 tháng 12 là ngày hóa của Thánh mẫu: làm lễ lợn đen, các mâm gà, xôi, cơm, rượu ở cung Đàm Lã, cùng xã phụ tế và các nơi cũng làm lễ.
Ngày 10 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: lợn đen, xôi, rượu, cùng xã làm lễ tại chính miếu chợ.}
10 tháng 5 là ngày hóa của hai vị Thái tử và thần bản thổ: lợn, xôi, cơm, rượu làm lễ ở cung Đàm Lã và chùa Sùng Ninh.
10 tháng 8 là ngày khánh hạ sinh thần của Đại vương và ngày phân 12 giáp (12 giáp này đều là gia thần của 12 vị thần quan được Duệ Vương phân làm 12 giáp để phụng thờ): Trước một ngày làm lễ khánh hạ ở miếu cung tại xứ chợ đến ngày 9 thì đón giá về các vọng cung làm lễ lớn, ca hát, đánh cờ. Làm lễ lợn đen, xôi, rượu, bánh dày trắng, mỗi giáp làm bánh dày trắng 100 viên, ngày mồng 8 tế ở chính miếu chợ, ca hát một ngày đêm, quét dọn từ miếu chợ đến các nơi. Mồng 9 các giáp đón về các vọng cung làm lễ, ca hát, đánh cờ. Ngày mồng 10 toàn 12 giáp làm lễ.
Khai sắc khánh hạ ngày 10 tháng Giêng: lợn đen, xôi, rượu, ca hát ở cung Thái tử Đàm Lã.
Còn các tiết hai kỳ xuân thu quốc tế đều làm lễ tam sinh, ca hát ở chính xứ miếu chợ (12 tháng 2, 20 tháng 6).
Niên hiệu Hồng Đức thứ nhất, mồng 1 tháng 3.
Các chữ húy: Lang, Tràng, Nguyệt Cư, Tuệ, Dực, Linh, Hải, Thường, Khắc, Thành, Phú, Quý, Kính, Dũng, Lôi, 10 chữ húy nhất thiết cấm. Sắc phục vàng, tía, xanh tuyền nhất thiết cấm.
Còn các lệ nhỏ thì xem ở trong sự tích (làm lễ xôi gà), khi làm lễ thì trang Đàm Lã là trưởng lễ trước, sau lùi.
Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn.
Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 ngày tốt 10 tháng 5 Quản giám bách thần tri điện Thiếu khanh chức tuân như bản cũ của triều triều mà phụng chép (32 trang).
Niên hiệu Bảo Đại thứ 13 ngày 10 tháng 3, hương lý xã Cao Mại thừa sao phụng.
Đình Cao Mại.
Chạm khắc đình Cao Mại.Đền Nhà Bà Cao Mại.Bia đền Nhà Bà Cao Mại.
Cùng với quá trình phát triển kỹ thuật luyện kim đồ đồng, xã hội người Việt đã có những bước tiến dài từ chế độ cha truyền con nối sang chế độ phân chia đất đai cho các chư hầu, chia nhau cai quản đầu non góc biển.
Cây Chu đá lá chu đồng trong sử thi Mường lúc này là một biểu tượng nhiều mặt, tượng trưng cho quyền lực hiệu triệu trăm chư hầu, cho sự thăng hoa của văn hóa văn minh, là Bảng phong thần trong cuộc chiến phân định thiên hạ thời Ân – Chu và thậm chí có thể là chiếc móng rùa của thần Kim Quy đã tặng cho Thục Vương làm bảo bối trấn quốc.
Sơ đồ so sánh sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước và Huyền sử Việt.“Long khuyển” đồng thời Thương.Đồ đồng, văn hóa Tam Tinh Đôi. Rất có thể đây là hình tượng “Đười Ươi” được kể trong sử thi Mường.
Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể
Người thợ săn Tặm Tạch, còn có tên trong bản sử thi ở Hòa Bình là Đá Đèn Đá Đẹc, đã đánh bạn với Đười Ươi, nhờ đó được chỉ đường tìm đến cây chu đồng ở đồi Lai Ly Lai Láng. Cái cây thần kỳ này là cây chu đá, lá chu đồng, bông thau quả thiếc, xung quanh có cọp, sên, lợn lòi, hươu, mang, phượng hoàng đứng chầu, vàng anh bắt sâu trên cành. Tặm Tạch lấy được 2 quả chu mang về, trở nên giàu có hơn cả nhà Cun Khương.
Cun Khương bày tiệc rượu, lừa Tặm Tạch nói ra việc tìm thấy cây chu, rồi bắt dẫn đường tìm chu. Cây chu bị đốn đổ thì Tặm Tạch cũng phải chết, bị róc xương lột da để kéo chu về. Đường “cổn chu kéo lội” qua rất nhiều đất mường. Có lúc cây chu rơi xuống nơi nước sâu, Cun Khương phải nhờ Rái cá xỏ dây mới kéo được chu lên. Cây chu mang về được đến mường, nộp cho Lang Cun.
Thế rồi dân mường làm nhà cho Chu (lúc này là Lang Cun Khương). Nhà Chu dựng nên rộng rộng, trước vườn dựng nhà Khú nhà Rồng, đàng trong dựng nhà Long nhà Phụng. Nhà Chu làm xong Lang Cun Cần lại bắt Rùa vàng về để cho sáng tỏ sáng tường, sáng cả binh mường, sáng trời sáng đất.
Con của Tặm Tạch, trong bản sử thi ở Hòa Bình gọi là Đạo Cun Tre Nghè Tróng, tìm đến nhà mới của Chu thì bị đuổi. Đạo Cun Tre Nghè Tróng tức giận, đốt lửa cháy nhà Chu và bỏ trốn, tụ tập dân mường đánh lại Dịt Dàng, trả thù cho cha. Dịt Dàng cất binh đánh Đạo Cun Tre Nghè Tróng. Đạo Cun Tre Nghè Tróng trốn vào cây, hóa thành cây dây cản đường Cun Khương. Cun Khương chém cây dây, máu chảy ra biến thành con Moong lớn tên là Tin Vin Tượng Vượng.
Con Moong Tin Vin Tượng Vượng vằn vện như con hổ Lào, to lớn hung dữ, ăn thịt trâu bò, ăn thịt người, bắt cả bà Lang Khương. Lang Cun Khương tập hợp người mang lưới mang dây đi săn moong, giết được con Moong Tượng Vượng, đem về nhà Lang làm thịt.
Người Lào đến trước lấy được da moong đằng hông nên biết dệt đẹp như hoa. Mường trong đến lột da đằng lưng, nên biết thêu thùa hình lưng ngựa. Người Tày đến muộn phải lấy da đằng đuôi, chỉ biết thêu hình con sâu con ong. Người Mường giữ được da trước ngực biết dệt đầu váy con hươu. Người Kinh ở xa đến chỉ còn thịt pha, lòng, mỡ, nên biết nấu thịt ngon.
Máu thịt con Moong rơi ra làm chó hóa điên, rồi cá dưới nước hóa thành cá dại, quạ trên trời thành quạ dữ, cắn phá dân mường và nhà cun. Cun Khương lần lượt diệt chó dại, cá điên, quạ điên.
Cuối cùng là chuyện Dịt Dàng tìm ra khâu lạc mình đồng, tức là trống đồng. Mọi người đón Dịt Dàng hay Lang Cun Cần về đất Đồng chì Tam quan Kẻ chợ…
Triều đại Hùng Duệ Vương
Cây chu đồng thần kỳ là hình tượng nổi bật trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước. Nhưng thật không thể ngờ rằng, có một cây thiêng như thế đã được ngành khảo cổ học phát hiện. Cây sự sống bằng đồng tìm thấy trong nền văn hóa Tam Tinh Đôi tại vùng đất Thục Tứ Xuyên với chiều cao gần 4 mét, là văn vật bằng đồng lớn nhất được khai quật trên thế giới. Cây đồng này có niên đại ước chừng cách nay trên 3.000 năm. Cây chia làm ba tầng, mỗi lớp ba cành, trên cành có một con chim đứng, tổng cộng có chín con, còn có một con rồng bay xuống dọc theo thân cây chính, nhìn tựa như sắp cất cánh.
Cũng chính trong nền văn hóa đồng thau sớm ở Tứ Xuyên, thường gặp những mặt nạ đồng hay tượng người với đôi mắt và đôi tai được phóng to một cách khác thường. Rất có thể đó là hình tượng “Đười Ươi” được kể đến trong sử thi Mường.
Người thợ săn Tặm Tạch còn gọi là Đá Đèn Đá Đẹc. Từ “Đá” như đã biết chỉ vị tổ thời cổ. Tặm Tạch lấy được bông thau quả thiếc, tức là bắt đầu học được công nghệ đúc đồng. Nối tiếp thời kỳ đồng thau phát triển rực rỡ ở vùng gần Tứ Xuyên trên 3000 năm trước là nhà Thương. Tặm Tạch tương ứng với Thành Thang, vị vua tổ của nhà Thương. Sử thi Mường kể rõ, Tặm Tạch trở nên giàu có còn hơn cả Cun Khương, tức là Thành Thang đã trở thành một thủ lĩnh hùng mạnh, đứng đầu thiên hạ.
Người con kế nối Tặm Tạch có tên là Đạo Cun Tre Nghè Tróng. Cách gọi Đạo Cun cho thấy đây cũng là một vị thủ lĩnh (vua). Cun Tre Nghè Tróng thậm chí còn tập hợp quân đội đánh lại Cun Khương. Có thể xác định đây là giai đoạn thứ hai của nhà Thương, được biết là nhà Ân. Dưới thời nhà Ân có sự kiện Ân Cao Tông chinh phạt nước Quỷ phương như được chép trong Kinh Dịch. Nước Quỷ phương nghĩa là nước nằm ở phía Tây của nhà Ân Thương, không gì khác chính là vùng đất Thục Tứ Xuyên, nơi xuất xứ của cây chu đồng và mặt nạ đười ươi.
Máu thịt của Đạo Cun Tre Nghè Tróng hóa thành cây dây cản đường, rồi thành con Moong khổng lồ Tượng Vượng hung dữ. Tiếp tục so sánh có thể thấy con Moong lồ là chỉ thời kỳ cuối của nhà Ân, khi đó Ân Trụ Vương là một vị vua dũng mạnh nhưng lại vô cùng tàn bạo. Trụ Vương làm hại nhiều sinh linh và đã nhiều lần tấn công vùng đất Thục Tây Kỳ, nơi phát tích của nhà Chu.
Nên chú ý rằng nhà Thương Ân có thành phần dân tộc chính là nhóm người Miêu Dao. Trong đó tới nay người Dao vẫn còn có tín ngưỡng thờ Bàn Hồ là tổ. Bàn Hổ theo truyện kể trong sách người Dao để lại vốn là một con Long khuyển ngũ sắc, do lập công lớn, giết được vua kẻ thù nên được phong đất và trở thành tổ của 12 họ người Dao. Con Moong Tin Vin Tượng Vượng như vậy là hình ảnh của Long khuyển, biểu tượng của dòng dõi người Dao nhà Ân Thương.
Sử thi Mường kể rằng người Lào, Tày, Mường học được cách thêu dệt từ da của con Moong. Người Kinh học được cách nấu ăn từ thịt con Moong. Điều này rất đúng với sự thật là hoa văn của người Dao và lối sống của triều đại nhà Ân Thương đã có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa các tộc người Lào, Tày, Mường, Kinh… sau này.
Trong huyền sử Hùng Vương của người Việt, nhà Ân là triều đại cuối cùng của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống biển, được gọi là Hùng Duệ Vương. Truyện Giếng Việt kể sau cuộc chiến với Phù Đổng Thiên Vương, Ân Vương chết dưới chân núi Vũ Ninh, trở thành vua Địa phủ. Rồi hậu duệ của vua Hùng đã biến thành đủ thứ yêu quỷ như Bạch Kê tinh, Hồ Ly tinh, Quỷ núi cản trở Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Trong sử thi Mường đó là chuyện máu của con Moong lồ biến thành chó điên, cá dại, quạ dữ, quấy phá thời Lang Cun Khương.
Người Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang.Thầy cúng người Dao.Người Dao ở Bắc Kạn.Người Dao ở Bắc Kạn.
Đón vua Thục An Dương Vương
Ở phần cuối của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, mỗi bản khác nhau gọi vị vua lúc này một cách khác nhau. Chỗ kể là Dịt Dàng, chỗ là Lang Cun Cần, chỗ thì dường như là Lang Cun Khương. Thực ra cả 3 cách gọi đều đúng và chỉ cùng 1 người. Dịt Dàng – Việt Vương lúc này không phải là vị Dịt Dàng của thời kỳ Hùng Vương Thánh Tổ ban đầu, mà là Hùng Quốc Vương, người con theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang. Hùng Quốc Vương là vị vua đầu của thời kỳ phong kiến phân quyền, nên sử thi Mường gọi là Lang Cun Cần, với nghĩa là vị Lang Cun đứng đầu thiên hạ.
Cun Khương là thủ lĩnh của dòng lên núi trong sử thi Mường. Khương là tính chất Khang, Tĩnh của hướng Tây. Cun Khương nghĩa là thủ lĩnh của hướng Tây. Hướng Tây còn gọi là Thục (thụt) nên Cun Khương cũng là Thục Chúa trong truyền thuyết Việt. Cun Khương là con của nàng Ả Sao Ả Sáng, dòng dõi Vua trời. Trong truyền thuyết họ Hồng Bàng thì đây là dòng dõi của Đế Nghi – Đế Lai, tức là Âu Cơ, người đã lên núi về đất Phong Châu.
Cun Khương – thủ lĩnh Tây Kỳ, sau khi chiến thắng nhà Ân Thương và dòng Lạc Long (Tóng In) đã trở thành Thiên tử của cả thiên hạ, nên đã đổi danh xưng là Việt Vương (Dịt Dàng – An Dương Vương) hay Lang Cun Cần (Hùng Quốc Vương). Nhờ sự nhìn nhận đúng về lịch sử thời Hùng Vương đã có thể lý giải được vấn đề tại sao 2 danh xưng từ thời mở Mường là Dịt Dàng và Lang Cun Cần, lại vẫn còn đến tận cuối cùng trong sử thi khi rước vua về Kẻ chợ.
Cun Khương là người đã tìm và chặt được cây chu đồng ở vùng Tứ Xuyên, kéo về Kinh kỳ Kẻ chợ qua rất nhiều vùng đất. Đây là sự kiện Tây Bá Hầu Cơ Xương từ vùng đất Tây Kỳ (Quý Châu, giáp với Tứ Xuyên), khởi binh đánh chiếm các nước Mật Tu (Vân Nam), nước Sùng (tức miền Bắc Việt) vào cuối thời nhà Ân Thương. Sử Việt kể là Thục Chúa phát hàng chục vạn binh chia các ngả tiến đánh Hùng Duệ Vương. Cuối cùng Hùng Duệ Vương nghe lời Sơn Thánh, nhường lại ngôi cho Thục Chúa.
Thục Chúa về đất Phong Châu, xưng vương, lập cột đá thề trung thành với Thánh Tổ họ Hùng (tức Hữu Hùng Đế Minh). Truyện họ Hồng Bàng kể là Âu Cơ lên núi về Phong Châu lập nước Văn Lang. Còn sử thi Mường gọi đích xác triều đại của Cun Khương là “Chu” như trong đoạn “Làm nhà cho Chu”.
Người đánh bại Ân Trụ Vương, hay con Moong Tin Vin Tượng Vượng, là Cơ Phát, con của Tây Bá Cơ Xương. Truyền thuyết Việt gọi Cơ Phát là Thục Phán, là một vị Cun Khương – thủ lĩnh Tây Kỳ. Cây chu đồng lúc này như một biểu tượng của Thiên mệnh, có khả năng hiệu triệu và thần phục thiên hạ trăm chư hầu. Cun Khương – Cơ Phát – Thục Phán hoàn thành đại nghiệp diệt Ân, lên ngôi Thiên tử, phân phong cho các anh em, công thần thành các nước chư hầu Bách Việt. Sử thi Mường kể điều này trong chuyện Đẻ trống đồng (vật phẩm dùng để tế lễ tổ tiên và phân phong chư hầu) và Rước vua về Đồng chì Tam quan Kẻ chợ.
Chuyện Làm nhà cho Chu trong sử thi Mường mang đậm hình ảnh của truyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Khác với việc “đẻ nhà” thời Lang Cun Cần mở nước, nhà cho Chu lúc này là một dạng cung điện to lớn, trang trí lộng lẫy hình rồng rắn, long phượng với nhiều gian nhiều nếp. Rùa Vàng lúc này làm cho sáng nhà tỏ cửa, sáng người, sáng trời đất…, tương tự truyện thần Kim Quy trao móng rùa cho An Dương Vương làm bảo bối trấn quốc.
Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước không chỉ là một bản anh hùng ca dựng nước của người Mường mà nó là lịch sử thực sự qua hàng ngàn năm của cả thiên hạ trời Đông. So sánh sử thi Mường với những bộ sử dân gian của người Kinh (Hùng Vương ngọc phả), của người Dao (truyền tích Bàn Hồ) có thể thấy được sự thống nhất tiến trình lịch sử chung của các dân tộc Bách Việt. Từ ông Bàn Cổ – mụ Dạ Dần khai thiên lập địa, trong Thái cực sinh ra con người, con người có vua tổ khai sáng, thần truyền thánh kế, thay nhau ngự trị đầu non góc biển, xuống biển chinh phục Thủy phủ, lên rừng đốn cây Chu đồng, dựng nên thành quách, sáng tạo văn hóa văn minh, tôn rước Thiên tử về kinh kỳ kẻ chợ. Tất cả lịch sử Việt Mường đã hóa về chốn linh thiêng, nơi con người khi qua thế giới bên kia lại quay về với ông bà tiên tổ, với quá khứ huy hoàng Đẻ Đất Đẻ Nước.
Trình diễn trang phục người Dao ở Sơn La.Trình diễn trang phục người Dao ở Sơn La.
Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với các nấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới. Một triều đại mới lập nên kèm theo việc định cư người dân ở các vùng đất mới dưới một chế độ quản lý mới. Đây cũng là những mốc phát triển cương vực của nước ta trong thời đại Hùng Vương.
Những cuộc di cư, phân chia đất đai lãnh thổ được nói tới khá rõ ngay trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả. Trước tiên đó là cuộc chia tay lịch sử giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.
Người con trưởng là Hùng Quốc Vương theo mẹ Âu Cơ lập nước Văn Lang, lên ngôi vua: Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ.
Như thế, các vị sơn thần và thủy thần đều là những người con cùng bọc đồng bào đã chia ra trăm nơi đầu non góc bể trấn giữ, rồi mới hóa thần. Dấu vết của cuộc “đại phong thần” thời Hùng Vương này còn in đậm lưu truyền tới ngày nay qua các di tích thờ phụng các vị sơn thần thủy thần trải khắp từ miền trung du đất tổ Phong Châu tới vùng đồng bằng sông Hồng ven biển. Lần theo các di tích đền miếu còn lại và những sự tích lưu truyền có thể phục dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những cuộc chiến và di cư ở mỗi giai đoạn dựng nước.
GIAI ĐOẠN SƠN TRIỀU HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ
Câu đối ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh khái quát về giai đoạn “có tổ” của người Việt: Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn. Dịch: Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.
Hữu Hùng Đế Minh mở vạn bang chư hầu thiên hạ
Huyền sử Việt bắt đầu bằng Truyện Họ Hồng Bàng có Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên mà sinh ra Lộc Tục… Còn Đại Việt sử ký toàn thư mở đầu bằng câu “Thủa Hoàng Đế mở muôn nước”, nói tới cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên với Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, được huyền sử Việt chép là Đế Minh.
Ba vị quốc tổ Hùng Vương được thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và khắp các nơi trên vùng đất tổ Phong Châu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn Tây) là:
Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh Vương;
Viễn Sơn Thánh Vương;
Ất Sơn Thánh Vương.
3 vị Sơn Thánh là 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời Hồng Bàng, có trước thời Lạc Long Quân nên tương ứng đó là các vị Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục như kể trong Truyện họ Hồng Bàng.
Cuộc chiến lập ra thiên hạ Họ Hùng đầu tiên được lưu truyền rõ nhất trong sự tích vùng núi Tây Thiên.Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên đã hội quân ở Đại Đình dưới chân núi Tam Đảo, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng đầu tiên là Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất. Công Cha như núi Thái Sơn ở Nghĩa Lĩnh – Phong Châu. Nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) của Tam Đảo chảy mãi không ngừng.
Tam vị Thánh Tổ họ Hùng được thờ rộng khắp trên miền đất tổ Phong Châu mà trung tâm là núi Hùng Nghĩa Lĩnh ở Việt Trì, mở ra miền ngược ở Thanh Ba, Hạ Hòa, Yên Bái, hay sang phía Đông qua sông Lô tới Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.
Xuôi sông Hồng, di tích thờ Hùng Vương Thánh Tổ ở đồng bằng phía Nam không nhiều, nhưng có thể kể đến: đình Đống Long ở xã Hòa Lâm, Ứng Hòa, Hà Nội thờ Đột Ngột Cao Sơn; đền Khả Phong ở Kim Bảng, Hà Nam thờ vua Hùng Cao Sơn, các đền ở xã Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình thờ vọng quốc tổ Hùng Vương. Ở nội thành Hà Nội từng có đền thờ vua Hùng, nay là đền Dâu (Thuận Mỹ) tại phố Hàng Quạt. Ngoài ra đáng kể là một số các đình ở ngay giữa khu phố cổ Hà Nội như đình Kim Ngân thờ Hiên Viên Hoàng Đế với tư cách là tổ bách nghệ.
Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn
Tiếp theo thời kỳ Sơn triều mở nước của 3 vị Thánh tổ Hùng Vương là thời kỳ của Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, gặp và lấy mẫu Thần Long Động Đình. Chuyện này cũng là việc Tản Viên Sơn Thánh cùng vui với các loài thủy tộc ở bộ Gia Ninh và kết thân với Thủy Tinh Động Đình thủy phủ. Kinh Dương Vương và Tản Viên Sơn Thánh đều được gọi là Nam Thiên Thánh Tổ, chỉ cùng một nhân vật trong lịch sử trời Nam.
Là vị Thánh tổ của trời Nam nên số lượng nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh trải khắp miền Bắc, nhưng tập trung nhất là ở vùng Sơn Tây. Nơi đây các di tích thờ Thánh Tản dày đặc thành từng cụm, được biết dưới tên Ngũ thần cung Tản Viên, cũng là vùng Ngũ Lĩnh nơi Kinh Dương Vương đi tuần phương Nam.
Ngũ hành cung Tản Viên hình thành một khu vực “kinh đô” của thời kỳ Kinh Dương Vương, được truyền thuyết gọi là Ngũ Lĩnh. Mỗi một “Lĩnh” hay một “thần cung” là một khu vực, trong đó lại bao gồm nhiều các “hành cung”, nay là các đền, đình, di tích thờ Tản Viên Sơn.
Thượng Thần cung: là cụm di tích đền Thượng, đền Hạ, đền Trung ở núi Tản Viên. Đây là nơi thờ các bậc tiên tổ Thái Bạch Kim Tinh, Ma Thị Cao Sơn, Quốc mẫu Đinh Phi.
Hạ Thần cung: là khu vực thấp của vùng Bể Cạn (Hạc Hải) xưa, với các di tích như đình Thụy Phiêu, Văn Khê. Đây là nơi diễn ra cuộc giao chiến Sơn Tinh với Thủy Tinh.
Trung Thần cung: là vùng “hạ điền” (ruộng hè) xưa, gần với ngã ba Bạch Hạc, được thần tích gọi là vùng Cổ Đằng, Tam Vật Lại. Vùng này là nơi Thánh Tản dạy dân cày cấy, đánh cá, chăn nuôi…
Tây Thần cung: là vùng giáp sông Đà với các di tích Ngọc Nhị, Bằng Tạ, Khê Thượng. Đây cũng là nơi có bãi Trường Sa (bãi dâu Tang Ma), chốn Sơn Tinh cứu sống con rắn thần Thủy Tinh và cũng là chuyện Kinh Dương Vương gặp Thần Long Động Đình.
Đông Thần cung: nổi tiếng được biết là đền Và, cùng với đền Ngự Dội ở bên kia sông Nhị. Đây là nơi yết triều của Kinh Dương Vương.
Nam Thần cung: là vùng Thánh Tản đi săn ở xứ Mường Mang Sơn, Quang Diệu.
Bắc Thần cung: vùng phía bên kia sông Hồng, với những di tích như đền Thính, đền Tranh ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
Từ vùng kinh đô Ngũ Lĩnh này Kinh Dương Vương – Tản Viên đã khai mở quốc gia về các hướng Đông Tây Nam Bắc, cùng với “Tứ phủ Công đồng đi tuần trong nhân gian“, thực sự đã làm nên một cuộc “Đẻ Đất Đẻ Nước” trong lịch sử nước Xích Quỷ thời đầu Kinh triều.
Ở vùng phía Nam sông Hồng, di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh có thể kể đến khu vực Ứng Hòa, Hà Tây cũ; quần thể đền Tam Thôn gồm đền Kê Thượng, đền Kê Hạ và Miễu Sơn ở xã Ninh Vân của Hoa Lư, Ninh Bình. Việc thờ Thánh Tản ở vùng Hà Nam và Nam Định thường là thờ cùng trong bộ ba Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
Một điểm đặc biệt của khu vực đồng bằng Nam sông Hồng là tục thờ thần Hậu Tắc, nhất là ở vùng hành cung tịch điền thời Lý Trần tại xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định. Về Hậu Tắc có câu chuyện bà Khương Nguyên sinh con ra bỏ trong rừng, được muông thú che chở nuôi nấng, chính là một cách kể khác của truyền thuyết về Kỳ Mạng Tản Viên Sơn Thánh. Hậu Tắc được nhà Lý tôn là Thiên Tổ Địa Chủ Xã Tắc Đế Quân, là vị Đế Tổ sánh ngang thời với Kinh Dương Vương mở nước.
Ngũ Lĩnh và Động Đình.
GIAI ĐOẠN KINH TRIỀU LẠC LONG QUÂN
Câu đối ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình): Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh. Dịch: Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.
Cuộc tranh đoạt giữa Lạc Long Quân và Đế Lai
Sau thời Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã đi nốt chặng đường khởi dựng nhờ hòa hợp 4 tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc trong chuyện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân nhờ sự hỗ trợ của dòng tộc bên mẹ ở Động Đình (biển Đông) đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng Hữu Hùng phương Bắc là Đế Lai.
Truyện Họ Hồng Bàng mô tả cuộc chiến này: “Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.”
Cuộc chiến cách nay 4000 năm này đã khởi đầu thời kỳ thị tộc phụ đạo và còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua Cha của Thoải phủ, đã tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.
Nếu vùng Phong Châu là vùng đất tổ với tục thờ các vị Hùng Vương Sơn Thánh thì vùng đồng bằng Nam sông Hồng lại là khu vực đậm đặc các di tích thờ các vị thủy thần của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống khai phá miền biển Động Đình. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết Lạc Long Quân “hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân” nên đức vua cha Bát Hải Động Đình của Thủy phủ chính là Lạc Long Quân. Đền thờ chính của Bát Hải Động Đình là đền Đồng Bằng ở Thái Thụy, Thái Bình. Gắn liền với vua cha Bát Hải là Ngũ vị Tôn quan, mà điển hình nhất là Quan Đệ Tam ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên, Hà Nam) và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương.
Trong Truyện Hồ Tinh thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây trong Hà thư. Dòng tộc của Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là Thục (từ “thục” trong tiếng Nôm có nghĩa là “chín”, đồng âm với số 9, chỉ hướng Tây).
Câu chuyện về Thánh Tam Giang ở Ngã Ba Bạch Hạc thi tài giữa thần Thổ Lệnh và Thanh Khanh cũng chính là giữa Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Thổ Lệnh được thờ ở vùng Thường Tín, Phủ Lý với tên Trung Thành Phổ Tế Đại Vương, với sự tích gắn với Ngã Ba Bạch Hạc rất rõ như kể ở đền Đa Chất (Phú Xuyên).
Xuyên suốt từ Ngã Ba Hạc ra tới cửa Ba Lạt là tục thờ Linh Lang Đại Vương tuy bị chép vào nhiều thời kỳ khác nhau, từ thời Hùng chống Thục ở Vụ Bản, Nam Định, tới thời Lý, rồi thời Trần. Thực ra tất cả chỉ có 1 vị Linh Lang thời Hùng Vương đã đánh Thục thắng lợi như trong thần tích ở Duyên Trường, Vụ Bản, Nam Định. Linh Lang chính là Lạc Long Quân, người đã thắng trận chiến tranh giành quyền lực với dòng lên núi của Đế Lai. Linh Lang là vua của Thủy phủ Động Đình, lấy hồ Dâm Đàm làm kinh đô của Thủy quốc. Các di tích thờ Linh Lang chạy dọc theo sông Cái từ Hồ Tây – Thanh Trì – Lý Nhân ra đến tận Thái Bình và cửa Ba Lạt.
Thế tộc Tản Viên.
Một vị thủy thần phổ biến khác là Quý Minh, thường chép là Hữu kiên thần trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh với xuất xứ từ vùng bãi dâu Tang Ma bên sông Đà, có mang danh là Lãng Nhạc Quý Minh, chỉ rõ là dòng Thủy thần. Nhiều nơi Quý Minh được phong là Đông Hải Đại vương cũng chứng tỏ điều này. Ngay cái tên Trần Quý Minh như ở đền Nội Lâm tại Hoa Lư cũng mang nghĩa là vị thần trấn Đông (vì Trần là Đông A), hay thủy thần vùng ven biển Đông. Tương tự chuyện Linh Lang đánh Thục, Quý Minh chống Thục là cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân chống lại dòng Đế Lai. Quý Minh có thể chính là Lạc Long Quân hoặc người em thứ 3 cùng bọc, tức là Quan Đệ Tam Thoải phủ.
Phổ biến ở Hà Nam và Nam Định thờ vị thủy thần Câu Mang Đại Vương, cũng là một trong Ngũ phương Đế của Đạo Giáo. Ngũ đế của Đạo Giáo có thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thượng đế, Đông Hải quân. Có thể thấy thần Câu Mang hay Cao Mang tương đương với Đông Hải Quý Minh.
Còn nhiều hình thức thờ các vị Thủy thần khác ở vùng đồng bằng Nam sông Hồng bởi đây là khu vực của Thủy quốc Động Đình vào thời 4000 năm trước, khi nước sông và biển đang rút dần, mở ra vùng đầm phá, nơi con người có thể sinh sống, làm nghề đánh cá, sống lênh đênh trên sông nước. Đặc điểm chung của các thủy thần thời này là có xuất thế là Rắn hoặc Rồng, từ cùng một bọc 2, 3 hay 5 trứng, nở ra các vị tướng có công chống giặc Thục hoặc giặc Hồ, hoặc có sự tích giúp dân hộ đê hoặc cầu mưa. Không ít nơi kể chuyện ông Dài ông Cụt, khi có 1 vị thủy thần anh em đó bị mất đuôi.
Sự kiện rồng Lạc “cụt đuôi” có thể giải thích chính là trong truyện về Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử như một giai đoạn ngắt quãng của Lạc triều khi cướp công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng làm chủ một phương, rồi bay về trời. Di tích thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở Nam sông Hồng chủ yếu gần ven sông như khu vực bãi Tự Nhiên ở Thường Tín, đền Lảnh Giang ở Duy Tiên, Hà Nam và một số di tích lân cận, tới tận Ý Yên, Nam Định..
Những vị thủy thần ở vùng Nam sông Hồng có thể kể đến 5 anh em Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Xuyên, Quảng Tế, Quảng Hóa ở khu vực Duy Tiên – Cầu Giẽ – Chương Mỹ, hay Tam Lang Long Vương từ trên khu Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) xuống Vụ Bản (Nam Định), các vị thủy thần trong đình Công Đồng ở làng Tiên Lý (Bình Lục, Hà Nam), đình Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín)…
Cuộc chiến về lại đất Lạc của Thục Chúa
Dòng tộc Đế Lai di dời về phía Tây, trải qua gần ngàn năm tới thời “Hùng Vương 18” đã trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Chúa phát động một cuộc đại chiến mà các Ngọc phả về Tản Viên Sơn ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với quân Thục lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương.
Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Thái tổ Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của dòng sơn thần theo Mẹ lên núi của người Việt.
Âu Cơ được thờ chính ở đền Hiền Lương tại Hạ Hòa, Phú Thọ, và một vài nơi khác ở miền xuôi như đền Thuận Mỹ ở Hà Nội, đình Ngọc Trục ở Đại Mỗ, Hà Tây xưa.
Cuộc chiến Âu – Lạc là nền tảng lịch sử cho việc thờ các vị Lạc tướng Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.
Trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh thì Tả kiên thần Cao Sơn còn được gọi là Nộn Nhạc Cao Sơn, là Sơn thần nên chỉ thỉnh thoảng bắt gặp một số di tích thờ ở vùng Nam sông Hồng. Làng Trung Kính Thượng tại Hà Nội thờ Hùng Nộn Công là một hình thức của Nộn Nhạc Cao Sơn Đại vương. Một số di tích ở Ninh Bình thờ Cao Sơn là Lạc tướng Vũ Lâm cũng có thể được nhận định là ở thời kỳ này.
Các vùng di tích Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
Vùng Phong Châu gặp nhiều di tích thờ Cao Sơn và các vị tướng chống Thục hơn bởi vì nơi đây đã diễn ra cuộc đụng độ giữa dòng Hùng Vương và Thục Vương trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Ví dụ:
Ở Quế Nham (Đồng Quế, Sông Lô, Vĩnh Phúc) thờ 4 vị đại vương là danh tướng theo Sơn Thánh đánh Thục.
Ở Hương Lan (Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ) thờ 3 vị Chàng Chấu Linh Lang đại vương, là tùy tòng hầu kiệu của Duệ Vương.
Ở Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ) thờ Tả hữu kiên thần Cao Sơn, Quý Minh và Cương Trực tướng quân.
Sự kiện Hùng chống Thục thời Cao Sơn Đại vương diễn ra 1000 năm sau cuộc chiến chống Thục thời Quý Minh – Linh Lang, khi đại diện của dòng Thục của Đế Lai xưa là Âu Cơ quay trở lại, đánh bại dòng Lạc từ Lạc Long Quân Sùng Lãm (Sùng cũng nghĩa là Cao nên Cao Sơn còn có tên Nguyễn Sùng), lập nên nước Văn Lang đóng đô ở Việt Trì.
GIAI ĐOẠN THỤC TRIỀU AN DƯƠNG VƯƠNG
Câu đối ở nghi môn đình Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì): Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn. Dịch: Mấy ngàn năm giúp đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.
Cuộc chiến đánh giặc Ân dựng nước Văn Lang
Lễ hội làng Phù Đổng kể Hùng Vương thứ 6 đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Dẫn đầu quân đội nhà Ân lúc này là “28 tướng cường nữ nhung” với các thủ lĩnh là Thạch Linh Thần tướng và Ma Cô Tiên (Ma Lôi), hậu phi của vua Ân. Theo Truyện Giếng Việt, Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương được truyền thuyết Việt gọi là vua Hùng đời cuối (Hùng Duệ Vương), chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng “Bách thần nguyên tự”, phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên Hùng – Thục để ngàn đời hương hỏa.
Thục Vương còn được kể dưới tên Lang Liêu trong Truyện Bánh Chưng, chỉ thủ lĩnh của người Liêu – Lão (Ai Lao Di). Nhờ có lòng hiếu kính tổ tiên, Lang Liêu đã lên nối mệnh trời, lập cột đá ở Nghĩa Lĩnh thề trung thành với họ Hùng của Đế Minh, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ gìn đất nước. Trước đây ở Việt Trì có di tích phủ Lang Liêu ở làng Dữu Lâu, nay được được phục dựng lại.
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể rằng Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời được cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương chính là vua Lang Liêu trong truyền thuyết. Bắt đầu từ đây xã hội Việt bước vào thời kỳ phong kiến phân quyền, hay thời kỳ “Trị bình kiến phu” (trị quốc, bình thiên hạ, kiến lập chư hầu) như chép trong Ngọc phả.
Khu vực phía Nam sông Hồng tuy không phải nơi xuất phát của Phù Đổng Thiên Vương nhưng cũng là nơi xuất tích của khá nhiều vị tướng cùng thời, theo Thánh Dóng diệt giặc Ân. Có thể kể đến anh em Minh Gia, Minh Tôn ở Hiển Khánh (Vụ Bản, Nam Định), Quan lang Hoàng Đào ở Hổ Sơn (Vụ Bản, Nam Định), 3 vị đại vương ở An Lạng (Văn Lý, Lý Nhân, Hà Nam), Cốt Tung ở Liễu Trì, Hạ Lôi, Lý Tiến ở Hà Nội…
Các vị thần nước Âu Lạc
Trong thời kỳ dựng nước Văn Lang đã xuất hiện một số nhân thần được tôn thờ ở vùng Nam sông Hồng. Trước hết đó là Nam Hải Đại vương tức An Dương Vương, như ở Cố Đê, Vụ Bản, ở Lạc Na, Hồng Quang, Nam Trực (Nam Định) hay các nơi thờ vợ, con của An Dương Vương ở Thái Bình.
Tướng quân Cao Lỗ, người giúp An Dương Vương chế tạo nỏ thần cũng được thờ ở một số nơi tại vùng Nam sông Hồng, như ở đình Từ Châu, Liên Châu, Thanh Oai.
Vị thần khác thời kỳ Âu Lạc là Đồng Cổ Sơn thần được thờ rải rác từ Hà Nội (Nguyên Xá, Đông Xã), Nam Định (Vụ Bản) đến Thanh Hóa với sự tích về trống đồng trấn áp giặc Chiêm Hồ và hiển linh giúp vua Lý trong sự kiện Tam Vương.
Một vị nhân thần kỳ lạ đáng kể ở thời kỳ Thục An Dương Vương là Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử Lý Nhĩ Đam mà sự tích ghi quê ở Thúc Lực, Kim Chân tại Hà Nam (Kim Bảng). Thái Thượng Lão Quân được thờ ở đình Phù Vân tại Phủ Lý, chùa Bà Đanh thuộc Kim Bảng, Hà Nam, hay ở động Thiên Tôn Hoa Lư, với sự tích là đã giúp An Dương Vương trừ yêu diệt quỷ xây thành Cổ Loa hoặc chống “giặc” Xích Tị bằng phép thư phù (chữa bệnh dịch).
GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT THIÊN HẠ
Câu đối ở đình Xuân Quang tại Văn Giang, Hưng Yên: Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ. Dịch: Một lệnh dẹp không Tần, vạn dặm mở đầu dứt Mân Lạc Hai ngôi sánh cùng Hán, nghìn năm gây nền vững đế vương.
Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Triệu Trọng Thủy
Truyện Rùa Vàng kể, cuối thời nhà Thục, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Hoàng thế tôn của Triệu là Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Đông Ngàn Cổ Loa của An Dương Vương. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển, chấm dứt thời kỳ tồn tại hơn 800 năm của nước Văn Lang – Âu Lạc. Từ đó bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất thiên hạ của nhà Triệu.
Sử ký Tư Mã Thiên chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương đánh bại Chu Noãn Vương năm 257 TCN, khởi đầu triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, truyền thuyết Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.
Vùng Phú Thọ có cụm di tích thờ hai vị tướng là Hồ Thiên Hương và Đinh Công Tuấn chống lại họ Triệu ở bên sông Thao.
Ở vùng phía Nam sông Hồng không có di tích thờ Trọng Thủy hoặc Mỵ Châu như vùng Cổ Loa. Tuy nhiên, có một số di tích ở vùng Hà Nam, Nam Định thờ các vị tướng của nhà Thục chống lại cuộc xâm lăng của nhà Triệu như ở đền Vĩ ở Cao Viên, Thanh Oai thờ tướng Vũ Chiêu Tâm. Ở Vụ Bản, Nam Định có các tướng của Thục là Cao Đệ và Trì Chân chống lại giặc Triệu.
Về sự hiện hữu của nhà Tần trên đất Việt còn có di tích thờ Đức thánh Chèm là Lý Ông Trọng ở Ninh Sơn, Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, là nơi Lý Ông Trọng đã tử tiết.
Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Vũ Đế
Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu khắp nơi lại nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, lúc này một đình trưởng huyện Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hán Hiếu (Hảo hán).
Lịch sử Việt gọi Hiếu Cao Tổ là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), năm 206 TCN đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm các quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế. Sau khi Cao Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa lại chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) chiếm giữ vùng phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là Lữ Gia. Cuộc đối kháng 2 miền Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.
Cụm di tích thờ Triệu Vũ Đế ở Gia Viễn, Ninh Bình tại các đình Trùng Thượng, Trùng Hạ, Thần Thiệu. Một số di tích thờ Triệu Việt Vương ở Nam Định cũng có thể là thờ Triệu Vũ Đế. Đền Nhự Nương thời Hoàng hậu Trình Thị, vợ của Triệu Vũ Đế tại Nam Trực, Nam Định.
Đặc biệt là cụm di tích ở Mạo Phổ, Lương Lỗ, Thanh Ba và thị xã Lâm Thao, Phú Thọ thờ Triệu Ông Út hay Út Ngọ Lôi Mao, là Việt Tây Vương sau thời Tần. Đây chính là vua Văn Vương nhà Triệu của nước Nam Việt có kinh đô ở Phiên Ngung.
Thay cho lời kết
Các di tích tín ngưỡng dân gian ở nước ta thực sự là kho tư liệu phong phú, đa dạng, độc đáo, đặc sắc, không gì thay thế được đối với những nghiên cứu tìm về lịch sử nguồn cội của dân tộc, từ thời kỳ xa xưa nhất khi xã hội và con người Việt mới hình thành, từng bước từng bước dựng nên non sông vững bền bởi những công sức của các bậc tiền nhân mà đã hóa thành những vị thần trong lòng dân tộc. Đó là cuốn đại sử thi được viết nên từ những di sản vật thể và phi vật thể trong dân gian qua suốt chiều dài lịch sử.
Tìm hiểu, so sánh đối chiếu, tổng hợp khái quát vào kho tàng sử liệu dân gian cho phép phát hiện, nhận diện ra từ những chi tiết lịch sử đến cả tiến trình phát triển xã hội trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử thật sự của dân tộc bị khuất lấp trong lớp bụi mờ của thời gian nhưng không mất đi, mà lịch sử đó vẫn đang sống cùng với nhân dân trong từng di tích, từng sự tích, từng lễ hội ở mỗi làng quê miền xuôi cũng như miền ngược. Bảo tồn di tích, nhìn nhận lại quá khứ là sự thôi thúc đối với mỗi người dân đất Việt, để hướng đến tương lai một cách tự tin hơn, vững chắc hơn.
Trên cơ sở phân tích các thần tích, ngọc phả và đối chiếu các di tích thờ cúng các vị thần ở nước ta, thời đại Hùng Vương có thể được diễn đạt qua 4 giai đoạn như trong sơ đồ sau.
Bốn giai đoạn của thời đại Hùng Vương.
Tài liệu tham khảo
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, Thích Tâm Hiệp. NXB Lao động, 2022.
Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, NXB Lao động, 2022.
Lĩnh Nam chích quái. Trần Thế Pháp; Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận chính. Bản in của NXB Văn học, 1990.
Sự tích các vị thần linh thờ ở đền làng huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Bùi Văn Tam. NXB Khoa học xã hội, 2015.
Di sản văn hóa đình đền Mạo Phổ. Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân. NXB Lao động, 2022.
Sự tích các thành hoàng làng Thăng Long – Hà Nội. Đỗ Thị Hảo (chủ biên). NXB Chính trị quốc gia, 2020.
Hà Nội di tích và văn vật. Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội. Sở văn hóa và thông tin Hà Nội, 1994.
Thần tích thần sắc Hà Nam. Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh (chủ biên). NXB Khoa học xã hội, 2004.
Thần tích Hà Nội. Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội. Nguyễn Thị Oanh. NXB Hà Nội, 2019.
Sử ký Tư Mã Thiên. Phan Ngọc dịch. NXB Văn học, 2006.
Với một góc nhìn lịch sử mới từ các di tích tín ngưỡng văn hóa trên đất Việt thì nay những câu hỏi về vị Phụ tín hầu Lý Thân thời Tần Thủy Hoàng trên đất Việt đã có lời giải đáp.
Truyện Lý Ông Trọng sinh ra từ thời Hùng Vương, làm quan qua thời An Dương Vương đến khi Tần thống nhất thiên hạ đã là chuyện khó hiểu. Cộng thêm việc năm Tần Thủy Hoàng thứ 33 (năm 214 Trước Công nguyên) tướng Tần là Mông Điềm mới vượt sông Hoàng Hà đánh Hung Nô, mở rộng đất nhà Tần sang miền Bắc. Như thế làm sao trước đó Lý Trọng có thể đi trấn giữ Hung Nô ở Cam Túc được?
Những điều khó hiểu này đã làm cho người ta nghi ngờ về tính chân xác của truyền thuyết Lý Ông Trọng. Tuy nhiên, với một góc nhìn lịch sử mới từ các di tích tín ngưỡng văn hóa trên đất Việt thì nay những câu hỏi về vị Phụ tín hầu Lý Thân thời Tần Thủy Hoàng trên đất Việt đã có lời giải đáp.
Truyện Lý Ông Trọng trong “Lĩnh Nam chích quái” kể: Cuối đời Hùng Vương ở xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, quận Giao Chỉ có người họ Lý tên Thân, sinh ra to lớn, cao 2 trượng 3 thước, tính tình hung tợn. Thân giết người, tội đáng tử hình. Hùng Vương tiếc, không nỡ giết. Đến đời An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn đem binh đánh nước ta. An Dương Vương bèn đem Lý Thân cống hiến. Thủy Hoàng được Lý Thân rất mừng, dùng làm quan Tư lệ Hiệu úy. Kịp lúc Thủy Hoàng nhất thống thiên hạ, Thân được sai đem binh ra giữ Lâm Thao, Hung Nô không dám xâm phạm biên ải. Thủy Hoàng phong Thân làm Phụ tín hầu, lại gả công chúa cho Thân.
Chuyện kể Lý Ông Trọng này nghe ra… kỳ kỳ. Tần Thủy Hoàng đánh Đông dẹp Bắc, thu phục cả thiên hạ, tới nước Việt thì thay vì chống lại, An Dương Vương lại còn cho “mượn” người làm tướng để giúp Tần chống giữ Hung Nô. Lý Ông Trọng người Việt mà làm tới chức Tư lệ hiệu úy nhà Tần, được phong là Phụ Tín hầu, rồi còn làm phò mã nước Tần! Một người Việt chính gốc lại được đại đế lang sói như Tần Thủy Hoàng hậu đãi tới vậy! Lại còn từ nước Văn Lang sang tới tận Cam Túc để trấn giữ Hung Nô…
1.
Bản sự tích đầy đủ nhất về Lý Ông Trọng không phải là thần tích đình Chèm ở Từ Liêm, mà là ở Trạo Thôn, xã Đa Lộc, huyện Ân Thi, Hưng Yên – quê mẹ của Lý Ông Trọng. Thần tích Trạo Thôn kể rằng vào đời Hùng Duệ Vương có người con gái họ Hoàng, tên A Nương ở Trạo Thôn đã duyên ngộ và kết hôn với vị Lý Tuấn, người làng Thụy Uyên ở Từ Liêm. Hai người lấy nhau sinh ra một người con trai, lớn lên thân cao hơn 2 trượng, sức địch vạn người, trí dũng siêu quần, thông minh xuất chúng.
Khi ấy Hùng Duệ Vương cho tuyển người tài dũng, Lý Thân đổi tên thành Trọng vào cung đình ứng tuyển, được vua phong cho chức Chỉ huy sứ. Ông Trọng tính cường bạo, gây tội giết người. Hùng Duệ Vương mến tài nên đại xá cho. Lại mỗi khi giặc Chiêm Thành, Ai Lao đến quấy nhiễu là mỗi lần Ông lập công. Vua bèn lệnh cho ra trấn giữ Lâm Thao, giặc man khấu không dám xâm phạm.
Thần tích quê mẹ Lý Thân ở Hưng Yên cho thêm những thông tin lạ về Ông Trọng. Đó là Ông Trọng từng có công đánh giặc Chiêm Thành, Ai Lao và ra vùng Lâm Thao đất của vua Hùng để trấn giữ giặc man khấu. Như thế địa danh Lâm Thao được nhắc đến ở đây không nằm ở phương Bắc, mà là ngay trên đất Việt. Giặc Hung Nô trong thần tích này được gọi là Chiêm Thành và Ai Lao, tức là người phía Nam và Tây đất Việt, không phải ở tận đất Cam Túc xa xôi.
Đất Lâm Thao thời Tần có người Hồ là đất Lâm Ấp, được biết là tiền thân của Chiêm Thành sau này. Ghi chép về Lâm Ấp thời Tần có thể thấy trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, Kỷ nhà Triệu chép: “Giáp Ngọ, Tần Nhị Thế năm thứ ba (năm 207 Trước Công nguyên), Vua (Triệu Vũ Đế) chiếm đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương”.
Đại Nam quốc sử diễn ca có thơ kể về Lý Ông Trọng:
Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân
Làm quan hiệu úy đem quân ngữ Hồ
Uy danh đã khiếp Hung Nô,
Người về Nam quốc, hình đồ Bắc phương.
Trong bài diễn ca này Hung Nô còn được gọi là người Hồ. Vận dụng phép phiên thiết Nho văn cho ta một số thông tin bất ngờ. Hung Nô đọc lướt là Hồ. Lý Ông Trọng trấn Hung Nô tức là trấn giữ người Hồ hay người Hời. Từ Liêm cũng đọc thiết âm là Tiêm, hay Chiêm. Đức thánh Chèm cũng nghĩa là Đức thánh Chiêm. Tên làng Chèm chỉ rõ công đức trấn giữ đất Chiêm của Lý Ông Trọng. Tới đây không còn nghi ngờ gì nữa, thực ra Lý Ông Trọng làm tướng Tần để giữ vùng đất Tây và Nam nước ta chống lại người Hồ hay người Chiêm.
2.
Thần tích Trạo Thôn ghi Lý Thân làm Chỉ huy sứ thời Hùng Duệ Vương, tức giai đoạn cuối cùng của thời đại Hùng Vương. Đây cũng chính là An Dương Vương như “Lĩnh Nam chích quái” kể. Chỉ có thế mới có thể hiểu được, tại sao Lý Thân làm quan từ thời Hùng Vương, sang An Dương Vương và tới tận thời Tần.
Lý Thân là phò mã của nhà Tần, lấy Bạch Tịnh Cung công chúa, con gái của Tần Thủy Hoàng. Thế nhưng ở thành Cổ Loa lại lưu truyền rằng Lý Ông Trọng là Hữu thừa tướng, một trong Tứ trụ của triều đình An Dương Vương. Hiện Lý Ông Trọng vẫn đang được thờ cùng với các tướng Cao Lỗ, Nồi Hầu và Trần Tự Minh tại đền Thượng Cổ Loa. Có thể thấy, trong trường hợp này An Dương Vương là vua chủ của Lý Ông Trọng, tương đương với Tần Thủy Hoàng. Lý Thân làm tướng Tần, cũng là quan trụ quốc của An Dương Vương.
Bài thơ được khắc trên gỗ tại đình Chèm có câu nói tới Lạc đô – kinh đô nước Âu Lạc ở thành Cổ Loa:
Xa ôm núi Tản, Nhị hà quanh
Quận cũ Từ Liêm sương trải mành
Vững mãi Lạc đô sông với núi
Lưu truyền Mã sử ngưỡng thanh danh.
Kỳ lạ hơn, ở xã Ninh Sơn, Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ còn đình làng thờ Lý Ông Trọng là thành hoàng. Thần tích Ninh Sơn cho biết đây là nơi cha và mẹ của Lý Thân đã tới cầu tự và cũng là nơi Lý Ông Trọng hóa. Di tích này tương ứng với truyện kể của “Lĩnh Nam chích quái” rằng Ông Trọng đã phải ẩn vào trong núi và tự vẫn khi Tần Thủy Hoàng cho đòi ông về Hàm Dương.
Đặc biệt, thần tích Ninh Sơn lại kể Lý Thân đã vâng mệnh “Triệu Vũ Đế” dẫn binh đánh quân Thục ở thành Cổ Loa. Có thể thấy Triệu Vũ Đế trong thần tích Ninh Sơn là chỉ Tần Thủy Hoàng, người lập nên Trung Hoa thống nhất. Nhà Tần vốn mang họ Triệu, từ vị tổ của Tần là Tạo Phụ thời Chu Mục Vương được phong đất ở Triệu thành. Còn quân Thục trong thần tích Ninh Sơn là hậu quân của An Dương Vương, sau khi bị Tần tấn công chiếm thành Cổ Loa, đã trở thành man khấu người Hồ ở đất Nam Chiếu – Ai Lao như thần tích Trạo Thôn chép. An Dương Vương trong các ngọc phả và thần tích đều được biết là người đến từ đất Ai Lao.
Đức thánh Chèm Lý Thân sinh ra ở Từ Liêm vào thời Hùng Vương đời cuối là An Dương Vương, nhập Tần làm tướng dưới thời Tần Triệu. Tần Thủy Hoàng gả con gái và phong Lý Thân làm Tư lệ Hiệu úy, trấn thủ vùng Lâm Ấp có người Chiêm Hồ – Ai Lao, là hậu quân của nhà Thục. Ông Trọng đóng trị sở ở cố đô Âu Lạc là thành Cổ Loa. Ông mất tại vùng núi Ninh Sơn, Chương Mỹ.
Câu đối ở đình Chèm ca ngợi Lý Ông Trọng:
Điện Việt còn đây thần thượng đẳng
Ải Tần chốn đó tướng Trung Hoa.
Lý Thân là tướng Tần, cũng là người Việt. “Trung Hoa tướng” lại là “Việt điện thượng đẳng thần”. Nhà Tần của Trung Hoa cũng là một giai đoạn lịch sử của người Việt, nối tiếp nhà Thục của An Dương Vương ở Cổ Loa, như một giai đoạn phát triển mới trong thời đại Hùng Vương.
Rước giá trong lễ hội Chèm năm 2022Lâm giá ở đường vào đình Chèm, lễ hỗi Chèm 2022Rồng chầu trước nghi môn đình Chèm, lễ hội Chèm 2022Tôn tượng Bạch Tịnh Cung Công chúa và Lý Hiệu úy ở đình ChèmBài thơ nói đến Lạc đô ở đình Chèm.
Trang sách “Đại Nam quốc sử diễn ca”nói về Lý Ông Trọng ngữ Hồ.Đình Ninh Sơn, Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Nội.
Về thăm thành Cổ Loa, đọc lại những hoành phi câu đối nơi đây, ngẫm lại chuyện An Dương Vương dựng nước Âu Lạc, rồi để “cơ đồ đắm biển sâu”. Lịch sử về An Dương Vương vẫn còn rất nhiều câu hỏi chưa được giải đáp thỏa đáng.
Những khám phá về Cổ Loa thành buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về triều đại nhà Thục trong cổ sử Việt.
Lớp thành sớm của Cổ Loa có niên đại từ thời Hùng Vương
Sự tích ở Cổ Loa kể rằng Vua Chủ An Dương Vương cho di dời người dân bản địa, giải phóng mặt bằng để xây thành. Câu đối ở đền Thượng nói đến việc này:
“Truyền nước Lạc, Vua xem sông núi
Đối thành Loa, Trời mở mênh mang“.
Kết quả khảo cổ thành Cổ Loa những năm gần đây cho biết, ba vòng tường thành nội, trung, ngoại của Cổ Loa đã được xây dựng qua nhiều lần khác nhau. Lớp thành đầu tiên của Cổ Loa có niên đại khoảng 400 năm trước Công nguyên. Ban đầu ở các vòng ngoài của thành là các bờ lũy, mang tính chất kiểm soát hơn là phòng thủ. Kết quả này không khớp với những nhận định hiện nay khi cho rằng là An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc vào thế kỷ III trước Công nguyên (sau năm 257 trước Công nguyên).
Vậy người đầu tiên xây dựng thành Cổ Loa là ai? Liệu thời kỳ An Dương Vương chỉ ngắn vẻn vẹn có vài chục năm ở thế kỷ III – II trước Công nguyên hay không?
Liên quan đến chuyện xây thành Cổ Loa, ở làng Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Ninh) có truyền thuyết được chép trong “Bắc Giang tỉnh chí” như sau:
“Cuối đời Chu, Lão Tử đã đi xuống miền Nam du ngoạn. Khi tới tả ngạn sông Nguyệt Đức… Lão Tử thấy phong cảnh đẹp bèn cắm trang ở đây, đặt tên là Thổ Hà trang. Sau khi lập trang ông ta còn mở trường truyền đạo cho các đồ đệ, nhà trường nay là chùa Đoan Minh. Lão Tử có nhiều phép màu trừ hung sát quỷ.
Đương khi Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa, nhưng thành cứ xây lên, sáng dậy lại bị đổ, bởi thần Kim Kê ở núi Thất Diệu trêu cợt. Vua nghe thấy ở trang Thổ Hà có người biết trừ hung sát quỷ bèn cử sứ giả lại mời. Lão Tử nhận lời, rồi đi đến núi Thất Diệu sai Thanh Giang sứ hiện thành rùa vàng vào rừng trừ yêu quái, lại thư phù vào lá trúc thả xuống sông cho trôi khắp mọi nơi xua yêu quái. Nhờ vậy, nửa tháng đã xây xong thành Cổ Loa, Lão Tử cáo từ ra về, được An Dương Vương ban thưởng rất hậu“.
Triết gia nổi tiếng Lão Tử Lý Nhĩ Đam ít nhất cũng sống vào quãng thế kỷ VI-V trước Công nguyên, lại cùng thời kỳ với vua Thục ở Cổ Loa. Như vậy nhà Thục của An Dương Vương có thể đã bắt đầu sớm hơn rất nhiều so với nhận định hiện tại vào năm 257 trước Công nguyên?
Rõ ràng rằng trong sử Việt nhà Thục không phải chỉ có 1 vị vua, mà là một triều đại kéo dài vài trăm năm, qua nhiều đời vua, đều xưng là An Dương Vương.
An Dương Vương là dòng Tiên theo mẹ Âu Cơ đã định đô ở Cổ Loa
Khai quật các di tích ở Cổ Loa đã chứng tỏ rằng nơi đây là một trung tâm của nền văn hóa Đông Sơn, với những hiện vật điển hình như trống đồng Cổ Loa. Văn hóa Đông Sơn hiện nay được gắn với thời kỳ Hùng Vương, nhưng nếu xét về niên đại, nền văn hóa khảo cổ này bắt đầu từ quãng thế kỷ VI trước Công nguyên kéo dài đến đến thế kỷ I thì đây phải là giai đoạn của nhà Thục mới đúng. Thời kỳ Hùng Vương dựng nước bắt đầu từ những mốc thời gian sớm hơn nữa, ít nhất là từ văn hóa Phùng Nguyên, tương ứng với 4.000 năm lịch sử.
Đền Thượng ở Cổ Loa được gọi là “Tiên từ đệ nhất”, như dòng chữ ghi trên các lớp nghi môn trong và ngoài của đền. Tại sao đền thờ An Dương Vương lại là “Tiên từ”? An Dương Vương trở thành “Tiên” khi nào?
Ngẫm nghĩ sâu hơn về ý nghĩa thì phải chăng chữ Tiên ở đây có ý chỉ An Dương Vương là dòng Tiên theo mẹ Âu Cơ lên núi trong truyền thuyết. Dòng Tiên có biểu tượng là chim Phượng. Nghi môn nội của của ngôi đền Thượng Cổ Loa cũng có đắp cặp phượng chầu mặt trời ở trên mái, điều hiếm thấy đối với một đền thờ nam thần. Điều này dường như nhấn mạnh rằng An Dương Vương thuộc về dòng Tiên.
Đặc trưng của các trống đồng Đông Sơn là hoa văn hình những con chim lớn đang bay lượn. Các sách vở gần đây gọi hình chim đó là “chim Lạc”, không rõ tại sao. Thực tế hoàn toàn không có loài chim Lạc, cũng như trong các thư tịch đều không hề nói đến tên gọi đó. Đây chính xác phải gọi là chim Phượng, biểu tượng của dòng Tiên theo mẹ Âu Cơ lên núi. Lạc là dòng theo cha Lạc Long Quân xuống biển, biểu tượng là con Rồng.
An Dương Vương là “Tiên đệ nhất”, nghĩa là người đứng đầu (làm vua) dòng Tiên. So với truyền thuyết họ Hồng Bàng, khi người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, lập nên nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương thì An Dương Vương tương ứng với vị vua Hùng đã dựng nên nước Văn Lang.
Thục An Dương Vương được ghi trong các ngọc phả truyền lại là người cùng dòng dõi của các vị vua đời trước, tức cũng là dòng Hùng Vương. Nhà Thục cần được xem là một trong những giai đoạn của thời đại Hùng Vương, kế tiếp giai đoạn các Lạc Vương trước đó. Thục Vương là dòng Âu (theo mẹ Âu Cơ), xuất phát từ vùng Ai Lao (là vùng Vân Nam ngày nay, nơi vẫn còn rặng núi Ai Lao Sơn) đã tiếp quản cơ nghiệp của dòng Lạc trên vùng Bắc Việt, lập nên quốc gia hợp nhất Âu và Lạc.
Các lớp thành quy mô nhất của Cổ Loa được xây dưới thời Tần Triệu
Tấm bia thời Lê năm Chính Hòa thứ 10 (1689) có tên “Chính Pháp điện thạch bi” ở đền Thượng Cổ Loa chép: “Đại Việt suy tôn An Dương Vương là hoàng đế, khởi từ đất Ba Thục, định đô ở Phong Khê, lấy nỏ rùa thần đuổi quân Tần, xây thành trĩ mà cố thủ, ngàn dặm nhập vào nước Âu Lạc ta“.
Theo tấm bia này thì việc An Dương Vương dùng nỏ thần là để chống lại quân Tần, chứ không phải Triệu Đà như trong truyền thuyết thường kể. Vậy Triệu Đà trong truyền thuyết thực ra là chỉ quân Tần vì nhà Tần vốn mang họ Triệu. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, thủy tổ của Tần là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương và được phong đất ở Triệu thành, từ đó lấy tên đất làm họ.
Ở am thờ công chúa Mỵ Châu trên bảng gỗ có khắc một bài thơ cổ, có đoạn thơ được dịch như sau:
“Thành hoang khuất khúc xanh rì cỏ
Việc cũ đau lòng biết hỏi ai?
Tần Việt nhân duyên thành cập oán
Non sông vận kiếp tới mày ngài“.
Điều lạ là bài thơ gọi mối tình của Mỵ Châu và Trọng Thủy là “Tần Việt nhân duyên”. Công chúa Mỵ Châu là Việt thì đã rõ. Còn lại, Trọng Thủy phải là hoàng tử của vua Tần, họ Triệu.
Câu chuyện tình ngang trái Mỵ Châu – Trọng Thủy là kể về sự kết thúc của nhà Thục bởi sự tấn công bất ngờ của quân Tần. An Dương Vương từng xây thành đắp lũy để chống Tần, nhưng cuối cùng cơ đồ đã mất. Tần chiếm được Cổ Loa thành, kinh đô phồn hoa bậc nhất khu vực phương Nam khi đó.
Báo cáo khảo cổ thành Cổ Loa cho biết, các bức thành chính được xây ở quãng thế kỷ thứ III trước Công nguyên chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu đắp bằng cách đổ đất. Giai đoạn sau là áp dụng “công nghệ” nện đất, tương tự với kỹ thuật đắp thành ở phương Bắc khi đó. Với lớp đắp ở thành Trung cao tới 2,5m, rộng 24 m, các nhà khảo cổ đã tính toán lượng nhân công huy động cho đắp thành lên tới hàng triệu người. Vậy nếu lớp thành đầu được xây bởi An Dương Vương thì lớp thành tiếp theo phải là do nhà Tần xây dựng. Chỉ có nhà Tần vào giữa thế kỷ thứ III trước Công nguyên mới đủ tiềm lực, nhân lực để xây nên tòa thành lớn nhất Đông Nam Á này.
Trong đền Thượng Cổ Loa có ban thờ quan Tứ trụ triều đình. Một trong 4 vị tứ trụ này là Hữu Thừa tướng Lý Ông Trọng. Đức thánh Chèm Lý Ông Trọng được biết rõ là một đại tướng của nhà Tần, lấy con gái của Tần Thủy Hoàng là Bạch Tĩnh Cung công chúa và được cử đi trấn thủ người Hồ ở đất Lâm Thao. Xem vậy thì người đã trấn thủ Loa thành dưới thời Tần, không ai khác chính là Lý Ông Trọng, phò mã của Tần Thủy Hoàng.
Bên trên của lớp thành thế kỷ III trước Công nguyên ở Cổ Loa có gặp một lớp ngói đặc trưng, được gọi là ngói Cổ Loa. Tuy nhiên, nhận định của nhiều nhà khảo cổ lại cho biết những tấm ngói này về hoa văn và cách chế tạo giống với ngói ở mộ Triệu Văn Đế bên nước Nam Việt. Cũng tại Cổ Loa đã phát hiện hàng trăm mũi tên đồng và cả một lò đúc đồng cổ, nhưng chúng lại có niên đại cỡ đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Đây là niên đại thách thức đối với các nhà khảo cổ, vì như thế rõ ràng người đúc tên và người xây thành không phải là một, cách nhau cả thế kỷ. Nói cách khác, những mũi tên Cổ Loa không thuộc về nước Âu Lạc của An Dương Vương, mà thuộc về nhà Triệu nước Nam Việt
Những phát hiện khảo cổ gần đây, càng đào lên càng thấy phải xem xét lại lịch sử về triều đại Thục An Dương Vương. Khi kết hợp kết quả khảo cổ học với các di tích và truyền thuyết dân gian lưu truyền ở tại địa phương sẽ cho một bức tranh chính xác hơn, rõ ràng hơn về Thục quốc từ mẹ Âu Cơ lập nước Văn Lang tới An Dương Vương xây thành Cổ Loa chống Tần, Triệu Việt Vương đắp thành dựng nước Nam Việt.
Câu đối trên nghi môn ngoài của đền Thượng Cổ Loa như một câu hỏi ngàn năm về triều đại vua Thục An Dương Vương:
Lăng Chiêu tùng bách giờ đâu nhỉ?
Non sông nước Thục đó cung xưa.
Nghi môn ngoại đền Thượng Cổ Loa.Nghi môn nội đền Thượng Cổ Loa.Nhà bia ở đền Thượng Cổ Loa.“Chính pháp điện thạch bi” ở đền Thượng Cổ Loa.Ban thờ các quan Tứ trụ ở đền Thượng Cổ Loa.Khuôn đúc tên ở đền Thượng Cổ Loa, thế kỷ III – II trước Công nguyên.
Đầu ống ngói Cổ Loa, niên đại thế kỷ II trước Công nguyên.
Sau 18 đời vua Hùng, chính sử nước ta được ghi chép bằng một loạt những diễn biến chồng chéo rất khó phân định, từ việc An Dương Vương kế tục Hùng Vương năm 257 Trước Công nguyên, rồi nhà Tần đánh Lĩnh Nam đến Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 208 Trước Công nguyên. Tất cả xảy ra chỉ trong vòng chưa đầy 50 năm!
Mới đây, một bản thần tích do họ Lê lưu giữ ở thị xã Phú Thọ đã cung cấp thêm nhiều chi tiết giá trị, giúp bổ sung và làm sáng tỏ dòng chảy lịch sử nước ta sau thời Hùng Vương.
1.
Làng Mạo Phổ, thuộc xã Lương Lỗ, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, thờ vị Thánh mẫu Duyên Hòa. Theo ngọc phả, bà là vợ của Hùng Vương thứ 17. Một đêm bà nằm mộng thấy một con chim phượng ngậm một chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ vang rền. Từ đó bà có mang.
Khi sắp sinh, bà lại nằm mơ gặp một lão tiên đến ban cho một chiếc rọ có 5 con cá chép hồng. Bà chọn được 3 con cá. Sau đó bà sinh được ba người con trai tướng mạo dị thường, thông minh tài trí. Ba người con khi lớn lên đã cùng với Tản Viên Sơn Thánh giúp vua Hùng đánh giặc Thục, rồi về hóa ở quê mẹ bên bờ sông Thao.
Cạnh làng Mạo Phổ là làng Hạ Mạo, thuộc thị xã Phú Thọ, có thần tích kể về 5 vị thành hoàng cùng tên với làng Mạo Phổ. Nhưng khác với ngọc phả Mạo Phổ do Hàn lâm đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn, thần tích của làng Hạ Mạo là một dạng ghi chép của gia tộc họ Lê tại đây về các vị thành hoàng, cũng là vị tổ họ đã lập trang ấp tại Hạ Mạo.
Thần tích họ Lê ở Hạ Mạo kể rằng: Xưa Hùng Vương đời thứ 17 sinh người con trai thứ tên là Hùng Ánh, thiên tư dũng lược, diện mạo lạ thường, thông minh nhanh hiểu biết, vượt trội hơn người. Khi ấy phong tục còn chất phác. Các con vua đều gọi là quan chàng, cho nên có tên là quan Chàng Ánh. Đến khi Duệ Vương nối ngôi, phong Chàng Ánh làm Vương tử, ban cho họ Lê. Khi giặc Thục đến xâm lăng, Chàng Ánh chỉ huy quân binh, có công chống Thục. Sau giặc Thục đánh Duệ Vương, thế nước nhà Hùng mất. Chàng Ánh rất hận mới luyện binh tuyển tướng, cẩn thận giữ gìn cương giới, bèn tự xưng là Hậu Hùng Vương, không thần phục An Dương Vương. Xưng là nước Việt Tây, nay là Quảng Tây.
Chi tiết Chàng Ánh được phong ban họ Lê, chiếm giữ đất Quảng Tây là một bằng chứng rằng việc hình thành các dòng họ ở nước ta đã có từ thời Hùng Vương. Việc ban họ gắn liền với phong đất và quyền thế tập cha truyền con nối. Đây chính là ý nghĩa khái niệm chế độ “phong kiến”, tức là phong tước và kiến địa.
Lê Hùng Ánh là vị tổ họ Lê sớm nhất được biết trong thư tịch cho tới nay.
2.
Thần tích Hạ Mạo kể tiếp: Vợ Vương là con gái Đông Chu Quân có mang 3 năm, sinh một bầu năm con trai, đến khi trưởng thành đều có tướng mạo khác thường. Hùng Vương Chàng Ánh rất vui mừng, nhân theo cổ tục khi đó đặt là Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư, Chàng Út mà gọi.
Vào cuối thời Chu, đất nhà Chu chia thành 2 vùng là Tây Chu và Đông Chu. Vị vua Chu cuối cùng là Chu Noãn Vương đã bị Tần Chiêu Tương Vương diệt ở đất Tây Chu năm 256 TCN. Đất Đông Chu khi đó trở thành nơi nương náu của các quý tộc nhà Chu và được cai quản bởi một vị hoàng tộc Chu gọi là Đông Chu Quân.
Thông tin Hậu Hùng Vương lấy con gái của Đông Chu Quân khi so sánh với ngọc phả làng Mạo Phổ thì tương ứng việc Thánh mẫu Duyên Hòa nằm mộng thấy điềm chim phượng ngậm bút ngọc bay tới trong tiếng sấm nổ, sinh ra 3 người con đặt tên là Bút Lôi Mao. Chim phượng là biểu tượng cho dòng Tiên theo mẹ Âu Cơ lên núi, cũng tương đương với nhà Chu vì khi Chu Văn Vương khởi nghiệp đã thấy điềm chim phượng hoàng năm sắc đậu ở ngọn núi Kỳ Sơn mà gáy báo tin.
Hình ảnh lông phượng mang hàm nghĩa những người con là dòng dõi của mẹ Âu Cơ hay của nhà Chu. Tiếng sấm tượng trưng cho quẻ Chấn trong Hậu thiên bát quái, là quẻ chỉ hướng Đông. Còn chiếc Bút tượng trưng cho nét “văn”.
Tên gọi Bút Lôi Mao do vậy có thể giải nghĩa là dòng dõi của Đông Chu Văn Quân, vị quân chủ đã quản lý vùng đất Đông Chu chống lại quân Tần. Vì quân Tần đến từ vùng đất Thục nên truyền thuyết Việt gọi đây là giặc Thục.
Hậu Hùng Vương chủ đất Việt Tây, lấy vợ là con gái của Đông Chu Quân, đã không thần phục vua Thục mà tự mình lập nước riêng, xưng là Việt Tây quốc vương. So sánh với chính sử thì việc Hùng Ánh lập quốc ở Quảng Tây tương ứng với việc họ Triệu chiếm đất Tần xưng là Vũ Vương. Cái tên Lôi Mao cũng tương ứng với hình ảnh những chiến binh đội lông chim (Mao) trên mặt trống đồng, là loại trống còn gọi là trống sấm (Lôi), gặp phổ biến nhất ở vùng Bắc Việt và Quảng Tây. Lông chim cũng là họa tiết trang trí phổ biến trên mặt các trống đồng của thời kỳ Đông Sơn.
3.
Thần tích Hạ Mạo kể tiếp: Gặp lúc có tướng Tần Triệu Đà dẫn quân chiếm phương Nam, Hùng Vương (tức là Chàng Ánh) bèn lệnh Chàng Út dẫn ba ngàn quân giúp Triệu Đà đánh Thục chiếm nước thành công. Triệu Đà lên ngôi là Vũ Đế, nhưng vẫn cắt Quảng Tây cho Việt.
Vì Chàng Út có công nên 4 người anh nhường cho em, bỏ đi ẩn ở vùng sông cuộn núi dừng bên sông Thao. Hùng Vương băng hà, Chàng Út kế vị, xưng là Việt Tây Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Vũ Đế cho lệnh sách phong. Ba năm tang lễ xong, Vương cho hoàng hậu họ Triệu giám quản đất nước, còn tự thân đi cầu tìm bốn người anh.
TriệuVũ Đế trong thần tích này không phải là Vũ Vương lập quốc ở Quảng Tây, mà là người đã diệt nhà Tần lên ngôi Đế. Vị Hoàng đế của thiên hạ này có sách phong cho Chàng Út làm Vương ở đất Việt Tây.
Đây là thông tin hết sức mới lạ về nguồn gốc nhà Triệu của nước Nam Việt, cho phép giải mã được những khúc mắc lịch sử hiện tại về thời kỳ Hậu Hùng Vương.
Có thể tóm tắt lại diễn biến của thời kỳ này theo những thông tin mới thu nhận từ thần tích Hạ Mạo như sau:
Hùng Vương thứ 18 là dòng Tiên Phượng theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, tương ứng với vị vua Chu cuối cùng là Chu Noãn Vương. Tác phẩm thơ Thiên Nam ngữ lục có đoạn về thời gian này như sau:
Kể từ Hùng tổ trị dân Lên ngôi sánh với thánh nhân Đào Đường Tới nay Chu mạt Noãn Vương Ông cha con cháu giữ giàng trị dân… Ấm bao nhiêu, rét bấy nhiêu Vườn Chu ải giậu, Tần trèo đãng hoa.
Giặc Thục tấn công và diệt Hùng Vương là nước Tần. Một chư hầu của Hùng Vương mang họ Lê không thần phục Tần đã cát cứ đất Quảng Tây mà xưng vương. Đây là vị Vũ Vương, tức là vị vua đầu triều, của nước Nam Việt. Vũ Vương có người vợ là con gái của Đông Chu Văn Quân, tức là dòng dõi nhà Chu.
Khi Triệu Đà khởi nghĩa chống Tần, Vũ Vương cử quân đội giúp Triệu Đà định được thiên hạ. Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, xưng là Triệu Vũ Đế. Triệu Vũ Đế phong cho Vũ Vương họ Lê làm vua đất Việt Tây như một chư hầu.
Con Út của Vũ Vương họ Lê là người có công trong việc diệt Tần lập quốc, được Triệu Vũ Đế gả con gái cho, là Triệu hậu. Út Ngọ Lôi Mao lên nối ngôi cha ở Quảng Tây tức là Triệu Văn Vương trong lịch sử. Họ Triệu của nước Nam Việt lấy theo họ bên ngoại (theo Triệu Vũ Đế) từ đây.
4.
Thần tích Hạ Mạo kể tiếp: Được mười năm hoàng hậu họ Triệu sinh được con trai là Chàng Uyên, thông minh sáng suốt. Sau khi Chàng Út cùng 4 anh hóa Chàng Uyên tiếp ngôi, hiệu xưng là Minh Vương.Khi Hán bình định Nam Việt cùng với Việt Tây, Minh Vương thất thủ mà chết. Con trưởng tên là Hùng Tuấn với Vương hậu cùng chết theo. Con trai thứ Hùng Hòa không chịu nhục, cõng thi thể của cha chạy về chôn ở núi Toàn Dương. Sau ba năm chôn cất xong, dẫn con cái đến thôn Thượng Minh cùng với nhân dân bốn họ cùng sống. Nhưng vì tránh tên Minh Vương nên đã đổi thành xã Hạ Mạo, đổi thôn thành xã từ đó.
Người nối ngôi Triệu Văn Vương ở nước Nam Việt theo Sử ký Tư Mã Thiên đúng là Triệu Minh Vương. Người con đầu của Minh Vương là Triệu Ai Vương đã cùng mẹ là Cù Hậu bị chết khi nhà Tây Hán tấn công Nam Việt. Ai Vương như thế tương ứng với tên Hùng Tuấn trong thần tích Hạ Mạo. Còn người con thứ của Minh Vương đã chạy về vùng Phong Châu Phú Thọ là Triệu Vệ Dương Vương, tương ứng trong thần tích gọi là Hùng Hòa.
Tộc tích họ Lê ở Hạ Mạo đã ghi lại đầy đủ thông tin nguồn gốc về nhà Triệu nước Nam Việt. Đó là từ Triệu Vũ Vương họ Lê và vợ là con gái Đông Chu Quân xưng vương ở Quảng Tây. Tiếp nối là Văn Vương lấy vợ là con gái Triệu Đế nên từ đó dùng chữ Triệu để đặt tên triều đại. Triệu Minh Vương nối ngôi, tới Triệu Ai Vương thì bị nhà Tây Hán tấn công, giết chết. Triệu Vệ Dương Vương đem thân tộc gia quyến chạy về quê gốc ở vùng Phong Châu, ẩn cư lấy lại họ Lê. Từ đó chiêu dân lập ấp, hình thành trang ấp ở khu vực thị xã Phú Thọ ngày nay. Họ tộc này cùng 4 họ gia thần khác lập đền thờ Mẫu tổ là bà Duyên Hòa ở làng Mạo Phổ và đền đình thờ các đại vương tổ họ Lê làm thành hoàng ở 2 làng Mạo Phổ và Hạ Mạo.
Câu đối với đình Hạ Mạo còn ghi lại câu chuyện ly kỳ thời Hậu Hùng Vương này:
Hùng Lạc ký truyền nay, diệt Thục bình Ngô rạng ở sử
Việt Tây ngôi nhường nối, điềm rồng thế núi bãi thành trang.
Hình người và lông chim trên trống sao vàng
Trang đầu” Thần từ sự tích” của làng Hạ Mạo với thông tin về ban tộc tính họ Lê cho Hùng Ánh.
Long vị Lôi Mao Đại vương ở đền Mạo Phổ.Cung thờ Ngũ vị Đại vương đình Hạ Mạo.Hình Giao long và Người đội lông chim trên lưỡi rìu thời Đông Sơn.Phả đồ thời kỳ Hậu Hùng Vương theo thần tích Hạ Mạo và chính sử.
Người Việt ai cũng tự hào về truyền thuyết khởi nguồn Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ sinh ra trăm người con, là tổ của Bách Việt. Nhưng ít ai biết rằng biểu tượng Tiên Rồng lại hiện hữu ngay trên những hiện vật của thời Hùng Vương như trống và các vũ khí đồng cùng thời.
Hình ảnh những con chim lớn mỏ dài, đuôi rộng, giang cánh tung bay trên mặt các trống đồng không xa lạ gì với người Việt ngày nay. Loài chim này được Giáo sư Đào Duy Anh gọi là “chim Lạc” khi so sánh chúng với các loài “hậu điểu” ở vùng Giang Nam di cư cùng với những chiếc thuyền có các chiến binh đội lông chim như thể hiện trên tang trống đồng.
Nhận xét của Giáo sư Đào Duy Anh khá xác đáng rằng hình chim trên trống đồng là loài chim di cư và được người Việt cổ coi là vật tổ. Tuy nhiên, việc gọi loài chim này là Lạc thì cần xét thêm, vì người Việt không biết loài chim nào tên là Lạc.
Vật tổ của mình mà đến tên còn không lưu lại được thì sao gọi là vật tổ?
Trong khi đó, hình ảnh loài chim vật tổ của người Việt gắn liền với Tiên nữ Âu Cơ. Loài chim biểu tượng cho dòng Tiên là Phượng hoàng, khi gắn với tên bà Âu Cơ thì phải gọi là chim Âu mới hợp lý. Nguyên mẫu của loài chim di cư này có thể là loài chim Hạc lớn như Hồng hạc, tới nay vẫn còn bay về vùng Đồng Tháp Mười vào mùa đông mỗi năm.
Nhận định khác cho rằng đó là loài chim Hồng hoàng hay Phượng hoàng đất. Dù là Hạc hay là Phượng thì ý nghĩa biểu tượng cho dòng Tiên lên núi theo Mẹ vẫn là nội hàm của hình ảnh này.
Một dẫn chứng khác về hình tượng chim Âu là ở đền Thượng khu di tích Cổ Loa. Đền Thượng thờ Thục An Dương Vương, nhưng nghi môn của đền không đắp rồng chầu mặt trời như những nơi khác, mà lại đắp hình Phượng chầu mặt trời.
Đền Cổ Loa còn có tên là “Tiên từ đệ nhất”, có thể hiểu nghĩa là ngôi đền hàng đầu thờ dòng Tiên. An Dương Vương đã lấy đất Lạc của Hùng Vương để lập ra nước Âu Lạc nên An Dương Vương phải là dòng Âu hay dòng Tiên lên núi xuất phát từ mẹ Âu Cơ.
Còn tên gọi Lạc chính xác hơn phải là để chỉ vật tổ biểu tượng cho dòng theo cha Lạc Long Quân xuống biển. Sách Giao Châu ngoại vực ký viết: “Xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, đất có ruộng lạc, ruộng ấy theo triều thuỷ lên xuống, dân khẩn thực ruộng ấy, nên gọi là Lạc dân. Lập ra Lạc vương, Lạc hầu, coi giữ các quận huyện. Nhiều huyện có Lạc tướng, Lạc tướng có ấn đồng và dây thao xanh”.
Rõ ràng từ Lạc gắn liền với ruộng lúa nước có “thủy triều lên xuống”, tức là vùng đồng bằng ven sông biển, bãi bồi bán ngập nước. Lạc thực ra là đọc khác của Nác, mà nay tiếng vùng Nghệ Tĩnh vẫn phát âm có nghĩa là Nước. Lạc Long Quân dẫn 50 người con trai xuống khai phá miền ven biển nên những người này được gọi là Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng. Biểu tượng của Lạc Long Quân là cha Rồng, nên gọi là Rồng Lạc, hay Lạc Long.
Rồng vốn có nguyên mẫu là Thuồng luồng, hay một loài Cá sấu lớn, sống bán cư ở vùng sông nước ven bờ. Loài vật này còn được gọi là Giao long trong truyền thuyết vì vào thời sơ sử trước Công nguyên, đồng bằng sông Hồng là một bãi bồi lớn, là nơi rất thuận lợi cho các loài bò sát lưỡng cư sinh sống. Truyện Chim bạch trĩ trong Lĩnh Nam chích quái kể rằng, sứ giả nước Việt Thường đối đáp với Chu Công rằng người Việt “vẽ mình để làm hình rồng, khi lặn lội dưới nước thì giao long không dám phạm đến”.
Người Việt lấy Giao long hay Rồng Lạc làm vật tổ bởi liên quan đến tục xăm mình cho những người sống ở vùng ven sông, làm nghề đánh cá, chài lưới, thường xuyên tiếp xúc với Thuồng luồng cá sấu. Chữ Lạc trong Lạc Long Quân có bộ Trãi, chỉ một loài bò sát, càng chứng tỏ thêm điều này.
Hình ảnh những con giao long vật tổ có thể thấy ở ngay trên các đồ đồng thời kỳ văn hóa Đông Sơn (quãng thế kỷ IV Trước Công Nguyên đến thế kỷ I). Trống đồng Nam Cường 1 là một trống dạng Đông Sơn, được phát hiện ở Thành phố Lào Cai. Trên mặt trống ở vòng ngoài có hình 14 con chim bay ngược chiều kim đồng hồ. Ở vòng trong là hình 4 con “thú lạ” chầu quay quanh mặt trời 14 cánh ở tâm mặt trống. Những con “thú lạ” có mõm dài như mỏ chim, đầu có sừng hoặc mào, 4 chân nâng thân thú ngắn. Đặc biệt là chiếc đuôi dài và rộng.
Đuôi loài thú này có thể cuộn lại như trường hợp thể hiện trên mặt trống đồng Phú Xuyên, cho thấy đây không phải là loài cáo, mà là một loài bò sát có khả năng cuộn mình.
Con “thú lạ” đó thực ra không hề lạ, mà là cách thể hiện con Giao long hay Rồng của người Việt ở thời kỳ trống đồng. Hình Giao long tương tự được thấy trên nhiều vũ khí khác cùng thời như mũi giáo, lưỡi rìu, vỏ kiếm. Thường gặp hình một đôi Giao long thân dài, đối xứng chạm chân vào nhau, đuôi có thể cuộn lại, hoặc duỗi thẳng ra. Hình giao long hay rồng trên các vũ khí là linh hồn biểu trưng cho sức mạnh, sự cường tráng của chúng.
Biểu tượng cặp Giao long trên vũ khí thời Đông Sơn đã từng được Viện khảo cổ học Việt Nam lấy làm logo. Loài thú trên trống đồng và vũ khí đồng Đông Sơn như thế chính là biểu tượng của Rồng. Toàn cảnh mặt trống đồng Nam Cường 1 nhìn lại là hình Rồng chầu Phượng múa dưới ánh mặt trời rực rỡ.
Người viết bài này còn được xem trên vỏ một thanh kiếm thời kỳ Chiến Quốc (tương đương với thời văn hóa Đông Sơn) đúc nổi và mạ bạc hình Rồng và Phượng. Đặc biệt là hình Rồng được thể hiện trong phong cách Đông Sơn với thân kéo dài, đuôi xoắn và xếp thành cặp đối xứng. Đôi phượng được thể hiện với phong cách tương tự, đầu phượng có mỏ nhọn có mào, thân kéo dài, cánh ngắn, đuôi dài. Sự kết hợp Rồng – Phượng như vậy gặp một cách ổn định trên các hiện vật của thời kỳ này.
Rồng – Phượng hay chim Âu – rồng Lạc thể hiện trên các đồ đồng Đông Sơn là sự xướng danh nguồn gốc dân tộc từ Cha Rồng xăm mình lội nước đắp đê, chiến đấu với thủy quái, đến Mẹ Tiên ngẩng đầu giang cánh chinh phục các triền núi cao.
Huyền thoại Tiên Rồng còn lưu dấu ngàn năm trên các cổ vật thời sơ sử.
Nghi môn trong đền Thượng Cổ Loa với bức đại tự “Tiên từ đệ nhất”.Phượng chầu mặt trời trên nóc nghi môn đền Thượng Cổ Loa.Trống đồng Nam Cường 1 ở Bảo tàng tỉnh Lào Cai.Rồng Lạc, chim Âu trên mặt trống đồng Nam Cường 1 ở Bảo tàng tỉnh Lào Cai.Giao long trên mũi giáo thời Đông Sơn.Lưỡi rìu Đông Sơn có hình giao long.
Xưa Hùng Vương đời thứ 17 là Hùng Huy Vương sinh người con trai thứ tên là Hùng Ánh. Hùng Ánh thiên tư dũng lược, diện mạo lạ thường, thông minh nhanh hiểu biết, vượt trội hơn người anh. Huy Vương yêu quý muôn lập làm người nối ngôi. Chàng Ánh cố gắng nhường cho anh. Khi ấy phong tục còn chất phác. Các con vua đều gọi là quan chàng, cho nên có tên là quan Chàng Ánh. Đến khi Duệ Vương nối ngôi, phong Chàng Ánh làm Vương tử, ban cho họ Lê. Khi giặc Thục đến xâm lăng, Chàng Ánh chỉ huy quân binh, có công chống Thục. Từ đó Chàng Ánh nắm quyền triều chính. Duệ Vương về sau trở nên biếng nhác, chìm đắm trong hoan lạc, không quan tâm đến chính sự, việc binh quốc gia buông lỏng. Chàng Ánh hết sức can ngăn nhưng Duệ Vương không nghe. Chán ngán, Chàng Ánh đi ra bộ ngoài, không muốn tham dự vào chính sự quốc gia. Sau giặc Thục đánh Duệ Vương, thế nước nhà Hùng mất. Chàng Ánh rất hận mới luyện binh tuyển tướng, cẩn thận giữ gìn cương giới, bèn tự xưng là Hậu Hùng Vương, không thần phục An Dương Vương. Xưng là nước Việt Tây, nay là Quảng Tây. Vợ vương là con gái Đông Chu Quân có mang 3 năm, sinh một bầu năm con trai vào giờ Ngọ ngày 14 tháng 3 năm Mậu Thân. Đến khi trưởng thành đều có tướng mạo khác thường, mũi cao, mắt xếch. Một người trên đầu có 7 chấm đỏ, sau lưng có 27 nốt ruồi đen. Một người một tay dài quá gối, mắt xếch tới tai. Một người mắt phượng mũi rồng. Một người mặt vuông tai to, râu đen, tóc xanh, thân dài 10 thước. Năm chàng đều là những người phi thường. Hùng Vương rất vui mừng, hoàng hậu chưa đặt tên nên nhân theo cổ tục khi đó đặt là Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư, Chàng Út mà gọi. Gặp lúc có tướng Tần Triệu Đà dẫn quân chiếm phương Nam. An Dương Vương có nỏ thần, quân Triệu gặp nhiều thất bại. Hùng Vương (tức là Chàng Ánh, Hậu Hùng Vương ở Việt Tây) sai Chàng Hai đến quân Tần nói với Triệu Đà rằng: – An Dương có thù với chúng tôi. Nay phụng nghe đại quân đánh Thục, nước tôi tuy nhỏ cũng xin dẫn ba ngàn quân trợ giúp. Tôi vì báo thù mà trợ giúp ngài định quốc. Tôi lại có mưu này có thể phá được nỏ thần, muốn được tâu với ngài để trù liệu. Triệu Đà nghe có quân giúp định quốc rất vui mừng, liền nói: – Cách nào có thể phá được nỏ thần? Chàng Hai nói: – Nếu thông hôn cho con với ái nữ Mị Châu thì có thể phá được. Đà bèn cử sứ về nước sai con trai Trọng đến thông hiếu kết nghĩa, sau lại cầu hôn với An Dương để cho Trọng làm con rể, ở đó trộm lấy phá hủy lẫy nỏ. Trọng về báo, phát sứ sang Việt. HùngVương bèn lệnh Chàng Út dẫn ba ngàn quân giúp Triệu Đà đánh Thục chiếm nước thành công. Triệu Đà lên ngôi là Vũ Đế, nhưng vẫn cắt Quảng Tây cho Việt. Sau 6 năm Hùng Ánh Vương lâm bệnh. Chàng Cả, Chàng Hai, Chàng Ba, Chàng Tư cùng nhau nói rằng: – Báo thù và mở rộng đất nước đều là công của Chàng Út. Có thể nhường lại nước cho Chàng Út. Chúng ta tạm tìm chỗ không xa mà đến lánh. Bèn cùng 4 người làm đồ đệ để đi. Bốn tiểu hầu phao lên rằng muốn tìm thuốc, đi tới Triệu. Trong nước họ Triệu thấy có một nơi sông uốn khúc, núi dựng lại quanh co, gặp lúc trời sắp tối. Bỗng thấy năm đám mây nổi lên, trong có Rồng vàng ẩn hiện. Nhân lấy đó là điềm lành để ở, dựng một lầu cao. Bốn Chàng cùng với các đồ đệ cùng đi là Lưu Chính Hoà, Nguyễn Văn Nhân, Đỗ Khắc Cần, Đặng Văn Dư đều xây nhà rồi dẫn con cái đến ở đó, mở ruộng vườn, lập cơ nghiệp lâu dài. Đến khi Hùng Ánh Vương lâm chung, bốn Chàng đã đi, bèn ban tên Chàng Út Lôi Mao, cho tự cai quản. Ngày 15 tháng 8 Hùng Vương băng hà, Chàng Út phát tang, kế vị, xưng là Việt Tây Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Vũ Đế cho lệnh sách phong. Ba năm tang lễ xong, Vương cho hoàng hậu họ Triệu giám quản đất nước, còn tự thân đi cầu tìm bốn người anh. Vương đi khắp thiên hạ đến nơi dòng sông uốn khúc thì gặp được các anh. Gặp nhau rất vui mừng bèn cho mở đãi tiệc lớn ở trên lầu gác. Sau này thôn có lầu được gọi là thôn Thượng Minh. Lại sai các thủ hạ đến làng đó để đón bốn anh về Việt Tây. Các anh cùng muốn nhường nên bất đắc dĩ báo với vua Triệu. Vũ Đế mới ban sắc rằng: – Cha truyền con nối là lễ thế tập. Không quên gốc nước, quân dân quyến luyến là đáng trách. Ngôi trời rất trọng yếu, đâu chỉ là việc lập ra như đồ giả chơi. Quan trọng là phải trở về. Quốc vương Việt Tây tạ thế, có để lại 5 con đều là đức hiền minh. Khi Út Ngọ Lôi Mao thừa cảnh tốt trên có bốn anh đều là bậc thánh trí. Huynh đệ cùng nhường nhau, không nên như Thái Bá bỏ đi. Đàn sáo tương ứng, cùng hòa phép chính, người và vua cùng hưởng, cùng quản việc nước, cùng các vua tướng, theo như sách mệnh là Chàng Cả Đại vương, Chàng Hai Đại vương, Chàng Tam Đại vương, Chàng Tứ Đại vương, Chàng Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Tuân sắc ban. Từ đó năm vương cùng nhau quản lý việc nước. Được mười năm hoàng hậu họ Triệu sinh được con trai là Chàng Uyên, thông minh sáng suốt. Tới khi trưởng thành năm vương được cử đi sứ trong nước. Năm vương cùng đi đến nơi chốn cũ ở thôn Thượng Minh, tới chỗ nhà cửa trước kia là còn là nơi gà chó trâu bò nay đã thành làng xóm. Bèn lên lầu mà xem cảnh ngày mai tươi sáng. Ở đó được ba năm các thủ hạ cứ cuối mỗi năm ngày 10 tháng 12 đem một con gà cùng với bánh chưng, trầu cau, rượu ngon, năm cặp đũa trúc làm lễ. Năm vương ở lầu thường thường như vậy. Đến tháng 4 năm Giáp Dần, các vương cùng nhau đi thăm lại nền cũ đất họ Hùng, quay về thấy buồn thảm. Bèn cùng nhau lên núi đi tuần dạo. Đến núi Toàn Dương bỗng thấy có một hang lớn mở ra, mây khói bốc lên. Năm vương đồng thời nhập vào hang không ra nữa. Đó là ngày 15 tháng 5. Do vậy Nguyễn Văn Nhân trở về. Từ ấy lấy làm lệ thường, cứ đúng ngày làm giỗ kỵ, gọi là thánh kỵ. Vào cuối năm thì dâng gà lên lầu như xưa vậy. Ban đầu Chàng Uyên tiếp ngôi, hiệu xưng là Minh Vương. Khi Hán bình định Nam Việt cùng với Việt Tây, Minh Vương thất thủ mà chết. Con trưởng tên là Hùng Tuấn với Vương hậu cùng chết theo. Con trai thứ Hùng Hòa không chịu nhục, cõng thi thể của cha chạy về chôn ở núi Toàn Dương. Sau ba năm chôn cất xong, dẫn con cái đến thôn Thượng Minh cùng với nhân dân bốn họ cùng sống. Nhưng vì tránh tên Minh Vương nên đã đổi thành xã Hạ Mạo, đổi thôn thành xã từ đó. Bởi vậy cho tu sửa lầu đãi tiệc thành miếu thờ năm vương, hàng tháng ngày rằm mồng một đều có lễ dâng. Thường không có quy định lệ tế như thế nào, chỉ có ngày giỗ và ngày cuối năm thì cúng gà. Cho đến triều Lý Thái Ninh năm thứ hai ngày 30 tháng 12, cháu 24 đời họ Lê là Tôn Hưng cùng với các họ Nguyễn Trọng Chính, Đỗ Văn Khả, Lưu Đình Côn, Đặng Ngọc Câu lên miếu làm lễ tiết, bỗng thấy một trận mưa to gió lớn khói đen bốc lên không rõ dài ngắn. Ở trong miếu mùi hương lạ phát ra ngào ngạt, sáng như ban ngày. Tôn Hưng cùng các hương trưởng sợ hãi, không dám quay về, mà sai người giữ miếu làm 5 kiện oản cùng các thức hương, trầu cau để dâng lên ban trên. Đến khoảng quá nửa đêm bỗng trên miếu có ánh sáng thần chiếu rực, bỗng nhiên xuất hiện năm người đều có mũi rồng mắt xếch, mặt đỏ như mặt trời mới mọc, đầu đội mũ ngọc, thân khoác áo bào xanh, người đeo đai đỏ, người đeo đai xanh lam, dàn thàng hàng cao phía Tây ngồi trên ban thượng. Khi ấy các hương trưởng đều cùng phủ phục dưới đất, không dám ngửng lên nhìn. Bỗng nghe thấy lời trên miếu nói: – Chúng ta phụng sắc của Thượng Đế cai quản dân chúng. Phút chốc hóa thành năm con rồng vàng bay lên không biến mất. Mây mưa tùy theo mà nổi lên. Mọi người đều sợ hãi, không biết từ đất nào hiện ra. Khi đó thấy người giữ miếu bước lên cao ngồi mà nói: – Ta cùng năm tướng nhà nuôi là Lê Hùng Hòa, thường đi theo tùy giá các vương. Khi các thiên tướng giáng loạn, tà mà quấy nhiễu nhân dân, Thượng Đế sắc năm vương hàng năm đi khắp thiên hạ, quản thúc trăm thần, để yên dân cư. Vốn các ngươi là con cháu người xưa, ta cố thỉnh giáng lâm. Năm vương đã giáng lâm, đó là nhờ sức ta cố thỉnh, là phúc vạn đời của các ngươi vậy. Từ nay, phải lập chỗ cho năm vị thần vương cẩn thận. Sự việc đầu năm đi thám xét thiên hạ, tất muốn quay lại nơi đây. Há chẳng là việc phúc lành lớn sao? Cuối triều Trần thiên hạ đại loạn, quân Ngô xâm lược, chiếm kinh ký. Chúng biết nước Nam khó cai trị nên những nơi xưa đều phá sạch thành đất bằng. Ở Thăng Long người ta thường chôn vàng đắp đất để làm mộ cổ, nên chúng sai người sở tại đến khai quật, được nhiều vàng. Những nơi cũ và nhân dân đều giết sạch, các mộ phần bị phá sạch. Khi đó những người dân trong xã chạy lưu vong hết, họ Lê tập hợp được 200 người, đem hết các phần mộ tổ tiên đi. Tộc trưởng Phúc Kiến muốn lấy trống rồng của năm vị, gieo quẻ xin 5 lần không được, bèn sắp xếp đưa người trong tộc cùng với các gia phả, sự tích chạy vào trong rừng núi. Khi giặc đến nơi thì hương ấp không còn ai theo phục. Lần đó Thái tổ thua ở chân núi Tiên Du, chạy về phía Tây đến đền thần của bản xã thì trời tối. Chỉ còn có 1 đệ tử đi theo, bèn than lớn rằng: – Trời làm ta vong, ta chạy làm gì. Bèn vào trong đền thần để tạm trú. Thấy một người lạ quần áo thật lớn, theo cửa giữa của miếu ra nghênh đón Thái tổ, theo vào ngồi trên miếu. Người này nhường cho Thái tổ ngồi bàn trên, tự mình ngồi bàn dưới. Thái tổ trong tâm biết là thần vậy. Người này dâng lời rằng: – Trời sinh ra Chân nhân chính vì sinh linh mà trừ giặc tàn bạo. Sao lại tự chịu khuất nhục vậy? Thái tổ nói: – Trẫm đoán là Trời không giúp Trẫm để an dân. Nay khi thiên hạ đại loạn, Trẫm cùng với các tướng tảo trừ loạn, đã tận lực đánh ngoài trăm trận, diệt trừ loài ác để an thiên hạ. Nhưng lại sinh ra Liễu Thăng cường tráng như vậy. Nếu trời định giúp Trẫm, đã sinh ra Trẫm sao lại còn sinh ra Liễu Thăng? Thiên hạ làm sao có thể bình, yên được dân sinh. Nên mới thốt ra lời than thở. Đại vương nói: – Đó là Trời sở dĩ cùng Chân nhân cầu cho Nam Việt, không phải tự tiện mà sinh Liễu Thăng, nên nước Nam chưa được yên ngưng. Thăng là con của thần tiên phong của Thượng Đế, giáng sinh sau, thân dài mười thước, oai trấn vạn người. Người Minh còn phải nhường oai hùng đó. Đó là một chớp cánh phục sinh. Lại xâm lược phương Nam sáu lần, quân hơn trăm vạn, đều là vì tìm diệt Chân nhân. Vua Minh còn chưa yên tâm, vội vã lệnh cho triều đình nhà Minh mà không có ai đối lại được. Một lần đến mà không được không phải do tự tiện, từ đó mà tăng quân. Chúng có 40 vạn tinh binh. Còn Chân nhân chỉ có 500 người, nay bại cũng không phải là lạ. Vua nói: – Như lời Đại vương thì Trời sẽ giúp Trẫm diệt chúng phải không? Đáp rằng: – Tất nhiên. Vua nói: – Có kế gì tốt để làm? Đáp rằng: – Quân của chúng chạy không dừng. Một ngày đi ba bốn dăm. Nay đóng quân ở bờ Nam sông Đà. Đến ngày nọ sẽ qua sông. Đó là khi có thể nhờ vào chỗ hiểm của sông sâu, một trận chiến có thể diệt hết giặc. Xin Chân nhân chớ lo lắng, sau có thể được thỏa chí. Vua nói: – Ta được Trời giúp vậy. Xin Đại vương hãy giúp cho Trẫm. Vương nói: – Vâng vâng. Đại vương bèn cho sứ đến núi Tản Viên truyền thông điệp xin được cùng đồng lòng giúp nước, cho xuất các loại hổ báo, rắn rồng vào trận. Thần núi Tản Viên phát sứ đến hẹn đến ngày 12 trong tháng cùng chiến. Vương đồng ý. Lại cử sứ đến đền Ma Y tướng quân nhờ Ma Y giúp nước. Việc xong, Ma Y tướng quân sai sứ mang một chiếc áo đến cho vua Lê mặc. Đại vương dâng kiếm thần mà nói: – Liễu Thăng cưỡi hai con phượng cao 5-6 trượng. Ở chỗ trú ẩn đó có một cây Đường lệ lớn. Chân nhân tới đó thì lên đứng ở phía đầu cành. Liễu Thăng sẽ không thấy. Khi xe phượng đi qua, Chân nhân hãy chém đầu Liễu Thăng. Thần sẽ dẫn quân cùng với thần núi Tản Viên đánh phía sau. Một trận có thể diệt sạch. Vua Lê lo lắng. Đại vương nói: – Chân nhân chớ lo. Mặc chiếc áo này vào thì không ai nhìn thấy cả. Chém được tướng đó thì quân đó thành không đầu. Thần sẽ cùng đến giúp đánh quyết thắng, không lo. Khi đó các tướng bại trước đó đã động lòng dẫn quân đến hội tập được hơn ba ngàn người. Vua Lê bèn mặc áo Ma Y, cầm kiếm thần đến bờ bắc sông Đà, lên đứng ở trên đầu cây gỗ lớn. Đến quá trưa, quân Ngô vượt sông, bỗng thấy đầu Liễu Thăng rơi xuống đất. Quân giặc đại loạn. Bỗng gió lớn nổi lên ở phía Nam từ núi Tản Viên thổi xuống. Lại thấy rắn lớn hổ mạnh cùng trăm thú trong núi rất nhiều không đếm xuể tiến thẳng tới. Quân Ngô bỏ chạy. Trong một lúc đều rơi xuống sông Đà. Nước sông do thế tắc không chảy được. Quân Lê thấy một tướng lạ mặc áo xanh đốc chiến, giết quân Ngô không còn một tên. Đến khi Vương toàn thắng, thì không thấy vị tướng áo xanh ở đó nữa. Vua trở về Thăng Long lên ngôi Hoàng đế, lập hiệu Thuận Thiên, bèn lệnh cho quận công Trần Hãn dẫn quân đến tu sửa miếu điện, dựng nên ba tầng thượng, trung, hạ điện, đều có ba gian. Tháng 5 thì làm xong, phụng mệnh làm lễ tam sinh đến tạ, ban một đạo sắc cho bản xã thờ phụng. Cứ mỗi năm tháng Giêng phát tiền công làm ca xướng một bữa, lệ thường trong năm như vậy. Do đó về sau ngày 18 tháng Giêng là ngày lệ thờ từ đó. Năm Hồng Đức thứ 4, thiên hạ gặp hạn hán lớn từ tháng 6 đến tháng 8 không có mưa. Triều đình sai sứ đi cầu mưa ở núi Hùng, Tản Viên cùng các đền thờ thần thượng đẳng, tuy có được một chút mưa nhưng không đủ để tưới hết mùa màng. Tháng 8 ngày mồng 2 sai sứ quan đến đền thần ở xã cầu đảo. Bỗng thấy một trận mưa lớn mù mịt như cầu mong, trên từ sông Hạc dưới đến cửa biển Tô Lịch dài ngàn dặm. Lúa ngô tự mọc. Đến mồng 10 sai quan theo lệnh chỉ đến tế ở điện, ca hát một bữa mừng lúa thóc được mùa. Đến mồng 6 tháng 11 sai sứ quan mang lễ vật tam sinh cùng một đạo sắc đến bài trí ở miếu điện tại xã. Đến mồng 10 thì tế tạ cầu mùa được thành, ca hát một bữa. Từ đó bản xã lại có ngày mồng 10 tháng 8 cùng với tháng 11 có ca hát hai lệ phỏng theo đó. Năm Chính Hòa thứ 8, Đình quân công vâng mệnh xây dựng đường thị đi qua nơi miếu, thấy có một cây Kim giao rất lớn, cao 6-7 tầm, mới gọi đến hương trưởng và rằng: – Lầu Kính Thiên của triều đình có một cây cột lớn, hôm trước bị cháy mất. Bộ Công cầu tìm chưa được. Nay đây có một cây có thể dùng được, ta muốn lấy khoảng 10 tiền công phát để các người mua đồ thờ phụng thần, mà triều đình cũng được tiện dùng. Khi đó chánh tổng Lê Đức Sổ đáp rằng: – Xã hèn chúng tôi từ khi có cây gỗ này đến nay qua đã không biết bao đời không dám dùng tới đao búa. Lũ hèn chúng tôi sợ không bán cho Đại quan được. Quận công nói: – Các ngươi không bán thì ta cũng lấy để dùng cho triều đình, không phải để cho riêng ta thì sao lại không thể được. Bèn lệnh cho đồ đệ chặt cây gỗ, nhưng cây gỗ tuyệt nhiên không suy chuyển gì. Quận công sợ hãi, mổ lợn bày việc tế, lại khấn rằng triều đình tha thiết muốn dùng, xin Đại vương đừng từ chối. Bỗng thấy cây gỗ tự ngả xuống. Bèn đem về đến bến kinh thành. Hoàng đế đích thân ra cầu chú rằng: – Đại vương sinh là Thiên tử, mất làm phúc thần. Nay lầu Kính Thiên của Trẫm thiếu một cây cột lớn, cầu tìm không được. Nay Quận công thấy miếu của Đại vương có một cây Kim giao thích hợp. Tuy tự tiện nhưng không thiếu thiện tâm. Xin Đại vương có thể tự hiến để giúp triều đình. Bỗng thấy cây gỗ chuyển động ba lần. Vua sai Quận công gọi một người dẫn tới tòa hồng, nhẹ như lá vậy. Đế lệnh Quận công bố trí lễ lớn tam sinh cùng một đạo sắc đến miếu thần ở bản xã để tế tạ, nói với hương trưởng ngọn ngành như vậy. Tích của xã Hạ Mạo. Vâng sao nguyên bản. Lý trưởng Lê Văn Kính.