2 chuyện cần bàn thêm

Sau bài viết của tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật “Sử Việt, 2 chuyện cần bàn“, xin góp bàn thêm về giai đoạn đặc biệt phức tạp nhưng cũng hết sức hào hùng này trong lịch sử nước Nam người Việt.

1. Chuyện số 1:

Lý Nam Việt Đế là Triệu Vũ Đế, cũng là Cao Tổ Lưu Bang. Tuy nhiên, còn người làm vua Nam Việt tiếp theo Lưu Bang thì cần xem thêm. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, vị này:

– Ngay khi nhà Tần diệt vong đã tự xưng là Nam Việt Vũ Vương.
– Sau đó mấy năm được Lưu Bang cử Lục Giả mang phẫu phù đến sắc phong Vương chính thức.
– Khi Lữ Hậu mất thì xưng Đế, thuần phục Tây Âu và Mân Việt.

Xét theo truyền thuyết Việt, người được Lý Nam Đế trao lại quyền nước Nam, tự xưng Dạ Trạch Vương rồi xưng Hoàng đế phải là Triệu Quang Phục. Theo thần tích Hạ Mạo thì Quang Phục là dòng dõi Hùng Vương, cháu ngoại của Đông Chu Quân, được vua ban cho họ Lê, khởi nghĩa cùng Triệu Vũ Đế và được gả con gái là Triệu Hậu cho. Vì thế Quang Phục khi xưng Đế đã lấy tên triều đại của mình theo Triệu Cao Tổ Lưu Bang.

Đoạn văn tế độ Triệu Vũ Đế ở Đồng Sâm: 

Công tham lưỡng đại,
Uy nhiếp bách Man.
Thuỷ đế khai thất quận chi đồ, Hán hùng tịnh thế,
Mẫu nghi chính lục cung chi biểu, Chu hậu đồng ban. 

Người kế tục Lưu Bang – Lý Bôn ở Nam Việt là Triệu Quang Phục, xưng là Triệu Văn Đế. Đôi búa sắt lưu ở đền Đồng Xâm tương truyền là do nhà Hán, tức do Lưu Bang, đã trao cho Triệu Việt Vương. Phải chăng đây là khi Lưu Bang nhập Quan Trung nhà Tần, để lại binh quyền Nam Việt cho Triệu Việt Vương?

2. Chuyện số 2:

Khu Liên là Triệu Quốc Đạt – Đô Dương, người đã nối tiếp cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng của bà Trưng – bà Triệu cuối thời Đông Hán. Thêm nữa, khi khảo sát các di tích và sự tích về Lý Nam Đế ở nước ta đã phát hiện có 2 vị vua đều được được gọi là Lý Nam Đế. Vị thứ nhất ở vùng Thái Bình, Long Hưng dựng nghiệp là Triệu Vũ Đế – Lưu Bang như đã nêu ở chuyện thứ 1. 

Vị thứ hai ở vùng Sơn Tây (quận Nhật Nam), từ nhỏ nuôi chí lớn ở trong chùa, khởi nghĩa lập ra nước Lâm Ấp. Khu Liên do đó là Lý Nam Đế thứ 2, vị vua đã “thác thủy” Lâm Ấp địa. Sau khi Khu Liên mất, đã giao lại quyền bính cho một người bên họ ngoại là Hữu tướng Phạm Tu, tức Sĩ Nhiếp. Phạm Tu là người có công bình định đất phương Nam – Lâm Ấp (miền Trung bộ), giao cho một người con là Phạm Hùng cai quản. Sĩ Nhiếp Phạm Tu duy trì chế độ tự trị kéo dài 40 năm đối với nhà Đông Hán rồi Đông Ngô.

Còn phần phía Tây Bắc Việt do người anh của Khu Liên là Đào Lang Vương Lý Thiên Bảo cầm quân. Lý Thiên Bảo mất, con là Lý Phật Tử lên thay. Dòng họ Lý ở vùng đất quận Nhật Nam xưa được sử Việt gọi là Nam Triệu (Nam Chiếu). Còn Hoa sử gọi là Tây Nam Man Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch và Sĩ Nhiếp chia đôi nước Lâm Ấp của Khu Liên thành 2 phần Đông Tây, lấy bãi Quân Thần ở Thượng Cát làm ranh giới. Đây cũng là ranh giới 2 quận Giao Chỉ và Nhật Nam từ thời Tây Hán.

Các di tích ở vùng Sơn Tây thờ Lý Nam Đế như ở Giang Xá (Hoài Đức) chính là nơi khởi nghĩa của Lý Khu Liên. Câu chuyện về 2 vị vua Lý Nam Đế này nay đã lẫn lộn vào nhau, nên trong sự tích mỗi nơi đều thấp thoáng chuyện của cả 2 vị ở 2 thời kỳ khác nhau.

Câu đối ở Giang Xá:

Thiên Đức hồng cơ long đỉnh Bắc
Vạn Xuân cung khuyết phượng thành Đông.
 

Tướng Ông trong hội cờ người lễ hội Giang Xá.

Y Sơn linh tích Hùng Ninh Vương

Khu vực Hiệp Hòa, Bắc Giang có di tích thờ một thần tướng đánh giặc Ân là Hùng Linh Công. Cụm di tích thờ Hùng Linh Công nằm quanh núi Y Sơn (Hòa Sơn) tại đây. Theo truyền thuyết và các tài liệu thư tịch cổ thì: vào thời kỳ Hùng Vương thứ 6 có quan trị sự xứ Kinh Bắc tên là Hùng Nhạc dòng dõi Hùng Vương. Ông đã ngoài 60 tuổi, bà ngoài 40 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Nhân ngày đầu xuân, ông bà đi thăm Châu Lạng và vãng cảnh trên dòng sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay), qua vùng núi Ia thì trời sẩm tối. Ông bà đã vào chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) nghỉ trọ lễ phật cầu phúc. Đêm ấy xảy ra thần mộng: “Thiên thần thị ngã ứng hoài thai”.

Sau đó, quan bà Cao Tiên phu nhân mang thai sinh ra một người con trai vào ngày 12 tháng 10 năm Đinh Hợi, đặt tên là Hùng Linh Công. Hùng Linh Công khôi ngô tuấn tú, năm 17 tuổi văn võ song toàn. Đức vua nghe tin đã triệu về Kinh đô để thi kén hiền tài. Hùng Linh Công tỏ ra xuất sắc.

Khi có giặc lang thú, hổ, báo phá hoại dân lành, Đức vua sai Hùng Linh Công cầm quân đi dẹp. Người đã dẹp yên và bắt những con mãnh thú đầu đàn mang về nuôi thuần hóa để sử dụng.

Khi giặc Ân xâm lược nước ta, Đức vua giao cho Hùng Linh Công ba vạn quân và phong chức Nhạc phủ thống lĩnh tướng quân cầm quân dẹp giặc cùng Đức Thánh Gióng. Sau khi đánh tan quân giặc, đất nước thanh bình, Hùng Linh Công trở lại vùng núi Ia, thấy phong cảnh non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình, Người đã đóng bản doanh tại đây và hiển thánh vào ngày mùng 8 tháng 8 Âm lịch.

Hôm ấy đang trời quang mây tạnh, bỗng mây đen kéo đến, mưa gió, sấm chớp nổi lên và có 3 tiếng sét trên đỉnh núi, dân chúng thấy một người mình mặc giáp trụ, tay cầm thanh kim đao cưỡi con hổ đen bay lên trời. Sau đó, Hùng Linh Công biến mất. Tạnh mưa, dân làng lên đỉnh núi thấy cây trầm cổ thụ trên đỉnh núi héo khô, dân làng thấy làm điềm lạ đã mang cây tạc tượng Hùng Linh Công, lập đền phụng thờ để bày tỏ lòng thành kính nhớ ơn.

Sau khi Phụ thân và Mẫu thân Hùng Linh Công từ trần, Đức vua cảm kính trước câu chuyện thần mộng và công lao của Người đối với dân, với nước nên đã cho dân làng thờ hai ông bà Hùng Nhạc tại Hậu đường chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) và phụng thờ Hùng Linh Công tại đền Ia.

Hùng Linh Công là vị tướng đánh giặc Ân có tục lệ thờ lớn và linh thiêng nhất sau Phù Đổng Thiên Vương. Một đoạn trong bộ câu trường đối ở đền Ia (Y Sơn linh từ): “Đương dữ Sóc phong liệt tướng thành sở vị, giang Nam nhất nhân giang Bắc nhất nhân”. Dịch là: “Cùng với núi Sóc các tướng nổi danh rằng: một người ở phía Nam sông, một người phía Bắc sông”

Nhưng nếu Thánh Dóng xuất phát là một đứa trẻ ở làng Phù Đổng thì Hùng Linh Công lại là dòng dõi họ Hùng chính thống, cầm đầu quân đội đánh giặc. Câu đối ở đền Ia:

雄派奇跡垂不朽
和峰遺像凜如生
Hùng phái kỳ tích thùy bất hủ
Hòa phong di tượng lẫm như sinh.
Dịch nghĩa:
Tích lạ dòng Hùng trùm bất hủ
Núi Hòa tượng mãi vẫn như sinh.

Nếu cuộc chiến của Hùng Vương thứ 6 đánh giặc Ân đã được xác định là cuộc chiến lập quốc của nhà Chu thì người con của vua Hùng đã cầm đầu quân đội miền núi đánh giặc Ân phải là Cơ Phát, con của Văn Vương Cơ Xương. Cơ Phát ban đầu có tên là Ninh Vương, rất có thể đây chính là dấu vết lưu lại trong cái tên Linh Công. Đất phong ban đầu của Cơ Phát có thể chính là vùng Bắc Ninh xưa, gọi là Vũ Ninh theo tên của Vũ Vương.

Trong quần thể di tích Y Sơn còn có ngôi chùa Y Sơn Tây tự nơi thờ cha và mẹ của thánh Hùng Linh Công. Trước chùa là đình “Phật tự xuân hội”, nơi diễn ra lễ hội Y Sơn. Trước sân chùa từng có một đôi Long mã, rất giống với đôi Long mã ở trước sân đền Thượng núi Sóc Vệ Linh. Lễ hội Y Sơn còn được biết đến trò diễn “tướng quản” đặc sắc, khi các tướng quản voi ngựa của thánh Hùng Linh Công đến làm lễ trước chùa.

Theo góc nhận định mới, Hùng Linh Công là Ninh Vương Cơ Phát thì cha và mẹ của thánh sẽ là Văn Vương Cơ Xương và bà Thái Tự Chu Hậu. Còn “Phật” ở thời Ân – Chu tất nhiên không phải là Phật Thích Ca, mà là Đạo sĩ Khương Tử Nha, được truyền thuyết Việt kể là Lão Phật giáng thế giúp vua Hùng nước Văn Lang. Trước khi ra trận đánh giặc Ân Vũ Vương Cơ Phát đã làm lễ trước vua cha và mẹ cùng với bái tướng Khương Tử Nha là Thượng phụ.

Cùng với Hùng Linh Công ở Hiệp Hòa còn thờ đức Vua Bà Mã Yên Sơn tại đình Bé dưới chân núi Hòa Sơn. Khi tế lễ Hùng Linh Công đồng thời cũng khấn tên Đức Vua Bà. Nếu Hùng Linh Công là Vũ Ninh Cơ Phát thì Vua Bà Mã Yên Sơn sẽ là bà Nghị Địch, người vợ của Vũ Vương. Bà Nghi Địch được thờ là tổ của nghề nấu rượu ở làng Vân, Việt Yên, cũng cùng đất Bắc Giang. Đây là một dẫn chứng khác cho thấy Vũ Ninh Cơ Phát từng dựng nghiệp ở vùng đất này.

Câu đối trong đền Ia nói về sự hiển hách của Hùng Linh Công:
平石奇功垂罔極
扶丁偉績永猶傳
Bình Thạch kỳ công thùy võng cực
Phù Đinh vĩ tích vĩnh do truyền.
Dịch nghĩa:
Dẹp Thạch kỳ công trùm khắp chốn
Trợ Đinh tích lớn mãi còn truyền.

“Bình Thạch” ở đây nói đến việc Hùng Linh Công đã dẹp được Thạch Linh Thần tướng, là tướng cầm đầu quân đội nhà Ân trong sự tích thời Hùng. Rất bất ngờ là cũng ở khu vực Bắc Giang tại vùng Việt Yên có di tích thờ Thạch Linh Thần tướng thời Hùng Vương. Đền Ia ở núi Y Sơn nằm ở đầu sông Cầu thì đền thờ Thạch Linh Thần tướng nằm ở phía dưới của dòng sông này.

Về các công trạng của Hùng Linh Công, ở đền Ia còn có câu đối:
青隴威加平虎患
月江波湧護龍舟
Thanh lũng uy gia bình hổ hoạn
Nguyệt giang ba dũng hộ long chu.
Dịch nghĩa:
Núi biếc thêm oai dẹp nạn hổ
Sóng dồn sông Nguyệt trợ thuyền rồng.

Ở đền Ia đặc biệt còn có dấu tích một phiến đá lớn với sự tích rằng Vua thủy tề đã cho người đội đá theo dòng sông mang đến đặt phiến đá gần cổng đền làm thành một cây cầu. Dưới gầm cầu bây giờ vẫn còn dấu vết hình đầu người và các đầu ngón tay của người đội đá. Cạnh cây cầu xưa còn có một ngôi miếu nhỏ thờ vị tướng là Quý Minh Đại vương. Phải hiểu dấu tích về phiến đá thần này như thế nào? Tại sao “vua thủy tề” lại phải cho đội đá đến tế thần Nhạc phủ (Hùng Linh Công là Nhạc phủ thống lĩnh tướng quân)?

Quý Minh Đại vương được biết là một vị thủy thần giúp vua Hùng đánh Thục. Trong chuyện này thì Quý Minh Đại vương là tướng bên phía nhà Ân (được gọi là Hùng Duệ Vương) chống lại quân nhà Chu (quân Thục) đến từ miền Tây rừng núi (Nhạc phủ).

Câu đối đền Ia cho phép lý giải hình tượng phiến đá của Vua thủy tề (Thủy thần Quý Minh) này. Vì Hùng Linh Công đã “bình Thạch” Linh Thần tướng của quân đội nhà Ân, nên quân nhà Ân (trong hình tượng thủy thần Quý Minh) đã đội phiến đá (Thạch Linh) ngược dòng sông Cầu (từ Việt Yên) lên đến Y Sơn để quy hàng Hùng Linh Công. Phiến đá của Vua thủy tề do đó cũng tương tự như hình tượng các nữ tướng Ân được đem đến đền làm lễ chém tướng trong lễ hội đền Sóc và đền Phù Đổng.

Như vậy, các di tích ở Bắc Giang, nơi chiến trường xưa giữa quân đội Chu Thục và Ân Thương nay là những nơi đất phong thần thờ tự các vị tướng lĩnh của cả 2 bên trong cuộc chiến khốc liệt phạt Thương lập Chu cách nay trên 3.000 năm. Vũ Vương Cơ Phát được thờ dưới tên Hùng Linh Công ở Hiệp Hòa, bái Lão Phật Khương Tử Nha làm tướng, tế bái cha Văn Vương và mẹ Thái Tự rồi đánh dẹp Thạch Linh Thần tướng ở Việt Yên, hàng phục tướng của nhà Thương là Quý Minh. Giò hoa tre – quả trám – bông lúa trong lễ hội Y Sơn như nhắc lại sự tích về một thời mở thế thái bình của nước Văn Lang xưa.

Tượng đức thánh Hùng Linh Công ở đền Ia
Đình “Phật tự xuân hội” trước chùa Ia
Hậu điện chùa Ia
Thạch Linh Thần tướng ở Việt Yên.
Phiến đá của vua thủy tề Quý Minh trước đền Ia
Hậu cung đình Bé Hòa Sơn
Hoa tre trong lễ hội Y Sơn

Việt Nam Lạc Thị – Những vị Lạc Vương ở Bắc Ninh

Ở khu vực huyện Thuận Thành và Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh ven dòng sông sông Đuống có tín ngưỡng thờ các vị thần từ thời Hùng Vương mang tên là Việt Nam Lạc Thị. Những vị “họ Lạc” thủy tổ nước Việt Nam này là ai?

Thần tích về các vị Lạc Thị ở Bắc Ninh như sau (theo thần phả đình làng Nghi Khúc, Gia Bình):

Xưa Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai, dáng vẻ sinh đẹp, trí dũng kiêm toàn, người người đều nể phục. Năm mươi người con theo cha về biển, chia trị các xứ bờ biển. Năm mươi người con theo mẹ về núi chia trị núi rừng đất đai các xứ. Tôn con trưởng danh hiệu Hùng làm vua. Thứ làm Lang. Truyền 18 đời gọi là Hùng Vương. Tên nước là Văn Lang.
Tổ thờ ở Á Lữ. Tổ đi chu du thiên hạ, kiến xem hình thế. Một lần qua làng, thấy trước có 3 chẽ sông quanh co. Sau có 3 ngọn núi nhấp nhô đẹp đẽ. Sơn thủy hữu tình. Nhân đó dựng hành cung ở bờ sông, đặt tên là Nghi Giang cung. Chợt thấy 3 con rồng, mình dài vài trượng, lưng to mấy vòng. Trên đỉnh đầu có ấn vàng. Trong ấn nổi lên 2 chữ LẠC VƯƠNG. Lối lên ở ngã ba sông. Cá, tôm, rùa, ba ba đi theo. Sóng to gió dữ không thể kể xiết. Sau đó một đi chơi vùng Đại Đoan (nay là Đại Bái – Đoan Bái sông), một đi chơi sông Nghi Tuyền (nay là Nghi An sông), một đi chơi sông Bình An (nay là Bình Ngô – Yên Ngô sông).
Khoảnh chốc trở lại chỗ rồng nổi lên, vua thấy khác lạ, bèn ghi mật chúc rằng: “Đây là nơi rồng ẩn”. Về sau đời đời xa cách, vật đổi sao rời. Chỗ đó chỉ còn nền cung , tre lá, cây cỏ mọc lên thành bụi, rất lấy làm lạ. Sau hơn một trăm năm ở nơi sông này có một ngày mưa gió rất lớn, nghe như biển động chừng 1 canh giờ. Mây mưa chợt tạnh. Nhân dân nhìn thấy nền cung cũ gần nửa biến thành một đầm nước lớn, sâu bao nhiêu chẳng biết mà đo. Tục gọi là “Vực Thiêng”.
Dân bèn dựng miếu thờ. Gặp năm tai hạn, dân đốt hương khẩn cầu: Hoạn này hãy qua, yên tạnh như có nắng hạn được mưa, mùa màng tươi tốt. Nhân dân địa phương cảm kích vui mừng, nhân đó dựng đền thờ ở nơi cũ. Thờ cúng hàng năm.
Thủy thần ba vị tên chữ gọi là:
– Việt Nam Lạc Thị Đệ nhất Đại vương
– Việt Nam Lạc Thị Đệ nhị Đại vương
– Việt Nam Lạc Thị Đệ tam Đại vương.
Trải qua được các triều đại vua ban tặng. Hàng năm cứ đến tháng Hai ngày mùng 4, làng vào đám nhập tịch. Già trẻ nghi lễ khênh rước đến đền thờ, mật xin thần hiệu, múc một bình nước rước về đình (tên đình là đình Phúc Lộc), làm lễ cầu phúc. Năm nào bình nước thơm mát thì được mùa – bình yên tươi tốt. Nước chua thiu – gặp tai. Nước nhạt đục – ấy hạn. Rất có linh ứng. Thường ngày tùy theo dân đến cầu mong điềm lành, điều tốt.
Đến năm Cảnh Hưng dân địa phương có nạn binh lửa. Vật quý cũ sắc tặng phong các đạo bị thất lạc. Sau này lại được khâm mông làm:
– Tôn thần Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Khai sơ Sáng thủy Khải minh Thùy hiến Uông nhuận Dực bảo Trung hưng Đại Vương.
– Hương Mát Hùng tài Đại lược Anh nghị Quả đoán Linh thông Hiển ứng Anh uy Hùng lược Đặc đạt Đại Vương.
– Quý Lang Diên hựu Đốc hỗ Tích chỉ Phong công Khải thánh Tập cái Từ tường Đoan chính Tập phúc Chiêu tường Đại Vương
.

Đây là khu vực duy nhất có tư liệu nói về Lạc Vương (3 con rồng trên đầu có ấn có chữ Lạc Vương). Tên “triển khai” đầy đủ của Lạc Vương ở đây là Việt Nam Lạc Thị Đại vương. Việt là chỉ tộc Việt, đất Việt. Nam là đất phương Nam, khởi dựng từ Kinh Dương Vương thụ mệnh vua cha làm vua phương Nam. Lạc Thị là họ Lạc, ở đây là Lạc chứ không phải họ Hùng. Lạc Thị là một giai đoạn của thời đại Hùng Vương.

Có 3 vị Lạc Thị là 3 vị thủy tổ của Việt – Nam mang họ Lạc. Các đền đình thờ Lạc Thị ở Bắc Ninh nay thường chuyển thành thờ các vị thủy tổ người Việt, mà cụ thể một số nơi theo tư liệu sắc phong và thần tích cho biết trước đây thờ thần Việt Nam Lạc Thị thì:

  • Đền Á Lữ, Thuận Thành nổi tiếng được biết đến vì là nơi có lăng Kinh Dương Vương. Ngoài Kinh Dương Vương ở Á Lữ còn thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ và vua Hùng Quốc Vương.
  • Đình làng Đại Bái (Bưởi Nồi), Gia Bình nay được ghi là thờ Lạc Long Quân.
  • Đền làng Bình Ngô, Thuận Thành nổi tiếng với cuốn Hùng Vương ngọc phả, tức là thờ chính là Hùng Vương.
  • Đình làng Đoan Bái (Bưởi Đoan), cùng cụm di tích 4 làng Bưởi với làng Đại Bái, nay trở thành một nơi thờ đủ các vị thủy tổ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Quốc Vương.
  • Đình làng Ngọc Xuyên (Bưởi Xuyên) thờ thần Bách Noãn.

Như vậy tục thờ Việt Nam Lạc Thị là thờ các vị vua khai sáng “Việt Nam” và Bách Việt (Bách Noãn), lần lượt có thể xác định là:

  • Việt Nam Lạc Thị Đệ nhấtKinh Dương Vương như ở đền Á Lữ.
  • Việt Nam Lạc Thị Đệ nhịLạc Long Quân như ở đình Đại Bái.
  • Việt Nam Lạc Thị Đệ tamHùng Quốc Vương như ở đền Bình Ngô.

3 vị khai sáng tổ của dòng Lạc theo cha xuống biển đã hiển hóa thành 3 con rồng với dấu ấn Lạc Vương tại vùng ven sông Thiên Đức, lưu truyền thành tín ngưỡng thờ Lạc Thị. Sự tích này cũng cho phép giải thích vì sao chữ Lạc 貉 lại viết dùng bộ Trãi. Bộ Trãi 豸 biểu thị loài bò sát không chân, rất có thể gắn với hình tượng những con rồng Lạc trên dòng sông Đuống này.

“Vực Thiêng” ở làng Nghi Khúc (Bưởi Cuốc) vốn là hành cung Nghi Giang thời Lạc Thị, là chốn cực kỳ linh thiêng của nước ta, giống như khu vực “Giếng Việt” của thời sau vậy. Khu vực ven sông Đuống có lẽ chính là nơi xuất phát của truyền thuyết sinh trăm trứng (Bách Noãn) trong huyền sử Hùng Vương.

Sau thời kỳ Sơn triều với Tam vị Hùng Vương Thánh Tổ ở vùng núi Phong Châu, giai đoạn Lạc triều từ Kinh Dương Vương truyền qua Lạc Long Quân rồi các đời Hùng Vương được truyền thuyết hóa bằng con số 18 đời ở vùng đồng bằng ven sông biển.

Câu đối ở đình làng Đại Mão, Gia Bình, nơi thờ Tam vị Lạc Thị:

Thiên đãng thánh thần khai Bách Việt
Địa xưng văn hiến ngưỡng tam linh.

Các di tích thờ Việt Nam Lạc Thị ở Bắc Ninh.
Sắc phong cho Kinh Dương Vương miếu ở Á Lữ, Thuận Thành: Khai sơ Sáng thủy Khởi minh Thùy hiến Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Trung đẳng thần.
Ngai vị ba vị Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Nghi Khúc, Gia Bình.
Bia sự tích Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Đại Mão, Thuận Thành.
Tượng đồng Lạc Long Quân và Âu Cơ ở đình làng Đoan Bái, Gia Bình.
Nghi môn đền Bình Ngô, Thuận Thành.

Đi suốt thời đại Hùng Vương

Nhận thức về thời đại Hùng Vương là một quá trình rất dài, rất khó mà nếu không có tâm, không có sức thì khó có thể nhận ra được chân tướng dù là ở những chi tiết nhỏ nhất. Sẽ là quá đơn giản, nếu không nói là thô thiển và ấu trĩ, khi cho rằng 18 đời Hùng Vương chỉ là sự việc trong chốc lát vài trăm năm, rằng vua Hùng nào cũng giống như vua Hùng nào, không đội lông chim thì chắc cũng phải đóng khố… Sự thực 18 triều đại Hùng Vương của người Việt đã trải qua gần 3.000 năm lịch sử, phát triển từ thấp đến cao, từ thời kỳ đồ đá qua đồ đồng tới đồ sắt, từ khi con người mới đang ăn lông ở lỗ cho tới thời kỳ thiên hạ hàng triệu dân thống nhất trên vùng trời Đông. Xã hội thời Hùng Vương trong quá khứ người Việt đã bước từng bước qua 4 nấc thang phát triển Hồng – Lạc – Âu – Triệu ứng với 4 danh xưng thủ lĩnh thiên hạ là Tổ – Phụ – Vương – Đế.

Thời đại Hùng Vương bắt đầu từ khi núi sông Bách Việt có Tổ. Hoàng Đế Hữu Hùng Đế Minh 5.000 năm trước mở nước họ Hồng Bàng, thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ, là ngọn núi Thái Sơn đột ngột vươn lên từ trong bóng đêm thủa hồng hoang chập chững của con người Việt. Tam vị Hùng Vương Sơn nối nhau kế trị, đạo thánh thần minh, vạn đời tín ngưỡng là những vị Thánh Tổ ngự ở đền Hùng trên núi Hy Cương. Sơn triều Hùng Vương Thánh Tổ được nối tiếp bởi Tản Viên Sơn, vị Kinh Dương Vương sơ khai Nam Việt, Nam Thiên Thánh Tổ, gậy thần sách ước lập nên thiên hạ nước Xích Quỷ, đóng đô miền Ngũ Lĩnh – Ba Vì, vượt lên thiên tai địch họa, mở mang bách nghệ, đặt nền móng vạn thế thịnh vượng cho nhân dân Việt.

Bước ngoặt của xã hội Việt 4.000 năm trước được đánh dấu bằng Vua cha Lạc Long Quân, xuất thế Rồng bay biển Bát, theo bờ biển thoái mà khai mở vùng Động Đình ven sông biển, dùng cày cấy và đánh cá mà tạo sự tự chủ cho cuộc sống của con người đối với thiên nhiên. Xã hội Việt bắt đầu thời kỳ thị tộc Phụ đạo, cha truyền con nối. Lịch sử ghi rằng Lạc triều truyền 18 đời, mở đất theo hướng Đông Nam xa vạn dặm. Hai triều đại Hạ Thương – họ Việt Thường mang dấu ấn thời theo cha Lạc Long xuống biển, kéo dài ngàn năm, cho tới thời Hùng Duệ Vương thì biên giới phía Nam (Bắc nay) đã vượt qua Dương Tử sang đến Hoàng Hà.

Song song với dòng theo Cha Rồng xuống biển Đông, dòng dõi trăm trứng theo Mẹ Tiên lên núi cũng làm nên kỳ tích, vượt dải núi Ai Lao ở Vân Nam, tiến đến Ba Thục ở Quý Châu, làm chủ toàn bộ miền Tây thiên hạ. Tới thời Lạc Vương đời cuối là Hùng Duệ Vương vào hơn 3.000 năm trước, Thục chủ Âu Cơ, theo điềm Phượng gáy non Kỳ, lấy văn đức làm gốc rễ, thụ nhận thiên mệnh, nắm được triết lý nhân sinh mà tác Dịch, tượng trưng trong bánh chưng bánh dày, thay thế Lạc Vương mà dựng nước Âu Lạc, lên ngôi là Thiên tử của toàn Thiên hạ. Chu Vương – Lang Liêu của nước Văn Lang đã phân phong trăm chư hầu, lập ra trăm quan, đặt ra trăm họ, phong cho trăm thần. Thục triều đã tạo dựng nên đất đai và các dòng tộc Bách Việt, hình thành nếp gấp về văn hóa và các vùng lãnh thổ lâu dài cho mãi tới ngày nay.

Thiên hạ với thập nhị hành khiển.

Trăm dòng Bách Việt có lúc thịnh lúc suy, trải qua thời Xuân Thu, Chiến Quốc hợp lại dần thành những Ngũ Bá, Thất Hùng. Để đến thế kỷ III trước Công nguyên, Triệu Đà diệt An Dương Vương, chiếm lục quốc, rồi xưng Hoàng Đế, thống nhất Trung Hoa, phân chia quận huyện mà trị. Nhà Tần Triệu duy trì không được lâu, nhưng chế độ nhất thống Trung Hoa đã là xu thế không thể đảo ngược. Triệu Vũ Đế Lưu Bang từ một thường dân áo vải tranh hùng với Hạng Sở rồi một lần nữa gồm thâu Trung Quốc, khai cơ Vạn Xuân. Phương Nam được phong cho hậu duệ nhà Chu là Nam Việt Vương Triệu Quang Phục cai quản. Cao Tổ và Lữ Hậu mất, Triệu Quang Phục tự xưng Đế, đi xe hoàng ốc, cắm cờ tả đạo, phân đôi Thiên hạ cùng nhà Hiếu. Nền văn hóa đồ đồng Đông Sơn phát triển cực thịnh dưới thời quốc gia Nam Việt. Tới thời Hiếu Vũ Đế có hùng tài đại lược, chiếm lại đất phương Nam, đuổi Triệu Việt Vương cùng đường nơi cửa khẩu Đại Nha. Trung Hoa nhất thống tập quyền về một mối, đánh dấu giai đoạn phát triển xã hội cao nhất trong thời đại Hùng Vương.

Lịch sử chân thực của thời đại Hùng Vương khẳng định dòng giống con Rồng cháu Tiên của người Việt và khắc ghi công ơn tiên tổ đã làm nên nền văn minh thuộc vào hàng sớm nhất trên thế giới, với phạm vi bao trùm khắp trời Đông. Nguồn cội và công ơn này mãi còn trong tâm thức người Việt.

Câu đối ở nghi môn đền Thượng trên núi Hùng Nghĩa Lĩnh:

Thông thông uất uất, trung hữu lăng yên tẩm yên, Long phụ Tiên mẫu chi tinh linh, khởi hựu hậu nhân võng khuyết

Cổ cổ kim kim, kiến thử sơn dã thủy dã, Thánh tổ Thần tôn chi sáng tạo, ô hô tiền nhân bất vong.

Dịch nghĩa:

Xanh xanh tốt tốt, trong có này lăng này tẩm, là tinh linh của Cha Rồng Mẹ Tiên, đó giúp đời sau không thiếu

Xưa xưa nay nay, thấy đây kìa sông kìa núi, là sáng tạo bởi Tôn Thần Tổ Thánh, hỡi ôi người trước mãi còn!

Rồng trong tâm thức hướng biển của người Việt cổ

Truyền thuyết khởi nguồn Họ Hồng Bàng kể 50 người con theo cha Rồng Lạc Long Quân đi về phía Đông xuống biển là các Thủy thượng Linh thần. 50 người con theo mẹ Tiên Âu Cơ lên vùng miền núi phía Tây là các Sơn thần. Như thế rồng là hình tượng đã đi vào trong văn hóa Việt ngay từ buổi đầu dựng nước với tâm thức hướng ra khai phá miền biển Đông.

1. Ca dao xưa:

Mồng bốn cá đi ăn thề

Mồng tám cá về cá vượt Vũ Môn.

Truyền thuyết Việt về Rồng đầu tiên là trong điển tích cá vượt Vũ Môn hóa rồng. Đây là sự tích kể về thời vua Kinh Dương Vương khởi dựng nước Nam. Kinh Dương Vương cũng là Tản Viên Sơn Thánh, người đã chống lại nước lũ ngập ngang trời thời Đường Nghiêu. Vũ Môn nơi Tản Viên Kinh Dương Vương trị  thủy là dải Thác Bờ gập ghềnh hiểm trở trên dòng sông Đà. Hình ảnh cá hóa rồng còn lưu lại ở nhiều đền thờ Tản Viên Sơn Thánh quanh vùng Ngũ Lĩnh núi  Ba Vì. Cá vượt Vũ Môn là một lời thề, là tấm gương nghìn đời của bậc tiền nhân thời lập quốc, đã tìm tòi tri thức về thế giới quan và nhân sinh quan mà nỗ lực vượt qua thiên tai, xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân, đưa xã hội người Việt ở thủa hồng hoang phát triển lên một nấc thang mới.

Người đã kết duyên cùng với Kinh Dương Vương sau cuộc gặp gỡ bên bờ Động Đình là Thần Long Nữ. Tản Viên Kinh Dương Vương  đã cứu được con rắn, con của Long vương Động Đình, rồi đi xuống Thủy cung mà lấy được cuốn sách ước. Mẫu Thần Long đại diện cho tộc người sinh sống ở vùng sông biển ở phía Đông, xưa được gọi là hồ Động Đình. Câu chuyện Mẫu Thoải (Mẫu Thủy phủ) còn được kể trong truyền thuyết về thư sinh Liễu Nghị, đã xuống Thủy cung truyền thư báo tin mà cứu được Xích Lân Long Nữ. Liễu Nghị như thế là một cách kể khác của Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Thoải và Liễu Nghị được thờ như các vị thủy thần có khả năng ngăn mưa chống lụt ở chùa Ông (chùa Sộp) và chùa Bà (chùa Dựa) tại Thanh Miện, Hải Dương.

2. Kinh Dương Vương lấy mẫu Thần Long sinh ra Lạc Long Quân nên Lạc Long Quân thừa hưởng vị trí quân chủ của cả dòng Lạc bên cha và dòng Long bên mẹ. Lạc Long Quân đứng đầu các tộc người vùng sông biển nên khi hóa sinh về biển được tôn là Vua cha Bát Hải Động Đình, là vị vua chủ của Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Rồng đã trở thành biểu tượng vật tổ của người Việt vào thời khai phá miền Thủy phủ Động Đình.

Tín ngưỡng thờ những vị thủy thần Long Vương rất phổ biến ở vùng đồng bằng sông Hồng ven biển, trải dài qua Thanh Hóa, Nghệ An, vào tới tận Hà Tĩnh. Ở khu vực ven biển huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh có một loạt các di tích thờ Tam Lang Long Vương như Miếu Ao Thạch Trị, đình Đại Hải… Đặc biệt nhất là đình Thạch Lặc nằm ngay trên di chỉ khảo cổ tiền sử cồn sò, nơi đã phát hiện được di cốt người Việt cổ với niên đại 4000 – 5000 năm trước. Đây là bằng chứng rất rõ ràng rằng các vị Long Vương là những quân chủ vùng ven sông biển, lấy nghề đánh bắt thủy hải sản mà sinh sống từ thời kỳ dựng nước trên 4000 năm trước.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết những người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển được gọi là các Thủy thượng Linh thần. Chữ Linh có phát âm khác là Lung, cũng là Long, chỉ rồng. Linh Lang tức là Long Vương. Vị thần hồ Tây Uy Linh Lang do đó chính là vua cha Lạc Long Quân của thời sơ sử. Hồ Dâm Đàm là đầm rồng của Thủy quốc Động Đình, nơi Long Quân cùng với những người anh em trấn trị tại đó. Sự tích này còn ghi trong Lĩnh Nam chích quái về việc Long Quân cùng Lục bộ Thủy phủ dâng nước diệt con cáo chín đuôi ở Hồ Tây. Long Quân còn là thần chính khí Long Đỗ, vị thành hoàng của kinh thành Thăng Long xưa.

3. Hình tượng rồng đã xuất hiện từ rất sớm trên những di vật khảo cổ đồ đồng thời Ân Thương (trên 3000 năm trước). Thường gặp nhất là hình rồng 1 chân, gọi là quỳ long, rất phổ biến trên các đồ đồng từ thời kỳ này. Truyền thuyết Long sinh cửu tử với 9 đứa con của rồng là 9 cách thể hiện hình tượng rồng trên các đồ dùng với những chức năng khác nhau. Ví dụ như hình mặt thú Thao thiết thường gặp trên các đỉnh đồng xưa. Hình Tiêu đồ với mặt rồng ngậm vòng, thường dùng trên các bình đồng làm quai cầm hay tay nắm cửa. Nhai tí là tên gọi cho hình rồng đúc trên chuôi các loại vũ khí như giáo, dao găm… Công phúc là loại rồng dẫn thủy, gặp trên các ấm đồng có vòi rót dài hình rồng… Rồng đã biến hóa vào mọi mặt của đời sống người Việt cổ.

Trong văn hóa tín ngưỡng, các vị Long Vương còn gặp ở một dạng thể hiện khác. Ở Nhật Tân có sự tích bà phi của vua Diệu Đế sinh ra một bọc, đem để ở bãi Nhật Chiệu, rồi nở thành 7 con rồng bay lên trời. 7 con rồng này là thần Uy Linh Lang và Đoài hồ thất giáp (7 giáp của hồ Tây). Tại bãi này người ta trồng 7 cây hoa gạo (mộc miên) để tưởng nhớ đến các vị thần rồng. Ngày sinh của Uy Linh Lang và những người anh em cùng bọc của mình là vào 10 tháng 2 Âm lịch. Đây cũng là lúc hoa gạo vào mùa nở đỏ rực ở bên bờ sông Hồng. Những cây hoa gạo nở hoa đỏ tháng 2 là hình ảnh rất sống, rất thực của Rồng bay lên trên đất Thăng Long.

Ở Long Hưng điện tại xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên có sự tích vua Triệu Đà đi qua nơi đây, thấy rồng bay lên nên đã đặt tên là Thăng Long. Tên gọi Thăng Long của vùng Long Biên – Hà Nội như thế có từ thế kỷ 3 trước Công nguyên. Thăng Long là hình ảnh “Phi long tại thiên” của hào từ thứ năm trong quẻ Càn của Kinh Dịch. Đây là hào từ chỉ sự thăng hoa cao nhất của người quân tử. Rồng bay lên tức là trạng thái thành đạt, khi vua lên ngôi Hoàng đế, lập nên một triều đại.

Gắn với vua Triệu Vũ Đế còn có là di vật cổ là tượng một con Rồng đá lớn, cao bằng người, ở trên núi Châu Sơn (nay thuộc Quế Võ, Bắc Ninh). Con rồng đá này được tạo hình có mỏ chim, có cánh như thể hiện sự kết hợp giữa rồng và phượng. Con Rồng đá núi Châu Sơn là linh vật của ở đền thờ Triệu Vũ Đế có từ thời Hán. Nó là di vật chứng minh cho sự kiện Triệu Đà khởi nghĩa kháng Tần, lập căn cứ ở vùng núi này.

4. Ở một hướng phát triển khác, trong dòng tộc người Việt theo mẹ Âu Cơ lên núi, rồng được thể hiện khá nhiều trên các đồ đồng văn hóa Đông Sơn. Những hình rồng ở đây được gọi là Giao long. Hình Giao long thường gặp thành từng cặp ở trên các lưỡi rìu, lưỡi giáo, trống đồng, đồ trang sức… của văn hóa Đông Sơn. Ở đây Giao long được thể hiện như một loài thú có 4 chân, đuôi như có lông, trải dài hoặc cuộn, có mõm dài, có mào. Tiền thân của hình tượng Giao long có thể là loài cá sấu (hay thuồng luồng), vốn là loài bò sát lớn sinh sống phổ biến ở các vùng sông nước miền Bắc nước ta vào thời trước Công nguyên. Sự xuất hiện của hình tượng rồng Lạc (giao long) này cùng với hình chim Âu trên các đồ đồng Đông Sơn chỉ rõ sự hợp nhất hai dòng Âu – Lạc, lên núi xuống biển vào thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên.

Liên quan đến hình tượng Rồng lịch sử còn ghi vua Triệu Việt Vương khi ẩn trong đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) đã được một vị thủy thần là Quý Minh Đại vương, cưỡi rồng vàng hạ xuống, tháo móng rồng trao cho để làm thành bảo bối mũ đâu mâu. Oai lực của đâu mâu móng rồng chỉ vào đâu là giặc ở đó tất tan. Những nơi thờ Triệu Việt Vương ở vùng đầm Dạ Trạch luôn thờ cùng với các vị thủy thần tại đây như Quý Minh Đại vương hay Linh Lang Đại vương. Những ngôi đình, ngôi đền cổ thờ các vị thần này được thể hiện bằng những bức chạm rồng thành hàng bầy, vô cùng sinh động. Phải chăng đó là trạng thái “Quần long vô thủ” như hào từ thứ 6 của quẻ Càn trong Kinh Dịch nói tới, chỉ sự thái bình thịnh vượng?

Hiện vật khảo cổ tiêu biểu thường gặp sau thời kỳ nước Âu Lạc là các gương đồng. Những chiếc gương thời Hán được chôn theo người chết với ý nghĩa dẫn đường cho vong linh về với tiên giới, về với tổ tiên. Trên các gương đồng thời Hán, rồng được thể hiện là Thanh Long, một trong bốn loài linh thú (tứ linh). Chữ viết trên gương đồng ghi: Rồng trái, hổ phải trừ đi điều xấu. Con rồng trên gương đồng như thế là biểu tượng của sự cát tường, may mắn. Cùng thời kỳ này còn hay gặp hình ảnh các vị chân nhân cưỡi rồng bay trên mây. Đây là thể hiện sự đắc đạo phi thăng thành Tiên. Hình tượng cùng chủ đề này gặp ở trên mảng chạm tại đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội), khắc họa những vị tiên có thân rồng. Chủ đề rồng thời kỳ đầu Công nguyên gắn liền với quan niệm tu tiên của Đạo giáo.

Từ khi Kinh Dương Vương trị thủy, vượt Vũ Môn hóa rồng, mẫu Thần Long và vua cha Lạc Long Quân dẫn con dân người Việt chinh phục miền sông nước ven biển Đông, hình tượng rồng đã đi vào tâm thức tín ngưỡng của người Việt, là biểu trưng cho nhiều mặt của đời sống như ăn, uống, làm nông nghiệp, thủy lợi, chiến đấu bảo vệ quê hương. Rồng bay lên trên đất Thăng Long là khi người Việt đạt đến chế độ phát triển tổ chức xã hội cao nhất, Triệu Vũ Hoàng Đế nhất thống sơn hà, hải nội. Những vị chân nhân đắc đạo cưỡi rồng phi thăng bất tử thành tiên. Con rồng biểu tượng vừa cho sự chinh phục miền sông nước biển Đông thời lập quốc, vừa là sự thăng hoa tinh thần của xã hội người Việt khi thiên hạ thống nhất một dải.

Bài viết đăng trên Tạp chí Năng lượng mới số Tết năm Giáp Thìn 2024.

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nhuế Đông, xã Lang Tài, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương
Chi Khảm, bộ Thượng đẳng
Chính bản bộ Lễ quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ mở vận ứng đồ hơn hai ngàn năm Hùng Vương dựng nước núi xanh vạn dặm lập nền đô thành cung điện, nước biếc một dòng mở đạo đế thánh vua sáng, mà cứu vật giúp người, cai quản 15 bộ, gọi là tổ ban đầu của Bách Việt vậy. Về sau họ Hùng có trăm thần sông núi thường hay xuất hiện, biến hóa thần kỳ, âm phù giúp nước giúp dân. Có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hoả ức niên phương.

Dịch nghĩa:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn năm đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.

Lại nói, cơ đồ họ Hùng tương truyền được 18 đời đến khi mạt tạo, ý trời muốn dứt, trải qua các triều đại Tây Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần mở mang cơ đồ, giữ quốc thống bền lâu vậy.
Xưa ở đất Việt có Trưng nữ vương. Vương họ Trưng tên Trắc, người huyện Mê Linh, Phong Châu, là con gái của Lạc tướng, lấy chồng là Thi Sách. Khi ấy có giặc Hán Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương, không người cứu giúp. Khi đó người cháu gái Hùng Vương tên là Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, là thánh thần trên đời, nổi oai hùng cất quân đến đánh. Đang khi ấy không có bậc nam nhi nào có đủ tài thao lược. Vương vì trả thù cho chồng mà cùng với em gái khởi binh. Nữ tướng dẫn quân, thần linh phát động. Thế rồi Trưng nữ bèn cầu đảo Tản Viên Sơn Thánh, lại lập đàn cầu đảo bách thần ở cửa sông Hát Môn (nay thuộc xứ Sơn Tây). Bèn chúc rằng:

  • Trời sinh con người là tông chủ của vạn vật trong đất trời, sinh linh có dòng dõi, cỏ cây có tương quan. Trải các đời đế vương trước đây là những bậc thiên tử thánh minh, triều đình có đạo yêu dân vì nước. Đức hóa chuyên năng. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có kẻ tộc ngoài là tên Tô Định, như loài dê chó quấy phá, lộng hành điên cuồng, bạo ngược nhân dân. Trời đất thần người đều căm phẫn. Thiếp hiềm chỉ là cháu của Hùng Vương trước đây, là một nữ nhân, nghĩ đến sinh linh, hoàng thiên rơi lệ. Ngày hôm nay đau lòng thương cảm mà trượng nghĩa trừ tàn bạo. Xin trăm vị chư tôn hội đàn chứng giám, giúp thêm sức cho Trưng nữ thiếp dẫn quân dẹp giặc, giữ nước cứu dân. Để thiếp khôi phục được cơ nghiệp trước đây của tổ tông, để các sinh linh được hưởng miếng cơm manh áo, đưa sinh linh khỏi chốn nước lửa, mà không phụ lòng của tiền nhân, thỏa sự linh thiêng đền miếu tiên hoàng, an ủi tổ phụ dưới nơi chín suối.

Chúc xong thấy xuất hiện ngàn hàng vạn đội âm binh. Ngay hôm đó Trưng nữ bèn truyền hịch đến các đạo, châu, huyện nước Nam, ai người có tài văn võ, anh hùng, có thể chống giặc thì ngay lập tức chiêu mộ tráng binh dẫn đến để chọn lựa người có kỳ tài mà phong chức vụ.
Hôm đó các đạo nghe thấy chiếu của Trưng nữ bèn đem các quân trong làng xóm dẫn đến ứng tuyển. Trưng nữ bèn phong những người có tài làm đại tướng. Còn binh sĩ xếp thành các đội. Ngày hôm đó Trưng nữ giao cho tướng lãnh quân đi trước dẹp đường. Còn mình thì dẫn quân đi sau ứng trợ.
Ngày hôm đó Trưng nữ sai các tướng đem quân tuần phòng các đường, dẫn quân xuất binh đường đường mà đi. Ngay hôm ấy Trưng nữ dẫn hai ngàn quân đi đánh với giặc Hán. Một buổi tiến đến đạo Kinh Bắc (xưa gọi là Vũ Ninh), phủ Thuận An (sau đổi là Thuận Thành), huyện Lương Tài (xưa là Thiện Tài). Trời đã về chiều, gặp quân Hán nên đóng quân thủy ở gần sông Thiên Đức. Trưng nữ bèn trú quân ở khu đất đầu trang Nhuế Đông, nơi có miếu thờ. Đến tối Trưng nữ bèn vào cầu đảo trong đền thần mong được âm phù dẹp giặc. Tối hôm đó tới giữa canh ba Trưng nữ bỗng nhiên nằm mộng thấy một bà lão tuổi khoảng 40, có phong tư yểu điệu, nhan sắc phi thường, mặt phượng mày ngài, má hồng môi phấn, vạn điểm như sóng thu, mười phần là sắc xuân, theo con đường trước miếu mà đến, tự xưng rằng:

  • Ta vốn là Hoàng Thái hậu triều Tống, tên là Càn Hải phu nhân. Do khi nhà Tống suy vong, giặc Nguyên xâm chiếm nên mẹ con ta ba vị hồng nương cùng xuống thuyền rồng lánh nạn ở ngoài hải đảo, vượt qua sông núi đên nơi cửa biển Am thì gặp sóng gió mà cùng hóa vậy (ngày hóa là 15 tháng 5). Thiên đình cảm động ban chiếu cho các trang khu, phường trại ở cạnh sông góc biển lập miếu mà thờ cúng để đề cao tích thiêng của phu nhân. Nay thấy nữ tướng dẫn quân dẹp giặc Hán đến trú quân và cầu đảo được âm phù nên ta xuất hiện, xin được theo quân đội dẹp giặc lập công.

Bà lão dứt lời thì biến mất (ngày thần hiện là mùng 9 tháng 2). Trong phút chốc Trưng nữ tỉnh lại, biết là linh thần xuất hiện giúp nước giúp dân. Rạng ngày Trưng nữ gọi nhân dân và phụ lão ở trang khu Nhuế Đông đến hỏi rõ việc này:

  • Ta muốn hỏi có phải hai khu trang ấp các người phụng thờ một vị Tống Hoàng Thái hậu, rất là linh hiển phải không?

Khi ấy nhân dân phụ lão trang khu Nhuế Đông đều sợ hãi mà làm lễ mừng, tâu rằng:

  • Đúng là trang khu chúng thần theo như trước đây khi mới lập trang khu có xin lĩnh lô hương ở cửa biển Am mang về dân lập miếu mà thờ cúng, thật sự rất linh nghiệm.

Trưng nữ nghe vậy bèn ban cho nhân dân phụ lão một nén vàng tím để tu sửa miếu điện, đợi khi yên bình sẽ gia phong Thượng đẳng thần. Hôm ấy Trưng nữ vương bèn dẫn quân về phía Tây, hội quân cùng các tướng. Tướng nam dẫn quân nam. Tướng nữ dẫn quân nữ, cùng với em là Nhị cùng các tướng chia thành các đạo tiến thẳng đến đồn Tô Định đánh một trận đại phá, bắt được Tô Định ở xứ Lãng Bạc mà chém đi. Quân Hán thua to, chém được chính tướng và tì tướng cùng binh sĩ vài ngàn đầu, thu được khí giới. Xây dựng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục toàn bộ đất đai nước Nam.
Hôm ấy các tướng đón Trưng nữ khải hoàn, lên ngôi xưng là Trưng nữ vương. Bèn mở tiệc mừng lớn, phong thêm cho các tướng sĩ cấp bậc tương ứng. Vương bèn nói với quần thần các tướng rằng:

  • Giặc Hán dẹp yên được cũng là do có thần âm phù trợ giúp.

Bèn sai sứ sắc phong cho bách thần các mỹ tự. Sắc phong thần hiệu nguyên tên phong là Đại Càn Nam Hải linh ứng tôn thần. Tặng phong là Nga hằng Uyển mị Chí đức Đoan trang Hoàng Thái hậu Thượng đẳng thần.
Từ đó về sau có nhiều sự linh ứng nên có nhiều các đời đế vương thường đều có phong thêm mỹ tự, cho phép cửa biển Am là nơi hộ nhi. Thường nước cầu dân khấn, anh linh không phai. Sắc vâng ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Đến thời Trần Anh Tông đi chơi ở núi Yên Tử, đến cửa biển thì gặp nạn sóng gió, mà được một vị tôn thần cứu thoát. Đến ngày về Đế bèn phong thêm mỹ tự là Huệ hoà Gia hành Đoan trang Thục diệu Phu nhân Thượng đẳng thần. Lại ngâm một câu thơ:
Hương hoả thiên thu âm tục Tống
Phong ba nhất trận mặc phù trần.

Nghĩa là:
Hương lửa ngàn thu âm nối Tống
Sóng gió một trận thầm giúp Trần.

Lại nói, sắc chỉ ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Thời sau khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn dẹp trừ giặc Minh, cùng bè đảng Mộc Thạnh, Liễu Thăng, đến khi có được thiên hạ thì vua Thái Tổ bèn phong thêm mỹ tự là Ý đức Thuần hoà Anh linh Phù tộ Phu nhân Thượng đẳng thần. Sắc chỉ ban cho trang Nhuế Đông khu Đặng Thượng và khu Thiên Lộc cùng tu sửa miếu điện để phụng thờ, cùng với nước nhà hưởng phúc, mãi là thức lệ. Vâng thay!
Ngày tiệc thần hiện vào ngày mồng 9 tháng 2. Lễ chính lệ dùng trên có mâm chay và phẩm quả, dưới tùy xếp cỗ, ca hát ba ngày.
Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 5 giữa xuân ngày tốt Đệ tam giáp Tiến sĩ trí sĩ Thượng thư bộ Lễ Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn [Bính] vâng soạn bản chính. Nội các bộ Lại tuân theo bản chính cũ vâng sao.
Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 13 ngày mồng 1 tháng 3 lý trưởng xã Nhuế Đông vâng sao nguyên như bản chính.