Thần linh Thái Bình

Diem Tinh

Đền thờ Vương Chiêu Quân ở Thái Thụy.

Tôi viết bài thơ đất Thái Bình
Tứ thần Chân Định hiện oai linh
Rùa vàng dâng vuốt lưu đền giếng
Ngựa gỗ vó vang khiếp tặc binh
Vũ Đế khinh Tần vung búa sắt
Thiền sư cứu Lý phép hoàn sinh
Nhạn sa đồng muối Vương Bà sắc 
Mây phủ rồng bay biển Động Đình.

Chân Định tứ linh thần

Nếu ở Nam Định có Thiên Bản lục kỳ kể về 6 sự lạ đất Thiên Bản thì ở Thái Bình cũng có Chân Định tứ linh từ, hay 4 ngôi đền thiêng của đất Chân Định. Chân Định là tên cũ của khu vực Kiến Xương. Tứ linh từ của Chân Định là nơi thờ “tứ linh thần”, 4 vị thần thiêng trên đất Thái Bình.
Ngôi đền thiêng đầu tiên được nhắc đến là đền Vua Rộc tại thôn An Điềm,  xã Vũ An của huyện Kiến Xương. Trước kia, đền nằm trong khu rừng nguyên sinh hiếm hoi của đất Thái Bình, được bao quanh bởi cây cối tươi tốt và hồ nước mát lạnh, quang cảnh rất bình yên. Theo thần tích của đền thì đây là nơi thờ 2 vị Đông Hải đại vương và Tây Hải đại vương. Tuy nhiên, thần tích không cho biết những “đại vương” này là ai, ở thời kỳ nào. Những nghiên cứu trước đây “đoán” Đông Hải đại vương là Đoàn Thượng, còn Tây Hải đại vương thì… không biết…

Den Vua Roc

Đền Vua Rộc ở Vũ An, Kiến Xương.

Câu đối cổ trong đền Vua Rộc chép:
不記何年跡扥南交雙顯聖
相傳此地名髙真定四靈神
Bất ký hà niên, tích thác Nam Giao song hiển thánh
Tương truyền thử địa, danh cao Chân Định tứ linh thần.
Dịch:
Không biết tự năm nào, dấu thác Nam Giao hai hiển thánh
Lưu truyền nơi đất nọ, danh cao Chân Định bốn linh thần.
Vế đối đầu cho biết đền Vua Rộc thờ 2 vị thần đã “hiển thánh” ở Nam Giao từ thời lâu lắm rồi, không biết năm nào nữa. Vế đối sau cho biết hai vị thần đó được xếp vào bộ “Tứ linh thần” của Chân Định. Với thông tin này thì người được thờ ở đây không thể là tướng quân Đoàn Thượng, một nhân vật khá rõ ràng vào cuối thời nhà Lý ở thế kỷ 13.
Một số tác giả cho biết chữ Lạc có thể phục nguyên âm là Rộc, chỉ ruộng lúa. Tới nay người Mường vẫn gọi ruộng là rộc. Vua Rộc như vậy có thể là Vua Lạc hay Lạc Vương, phù hợp với thời Nam Giao mở nước.
Vết tích của 2 vị thần Nam Giao ở đền Vua Rộc có thể được xác định trong một câu đối khác tại đây:
瑞應金龜神爪依依留井上
威揚木馬健蹄隠隠仰橋邊
Thụy ứng Kim Quy, thần trảo y y lưu tỉnh thượng
Uy dương mộc mã, kiện đề ẩn ẩn ngưỡng kiều biên.
Dịch:
Linh ứng Rùa Vàng, móng thần y nhiên nơi giếng cũ
Oai dương Ngựa Gỗ, vó hùng thấp thoáng chốn cầu biên.
2 vế đối của câu đối này nói tới 2 sự kiện của 2 nhân vật. Vế đối đầu khá rõ, chỉ chuyện chiếc móng mà vua An Dương Vương nhận từ thần Kim Quy và chiếc giếng nơi Trọng Thủy trẫm mình. Vế đối thứ hai nói về một con chiến mã bằng gỗ xuất chinh nơi biên ải.
Tại Thái Bình, vua An Dương Vương được thờ ở khá nhiều nơi với tên xưng phong Nam Hải đại vương. Ở làng Thao Bồi (nay thuộc xã Phương Công, huyện Tiền Hải) thần tích kể về người vợ của An Dương Vương là bà Trần Thị Chân, còn gọi là Châu Nương hay Thục Nương. Châu Nương sinh ra công chúa Mỵ Châu. Sau khi Mỵ Châu chết làng Thao Bồi lập miếu “Nhị vị mẫu tử” thờ mẹ con Châu Nương, Mỵ Châu…
Nam Hải đại vương An Dương Vương còn thờ ở nhiều nơi khác tại Thái Bình như ở làng Kênh Xuyên (Đông Xuyên, Tiền Hải), làng Cọi (Vũ Hội, Vũ Thư). Ở đây An Dương Vương được kể như một vị vua từng có công giúp an định và phát triển đời sống dân tình vùng ven biển. Như vậy, có thể thấy An Dương Vương là vị linh thần thứ nhất được thờ tại đền Vua Rộc. Nam Hải đại vương đã hiển thánh ở Nam Giao cũng hoàn toàn hợp lý.
Ngôi đền thiêng thứ hai của đất Chân Định là đền Sóc Lang ở xã Vũ Vinh, huyện Vũ Thư. Đền này thờ Mộc đức tinh quân, rất thiêng nhưng cũng không rõ sự tích ra sao. Chỉ biết có một cây gỗ trôi từ thượng nguồn về, nhân dân vớt đục thành tượng mà thờ. Nay nếu so sánh với câu đối trong đền Vua Rộc thì Mộc đức tinh quân phải là Thánh Gióng với con “ngựa gỗ” xuất chinh chốn “kiều biên”. Cái tên đền “Sóc Lang” hay Sóc Vương cũng cho thấy vị linh thần ở đây là Thánh Gióng đã bay về trời nơi núi Sóc. Nhị vị đại vương ở đền Vua Rộc như thế là An Dương Vương và Sóc Vương Thánh Gióng, rất phù hợp về không gian (Nam Giao) và thời gian.

Chua Keo

Phương đình trước Chùa Keo Thái Bình.

Ngôi đền thiêng thứ ba của đất Chân Định là đền Lại Trì ở xã Vũ Tây, huyện Kiến Xương. Theo thần tích và văn bia lưu tại di tích, đây là nơi thờ Đại pháp thiền sư Không Lộ, họ Dương, húy là Minh Nghiêm, là người làng Giao Thuỷ, phủ Thanh Hà (tỉnh Nam Định), nối đời làm nghề đánh cá. Thân mẫu họ Nguyễn, người ở ấp Hán Lý, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang (tỉnh Hải Dương). Năm 1060 Không Lộ cùng Đạo Hạnh và Giác Hải đã sang Tây Trúc để tu luyện về đạo Phật. Năm 1061 thời vua Lý Thánh Tông, sư về nước và dựng chùa Nghiêm Quang (sau đổi tên là Thần Quang Tự) ở làng Dũng Nghĩa (xã Duy Nhât, Vũ Thư, Thái Bình) để truyền bá đạo Phật, hoằng dương Phật pháp. Chùa này được biết đến với tên chùa Keo Thái Bình.
Thời đó đạo Phật được nhà Lý coi là quốc giáo. Đức Dương Không Lộ là người hiểu về đạo Phật sâu sắc, là giáo chủ của cả vùng, ngoài việc truyền bá đạo phật, nhà sư còn có công lớn trong việc mở mang các công trình trị thuỷ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đưa nhân dân lao động thoát khỏi đói khổ. Ông còn là người am hiểu về y thuật có công chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông được phong làm quốc sư. Sau Dương Không Lộ sang Trung Quốc chữa bệnh cho thái tử nhà Tống rồi xin đồng về đúc chuông, tạc tượng.
Đền Lại Trì là nơi bà Nguyễn Thị, mẹ của Không Lộ đã tu hành và hóa. Còn Chùa Keo Thái Bình là nơi Không Lộ trụ trì. Câu đối ở khu thờ thiền sư Không Lộ tại chùa Keo:
法手濟群方李代特生之聖
靈丹扶九鼎南邦不死之神
Pháp thủ tế quần phương, Lý đại đặc sinh chi thánh
Linh đan phù cửu đỉnh, Nam bang bất tử chi thần.
Dịch:
Làm phép cứu chúng phương, đời Lý riêng sinh là thánh
Thuốc thiêng chữa cửu đỉnh, bang Nam bất tử là thần.
Cửu đỉnh là 9 chiếc đỉnh, hình tượng chỉ vương quyền, chỉ Vua. Câu đối nhắc đến chuyện thiền sư Không Lộ đã chữa bệnh cho vua Lý và cứu giúp nhân dân trong vùng. Thiền sư Không Lộ do đó đã được phong làm quốc sư thời Lý (Lý triều quốc sư).
Câu đối trên cũng xác định Không Lộ là một trong những thần bất tử nước Nam. Khái niệm thần bất tử không giống với linh thần. Ngoài việc là một linh thần (thần thiêng), thần bất tử phải là người có phép thuật, có khả năng “bất tử”, tức là khả năng cải tử hoàn sinh, trường sinh bất lão hay đầu thai chuyển thế. Thường thì đó phải là những người tu hành đắc đạo thần tiên.
Trước khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh được xếp là một trong Nam thiên Tứ bất tử thì Không Lộ thiền sư và Từ Đạo Hạnh đã được coi là các thần bất tử. Tuy nhiên, tư liệu ở đền Lại Trì trên chép Không Lộ làm Quốc sư và chữa bệnh cho vua dưới triều Lý Thánh Tông. Trong khi chuyện Từ Đạo Hạnh đầu thai lại vào thời Lý Thần Tông. Đồng thời thiền sư Không Lộ ở đây mang họ Dương, không phải họ Nguyễn (Nguyễn Minh Không) như trong những truyện của Từ Đạo Hạnh. Những chi tiết này cho thấy truyền thuyết về việc hóa thân đầu thai của Từ Đạo Hạnh thành vua Lý Thần Tông cần được xem xét thêm cho đúng với sự việc thật sự đã xảy ra.
Ngôi đền thiêng thứ tư của đất Chân Định là đền Đồng Xâm ở xã Hồng Thái, Kiến Xương. Đền này thờ đức Khai Cơ Triệu Vũ Đế, người đã lập nên nước Nam Việt thời trước Công nguyên. Đền Đồng Xâm là chứng tích rành rành về “những nỗi oan” của vua Triệu Đà. Sử sách chép Triệu Đà người Chân Định… Chân Định đây là đất Kiến Xương, Thái Bình ở Việt Nam, hoàn toàn không phải ở đâu xa lắc xa lơ tận Hà Bắc, Trung Quốc. Bản thân tên huyện Kiến Xương cũng có thể liên quan tới công nghiệp của Triệu Vũ Đế vì Kiến Xương nghĩa là kiến thiết nên nền tảng ban đầu, tương ứng với danh hiệu Khai Cơ của Triệu Vũ Đế tại đây.
Về thời nhà Triệu, ở Kiến Xương còn có nhiều chuyện lạ. Ở đình Luật Nội và Luật Ngoại (xã Quang Lịch, Kiến Xương) thờ 2 mẹ con bà Phương Dung và Thạch Công đã tận trung báo quốc, giúp Triệu Việt Vương đánh giặc Lương và hy sinh ở quãng sông Lịch Bài tại Kiến Xương. Điều lạ là cha của Thạch Công lại là ông Hùng Tuệ Công, dòng dõi vua Hùng, từng làm phủ doãn Chân Định. Câu đối ở đình Luật Ngoại:
壹門義烈雄母子
萬古山河趙越王
Nhất môn nghĩa liệt Hùng mẫu tử
Vạn cổ sơn hà Triệu Việt vương.
Dịch:
Một nhà nghĩa liệt mẹ con họ Hùng
Vạn năm sông núi đức vua Triệu Việt.
Từ thời Hùng Vương trước Công nguyên tới thời của Triệu Việt Vương chống giặc Lương theo sử sách ngày nay có dư 500 năm. Làm sao bố làm quan thời Hùng mà con lại có thể giúp vua Triệu đánh giặc? Truyền thuyết nhầm lẫn hay chính sử đã sai?

Luat NgoaiNghi môn đình Luật Ngoại.

Câu đối khác ở đình Luật Ngoại:
浩氣塞滄溟節烈一門皇趙日
芳名傳國母頡頏天古二徵間
Hạo khí tắc thương minh, tiết liệt nhất môn Hoàng Triệu nhật
Phương danh truyền quốc mẫu, hiệt hàng thiên cổ Nhị Trưng gian.
Dịch:
Khí lớn chất biển khơi, một nhà tiết nghĩa khi Vua Triệu
Danh thơm truyền quốc mẫu, ngàn năm bay bổng đất Hai Trưng.
Sử sách đã có sự nhầm lẫn. Triệu Việt Vương không phải vị vua ở thế kỷ thứ 6. Triệu Việt Vương gần thời Hùng Vương và thời Hai Bà Trưng phải là vua Triệu của nước Nam Việt. Nước Nam Việt được Triệu Vũ Đế lập từ những năm 200 trước Công nguyên. Có vậy thì những quan lại, công tướng của Triệu Việt Vương mới có thể mang họ Hùng.
Những cái tên Chân Định, Kiến Xương hay cả Thái Bình đều liên quan đến vị khai cơ Triệu Vũ Đế. “Ai đặt tên cho đất Thái Bình” thì không rõ, nhưng tên này chí ít đã có từ thời Triệu Vũ Đế vì Thái Bình là từ phản thiết của chữ Bái. Triệu Vũ Đế ở Chân Định là Bái Công đã lãnh đạo nhân dân Việt khởi nghĩa kháng Tần thắng lợi, lập ra quốc gia Nam Việt độc lập, xưng đế, là một thiên tử thực sự của thiên hạ.

Luat Noi

Gác mái đình Luật Nội.

Thử sắp xếp Chân Định Tứ linh thần theo các phương vị (Tứ trấn):
– Thục An Dương Vương nên xếp ở hướng Tây, vì Thục nghĩa là hướng Tây. Thục Phán đến từ hướng Tây. An Dương Vương có danh Tây Hải đại vương trong đền Vua Rộc.
– Sóc Vương Thánh Gióng ở đền Sóc Lang với tên Mộc đức tinh quân xếp ở hướng Đông vì hành Mộc là hành của phương Đông, ứng với tên Đông Hải đại vương ở đền Vua Rộc.
– Đồng Xâm Triệu Vũ Đế hợp lý nhất xếp ở hướng Bắc vì công nghiệp “Bắc tiến” của vị vua này. Xâm hay Thâm đều là màu xám, tối của hướng Bắc.
– Không Lộ thiền sư ở đền Lại Trì và chùa Keo có thể xếp ở trấn Nam vì vị thiền sư này gốc Nam Định.
Tứ linh từ, Tứ linh thần, Tứ trấn của đất Chân Định như vậy đã hội tụ đầy đủ cả.

Phủ Tam ở Thái Bình

Trong đạo Tứ phủ thì phủ Tam là Thoải phủ. Các vị thần trong phủ này đều liên quan tới số Ba – Bát hay Tam – Tám. Mẫu Thoải là Mẫu đệ Tam, là nàng Ba (thần tích đền Dầm ở thôn Xâm Dương, Ninh Sở Thường Tín, Hà Nội) hay nàng Quý (Quý là thứ ba trong thứ tự Mạnh, Trọng, Quý). Vua cha Thoải phủ là Bát Hải. Vị quan của Thoải phủ là Quan đệ Tam. Rồi ông Hoàng Bơ và cô Bơ thoải phủ (Bơ = Ba).
Đứng đầu Thoải phủ trước hết phải kể đến Vua cha Bát Hải Động Đình, người được thờ chính tại đền Đồng Bằng (An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình). Bát Hải hoàn toàn không phải nghĩa là 8 cửa biển. Bát hay Ba (số 3 và 8) đều là 2 con số của Hà thư chỉ phương Đông. Phủ Tam ở Động Đình là biển Đông. Nơi đây cũng gọi là vùng Đào Động.
Câu đối ở đền Sinh trong quần thể đền Đồng Bằng:
桃江洞口祁千跡
生化神仙萬古傳
Đào giang Động khẩu kỳ thiên tích
Sinh hóa thần tiên vạn cổ truyền.
Dịch:
Sông Đào cửa Động ngàn tích lạ
Sinh hóa thần tiên vạn thủa truyền.
Nơi sông Đào đổ ra cửa Động là đất Thái Bình, tức là nơi sông Hồng (Đào) đổ ra biển Đông (Động Đình hồ). Trên mảnh đất này do đó lưu dấu rõ ràng các nhân vật của phủ Tam (Thoải phủ).
Thần tích đền Đồng Bằng mở đầu như sau:
Trên bờ sông Vĩnh, thuộc Đào Hoa Trang, Trấn Sơn Nam, Quận Giao Chỉ có 2 vợ chồng ông Phạm Túc và bà Trần Thị là người Trang An Cố (thuộc Thụy An – Thái Bình ngày nay) đã lớn tuổi, sống phúc hậu mà không có con. Một lần, họ ngược dòng đánh cá đến Trang Hoa Đào và tình cờ gặp cô gái nhỏ bên sông Vĩnh. Ông bà đón cô gái về nuôi tại An Cố, đặt tên là Quý Nương. Mấy năm sau, khi tròn 18 tuổi, Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang.
Tiếp đó Quý Nương sinh ra một bọc trứng, nở ra 3 con hoàng xà. Con hoàng xà lớn sau trở thành Vĩnh Công giúp vua Hùng đánh giặc Thục. Vĩnh Công được tôn là Vua cha Bát Hải Động Đình, đứng đầu Thoải phủ. Còn 2 con hoàng xà em được tập hợp trong trận chiến với quân Thục, trở thành 2 vị quan lớn dưới trướng Vĩnh Công.

Den An Co

Đền An Cố ở Thụy An, Thái Thụy, Thái Bình.

Hiện ở An Cố có đền lớn thờ một vị thần là Nam Hải đại vương. Vị này có cha là Phạm Xuyến, tên gọi Hải Công. Phạm Hải cũng giúp vua Hùng đánh Thục, xây dựng làng xóm ở miền ven biển, rồi một ngày hóa bên bờ biển ở An Cố.
Câu đối ở đền An Cố:
勦蜀冦固皇圖雄貉山河餘正氣
弭天灾安邑宇太平草木囿淳風
Tiễu Thục khấu cố hoàng đồ, Hùng Lạc sơn hà dư chính khí
Nhị thiên tai an ấp vũ, Thái Bình thảo mộc hữu thuần phong.
Dịch:
Trừ giặc Thục, vững hoàng đồ, non nước Lạc Hùng bao chính khí
Ngăn thiên tai, yên thôn ấp, cây cỏ Thái Bình đậm thuần phong.
Phạm Hải và Phạm Vĩnh ở Thái Bình được họ Phạm ghi nhận là những người họ Phạm đầu tiên được nhắc tới ở Việt Nam. Thực ra Phạm Hải và Phạm Vĩnh chỉ là một người. Trang An Cố như trong thần tích đền Đồng Bằng là quê mẹ của Vĩnh Công Bát Hải. Sự tương đồng về tên gọi, sự tích, địa điểm xác thực nhận định Nam Hải Đại Vương ở An Cố là Vĩnh Công Bát Hải Động Đình ở đền Đồng Bằng.
Một minh chứng khác là tại đền An Cố gian ngoài cấm cung thờ 4 vị là Quan đệ nhất, Quan đệ nhị, Quan tuần phủ và Quan thần sát. Đây là chỉ dẫn trực tiếp cho thấy Phạm Hải liên quan tới Ngũ vị tôn quan của Tứ phủ. Ngũ vị tôn quan hợp thành Ban công đồng, trong đó có Quan đệ nhất thượng thiên, Quan đệ nhị giám sát, Quan đệ Tam thoải phủ, Quan đệ Tứ khâm sai, Quan đệ ngũ tuần tranh. Phạm Hải đứng đầu Ban Công đồng thì còn ai khác ngoài Vua cha Bát Hải Động Đình, vua cha của các vị quan lớn Tứ phủ.

Chinh dien An Co

Gian thờ Quan đệ nhị ở đền An Cố.

Vị Quan lớn của phủ Tam là Quan đệ Tam với nơi thờ chính tại đền Lảnh (Yên Lạc, Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam), nơi chân cầu Yên Lệnh. Quan lớn Lảnh chính là Thổ Lệnh hay Trưởng Lệnh, vị thần Bạch Hạc Tam Giang trong truyền thuyết (Lĩnh Nam chích quái). Địa danh Yên Lệnh nghĩa là nơi “yên nghỉ” của Trưởng Lệnh, vì Trưởng Lệnh hóa ở làng Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên, Hà Nội) gần đó. Tương tự, An Cố rất có thể là nơi “an nghỉ” của vị thánh Cả (Cổ – Cố) vì đó là nơi Vua cha Bát Hải đã “hóa”.

Văn chầu Quan đệ Tam bắt đầu như sau:
Trịnh giang biên doành ngân lai láng
Đôi vầng hồng soi rạng Nam minh
Con vua thủy quốc Động Đình
Đệ Tam hoàng tử giáng sinh đền rồng.
“Trinh Giang” là đọc lệch của sông Vĩnh, con sông nơi giáng sinh Vĩnh Công Bát Hải và 2 em ở Quỳnh Phụ, Thái Bình. Còn “Nam minh” là biển Nam, ở đây cho thấy Động Đình chính là biển Nam minh hay biển Đông.

Sự tích về Quan Đệ Tam – Trưởng Lệnh hay hiệu thờ của thần là Trung Thành Phổ Tế Đại Vương ở vùng Phú Xuyên có vài dị bản khác nhau. Theo các thần tích phổ biến nhất như ở đình Đa Chất thì Trưởng Lệnh là 1 trong 5 người con của ông Đào Công Bột đã giúp vua Hùng đánh Thục. Họ Đào ở đây thực ra liên quan đến vùng Đào Động ở Thái Bình. Còn Bột Hải Công tương đương với Vua cha Bát Hải (Bột là biến âm của Bát).
Sự tích khác ở đình Cổ Chế (xã Phúc Tiến) thì cho biến Trưởng Lệnh mang họ Phạm. Họ này cũng là họ của Vua cha Bát Hải (Phạm Vĩnh hay Phạm Hải).
Đặc biệt thần tích của đình Cát Bi (xã Thụy Phú) còn cho biết Trưởng Lệnh là con của ông Nguyễn Cao Hành và bà Đoan Trang… Sự thể tưởng như khác biệt, vô lý, nhưng xét kỹ thì:
– Ông Nguyễn Cao Hành là dòng Tản Viên Sơn Thánh vì theo truyền thuyết về Tản Viên, cha của Sơn Thánh là ông Nguyễn Cao Hành.
– Bà Đoan Trang là Mẫu Thoải (“Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang”), mẹ của Vĩnh Công ở đền Đồng Bằng.
Đây là chuyện Kinh Dương Vương (Kinh Xuyên) lấy con gái Thần Long Động Đình trong Truyện Họ Hồng Bàng. Kinh Dương Vương ở đây là Tản Viên Sơn Thánh, đã “cùng vui với các loài thủy tộc” hay đã kết bạn với Thủy Tinh và xuống Thủy cung nhận cuốn sách ước trong thần tích về Tản Viên ở vùng Sơn Tây. Bát Hải Động Đình, vị vua cha của Thủy phủ, do vậy không ai khác là con của Kinh Dương Vương và Xích Lân Long Nữ, tức là cha Lạc Long Quân, thủy tổ của người Việt. Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển, rõ ràng là vị vua của miền Thủy phủ – Động Đình.
Sự kết hợp các bộ tộc Nam Giao của Tản Viên (Lạc) và phía Đông của Long Nữ Động Đình (Long) đã khởi nguồn Việt tộc bởi cha Lạc – Long Quân. Đây là ý nghĩa của câu chuyện về Bát Hải Động Đình. Với sự giúp đỡ của bên mẹ (các vị quan lớn Thoải phủ) Lạc Long Quân – Bát Hải Động Đình đã đánh đuổi dòng tộc hướng Tây (=Thục) để lập nên quốc gia Đào – Hoa – Hạ (Hoa Đào trang) trong sử Việt.
Câu đối ở đền An Cố:
雄貉山河成萬古
都臺事業定千秋
Hùng Lạc sơn hà thành vạn cổ
Đô đài sự nghiệp định thiên thu.
Dịch:
Núi sông Lạc Hồng thành vạn cổ
Sự nghiệp đô đài định ngàn thu.
Người đã dựng thành non sông Hùng Lạc ngàn thu thì còn ai ngoài cha Lạc Long Quân?

Nam Hai Dai Vuong

Tượng Nam Hải đại vương ở đền An Cố.

Cuối cùng, ở đất Thái Bình nơi cửa Động còn truyền tích về vị Hoàng Bơ Thoải phủ. Hoàng Bơ xuất thế tại làng Kênh Xuyên (Đông Xuyên, Tiền Hải). Không rõ cái tên Kênh Xuyên này có liên quan gì tới tên Kinh Xuyên của Kinh Dương Vương trong sự tích Mẫu thoải không. Đền thờ Hoàng Bơ nay được dựng ở Hưng Long (Tiền Hải), là nơi vị thần này đã giúp dân hàn gắn con đê biển, ngăn sóng lớn. Nơi Hoàng Bơ đi ra biển (“hóa”) gọi là An Long, cũng tương tự như những cái tên An Cố của Phạm Vĩnh và Yên Lệnh của Quan đệ Tam thoải phủ…

Viết thêm:

Theo “Cổ Lôi Ngọc Phả Truyền Thư”, ” Bách Việt Tộc Phả” thì cụ bà họ Đỗ, tên huý là Ngoạn, còn gọi là công chúa Đoan Trang. Tục truyền Cụ là con gái cụ Long Đỗ Hải Vương. Cụ sinh ngày mồng tám tháng tư và hoá (mất) ngày rằm tháng bảy. Cụ thường được gọi theo họ là Đỗ Quý Thị  (tức Quý bà họ Đỗ). Cụ lấy chồng người họ Nguyễn tên là Nguyễn Minh Khiết tức là Đế Minh. Hai cụ sinh ta Lộc Tục (sau là Kinh Dương Vương). Họ Nguyễn Vân ở làng Vân Nội vẫn cúng giỗ cụ hằng năm với bài văn cúng: “Thỉnh tổ tổng khoa – Cúng gia tiên”. Mộ và miếu thờ cụ ghi trong thư tịch cũ trên đây nay vẫn còn ở Ba La, thị xã Hà Đông.

Do có sự bất hoà với chồng (Đế Minh), Cụ đã đem con trai là Lộc Tục (khi còn ít tuổi) vào tu động Tiên Phi (thường gọi là Động Tiên) ở huyện Lạc Thuỷ thuộc tỉnh Hoà Bình ngày nay, cùng với 8 em trai của Cụ giúp cho Lộc Tục Trưởng thành: Cụ theo đạo Bà La môn, đạo hiệu là Hương Vân Cái Bồ Tát. Tám vị em trai đều là người tài giỏi, hết lòng giúp cháu (con của chị) cho đến khi Lộc Tục được cha là Đại Minh giao quyền thay cha trị vì đất nước, lấy hiệu là Kinh Dương Vương (được tôn là Ngọc Hoàng Thượng Đế), đặt tên là Xích Quỷ. Tám vị mà Lộc Tục gọi là cậu (em mẹ) sau đều trở thành các vị “Kim Cương”, thường được gọi là Bát Bộ Kim Cương.

Công chúa Đoan Trang họ Đỗ tên là Quý Thị trong tộc phả này chính là Mẫu Thoải, hay Quý Nương sinh Hoàng xà ở Thái Bình. Cụ là con của Long Đỗ Hải Vương, tức là con gái của Thần Long Động Đình.

Tộc phả trên chép hơi nhầm lẫn ở chuyện tiếp theo. Bà Đoan Trang là mẹ của Lạc Long Quân, ở đây chép là Lộc Tục, sau thay cha cai quản đất nước. “Sự bất hòa” của bà Đoan Trang với chồng được nhắc tới là chuyện Mẫu Thoải bị Thảo Mai dèm pha và Kinh Xuyên ruồng bỏ. 8 em trai của dòng Mẫu Thoải đươc chép là Bát bộ kim cương trong đạo Phật là các vị quan lớn đã phò giúp Vĩnh Công – Lạc Long Quân đánh Thục, giành ngôi vị vương quyền.