Sách mới: Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải

Sách LONG HƯNG TRIỆU VŨ ĐẾ, TƯ LIỆU VÀ LUẬN GIẢI.
Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân,
Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt

Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.

Trong các sách vở lịch sử ngày nay, vị hiền quân Triệu Đà đang phải chịu những nỗi “oan ức” khó giải về thân thế và sự nghiệp của ông. Nhưng có một sự thật không thể bác bỏ đó là vua Triệu được thờ một cách tôn kính ở rất nhiều ngôi đền lớn trên miền Bắc nước ta từ hàng trăm năm nay như một vị Đế vương khai cơ hiển hách của nước Nam người Việt.

Cuốn sách Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải đã tiếp cận vấn đề nhà Triệu từ những các di tích, di sản văn hóa ở khắp các vùng trên miền Bắc, kết hợp với những phát hiện khảo cổ mới trong những năm gần đây để đưa ra những luận giải có tính đột phá làm rõ thân thế, sự nghiệp không chỉ cho vua Triệu Đà, mà cả thời kỳ nhà Triệu nước Nam Việt.

Triệu Đà xuất thân áo vải, làm quan huyện ở Kiến Xương – Thái Bình, giương cờ khởi nghĩa kháng Tần ở núi Châu Sơn – Bắc Ninh, thấy rồng bay lên ở Long Biên mà thành nghiệp chiếm thành Cổ Loa rồi thống nhất thiên hạ, lên ngôi là Triệu Vũ Đế. Nối tiếp cơ nghiệp của ông là Triệu Quang Phục, chống giặc ở đầm Dạ Trạch, xưng Đế ở Phiên Ngung, lập nên tuyên ngôn Nam quốc sơn hà, đối lập với nhà Tây Hán. Nhà Triệu truyền 5 đời tới Vệ Dương Vương thì kết thúc ở cửa Đại Nha bên bờ biển Nam Định – Ninh Bình.

Lời bài ca trù tế thánh ở đền Đồng Xâm như tóm tắt công nghiệp nhà Triệu:

Nam Hải Kiến Xương cơ, hùng tranh Hán Bắc
Phiên Ngu Chân Định đỉnh, đế thủy Viêm Nam.

Cuốn sách không chỉ là một khảo luận lịch sử độc đáo mà còn là tài liệu hướng dẫn giá trị về văn hóa tín ngưỡng đối với các vị vua nhà Triệu đã khai cơ mở nước Nam người Việt. Khảo cổ các lớp thành Cổ Loa, niên đại các đồ đồng Đông Sơn tìm thấy ở nước ta, con Rồng đá bên Giếng Việt miền Châu Sơn, tấm bia Xá lợi tháp minh ở Luy Lâu… là những bằng chứng vật chất rõ ràng của thời kỳ Nam Việt. Nguồn tư liệu thành văn rất phong phú về phả tích, sắc phong, hoành phi, câu đối, văn tế các vua Triệu được dịch và giới thiệu kỹ lưỡng tại mỗi đền miếu ở từng vùng văn hóa tín ngưỡng liên quan.

Không dừng lại ở khảo cứu các vị vua nhà Triệu, cuốn sách còn luận giải những giai đoạn lịch sử liên quan khác là thời kỳ Thục An Dương Vương và thời Tiền Lý Nam Đế bằng những tư liệu điền dã phong phú và nhận định tổng hợp sâu sắc. Long Hưng Triệu Vũ Đế là cuốn sách không thể thiếu với bất kỳ con dân nước Nam nào quan tâm đến quá khứ hào hùng mở nước trị dân của các bậc tiền nhân người Việt.

Sách in khổ 16×24 cm, dày 568 trang, gồm các phần chính:

Lời nói đầu

  1. Những nỗi oan của vị vua mang tên Triệu Đà
  2. Cổ Loa thành trên Lạc quốc
  3. Chân Định Kiến Xương cơ      
  4. Vũ Ninh dấy nghĩa
  5. Long Biên ngày kháng Tần
  6. Nam quốc sơn hà
  7. Đại Nha hải khẩu
  8. Nam Việt Úy Đà diễn nghĩa
  9. Di tích và lễ hội về nhà Triệu và các nhân vật cùng thời
  10. Thống kê các di tích thờ Triệu Đà, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương
  11. Sắc phong và văn tế vua Triệu

Tài liệu tham khảo

Sách ebook LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG Tân biên & Vịnh sử

Lời nói đầu

Lịch sử các vua Hùng dựng nước luôn là câu hỏi nhức nhối đối với bất kỳ người Việt nào muốn tìm về nguồn cội của mình. Hàng ngàn năm lịch sử với 18 triều đại Hùng Vương đâu phải là một chớp mắt. Vậy thời đại Hùng Vương thực sự đã diễn ra như thế nào? Chắc chắn, trên bước đường chập chững lúc mới nên hình nước non đã xảy ra bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thách thức. Những bước tiến nào mà xã hội người Việt đã trải qua trong suốt hàng ngàn năm đó? Cha ông người Việt đã làm gì để đã vượt qua những thách thức đó?

Cuốn sách tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương thành một mạch xuyên suốt từ khi mở trời mở đất cho đến vị vua Hùng cuối cùng qua những sự kiện, những mốc phát triển chính. Cuốn sách không tham vọng khảo chứng lịch sử, mà là chia sẻ sự nhìn nhận có được qua việc tìm hiểu quá khứ từ những dữ kiện và góc nhìn khác nhau. Đó là việc đối chiếu các nguồn tư liệu thành văn của Hoa sử và Việt sử. Là những thông tin chắt lọc từ những sự tích thờ cúng, lễ hội cho những anh hùng, những nhân vật trong suốt chiều dài sử Việt. Là sự suy ngẫm trước những hiện vật khảo cổ biết nói đã được phát hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực trời Đông. Là góc nhìn địa văn hóa, sử văn hóa từ những dấu vết ngôn ngữ, triết học cổ.

Trên bìa những cuốn lịch sử Hùng Vương xưa (ngọc phả Hùng Vương) được soạn bởi các bậc hàn lâm học sĩ đương thời có đề đôi câu đối:

Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục mệnh thi.

Tức là:

Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử
Thấy rành như vẽ mới làm thơ.

Xem kỹ những gì đã biết về các vua Hùng, thấy sự việc rõ rành thì tất có cái hứng để làm thơ, để ca ngợi công đức tiền nhân, để cảm sự nỗ lực của người Việt dựng nên nền tảng văn hóa xã hội ngàn đời cho con cháu. Sau phần biên diễn lịch sử là những bài thơ vịnh sử xuất phát từ những cảm hứng này.

18 vương triều Hùng bất diệt. 3000 năm xã hội Việt phát triển qua 4 giai đoạn từ thấp đến cao. Không gian lịch sử bao trùm khắp trời Đông. Những vị anh hùng đã hóa thần trong sử Việt. Đó là những gì cuốn sách muốn gửi gắm đến các bạn đọc ngày hôm nay.

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách phát hành online bởi Hùng Việt sử quán.

Bất kỳ sự sao chép, in ấn nào từ tác phẩm với mục đích thương mại đều phải được phép của tác giả.

Link tải sách:

https://drive.google.com/file/d/1OmKTZHLxNdEhZaEcLS7Rfqu1pop4tpAx/view?usp=sharing

Mã QR

Liên hệ để nhận mật khẩu theo:

    Facebook: https://www.facebook.com/hungvietsuquan

    Email: bachviet18@yahoo.com, 

    Phone, Zalo: 0559551003.

Mục lục

Lời nói đầu 

LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG
    Thời thần thoại
    Tam Sơn Hùng Vương Thánh Tổ
    Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương
    Động Đình Lạc Long Quân
    Chử Đạo Tổ
    Long Khuyển Bàn Hồ
    Âu Cơ và Sùng Lãm
    Trị bình kiến phu
    Đông Chu phong vũ
    An Dương Vương
    Tần Việt nhân duyên
    Vạn Xuân Triệu Vũ Đế
    Triệu Việt Vương
    Hậu Lý Nam Đế
    Trưng Lữ Vương
    Vương Mãn
MẤY BÀI THƠ SỬ
    Thấy rành như vẽ mới làm thơ
    Ngày giỗ Tổ
    Sơn Tinh
    Tản Viên
    Sơn Tinh – Hạ Vũ
    Bốn ngàn năm
    Nhớ Hằng Nga
    Hiếu với trời đất
    An Dương Vương
    Phù Đổng Thiên Vương
    Phong thần
    Nước Việt Thường
    Lão Tử Cổ Loa
    Cổ Loa thành
    Ai oán Mỵ Châu
    Lý Bôn
    Chuyện Nam Việt
    Từ Nam Việt đến Đại Việt
    Trưng Triệu
    Đất nước tôi

Những công trình của Hùng Việt sử quán năm Nhâm Dần 2022

Năm Nhâm Dần 2022 đối với Hùng Việt sử quán là năm hoạt động có nhiều khó khăn, nhưng đồng thời đây cũng là năm Hùng Việt sử quán và Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền Miều Việt đã cho ra mắt bạn đọc nhiều công trình nghiên cứu về cổ sử và tín ngưỡng Việt bằng cả việc xuất bản sách và đăng báo.

5 cuốn sách của Hùng Việt sử quán năm 2022

☀️ HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ NGỌC PHẢ SƯU KHẢO

Cuốn sách là một công trình khảo cứu quan trọng, giải mã toàn bộ 18 triều đại Hùng Vương qua 4 giai đoạn phát triển kéo dài trên 3000 năm.

☀️ HÙNG VƯƠNG TRUYỀN SỬ DIỄN NGHĨA 

Sách ebook viết dưới dạng sử ký, theo dòng thời gian từ khi Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ đến khi Trưng Vương lên ngôi Lạc Hùng chính thống.

☀️ VIỆT ĐIỆN TỨ LINH 

Sách ebook nhận chân thần điện Việt qua các bộ Tứ phủ, Tứ linh, Tứ bất tử, Tứ trấn và Tứ pháp.

☀️ DI SẢN VĂN HÓA ĐÌNH ĐỀN MẠO PHỔ

Một ngôi làng nhỏ nhưng có tư liệu vô cùng độc đáo về giai đoạn Hậu Hùng Vương khi nhà Triệu họ Lê lập nước Nam Việt. 

☀️ KINH TRIỀU BẢO LỤC – NAM THIÊN THÁNH TỔ TẢN VIÊN SƠN 

Là những ghi chép vô giá và là đại sử thi về thời kỳ Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh mở nước nơi Ngũ Lĩnh – Động Đình.

9 loạt bài nghiên cứu của Hùng Việt sử quán năm 2022

Không trùng lặp với nội dung của các cuốn sách xuất bản, các bài báo do Hùng Việt sử quán biên viết được công bố thành nhiều kỳ trên chuyên mục Kết nối Xưa&Nay của Tạp chí điện tử Công dân & Khuyến học.

Chủ đề 1. CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN VÀ CHỮ  VIẾT CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ

Cuốn sách đầu tiên của người Việt là cuốn “Vô tự Thiên thư” do Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh có được vào thời lập quốc. Chữ viết hoàn chỉnh của người Việt là chữ Kim văn – Khoa đẩu, sử dụng trên các đồ đồng từ cách nay trên 3000 năm.

Cuốn sách đầu tiên của người Việt thời mở nước

Chữ viết của người Việt thời Hùng Vương

Chủ đề 2. TAM LANG LONG VƯƠNG

Tín ngưỡng thờ ba vị thủy thần thời Hùng Vương chính là thờ vua cha Lạc Long Quân và những người anh em cùng bọc đã đi khai phá miền Động Đình ven sông biển. Tín ngưỡng thờ Tam Lang Long Vương trải rộng khắp miền Bắc Việt, phổ biến tới tận vùng Nghệ Tĩnh. 

Tam Lang Long Vương – những người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển

Chủ đề 3. QUỲNH VIÊN VÀ CHỬ ĐỒNG TỬ

Dấu vết nơi tu tiên của Chử Đạo Tổ còn lưu đậm trên núi Quỳnh Viên ở Hà Tĩnh.

Vãn cảnh Quỳnh Viên, nơi Chử Đồng Tử học đạo bất tử

Chủ đề 4. CỔ LOA THÀNH TRÊN LẠC QUỐC

Những di vật khảo cổ các lớp thành Cổ Loa và truyền thuyết về Phò mã Lý Thân của Tần Thủy Hoàng cho thấy lớp thành chính của Cổ Loa được xây dựng dưới thời nhà Tần. 

Cùng về thăm lại Cổ Loa thành

Đọc lại lịch sử Đức Thánh Chèm Lý Ông Trọng

Chủ đề 5. VIẾT NÊN SỬ DAO

Tín ngưỡng và di văn về Bàn Hồ của người Dao đã viết nên cuốn sử của nhóm người Miêu Dao từ Bàn Cổ – ông Tiết – Thành Thang – Bàn Canh tới Sở Hùng Vương.

Viết nên sử Dao (phần 1)

Viết nên sử Dao (tiếp theo và hết)

Chủ đề 6. TỨ BẤT TỬ NƯỚC NAM

Tứ bất tử là khái niệm tu tiên đắc đạo, được chia thành 4 cấp độ khác nhau theo dòng lịch sử.

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài 1)

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài 2)

Nhân Tết Trùng cửu, bàn về các vị thần bất tử nước Nam (bài cuối)

Chủ đề 7. HÙNG VƯƠNG TỨ HIẾU

Bốn tấm gương hiếu thời Hùng Vương là Hùng Hi Vương Đế Thuấn, Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử và Lang Liêu.

Hùng Vương tứ hiếu Bài 1: Hùng Hi Vương Thánh Tổ

Hùng Vương tứ hiếu Bài 2: Tản Viên Sơn Thánh

Hùng Vương tứ hiếu Bài 3: Chử Đồng Tử

Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu

Chủ đề 8. HÌNH TƯỢNG TIÊN TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT

Từ những vị Tiên Mẫu trong truyền thuyết thời Hùng Vương, tới những Tiên nhân trên các gương đồng thời Tần Hán, sang những vị Tiên tốt đẹp thời Tùy Đường cho đến những Chư Thiên của Hindu giáo. 

Những vị Tiên nữ Việt thời Hùng Vương

Những vị tiên thời hậu Hùng Vương

Những vị tiên thời Trung đại

Chủ đề 9. SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC VÀ HUYỀN SỬ THỜI HÙNG VƯƠNG

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước là lịch sử thật sự của trời Đông từ ông Bàn Cổ – Mụ Dạ Dần khai thiên lập địa cho tới vua Dịt Dàng – Thục An Dương Vương về đất Kinh kỳ kẻ chợ.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền

“Kinh triều bảo lục, Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” – cuốn sách về thời Kinh Dương Vương mở nước

Truyện họ Hồng Bàng kể: “Cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông tên là Đế Minh… đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh… sinh ra Lộc Tục… Đế Minh phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ.

Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, tức là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước, còn Kinh Dương Vương không biết đi đâu…”

Dòng huyền sử khởi nguồn ngắn gọn này đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi cho người Việt. Vị Nam Thiên Thủy Tổ Kinh Dương Vương là ai? Vùng sơ quốc Ngũ Lĩnh Xích Quỷ, rồi Động Đình Thủy phủ là ở đâu? Kinh Dương Vương “đi về đâu”?

Vấn đề cội nguồn lịch sử Kinh Dương Vương mở nước đã được làm sáng tỏ trong cuốn sách “Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” vừa mới phát hành tháng 12/2022 bởi nhà xuất bản Lao Động. 372 trang sách do 2 tác giả của Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền Miếu Việt sưu tầm, biên dịch và khảo cứu.

Thông qua việc tuyển chọn, biên dịch các thần tích và ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh, kết hợp với khảo sát thực địa hàng trăm di tích đền miếu thờ phụng Thánh Tản cùng các vị thần liên quan, cuốn sách đã đưa ra một nhận định mang tính chất đột phá. Tản Viên Sơn Thánh, vị Thánh Tổ của Trời Nam chính là vua Kinh Dương Vương mở nước Xích Quỷ nơi Ngũ Lĩnh Động Đình. Những sự tích, di tích, tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh là cuốn đại sử thi về vị thánh tổ Kinh Dương Vương của người Việt.

Từ công nghiệp trị cơn hồng thủy thời Đường Nghiêu, tìm ra nguồn lửa, nguồn nước, sáng tạo ra cái ăn, cái mặc cho con người… đến việc thiết lập kinh đô Ngũ Lĩnh, chinh phục Động Đình và những chiến công anh hùng chống giặc giữ nước đã viết nên những trang sử của triều đại Kinh Dương Vương (Kinh triều) sáng rạng trong buổi bình minh của dân tộc. Tất cả công lao, ân đức của đức Nam Thiên Thánh Tổ được ghi chép, tập hợp một cách đầy đủ, sống động và chân thật trong tác phẩm, lấy tên là “Kinh triều bảo lục”. Ghi lại, tôn kính và nhận thức đúng về tổ tiên là điều cần thiết cho mỗi người Việt ngày nay.

Trong cuốn sách còn giới thiệu 2 cuốn kinh quan trọng về Tản Viên Sơn Thánh. Một là phần trùng đính của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho sự tích về Thánh Tản trong cuốn “Đại hóa thần kinh” in năm Thành Thái thứ 18 (1907). Hai là cuốn kinh giáng bút có tên “Nhất thành khả cách chân kinh” in năm Bảo Đại thứ 6 (1931), với chân tượng của Tam vị Tản Viên. Đây là những tư liệu quý về Thánh Tản đã được phiên âm và giới thiệu trong cuốn sách mới xuất bản này.

Sau tác phẩm khảo cứu về các bậc Thánh Tổ Hùng Vương thì cuốn sách “Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” là một bước đột phá mới trong nghiên cứu về nguồn gốc và lịch sử người Việt thời cổ đại. Hơn 4.000 năm lịch sử của dân tộc đang dần dần được tái hiện từ những di sản văn hóa vật chất cũng như tinh thần mà tiền nhân người Việt để lại.

Tưởng nhớ công lao và sự nghiệp của đức Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn, cuốn sách đã có thơ đề:

Tôi nghe kể chuyện thánh Sơn Tinh

Hiếu thuận cảm thiên tỏ nghĩa tình

Hắc Thủy ước thư khơi nước lũ

Trường Sa thần trượng cứu dân sinh

Động Đình rẽ sóng thâm gia kết

Tản Lĩnh xuất quân phá Thục binh

Nối dòng Sùng Lạc ngàn năm sáng

Miếu điện nguy nga thượng tối linh.

"Kinh triều bảo lục, Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn" – cuốn sách về thời Kinh Dương Vương mở nước - Ảnh 1.
Sách được in bìa cứng.
"Kinh triều bảo lục, Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn" – cuốn sách về thời Kinh Dương Vương mở nước - Ảnh 2.
Trang sách về Đại hóa thần kinh.

https://congdankhuyenhoc.vn/kinh-trieu-bao-luc-nam-thien-thanh-to-tan-vien-son-cuon-sach-ve-thoi-kinh-duong-vuong-mo-nuoc-179221231161313029.htm

Sách mới: Kinh triều bảo lục. Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn

LỜI GIỚI THIỆU

Khi còn nhỏ thời đi học, tôi từng được đọc bài thơ Sơn Tinh – Thủy Tinh của nhà thơ Huy Cận. Tôi nhớ mãi câu mở đầu của bài thơ tả cảnh núi Tản Viên trong buổi bình minh:

Núi Tản như con gà cổ đại

Khổng lồ mào đỏ thắp bình minh

Mênh mông gọi nắng cho mùa chín

Từ thuở Sơn Tinh thắng Thủy Tinh.

Lúc đó tôi thực sự chưa hiểu được ý nghĩa của hình ảnh này, nhưng ấn tượng về ngọn núi Tản rực hồng trong ánh mặt trời theo tôi mãi khi lớn lên.

Khi đã lớn khôn hơn, một ngày tôi lên mạng internet, gõ “Sơn Tinh – Thủy Tinh” để tra tìm lại bài thơ yêu thích từ thuở ấu thơ. Duyên số thế nào mà khi đó tôi lại bắt gặp một công trình lịch sử về thời cổ đại của Sơn Tinh, của Thủy Tinh, với tên gọi Sử thuyết Hùng Việt, tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật. Đọc những trang Sử thuyết họ Hùng này tôi mới bắt đầu lờ mờ nhận ra rằng người Việt chúng ta có một lịch sử lâu đời và huy hoàng không thể ngờ, rằng những dấu vết xưa của cuộc sống con người Việt vẫn còn truyền qua nhiều thế hệ ở trong những câu chuyện tưởng chừng là huyền thoại ấy.

Bài thơ của nhà thơ Huy Cận đã dẫn lối cho tôi tìm về với thời đại các vua Hùng, với Sơn Tinh, Thủy Tinh, công chúa Ngọc Hoa Mỵ Nương… tuy huyền ảo nhưng lại rất thật và rất sống động. Để rồi một ngày, tôi chợt nhận ra Tản Viên Sơn Thánh, chàng Sơn Tinh trong truyền thuyết chính là Kinh Dương Vương, vị Thánh tổ nước Nam ta. Vùng núi Ba Vì là kinh đô Ngũ Lĩnh thời mở nước. Ba dòng sông Đà, sông Thao, sông Lô gặp nhau ở Ngã ba Bạch Hạc hợp lưu thành sông Hồng chảy về biển Đông là địa bàn của Thủy Tinh Động Đình. Dải thác Vạn Bờ ở Hòa Bình – Mộc Châu, nơi Sơn Thánh trị thủy, còn ầm vang tiếng nước sông Đà khi chảy qua khe núi đá, là cửa Long Môn Vũ Hóa, nơi cá chép hóa rồng ngàn xưa…

Lúc này tôi mới hiểu, ngọn núi Tản là nơi Kinh Dương Vương đã thắp ánh bình minh chiếu rọi cho người Việt cổ bước đi những bước đi đầu tiên cấy cày, chăn nuôi, săn bắn, dệt vải, chiến thắng thiên tai, gây dựng cuộc sống ấm no cho con cháu ngàn đời sau. Cuộc tao ngộ kỳ lạ giữa Kinh Dương Vương và Long Nữ Động Đình đã diễn ra dưới chân núi này, bên dòng sông Đà. Đó cũng là cuộc hợp và chia của cha Rồng Lạc Long Quân với mẹ Tiên Âu Cơ bên bãi dâu Trường Sa. Cũng là cuộc so tài đọ sức không ngừng giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, giữa hai dòng lên núi và xuống biển. Đấu tranh để cho xã hội từng bước, từng bước tiến lên, để cho Đẻ Đất Đẻ Nước, hình thành nên trăm nơi đầu non góc biển, nơi ngự trị của trăm người con trai Bách Việt.

Có gì kỳ vĩ hơn thế! Tản Viên Sơn Thánh – Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương, người mở đầu công cuộc dựng xây đất nước bằng cây gậy thần đầu sinh đầu tử và cuốn sách ước mọi điều ứng nghiệm. Gậy thần sách ước là Hà đồ Lạc thư, là trí tuệ và thế giới quan siêu việt của Thánh Tản. Đó không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà là một lịch sử chân thực và hùng tráng của dân tộc.

Một lời khó nói hết về vị linh thần bất tử hàng đầu, vị Thánh tổ trời Nam Kinh Dương Vương. Những gì chúng ta biết về tổ về tông thật còn quá ít, quá sai lệch. Góp nhặt sự xưa chuyện cũ, tìm về chốn đền linh miếu thiêng, mong nhận ra cha, gặp lại mẹ từ hơn bốn ngàn năm xưa. Đó là những gì chúng tôi mong muốn ghi lại và gửi gắm tới mọi người dân Việt trong cuốn Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn này.

Thay cho lời mở đầu, xin lấy lời thơ của nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, một người sinh ra chính tại vùng núi Tản sông Đà này: “Nước non nặng một lời thề”. Đó là lời thề sông núi từ cha ông trao truyền cho con cháu để muôn đời dòng giống Việt trường tồn.

Tiết Trùng cửu năm Nhâm Dần 2022

Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách khổ 16×24, 378 trang, gồm 32 trang màu sơ đồ và ảnh di tích.

Mục lục

LỜI NÓI ĐẦU

THAY CHO LỜI DẪN

NAN GIẢI SƠN TINH

SỬ TÍCH SƠN TINH – THỦY TINH

Di tích thờ Tản Viên

Ngọc phả Tản Viên Đinh Phi Thánh Mẫu Hùng triều Việt Thường Thị

Ngọc phả cổ chép về Tản Viên Thánh mẫu Quốc mẫu Vua Bà Tam vị Đại vương triều Hùng Nam Việt

Ngọc phả ba vị Tản Viên Sơn Thánh, Tả Hữu Lưỡng Kiên Thần Cao Sơn, Quý Minh

Ngọc phả cổ chép về Thần nương họ Phan thời Việt Thường Thị sinh một bầu năm vị thủy quan

Linh Uyên Đại Vương ngọc phả

SƠ ĐỒ VÀ ẢNH DI TÍCH I

DI TÍCH TẢN VIÊN SƠN ĐẠI SỬ THI KINH DƯƠNG DỰNG NƯỚC

Vùng di tích Sơn Thánh Ất Sơn ở sông Lô, núi Lịch và hai công chúa Ngọc Hoa, Tiên Dung

Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh ở Phong Châu ven các sông Đà, Lô, Thao

Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh quanh núi Ba Vì và các hành cung Tản Viên

Vùng di tích phía Đông Thủy quốc Động Đình ven các dòng sông cổ

Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh và dòng Âu Cơ ở sông Đà, Hòa Bình, Ninh Bình

Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh ở Hà Nam và Ninh Bình

Các di tích Tản Viên Tam Vị đánh Thục vùng trung du Bắc Bộ

Các di tích Tản Viên Tam Vị đánh Thục vùng đồng bằng Bắc Bộ

Các di tích thờ Cao Sơn, Quý Minh và các vị đánh Thục ở đồng bằng Bắc Bộ

Di tích Thánh Tản – đại sử thi Kinh Dương Vương dựng nước

ĐỆ NHẤT LINH THẦN TẢN VIÊN SƠN THÁNH

Hương Lang, vị thần đứng đầu linh thần đất Việt             

Sơn Tinh, bất tử thành tiên

Nhạc phủ Thần Vương và Mẫu Thượng Ngàn

Tam Vị Tản Viên trong các thiện đàn Tam Giáo

SƠ ĐỒ VÀ ẢNH DI TÍCH II

THEO DÒNG LỊCH SỬ KINH DƯƠNG VƯƠNG

Nam quốc Anh Hoàng

Thế tộc Tản Viên Sơn

Đợi tuần tháng tám cá ăn thề

Bên bến sông Tương

Kinh đô Ngũ Lĩnh và Thủy quốc Động Đình

Đẻ Đất Đẻ Nước

Tả hữu kiên thần

Bốn giai đoạn của thời đại Hùng Vương

Kinh Dương Vương bản kỷ

Sách mới: DI SẢN VĂN HÓA ĐÌNH ĐỀN MẠO PHỔ

Mỗi một ngôi làng tồn tại cùng với cái tên của mình, cố nhiên đều mang theo ý nghĩa mà những người khai hoang lập làng ấp gửi gắm, đồng thời, nó cũng gắn liền với những biến cố lịch sử, những thăng trầm của làng quê ấy. Tên làng không đơn thuần chỉ là cái tên gọi. Nó chứa đựng phần nào bản sắc, phần nào nguồn cội của những người con đã lớp lớp tiếp nối bước ông cha trên mảnh đất này.

Chính bởi vậy, nó trở nên thiêng liêng và cháu con lớn lên luôn gìn giữ ngay cả khi chiến tranh, nghèo khó. Họ không bỏ tên làng như một yếu nghĩa rằng, họ không quên những ước muốn mà tổ tiên và ông cha bao đời ký thác, không quên làng quê, gốc rễ của mình.

Ngày nay, trong quá trình hội nhập, những giá trị văn hóa dân tộc cũng đang được từng bước kế thừa, phát huy. Nét đẹp trong văn hóa làng xã từ đình, chùa, đến hội làng, v.v. đang được phục hồi. Trong sự đổi mới, người ta nhắc nhau về những tên làng xưa cũ với tình cảm đặc biệt và ấm áp. Có những tên làng đã cùng tồn tại với lịch sử phát triển và những biển đổi thăng trầm của dân tộc qua hàng ngàn năm. Làng – Nước, có làng mới có nước. Đất lề, quê thói.

Mạo Phổ là một vùng đất như vậy. Mạo Phổ là một làng cổ thuộc huyện Thanh Ba, nằm bên tả ngạn sông Thao, cạnh thị xã Phú Thọ. Ngôi làng xưa có mỹ danh Mạo Phổ, tục gọi là làng Miễu. Mạo 瑁 trong chữ Nho có nghĩa là ngọc mạo, xưa các bậc thiên tử cầm để hội họp chư hầu. Phổ có nghĩa là rộng khắp. Mỹ danh Mạo Phổ cũng đã nói lên tầm quan trọng đặc biệt của địa phương này.

Địa linh sinh nhân kiệt. Điều đặc biệt của làng Mạo Phổ nằm chính ở các vị thánh thần được thờ tự trong các di tích của làng. Trải qua bao nhiêu thời kỳ chiến tranh, loạn lạc, nhưng người dân nơi đây vẫn gìn giữ được đầy đủ đình, đền, chùa, miếu trong ngôi làng của mình. Đình đền làng là nơi người dân làng kính nhớ các vị Đại vương và Thánh mẫu, là những người có công trạng lớn với đất nước và khai dân lập ấp ở nơi đây.

Đình đền làng Mạo Phổ thờ Thánh mẫu hiệu Trung Hòa, húy Duyên và 3 vị thánh ông là các con của Thánh mẫu:

  • Hiệu Đệ nhất Quan lang, húy Bút.
  • Hiệu Đệ nhị Quan lang, húy Lôi.
  • Hiệu Đệ tam Quan lang, húy Mao.

Thánh mẫu Duyên Hòa là thứ phi của vua Hùng thứ 17, sinh được 3 vị Đức ông, trưởng thành làm tướng đánh giặc Thục, lập nhiều công lớn. Các vị Đại vương này cũng là những người đã chiêu dân lập ấp, dựng nên một vùng đất trù phú đắc địa, nơi có sông Thao cuộn khúc giang loan, long mạch dẫn tụ về mà hình thành khu quần cư Mạo Phổ – Hạ Mạo tại thị xã Phú Thọ xưa.

Đình đền làng Mạo Phổ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, có giá trị như 6 đạo sắc phong, khám thờ, kiệu, những bức cổn chạm khắc rồng phượng bằng gỗ có niên đại cuối Lê đầu Nguyễn… Hằng năm, vào 4 dịp kỳ cầu, người dân làng tổ chức lễ hội với phần tế lễ, rước kiệu và những trò chơi dân gian đặc sắc. Đình đền Mạo Phổ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa kiến trúc cấp quốc gia năm 1993.

Khu di tích đình đền Mạo Phổ được xây dựng từ thời Hậu Lê với quy mô kiến trúc chia làm 2 phần: đình và đền. Đình và đền nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, hướng về phía Đông nhìn ra bãi bên bờ sông Thao. Hiện nay, ngôi đình cũ đã được những người con của làng quê Mạo Phổ đã phát tâm tu sửa, kiệu nâng toàn bộ kiến trúc đình lên cao cho trang nghiêm hơn, rộng rãi hơn, xứng đáng hơn với tầm vóc của các vị thần thánh tại đây.

Miếu Đức bà Mạo Phổ là nơi thờ phụng Thánh mẫu Duyên Hòa, trước đây được lập ở một nơi riêng biệt. Trong quá trình xây dựng đường đê đi qua làng, miếu cũ đã được dời đến nơi mới trong cùng khuôn viên với đình và đền làng. Trong miếu còn lưu được di tượng của Thánh mẫu linh thiêng và uy nghiêm.

Không chỉ đình đền miếu được người dân Mạo Phổ làm lại cho trang nghiêm hơn mà vào dịp này, nhờ một nhân duyên hiếm có, nội dung bản ngọc phả làng Mạo Phổ bị thất lạc trước đây đã được đưa về đúng với nơi thờ tự của nó. Với điềm chim Phượng ngậm chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ khi các vị Đại vương Bút Lôi Mao ra đời cho phép liên hệ với dòng Phượng theo mẹ Tiên Âu Cơ lên núi, sáng tạo ra những chiếc trống đồng vang vọng như tiếng sấm, trên đó khắc đúc hình người đội lông mao, là sự xưng danh dân tộc trường tồn từ thời Hùng Vương.

Bên cạnh đó, thần tích làng Hạ Mạo, là làng kết chạ anh em với làng Mạo Phổ, cũng được khai thác dịch và khảo cứu. Bản thần tích gốc của làng Hạ Mạo vốn được người dân con cháu họ Lê ở làng gìn giữ hơn cả tính mạng của mình. Khi có chiến tranh giặc giã đến tàn phá làng, thần tích được người dân mang theo chạy giặc vào rừng, cất giữ mà lưu truyền ngàn năm.

Sự tích các vị thần được thờ ở Mạo Phổ và Hạ Mạo đã soi tỏ cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc ta. Đó là giai đoạn cuối của thời Hùng Vương, qua thời Thục Vương đến khi nhà Triệu lập quốc Nam Việt với kinh đô ở Lưỡng Quảng. Những thông tin vô cùng quý giá từ ngọc phả cùng di tích và tục thờ thần ở Mạo Phổ là minh chứng rõ ràng cho lịch sử hào hùng của người Việt trong giai đoạn này.

Sự tích Mạo Phổ – Hạ Mao còn cung cấp những thông tin hết sức thú vị và quan trọng về tộc tính họ Lê được sách phong rất sớm vào thời Hùng Vương. Có thể nói, đây là ghi nhận chính thức được biết sớm nhất về vị tổ họ Lê ở thời gian trên 2.200 năm trước. Đồng thời, những vị tổ họ Lê đó cũng là những vị tiền hiền khai sáng, lập nên khu vực dân cư đông đúc ven bờ sông Thao xưa, mà nay là thị xã Phú Thọ.

Cuốn sách Di sản văn hóa đình đền làng Mạo Phổ được ra mắt quý vị từ tấm lòng kính ngưỡng và tri ân đến tiền nhân, nguồn cội của người con làng Mạo Phổ. Cùng với những tư liệu chữ Nho vừa được tìm thấy và phiên đọc, cuốn sách cũng giới thiệu tác phẩm Duyên Hòa Thánh mẫu diễn ca, là bài thơ lục bát dài do một người con họ Lê đất Mạo Phổ đã xúc cảm sáng tác về Thánh mẫu nhân dịp xã đón nhận bằng Di tích Lịch sử Văn hóa Kiến trúc cấp quốc gia năm 1993.   

Vận nước, mạng mạch của quốc gia, xã tắc được vững bền chính là bởi từ những hạt giống lành như thế nơi mỗi lòng người làng quê được ươm mầm nuôi dưỡng. Xin trân trọng kính dâng cuốn sách quý này lên anh linh các vua Hùng và tiên tổ dân tộc Việt Nam, thắp lên một nén nhang tìm về nguồn cội và bản sắc của đất nước.

Đối chiếu sự tích Mạo Phổ và Hạ Mạo

Sách in khổ 14,5×20,5 cm, giấy dày, bìa cứng, tổng số 212 trang.

MỤC LỤC

Lời giới thiệu

BẢN KHAI THẦN TÍCH THẦN SẮC

Bản khai thần tích thần sắc làng Mạo Phổ

Bản khai thần tích thần sắc làng Hạ Mạo

SỰ TÍCH VÀ LỊCH SỬ CÁC VỊ THẦN Ở MẠO PHỔ VÀ HẠ MẠO

Ngọc phả làng Mạo Phổ

Thần tích xã Hạ Mạo

Lịch sử thời hậu Hùng Vương qua thần tích ở Mạo Phổ và Hạ Mạo

CÁC SẮC PHONG LÀNG MẠO PHỔ

Sắc 1: Hợp phong Bản cảnh Thành hoàng năm Tự Đức thứ 33

Sắc 2: Hợp phong Bản cảnh Thành hoàng năm Đồng Khánh thứ 2

Sắc 3: Hợp phong Lôi Công và Mao Công năm Duy Tân thứ 5

Sắc 4: Phong Trung Hòa Duyên Nương Phu nhân năm Khải Định thứ 2

Sắc 6: Phong cho Lôi Công năm Khải Định thứ 2

Sắc 7: Phong cho Mao Công năm Khải Định thứ 2

Sắc 8: Phong cho Bút Công năm Bảo Đại thứ 19

Sắc 9: Phong cho Lôi Công năm Bảo Đại thứ 19

Sắc 10: Phong cho Mao Công năm Bảo Đại thứ 19

Sắc 11: Phong Duyên Hòa Thánh Mẫu thời Bảo Đại thứ 19

HOÀNH PHI, CÂU ĐỐI CÁC DI TÍCH Ở MẠO PHỔ VÀ HẠ MẠO

Tại đền Đức Ông Mạo Phổ

Tại đình làng Mạo Phổ

Tại miếu Đức Bà Mạo Phổ

Tại chùa Khánh Long

Tại đình Hạ Mạo

VĂN TẾ THẦN Ở MẠO PHỔ

Văn tế mồng 9

Văn tế mồng 10

DUYÊN HÒA THÁNH MẪU DIỄN CA

DI TÍCH VÀ TỤC THỜ CÁC VỊ LONG THẦN Ở PHONG CHÂU, NGÃ BA HẠC

Các di tích thờ thủy thần ven hai bờ Sông Thao

Các di tích thờ thủy thần ven sông Đà huyện Thanh Thủy và huyện Tam Nông

Các di tích thờ thủy thần nơi Ngã Ba Hạc             

Lời tri ngộ

Phụ lục

Bản sao chữ Nho ngọc phả làng Mạo Phổ

Bản chụp Thần tích xã Hạ Mạo

Nguồn gốc người Việt và chân tướng lịch sử thời đại Hùng Vương

Những giá trị mới trong cuốn Thiên thư: HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ NGỌC PHẢ sưu khảo, tái bản lần thứ nhất

Cuốn Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo do Nhóm Nghiên cứu Di sản văn hóa Đền Miếu Việt vừa mới được tái bản sau 1 năm ra mắt lần đầu, với 5000 ấn bản khổ lớn, bìa cứng, in màu 392 trang. Khác so với với bản in lần đầu, bên cạnh các bản Ngọc phả Hùng Vương trong lần tái bản thứ 1 này cuốn sách đã được bổ sung nhiều bài viết và tư liệu mới nhằm làm sáng tỏ lịch sử thời đại Hùng Vương của người Việt từ những góc độ tôn giáo, lễ hội văn hóa, di tích tín ngưỡng và di vật khảo cổ. Đây là những thông tin vô giá như chìa khóa để mở ra cánh cửa về với cội nguồn lịch sử thật sự hơn 4000 năm của người Việt.

1. Những đóng góp của Phật giáo

Điểm nổi bật của lần xuất bản này là có sự góp sức của các Thượng tọa Phật giáo. Mở đầu giới thiệu là thầy Thích Thọ Lạc, Trụ trì chùa Yên Phú, Trưởng Ban văn hóa trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có Đôi lời về Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả, trân trọng giới thiệu cuốn kinh sách này tới những người dân đất Việt có lòng yêu đất nước và mộ đạo pháp. Lời bạt của cuốn sách được Thượng tọa Thích Minh Thuận, Phó trưởng ban trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ, nơi đất tổ Hùng Vương viết, nêu bật Giá trị của sự tri ân báo ân tiên tổ đối với con người và xã hội Việt Nam hiện tại.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả đã cung cấp những dẫn chứng cụ thể về Đạo Phật du nhập rất sớm vào nước ta từ thời Hùng Vương, như việc Phật giáng dưới thời Hùng Chiêu Vương, tặng cho vua Hùng 2 bảo bối chế thành Thiên Linh kiếm và Vương Linh ấn. Bản thân bản Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền là bản được biên soạn bới Thư ký của Lê Đại Hành, tức là bởi vị Thiền sư Pháp Thuận nổi tiếng.

2. Tập hợp các ngọc phả Hùng Vương

Bản ngọc phả lưu tại đền Vân Luông với tên Hùng Vương kim ngọc bảo giám thực lục là sự tổng hợp các bản ngọc phả Hùng Vương được biên soạn qua các thời, bao gồm:

– Bản thời Lê Đại Hành là Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền với tên hiệu và các thông tin về 18 chi Hùng Vương.

– Bản thời Hậu Lê là Nam Việt sử ký là những câu chuyện thời Hùng Vương được ghi chép theo dòng lịch sử.

– Bản thời Minh Mạng bổ sung phần Hùng Vương tự lệ và lịch kỷ là những điển thờ, huyệt mộ và tục thờ Hùng Vương qua các triều đại.

Toàn bộ các bản ngọc phả này đã được dịch và cung cấp bản chụp gốc trong cuốn sách.

Cuốn sách cũng giới thiệu bản dịch cho Ngọc phả sự tích Quốc mẫu Tây Thiên Tam Đảo tối linh từ, là bản ngọc phả được lưu tại đền Hóa Đại Đình Tây Thiên, là chính bản thần tích cho việc phụng thờ Tây Thiên Quốc Mẫu, vị Mẫu đầu tiên của người Việt thời Hùng Vương.

3. Đối chiếu ngọc phả và di tích tín ngưỡng Hùng Vương

Ngọc phả Hùng Vương vốn là sách báu dùng trong việc thờ cúng các vị vua Hùng nên khảo cứu ngọc phả Hùng Vương không thể tách rời khỏi những di tích tín ngưỡng và văn hóa gắn với miền đất Tổ. Đối chiếu Ngọc phả với các di tích và các vùng văn hóa Hùng Vương cho phép xác tín những thông tin trong Ngọc phả về các vua Hùng, cũng đồng thời giúp chúng ta có được một góc nhìn và sự hiểu biết sâu sắc chính xác hơn đối với Ngọc phả, với từng nhân vật, sự kiện được quốc phả ghi lại và lưu truyền.

Mỗi một vùng di tích gắn với những nhân vật và câu chuyện cụ thể. Vùng di tích đền Hùng gắn với tục thờ Tam Sơn Thánh Tổ Hùng Vương. Vùng Phú Thọ và phía Bắc đền Hùng nổi bật là các di tích thờ Thái tổ Hùng Vương Đột Ngột Cao Sơn. Vùng hữu ngạn sông Lô ở phía Đông đền Hùng là phạm vi thờ 2 vị Viễn Sơn Thánh Vương, Ất Sơn Thánh Vương cùng 2 vị công chúa Ngọc Hoa Tiên Dung. Vùng núi Lịch ở Sơn Dương, Tuyên Quang là bằng chứng rất rõ ràng về sự tích Ất Sơn Đế Thuấn lập nghiệp…

4. Văn tự thờ Hùng Vương

Ngoài việc cung cấp các tư liệu Hán Nôm của đền Vân Luông (Vân Phú, Việt Trì) lần xuất bản này còn cung cấp toàn bộ tư liệu của đình làng Triệu Phú hay đình Trẹo. Làng Trẹo vốn là dân trưởng tạo lệ của đền Hùng nên việc thờ cúng ở đền Hùng đều do dân làng Trẹo đảm trách. Khi đền Hùng được tu sửa thành di tích quốc gia như hiện nay thì các hoành phi câu đối cổ đã được đưa về để trong đình làng Trẹo. Những bức hoành phi và câu đối này là vật chứng rõ ràng cho tục thờ cúng Hùng Vương như tổ của Bách Việt.

Làng Trẹo cũng là nơi có tục đón vua Hùng về ăn Tết với dân làng nên nơi đây còn có một bộ văn tế Hùng Vương theo các kỳ lễ tiết rất đặc sắc, từ văn tế ngày 26 tháng Chạp, tế Nguyên đán, mồng 2, mồng 4, mồng 6, mồng 7 tháng Giêng tới văn tế ngày mồng 1, mồng 2 tháng 8.

5. Lịch đồ 18 triều Hùng Vương

Phần đặc biệt giá trị trong cuốn sách trong lần xuất bản này là việc khảo cứu và lập nên phả đồ kết nối toàn bộ lịch sử 18 triều đại Hùng Vương, với 4 giai đoạn phát triển của xã hội Việt từ thấp đến cao. 5000 trước Đế Minh đã khởi đầu dòng họ Hùng, lập nên triều đại các Hùng Vương Sơn Thánh Tổ. Sơn triều truyền tới Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân thì bắt đầu thời kỳ thị tộc phụ đạo, cha truyền con nối. Kinh triều trải qua các đời, tới Hùng Duệ Vương thì nhường lại vị trí thiên tử của thiên hạ cho dòng Thục Âu Cơ, bắt đầu thời kỳ phong kiến phân quyền, 1 thiên quốc và trăm chư hầu Bách Việt. Thời kỳ Thục triều này kéo dài hơn 800 năm thì được thống nhất bởi nhà Triệu, xã hội Việt bước sang chế độ phong kiến tập quyền.

Đi xa hơn những bản ngọc phả trước đây khi chỉ nêu tên hiệu các vua Hùng, phả đồ lịch sử Hùng Vương trong sách đã nêu rõ chi tiết các tên gọi, quốc hiệu, niên đại, vị trí kinh đô, các truyền thuyết và di tích liên quan tới từng tên hiệu trong 18 Hùng triều. Cuốn sách cũng cung cấp một bảng đối chiếu các giai đoạn Hùng Vương với các nền văn hóa khảo cổ trên đất Việt qua các thời Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun tới Đông Sơn.

6. Thời đại Hùng Vương trên báo Lao Động

Cuốn sách công bố một loạt các bài đã đăng trên báo Lao Động trong năm 2021 với những chủ đề khác nhau trả lời cho các câu hỏi thường gặp về thời đại Hùng Vương. Đó là về 3 vị vua Hùng thờ ở đất tổ, về núi Thái công cha và suối Nguồn nghĩa mẹ, về Tản Viên Sơn Thánh trị thủy sông Đà, về bãi Trường Sa nơi Tiên Rồng gặp gỡ, về kinh đô đầu tiên của nước Việt Thường bên bờ hồ Dâm Đàm, về chiếc Âu vàng đựng bào ngọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ, về nguồn gốc các dòng họ người Việt… Đây là những bài báo ngắn gọn nhưng nội dung rất đặc sắc, như lần lượt hé mở từng cánh cửa tìm về với cội nguồn người Việt.

Cuốn sách Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo là sự giải đáp cho các thắc mắc của người đọc từ việc thờ cúng các vị thánh tổ Hùng Vương, là nguồn tư liệu quý báu của cha ông để lại về lịch sử người Việt đến những bảng biểu, sơ đồ khái quát được lịch sử hàng ngàn năm với những phương pháp và góc nhìn nghiên cứu độc đáo. Tất cả đặt trong một tâm thức hướng về nguồn cội và tri ân công đức tổ tiên.

Đây là cuốn Thiên thư về cội nguồn của người Việt, nước Việt, mà bất cứ ai là con cháu vua Hùng không thể không tìm đọc.

Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ

Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đới thượng triều tôn.

Sách ebook VIỆT ĐIỆN TỨ LINH Tứ phủ, Tứ linh, Tứ bất tử, Tứ trấn, Tứ pháp

Lời nói đầu

Thường nghe: nước Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến… Bốn ngàn năm, con số không hề nhỏ đối với lịch sử của một quốc gia trên thế giới này. Bốn ngàn năm lịch sử đã kết tụ thành một nền văn hóa Việt phong phú, đặc sắc, giàu giá trị nhân văn. Lịch sử và văn hóa luôn gắn liền với nhau. Dòng chảy lịch sử làm nên văn hóa tộc người và văn hóa đến lượt mình định hướng cho hành vi của con người trong cuộc sống hiện tại mà làm nên tương lai.

Văn hóa Việt có một lịch sử lâu đời như vậy nhưng còn có biết bao câu hỏi về nguồn gốc, về lịch sử văn hóa Việt chưa được giải đáp thỏa đáng. Suy nghĩ hiện nay của đại bộ phận người Việt, kể cả các nhà nghiên cứu chuyên môn, cho rằng văn hóa Việt được hình thành chủ yếu mới từ thời Lý cách đây ngàn năm, vì trước đó là ngàn năm chịu sự đô hộ của phương Bắc và trước nữa là thời “khuyết sử”, không biết đã có “ta” hay chưa nữa. Và rằng văn hóa Việt là sự vay mượn, không phải của Trung Quốc thì là Ấn Độ, thậm chí còn là của Chămpa…

Có thực như vậy không? Di sản văn hóa Việt có gì đáng giá? Liệu văn hóa Việt có đóng góp đáng kể gì cho nhân loại? Tại sao Việt Nam sau ngàn năm Bắc thuộc lại vẫn thoát ra một cách độc lập, không bị đồng hóa? Bản lĩnh văn hóa của người Việt là do đâu mà có? Rất, rất nhiều câu hỏi cần tìm câu trả lời.

Thế hệ người Việt Nam hiện tại đang phải hứng chịu hậu quả của một thời kỳ đứt gãy hàng trăm năm về văn hóa, khi những nền tảng truyền thống kết tinh hàng ngàn năm bỗng nhiên bị gạt bỏ, thay bằng lối sống, văn hóa xa lạ của phương Tây. Trước hết là chữ Nho, thứ chữ tượng hình vốn là sản phẩm sáng tạo của người Việt đã bị thay bằng chữ quốc ngữ, dẫn đến nhiều từ, nhiều ngữ của tiếng Việt không còn được hiểu đúng, dùng đúng. Di sản văn hiến Việt được lưu giữ bằng chữ Nho trở nên “không đọc được” với đại bộ phận người Việt hiện nay.

Mỹ thuật, kiến trúc truyền thống cũng đã thay đổi hoàn toàn, thiếu sự tiếp nối hài hòa. Những mái đình, mái đền cong vút, tương trưng cho bầu trời bao la của phương Đông, bị thay bằng những nhà mái bằng khô cứng. Các nghề thủ công truyền thống như chạm khắc, đúc đồng, làm gốm, vẽ tranh… phần nhiều bị thất truyền hay mai một, khiến những sản phẩm ngày nay làm ra không thể nào có được nét tinh tế và sự sáng tạo của thời xưa. Giá trị thẩm mỹ trong văn hóa Việt như thế đã “tiến lùi” rất nhiều so với trước đây.

Các lễ hội truyền thống xưa kia làng nào cũng có, nay phần nhiều đã bị mai một sau thời gian chiến tranh loạn lạc kéo dài hàng trăm năm vừa qua. Tục thờ thần của người Việt vốn rất phong phú, ẩn chứa trong nó những giá trị tinh thần to lớn, cũng bị biến dạng, nhiều khi trở thành tệ nạn mê tín dị đoan vì không mấy ai hiểu đúng bản chất của những tín ngưỡng này.

Trong một hoàn cảnh khó khăn như vậy, cái gì để có thể chứng minh “Có một nền văn hóa Việt Nam” bản sắc và đáng giá? Nhận diện lại nguồn gốc văn hóa truyền thống do đó là việc làm hơn lúc nào hết cần thiết cho phát triển tương lai văn hóa Việt.

Nhà văn Hoài Thanh từng viết: Văn hóa phải khơi nguồn từ đại chúng: đó là điều nhất định. Một khi văn hóa đi xa đại chúng ắt sẽ mất dần sức sáng tạo, sẽ khô héo dần đi. Văn hóa cũng như một cái cây, không thể sống lơ lửng giữa trời. Muốn cho nó đâm chồi nảy lộc, phải cho gốc rễ nó ăn vào đất, nước. Khôi phục các giá trị văn hóa văn minh như vậy trước hết phải dựa vào đại chúng, vào như những di sản của dân gian còn lưu truyền lại được. Văn hóa dân gian thực sự còn nhiều khi “bác học” hơn cả văn hóa bác học ngày nay vì nó được cô đọng cả hàng ngàn năm lịch sử trong nội tại của mình.

Thành tựu của khoa học lịch sử gần đây đã sang một trang mới cho việc tìm hiểu văn hóa Việt. Phát hiện về nguồn gốc lịch sử Việt cũng đồng thời với việc xác định nguồn gốc và tiến trình văn hóa Việt. Nền văn minh Việt đã từng là ánh đuốc soi đường cho cả phương Đông đi lên trong suốt hàng ngàn năm của quá khứ. Di sản vật chất Việt trước hết phải kể đến là trống đồng, siêu phẩm trí tuệ và kỹ nghệ của người Việt. Trên trống đồng có ghi đầy đủ những khái niệm Dịch học, nền tảng của văn hóa của phương Đông. Những truyền thuyết Việt lại chép rất đầy đủ về công tích các thánh nhân, các lãnh tụ, các anh hùng nghĩa sĩ của lịch sử Trung Hoa. Những hình tượng mỹ thuật thường thức nhất, gặp trong các chốn đình đền Việt lại mang đậm tính Dịch lý và nét văn hóa của Trung Hoa cổ. Tại sao văn hóa Việt lại chứa đựng cả triết lý và nguồn gốc của Trung Hoa cổ đại?

Đạo thờ tổ tiên hay Đạo Hiếu ở người Việt đã làm nên một di sản văn hóa Việt bất hủ với hàng trăm các vị thần đủ mọi mặt của đời sống xã hội. Nổi lên hơn hết là những vị anh hùng, những thủ lĩnh của quốc gia đã có công dựng nước, giữ nước, phát triển văn hóa xã hội. Tất cả được lồng ghép vào một hệ thống tín ngưỡng mang tên là Công đồng Tứ phủ, với đầy đủ thứ bậc vua, quan, mẫu,…

Từ những hiểu biết mới về lịch sử và nền tảng Dịch học của văn hóa phương Đông cuốn sách này tập hợp những bài viết nhằm giải mã nguồn gốc văn hóa Việt qua phân tích những nhân vật được thờ trong thần điện Việt. Cuốn sách muốn gửi tới bạn đọc một sự góp nhặt mới, dù là rất nhỏ nhoi trong biển văn minh kỳ vĩ mà nhân dân Việt đã sáng tạo ra qua hơn bốn ngàn năm lịch sử.

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách phát hành online bởi Hùng Việt sử quán.

Bất kỳ sự sao chép, in ấn nào từ tác phẩm với mục đích thương mại đều phải được phép của tác giả.

Link tải sách:

https://drive.google.com/file/d/1cGNYy9di78ACcQ3qhi_Epq0HoFH5oOAH/view?usp=sharing

Liên hệ để nhận mật khẩu theo:

    Facebook: https://www.facebook.com/hungvietsuquan

    Email: bachviet18@yahoo.com, 

    Phone, Zalo: 0559551003.

Sách ebook HÙNG VƯƠNG TRUYỀN SỬ DIỄN NGHĨA

Lời nói đầu

Lịch sử của quốc gia, của dân tộc không thuộc về riêng ai. Các sử gia chép sử, các nhà văn hóa mô tả sử…, còn nhân dân mới là những người làm nên lịch sử. Trong khi những sử gia thận trọng biên chép các sự kiện lịch sử theo quan niệm chính thống mỗi thời đại thì còn một dòng sử khác tồn tại song song, với sức lan tỏa rộng hơn, sinh động hơn. Đó là dòng sử trong dân gian, được lưu truyền qua các câu chuyện kể, các di tích, các di vật, các danh nhân địa phương…

Cuốn sách Hùng Vương truyền sử diễn nghĩa nêu lên tiến trình hơn 2000 năm lịch sử của thời kỳ Hùng Vương từ một góc độ hoàn toàn mới. Phần chính của cuốn sách gồm 9 bài viết theo dòng lịch sử từ khi Thái tổ Đế Minh đi tuần thú dựng kinh đô Nghĩa Lĩnh, Kinh Dương Vương lấy Thần Long bên bờ Thủy quốc Động Đình, Lạc Long Quân mở nước về phía Đông Nam, Thánh Dóng đánh giặc Ân, Lang Liêu phân phong các anh em làm phiên dậu bình phong, An Dương Vương xây thành Cổ Loa cho đến Triệu Vũ Đế trảm xà khởi nghĩa ở núi Vũ Ninh, Trưng Vương đọc lời thề sông Hát quyết đền nợ nước trả thù nhà.

Cuốn sách được viết dưới dạng sử ký, tức là ghi chép các sự kiện theo dòng lịch sử, trên cơ sở tổng hợp, đối chiếu và sắp xếp từ các nguồn tư liệu thư tịch, văn hóa dân gian, di tích và di vật khảo cổ. Đây không phải một cuốn sách khảo cứu lịch sử, mà là một cách tái hiện lại lịch sử xa xưa của người Việt từ góc nhìn đối chiếu Hoa – Việt và các tư liệu mới. Bằng cách như vậy cuốn sách nhỏ này có tham vọng lớn đi tìm sự thật cho lịch sử nước Nam từ thời khai thiên lập địa tới đầu Công nguyên. Những bài sử ký Hùng Vương muốn góp phần nào chút ánh sáng soi tìm lịch sử chân xác của dân tộc đã chìm đắm sau hàng ngàn năm tăm tối. Người viết không sợ nêu lên những nhận định, suy đoán, mà muốn đưa những vấn đề lịch sử khúc mắc ra bàn dân thiên hạ cùng suy ngẫm. Mỗi cánh cửa hé mở thì sự thật lại càng gần hơn, tỏ hơn. Như vậy cũng là tâm nguyện của người viết đã thành.

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách phát hành online bởi Hùng Việt sử quán.

Link tải sách:

https://drive.google.com/file/d/1310gFYK3kTOH0ZQ5KcK-MUXWE4af3Y7I/view?usp=sharing

Liên hệ để nhận mật khẩu:

Facebook: https://www.facebook.com/hungvietsuquan
Email: bachviet18@bachviet18
Phone, Zalo: 0559551003.

MỤC LỤC 104 trang

Lời nói đầu

HÙNG VƯƠNG TAM THÁNH TỔ

    Lịch kỷ họ Hùng

    Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ

    Hồng Lạc Đế Nghi

    Lộc Tục Kinh Dương Vương

KINH TRIỀU BẢN KỶ

    Kinh Dương Vương

    Lạc Long Quân

    Hùng Duệ Vương

VIẾT NÊN SỬ DAO

    Trúc thư kỷ niên

    Thành Thang mở nhà Thương

    Bàn Canh lập Ân

    Trung Nguyên xá tội

PHONG THẦN DIỄN VIỆT NGHĨA

    Trụ Vương – Đát Kỷ

    Phượng gáy non Kỳ

    Văn Vương cầu hiền

    Thạch Linh thần tướng

    Vũ Vương khởi binh

    Phá Ân diệt Trụ

    Trảm tướng phong thần

    Phong hầu kiến địa

LANG LIÊU VÀ NƯỚC VĂN LANG

    Thần nông Hậu Tắc

    Âu Cơ lập nước Văn Lang

    Hùng Quốc Vương phân phong chư hầu

    Hùng Chiêu Vương gặp Tiên

    Văn Lang liệt quốc

AN DƯƠNG VƯƠNG, LOA THÀNH VÀ LẠC QUỐC

    An Dương Vương rời đô về Lạc Ấp

    An Dương Vương xây Loa thành

    Tần Thủy Hoàng Đông du

    Tây Vu Vương chống Hán

KHỞI NGHĨA CỦA TRIỆU ĐÀ

    Thuở đầu khởi nghĩa

    Chiếm Long Xuyên

    Xuất Thái Bình

    Kiến quốc Nam Việt

BỐN NHÀ TRIỆU TRONG SỬ VIỆT

    Triệu Đà – Trọng Thủy

    Long Hưng Triệu Vũ Đế

    Nhà Triệu – Lữ Gia

    Nam Triệu – Tây Lý Vương

Phụ khảo

NHỮNG CUỘC CHIẾN MỞ SỬ TRONG THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG

    Cuộc chiến mở nước của Hữu Hùng Đế Minh

    Cuộc tranh đoạt giữa Lạc Long Quân và Đế Lai

    Cuộc chiến về lại đất Lạc của Âu Cơ

    Cuộc chiến khởi dựng chế độ phong kiến nước Văn Lang

    Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Triệu Trọng Thủy

    Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Vũ Đế

    Khởi nghĩa Trưng Vương dòng Lạc Hùng chính thống

CHỮ KHOA ĐẨU TRÊN CÁC CỔ VẬT THỜI NƯỚC VĂN LANG

    Chữ Khoa đẩu thời Tây Chu

    Chữ Đại triện thời Xuân Thu Chiến Quốc

THẾ THỨ VÀ NIÊN BIỂU 18 TRIỀU HÙNG

    Thời thủ lĩnh cộng đồng

    Thời chế độ thị tộc phụ đạo

    Thời chế độ phong kiến phân quyền

    Thời chế độ phong kiến tập quyền

Về cuốn sách: “Quốc Sư Minh Không Qua Di Sản Văn Hóa Đền Thánh Nguyễn”

Đến ngày Tết ông Táo cuốn sách sẽ được in xong.

Chúng tôi muốn viết thêm để giới thiệu rộng rãi đến những người quan tâm vị Quốc sư Lý triều Nguyễn Minh Không.

Điều phải nói trước nhất, là nỗ lực của chúng tôi, một nỗ lực vượt lên trên chính mình để có được tác phẩm về Quốc sư Minh Không kịp ra mắt năm nay, cống hiến đến đông đảo mọi giới. Ai cũng biết, vấn đề về Minh Không và Không Lộ có sự đan xen lẫn lộn nhân thân giữa 2 nhân vật. Cả mấy trăm năm qua, học giới nghiên cứu về 2 vị Thánh tăng này, vẫn chưa dứt điểm câu trả lời, Không Lộ và Minh Không, là hai người hay một người?

Trong 1 buổi tọa đàm chia sẻ do Nhóm Chùa Việt tổ chức tại nhà sách Văn hóa Đông Tây, cách đây mấy năm trước, Giáo sư Tiến sĩ Hòa thượng Thiền sư Lê Mạnh Thát, Người đã trả lời câu hỏi đó thế này: “Vấn đề về Không Lộ chắc để thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu và làm rõ“.

Đã có quá nhiều những bài viết, những công trình nghiên cứu, những tranh luận như thế về Không Lộ và Minh Không 1 người hay 2 người.Tối thiểu, ta biết rõ là từ Đặng Xuân Bảng (1828-1910), một nhà Nho, một trí thức lớn, một Phật tử thuần thành đã nêu lên vấn đề này và xử lý. Tuy thế, vấn đề vẫn chưa được làm sáng tỏ dứt điểm hoàn toàn.

Những năm trước, tại Bái Đính đã có 2 Hội thảo về quốc sư Minh Không diễn ra. Hội thảo đầu tiên “Lý triều Quốc sư – Thiền sư Nguyễn Minh Không với nền y học Việt Nam“. Hội thảo thứ 2 “Thân thế sự nghiệp Nguyễn Minh Không” do UBND tỉnh Ninh Bình kết hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức vào ngày 6 tháng 9 năm 2019.

Thế rồi, vẫn dừng lại ở Hội thảo với những bài viết, đầy những dữ liệu trích dẫn…Lạ thay là chưa một công trình nào tiếp cận và làm rõ về nơi quê hương bản quán của ngài, hiện là nơi có ngôi Đền Thánh Nguyễn thờ Ngài, có những gì về tư liệu liên quan cuộc đời ngài?Cuốn sách “Quốc sư Minh Không qua di sản văn hóa Đền Thánh Nguyễn” là một cách giải quyết để làm rõ về câu hỏi Không Lộ Minh Không 1 hay 2 nhân vật.

Bước đầu, như thế, chúng tôi đã cống hiến được cho tất cả mọi giới, nhất là những nơi có thờ cúng Ngài là các di tích lịch sử Đền Đình Chùa, và các nhà nghiên cứu cũng như quần chúng quan tâm về Thánh về vấn đề thắc mắc nhân thân nhầm lẫn giữa 2 vị một cách rõ ràng và cụ thể.Năm năm qua, đi rong ruổi khắp hết các di tích những nơi thờ Thánh từ Thánh Hóa, Ninh Bình, Thái Bình, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Hà Tây cũ, Hà Nội, Hà Nam… là đình, đền, chùa miếu, những di tích ấy, nhân dân truyền nhau và tư liệu đều cho vị thánh tăng họ thờ có quê quán Đàm Xá – Gia Viễn, Ninh Bình.

Và ngay tại Đền Thánh Nguyễn, ta biết, đang tồn tại nơi là quê hương, là quê cha đất tổ thờ Quốc sư Minh Không nhưng tư liệu qua bi văn… vẫn nằm đó.Cái tên Quốc Thanh, được nhắc đến qua cuốn Thuyền Uyển Tập Anh một tác phẩm Phật giáo đời Trần, thế mà đến nay, hiện vẫn còn đó, là tên thôn của Điềm Giang xưa nay thuộc xã Gia Thắng, tất nhiên là nó quá hiển nhiên với dân làng Điềm, nhưng nó vẫn xa lạ với giới nghiên cứu khi đi tìm ngôi chùa Quốc Thanh mà Minh Không tu hành được TUTA nhắc đến.

Còn nhiều và quá nhiều những vấn đề như thế, đã bị bỏ trống khi nghiên cứu về quốc sư Minh Không, hoặc chí ít, nó không được khảo sát 1 cách có hệ thống nhất khai thác tư liệu di văn ở nơi quê hương của Thánh qua di sản Hán Nôm Đền Thánh Nguyễn.”Quốc sư Minh Không qua di sản văn hóa Đền Thánh Nguyễn” tập trung khai thác toàn bộ những gì liên quan còn lưu tại Đền từ văn bia, văn cúng, ngọc phả, văn tế, câu đối. Phải nói, quả là Đền Thánh Nguyễn xứng đáng để chúng tôi tiếp cận bước đầu công trình nghiên cứu của mình về các vị Thánh tăng đời Lý: Không Lộ, Minh Không Giác Hải và Từ Đạo Hạnh vì ở đó còn quá nhiều tư liệu.

Về sắc phong. Hiện ở Đền còn 51 đạo sắc phong, bắt đầu từ đạo sắc sớm nhất, Dương Hòa ngũ niên (1639) đến đạo sắc cuối cùng đời Khải Định thứ 9 (1924).

Về văn bia. Đền Nguyễn còn văn bia sớm là bia Phúc Thái tam niên (1644) và bia muộn nhất Bảo Đại thập tứ niên (1938).

Về văn tế. Đây là mảng rất đặc sắc ở Đền Thánh Nguyễn. Văn tế được làm trong dịp lễ khánh thành Đền. Đó là di sản về Tế lục khúc trong Lễ hội ở Đền Thánh Nguyễn. Cả sơ đồ tế lễ vẫn còn cẩn thận được lưu giữ. Tôi cảm động là khi bắt gặp kích thước, số đo để may áo thánh mặc cho tượng thánh được truyền lại qua nhiều đời.

Về ngọc phả. Đền còn giữ bản ngọc phả rất cổ. Ngọc phả về Minh Không và về thánh Tô. Đọc ngọc phả về Tô Hiến Thành, ta rất ngạc nhiên là ngọc phả về Tô Hiến Thành được ghi là Tô Hiến Thành sinh ra ở Điềm Xá, Điềm Giang xưa.Ngọc phả, nhất là ngọc phả về Minh Không cho ta thông tin quá rõ về người cha của Minh Không là ai? và về quê quán người mẹ của Thánh.

Về câu đối. Riêng câu đối cũng cung cấp cho ta 1 lượng thông tin không hề ít để xác định vị trí ngôi Đền, bản quán…

Về cây Đèn đá nổi tiếng qua truyền thuyết nơi này, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi phát hiện nó chính là cột kinh Đinh Liễn, không gì khác hơn.

Còn nhiều những vấn đề đã được làm sáng tỏ qua cuốn sách chúng tôi công bố lần này. Ví dụ: 

– Để dịch và chú chừng ấy tư liệu ở Đền Thánh Nguyễn chắc không đòi hỏi quá nhiều thời gian và công sức. Nhưng, để hiểu và phân tích được chừng ấy tư liệu, qua tác phẩm này, quý vị sẽ thấy, chúng tôi phải viện dẫn hết tất cả các tư liệu ở khắp các nơi có di tích về Thánh, các tư liệu mới tìm được 5 năm qua nói về thánh.

– Từng di tích 1 được liệt kê đầy đủ ở đây. Đó là sắc phong, bài vị, văn bia, tư liệu từng nơi ghi chép gì… Có thế, chúng tôi mới có thể so sánh và phiên chú được những gì còn lưu giữ nơi Đền Thánh Nguyễn.

Tuy thế, triệt để vấn đề, mà qua cả nghìn năm tồn tại và phát triển sâu rộng như sự tích và di tích về Minh Không thì chúng tôi lần lượt làm sáng tỏ và cống hiến thêm trong các công trình sau vào những năm tới.Dự định 10 năm nghiên cứu về Minh Không Không Lộ… như vậy đã khép lại 5 năm. Trong 5 năm tới, chúng tôi sẽ lần lượt cho xuất bản và giới thiệu tiếp các công trình này của mình.Hy vọng đón nhận sự yểm trợ và đóng góp chung của tất cả quý vị yêu mến vị Thánh tăng đời Lý mà chúng tôi đang nghiên cứu.

Điểm đáng trân quý nhất của công trình này, vẫn là việc tiếp cận và công bố những tư liệu gốc vốn có đang được lưu giữ ở ngôi Đền Thánh Nguyễn.Trân trọng giới thiệu đến quý vị món quà quý của chúng tôi, cuốn sách: “Quốc sư Minh Không qua di sản văn hóa Đền Thánh Nguyễn“.

Cuốn sách có lời giới thiệu của GS – Hòa thượng, thiền sư Lê Mạnh Thát và sự đóng góp của cả Nhóm thông qua Nhóm NCDSVH Đền Miếu Việt.

(Quý vị có thể đăng ký mua sách từ bây giờ!) 

Bài giới thiệu của thầy Thích Tâm Hiệp, chủ biên sách Quốc sư Minh Không qua di sản văn hóa Đền Thánh Nguyễn