Na Tra Đổng Thiên Vương

Câu chuyện về Na Tra Thái tử trong Phong Thần diễn nghĩa, cuốn truyện lịch sử về quá trình sụp đổ của nhà n Thương và sự thành lập nhà Chu vào thời điểm cách nay trên 3000 năm, tưởng như không có quan hệ gì với lịch sử nước ta. Nhưng những di tích và sự tích về Phù Đổng Thiên Vương ở Việt Nam lại là những dấu tích lưu truyền cuộc đời và sự nghiệp của Na Tra Thái tử.

Linh đồng giáng thế

Phong Thần diễn nghĩa kể Na Tra là Linh Châu Tử được Thái Ất Chân Nhân cho giáng sinh vào nhà của tướng trấn thủ Trần Đường quan là Lý Tịnh. Mẹ của Na Tra là n phu nhân thai nghén 3 năm rưỡi, sinh ra một bọc lớn có mùi thơm ngào ngạt. Cái bọc nứt ra một đứa bé nhanh nhẹn, khác thường, người quấn dải lụa đỏ Hỗn Nguyên lăng, tay cầm vòng Càn khôn.
Bản Sự tích đền thiêng Bộ Đầu ở Thường Tín, Hà Nội trích lại sách Thượng Phúc cổ tự danh lam, kể rằng đời Hùng Vương có bà góa phụ là Bùi Thị Dung, một hôm đi chơi động Hoàng Nham, bà thấy chiếc bàn đá, trên sạch sẽ liền ngả lưng nằm nghỉ. Tiếp đó, bà nhìn thấy một vết chân người rất to, bất giác bà đặt chân ướm thử. Bỗng một chiếc bọc từ trời rơi xuống đúng vào bụng, bà bàng hoàng đứng dậy rồi từ đó có mang. Mang thai được 31 tháng, sinh ra một chiếc bọc hình như búp sen hồng, trong bọc có tiếng khóc và tiếng cựa quậy. Bà Dung rất kinh sợ, liền gửi lại động Hoàng Nham rồi trở về nhà …
Chuyện kể về Đổng Thiên Vương xuất sinh ở Bộ Đầu hoàn toàn giống mô tả trong chuyện về Na Tra Thái tử khi bà mẹ mang thai tới gần 3 năm, sinh ra một bọc có mùi thơm, nứt ra thành một cậu bé khổng lồ…
Cách kể thông thường về Thánh Dóng hạ sinh như trong thần tích xã Phù Đổng là bà mẹ, dẫm lên một dấu chân, rồi thấy có ánh hào quang từ trên trời rớt xuống người, từ đó mang thai. Sinh con qua 3 năm mà không nói câu gì, chỉ nằm 1 chỗ. Cách kể này xét ra chỉ là dị bản của cách kể như ở đền Bộ Đầu về sự sinh nở kỳ lạ với điềm trời hào quang giáng xuống, kéo dài hơn 3 năm mới thành hình hài con người.
Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả chép rằng: Thần là Bắc Đẩu Tinh Quân giáng sinh làm Xung Thiên Thần Vương, so với sự tích Linh Châu Tử đầu thai giáng trần trong Phong Thần diễn nghĩa cũng không khác nhau nhiều.

Tắm ở hồ Tây và giết giao long

Phong Thần diễn nghĩa kể, một hôm Na Tra đi chơi, xuống tắm trên sông, cởi dây lưng đỏ Hỗn Thiên Lăng của mình ra giặt làm cho cả sông nổi sóng, rung rinh tới tận Thủy cung. Dạ Xoa Lý Cấn và Tam thái tử của Long Vương biển Đông hiện lên đều bị Na Tra đánh chết. Na Tra còn rút gân rồng, bóc vảy rồng của họ nhà Long Vương. Long Vương Đông Hải định kiện lên tận trời, rồi kéo cả Tứ hải Long Vương đến hỏi tội, bắt trói cha mẹ của Na Tra. Na Tra đành phải bóc thịt, lóc xương trả cho cha mẹ.
Sự tích Phù Đổng Thiên Vương cũng có chuyện Thánh Dóng đi tắm và giết rồng như Na Tra. Thần tích xã Xuân Tảo (Từ Liêm, Hà Nội) chép: Cậu bé ruỗi chân rồi đứng lên, hắt hơi mười cái, thành người cao lớn hơn 10 trượng, áo quần không thể may kị, tiếng dõng dạc nói: Ta là Thiên tướng, rồi cưỡi lên ngựa sắt, nhảy vút lên ngựa phi như bay, thoặt đã được trăm dặm, rồi ra tắm ở bến Tây Hồ, tức giáp ranh xã Minh Cảo.
Di tích nơi Thánh Dóng đi tắm bên Hồ Tây nay là đền Sóc ở xã Xuân Tảo. Nơi đây còn cả một khu “mộc dục” của Thánh Dóng. Sự kiện Thánh Dóng tắm Hồ Tây không phải là sau khi đi đánh giặc về, mà là trước khi Thánh Dóng ra trận.
Sách Thăng Long cổ tích khảo kể về đền Sóc Thiên Vương: Ở trên gò Phượng Cảnh thuộc ấp Minh Tảo, Tây Hồ huyện Vĩnh Thuận. Vương người ở hương Thường Lạc, nay thuộc làng Sóc Sơn huyện Kim Anh. Vương là vị chân nhân người thời Hùng Vương, sau khi đắc đạo về trời, mẹ ngài ở trần thế bị giao long trong hồ làm hại, Vương liền giáng trần giết chết giao long, rước mẹ trở về rồi hóa. Khi thần giáng đã để lại dấu chân lớn trên gò, nên dân ở đây lập đền thờ phụng. Triều Lý đắp tượng ngài để thờ, tượng rất cao lớn, sau khi công việc hoàn thành phong cho thần là Xung Thiên Thần vương… Vương chính là Trấn Bắc sơn thần hóa thành.
Có thể thấy việc Thánh Dóng tắm ở hồ đi liền với việc Thánh giết rồng cứu mẹ, giống hệt chuyện Na Tra Thái tử giết Tam thái tử Long cung và bắt cả Long Vương Đông Hải mà bóc vảy. Hồ Tây vốn là kinh đô của Thủy quốc Động Đình, nơi có các vị Long Vương ngự trú như trong truyền thuyết về Uy Linh Lang ở các làng Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm phía bên kia hồ.
Cùng giống sự tích Thiên Vương giết giao long là thần tích làng Bộ Đầu ở xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội: Đổng Xung Thần Vương lập tức giáng xuống, thân hình cao hơn 31 thước, đầu đội bách tinh rực rỡ, mình khoác áo long bào kim giáp, mặt tựa vầng dương, mắt như sao sáng, tay cắp long đao. Một chân đặt giữa cánh đồng, chân kia dẫm lên đôi giao long ngoài bãi sông. Rồi ngài nâng Vương mẫu trên bàn tay trái, trong chốc lát Vương mẫu đã biến thành một ngôi tháp lớn. Thần vương giết đôi giao long cứu mẹ, sau đó đặt mẹ trong lòng bàn tay trái và bay vút về trời.
Dòng sông Hồng xưa kia vốn nối liền với Hồ Tây và dọc sông Hồng từ khu vực Hồ Tây xuôi xuống vùng Thường Tín – Hà Nam là vùng thờ các vị thủy thần Linh Lang, tức là khu vực của Thủy phủ Long Vương.
Câu đối ở đền Bộ Đầu:
Tự đa đào chú thành chân tượng
Trực thượng phi đằng sính dị long.

Nghĩa là:
Bởi nhiều đất đúc thành chân tượng
Thẳng từ trời xuống diệt rồng kinh.

Một di tích khác có liên quan đến Thánh Dóng đi tắm và Long Vương là đền Sọ hay đền Tam Tổng ở Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội. Đền Sọ là nơi Thánh Dóng đã gội đầu ở giếng nước trước sân đền. Giếng nước xưa nay vẫn còn. Trong nội điện đền Sọ là tượng Thánh Dóng cùng bài vị Mẫu thân và Long Vương. Ban thờ bên trong điện còn có bức tranh vẽ một thiếu niên mặc giáp, cưỡi ngựa, tay cầm bụi tre ngà. Các cụ giữ đền cho biết đây là bức vẽ… Na Tra thái tử.

Diệt giặc Ân và thành Thiên tào

Khi Na Tra róc xương thịt trả cha mẹ thì hồn được thầy là Thái Ất dùng hoa sen làm cốt cho nhập hoàn sinh. Na Tra được thầy giao cho vũ khí là cây giáo Hỏa tiêm thương và cặp bánh xe Phong hỏa luân làm chân thay cho ngựa. Còn cha của Na Tra là Lý Tịnh được các đại tiên ban cho Lung linh tháp làm bảo bối để chế ngự tính hiếu sát của Na Tra. Sau này Lý Tịnh trở thành Thác Tháp Lý Thiên Vương.
Cha con Na Tra và Lý Tịnh cùng đầu quân cho Tây Kỳ nhà Chu chống lại Trụ Vương nhà Ân Thương. Na Tra trở thành là tướng tiên phong của Tây Kỳ, lập nhiều chiến công lẫy lừng. Sau khi Trụ Vương bị diệt, Khương Tử Nha đăng đàn Phong thần, cả nhà Lý Tịnh và Na Tra lên trời đắc đạo làm thiên tướng.
Cặp bánh xe lửa bay của Na Tra so với ngựa sắt phun lửa của Phù Đổng Thiên Vương rất tương đồng. Còn vũ khí của Na Tra là cây giáo Hỏa tiêm thương cũng giống như vũ khí của Thánh Dóng. Trong thần tích ở Bộ Đầu, Thần Vương đã yêu cầu nhà vua đúc cho thanh đao sắt:
Trăm cân sắt thép luyện thành đao
Lưỡi sắc cao dài hơn trượng
Cứ luyện xong đao người khắc hiện
Dương Tào sẽ gặp được Thiên tào.

Đổng Thiên Vương ở đây xưng mình là Thiên tào, là chức quan trên Thiên đình.
Còn ở Sóc Sơn có truyền thuyết Thần Vương hiển thánh trên sông ở đất Thái Nguyên trong cuộc chiến chống Tống thời Lê Hoàn. Khi đó Thần vương mặc bộ giáp vàng, tay cầm giáo vàng. Câu đối đền Thượng Sóc Sơn mô tả:
Thiên thượng giáng thần, thiết mã thiết tiên Chu Việt động
Thủy trung hiển thánh, kim thương kim giáp Thái Nguyên hàn.

Nghĩa là:
Thần xuống từ trời, ngựa sắt roi sắt rung Chu Việt
Thánh hiện trên sóng, giáo vàng giáp vàng lạnh Thái Nguyên.

Lại nữa, sách Thiền uyển tập anh kể thiền sư Khuông Việt khi lên núi Vệ Linh, đêm đến mộng thấy một vị thần, tay trái cầm câu thương vàng, tay phải cầm bảo tháp, theo sau có hơn mười người.
Bài thơ Phù Đổng sự tích diễn âm diễn tả đoạn quốc sư Khuông Việt gặp Xung Thiên Thần Vương như sau:
Vốn ta nay Thái tử Na Tra
Vị Hùng Vương loạn quốc gia
Khâm sai đế mệnh dẹp trừ n binh.
Non Vệ Linh, Sóc Sơn ruổi ngựa
Thoát chiến bào thụ hạ thăng thiên
Lên triều thượng đế ngự tiền
Lại hoàn cựu chức cầm quyền lục cung.

Thần tích xã Phù Đổng cũng chép: Ta là “Cha Sa” thái tử. Xưa ta là Cảnh Kỳ, phụng mệnh Thiên đế tiêu trừ giặc cho Hùng Vương, sau trở về bổ chức cũ ở Thiên Tào. Trên đỉnh núi cao kia là nhà của ta.
Tới đây thì không còn nghi ngờ gì nữa, Thần Vương đã hiển linh trước quốc sư Khuông Việt, xưng mình là Na Tra Thái tử, đã giúp vua Hùng diệt giặc n rồi bay lên trên núi Vệ Linh, lên trời nhận chức Thiên tào. Ngay cả hình ảnh Na Tra biến hóa 3 đầu 6 tay cũng có trong sự tích Đổng Thiên Vương. Đó là khi Đổng Thiên Vương hiển linh ở Bộ Đầu thời vua Lê chúa Trịnh, có 8 người đi theo tùy tùng, gọi là Bát Bộ Kim Cương. Hay như trong Thiền uyển tập anh cũng chép, theo sau Thần Vương có hơn mười người.
Na Tra Thiên Tử được thờ ngay trong các di tích thờ phụng Phù Đổng Thiên Vương. Đền Hạ Mã ở thôn Phù Mã, xã Phù Linh, Sóc Sơn, tương truyền là nơi Thánh Dóng sau khi thắng giặc n đã xuống ngựa để lại yên cương và ngọc duẩn. Trước sân đền còn cây cọc đá buộc ngựa, lâu ngày đã có cây đa cổ thụ đã mọc trùm lên. Trong đền ở hậu cung bài trí 3 pho tượng thờ gồm Phù Đổng Thiên Vương, Vu Điền Quốc Vương, Na Tra Thiên Tử.
Đền Thượng ở xã Phù Linh, Sóc Sơn, là đền thờ chính của Thánh Dóng tại núi Sóc, nơi Thánh cởi áo giáp bay lên trời. Trong hậu cung của đền Thượng có 7 bức tượng thờ ở tư thế đứng. 7 bức tượng này là gồm: Phù Đổng Thiên Vương, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Nữ Oa Bộ Thiên, Na Tra Thiên Tử, Tả Xiên Xiên Lực Sĩ, Hữu Vạn Vạn Tinh Binh. Đền ngày hội Sóc hàng năm, các làng khi làm lễ tại đền đều đọc lời tế cầu thỉnh tên của 7 vị thánh này.
Cho dù ở những nơi như đền Sọ, đền Sóc, đền Hạ Mã thờ song song cả Phù Đổng Thiên Vương và Na Tra Thiên Tử, nhưng có thể thấy trong quan niệm của người dân, Na Tra là vị thần tướng oai dũng đã tham gia và làm nên chiến thắng của nước Văn Lang trước giặc n cường bạo. Sự việc Na Tra giúp vua Hùng đánh giặc n đã cho thấy nước Văn Lang của Hùng Vương lúc này chính là nhà Chu từ Văn Vương Cơ Xương. Sau chiến thắng diệt nhà Ân Thương, Hùng Vương đã lập quốc Văn Lang, phân phong đất đai cho các công thần thành các nước chư hầu phiên dậu bình phong, truy phong các tướng sĩ tử trận trong cuộc chiến vệ quốc thành bách thần. Na Tra – Đổng Thiên Vương không nhận phong đất, cũng không rơi vào bảng phong thần, mà lánh thế bỏ lên núi tu thành đắc đạo, hóa nên vị thần bất tử của nước ta, nhiều lần sau đó hiển linh giúp nước hộ quốc, được muôn người tín ngưỡng.
Xem lại câu chuyện cậu bé Linh Châu giáng thế, vươn mình bỗng chốc thành người khổng lổ, xuống nước diệt rồng, lên núi đánh giặc, lúc thắng trận không màng danh lợi mà bay về trời, còn sống mãi trong tâm trí của người dân Việt. Hàng năm, lễ hội Dóng ở Phù Đổng, Sóc Sơn, Bộ Đầu, Xuân Tảo… lại tái hiện lại sự tích, công lao của Na Tra Đổng Thiên Vương và là lễ hội mừng chiến thắng lẫy lừng, một chiến thắng đã dựng nên triều đại Văn Lang huy hoàng trong sử Việt.

MINH XUÂN

Khu Mộc Dục ở đền Sóc Xuân Tảo.

Mộc dục đài ở Xuân Tảo.

Đền Bộ Đầu.

Đổng Thiên Vương ở đền Bộ Đầu.

Bát Bộ Kim Cương ở đền Bộ Đầu.

Bát Bộ Kim Cương ở đền Bộ Đầu.

Tượng thờ đền Thượng Sóc Sơn: Phù Đổng Thiên Vương, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Nữ Oa Bộ Thiên, Na Tra Thiên Tử.

Ban thờ Phù Đổng Thiên Vương, Mẫu thân và Long Vương ở đền Sọ.

Ban thờ Na Tra Thái tử ở đền Sọ.

Cây đa trùm lên bia và cột đá buộc ngựa ở đền Hạ Mã.

Giếng nước đền Sọ

Liễu Nghị, ngài là ai?

Truyện Liễu Nghị là một tác phẩm dạng truyện truyền kỳ phổ biến từ thời Đường kể về con gái vua Động Đình bị Kinh Xuyên ruồng bỏ, rồi được thư sinh Liễu Nghị báo tin cứu giúp. Các nhà Nho nước ta dựa vào truyện này mà cho rằng huyền sử về Kinh Dương Vương là sản phẩm sao chép từ truyện Liễu Nghị truyền thư.

Tuy nhiên, di tích và tín ngưỡng thờ Liễu Nghị và Thần Long Thoải phủ ở đất Hải Dương lại cho một nhận thức hoàn toàn khác về ý nghĩa thật sự của truyền thuyết Liễu Nghị, gắn với Tản Viên Sơn Thánh.

Chùa Ông Sộp ở xã Tân Trào, Thanh Miện, Hải Dương, xưa là xã Ngọc Lạp, là nơi thờ đức thánh Liễu Nghị. Thần tích ở đây kể:

“Ngài là sao Liễu giáng sinh. Đức thánh phụ là Liễu Phong, đức thánh mẫu là Hán Thị Miên. Ngày học ông Hàn Tỉnh tiên sinh. Ngài có phép phù thủy, lúc bấy giờ ngài chưa đỗ, ngài đi chu du sơn thủy, gặp một người thiếu nữ kêu khóc ở trong rừng,vừa khóc vừa lậy nói rằng:

Thiếp là con gái vua Động Đình, bị giáng làm người dương thế, lấy Hồ Nghi người Kinh Diên, có vợ bé là Thị Chi. Thị Chi dụng tình làm thư giả nói với chồng là Hồ Nghi rằng thiếp có ngoại tình cho nên người chồng đem đày ở trong rừng này, bắt nuôi dê bao giờ dê đực đẻ mới được về. Thiếp xin viết 1 bức thư nhờ lang quân đem xuống Động Đình, cứ đi đến bên sông Hoàng Giang thấy có cây quất, lang quân đánh vào cây quất 3 tiếng tự nhiên ứng hiện.

Ngài đến bến sông Hoàng Giang cầm thư đánh vào cây quất, quả nhiên thấy đền đài lầu các, đền gọi là đền Hư Linh Đài, chỗ ăn, chỗ ở lạ khác dương trần, thấy vua Động Đình ngồi chỉnh tọa, tay cầm ngọc khuyên. Bấy giờ ngài dâng thư vào. Vua Động Đình xem thư sai Xích Lân Đại tướng đến chỗ sơn lâm đón con gái về, rồi mở tiệc yến. Vua Động Đình cho kết làm vợ chồng nhưng ngài không nghe, từ chối xin để sau này sẽ hay. Vua Động Đình tặng kim ngân châu ngọc cũng không lấy. Bấy giờ vua Động Đình sai Xích Lân Đại tướng tiễn ngài về dương trần. Lúc bấy giờ con gái vua Động Đình tiễn ngài ra ngoài Bích Vân cung, có cần lấy tay ngài đọc bài thơ lưu luyến.

Thiếp nay thoát khỏi kiếp chăn dê

Nhờ ơn sâu nặng báo Thủy Tề

Đức lớn biết bao giờ đền đáp

Nguyện đem tấm thân theo chàng về.

Ngài lại đọc một bài thơ rằng:

Bích Vân lời ấy xin nàng nhớ

Mãi với non cao cùng biển xanh

Một dải âm dương chia tách ngả

Chín trời mây nước mộng ba canh.

Thơ rồi đức bà về long cung, đức ông về dương thế.

Rồi đến đời vua Cao Tôn nhà Đường, ngài thi đỗ, làm quan Khu cơ mật viện. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 6, vua Đường Cao Tôn sai ông Cao Biền sang Nam Việt làm đô hộ đánh giặc Nam Chiếu. Ông Cao Biền thấy đức Liễu Nghị, ngài có anh tài kiêm tinh phù thủy pháp môn, tâu vua Đường cho Ngài làm Phó đô hộ Tướng sĩ. Vua Đường y cho. Ông Cao Biền cùng đức Liễu Nghị tiến binh sang Nam Việt bình được giặc Nam Chiếu lập đô ở Đại La thành. Bấy giờ đức Liễu Nghị ra chơi bên sông Nhị Hà, thấy một người thiếu nữ nhan sắc rất đẹp, hình dung giống con gái vua Động Đình, tự xưng là Lư Thị lại nói rằng:

Thiếp là con gái vua Động Đình, trước bị nhục bởi Hồ Nghi nhờ có lang quân cứu cho. Nay thiếp tâu nhờ với vương phụ để tìm lang quân, sang đến nước Nam Việt này, xin hầu làm khuê phòng.

Đức Liễu Nghị mừng đón về thành. Thời bấy giờ Hải Dương, đạo Hồng Châu bị thủy nạn mất mùa. Ông Cao Biền bảo đức Liễu Nghị đi cứu. Đức Liễu Nghị ngài cùng đức thánh bà đến Hải Dương, Hồng Châu lập đàn trị thủy. Đức Liễu Nghị lập đàn ở xã Ngọc Lạp. Đức Thánh bà là Thủy tinh Công chúa, con gái vua Động Đình, lập đàn ở xã Nhữ Xá, viết thư xuống thủy cung, tự nhiên nước cạn.

Bấy giờ phụ lão xã Nhữ Xá, xã Ngọc Lạp đêm nằm mộng thấy đức thành hoàng của hai làng ấy báo rằng: có 2 vị chủ quan về, dân phải bái hạ. Bấy giờ dân đều tỉnh mộng làm lễ xin làm thần tử đức Liễu Nghị và đức Thủy Tiên.

Sau đức Thánh bà bảo đức Thánh ông rằng thiếp cùng lang quân thủy hỏa tương khắc tử tức khó thành, xin biệt cư. Đức Thánh bà ra tu ở chùa Nhữ Xá, đức Thánh ông tu ở chùa Ngọc Lạp. Cứ lệ 3 năm đức bà mang cho đức ông bộ mũ áo, hội ở chùa Nhữ Xá rồi có một ngày ông bà cùng ra chơi sông Nhị Hà, tự nhiên trời đất tối tăm, 2 ông bà cùng về Động Đình, thủy quốc vân hương. Chùa Ngọc Lạp phụng sự vị hiệu là Thủy phủ Đại đức long cung Liễu Nghị tôn thần. Chùa Nhữ Xá phụng sự vị Động Đình quân nữ Thủy tinh Công chúa”.

Sự tích Liễu Nghị ở Thanh Miện, Hải Dương không chỉ dừng lại ở việc Liễu Nghị cứu được người con gái con vua Động Đình mà còn cho biết ngài có thuật “phù thủy” và có phép trị thủy chống lũ lụt.

Đôi câu đối ở chùa Ông Sộp nói về thánh Liễu Nghị:

Tác vũ hưng vân thiên hữu hạn

Xạ thư trị thuỷ địa vô hồng.

Nghĩa là:

Khởi tạo mây mưa trời còn hạn

Bắn thư trị thủy đất không tràn.

Câu đối nhắc lại tích Liễu Nghị cùng Thần Long đã viết thư gửi xuống Thủy phủ để làm cạn nước chống lũ lụt. Chi tiết đặc biệt này đã cho phép xác định Liễu Nghị chính là Tản Viên Sơn Thánh, người dùng cuốn sách ước trị cơn hồng thủy thời mở nước.

Liễu Nghị gặp Thần Long bị đày đi chăn dê ở Đồng Dã là chuyện Tản Viên Sơn Thánh cứu con rắn, con của Long Vương Động Đình bị lũ trẻ chăn trâu đánh chết bên bãi Trường Sa trong ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh (Tản Lĩnh ngọc ký). Cũng giống như truyện Liễu Nghị, sau khi cứu được con vua Thủy tề, Sơn Thánh đã rẽ nước xuống Thủy phủ gặp Động Đình Đế quân và được tặng một cuốn sách ước thần kỳ. Lúc ra về, Thái tử Long cung tiễn Sơn Thánh tới tận bãi Trường Sa và để lại lời thơ đầy xúc động. Đặc biệt bài thơ này trong Tản Lĩnh ngọc ký lại có 2 câu thơ trùng khớp với bài thơ của Liễu Nghị đọc khi chia tay Thủy Tiên Công chúa:

Không gặp làm sao có kiếp sinh

Khi đi là nghĩa về là tình

Quay lên đỉnh Thứu, người còn vọng

Trở lại cung rồng khách chẳng đành

“Một dải âm dương đôi tách ngả

Chín trời mây nước mộng ba canh”

Tạm biệt cửa sông hai mắt dõi

Tương tư chốn ấy bởi xa tình.

Xem thêm một đôi câu đối khác ở chùa Ông Sộp:

Thiên độc ký Động Đình, tuyết áng vân cung thuỷ phủ

Thốn thư truyền lạo xứ, ba bình hải đạo Hồng Châu.

Nghĩa là:

Thẻ trời gửi Động Đình, tuyết phủ cung mây thủy phủ

Tấc sách truyền vùng ngập, sóng lặng ven biển Hồng Châu.

Câu đối nhắc tới 2 lần truyền thư của Liễu Nghị. Lần thứ nhất là bức thư dạng thẻ được Thủy Tiên Công chúa gửi xuống cho vua cha Động Đình. Lần thứ hai là một đoạn thư thả về Thủy phủ khi ông bà đi chống lụt ở đất Hồng Châu. So sánh với Tản Lĩnh ngọc ký có thể thấy rõ “thiên độc” (thẻ trời) và “thốn thư” (tấc sách) trong sự tích Liễu Nghị tương đương với cây Gậy thần và cuốn Sách ước, là 2 pháp khí của Sơn Thánh đã dùng khi trị thủy. “Thư sinh” Liễu Nghị dùng “thư sách” không phải để học hành thi cử, mà là để làm phép “phù thủy” trong công cuộc chống lại thiên tai, an dân lập quốc.

Cách chùa Ông Sộp khoảng 5km là chùa Nhữ Xá, nay là xã Hồng Quang của huyện Thanh Miện. Chùa còn có tên là chùa Dựa, nơi thờ đức Thánh Bà Động Đình Thủy Tinh Công chúa. Sự tích chùa Nhữ Xá còn kể Liễu Nghị được vua Động Đình cho một bầu nước dùng để cứu giúp nhân dân khi thiên tai hạn hán, không có nước cấy cày. Vị Thiên Lôi ở làng An Xá trong cùng xã từng lấy trộm bầu nước này, nhưng không thể sử dụng được như thánh Liễu Nghị. Chi tiết này cho thấy phép thuật của Liễu Nghị còn trên tài phép cả Thiên Lôi, nên Liễu Nghị không chỉ là một thư sinh bình thường.

Gần ngay cạnh chùa Ông Sộp là thôn Thủ Pháp, nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh và người mẹ nuôi Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ. Thủ Pháp cũng là tên làng quê của bà Ma Thị ở trên núi Tản Viên. Như thế ở Thanh Miện có đủ quê của Thánh Tản và nơi Thánh cùng Thần Long Động Đình trị thủy.

Tới đây đã có thể kết luận, hình tượng Liễu Nghị là một cách kể khác về Tản Viên Sơn Thánh từ góc nhìn của dân gian miền đồng bằng ven biển xưa. Tản Viên Sơn Thánh cũng đã được biết là vị Kinh Dương Vương như công bố trong ấn phẩm “Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” của Nhóm nghiên cứu di sản Đền miếu Việt biên soạn mới xuất bản gần đây. Truyện Liễu Nghị là một dẫn chứng rõ ràng nữa cho nhận định Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, vì đều là người đã lấy Thần Long Động Đình.

Trong thư tịch cổ cũng đã từng có việc đồng nhất Liễu Nghị là Kinh Dương Vương. Sách Nam sử, một cuốn sử không rõ tác giả, chép: “Kinh Dương Vương đi tuần thú Nam Hải, gặp một người chăn dê, nói mình là con thứ của Động Đình Quân gọi là Thần Long, bị Kinh Xuyên ruồng bỏ. Kinh Dương Vương bèn lấy Thần Long làm Nguyên phi, một năm sau, sinh hạ được một con trai gọi là Sùng Lãm. Kinh Dương Vương sống hơn trăm tuổi, bèn phong Sùng Lãm làm Lạc Long Quân, nối trị phương Nam. Kinh Dương Vương và Thần Long bèn cưỡi rồng lên trời”.

Từ nhận định rõ ràng về thời kỳ Hùng Vương Thánh Tổ khai dân lập quốc thì truyện Liễu Nghị truyền thư, Tản Viên Sơn Thánh cứu Thủy Tinh Động Đình hay Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy phủ lấy mẫu Thần Long nay đã có thể hiểu như sau. Vào thời Đế Nghi, chính dòng Viêm tộc từ Đế Minh, đang làm chủ thiên hạ. Dòng thứ lúc này là Tiên tộc từ bà Vụ Tiên đã gây mâu thuẫn làm cho Đế Nghi đuổi dòng Long tộc Động Đình đi. Thần tích ở Thanh Miện kể thành Hồ Nghi ở Kinh Diên (Kinh Xuyên) nghe lời người thiếp Thị Chi (Thảo Mai) đày Thần Long đi chăn dê (bị nhốt vào cũi trong rừng).

Khi Tản Viên Sơn Thánh, là dòng Lạc tộc (Lộc Tục) lên nắm giữ ngôi chủ thiên hạ, xưng là Kinh Dương Vương, Sơn Thánh – Liễu Nghị đã có chuyến đi xuống Thủy phủ Động Đình ở miền sông biển Hải Dương, kết giao với dòng Long tộc. Từ đó Kinh Dương Vương đã hoàn thành nốt chặng đường hội nhập 4 tộc người thời lập quốc (gồm Viêm tộc, Lạc tộc, Tiên tộc và Long tộc) thành một thiên hạ chung thống nhất. Sơn Thánh với cây gậy thần sách ước được dòng Long tộc gọi là Liễu Nghị truyền thư, kết duyên với con vua Động Đình mà sinh ra Lạc Long Quân.

Khi Kinh Dương Vương cùng Thần Long “cưỡi rồng” đi mất, Lạc Long Quân đã dựa vào thế lực của bên mẹ là Long tộc Động Đình mà chiếm được ngôi vị chủ tể thiên hạ, đánh đuổi và buộc dòng Viêm tộc của Đế Nghi phải di dời đi. Truyện Liễu Nghị kể là Xích Lân Đại tướng đã giết Hồ Nghi ở Kinh Xuyên. Xích Lân là con rồng đỏ, bởi Lạc Long Quân là vị cha Rồng đã nối tiếp làm Xích Đế ở nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương. Truyện Liễu Nghị như vậy cũng có đầy đủ nhân vật lịch sử quan trọng là Lạc Long Quân trong vai là Xích Lân Long thần.

Sự tích và tín ngưỡng thánh Liễu Nghị trị hồng thủy ở Hải Dương là câu chuyện thật sự về Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh khai mở vùng ven biển, thống nhất 4 tộc người ở bốn phương, lập nên nước Xích Quỷ và khởi đầu thời kỳ cha truyền con nối trong lịch sử Hồng Bàng – Viêm Bang của người Việt.

https://congdankhuyenhoc.vn/lieu-nghi-ngai-la-ai-179230129013736117.htm

Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 1.
Cổng chùa Ông Sộp ở xã Tân Trào, Thanh Miện, Hải Dương.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 2.
Chùa Ông Sộp với những câu đối về Liễu Nghị truyền thư.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 3.
Chính điện chùa Ông Sộp và chiếc khám cổ thờ Liễu Nghị.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 4.
Đắp nề tích Thần Long chăn dê ở chùa Ông Sộp.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 5.
Lưỡng ngư chầu nhật ở trên nóc chùa Ông Sộp.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 6.
Chùa Dựa (chùa Nhữ Xá), nơi thờ Động Đình Quân nữ Thủy tinh Công chúa.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 7.
Ban thờ Mẫu Thoải ở chùa Dựa.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 8.
Đắp nề tiên tích ở chùa Dựa.
Liễu Nghị, ngài là ai? - Ảnh 9.
Trang sách Nam sử về Kinh Dương Vương. Ảnh: Thư viện Quốc gia.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền

Cùng với quá trình phát triển kỹ thuật luyện kim đồ đồng, xã hội người Việt đã có những bước tiến dài từ chế độ cha truyền con nối sang chế độ phân chia đất đai cho các chư hầu, chia nhau cai quản đầu non góc biển.

Cây Chu đá lá chu đồng trong sử thi Mường lúc này là một biểu tượng nhiều mặt, tượng trưng cho quyền lực hiệu triệu trăm chư hầu, cho sự thăng hoa của văn hóa văn minh, là Bảng phong thần trong cuộc chiến phân định thiên hạ thời Ân – Chu và thậm chí có thể là chiếc móng rùa của thần Kim Quy đã tặng cho Thục Vương làm bảo bối trấn quốc.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 1.
Sơ đồ so sánh sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước và Huyền sử Việt.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 2.
“Long khuyển” đồng thời Thương.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 3.
Đồ đồng, văn hóa Tam Tinh Đôi. Rất có thể đây là hình tượng “Đười Ươi” được kể trong sử thi Mường.
Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể

Người thợ săn Tặm Tạch, còn có tên trong bản sử thi ở Hòa Bình là Đá Đèn Đá Đẹc, đã đánh bạn với Đười Ươi, nhờ đó được chỉ đường tìm đến cây chu đồng ở đồi Lai Ly Lai Láng. Cái cây thần kỳ này là cây chu đá, lá chu đồng, bông thau quả thiếc, xung quanh có cọp, sên, lợn lòi, hươu, mang, phượng hoàng đứng chầu, vàng anh bắt sâu trên cành. Tặm Tạch lấy được 2 quả chu mang về, trở nên giàu có hơn cả nhà Cun Khương.

Cun Khương bày tiệc rượu, lừa Tặm Tạch nói ra việc tìm thấy cây chu, rồi bắt dẫn đường tìm chu. Cây chu bị đốn đổ thì Tặm Tạch cũng phải chết, bị róc xương lột da để kéo chu về. Đường “cổn chu kéo lội” qua rất nhiều đất mường. Có lúc cây chu rơi xuống nơi nước sâu, Cun Khương phải nhờ Rái cá xỏ dây mới kéo được chu lên. Cây chu mang về được đến mường, nộp cho Lang Cun.

Thế rồi dân mường làm nhà cho Chu (lúc này là Lang Cun Khương). Nhà Chu dựng nên rộng rộng, trước vườn dựng nhà Khú nhà Rồng, đàng trong dựng nhà Long nhà Phụng. Nhà Chu làm xong Lang Cun Cần lại bắt Rùa vàng về để cho sáng tỏ sáng tường, sáng cả binh mường, sáng trời sáng đất.

Con của Tặm Tạch, trong bản sử thi ở Hòa Bình gọi là Đạo Cun Tre Nghè Tróng, tìm đến nhà mới của Chu thì bị đuổi. Đạo Cun Tre Nghè Tróng tức giận, đốt lửa cháy nhà Chu và bỏ trốn, tụ tập dân mường đánh lại Dịt Dàng, trả thù cho cha. Dịt Dàng cất binh đánh Đạo Cun Tre Nghè Tróng. Đạo Cun Tre Nghè Tróng trốn vào cây, hóa thành cây dây cản đường Cun Khương. Cun Khương chém cây dây, máu chảy ra biến thành con Moong lớn tên là Tin Vin Tượng Vượng.

Con Moong Tin Vin Tượng Vượng vằn vện như con hổ Lào, to lớn hung dữ, ăn thịt trâu bò, ăn thịt người, bắt cả bà Lang Khương. Lang Cun Khương tập hợp người mang lưới mang dây đi săn moong, giết được con Moong Tượng Vượng, đem về nhà Lang làm thịt.

Người Lào đến trước lấy được da moong đằng hông nên biết dệt đẹp như hoa. Mường trong đến lột da đằng lưng, nên biết thêu thùa hình lưng ngựa. Người Tày đến muộn phải lấy da đằng đuôi, chỉ biết thêu hình con sâu con ong. Người Mường giữ được da trước ngực biết dệt đầu váy con hươu. Người Kinh ở xa đến chỉ còn thịt pha, lòng, mỡ, nên biết nấu thịt ngon. 

Máu thịt con Moong rơi ra làm chó hóa điên, rồi cá dưới nước hóa thành cá dại, quạ trên trời thành quạ dữ, cắn phá dân mường và nhà cun. Cun Khương lần lượt diệt chó dại, cá điên, quạ điên.

Cuối cùng là chuyện Dịt Dàng tìm ra khâu lạc mình đồng, tức là trống đồng. Mọi người đón Dịt Dàng hay Lang Cun Cần về đất Đồng chì Tam quan Kẻ chợ…

Triều đại Hùng Duệ Vương 

Cây chu đồng thần kỳ là hình tượng nổi bật trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước. Nhưng thật không thể ngờ rằng, có một cây thiêng như thế đã được ngành khảo cổ học phát hiện. Cây sự sống bằng đồng tìm thấy trong nền văn hóa Tam Tinh Đôi tại vùng đất Thục Tứ Xuyên với chiều cao gần 4 mét, là văn vật bằng đồng lớn nhất được khai quật trên thế giới. Cây đồng này có niên đại ước chừng cách nay trên 3.000 năm. Cây chia làm ba tầng, mỗi lớp ba cành, trên cành có một con chim đứng, tổng cộng có chín con, còn có một con rồng bay xuống dọc theo thân cây chính, nhìn tựa như sắp cất cánh.

Cũng chính trong nền văn hóa đồng thau sớm ở Tứ Xuyên, thường gặp những mặt nạ đồng hay tượng người với đôi mắt và đôi tai được phóng to một cách khác thường. Rất có thể đó là hình tượng “Đười Ươi” được kể đến trong sử thi Mường.

Người thợ săn Tặm Tạch còn gọi là Đá Đèn Đá Đẹc. Từ “Đá” như đã biết chỉ vị tổ thời cổ. Tặm Tạch lấy được bông thau quả thiếc, tức là bắt đầu học được công nghệ đúc đồng. Nối tiếp thời kỳ đồng thau phát triển rực rỡ ở vùng gần Tứ Xuyên trên 3000 năm trước là nhà Thương. Tặm Tạch tương ứng với Thành Thang, vị vua tổ của nhà Thương. Sử thi Mường kể rõ, Tặm Tạch trở nên giàu có còn hơn cả Cun Khương, tức là Thành Thang đã trở thành một thủ lĩnh hùng mạnh, đứng đầu thiên hạ.

Người con kế nối Tặm Tạch có tên là Đạo Cun Tre Nghè Tróng. Cách gọi Đạo Cun cho thấy đây cũng là một vị thủ lĩnh (vua). Cun Tre Nghè Tróng thậm chí còn tập hợp quân đội đánh lại Cun Khương. Có thể xác định đây là giai đoạn thứ hai của nhà Thương, được biết là nhà Ân. Dưới thời nhà Ân có sự kiện Ân Cao Tông chinh phạt nước Quỷ phương như được chép trong Kinh Dịch. Nước Quỷ phương nghĩa là nước nằm ở phía Tây của nhà Ân Thương, không gì khác chính là vùng đất Thục Tứ Xuyên, nơi xuất xứ của cây chu đồng và mặt nạ đười ươi.

Máu thịt của Đạo Cun Tre Nghè Tróng hóa thành cây dây cản đường, rồi thành con Moong khổng lồ Tượng Vượng hung dữ. Tiếp tục so sánh có thể thấy con Moong lồ là chỉ thời kỳ cuối của nhà Ân, khi đó Ân Trụ Vương là một vị vua dũng mạnh nhưng lại vô cùng tàn bạo. Trụ Vương làm hại nhiều sinh linh và đã nhiều lần tấn công vùng đất Thục Tây Kỳ, nơi phát tích của nhà Chu. 

Nên chú ý rằng nhà Thương Ân có thành phần dân tộc chính là nhóm người Miêu Dao. Trong đó tới nay người Dao vẫn còn có tín ngưỡng thờ Bàn Hồ là tổ. Bàn Hổ theo truyện kể trong sách người Dao để lại vốn là một con Long khuyển ngũ sắc, do lập công lớn, giết được vua kẻ thù nên được phong đất và trở thành tổ của 12 họ người Dao. Con Moong Tin Vin Tượng Vượng như vậy là hình ảnh của Long khuyển, biểu tượng của dòng dõi người Dao nhà Ân Thương.

Sử thi Mường kể rằng người Lào, Tày, Mường học được cách thêu dệt từ da của con Moong. Người Kinh học được cách nấu ăn từ thịt con Moong. Điều này rất đúng với sự thật là hoa văn của người Dao và lối sống của triều đại nhà Ân Thương đã có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa các tộc người Lào, Tày, Mường, Kinh… sau này.

Trong huyền sử Hùng Vương của người Việt, nhà Ân là triều đại cuối cùng của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống biển, được gọi là Hùng Duệ Vương. Truyện Giếng Việt kể sau cuộc chiến với Phù Đổng Thiên Vương, Ân Vương chết dưới chân núi Vũ Ninh, trở thành vua Địa phủ. Rồi hậu duệ của vua Hùng đã biến thành đủ thứ yêu quỷ như Bạch Kê tinh, Hồ Ly tinh, Quỷ núi cản trở Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Trong sử thi Mường đó là chuyện máu của con Moong lồ biến thành chó điên, cá dại, quạ dữ, quấy phá thời Lang Cun Khương.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 4.
Người Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 5.
Thầy cúng người Dao.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 6.
Người Dao ở Bắc Kạn.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 7.
Người Dao ở Bắc Kạn.

Đón vua Thục An Dương Vương

Ở phần cuối của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, mỗi bản khác nhau gọi vị vua lúc này một cách khác nhau. Chỗ kể là Dịt Dàng, chỗ là Lang Cun Cần, chỗ thì dường như là Lang Cun Khương. Thực ra cả 3 cách gọi đều đúng và chỉ cùng 1 người. Dịt Dàng – Việt Vương lúc này không phải là vị Dịt Dàng của thời kỳ Hùng Vương Thánh Tổ ban đầu, mà là Hùng Quốc Vương, người con theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang. Hùng Quốc Vương là vị vua đầu của thời kỳ phong kiến phân quyền, nên sử thi Mường gọi là Lang Cun Cần, với nghĩa là vị Lang Cun đứng đầu thiên hạ. 

Cun Khương là thủ lĩnh của dòng lên núi trong sử thi Mường. Khương là tính chất Khang, Tĩnh của hướng Tây. Cun Khương nghĩa là thủ lĩnh của hướng Tây. Hướng Tây còn gọi là Thục (thụt) nên Cun Khương cũng là Thục Chúa trong truyền thuyết Việt. Cun Khương là con của nàng Ả Sao Ả Sáng, dòng dõi Vua trời. Trong truyền thuyết họ Hồng Bàng thì đây là dòng dõi của Đế Nghi – Đế Lai, tức là Âu Cơ, người đã lên núi về đất Phong Châu.

Cun Khương – thủ lĩnh Tây Kỳ, sau khi chiến thắng nhà Ân Thương và dòng Lạc Long (Tóng In) đã trở thành Thiên tử của cả thiên hạ, nên đã đổi danh xưng là Việt Vương (Dịt Dàng – An Dương Vương) hay Lang Cun Cần (Hùng Quốc Vương). Nhờ sự nhìn nhận đúng về lịch sử thời Hùng Vương đã có thể lý giải được vấn đề tại sao 2 danh xưng từ thời mở Mường là Dịt Dàng và Lang Cun Cần, lại vẫn còn đến tận cuối cùng trong sử thi khi rước vua về Kẻ chợ.

Cun Khương là người đã tìm và chặt được cây chu đồng ở vùng Tứ Xuyên, kéo về Kinh kỳ Kẻ chợ qua rất nhiều vùng đất. Đây là sự kiện Tây Bá Hầu Cơ Xương từ vùng đất Tây Kỳ (Quý Châu, giáp với Tứ Xuyên), khởi binh đánh chiếm các nước Mật Tu (Vân Nam), nước Sùng (tức miền Bắc Việt) vào cuối thời nhà Ân Thương. Sử Việt kể là Thục Chúa phát hàng chục vạn binh chia các ngả tiến đánh Hùng Duệ Vương. Cuối cùng Hùng Duệ Vương nghe lời Sơn Thánh, nhường lại ngôi cho Thục Chúa. 

Thục Chúa về đất Phong Châu, xưng vương, lập cột đá thề trung thành với Thánh Tổ họ Hùng (tức Hữu Hùng Đế Minh). Truyện họ Hồng Bàng kể là Âu Cơ lên núi về Phong Châu lập nước Văn Lang. Còn sử thi Mường gọi đích xác triều đại của Cun Khương là “Chu” như trong đoạn “Làm nhà cho Chu”.

Người đánh bại Ân Trụ Vương, hay con Moong Tin Vin Tượng Vượng, là Cơ Phát, con của Tây Bá Cơ Xương. Truyền thuyết Việt gọi Cơ Phát là Thục Phán, là một vị Cun Khương – thủ lĩnh Tây Kỳ. Cây chu đồng lúc này như một biểu tượng của Thiên mệnh, có khả năng hiệu triệu và thần phục thiên hạ trăm chư hầu. Cun Khương – Cơ Phát – Thục Phán hoàn thành đại nghiệp diệt Ân, lên ngôi Thiên tử, phân phong cho các anh em, công thần thành các nước chư hầu Bách Việt. Sử thi Mường kể điều này trong chuyện Đẻ trống đồng (vật phẩm dùng để tế lễ tổ tiên và phân phong chư hầu) và Rước vua về Đồng chì Tam quan Kẻ chợ.

Chuyện Làm nhà cho Chu trong sử thi Mường mang đậm hình ảnh của truyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Khác với việc “đẻ nhà” thời Lang Cun Cần mở nước, nhà cho Chu lúc này là một dạng cung điện to lớn, trang trí lộng lẫy hình rồng rắn, long phượng với nhiều gian nhiều nếp. Rùa Vàng lúc này làm cho sáng nhà tỏ cửa, sáng người, sáng trời đất…, tương tự truyện thần Kim Quy trao móng rùa cho An Dương Vương làm bảo bối trấn quốc.

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước không chỉ là một bản anh hùng ca dựng nước của người Mường mà nó là lịch sử thực sự qua hàng ngàn năm của cả thiên hạ trời Đông. So sánh sử thi Mường với những bộ sử dân gian của người Kinh (Hùng Vương ngọc phả), của người Dao (truyền tích Bàn Hồ) có thể thấy được sự thống nhất tiến trình lịch sử chung của các dân tộc Bách Việt. Từ ông Bàn Cổ – mụ Dạ Dần khai thiên lập địa, trong Thái cực sinh ra con người, con người có vua tổ khai sáng, thần truyền thánh kế, thay nhau ngự trị đầu non góc biển, xuống biển chinh phục Thủy phủ, lên rừng đốn cây Chu đồng, dựng nên thành quách, sáng tạo văn hóa văn minh, tôn rước Thiên tử về kinh kỳ kẻ chợ. Tất cả lịch sử Việt Mường đã hóa về chốn linh thiêng, nơi con người khi qua thế giới bên kia lại quay về với ông bà tiên tổ, với quá khứ huy hoàng Đẻ Đất Đẻ Nước.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 8.
Trình diễn trang phục người Dao ở Sơn La.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời phong kiến phân quyền - Ảnh 9.
Trình diễn trang phục người Dao ở Sơn La.

https://congdankhuyenhoc.vn/su-thi-muong-de-dat-de-nuoc-va-huyen-su-thoi-hung-vuong-thoi-phong-kien-phan-quyen-17923011623430006.htm

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo

Sau thời đẻ đất, đẻ nước, đẻ người, dân mường có vua, có cuộc sống ấm no, xã hội người Việt Mường cổ bước sang thời kỳ phụ đạo, cha truyền con nối. Những xung đột giữa các tộc người trong thiên hạ cũng nảy sinh, tranh giành vị trí thủ lĩnh đứng đầu đất nước.

Cuộc đấu tranh giữa 2 dòng lên núi và xuống biển của người Việt Mường bắt đầu từ đây.

Ngũ tộc Tản Viên

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể rằng, Lang Cun Cần lấy tất cả tới 5 người vợ. Đầu tiên là lấy nàng Vạ Hai Kịt, là người cùng sinh ra từ trứng Chiếng, đẻ ra 12 chàng Ma ếm, tức không phải là những thủ lĩnh cộng đồng (Cun). Thứ đến Lang Cun Cần lấy nàng Vậm Đầu Đất, là con vua Bình Lạc, đẻ được Cun Đồi. Sau đó Lang Cun Cần lại lấy nàng Vật Đầu Nước, sinh được Cun Đàng. Đám cưới to nhất của Lang Cun Cần là lấy nàng Ả Sao Ả Sáng, con ông Vua Trời. Ngựa chín hồng mao đưa Lang Cun Cần đi rước vợ. Ả Sao Ả Sáng sinh được Cun Khương. Cuối cùng Lang Cun Cần lấy Ả Gái nuôi trong mường, không phải lễ lạt đưa đón gì, sinh ra Tóng In.

Câu chuyện về Lang Cun Cần lấy 5 vợ là sự kiện Tản Viên Sơn Thánh đã thành công trong việc hợp nhất 5 tộc người ở Ngũ phương, xây dựng Ngũ thần cung điện ở vùng Ngũ Lĩnh, tức vùng Sơn Tây ngày nay. Đầu tiên, như đã bàn trong bài trước, nàng Vạ Hai Kịt đại diện cho dòng Tiên tộc của Tây Thiên Quốc Mẫu và Ất Sơn Hùng Vương Thánh Tổ ở phía Nam xưa (phía Bắc nay). Trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh đó là dòng của bà Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ, người đã di chúc quyền cai quản đất nước cho Sơn Thánh.

Trong việc nàng Vậm Đầu Đất sinh ra Cun Đồi, xét những từ Đất và Đồi thì đây là dòng tộc vùng miền núi ở hướng Tây, tức là Cửu Lê tộc. Còn trong chuyện nàng Vật Đầu Nước sinh ra Cun Đàng, những từ Nước và Đàng chỉ ra rằng đây là dòng tộc ở vùng đồng bằng, tức là dòng Lạc tộc. Chữ Lạc vốn nghĩa là Nác – Nước.

Người vợ thứ tư của Lang Cun Cần là Ả Sao Ả Sáng, con vua Trời, tức là dòng tộc nối tiếp vua Dịt Dàng và Tá Cần ở phương Bắc xưa (phương Nam nay), gọi là Viêm tộc. Chi tiết đặc biệt là Lang Cun Cần đưa ngựa chín hồng mao đi rước Ả Sao Ả Sáng, cho thấy đây là chuyện Tản Viên Sơn Thánh lấy công chúa Mỵ Nương, con gái vua Hùng trong truyền thuyết Việt.

Ả Gái nuôi trong mường chỉ tộc người bản địa của nơi Lang Cun Cần sinh sống, tức là tộc người ở vùng trung tâm của đất nước. Xét vậy thì Tóng In, con của Ả Gái nuôi, mới là người con trưởng của vùng đất Lang Cun Cần đang cai quản. Truyền thuyết Việt kể đó là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương với Long Nữ Động Đình.

Dưới thời Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh người Việt Mường đã thống nhất 5 tộc người ở 5 phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung tâm, được hình tượng hóa trong sử thi Mường là việc Lang Cun Cần lấy 5 vợ, sinh ra 4 vị Cun. Tiếp theo, có sự phân chia lại phương vị của các tộc người này bởi sự chia đất của Lang Cun Cần và quá trình tranh giành giữa các Cun với nhau.

Sơn Tinh – Thủy Tinh

Khi Lang Cun Cần chia đất cho các con, tuy nói chia đất phải chia bằng nhau cho khỏi mất lòng con sau, con trước, nhưng thực tế thì:

Cun Đồi được chia đất Khấm Ngang

Cun Tàng được chia đất Khấm Dọc

Ruộng sâu, ruộng nông chia cho Tóng In.

Còn men ruộng mạ nhỏ bằng tai khỉ, chân đất xấu nhỏ như tai mèo… thì chia cho Cun Khương. Cun Khương tức giận, chạy về nhà ngoại kêu khóc. Nhà ngoại khuyên nhủ, Cun Khương về chăm chỉ làm ăn, trở nên giàu mạnh.

Tóng In được vùng đất nhiều ruộng tốt nhất nhưng mải chơi nên bị đói, phải đến xin ăn nhà Cun Khương mấy lần. Cuối cùng Cun Khương không cho nữa. Tóng In lôi kéo Cun Đồi, Cun Đàng đem quân đánh Cun Khương. Cun Khương bỏ chạy, nhờ bên ngoại là nhà trời giúp, làm hạn hán đồng cạn xơ xác, rồi lại làm mưa to dầm dề, ngập bờ ngập bụi. Cun Khương bắt ép Cun Đồi, Cun Đàng phải giết Tóng In mới chịu về ngừng làm ngập lụt.

Tóng In chết làm ma ruộng, ôm hận thù, bèn tập hợp ma rắn, ma lửa, ma mỏ vàng… đánh lại Cun Khương, Cun Đồi và Cun Đàng. Tóng In thua, lại lặn xuống Thủy phủ với Long Vương, kêu xin Vua Nước. Vua Nước bèn cho Tóng In làm Ma May cướp đường, Ma Lang giữ sông giữ bến. Tóng In có vằn lưng cá chép, áo vây cá mè, đầu cá trê, mắt cá ngạo, lại có mào đỏ to, lưng rồng uốn éo. Tóng In sai tướng Ba Ba bắt Cun Đồi, Cun Đàng phải chịu chết. Cun Khương ra trận đánh nhau với Tóng In, chém chết rồng. Từ đó Ma Ruộng đã ngăn, Ma May Ma Lang đã diệt…

Trong cuộc tranh chấp lần đầu, Cun Đồi, Cun Đàng theo Tóng In đánh Cun Khương. Dòng lên núi là Cun Khương thua, phải chạy trốn về bên ngoại nhà trời. Tóng In trở thành người cầm đầu mường. Đây là chuyện Lạc Long Quân, con trai của Kinh Dương Vương đã đánh đuổi Đế Lai, con của Đế Nghi, về Bắc được kể trong Truyện họ Hồng Bàng. Lạc Long Quân làm vua Thủy phủ, cai quản toàn bộ vùng thấp gồm ruộng đồng, sông biển, hoàn toàn tương ứng với việc Tóng In làm Ma Ruộng rồi Ma May Ma Lang. Sử thi Mường còn mô tả rõ Tóng In hóa Rồng có vằn, có vảy, có mào ở Thủy phủ Long cung. Chữ Tóng có thể là phát âm khác của chữ Đông vì dòng Long Vương Thủy phủ ở hướng Đông ra biển.

Khác với người Kinh ở miền xuôi, người Mường là bộ phận người theo dòng lên núi nên không tôn thờ vua cha Lạc Long Quân của dòng xuống biển. Ngược lại, trong sử thi Mường khắc họa hình ảnh của Tóng In khá phản diện, từ việc mải chơi đến mức phải đi xin ăn, rồi hóa thành ma ruộng, ma sông, ma biển dữ tợn, gây hại cho mường.

Bộ 3 Cun Khương, Cun Đồi, Cun Đàng của dòng lên núi làm thành Tam Vị Tản Viên gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh, mà Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các vị Sơn Tinh. Tóng In làm Ma Ruộng, rồi Ma May Ma Lang của Thủy phủ, chính là Thủy Tinh. Ma May Ma Lang tương ứng với Linh Lang, là tên gọi khác của Long Vương Thủy phủ, hay của các vị xuống biển cai quản vùng sông nước, như Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là các “Thủy thượng Linh thần”.

Cun Đồi, Cun Đàng của 2 vùng đất Ngang và Dọc đại diện cho chư hầu các nơi ở trên cao (Đồi) và dưới thấp (Đàng). Ban đầu các chư hầu theo dòng xuống biển là Tóng In, đuổi dòng Cun Khương phải chạy trốn lên núi về phía Tây. Sau này, các chư hầu lại theo về với dòng lên núi của Cun Khương, đánh lại dòng Thủy phủ Long quân của Tóng In.

Cuộc đấu tranh giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh, giữa Cun Khương – Tóng In, được mô tả rất ác liệt, dai dẳng nhiều năm, qua nhiều lần đụng độ. Hai bên đều có nhiều thương vong. Ban đầu dòng xuống biển của Long Quân thắng, nắm đại quyền thiên hạ. Cuối cùng về sau, dòng lên núi của con cháu Đế Lai là Âu Cơ quay trở lại, đánh thắng dòng xuống biển, trở thành vua Việt (Dịt Dàng).

Lang Cun Cần – Kinh Dương Vương dựng nên thiên hạ, rồi chia đất cho các con, dẫn đến xung đột tranh giành giữa các dòng tộc. Thời kỳ này dân mường không chọn người có tài có đức ra giữ binh mường như trước nữa, mà bắt đầu chế độ phụ hệ, cha chia quyền cho con, rồi con trưởng con thứ tranh chấp, bên nào mạnh thì chư hầu các nơi phục theo. Mốc lịch sử 4.000 năm của người Việt Mường được xác lập chính là tính theo thời kỳ thị tộc phụ đạo từ Lạc Long Quân – Tóng In.

(Còn tiếp)

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 1.
Đền An Trì ở bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội, thờ Uy Linh Lang thủy thần.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 2.
Nhà tiền tế đền Và, Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 3.
Miếu Đầm Đượng ở Thụy Phiêu, Ba Vì, nơi thờ diễn ra cuộc chiến ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 4.
Đình Kẻ Đầm ở Sơn Đông, Sơn Tây, là nơi đầm nước rộng lớn của Đồng Mô, nhưng vẫn thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 5.
Đền Thượng ở Đan Thượng, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi thờ Cao Sơn Đại vương.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 6.
Tế lễ hội đền Và, Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 7.
Nghi môn đền Và – Đông cung Tản Viên ở Sơn Tây.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thị tộc phụ đạo - Ảnh 8.
Đình Yên Phụ ở hồ Tây, Hà Nội thờ Linh Lang Đại vương và 2 người em cùng là thủy thần hồ Dâm Đàm.

https://congdankhuyenhoc.vn/su-thi-muong-de-dat-de-nuoc-va-huyen-su-thoi-hung-vuong-thoi-thi-toc-phu-dao-179230115215405335.htm

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng

Tháng 12 năm 2022 vừa rồi hồ sơ Mo Mường đã được Việt Nam đệ trình lên UNESCO để ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể bảo vệ khẩn cấp. Trong đó sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước hay Mo kể chuyện là phần dài nhất của di sản Mo Mường.

Ý nghĩa thực sự của bộ sử thi Mường chỉ có thể được làm sáng tỏ khi đối chiếu với lịch sử chân xác của thời đại Hùng Vương.

Tam Sơn Thánh Tổ họ Hùng

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, bản sưu tầm ở huyện Bá Thước, Thanh Hóa kể:

Dịt Dàng, người đầu tiên sinh ra từ trứng Chiếng được mời ra giữ binh mường. Dân làng cho rằng khi có người cầm mường, cầm binh thì mường nước mới sang, dân mường mới giàu. Dịt Dàng ra điều kiện dân mường cúng 10 con thịt nướng và 9 gánh vàng. Dân mường dọn cây để vua có lối, hạ cành hạ cối để vua có cầu, kẻ đón đằng trước, người rước đằng sau. Nhưng Dịt Dàng bị Ma ếm đón đường, thè 99 cái lưỡi đỏ, trỏ 99 cái răng cọc. Dịt Dàng đành phải trở lại.

Tá Cài là người thứ hai sinh ra từ trứng Chiếng, được dân mời ra coi giữ binh mường. Tá Cài ra điều kiện dân mường phải cúng to hơn nữa, thịt 10 con thú lớn, cúng 9 gánh vàng 10 gánh bạc. Dân làng dọn cây, làm cầu cho Lang đi. Nhưng khi Tá Cái ra thì lại bị rồng cuốn nhe nanh, thuồng luồng xanh nhe nọc… Tá Cài đành phải quay chân về.

Dân mường lại kéo nhau mời Tá Cần, người thứ ba sinh ra từ trứng Chiếng, ra giữ binh mường. Tá Cần là người hiền lành, khiêm tốn, cũng ra các điều kiện, nhưng là điều kiện mở đường mở xá, xua đuổi ma quỷ. Với con người đức độ như vậy ma quỷ không cần đánh giết cũng phải chạy tránh xa. Ma rồng sợ trói, Thuồng luồng sợ đánh. Tá Cần trở thành người cầm mường, gọi là Lang Cun Cần…

Dịt Dàng như trong sử thi Mường gọi là Vua. Dịt Dàng là phát âm chệch của Việt Vương. Có nhiều ý kiến trước đây đã nhận định Dịt Dàng là Hùng Vương, điều này rất chính xác. Vị Hùng Vương đầu tiên, mở đầu thời kỳ lịch sử người Việt, thời kỳ có thủ lĩnh cộng đồng (có người giữ binh mường) là Đế Minh trong Truyện họ Hồng Bàng. Đế Minh được thờ tại đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh dưới tên gọi Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ hay Đột Ngột Cao Sơn.

Thời Hữu Hùng Đế Minh xảy ra cuộc chiến đánh lại giặc “Ngô Thục” hay Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê. Hùng Vương được sự giúp đỡ của Tây Thiên Quốc mẫu đã chiến thắng Xi Vưu, lên giữ vị trí Minh chủ của thiên hạ vạn bang. Sử thi Mường gọi giặc Thục là Ma ếm thè 99 cái lưỡi đỏ, trỏ 99 cái răng cọp. Số 9 là số chỉ hướng Tây theo Hà thư tương ứng với bộ tộc Cửu Lê, là bộ tộc ở phía Tây lúc này. Thục cũng có nghĩa là hướng Tây, nơi mặt trời lặn (thụt). Chữ Xi là âm đọc của từ Tây theo như tiếng Hán ngày nay. Ví dụ Guangxi là phiên âm của tên tỉnh Quảng Tây. Vưu có thể là Vua. Xi Vưu thực nghĩa là vua phía Tây. Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê là con Ma ếm được nhắc tới trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước.

Vị trí nắm quyền thủ lĩnh cộng đồng thứ hai theo Truyện họ Hồng Bàng là Đế Nghi. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả chép là Viễn Sơn Thánh Vương. Người ra nắm binh mường thứ hai là Tá Cài, nên Tá Cài tương ứng với Đế Nghi Viễn Sơn Thánh Vương. Chữ Tá trong tiếng Mường còn đọc là Đá, chỉ người cao tuổi đáng kính. Như thế có liên hệ rõ ràng về ngôn ngữ: Đá – Sơn, Tá – Tổ. Đây là lý do vì sao người Việt dùng từ Sơn để chỉ các vị Tổ thời sơ quốc họ Hùng.

Đế Nghi tuy lên nắm giữ đại quyền thiên hạ nhưng lại chỉ làm vua phương Bắc xưa, tức phương Nam ngày nay, ở vùng cựu đô Ngàn Hống trên dãy Hồng Lĩnh ở Nghệ Tĩnh. Sử thi Mường do đó kể Tá Cài ra nắm giữ binh mường bị rồng cuốn, thuồng luồng xanh chặn lối. Đây là hình ảnh của cơn đại hồng thủy thời Đường Nghiêu nước ngập ngang trời được chép trong truyền thuyết Việt.

Người thứ ba lên nắm được binh mường, cầm đầu thiên hạ người Việt một cách chắc chắn, xua tan được ma quỷ là Lộc Tục. Lộc Tục tương ứng với Tá Cần trong sử thi Mường. Lộc Tục làm vua phương Nam xưa ở vùng miền Bắc Việt, xưng là Kinh Dương Vương. Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước tôn ông là Lang Cun Cần, vị Lang Cun đầu tiên của người Mường.

Ở giai đoạn này còn một vị trí thủ lĩnh tuy không được sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước nói tới một cách trực tiếp, nhưng vẫn có những lời kể đề cập tới. Đó là chuyện bà Dịt Dàng tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm. Rõ ràng bà Dịt Dàng tương ứng với Tây Thiên Quốc mẫu, vợ của vua Hùng (Dịt Dàng), tương truyền là người đã dạy dân Việt cách chăn tằm ươm tơ.

Dị bản khác của sử thi Mường kể người tìm ra cách ươm tơ dệt vải là nàng Vạ Hai Kịt, cũng là một người sinh ra từ quả trứng Chiếng. So sánh với Ngọc phả Hùng Vương Thánh Tổ thì nàng Vạ Hai Kịt tương ứng với vị Ất Sơn Thánh Vương, là vị Hùng Vương Thánh Tổ thứ ba được thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và ở vùng đất tổ Phong Châu nói chung. Ất Sơn Thánh Vương có xuất xứ từ vùng núi Lịch ở Sơn Dương, Tuyên Quang, nơi mà mãi tới gần đây vẫn còn gọi là tổng Ất Sơn. Dãy núi Lịch nằm nối tiếp dãy núi Tam Đảo, tức là Ất Sơn Thánh Tổ cùng dòng hệ với Tây Thiên Quốc Mẫu ở Tam Đảo.

Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh

Lang Cun Cần là vị thủ lĩnh có vai trò đặc biệt trong lịch sử người Mường bởi những công lao to lớn mang tính chất khai mở mọi mặt trong đời sống nhân dân. Bản thân chữ Cần có nghĩa là đầu tiên, trước tiên. Lang Cun Cần nghĩa là vị thủ lĩnh đầu tiên của người Mường, rất tương đồng với Kinh Dương Vương, vị Nam Thiên Thánh Tổ đầu tiên của người Việt.

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước kể: sau khi Lang Cun Cần cầm yên binh mường, ông bắt đầu tìm ra cách làm nhà từ hình dáng của con rùa, tìm ra cách đánh lửa bằng cách cọ xát vào bùi nhùi vót từ cây nứa, học cách lấy giống lúa và trồng lúa để có lúa nà đồng trước, lúa vượt đồng sau, bắt trâu nuôi để cày bừa, tìm ra cách nấu rượu cần. Tất cả những “công nghệ” này được sử thi Mường gọi là “đẻ”: đẻ nhà, đẻ lửa, đẻ gạo, đẻ trâu, đẻ rượu cần… Ý nghĩa của chữ Đẻ ở đây gần với chữ Tác, nghĩa là tìm ra, sáng tạo ra, chứ không chỉ có nghĩa là “sinh ra” như từ Đẻ trong ngôn ngữ Việt. Chữ Tác xưa được ký âm bằng chữ Sạ, rất cận âm với từ Đẻ.

Người Mường ở các vùng Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa thường tôn thờ Bua Ba Vì, tức Tản Viên Sơn Thánh theo cách gọi của người Việt. So sánh những công nghiệp của Lang Cun Cần đẻ nhà, đẻ lửa, đẻ gạo, đẻ trâu… với các sự tích của Tản Viên Sơn Thánh thì có thể thấy rõ sự tương đồng. Ví dụ chuyện kể Thánh Tản dạy dân làng Cẩm Đái dùng bùi nhùi để đánh lửa, hoàn toàn giống với cách đẻ lửa của Lang Cun Cần. Tới nay ở vùng Cẩm Đái vẫn lưu truyền sự tích “đàn ông Cẩm Đái không râu” do việc lấy lửa cháy râu và tục đánh lửa bằng bùi nhùi vẫn được diễn lại trong các dịp lễ Tản Viên Sơn Thánh.

Ở chân núi Ba Vì có làng Rùa với cây đa khổng lồ gắn với sự tích Thánh Tản. Sự tích này cho thấy sự tương đồng với chuyện kể người dân theo hình dáng con rùa mà làm nhà cho Lang Cun Cần. Thánh Tản còn dạy dân cày cấy ở vùng Cổ Đằng Tam Vật Lại, đánh cá trên sông Tích, đi săn ở Mang Sơn, đào giếng ở Quy Mông, lấy gỗ xây đền ở Chàng Sơn… Tất cả những sự tích này đều tương tự chuyện kể về Lang Cun Cần trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước.

Lang Cun Cần là người đã xua đuổi được ma quỷ khi ra cầm mường. Ma rồng, thuồng luồng chạy từng bầy vì sợ Lang Cun Cần. Đây là chuyện Sơn Tinh chiến thắng đám thủy quái của Thủy Tinh, trị thủy thắng lợi thời Hồng Bàng mở nước. Lang Cun Cần trong sử thi Mường là Tản Viên Sơn Thánh trong tín ngưỡng dân gian của người Việt.

Trong cuốn sách mới ra mắt gần đây của Nhóm nghiên cứu di sản Đền Miếu Việt mang tên Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn đã đưa ra nhận định chứng minh rằng Tản Viên Sơn Thánh chính là Kinh Dương Vương trong huyền sử Việt. Vì thế Tản Viên Sơn Thánh hay Bua Ba Vì cũng chính là Lang Cun Cần, vị thủ lĩnh thần thánh đầu tiên được ghi trong sử thi Mường.

Giai đoạn thủ lĩnh cộng đồng được gọi trong huyền sử Việt là thời kỳ Tam vị Hùng Vương Thánh Tổ ở Phong Châu và Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn ở vùng Ngũ Lĩnh Ba Vì. Cả 2 khu vực đất tổ của thời kỳ Sơn triều Hùng Vương này cũng đều là vùng đất gốc của người Mường. Do đó sử thi Mường kể giai đoạn thủ lĩnh binh mường gồm những vị Hùng Vương Thánh Tổ tương ứng là Dịt Dàng, Đá Cài, Vạ Hai Kịt và Lang Cun Cần. Bắt đầu từ Lang Cun Cần – Kinh Dương Vương, người Mường – Việt như cá vượt Vũ Môn hóa rồng, đã có cuộc sống thực sự ấm no nhờ tìm ra lửa, ở nhà sàn, trồng lúa, đánh cá, chăn trâu, nấu rượu, dệt tơ…

Bài Ngã Ba Hạc Phú của Tiến sĩ đời Lê Nguyễn Bá Lân có lời nói về giai đoạn dựng nhà hình rùa, thắng thủy hóa rồng của vùng xứ Đoài như sau:

Nắm đất Đoài phương

Cạnh giời Nam quốc.

Ba góc bờ chia vành vạnh, huyệt Kim Quy hẻm đá rộng hông hênh

Hai bên cỏ mọc lâm dâm, hang Anh Vũ giữa dòng sâu huếch hoác.

(Còn nữa)

https://congdankhuyenhoc.vn/su-thi-muong-de-dat-de-nuoc-va-huyen-su-thoi-hung-vuong-thoi-thu-linh-cong-dong-179230109110126742.htm

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 1.
Phong cảnh vườn tược ở Bá Thước, Thanh Hóa.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 2.
Bà con người Mường ở Bá Thước, Thanh Hóa.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 3.
Cây đa làng Rùa, Vân Hòa, Ba Vì.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 4.
Ban thờ Tản Viên Sơn Thánh ở làng Cẩm An, xưa là Cẩm Đái, Cẩm Lĩnh, Ba Vì.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 5.
Đình Bằng Tạ, Cẩm Lĩnh, Ba Vì, nơi còn tục lệ đánh lửa bằng bùi nhùi vào ngày lễ.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 6.
Đình Sủ Ngòi ở thành phố Hòa Bình, là ngôi đình của người Mường thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương: Thời thủ lĩnh cộng đồng - Ảnh 7.
Đình Thạch Khoán ở xứ Mường trên đất Thanh Sơn, Phú Thọ.

Những vị tiên thời Trung đại

Hình tượng các vị tiên thời kỳ phục hưng Trung đại ở nước ta thể hiện những mong muốn về cuộc sống ấm no, đủ đầy, may mắn của đại chúng qua sự hòa đồng các tôn giáo lớn khi đó là Đạo giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo.

Hình tượng tiên thời Tùy Đường

Sau thời kỳ Lục triều, Nam Bắc phân tranh, Hồ Hoa lẫn lộn, Trung Hoa bước vào giai đoạn phục hưng từ nhà Tùy và đạt đỉnh thịnh vào thời Đường. Đạo Giáo dưới thời Đường đã gần như trở thành quốc giáo, với việc tôn Lão Tử là tổ của họ Lý Đường, tôn xưng Thái Thượng Lão Quân.

Trên mảnh đất Việt ở phương Nam khi đó vẫn tiếp tục cùng dòng chảy văn hóa lịch sử chung của phương Đông. Những di vật tiêu biểu thời kỳ này có thể kể đến là tấm bia Xá lợi tháp minh thời Tùy Văn Đế tìm thấy ở khu vực Luy Lâu hay những nhân vật kiệt xuất thời Đường như tể tướng Khương Công Phụ người Thanh Hóa và thần đồng thơ Đường Vương Bột, người đất Long Môn ở Giao Châu. Quan niệm về thần tiên của thời Tùy Đường đã vượt ra khỏi yếu tố “độ linh” cho người chết thời Tần Hán, mà trở thành nhu cầu tín ngưỡng thường nhật, hướng cầu tới những điều may mắn, hạnh phúc hàng ngày cho quảng đại quần chúng. Hình tượng các vị tiên thời trung đại cũng thay đổi theo cùng xu hướng đó.

Các gương đồng thời Tùy Đường đã không còn là vật chôn theo người chết như trước, mà là đồ dùng và đồ trang trí thường nhật của tầng lớp quý tộc. Chủ đề trên gương lúc này không còn những hình ảnh kỳ bí của thế giới thần tiên đạo Giáo, mà thay vào đó là những cảnh chim thú hoa lá, như phượng hoàng ngậm hoa, chim uyên ương… Đặc biệt phổ biến trên gương đồng lúc này là hình ảnh các loài “thụy thú”, có thể là các thú 4 chân như chó, hổ hay thú biển (hải thú), được thể hiện trong vườn hoa trái bồ đào (nho) chín mọng. Chữ “Thụy” nghĩa là điều tốt đẹp, no ấm, đủ đầy, may mắn… thể hiện ước muốn của chủ nhân những chiếc gương thời Tùy Đường.

Hình tượng tiên thời Tùy Đường cũng “đẹp” và “thụy” không kém. Trên các gương đồng lúc là 2 vị tiên nữ quần rộng áo rủ đang bay phất phới lên trời (Phi tiên kính). Lúc là cảnh đêm trăng với vũ khúc nghê thường có chị Hằng, thỏ ngọc, cóc vàng (Hằng Nga bôn nguyệt kính). Lúc là những điển xưa tích cũ như chuyện Khổng Tử hỏi Vi Khải Kỳ về 3 điều vui ở đời (Tam lạc kính). Lúc là cảnh vị chân nhân đánh đàn cưỡi sương cưỡi hạc, hay tiên nhân Vương Tử Kiều thổi bầu sênh dẫn gió nơi đồng nội…

Gắn với điều may mắn, tốt lành ở thời này bắt đầu xuất hiện bộ Bát tiên, gồm 8 vị tiên Chung Ly Quyền, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lã Động Tân, Lam Thái Hoà và Hà Tiên Cô. Mỗi vị một vẻ, đi mây về gió, ngao du vượt biển, làm bạn với thiên nhiên, phong cảnh ở trần gian. 8 bảo bối là vật cầm của bát tiên gồm quạt ba tiêu, trống cơm, phất trần, kiếm phép, sáo ngọc, thủ quyến, thiết trượng, hồ lô, dây phách, giỏ hoa lam, hoa sen. Bát tiên và bát bảo có phép mầu nhiệm trong chữa bệnh, diễn xướng, trừ tà, mang đến sức khỏe, niềm vui và sự sung túc cho con người.

Hình tượng tiên thời Lý Trần

Sang thời Ngũ Đại, nhà Đường tan rã chia thành 10 tiểu quốc. Vùng đất Việt ở phương Nam cũng theo đó tách khỏi Trung Hoa. Lĩnh Nam đạo dưới thời Đường trở thành vùng của tiết độ sứ quân cai quản. Tiết độ sứ là người cầm cờ tiết độ, có toàn quyền tự trị ở một khu vực. Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân đầu tiên là Cao Vương Biền, cho xây thành Đại La với quy mô lớn, làm thủ phủ của cả vùng đô hộ An Nam. Nối tiếp nhau giữ vị trí Tiết độ sứ vùng Tĩnh Hải là ba vị chủ họ Khúc (Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ), rồi sau đó là các vị Đinh Liễn, Lê Hoàn và Lý Công Uẩn.

Từ khi các vua Lý lập nước Đại Việt, lên ngôi xưng Hoàng đế, đặt niên hiệu ngang với phương Bắc thì văn hóa tín ngưỡng thần tiên trên đất Việt có sự phát triển riêng biệt. Điểm nổi bật của thời kỳ Lý Trần là ảnh hưởng của các tôn giáo đến từ Ấn Độ, mà đã được gọi chung là Phật giáo (gồm cả Phật giáo Thích Ca và Ấn Độ giáo). Thời Lý có 3 vị thiền sư đồng hành đi cầu đạo ở phương Tây là Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không và Giác Hải. Ba vị đi đến nước Kim Xỉ (Myanma) thì đắc đạo, quay trở về trở thành những bậc vừa Tiên vừa Phật, với đủ chuyện bay trên không, đi trên nước, hàng long phục hổ, đầu thai hóa sinh ly kỳ. Chuyến đi cầu đạo phương Tây của ba thiền sư đã diễn tả sự du nhập của tôn giáo Ấn Độ vào nước ta dưới thời Lý. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ lên tín ngưỡng và mỹ thuật Việt thời Lý đến từ phương Tây qua con đường tu học và truyền giáo, chứ không phải từ phương Nam qua những tù binh người Chăm bị bắt giữ.

Sang thời Trần, cùng với đạo Phật, đạo Giáo tiếp tục trở nên hưng thịnh. “Tam giáo đồng lưu” của thời Trần là Đạo giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo, được thể hiện khá rõ trong cuộc đời và sự nghiệp của các vị vua quan nhà Trần. Phật hoàng Trần Nhân Tông trước khi tu Phật ở Yên Tử đã tu Đạo ở hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Vị anh hùng Trần Hưng Đạo cũng là một Đạo sĩ có tiếng, trừ tà diệt quỷ là tướng giặc Phạm Nhan. Trần triều đã trở thành hẳn một phủ thờ riêng trong tín ngưỡng dân gian. Những kinh sách và cách thực hành tôn giáo của các vị Trúc Lâm tam tổ đều mang tính “nhập thế” cao. Nói cách khác, Phật giáo Ấn Độ du nhập đã hòa đồng cùng với tôn giáo bản địa lâu đời của người Việt là Đạo giáo.

Hình tượng nghệ thuật thời Lý Trần thể hiện rõ xu thế “Tây hóa” trên. Khác với những hình ảnh kỳ dị của tiên nhân Đạo giáo thời Tần Hán, các vị tiên theo phong cách Ấn Độ giáo thời Lý Trần được thể hiện trong hình dáng đầy đặn, tươi vui, tráng lệ. Hình ảnh các vị tiên được khắc họa trên các di vật Lý Trần là các Chư Thiên trong Ấn Độ giáo. Điển hình là hình Tiên múa (Apsara), Tiên đánh đàn (Càn Thát Bà), Tiên thân chim (Khẩn Na La) gặp phổ biến trên các di vật như ở bệ đá chùa Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh) thời Lý hay trong chạm khắc gỗ chùa Thái Lạc (Văn Lâm, Hưng Yên) thời Trần.

Vào thời Lý Thánh Tông còn có chuyện Đế Thích giáng trần, triệu hồi Tam phủ công đồng hoàn hồn cho kỳ thủ Trương Ba tại thôn Liêu Hạ (Tân Lập, Yên Mỹ, Hưng Yên). Hồn Trương Ba được nhập vào trong thân xác của người hàng thịt, to lớn, đẫy đà, phải chăng cũng chính là một dạng thể hiện của thần đầu voi Ganesha (Hoan Hỷ Thiên)? Đế Thích Nhân Đà La rõ ràng là vị Vua Trời trong Ấn Độ giáo và là người đứng đầu thần điện của Tam phủ trong chuyện này.

Những vị tiên thời Trung đại - Ảnh 1.
Thiên Đế điện ở Liêu Hạ (Yên Mỹ, Hưng Yên).
Những vị tiên thời Trung đại - Ảnh 2.
Tiên cưỡi thú – gương đồng thời Đường.
Những vị tiên thời Trung đại - Ảnh 3.
Chim uyên ương và hoa lá – gương hoa quỳ thời Đường.
Những vị tiên thời Trung đại - Ảnh 4.
Chim tước và hoa lá – gương tròn thời Đường.
Những vị tiên thời Trung đại - Ảnh 5.
Tiên tấu nhạc – chạm khắc chùa Thái Lạc.
Những vị tiên thời Trung đại - Ảnh 6.
Tiên thân chim dâng hoa – chạm khắc chùa Thái Lạc.

https://congdankhuyenhoc.vn/nhung-vi-tien-thoi-trung-dai-179221229222732023.htm

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương

Đẻ Đất Đẻ Nước là bộ sử thi đồ sộ của người Mường được lưu truyền và sử dụng cho tới nay trong các dịp may chay, cưới hỏi…

Sử thi bao quát từ khi mở ra đất ra nước, sinh ra con người, lập nên thủ lĩnh Mường… cho đến khi rước Vua về vùng Đồng chì Tam quan Kẻ chợ, hoàn thành công cuộc dựng nước của người Mường.

Người Việt (người Kinh) và người Mường được biết là 2 tộc người có quan hệ nguồn gốc rất gần gũi, nên rõ ràng lịch sử nguồn cội của người Mường cũng chính là lịch sử tổ tiên người Việt. Thực vậy, các nhân vật, sự kiện được kể trong suốt sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước hoàn toàn trùng khớp với huyền sử thời Hùng Vương của người Việt. Đẻ Đất Đẻ Nước không gì khác là sự tích Lên Núi Xuống Biển của trăm họ người Việt thời Hùng Vương.

Phần 1: Thời Thần thoại

Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, bản sưu tầm ở huyện Bá Thước, Thanh Hóa kể: Ngày xưa dưới đất chưa có đất, trên trời chưa có trời. Đất còn rời rạc, nước còn bùng nhùng. Có một năm mưa dầm mưa dãi. 50 ngày nước rút, mọc lên một cây xanh có 90 cành. Những cành trên cùng có ông Thu Tha, bà Thu Thiên. Ông bà đã tạo ra cây cỏ và các loài tôm cá. Đó là Đẻ Đất. Rồi hạn chín tháng trời, nắng mười hai năm xác đất. Ông Pồng Pêu (thần nước) cầu ước mưa. Mưa dầm dề, mưa rào rào. Đó là Đẻ Nước. 

Trên đất trũng mọc lên một Cây Si cao tới tận trời. Sâu Hốc sâu Giang đục hết lõi cây. Cây đổ, 1919 cành Si thành 1919 đất mường. Đó là Đẻ Mường. Cây Si còn hóa ra Mụ Dạ Dần. Mụ Dạ Dần đẻ ra Cun Bướm Bạc, Cun Bướm Bờ. Cun Bướm Bạc và Cun Bướm Bờ lấy các nàng tiên trời đẻ được 10 con. Con út là Trống Chim Tùng, Mái Chim Tót. Chim này đẻ trứng Chiếng. Trứng vuông nở thành người, trong đó có ông Dịt Dàng, Đá Cài, Lang Cun Cần và nàng Vạ Hai Kịt. Đó là Đẻ Người.

Thủa ấy có ông Cuông Minh Vàng Rậm, có nàng Ả Sấm Trời đúc ra 9 chín mặt trời, 12 mặt trăng. Nắng gay gắt. Họ nhà Ngao thần Nỏ Ná bắn rơi 8 mặt trời, 11 mặt trăng. Ông Thu Tha, bà Thu Thiên truyền làm năm tháng. Mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Có năm đầy năm vơi, có tháng no tháng thiếu…

Quan niệm về khai sinh vũ trụ của người Mường hoàn toàn trùng với của người Kinh. Câu mở đầu trong Thiên Nam ngữ lục, cuốn “sử thi Nôm” từ thế kỷ 17 ghi:

Nhớ từ Thái cực sinh ra
Trên trời dưới đất giữa hòa nhân gian.

Câu đối ở chính điện thờ Kinh Dương Vương ở Á Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh:

Thái cực nhất nguyên thiên địa thủy
Viêm Giao Bàn Cổ đế vương tiên.

Ông Bàn Cổ trên đất Viêm Giao đã dùng rìu bổ vỡ khối hỗn mang Thái cực ban đầu mở ra trời – đất. Ông Bàn Cổ với chiếc rìu sáng thế khổng lồ tương ứng với Mụ Dạ Dần và Cây Si trong sử thi Mường. 4 hình tượng Bướm Bạc, Bướm Bờ, Chim Tùng, Chim Tót là 4 tượng trong Thái cực đồ: Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Thiếu Dương. Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng. Thái cực đồ với Tứ tượng chính là quả trứng Chiếng hình vuông đã biến hóa vô cùng mà Đẻ Người.

Người đúc ra Mặt trời là Phục Hy, vị thần hướng Đông (hướng mặt trời mọc), được sử thi Mường gọi là Cuông Minh Vàng Rậm. Chữ Cuông Minh nghĩa là Quang Minh, chỉ vị thần tạo ra ánh sáng. Người đúc ra Mặt trăng là Nàng Ả Sấm Trời, tương ứng với Nữ Oa. Cặp thần thoại Phục Hy – Nữ Oa trong quan niệm xưa gắn với Âm Dương (Mặt trăng – Mặt trời) và Tứ tượng. Trong dân gian người Việt thì Phục Hy – Nữ Oa được gọi là Ông Đùng – Bà Đà.

Hùng Vương Thánh Tổ Tổ Ngọc phả, phần Lịch kỷ họ Hùng chép rõ về thời kỳ thần thoại:

“Xét như tiếng đức Tiền hoàng đế thời Thái cổ, từ kỷ Tam Hoàng Ngũ Đế đến nay, theo nguyên mệnh của xuân thu, bao gồm thời mở mang hồng hoang trước trời đất. Trời ban đầu mở vào Giáp Tí. Đất tụ mang ở Ất Sửu. Vận người sinh ở Giáp Dần. Vạn vật ra đời ở gian Ất Mão. Từ thời Bàn Cổ, Thái cực sinh Lưỡng Nghi, là Thiên Địa. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương. Tứ tượng biến hóa thành nhiều hình trạng.

Thời Hỗn Mang còn chưa biết đạo trời đất khởi đầu thế nào, đến Âm dương biến làm Tam tài, vị quân thủ dẫn đường dần dần mở ra phong khí, dần dần có văn minh, làm rõ ràng các giáo lý trị dân. Trời xuất hiện nhiều bậc đại thánh. Cha trời Mẹ đất là Thiên tử xuất hiện đầu tiên. Sau đến các vật ở vạn nước được yên định, nhận trọng trách lớn như thế sao.

Thiên Hoàng nối Bàn Cổ mà trị ở ngôi Thiên tử, nắm quyền chế độ, mới chế ra Can chi. Mười can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mười hai chi là Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Vị, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Lấy đó để định thời gian, giúp nhân dân biết phương hướng. Cứ mỗi đời có bậc quân vương lại tất có sự sáng chế của quân vương đó. Các vua sau từ đó noi theo trăm đời không lay. Lấy việc giải quyết cho dân làm khó. Lấy sự an định làm nguy. Xem hiền mà sửa mình.

Địa Hoàng định hai thời phân làm ngày đêm, lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Gộp những sai lệch mà bày ra nhuận, cuối cùng thì phục hồi lại thời gian như ban đầu, lấy thời khí theo đó. Các anh em của người cứ một vạn tám ngàn năm là chúa tể thiên hạ các phương, sáng chế lập ra pháp luật, ban bố vạn đời. Khiến cho hậu thế đều biết được chỗ sáng tối, tháng năm như thế”.

Thiên Hoàng, Địa Hoàng hay Cha Trời, Mẹ Đất tương ứng với bà Thu Thiên, ông Thu Tha trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, là những người đã tạo ra năm tháng cho hậu thế biết phân thời gian. Họ nhà Ngao bắn rơi Mặt trăng Mặt trời tương ứng với truyền thuyết Vua Nghiêu (Ngao – Hữu Ngu) đã sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn hạ Mặt trời, cân bằng lại Thái cực, tạo nên một vũ trụ yên ổn, phân định trời đất, ngày đêm.

Có thể thấy quan niệm lịch sử Hùng Vương hoàn toàn trùng với giai đoạn mở đầu của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước, từ việc Mụ Dạ Dần – Bàn Cổ mở trời đất, sinh Thái cực, Thái cực sinh vạn vật, đến việc Cha Trời Mẹ Đất phân chia thời gian, giữ yên vũ trụ. 

Bài Ngã Ba Hạc phú của Tiến sĩ thời Lê là Nguyễn Bá Lân diễn tả thời thần thoại:

Vũ trụ mơ màng,
Càn khôn xếch xác.
Vua Bàn Cổ khai lò tạo hoá, hồng mông đà phơi phới hơi xuân,
Họ Hữu Ngu khơi mạch sơn hà, cương giới vẫn rành rành dấu tạc.

(Còn tiếp)

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 1.
Núi Cột Cờ Mường Bi, Tân Lạc, Hòa Bình là di chỉ khảo cổ nền Văn hóa Hòa Bình, quê hương của sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 2.
Đền Á Lữ.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 3.
Nghi môn đền Á Lữ nhìn từ bên ngoài.
Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương - Ảnh 4.
Nghi môn đền Á Lữ nhìn từ bên trong.

Đôi câu đối về Thái cực và Bàn Cổ ở đền Á Lữ.

Sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước và huyền sử thời Hùng Vương (congdankhuyenhoc.vn)

Những vị tiên thời hậu Hùng Vương

Hình tượng các vị tiên trên gương đồng hay các tranh lụa thời Tần Hán mang đặc điểm, ý nghĩa riêng của quan điểm Đạo giáo đương thời và trở thành nguồn mẫu cho những biểu tượng tiên nhân, tiên nữ trong tín ngưỡng và mỹ thuật dân gian Việt thời cận đại.

Những vị tiên thời hậu Hùng Vương - Ảnh 1.
Bích đồng Nghi Vệ.

Năm 257 trước Công Nguyên, Tần Chiêu Tương Vương diệt nhà Đông Chu, chấm dứt chế độ phong kiến phân quyền kéo dài hơn 800 năm của Trung Hoa. Năm 221 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng lên ngôi xưng Hoàng đế, khởi đầu cho thời kỳ thiên hạ thống nhất, quản lý hành chính theo chế độ quận huyện từ trung ương xuống địa phương. 

Văn hóa tín ngưỡng tôn giáo trên toàn cõi trời Đông cũng theo đó có một bước tiến đáng kể. Từ giai đoạn trăm nhà đua tiếng của Bách gia chư tử thời Chiến Quốc tới thời Tần tín ngưỡng nổi bật lên là Tiên đạo, điển hình với câu chuyện Tần Thủy Hoàng cho người ra biển Đông để tìm thuốc Tiên trường sinh bất tử. Hình tượng Tiên trong thời kỳ Tần Hán do đó mang tư tưởng Đạo giáo một cách sâu sắc, mà nền tảng căn bản của nó là học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Tới cuối thời Đông Hán sang thời Tam Quốc thì Đạo Giáo đã trở thành một tôn giáo với hệ thống thần điện hoàn chỉnh trong phong trào Ngũ đấu mễ do Trương Đạo Lăng khởi xướng và nối tiếp bởi anh em Trương Giác, Trương Lương, Trương Bảo trong khởi nghĩa Khăn Vàng.

Trên vùng đất Việt khi đó trào lưu thống nhất thiên hạ và hoàn thiện Đạo Giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tín ngưỡng của người dân. Chính vùng ven biển Đông trên miền Bắc Việt là nơi Tần Thủy Hoàng Đế đã gặp vị Thiên Tuế Ông Yên Kỳ Sinh để cầu thuốc trường sinh. Dấu vết của tiên ông Yên Kỳ Sinh nay là ngọn núi Yên Tử, mang tên của vị Đạo sĩ thời Tần này.

Năm 207 trước Công Nguyên, Triệu Vũ Đế lập nước Nam Việt, xưng đế ngang với nhà Tây Hán, văn hóa Nam Việt khi đó có xu hướng tiếp nối nền văn hóa trống đồng Đông Sơn thời nước Âu Lạc của An Dương Vương. Tuy nhiên, nhà Triệu làm chủ phương Nam không được lâu. Năm 111 trước Công Nguyên, Hiếu Vũ Đế tấn công kinh đô Phiên Ngung, nhà Triệu nước Nam Việt sụp đổ.

Hậu quân của nhà Triệu theo thừa tướng Lữ Gia về xây dựng căn cứ kháng chiến trường kỳ chống lại nhà Tây Hán tại vùng đất tổ Phong Châu. Lữ Gia ở nhiều di tích tại đây, như ở Linh Tiên Quán (Hoài Đức), được thờ như một vị Đạo sĩ tu tiên, luyện tiên đan. Đạo Giáo ở phương Nam do đó vẫn tiếp tục phát triển dưới thời Nam Việt, tuy có thể không cùng màu sắc so với Đạo Giáo ở phương Bắc đương thời.

Bắt đầu từ Hiếu Vũ Đế, phần đất Nam Việt nằm trong cùng một thể chế quốc gia với miền Bắc Trung Hoa nên tôn giáo ở đất Việt lúc này có cùng chung một bầu không khí phát triển với Đạo Giáo ở phương Bắc. Di tích lưu tồn của thời kỳ này đến nay là những mộ xây gạch, được gọi là mộ kiểu Hán, gặp ở rất nhiều nơi, với quy mô mộ lớn và đồ tùy táng nhiều ở khắp miền Bắc nước ta, từ Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam… 

Di vật tiêu biểu thể hiện quan điểm tôn giáo tín ngưỡng thời kỳ này là những chiếc gương đồng được chôn theo người chết trong mộ. Những chiếc gương đồng trong mộ Hán không đơn thuần là đồ trang sức cá nhân, mà mục đích chính của việc khắc họa hình ảnh các vị thần tiên Thượng giới lên gương là nhằm siêu độ, dẫn đường cho linh hồn người chết về với cõi Tiên bất sinh bất diệt.

Có thể kể đến những vị tiên tiêu biểu của thế giới Thần Tiên thời kỳ hậu Hùng Vương như sau.

Nữ Oa – Phục Hy

Trên các bức bích họa thời Hán, cặp thần tiên tối cổ Nữ Oa – Phục Hy được thể hiện dưới dạng hình người thân rắn, cuộn đuôi vào nhau. Trên tay của Nữ Oa và Phục Hy có thể nâng Mặt trăng và Mặt trời hay cầm thước đo thẳng và thước đo cong. Đây đều là biểu tượng của hai yếu tố Âm và Dương trong Lưỡng nghi.

Tại khu mộ cổ khổng lồ Nghi Vệ ở Bắc Ninh được khai quật từ thời Pháp trong số các gương đồng đã phát hiện có một chiếc gương thể hiện cặp thần tiên thân rắn khá đặc biệt. Hình tượng người rắn tương tự còn gặp trên những tấm lụa phủ liệm quan tài cùng thời kỳ.

Hình tượng Nữ Oa – Phục Hy còn lưu truyền tới nay trong văn hóa dân gian Việt dưới hình ảnh của cặp thần Ông Đùng – Bà Đà trong lễ hội ở nhiều nơi. Ngay tranh dân gian Đông Hồ cũng có bức vẽ hình Tứ tượng, thể hiện hình 2 đứa trẻ quay đầu ngược nhau và thân quấn lấy nhau. Đây là một cách thể hiện khác của cặp thần tiên Nữ Oa và Phục Hy, bởi theo nguyên lý của Dịch học Lưỡng nghi Âm Dương sinh ra Tứ tượng.

Hình tiên thân rắn còn gặp trên bức chạm ở một ngôi đình nổi tiếng xứ Đoài Hà Tây xưa là đình Tây Đằng. Bên mé hữu của đình trên xà ngang có bức chạm 2 vị tiên cầm hoa sen với thân rắn dài, có vảy. Hai vị tiên này đứng chầu vào giữa, là nơi có 2 vị tiên khác, một đang ôm rắn và một đang ôm cá. Hai vị tiên ở giữa bức chạm Tây Đằng là 2 vị thần chủ của tiên giới: Tây Vương Mẫu và Đông Vương Công.

Tây Vương Mẫu – Đông Vương Công

Theo quan niệm trong Tiên đạo, các vị tu hành đắc đạo thành Tiên, trước hết đều phải đến bái kiến đấng Đông Vương Công, rồi sau đó đến bái kiến đấng Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu còn là biểu tượng của sự Bất tử, đi liền cùng với hình thỏ ngọc giã thuốc, điều chế Tiên dược.

Tây Vương Mẫu theo mô tả của Sơn Hải kinh là người có thân hổ, chủ tọa ở núi Côn Lôn. Còn Đông Vương Công, vị thần ngự ở biển Đông, gắn với hình Rồng, con thần thú của hướng Đông. Chính vì thế có gương đồng thể hiện hình 2 vị tiên này cùng hình Long – Hổ ở 2 bên.

Cũng trên chiếc gương đồng phát hiện ở mộ cổ Nghi Vệ nói trên còn có hình người thân hổ ở giữa gương. Đây là hình Tây Vương Mẫu, thần chủ của núi Côn Lôn. Hình ảnh Tây Vương Mẫu và Đông Vương Công còn lưu truyền trong văn hóa dân gian như hình người ôm rắn và người ôm hổ được chạm ở trên phần nóc của đình Tây Đằng.

Các chân nhân

Trên gương đồng thời Hán thường bắt gặp các vị tiên Vương Tử Kiều, Xích Tùng Tử, là những vị chân tiên đắc đạo trường thọ. Đặc điểm biểu hiện của các chân nhân trên gương đồng là có thân hình nhỏ mảnh, mọc lông hay mọc cánh, cưỡi hay đang chăm sóc các thần thú có hình dạng nửa rồng nửa hổ nửa chim với các tên gọi như Phi liêm, Ác lai, Tịch tà.

Quan niệm thành tiên được thể hiện trong cuốn Bão phác tử luận tiên của Cát Hồng, vị huyện lệnh huyện Câu Lậu trên miền Bắc Việt vào thời Tấn. Cát Hồng dẫn sách Tiên kinh cho biết, tiên nhân được chia thành ba thứ bậc: “Người bậc trên bay thân hình lên trời là Thiên tiên. Người bậc giữa lên núi cao du ngoạn là Địa tiên. Người bậc dưới sau khi chết thoát xác gọi là Giải tiên“.

Quan niệm về cách thức lên núi đắc đạo thành tiên thường được thể hiện trên phần minh văn của các gương đồng thời Hán. Ví dụ, minh văn điển hình trên gương ghi: Lên núi Thái thấy Thần nhân; Ăn táo ngọc, uống nước suối; Cưỡi giao long vượt mây trôi.

Các tiên nhân khi tu tiên đạo thì không ăn ngũ cốc, lên núi uống nước suối, thân thể chỉ còn lại xương cốt, khi thành tiên sẽ cưỡi rồng, cưỡi hổ mà hóa tiên.

Tại mộ Nghi Vệ còn gặp một bức bích đồng hình tròn, ở trên có thể hiện hình Long – Hổ với tiên nhân cưỡi hổ. Hình tiên nhân gầy, có lông vũ được thể hiện rất rõ. Đây là tiền đề cho các hình tượng tiên có cánh và tiên cưỡi rồng rất phổ biến sau này trong điêu khắc dân gian ở các đình đền miếu mạo thời Lê Nguyễn. Ý nghĩa của việc thân hình người biến thành hình vật hay cưỡi linh vật là chỉ người đã đắc tiên đạo, thoát được xác phàm, trở thành tiên nhân bất tử. Khi đó ranh giới giữa “người” và “vật” đã không còn nên các tiên nhân đều có hình dạng biến hóa. Trên các tranh lụa liệm quan tài thời Hán còn vẽ các tiên nhân ở trong các hình dạng thân người đầu cáo, hay mang cánh chim, mỏ chim… rất dị thường.

Ngũ Đế Thiên Hoàng

Trong Đạo Giáo thời Hán – Tam quốc có 5 vị thần cai quản 5 hướng gọi là Ngũ Đế Thiên Hoàng. Lão Tử trung kinh viết, tên của các thần Ngũ Đế là:

– Thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thương đế, Đông Hải quân;

– Thần phương Nam tên là Chúc Dung Tử, hiệu là Xích Tinh Thành Tử, là Nam phương Xích đế, Nam Hải quân;

– Thần phương Tây phương tên là Nhục Thu Tử, hiệu là Hạ Lý Hoàng Công; là Tây phương Bạch đế, Tây Hải quân;

– Thần phương Bắc tên là Ngu Cường Tử, hiệu là Huyền Minh Tử Xương, là Bắc phương Hắc đế, Bắc Hải quân.

– Thần Trung ương tên là Hoàng Thường Tử, hiệu là Hoàng Thần Bành Tổ, là Trung ương Hoàng đế quân.

Ngũ Đế ứng với Ngũ phương và Ngũ sắc, là những dạng biểu hiện của Ngũ hành. Đặc biệt Ngũ Đế cũng là các vị “thủy thần” mà được gọi là “Hải quân” của 4 miền biển Đông Tây Nam Bắc.

So sánh với đạo Tam Tứ phủ ở Việt Nam thì Ngũ Đế Thiên Hoàng của Đạo Giáo chính là Ngũ vị Tôn Quan trong ban Công đồng Tứ phủ. Các vị quan lớn Tứ phủ cũng là 5 vị thủy thần trấn trị 5 phương, ứng đúng với 5 màu của Ngũ sắc. Có nơi như đình Mai Xá (xã Song Mai, Kim Động, Hưng Yên) thờ 5 vị thủy thần thời Hùng Vương, trong đó có Câu Mang Đại Vương, là tên của Đông phương Thanh đế – Đông Hải quân trong Ngũ Đế.

Trên gương đồng thời Hán đúc hình các vị thần này còn có chữ Quân nghi cao quan, thể hiện phép tắc về thứ bậc quan chức, hay tương đương với khái niệm “Công đồng” trong Tứ phủ. Chính chữ “quan” này là trong tên của Ngũ vị Tôn Quan.

Trùng liệt thần

Thời Tam Quốc phổ biến loại gương đồng mang tên “Trùng liệt thần” (đa thần), với 3 lớp thần tiên được khắc họa trên gương. Một gương đồng như vậy đã được tìm thấy ở khu khảo cổ Óc Eo – Ba Thê, là di tích mới được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 2022. Thời kỳ này cũng là thời kỳ Đạo giáo ở Trung Hoa đi vào hoàn chỉnh nên hệ thống thần điện của Đạo thể hiện trên gương đồng cũng trở nên đầy đủ nhất.

Thần điện theo phong cách trùng liệt thần với các vị thần được xếp thành các lớp, các phủ, là quan niệm tín ngưỡng được gặp trong các tranh thờ của nhiều dân tộc ở miền Bắc nước ta như người Dao, người Tày, người Cao Lan… và trong chính hệ thống tín ngưỡng Tứ phủ ngày nay của người Kinh.

Những chiếc gương đồng thời Lưỡng Hán như những bức tranh toàn cảnh về đạo Thần Tiên lưu truyền hậu thế, để lại những hình mẫu về các tiên nhân cho tín ngưỡng và mỹ thuật truyền thống Việt ở thời cận đại cũng như cho tới nay.

Những vị tiên thời hậu Hùng Vương - Ảnh 2.
Mẫu gương đồng có hình Long – Hổ và Tây Vương Mẫu – Đông Vương Công.
Những vị tiên thời hậu Hùng Vương - Ảnh 3.
Gương đồng với dòng minh văn “Lên núi Thái, thấy Thần nhân”…
Những vị tiên thời hậu Hùng Vương - Ảnh 4.
Tranh lụa thời Hán vẽ hình tiên thân rắn.
Những vị tiên thời hậu Hùng Vương - Ảnh 5.
Tranh lụa thời Hán với hình các tiên nhân hóa linh vật.
Những vị tiên thời hậu Hùng Vương - Ảnh 6.
Mẫu gương Trùng liệt thần.

https://congdankhuyenhoc.vn/nhung-vi-tien-thoi-hau-hung-vuong-179221210000346601.htm

Những vị Tiên nữ Việt thời Hùng Vương

Hình tượng Tiên nữ đã xuất hiện trong văn hóa Việt từ rất sớm, với ý nghĩa biểu tượng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của xã hội. Ngay từ thời đại Hùng Vương, trong các truyền tích về thời dựng nước. chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những vị Tiên nữ.

Các vị Tiên nữ thời kỳ này là những hoàng phi, hoàng hậu của các đời vua Hùng và đều đã trở thành những bậc “Mẫu nghi thiên hạ” trong tín ngưỡng dân gian.

Vụ Tiên Thần nữ

Vụ Tiên là vị Tiên siêu cổ của người Việt. Bà là vợ của Thái tổ Hữu Hùng Đế Minh trong truyền thuyết họ Hồng Bàng. Đế Minh nhân đi Nam tuần gặp được bà Vụ Tiên Thần nữ, vô cùng vui mừng, đã kết duyên mà sinh ra Lộc Tục…

Dấu vết của bà Vụ Tiên lưu truyền tới nay là trong tục thờ Tây Thiên Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo, nơi ngọc phả kể rằng có một người con gái là tiên từ Cửu thiên giáng hạ, nhan sắc chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, thông thạo văn ấn, nữ tắc nữ công, lại tài năng võ nghệ, binh thư thao lược, nữ lưu hào kiệt. Khi có giặc xâm lăng, bà đã chiêu mộ quân binh, kéo về chi viện cho Hùng Vương, dẫn quân ra trận diệt giặc. Thắng trận bà được vua Hùng phong là Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, đời đời thờ phụng.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 1.
Tây Thiên Quốc Mẫu ở đền Thượng Tây Thiên.

Bản thân chữ “Tây Thiên” khi đọc lướt sẽ cho chữ “Tiên”. “Vụ Tiên” chính thực nghĩa là “Vua Tiên”. Tây Thiên Quốc mẫu đã trở thành Mẫu Thượng Thiên trong tín ngưỡng Tứ phủ, cai quản Thiên phủ, tức là đứng đầu quần Tiên trên Thượng giới.

Mẫu Thượng Thiên là bà Mẹ Trời của người Việt, ngự trị trên đỉnh Tam Nguy của núi Côn Lôn (tên khác của núi Tam Đảo). Đây cũng là nơi bắt nguồn của dòng suối Bát Nhã, chảy từ ngọn Phù Nghi (Nghĩa) xuống qua chín khúc hồi hoàn. Vua cha Đế Minh ở núi Thái Hùng Lĩnh và Mẹ trời Tây Thiên bên dòng suối Nghĩa đã đi vào câu ca dao bất hủ của người Việt:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Câu đối ở đền Thỏng, là chính đền thờ Tây Thiên Quốc Mẫu tại xã Đại Đình, Tam Đảo, Vĩnh Phúc:

Thạch lộ phó Tây Thiên, linh địa tồn danh Tiên giáng

Cao sơn đăng Phù Nghị, cổ đài ký lập Mẫu nghi.

Dịch:

Đường đá tới Tây Thiên, đất thiêng còn danh tiên hạ thế

Núi cao lên Phù Nghị, đài xưa ghi lập mẫu oai nghiêm.

Thủy Tiên Thần Long

Đẹp thay Tiên nữ!” là lời thốt lên của Kinh Dương Vương khi gặp mẫu Thần Long bên bờ Động Đình. Kinh Dương Vương là dòng Sơn thần từ bà Vụ Tiên trên núi Tam Đảo. Còn Mẫu Thần Long là Thủy Tinh công chúa Xích Lân Long Nữ, con của Động Đình Đế Quân. Cuộc hội ngộ giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh đầu tiên này đã sinh ra đức vua Lạc Long Quân. Vị Tiên nữ Động Đình đã trở thành Mẫu Thoải trong tín ngưỡng Tứ phủ, vị mẫu cai quản Thủy phủ.

Chính đền thờ Xích Lân Long Nữ ở Việt Trì gọi là đền Tiên Cát, cho thấy rõ ràng rằng Mẫu Thoải là một vị Tiên. Thủy Tiên Thánh Mẫu còn được thờ ở nhiều nơi khác tại vùng đồng bằng ven sông Hồng, dưới những tên gọi và chuyện kể khác nhau. Điển hình là chuyện bà Phan Cù Nương ở làng La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ) bên bãi Trường Sa của sông Đà. Hay chuyện Quý Nương sinh Hoàng Xà trong sự tích đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ, Thái Bình… Tựu chung các sự tích về Thủy Tiên Thánh Mẫu đều kể bà Mẹ Rồng sinh một bọc, nở ra mấy người con dưới hình rắn – rồng, rồi trở thành các vị thủy quan ngự trị các lưu vực sông ngòi.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 2.
Ban thờ Mẫu Thần Long ở đền Tiên Cát.

Đền Á Lữ, nơi thờ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành, Bắc Ninh có đôi câu đối về mẫu Thần Long:

Tương truyền Lĩnh động Tiên sinh Thánh

Tòng thử Viêm phương quốc hữu quân.

Dịch:

Tương truyền chốn Lĩnh Tiên sinh Thánh

Từ đó phương Viêm nước có vua.

Tiên Dung Công chúa

Vị công chúa con vua Hùng thứ ba, có vẻ đẹp như trăng rằm, được Hùng Vương đặt tên là Tiên Dung và vô cùng yêu quý. Công chúa trên đường đi ngao du sơn thủy, xuôi dòng sông Hồng qua bãi Tự Nhiên ở đất Khoái Châu đã có cuộc kỳ ngộ với chàng trai Chử Đồng Tử. Hai vợ chồng cùng nhau học được Tiên đạo, một gậy một nón dựng nên cơ đồ bề thế, lâu đài cung điện ở vùng đầm nước bãi sông. Chử Đồng Tử được nhân dân theo về, lập thành nước riêng, nên Tiên Dung cũng đã trở thành Hoàng phi của một bậc Thiên tử.

Cùng với vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung còn có vị Tây Sa Công chúa, là con của Tây Vương Mẫu giáng phàm, giúp Chử Đồng Tử chữa bệnh cứu dân. Kết cục Chử gia tam tiên một đêm đã bay lên trời hóa thành bất tử, nhập vào bóng trăng với sự tích chú Cuội, chị Hằng và thỏ ngọc.

Câu đối ở đền Đa Hòa, là nơi cung quách xưa của Chử Đạo Tổ và Tiên Dung Công chúa:

Hóa cảnh thị hà niên, Tự Nhiên vi châu, nhất dạ thành trạch

Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên.

Dịch:

Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ

Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền.

Bạch Kê Ma Cô Tiên

Truyền thuyết về thành Cổ Loa kể rằng, các Tiên nữ đêm đêm đã xuống trần giúp An Dương Vương xây thành, nhưng bị yêu quỷ hóa thành con gà trắng gáy báo sáng, làm các Tiên nữ bỏ đất xây thành mà bay về trời. Thực ra, vị Tiên nữ ở Cổ Loa chính là Mẫu Bạch Kê, mà nay đền thờ còn sau núi Thất Diệu ở xã Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 6.
Nghi môn miếu Bạch Kê ở Yên Phong, Bắc Ninh.
Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 7.
Bia đá chùa Ma Cô Tiên ở Châu Cầu, Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh.

Đôi câu đối ở nghi môn đền Mẫu Bạch Kê ghi:

Hồng Lạc di phong trang thể thế

Tiên Long dư duệ khải hồng cơ.

Dịch:

Phong tục Lạc Hồng hình thể đẹp

Rồng Tiên dòng dõi mở cơ đồ.

Mẫu Bạch Kê là dòng dõi Lạc Hồng của Hùng Vương đã cản trở An Dương Vương xây thành, bởi An Dương Vương là triều đại đã thế ngôi Hùng Vương trên đất này. Người đã chống lại vua nước Âu Lạc chính là nhà Ân Thương. Cầm đầu đội quân nhà Ân khi đó là các nữ tướng, mà tới nay vẫn còn được tái hiện trong vai 28 cô tướng của hội Dóng Phù Đổng.

Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương

Ân sai hai tám tướng cường nữ nhung

Xâm cương cậy thế khoe hùng

Kéo sang đóng chật một vùng Vũ Ninh.

Truyện Giếng Việt kể, trong cuộc chiến với Phù Đổng Thiên Vương, vua Ân chết ở chân núi Vũ Ninh, trở thành vua của Địa phủ. Tới thời Tần Hán có người Thôi Vĩ đã lạc vào núi này, rơi xuống lòng đất gặp được Ân Hậu, rồi được một vị tiên nữ là Ma Cô Tiên đem cho ngọc báu, thuốc tiên. Thôi Vĩ trở nên giàu có, hạnh phúc và trường thọ. Ma Cô Tiên từ đó trở thành một vị phúc thần và thọ thần nổi tiếng trong văn hóa phương Đông.

Ma Cô Tiên là một hoàng phi của vua Ân, nên đây cũng chính là vị Mẫu Địa phủ trong quan niệm xưa. Bản thân chữ “Ma” có nghĩa là “má”, “mẹ” hay “mẫu”, là cách gọi xưng đối với vợ vua thời cổ. Nơi thờ vị Tiên mẫu này ở chân núi Vũ Ninh miền Châu Sơn là ngôi chùa cổ mang chính tên chùa Ma Cô Tiên, tại thôn Châu Cầu, xã Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh.

Vua Tiên Âu Cơ

Nói đến Tiên nữ thời Hùng Vương ai cũng nghĩ ngay đến bà Âu Cơ, bà mẹ đã sinh bọc trăm trứng, nở ra trăm trai Bách Việt. 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi, tôn người con trưởng lên làm vua Hùng, lập nước Văn Lang, đóng đô ở Việt Trì… Tiên mẫu Âu Cơ đã về trời ở xã Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ), nay còn di tích là ngôi đền mẫu nổi tiếng tại đây.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 4.
Hoành phi “Bách Việt chi Tổ” ở đình Ngọc Trục, nơi thờ bà Âu Cơ ở Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

Đôi câu đối tại chính điện đền mẫu Hiền Lương nói tới bà Âu Cơ là tổ của dòng Tiên lên núi, lưu truyền vạn đại, cùng đất nước và nhân dân mãi trường tồn:

Tố hồng mang đế kết dĩ lai, Tiên chủng vĩnh truyền lưu quốc tổ

Lịch Tượng quận triệu tu nhi hậu, nhân quần miễn mộ bá Viêm bang.

Dịch:

Nhớ thủa hồng mang gắn kết tới nay, nòi tiên mãi lưu truyền là Quốc tổ

Trải đất Tượng quận dựng sửa sau về, bầy dân luôn ngưỡng mộ khắp Viêm bang.

Mẫu Âu Cơ còn gặp trong hình tượng bà mẹ đẻ của Tản Viên Sơn Thánh ở vùng đất Lăng Sương (Thanh Thủy, Phú Thọ). Người Mường thờ bà là Quốc Mẫu Vua Bà, như một vị thủy tổ của dân tộc. Cũng bởi sự tích 50 người con lên núi lập quốc và là mẹ của Sơn Thánh mà bà Âu Cơ đã trở thành thánh Mẫu lâm cung Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ ngày nay. Hình tượng Tiên mẫu Âu Cơ gắn liền với hình chim Âu bay lượn trên mặt các trống đồng, hay chim Phượng hoàng gáy báo điềm lành mở nước trong Tứ linh vật.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 5.
Mẹ đẻ Tản Viên Sơn Thánh ở đền Lăng Sương.

Tiên nữ Tây Thiên Ngọc Tiêu

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 9.
Bà Ngọc Tiêu ở đền thờ Thanh Sơn Đại vương trên núi Tây Thiên.

Cũng là Tiên nữ núi Tam Đảo, nhưng bà Ngọc Tiêu được Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể tới không phải là vị Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu đánh giặc thời Đế Minh, mà là một tiên nữ yêu kiều, kết duyên cùng với Hùng Chiêu Vương.

Ngọc phả kể rằng vua Hùng thứ bảy là Chiêu Vương đã tâm thành hướng Phật, quyết chí cầu Tiên. Vua đến núi Tam Đảo, lập Vọng Tiên đàn hành lễ bảy ngày bảy đêm để mong gặp được Tiên nhân. Đêm đó, nhà vua đã được ứng mộng qua một bài thơ Tiên, dùng cách chiết tự (những chữ trong ngoặc kép) mách bảo nơi Tiên giáng:

Tây Thiên “sơn nhân thượng”

Bất kiến “tâm hạ tướng”.

Niệm Đông “túc các” nhân

“Doãn cư thượng khẩu” vượng.

Dịch:

Trên Tây Thiên tiên đó

Không thấy điều mong chờ

Gặp người nơi Đông Lộ

Vua sẽ được như mơ.

Vua theo lời trong mộng, quay xuống chân núi, đã gặp được tiên nữ Ngọc Tiêu ở làng Đông Lộ (Đại Đình, Tam Đảo), kết nên duyên lành, đón về Phong Châu sinh cư. Rồi cả 2 người học được tiên thuật, thọ sánh ngang tuế nguyệt, hóa sinh bất diệt.

Trong thời Hùng Vương, hình tượng các Tiên nữ đều là những vị hoàng phi, hoàng hậu, vợ của các vua Hùng. Các phi hậu này người có công giúp vua Hùng đánh giặc, oanh liệt tử chiến sa trường, người có công khai dân mở đất, sinh con nối dòng tiếp dõi họ Hùng. Tam tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng Tứ phủ đều có nguồn gốc sâu xa từ những Tiên Mẫu thời Hùng Vương.

Những vị tiên nữ Việt thời Hùng Vương - Ảnh 8.
Tam Tòa Thánh Mẫu ở chùa Á Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh, gồm bà Vụ Tiên, Âu Cơ và Thần Long.

Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu

Trong thời đại Hùng Vương, nước Văn Lang là thời kỳ có lịch sử lâu nhất, quốc vận hưng thịnh nhất. Triều Hùng Văn Lang kéo dài hơn 800 năm (8 thế kỷ), từ khi vua Hùng đánh thắng giặc Ân (khoảng thế kỷ XI trước Công nguyên) cho tới khi chuyển sang nước Âu Lạc của An Dương Vương (thế kỷ III, năm 258 trước Công nguyên).

Tại vì sao triều Hùng nước Văn Lang lại có thể tồn tại thịnh trị đến hơn 800 năm? Dựa vào điều gì? Đó chính là “Hiếu” và “Đễ”, như đã được lưu truyền về Lang Liêu, vị vua khai triều nước Văn Lang trong Truyện Bánh chưng.

Hiếu với trời đất

Truyện Bánh chưng kể, hoàng tử Lang Liêu nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”.

Vị thần nhân đã giúp Lang Liêu dùng gạo làm lễ vật kính tế trời đất không ai khác là Hậu Tắc, người được gọi là Nông sư. Tắc nghĩa là lúa tẻ, tức là lúa nước. Cũng như sự tích Đế Thuấn đi cày ở Lịch Sơn Tuyên Quang, chuyện Hậu Tắc trồng lúa nước cho thấy đây chắc chắn là một nhân vật lịch sử thời kỳ Hùng Vương Thánh tổ dựng “xã tắc” họ Hùng ở vùng đất tổ Phong Châu.

Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu - Ảnh 1.
Ban thờ đình Hướng Nghĩa, Minh Thuận, Vụ Bản,Nam Định, nơi thờ Hậu Tắc hoàng đế.

Sách Việt điện u linh cho biết “Đế Quân tên là Hậu Tắc, là thủy tổ nhà Chu dạy dân trồng trăm thứ lúa. Phàm là dựng nước lập đô đều lập xã tắc đàn xuân thu làm lễ tế”. Các triều đại Lý, Trần, Lê nước ta đều tôn thờ ông Hậu Tắc là “Thiên tổ địa chủ xã tắc đế quân”, một vị thần quan trọng trong đại điển lễ tế quốc gia hàng năm ở đàn Xã tắc và lễ Tịch điền. Dấu vết tục thờ Hậu Tắc tới nay vẫn còn ở vùng Vụ Bản, Nam Định, là ruộng tịch điền thời Lý Trần.

Lang Liêu dùng gạo ngon làm bánh chưng bánh dày với hình trời tròn đất vuông kính dâng lên tiên tổ Thiên Địa, tức là kính nhớ đến vị Thiên tổ Địa chủ Hậu Tắc. Dâng bánh chưng vào ngày Tết là cách để gợi lại ký ức nguồn cội, để nhắc nhớ công ơn tổ tiên của người Việt đã sáng tạo ra đồ ăn thức uống, nuôi sống con dân đất Việt. Chính sự hiếu với nguồn cội, tổ tiên ấy đã làm nên một vị vua Lang Liêu nối ngôi chính thống, đứng đầu trong các anh em Bách Việt.

Truyện Bánh chưng kể: “Công tử thứ 9 là Lang Liêu bèn lựa nếp hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày… Vua khen ngợi hồi lâu, rồi cho Lang Liêu được giải nhất. Vua dùng thứ bánh ấy để cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm. Thiên hạ mọi người đều bắt chước theo. Lấy tên là bánh Lang Liêu và gọi là Tiết Liêu”.

Đình Hương Trầm ở phường Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ, nơi có cánh đồng nếp thơm xưa, tương truyền là nơi ở của Lang Liêu (phủ Lang Liêu). Đây cũng là nơi Lang Liêu đã gặp được thần nhân mách bảo và sáng chế ra bánh chưng bánh dày. Trước đây ở phường Dữu Lâu từng có miếu thờ Lang Liêu, nay đã bị thời gian phá hủy. Bài vị của Lang Liêu được đưa về đình làng Dữu Lâu để thờ phụng cùng với tam vị Tản Viên Sơn Thánh.

Con số 9 là số chỉ phương Tây trong Hà thư. Hoàng tử thứ 9 Lang Liêu nghĩa là thủ lĩnh của người Liêu Lão ở khu vực phía Tây đất nước. Lang Liêu chế ra bánh chưng vuông tượng trưng cho Đất, bánh dày tròn tượng trưng cho Trời, bao hàm đạo Âm Dương. Tức là Lang Liêu là người đã chế tác ra Kinh Dịch, một cuốn kinh chứa đựng những kiến thức triết học, bao trùm thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt thời cổ đại. Kinh Dịch là cuốn Thiên thư, là ánh sáng soi đường cho người Việt trong suốt lịch sử nước Văn Lang hơn 800 năm thịnh vượng.

Đễ – thân tình với anh em

Truyện Bánh chưng mở đầu: Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.

Truyện Bánh chưng không đơn giản lại mở đầu bằng cách nhắc tới thời điểm phá xong giặc Ân. Bởi khi thắng giặc lớn cũng là lúc bắt đầu một triều đại mới. Chính vì thế vua Hùng mới cần tìm một người kế vị mới lên làm minh quân. Triều đại mới này là Văn Lang, bởi trước đó đang là thời của nước Xích Quỷ hay Việt Thường từ Lạc Long Quân.

Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu - Ảnh 5.
Nghi môn đình Dữu Lâu.
Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu - Ảnh 6.
Đình Dữu Lâu.

Theo Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả, dòng 50 người con theo mẹ lên núi đã tôn Hùng Quốc Vương lên làm vua, lập nước Văn Lang đóng đô Phong Châu. Người khởi dựng Văn Lang do đó chính là Lang Liêu. Cũng vì thế, món đồ tế trời đất của Lang Liêu có ý nghĩa rất lớn, bởi đó là nghi lễ dùng mở ra một thời đại mới. Từ đó cho nên bánh chưng bánh dày mới dùng làm đồ tế lễ cho ngày Tết (“Tiết liệu” tức là đồ ăn ngày Tết), là khi mở đầu một năm mới, bắt đầu một chu kỳ sinh trưởng mới của Đất Trời.

Truyện Bánh chưng ghi: “Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi hai anh em đều chia nhau giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, trấn thủ những nơi núi non hiểm trở”.

Còn Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể là khi người con trưởng của Âu Cơ là Hùng Quốc Vương lên ngôi, “Vua cha bèn dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ, xác định cương giới, các đầu núi góc biển, cử ra trăm quan trấn thủ, gìn giữ các phương… Vua mới phân quan lại, định các xứ, cai quản vạn dân. Khi đó lệnh cho anh em trăm trai có tài thần báu trời, cai quản rõ ràng các nơi. Trăm nơi núi sông một mối, xe sách quy mô chế độ đồng nhất, bốn biển một nhà, xưng thần phụ thuộc”.

Lang Liêu sau khi thắng giặc Ân đã lên ngôi thiên tử, phân phong cho các anh em và công thần ở các nơi đầu non góc biển làm các chư hầu, gọi là phiên trấn, phên dậu bình phong. Đây chính là nói đến sự khởi đầu của chế độ phong kiến (phong tước và kiến địa) trong sử Việt.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể tiếp: “Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Đất đai 15 bộ này được xác định cương giới, định người trưởng quân gọi là Bô (bố), cha gọi là Trá (cha), con trai gọi là Côn (con).

Nam nữ đều xem theo dòng cha mà xưng. Hậu thế đổi thành quan lang, phiên thần, thổ tù, phụ đạo. Cháu chắt của các công thần khai quốc được cha truyền con nối, vạn đời nối giữ Nam Bang. Còn các nhánh tông phái của các bộ chủ Hùng Vương đời đời trị nước, truyền mãi nước Nam.”

Thời kỳ này cũng được Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là thời Trị bình kiến phu, tức là trị quốc bình thiên hạ, kiến lập các nước chư hầu, tương đương với khái niệm “phong kiến” sau này. Chính sự “đễ” – tình đoàn kết giữa những người con cùng bọc đồng bào là sợi dây kết nối giữa các nước chư hầu của nước Văn Lang. Trăm anh em, trăm nước chư hầu, đều phục tùng người kế vị chính thức là Lang Liêu, dựng nên một thiên hạ họ Hùng rộng lớn bền vững.

Câu đối ở đình Bảo Đà cũng ở phường Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ:

Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm

Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.

Tạm dịch:

Mấy ngàn năm giúp đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp

Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.

Hùng Vương tứ hiếu Bài cuối: Lang Liêu - Ảnh 7.
Nghi môn đình Bảo Đà, với đôi câu đối về nước Văn Lang.

Truyện Bánh chưng kể: “Về sau, anh em tranh giành nhau làm trưởng, mỗi người dựng “mộc sách” (hàng rào cây bằng gỗ) để che kín, phòng vệ. Vì thế, mới gọi là Sách, hay là Trại, là Trang, là Phường. Sách, hay Trại, Trang, Phường bắt đầu có từ đây vậy”.

Nước Văn Lang liệt quốc cũng bởi mất đi sự hiếu đễ, mất đi lễ nghĩa căn bản, dẫn đến sự tranh giành, phân tách giữa các chư hầu, chiến loạn liên miên, thiên hạ không lúc nào được ngơi.

Sách Luận ngữ dẫn lời Khổng Tử nói: “Này các đệ tử, đầu tiên là hiếu, sau là đễ, cẩn thận mà đáng tin, yêu chúng dân cùng người thân…” Hiếu đễ là cái gốc của con người, của gia đình, là nền tảng làm nên quốc gia và thiên hạ thịnh vượng.

Thay cho lời kết, xin ghi lại câu chuyện hiếu đễ của Lang Liêu với bài thơ Hiếu với trời đất:

Tôi nghe kể chuyện nước Văn Lang
Lang Liêu dâng cha chẳng bạc vàng
Mà tấm lòng thành gói trời đất
Vuông tròn đúc đủ tình thế gian.

Âm dương một đạo để ngàn đời
Rọi sáng đường đi cả tộc người
Bánh chưng bánh dày vui ngày Tết
Tưởng nhớ Lang xưa với Sách trời.

(Hết)

https://congdankhuyenhoc.vn/hung-vuong-tu-hieu-bai-cuoi-lang-lieu-179221109101335197.htm