Lang Liêu bản kỷ

Hậu Tắc Cơ Khí

Truyện Bánh chưng kể, Lang Liêu nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”.

Vị thần nhân đã giúp Lang Liêu dùng gạo làm lễ vật là Hậu Tắc, người được Đế Nghiêu gọi là Nông sư. Hậu Tắc là tổ của nhà Chu, được Đế Thuấn đặt tên và ban họ Cơ. Tắc nghĩa là lúa tẻ, tức là lúa nước, chứ không phải lúa nếp (thử) trồng trên nương. Cũng như sự tích Đế Thuấn đi cày ở Lịch Sơn, chuyện Hậu Tắc trồng lúa nước cho thấy đây chắc chắn là một nhân vật lịch sử thời kỳ Hùng Vương Thánh tổ dựng “xã tắc” họ Hùng ở khu vực đất tổ Phong Châu.

Mẹ của Hậu Tắc là bà Khương Nguyên, vào rừng thấy vết chân người khổng lồ bèn dẫm vào rồi mang thai. Cho rằng đó là điềm không lành, khi sinh nở, Khương Nguyên bỏ đứa trẻ ra ngõ hẹp. Nhưng trâu ngựa đi qua đều tránh không dẫm vào đứa trẻ. Khương Nguyên bèn mang bỏ vào rừng, nhưng đúng lúc rừng lại đông người, nên bỏ vào lạch. Đứa trẻ được loài chim lấy cánh ủ cho. Khương Nguyên thấy lạ bèn mang con về nuôi và đặt tên là Khí (弃; nghĩa là bỏ).

Sự tích của ông Hậu Tắc giống một trong những truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Mẹ Tản Viên là bà Đinh Thị Nguộc, người rất xấu, không ai lấy. Một hôm, bà vào rừng kiếm củi, giẫm phải một vết chân lạ, trở về nhà thụ thai. Vì hoang thai nên khi sắp sinh nở bà bị người làng ghét bỏ, đuổi ra khỏi làng. Bà phải vào rừng để ở và sinh ra Nguyễn Tuấn. Người làng bèn kéo nhau lên rừng bắt vạ. Hùm beo ra đuổi những người bắt vạ và hàng ngày mang thịt hươu nai về nuôi mẹ con Nguyễn Tuấn.

Lại có truyền thuyết khác kể rằng thần núi Tản Viên thuở lọt lòng bị bỏ rơi trong rừng, được một người tiều phu gặp đem về nuôi, đặt tên là Kỳ Mạng. Sở dĩ thần có tên nầy là vì trước khi gặp cha nuôi, đứa bé mới lọt lòng đã được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ cho khỏi chết. 

Chữ Kỳ với Khí cùng một âm. Truyền thuyết này cho thấy ông Hậu Tắc, tổ của nhà Chu, được truyền thuyết Việt ghi vào dòng Tản Viên Sơn Thánh, tức là dòng lên núi theo mẹ về phía Tây.

Chu bản kỷ trong Sử ký Tư Mã Thiên cho biết: Hậu Tắc mất, con là Bất Truất nối dõi. Cuối đời Bất Truất, chính sự nhà Hạ Hậu suy, bỏ dùng chức Tắc. Bất Truất vì vậy mất chức quan, chạy vào vùng Nhung địch.

Hạ Hậu” ở đây là chỉ Hạ Khải, người nối tiếp Hạ Vũ, vì ông Hậu Tắc là người cùng thời với Hạ Vũ từ đời Nghiêu Thuấn. Hạ Khải trong truyền thuyết Việt là Lạc Long Quân. Hạ Khải “bỏ chức Tắc” tức là phế đi quyền nối dõi của con ông Hậu Tắc và đánh đuổi Bất Truất chạy vào vùng Nhung địch. Chính sự kiện này khởi đầu cho sự chia tay 2 dòng lên núi và xuống biển mà dòng ông Hậu Tắc là đại diện của Sơn Tinh, còn dòng Hạ Hậu là đại diện của Thủy Tinh. Dòng họ Cơ của Hậu Tắc bị dòng phía Đông tranh giành quyền lực, phải bỏ đất gốc mà chạy về phía Tây, để sau 14 đời mới lại phục hưng.

Chiếc mâm thời Tây Chu

Văn Vương Cơ Xương

Truyện Bánh chưng kể: Công tử thứ 9 là Lang Liêu… bèn lựa nếp hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày…

Vua khen ngợi hồi lâu, rồi cho Lang Liêu được giải nhất. Vua dùng thứ bánh ấy để cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm. Thiên hạ mọi người đều bắt chước theo. Lấy tên là bánh Lang Liêu và gọi là Tiết Liệu.

Con số 9 là số chỉ phương Tây trong Hà thư. Lang Liêu nghĩa là thủ lĩnh của người Liêu Lão ở phía Tây Trung Hoa. Vị thủ lĩnh người Liêu Lão xuất phát từ phía Tây là Tây Bá Hầu Cơ Xương. Cơ Xương cũng là người đã viết ra Kinh Dịch, bao hàm đạo Âm Dương, Trời Đất, nên được truyền thuyết Việt kể là Lang Liêu chế ra bánh chưng vuông tượng trưng cho Đất, bánh dày tròn tượng trưng cho Trời.

Cơ Xương là hậu duệ 14 đời của Hậu Tắc. Truyền thuyết Việt chép chung 14 đời này vào thành chuyện Âu Cơ chia đôi đàn con Bách Việt, dẫn một nửa lên núi đi về phía Tây mà lập nước Văn Lang.

Người Liêu Lão được nhắc đến tại phần Phong Tục, Cổ Nam Việt, chương Châu Quận Thập Tứ, sách Thông Điển, thời Đường, nói về nước Nam Việt của nhà Triệu như sau:

Phía Nam Ngũ Lĩnh, các bộ lạc người Di người Liêu cư trú lẫn lộn… Thủ lĩnh ở đây đều dùng đồng đúc thành trống lớn, trống vừa đúc xong thì treo giữa sân, bày rượu để đón mời đồng loại (ăn mừng). Họ lại thường hay gây thù chuốc oán với nhau, hay đánh nhau, khi đó sẽ gõ trống, người khắp nơi liền tụ về (tham chiến) đông nghịt như mây. Kẻ có trống đồng tự xưng là Đô Lão, dân chúng sẽ tôn phục.

Theo đó, người Liêu Lão là tộc người sử dụng trống đồng làm nhạc khí quy tập cộng đồng (đón mời đồng loại), dùng trong quân đội (khi đánh nhau) và là biểu tượng của thủ lĩnh (Đô Lão). Tộc người trước thời Hán dùng trống đồng để hiệu lệnh thì rõ ràng là thuộc về nước Văn Lang của Hùng Vương. Thủ lĩnh lập nước của nước Văn Lang là Lang Liêu Cơ Xương, hay bà Âu Cơ. Tên nước Văn Lang là lấy theo tên hiệu Văn Vương của Cơ Xương.

Âu đồng thời Tây Chu

Võ Vương Cơ Phát

Truyện Bánh chưng mở đầu: Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.

Thời vua Hùng phá giặc Ân là thời của Văn Vương Cơ Xương khởi nghiệp, đến Võ Vương Cơ Phát đại thành diệt Trụ, lên ngôi của Thiên tử.

Con số 22 vị quan lang công tử của vua Hùng khá khó giải thích ý nghĩa vì có vẻ nó không hợp với con số biểu tượng nào trong Dịch học. Tuy nhiên nếu liên hệ với lời mở đầu: “Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân”, thì chợt nhớ tới câu hát của phường Ải Lao trong hội Phù Đổng:

Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương

Ân sai hai tám tướng cường nữ Nhung

Xâm cương cậy thế khoe hùng

Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh.

Người đánh giặc Ân cùng với Phù Đổng Thiên vương là Lang Liêu Cơ Phát. Do đó mới có phường Ải Lao (Lao = Lão = Liêu) là đội quân chính của Thánh Dóng. Bên phía giặc Ân là 28 “nữ tướng”. Như vậy, phía Lang Liêu sẽ có 50 người con trừ đi 28 nữ nhà Ân thành ra 22 người anh em. Con số 50 này cũng như số 100, là con số chỉ sự tổng hợp của 2 dòng theo Cha Lạc Long Quân xuống biển và theo Mẹ Âu Cơ lên núi. 28 nữ đại diện của nhà Ân là dòng Lạc Long. 22 nam của Âu Cơ Xương là dòng Liêu (Ải Lao) phía Tây nhà Chu.

Truyện Bánh chưng ghi: Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi hai anh em đều chia nhau giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, trấn thủ những nơi núi non hiểm trở.

Còn Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể là khi người con trưởng của Âu Cơ là Hùng Quốc Vương lên ngôi, Vua cha bèn dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ, xác định cương giới, các đầu núi góc biển, cử ra trăm quan trấn thủ, gìn giữ các phương… Vua mới phân quan lại, định các xứ, cai quản vạn dân. Khi đó lệnh cho anh em trăm trai có tài thần báu trời, cai quản rõ ràng các nơi. Trăm nơi núi sông một mối, xe sách quy mô chế độ đồng nhất, bốn biển một nhà, xưng thần phụ thuộc.

Lang Liêu Cơ Phát sau khi diệt Ân đã lên ngôi thiên tử, phân phong cho các anh em và công thần ở nơi làm chư hầu, gọi là phiên trấn, để quản lý các vùng đất. Đây là khởi đầu của chế độ phong kiến (phong tước kiến địa) trong lịch sử.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể tiếp: Thái tử là Hùng Quốc Vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn. Quốc Vương sau khi nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ, vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.

Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Đất đai 15 bộ này được xác định cương giới, định người trưởng quân gọi là Bô (bố), cha gọi là Trá (cha), con trai gọi là Côn (con).

Nam nữ đều xem theo dòng cha mà xưng. Hậu thế đổi thành quan lang, phiên thần, thổ tù, phụ đạo. Cháu chắt của các công thần khai quốc được cha truyền con nối, vạn đời nối giữ Nam Bang. Còn các nhánh tông phái của các bộ chủ Hùng Vương đời đời trị nước, truyền mãi nước Nam.

Thời kỳ này cũng được Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là thời Trị bình kiến phu, tức là trị quốc bình thiên hạ, kiến lập các nước chư hầu.

Thành Vương Cơ Tụng

Võ Vương băng, con là Cơ Tụng nối ngôi, còn nhỏ. Chu Công Đán là chú, nhiếp chính. Chu Công đặt ra các lễ chế là Chu Lễ, viết hào từ cho Chu Dịch. Hậu duệ của nhà Ân là Vũ Canh cùng với 3 vị giám thúc nổi loạn. Chu Công Đông chinh, dẹp được loạn Vũ Canh và Tam Giám, an trí đám ngoan dân nhà Ân ở Lạc Dương. Truyền thuyết Việt kể là tướng Cao Lỗ giúp Thục Phán bảo vệ thành Cổ Loa. Chu Công cũng là thần Đồng Cổ, chủ minh thệ trung với nước với vua.

Dưới thời Chu Thành Vương, nước Việt Thường ở vùng cửa sông Trường Giang mang lễ vật là chim bạch trĩ qua 3 lần sứ dịch vào đến Cảo kinh gặp Chu Công. Chu Công nhận lễ, nhận sự chầu phục của nước Việt Thường trong thiên hạ Trung Hoa. Lại ban cho sứ Việt Thường xe chỉ Nam để về nước. Sứ Việt Thường đi dọc sông Mê Kong, qua đất Lâm Ấp và Phù Nam rồi men theo biển mà về.

Con của Thành Vương nối ngôi là Chu Khang Vương. Người nối nghiệp Chu Công, hoàn thành việc xây dựng, yên định vùng đất Lạc Đông Đô là Tất Công. Truyền thuyết Việt gọi là Phan Tây Nhạc. Thời Thành Khang chi trị nhà Chu đã thâu tóm, thuần phục được toàn bộ thiên hạ Trung Hoa, gồm cả vùng đất cũ của nhà Ân ở Trịnh, Vệ, quý tộc nhà Ân ở Lạc Dương, dân nhà Hạ ở Việt Thường.

Dòng chữ “Mục Vương quyết chính” trên mâm đồng

Mục Vương Cơ Mãn

Chu Mục Vương là người đã củng cổ lại triều chính nhà Tây Chu, đánh dẹp Khuyển Nhung, chinh phạt Kinh Sở. Dấu chân của ông đã rải khắp thiên hạ. Ông cũng là người theo truyền thuyết được kể đã lên núi Côn Lôn thấy cung điện ngọc của Hoàng Đế và gặp bà Tây Vương Mẫu.

Ngọc phả Hùng Vương thì kể, vị vua Hùng thứ bảy, sau thời vua Hùng thứ sáu đánh giặc Ân, là Hùng Chiêu Vương, cũng gọi là Lang Liêu. “Hùng Chiêu Vương, buổi đầu tiên nối ngôi nghiêm khắc, chuyên về chính trị. Bãi bỏ khí giới, không dùng việc quân binh. Chăm lo sức dân, chăm sóc nền giáo hóa để mở mang trí tuệ. Ðúc kiếm báu (Thiên linh kiếm), ấn báu (Thiên linh ấn) làm báu vật của quốc gia để giữ yên xã tắc vững bền mãi mãi. Lập đàn ở núi Tam Ðảo, đến chùa Tây Thiên mở hội 7 ngày, 7 đêm để cho trai gái bốn phương dự hội vui. Lại đến chùa Phù Nghì lập vọng Tiên đàn cầu trời đất, mong được gặp Tiên. Trên đường trở về, gặp được nàng Ngọc Tiêu, con gái nuôi của vị Trưởng ông thôn Ðông Lộ rồi kết duyên, sinh ra Hùng Vĩ Vương, lập làm con trưởng.”

Hùng Chiêu Vương chỉ một vị vua của nhà Tây Chu vì chữ Chiêu = chiều, chỉ hướng mặt trời lặn. Sự tích Lang Liêu lên núi Tam Đảo cầu tiên chính là sự kiện Chu Mục Vương lên núi Côn Lôn gặp Tây Vương Mẫu.

Các vị Lang Liêu nối tiếp Chu Mục Vương là Cung Vương, Ý Vương, Hiếu Vương và Di Vương. 

Lai lôi thời Tây Chu

Lệ Vương Cơ Hồ

Truyện Bánh chưng kể: Về sau, anh em tranh giành nhau làm trưởng, mỗi người dựng “mộc sách” (hàng rào cây bằng gỗ) để che kín, phòng vệ. Vì thế, mới gọi là Sách, hay là Trại, là Trang, là Phường. Sách, hay Trại, Trang, Phường bắt đầu có từ đây vậy.

Nhà Tây Chu truyền đến Chu Lệ Vương thì bắt đầu suy. Lệ Vương sống xa xỉ, làm nhiều điều bạo ngược khiến nhân dân oán hận, dẫn đến loạn Quốc dân bạo động. Lệ Vương phải bỏ chạy đến đất Trệ. Trệ là đọc khác của Trại. Đất Trệ, có sách chép là đất Di (Di Lão?), nơi Lệ Vương nương náu có thể là địa danh Thạch Trại Sơn ở Vân Nam ngày nay, nơi có tộc người Di (Lô Lô).

Tên của các vị Lang Liêu từ Văn Vương đến Lệ Vương trong bài minh văn 340 chữ được đúc trên chiếc Lai lôi cổ bằng đồng.

Khi Lệ Vương lưu vong ở đất Trại, triều đình do 2 tướng quốc là Chu Công và Triệu Công quản lý, gọi là thời Chu Triệu cộng hòa. Lệ Vương mất, con là Chu Tuyên Vương lên nối ngôi, chấn hưng lại nhà Chu.

Những chữ: Cung Vương, Ý Vương, Hiếu Vương, Di Vương trên chiếc Lai lôi.

U Vương Cơ Cung Sinh

Cuối thời Tuyên vương, có đứa trẻ hát bài ca:

“Mặt trăng sẽ lên. Mặt trời sẽ lặn.

Cung dâu áo cỏ. Đồ vong nhà Chu.”

Theo Chu bản kỷ thì đây là khi xuất hiện Bao Tự. Bao Tự được Sử ký Tư Mã Thiên chép là từ nước dãi rồng của thời nhà Hạ, truyền qua nhà Ân Thương tới thời Lệ Vương mở ra, hóa thành con thằn lằn đen mà nhập cung. Tới thời Chu U Vương, vùng Tam Xuyên có động đất lớn. Thái sử nhà Chu là Bá Dương viết:

Nhà Chu sẽ mất. Khí của trời đất không để mất trật tự; nếu mất trật tự thì dân sẽ loạn. Khí dương ẩn náu mà không thể phát xuất, khí âm bị chèn ép không thể bốc lên, vậy nên có động đất.

Nay Ba Sông đã chấn động là do khí dương mất chỗ, mà khí âm dồn đầy. Dương mất là do âm, nguồn ắt bị tắc. Nguồn bị tắc, quốc gia ắt mất. Đất có nước tưới nhuần thì dân mới sử dụng được. Đất không có nước chảy, dân thiếu vật dụng, không vong sao được!

Xưa sông Lạc cạn mà nhà Hạ mất. sông Hà cạn mà nhà Thương mất. Nay đức của nhà Chu giống như buổi cuối của hai nhà kia rồi. Nguồn sông lại tắc, tắc tất cạn. Ôi, quốc gia dựa vào sông núi. Sông cạn núi lở, là điềm mất nước vậy. Sông cạn thì núi tất lở. Không quá mười năm nữa nước sẽ mất thôi. Sự ruồng bỏ của Trời không quá số này.

Thái sử Bá Dương, người đã lấy nhị khí âm dương hai thời Hạ Thương để khuyên răn Chu U Vương, là Lão Tử. Vùng Tam Xuyên là đất Bắc Việt ngày nay, nơi có đình làng Thổ Hà lưu dấu tích về Lão Tử đã đăng Chiên đàn Thất Diệu ở Cổ Loa, nhắc lại sự việc Đát Kỷ thời Trụ Vương nhà Ân qua chuyện Bạch Kê tinh. Chu U Vương không nghe theo. Lão Tử biết nhà Chu sắp vong nên rời bỏ thành Lạc Dương mà đi về phía Tây, chắc hẳn là đi gặp các vị Lang Liêu khai triều Tây – Chu thời Văn Vương, Võ Vương.

Chu U Vương sủng ái Bao Tự, đánh mất đạo lý trời đất âm dương của bánh chưng bánh dày từ Hậu Tắc, khinh thường các anh em chư hầu Bách Việt. Nhà Chu (triều Tây – Lang Liêu) vong. Hai mươi hai người anh em tranh giành nhau làm trưởng, mỗi người dựng hàng rào bằng gỗ để che kín, phòng vệ. Thiên hạ chuyển sang thời các liệt quốc Xuân Thu xưng bá chư hầu. “Cung dâu áo cỏ” là chỉ âm thịnh dương suy hay chư hầu lấn át thiên tử?

Thái sử Lý Bá Dương ký

Giải nghĩa các tinh quỷ trong truyền thuyết Cổ Loa thành

Người Việt ai cũng biết Truyện Rùa vàng kể việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thành cứ xây xong lại đổ. Vua lập đàn cầu khấn thì được một Lão ông đến chỉ cách đón thần Kim Quy về giúp đỡ, trừ diệt con Gà trắng tu luyện ngàn năm thành tinh, đã tụ tập yêu quỷ trong núi phá thành. Truyện về Tinh gà và Quỷ núi ở Cổ Loa là một trong những câu chuyện thần bí đáng sợ nhất trong kho tàng truyền thuyết Việt. Nhưng liệu đằng sau truyền thuyết này ẩn chứa sự thực nào trong lịch sử xa xưa của người Việt?

Nghi môn miếu Bạch Kê

1. Trong Truyện Rùa vàng, Bạch Kê tinh ẩn hình trong người con gái của quán trọ ở chân núi tại làng Ma Lôi gần thành Cổ Loa. Nói cách khác, Bạch Kê là tinh nữ có tên là Ma Lôi. Chữ Ma thực ra là âm đọc khác của Má – Mụ – Mẫu, chỉ một vị thần nữ.

Núi Thất Diệu là nơi Bạch Kê tinh hóa thành con chim cú bay lên cây chiên đàn ngậm lá thư tâu đến trời trong truyền thuyết thành Cổ Loa. Núi Thất Diệu nay ở xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây có ngôi đền thờ một vị công chúa con vua Hùng. Theo thần tích của đền, “thời Hùng Duệ Vương, công chúa nhiều lần hiển hách âm phù quân tướng nhà Hùng dẹp giặc. Khi quân Thục lấy được nước Lạc Việt xây thành Cổ Loa thì công chúa sai ngàn vạn âm binh phá thành. Sau nhờ thần Kim Quy, vua Thục mới xây xong được thành.”

Trong cấm cung của đền có bức tượng thờ chính bằng gỗ, thể hiện một vị Mẫu, đầu đội mũ mào gà, gọi là Mẫu Bạch Kê. Mẫu Bạch Kê ở đây được kể là dòng dõi Lạc Hồng, miêu duệ Rồng Tiên của vua Hùng. Điều này tương ứng với câu nói của thần Kim Quy: “Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước”. Thục An Dương Vương đã đánh dẹp triều Hùng rồi xây thành Cổ Loa. Bạch Kê là một vị nữ tướng, dòng dõi của nhà Hùng, hiện lên báo oán ở núi Thất Diệu, làm cho thành cứ xây lại đổ.

Ở Yên Phụ, Mẫu Bạch Kê còn được thờ tại đình và đền dưới tên Vua Bà Ma Vương. Đối chiếu với truyền thuyết về Ma Cô Tiên trong Truyện Giếng Việt ở núi Châu Sơn thì Mẫu Bạch Kê chính là Ân Hậu, vợ của vua Ân trong cuộc chiến với Thánh Dóng. Ân Hậu cũng là tướng cầm đầu quân đội nhà Ân sang đánh nước Văn Lang, được ngọc phả Hùng Vương gọi là Thạch Linh thần tướng.

Đình Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh

2. Truyện Rùa Vàng kể: “Trong núi có người nhạc công triều trước chôn ở đây, hóa thành quỷ.” Vị “nhạc công” triều trước ở trong núi là ai mà lại hóa thành quỷ chống phá Thục Vương xây thành?

Đền Yên Phụ còn có tên là đền Núi. Đền này cùng với Vua Bà Ma Vương còn thờ một vị Đại vương tên là Cao Sơn. Thần tích kể rằng Cao Sơn là một trong những người anh em của Tản Viên Sơn Thánh. Cùng với đức Quý Minh, đức Cao Sơn, đã được bà mẹ nuôi là Ma Thị Cao Sơn Thần nữ gửi cho em là Ma Lôi nuôi dưỡng. Sau này Cao Sơn và Quý Minh giúp Hùng Duệ Vương chống lại quân Thục.

Có thể nhận ra, vị “nhạc công” ở trong núi Thất Diệu là thần Cao Sơn. Từ “nhạc” còn có phát âm khác là “Lạc”. Nhạc công tức là Lạc Công, chỉ vị thủ lĩnh vùng đất Lạc lúc đó. Cao Sơn là một trong Tam vị Tản Viên Sơn tinh nên mới được Truyện Rùa Vàng kể là “quỷ trong núi”. Thần tích cũng cho thấy mối liên quan trực tiếp giữa Cao Sơn Đại vương và Ma Lôi, tức mẫu Bạch Kê ở núi Thất Diệu. Cao Sơn Đại vương là một đại tướng của Hùng Duệ Vương trong cuộc chiến chống lại Thục Vương, cũng giống như Mẫu Ma Lôi Bạch Kê đã nói ở trên.

Bình Cú thời Ân Thương (Hiện vật Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt)

3. Truyện Rùa Vàng kể sau khi An Dương Vương cùng thần Kim Quy giết con Gà trắng trong quán Ma Lôi, “Vua liền sai đào núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Trời gần tối, Vua và Rùa Vàng leo lên núi Việt Thường thấy quỷ tinh đã biến thành con chim cú, ngậm lá thư bay lên chiên đàn”.

Việc Thục Vương đào được nhiều nhạc khí cổ ở núi Việt Thường, rồi thấy chim Cú mèo ngậm lá thư bay lên chiên đàn không ngờ lại là một hình ảnh rất thật của thời đại nhà Ân Thương cách nay hơn 3.000 năm. Trên nhiều đồ đồng tế khí của nhà Ân thường dùng hình chim Cú trong tạo hình. Một chiếc bình đồng có hình chim Cú như vậy được thấy ở Việt Nam.

Bình có tiết diện hình trứng, một mặt bình được đúc nổi ở giữa là mặt một con chim Cú với 2 mắt tròn to, có mi mắt, mỏ nhọn. Phía trên có 2 tai to nhọn (tai mèo). Phần thân Cú có cánh và chân ở 2 bên. Xung quanh con Cú được trang trí bằng những hình rồng quỳ nhỏ. Toàn bộ chiếc bình được trang trí nền bằng hoa văn vân lôi vuông hoặc tròn, phủ một màu đồng cổ xanh lam độc đáo và đẹp mắt. Đôi mắt Cú mèo tròn to đúc nổi ở giữa thân bình tạo một ấn tượng rất trang nghiêm. Nhìn tổng thể chiếc bình có cảm tưởng như hình một chiến binh đang đứng thẳng, rất dũng mãnh với đầy đủ mũ giáp, áo giáp, mắt to tai lớn, có nanh có mỏ.

Cú mèo (tên chữ Nho là Si hiêu) là biểu tượng của nhà Ân Thương. Thậm chí trong Kinh Thi, phần Bân phong có bài thơ Si hiêu (Cú mèo) như sau:

Cú mèo, Cú mèo.
Đừng phá nhà ta.
Bao nhiêu ân cần.
Nỗi niềm nuôi nấng
”.

Bài thơ này nói chuyện Chu Công, khi đi dẹp phản loạn hậu duệ của nhà Ân là Vũ Canh, bị phao tin là Chu Công sẽ làm hại ấu chúa. Chu Công đã viết bài thơ này gửi cho vua là Chu Thành Vương, ý nói loài Cú mèo nhà Ân, đã cùng các vị vương thân Giám Thúc của nhà Chu làm phản, thì đừng gây chia rẽ trong tông thất giữa Chu Công với vua Chu nữa.

Đáy bình Cú với dòng chữ Vong tông binh Tây sĩ cung…

4. Truyện Rùa Vàng kể, Bạch Kê tinh sau khi bị giết hóa thành một lá thư, được Chim Cú ngậm bay lên núi Thất Diệu. “Rùa vàng liền biến thành con chuột theo sau, cắn vào chân Cú, lá thư rơi xuống đất. Vua vội nhặt lấy, lá thư đã bị mọt ăn mất quá nửa.”

Điều hết sức bất ngờ là dưới chân chim Cú trên chiếc bình thời Ân Thương lại cũng có một “lá thư”. Đó là những chữ tượng hình cổ được khắc lớn và sâu. Dưới đáy bình Cú có 10 chữ dạng Kim văn, loại chữ của thời Thương Chu dùng trên đồ đồng. Đây có thể xem như là lá thư mà chim Cú đã ngậm khi bay lên chiên đàn ở Cổ Loa.

Chiếc bình đồng hình chim Cú cho phép hiểu ý nghĩa câu kể trong Truyện Rùa Vàng: khi chim Cú bị cắn rơi lá thư, lá thư đã bị “mọt ăn” mất quá nửa. Ý nói là mảnh đáy bình có khắc chữ đã bị rỉ mất phân nửa, nên có nhiều chữ không đọc được.

Dù phần đáy bình đã bị phong hóa, nhưng một số chữ Kim văn trên đáy chiếc bình Cú còn có thể đọc như sau: “Vong tông binh Tây sĩ cung”. Tuy không dịch hết dòng chữ này nhưng rõ ràng là nội dung viết về hành động của quan (sĩ) binh. Như thế có thể liên hệ chiếc bình này với Cao Sơn Đại vương ở núi Thất Diệu, vị thủ lĩnh cầm quân vùng đất Lạc chống lại Thục Vương.

Hoành phi Duy nhạc giáng thần ở đình Yên Phụ

5. Còn một nhân vật nữa trong sự tích Sát quỷ ở thành Cổ Loa là vị Lão ông đã cử thần Kim Quy đến giúp An Dương Vương. Vị Lão ông này không phải ai khác mà chính là Lão Tử, người được thờ ở làng Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang), cách núi Thất Diệu không xa.

Bia “Cung sao sự tích thánh” ở đình Thổ Hà cho biết, vị thần ở đây thờ có “họ là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng. Thời An Dương Vương, Vua xây thành có những u hồn và tà ma quấy nhiễu. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo Vua rằng: xin Vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi ngay hôm đó Người sai Thanh giang sứ, hiệu là Thần Quy, đến giúp trừ phép quỷ, giết Bạch Kê. Lại đào trong núi Thất Diệu được nhạc khí thời cổ cùng hài cốt, đem đốt đi. Từ đó yêu ma tan hết.”

Lão Tử hay Thái Thượng Lão quân được truyền thuyết hóa thành Huyền Thiên Trấn Vũ, vị thần bảo hộ của thành Cổ Loa. Tiểu sử của Lão Tử được ghi trong bài Lão Tử minh như sau: “Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U Vương, vùng Tam Xuyên bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.”

Đoạn trích “nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương” đã ghi rất đúng câu chuyện ở núi Thất Diệu. “Âm khí thời Thương” là Mẫu Bạch Kê hay Ân Hậu Ma Lôi. Còn “Dương khí thời Hạ” là Lạc tướng Cao Sơn, vốn gốc là dòng dõi nhà Hạ từ Lạc Long Quân (Tản Viên Sơn Thánh).

Trong lịch sử nhà Tây Chu (Thục Vương), thời U Vương gặp loạn Khuyển Nhung tấn công Tây kinh, nhà Chu buộc phải dời đô về lại vùng đất Lạc (Dương) ở phía Đông. Khi xây thành ở Tam Xuyên (Cổ Loa) lại gặp những trận động đất lớn. Lão Tử khi đó đang là “thủ thư” và là quốc sư của nhà Chu đã nhân đó bày chuyện tế trời, lấy tấm gương của hai nhà Hạ và Thương (Lạc Vương và Hùng Duệ Vương) để khuyên răn vua Chu (Thục Vương).

Cây “Chiên đàn” trên núi Thất Diệu theo đúng chữ Nho nghĩa là đàn tế có cắm cờ. Huyền Thiên Lão Tử đã đăng đàn tế ở núi Thất Diệu, nơi chiến trường ác liệt xưa giữa 2 dòng Đông – Tây (Hùng – Thục) từ thời Thục Vương chống giặc Ân, dựng nghiệp nhà Chu. Mẫu Bạch Kê Ma Lôi và Lạc Công Cao Sơn được tái xuất trên đàn tế qua những đồ tế khí đồng thau cổ của thời Ân Thương như những chiếc bình hình chim Cú và những dòng chữ Kim văn khắc sâu dưới chân chim. “Lá thư” của Mẫu Bạch Kê được chim Cú ngậm dâng tấu trên chiên đàn là lời nhắc nhở đấng quân vương không được thất đức, bỏ dân, coi thường các nước chư hầu anh em của Bách Việt mà đánh mất mệnh trời. Nếu không sẽ mất nước và phải chịu hậu quả thảm khốc với sự dày vò của Ma Quỷ. Thần thánh luôn ở trên hai vai. Lời nhắc của Lão Tử đã ghi vào Đạo Đức kinh, gửi gắm trong chiếc móng của thần Kim Quy để làm phép cai quản đất nước ngàn năm.

Bài đăng trên báo Lao Động cuối tuần số 26 từ 25.6 đến 27.6.2021

Chiếc bình Lang Liêu

Chiếc bình cổ thời Tây Chu, gọi là Lai Lôi 逨罍, do có đúc một bài minh của một vị đại thần nhà Chu tên là Lai, ca tụng tổ tiên các đời đã phò tá các vua Chu từ Văn Vương, Võ Vương cho tới Lệ Vương. Hiện vật sưu tầm của Nhóm Nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt.

Bình là đồ đựng rượu, phần miệng tròn hẹp, có nắp. Phần vai tròn rộng, có 2 tai quai hình đầu thú ngậm vòng. Phần thân tròn như hình trống, phần thân dưới có 1 tai quai hình đầu thú (trâu). Phần chân vành tròn. Phần nắp, phần vai và phần thân trên trang trí bằng các hoa văn chấm, vạch, xoáy, hoa văn trám lồng. Đặc biệt nhất là trên phần thân có đúc chìm tới 340 chữ chia thành 42 dòng xung quanh thân chiếc bình. 

Bài văn trên chiếc Lôi tên Lai có tất cả 340 ký tự chữ Kim văn, đúc sâu, thư pháp đẹp. Tuy nhiên có 3 chữ bị quai đầu thú phần dưới che mất. 1 chữ Lai bị mất một nửa chữ ở vạch đoạn ghép phía dưới của thân bình. Thứ tự các dòng chữ không theo thông thường, mà một dòng ở bên này đọc tiếp sang một dòng ở phía đối diện. Do đó cần căn cứ theo minh văn trên chiếc Lai bàn, là vật cùng thời, cùng nội dung, để sắp xếp lại thứ tự các dòng chữ.

Nội dung của bài minh do một người là Lai kể. Đầu tiên ca ngợi các vị tiên tổ của mình là các Ông (công), Bác (bá), Thúc (chú) và Cha (khảo) đã phò tá 10 đời các vua Chu từ Văn Vương, Võ Vương, Thành Vương, Khang Vương, Mục Vương, Cung Vương, Ý Vương, Hiếu Vương, Di Vương cho đến Lệ Vương.

Lai là người phò tá cho Thiên tử đương thời, được giao nhiệm vụ cai quản cống phẩm các nơi, được vua ban cho các đồ màu đỏ và đen vàng để kết dây cho xe ngựa. Lai nhân đó tạo ra bảo vật này (chiếc Lôi) để kính chúc Thiên tử, tế hiếu tổ tiên, cầu phúc cho gia đình, bản thân và con cháu.

Với số lượng chữ nhiều, nhiều hơn cả trên bảo vật có tiếng của Trung Quốc là Sử Tường bàn, đề cập đến 10 đời các vị vua của vương triều Chu, chiếc bình Lai là minh chứng lịch sử có giá trị cao đối với những ghi chép về thế thứ nhà Tây Chu trong phần Chu bản kỷ của Sử ký Tư Mã Thiên. Đồng thời đây cũng là minh chứng cho đạo thờ tổ tiên trong các dòng họ quý tộc xưa, của thời gian cách đây trên 2.800 năm.

Giai đoạn Tây Chu của Trung Hoa tương ứng với thời kỳ Văn Lang từ khi Âu Cơ lập nước, Hùng Quốc Vương thắng Ân, phân phong chư hầu, đặt ra trăm quan. Nước Văn Lang trải qua các đời vua, gọi chung là các Lang Liêu, chỉ thủ lĩnh của người Liêu – Lão. Hiện vật của giai đoạn này trước trống đồng chính là những đồ đồng thời Tây Chu, đặc biệt là các đồ đồng có minh văn.

Nguyên văn bài minh văn đó như sau:

公考克明悊-?夾
朕皇享祖公弔克逨
幽明氒心夒遠能對
王穆王趪趩政四方扑
皇亞祖懿中殶諫克
朕弔穆穆趪趩龢訇于政
多賜逨休天子兑奠
匍有四分則繇隹乃
榮兑冢辭四方吳楚
考寶尊般休享孝
又逋彔永令會終逨
文王武王逨敢寶考
成王成受大令方惰狄
召康王方懷不廷雩
對荊雩朕皇高祖零
保氒辟考王𢕌王又
夕高朕用辟顯天子
不顯文武隹受大令
祖耆𤕌就乃令女足
魯或冢用作用皇祖
壽猶綰受余康無公

Trong đó có 3 chữ bị phần quai dưới của bình đúc đè lên che mất.

So sánh với bài minh văn trên chiếc mâm Lai (逨盤) cùng thời thì bài minh văn trên được sắp xếp và đọc như sau:

Viết:

 Phi hiển trẫm Hoàng Cao tổ Đan Công khảo, khắc minh thận quyết đức, giáp Văn Vương Võ Vương, đạt Ân, ưng thụ thiên kỳ mệnh, bồ hữu tứ phương, tịnh quyết cận cương thổ, dụng phối thượng đế.

Ư trẫm Hoàng Cao tổ Công Thúc, khắc lai Thành Vương, thành thụ đại mệnh, phương địch bất hưởng, dụng điện tứ quốc.

Ư trẫm Hoàng Cao tổ Tân Thất Trung, khắc u minh quyết tâm, du viễn năng đối, triệu Khang Vương, phương hoài bất đình.

Ư trẫm Hoàng Cao tổ Huệ Trung Lễ Phụ, hoà vu chính, hữu thành vu du, dụng hội Chiêu Vương, Mục Vương, hoàng hoàng chính tứ phương, phác đối Kinh.

Ư trẫm Hoàng Cao tổ Linh Bá, lân minh quyết tâm, bất đọa phi dụng tịch Cung Vương, Ý Vương.

Ư trẫm Hoàng Á Tổ Ý Trung Chú, gián khắc bảo quyết tịch Hiếu Vương, Di Vương, hữu thành vu Chu mệnh.

Ư trẫm Hoàng Khảo Cung Thúc, mục mục hoàng hoàng, hòa hoanh (tuân/vận) vu chính, tế vu Lai thất, phục Lệ Vương.

Lai tư toản trẫm Hoàng tổ khảo phục, kiền tịch cao, trẫm dụng tịch hiển Thiên tử, đa tứ Lai hưu,

Thiên tử đoài điện vô cương, củ huệ thụ chính, điện Chu hoàng, gián tiết tứ phương.

Vương nhược viết:

Phi hiển Văn Võ, ưng thu đại mệnh, bồ hữu tứ phương, tắc chựu duy nãi thánh tổ khảo giáp triệu Tiên Vương, lỗ cận đại mệnh. Kim dư duy kinh nãi tiên tổ khảo, thân tựu nãi lệnh, nhữ tư vinh đoài, nhiếp tư tứ phương, Ngô Sở cung Lai, tứ nhữ xích khang, u hoàng du lặc.

Lai cảm đối: Thiên tử phi lỗ hoặc nhiếp, dụng tác trẫm Hoàng tổ khảo bảo tôn ban, bảo hưởng hiếu tiền văn. Tiềnvăn chiêu phong tại thượng, hiển tại chính phong bột, tế Lai lỗ đa phúc, thọ do oản, thụ dư khang vô, công hữu, thông lộc, vĩnh mệnh, hội chung. Lai thần Thiên tử vương, Lai vĩnh dụng hưởng.

(Những chữ gạch chân là những chữ đã được hiệu chỉnh)

Dịch nghĩa bài minh văn:

Rằng:

Hiển hách quang vinh đức Cao tổ Đan Công của ta, có trí tuệ quang minh, đức sáng giúp Văn Vương, Võ Vương chinh phạt triều Ân, thừa mệnh lớn của trời, mở rộng bốn phương, an định lãnh thổ, kính thờ Thượng đế.

Kìa đức Cao tổ Công Thúc của ta, phò giúp Thành Vương hoàn thành đại mệnh, đánh đuổi các bang tộc không phục tùng, yên định bốn phương các nước.

Kìa đức Cao tổ Tân Thất Trung của ta, có tâm thâm trầm minh trí, khiến người xã gần đều thuận tòng, phù trợ Khang Vương thuần phục các bang tộc không vào triều.

Kìa đức Cao tổ Huệ Trung Lễ Phụ của ta, yên hợp chính sự, mưu lược thành công, phụ tác Chiêu Vương, Mục Vương chinh phạt bốn phương, đánh dẹp đất Kinh.

Kìa đức Cao tổ Linh Bá của ta, có tâm nhân từ sáng suốt, không dùng hình phép, phò tá Cung (Cộng) Vương, Ý Vương.

Kìa đức Cao tổ Ý Trung Chú, là người chính trực, phụ bảo Khảo (Hiếu) Vương, Di Vương, giúp thành cho mệnh nhà Chu.

Kìa phụ thân Cung Thúc, uy nghiêm rạng rỡ, hòa hợp đề cao chính sự, đem nhà Lai mà phụ tá Lệ Vương.

Lai kế thừa phụ thân tổ khảo, cần mẫn ngày đêm phụ tá Thiên tử. Thiên tử ban thưởng hậu cho Lai. Lai chúc Thiên tử mãi mãi vững bền, giữ đức triều chính, giữ yên nhà Chu, chỉnh trị bốn phương.

Vua lại nói:

Hiển hách Văn Vương, Võ Vương, thừa thu mệnh trời, ban khắp bốn phương. Trước đây các bậc thánh tổ khảo nhà ngươi đã giúp phò các tiên vương, phát huy mệnh lớn. Nay noi gương các bậc tiên tổ, lệnh nhà ngươi giúp cho công việc, quản lý đồ tiến cống của bốn phương Ngô Sở. Ban cho ngươi các vật màu đỏ và đen vàng để chế cương xe ngựa.

Lai cung kính xưng tụng Thiên tử vĩ đại hiển hách, bèn tạo tác ra vật đựng báu của các vị tổ khảo, giữ để dùng việc hiếu với tiên tổ. Tiên tổ mênh mang tại thượng, hiển linh mạnh mẽ, phù trì cho Lai được nhiều phúc, trường thọ, khỏe mạnh, có chức tước, có lộc, mệnh lâu dài, có kết cục tốt. Lai thần mong Thiên Tử, vương tôn. Lai mãi dùng vật này đế tế lễ.

Phần minh văn có tên 4 vị vua đầu Tây Chu: Văn Vương, Võ Vương, Thành Vương, Khang Vương

Thái sử Lão Tử Lý Bá Dương và học thuyết Âm Dương

Sử ký Tư Mã Thiên cung cấp một tiểu sử của Lão Tử với đầy rối rắm, không rõ ràng:

Lão Tử là người thôn Khúc Nhân, làng Lệ, huyện Khổ, nước Sở. Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự là Đam. Làm quản thủ thư viện nhà Chu. Khổng Tử đến Chu, hỏi Lão Tử về lễ, Lão tử nói: «Những người mà ông đề cập tới, đã hóa ra người thiên cổ từ lâu. Nay chỉ còn lại những lời nói của họ…».

Lão Tử tu đạo đức. Cái học của ngài trọng ẩn dật, vô danh. Ở Chu lâu năm, sau thấy nhà Chu suy, liền ra đi. Tới quan ải, quan lệnh là Doãn Hỉ nói: «Ngài sắp đi ẩn, xin cố vì tôi viết sách.» Lão tử bèn viết Đạo Đức Kinh chia thành hai thiên gồm hơn năm nghìn chữ, đoạn đi, không biết sau ra sao.

Có người nói rằng: Lão Lai tử cũng là người nước Sở, viết sách mười lăm thiên, nói về chuyện đạo gia, đồng thời Khổng Tử. Có người cho rằng Lão Tử biết cách tu dưỡng nên đã thọ 160 hay 200 tuổi.

Khổng Tử mất, 129 năm sau sử ghi rằng: Thái tử Đam nhà Chu gặp Tần Hiến Công, nói: “Hồi đầu Tần và Chu hợp làm một, hợp năm trăm năm thì tách, tách bảy mươi năm thì bá vương xuất hiện.” Có người cho rằng Đam tức Lão Tử. Có người nói không phải. Người đời chẳng biết ai nói đúng, ai nói sai. Lão tử là một vị quân tử ẩn cư vậy.

Đọc thông tin về Lão Tử của Tư Mã Thiên thì không rõ công nghiệp của Lão Tử là gì, vì sao người đời lại tôn sùng ông như vậy? Ngoài việc bàn luận với Khổng Tử ra thì không thấy ghi gì thêm những việc mà Lão Tử đã làm để thành danh. Đoạn nói chuyện giữa Khổng và Lão có vẻ như là một cách tranh luận giữa 2 học thuyết Nho và Đạo hơn là một sự kiện lịch sử có thật.

Bản thân Tư Mã Thiên cũng đặt nghi ngờ, vì chỗ thì Lão Tử là Lão Lai cùng thời với Khổng Tử, chỗ khác lại là Thái tử Đam nhà Chu sau khi Khổng Tử mất tới 129 năm. Rồi thêm chuyện Lão Tử thọ 160 hay 200 tuổi vì… biết cách tu dưỡng (?). Người đời chẳng biết ai nói đúng, ai nói sai.

Tượng Lão Tử ở chùa Bổ Đà (Việt Yên, Bắc Giang)

Lão Tử minh, là bài minh trên tấm bia do Biên Thiều, quan cai xứ Trần khắc ngày Giáp tí năm Diên Hi thứ 8 (24/9/165) đời vua Hán Hoàn đế, ngoài những thông tin về cuộc tranh luận giữa Lão Tử với Khổng Tử và tuối thọ ngoài 200 của ngài còn một chi tiết đáng chú ý về hành trạng đương thời của Lão Tử:

Lão Tử tính Lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân… Lão tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng Ba Sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.”

Thông tin về việc Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo Chu U Vương hết sức lạ. Lạ vì nếu vậy, đối với các “học trò” của Khổng Tử thì Lão Tử thành ra thọ trên 200 tuổi, để có thể gặp Khổng Tử. Rõ ràng là Lão Tử có hành trạng và sự nghiệp riêng từ thời Tây Chu chứ không phải trở nên nổi tiếng chỉ vì mấy câu nói của Khổng Tử. Chỉ vì các “Nho gia” không muốn chấp nhận điều này nên không ai xem xét Lão Tử ở thời Chu U Vương là ai.

U Vương là vị vua cuối cùng của thời Tây Chu. Chu bản kỷ trong chính Sử ký Tư Mã Thiên chép:

Tuyên Vương băng, con là U Vương Cung Sinh lên ngôi. U Vương năm thứ hai, Ba Sông Tây Chu có động đất. Bá Dương Phủ nói:

Nhà Chu sẽ mất. Khí của trời đất không để mất trật tự; nếu mất trật tự thì dân sẽ loạn. Khí dương ẩn náu mà không thể phát xuất, khí âm bị chèn ép không thể bốc lên, vậy nên có động đất.

Nay Ba Sông đã chấn động là do khí dương mất chỗ, mà khí âm dồn đầy. Dương mất là do âm, nguồn ắt bị tắc. Nguồn bị tắc, quốc gia ắt mất. Đất có nước tưới nhuần thì dân mới sử dụng được. Đất không có nước chảy, dân thiếu vật dụng, không vong sao được!

Xưa sông Lạc cạn mà nhà Hạ mất. sông Hà cạn mà nhà Thương mất. Nay đức của nhà Chu giống như buổi cuối của hai nhà kia rồi. Nguồn sông lại tắc, tắc tất cạn. Ôi, quốc gia dựa vào sông núi. Sông cạn núi lở, là điềm mất nước vậy. Sông cạn thì núi tất lở. Không quá mười năm nữa nước sẽ mất thôi. Sự ruồng bỏ của Trời không quá số này.”

Năm ấy Ba Sông cạn, núi Kỳ lở.

Vùng Ba Sông hay Tam Xuyên là đất Phong, nơi Văn Vương khởi nghiệp. Núi Kỳ cũng là đất gốc tổ của nhà Chu.

So sánh sự kiện của Bá Dương Phủ thời Chu U Vương nói đến với ghi chép của Lão Tử minh thì thấy rõ ràng 2 chuyện là một. “Thời U vương, vùng Ba Sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.” Tức là, Lão Tử chính là Thái sử Bá Dương của thời Chu U Vương. Bản thân Lão Tử minh cho biết Lão Tử có tên là Bá Dương.

Bia Cung sao thánh tích ở đình Thổ Hà với tên Lý Bá Dương của Lão Tử

Kỳ lạ hơn nữa, câu chuyện về Lão Tử bàn chuyện nhị khí âm dương mà khuyên răn vua còn có ở Việt Nam. Đình làng Thổ Hà ở Việt Yên, Bắc Giang là nơi có sự tích về Lão Tử tu hành tại đây. Bia “Cung sao thánh tích” làng Thổ Hà cho biết, Lão Tử nói: Họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng. Bá Dương chính là tên của Lão Tử

Tiếp theo Chu bản kỷ kể, U Vương sủng ái Bao Tự, phế Thân hậu, lập con của Bao Tự làm thái tử. Quan Thái sử nhà Chu là Bá Dương đọc sử ký: Nhà Chu mất rồi!… Thái sử Bá Dương nói: Gây nên họa rồi! Còn làm được gì.

Việc Chu bản kỷ đến 3 lần dẫn lời của Thái sử Bá Dương đời Chu U Vương như một dấu mốc cho việc chấm dứt thời Tây Chu cho thấy vai trò của vị Thái sử này không hề nhỏ. Cả Sử kýLão Tử minh đều cho biết Lão Tử là quan thủ tàng thất sử của nhà Chu. Rõ ràng gọi Lão Tử là chức Thái sử, tên Bá Dương là hoàn toàn khớp giữa các tư liệu về Lão Tử.

Lão Tử minh có đoạn kệ từ:

Trời làm chấn động Ba Sông,

Can vua, vả khiến cho lòng dân an.

Nếu Âm chẳng lăng loàn lấn át,

Át Dương kia, tan tác sao sinh?

Vùng Ba Sông hay Tam Xuyên thực ra chính là Tam Giang, chỉ nơi hội tụ ba con sông Đà, Lô, Thao ở Việt Trì. Tam Xuyên là quận mà sau này Tần lấy đất Đông Chu để lập quận. Tam Xuyên là vùng Bắc Việt ngày nay. Nên vùng Ba Sông bị động đất thời Chu U Vương chính là khi Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa trong truyền thuyết Việt.

Việc Âm lấn át Dương ở thời này còn là chỉ việc Bao Tự trong cung của Chu U Vương. Sử ký Tư Mã Thiên chép Bao Tự xuất xứ từ việc nước dãi rồng truyền từ thời Hạ, qua Thương sang Chu. Tới Chu Lệ Vương mở vải đựng dãi rồng ra xem thì hóa thành một con thằn lằn đen chạy vào hậu cung, nhập vào đứa nô tỳ mà sinh ra Bao Tự. Chu U Vương yêu mến Bao Tự, đã đốt lửa Ly Sơn lấy các chư hầu làm trò cười mà gây ra họa mất nước.

So sánh với sự tích Lão Tử ở Thổ Hà thì chợt nhận ra, truyền thuyết Lão Tử đăng đàn ở núi Sái Cổ Loa trừ diệt Bạch Kê tinh cũng chính là ám chỉ cảnh Âm thịnh Dương suy từ đời Hạ Thương tới Chu. Bạch Kê là Ân Hậu hay Đát Kỷ thời Trụ Vương, đã tái hiện trong hình của Bao Tự thời Chu U Vương. Thái sử Bá Dương Lão Tử đã lấy câu chuyện Đát Kỷ – Trụ Vương xưa để răn Chu U Vương qua việc đăng đàn ở Cổ Loa, nơi chiến trường xưa thời Ân – Chu (Hùng – Thục).

Vế đối Đông Chu phong vũ… ở đình Thổ Hà

Câu đối bất hủ ở đình Thổ Hà về Lão Tử Lý Bá Dương thời Chu ở non sông Nam Việt:

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo giáo

Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Dịch nghĩa:

Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng giữ thanh hư, mở Đạo Giáo

Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một truyền màu nhiệm, tạo Thần Tiên.

Thần tích ở Thổ Hà không kể gì đến việc Lão Tử gặp Khổng Tử cả. Có thể thấy đây là chuyện thêu dệt của các Nho gia đời sau khi muốn tôn sùng Khổng Tử. Hoặc thời Khổng Tử có một vị khác, là Lão Lai ở nước Sở mà Khổng Tử đã đến “tư vấn”. Nhưng Lão Lai tử hay cả Thái tử Đam sau này đều không phải là Lão Tử, người đã phát triển học thuyết Thái cực Âm Dương và Đạo Đức kinh dưới thời Chu U Vương.

Lão Tử là vị Thái sử của nhà Chu, một trong những sử gia đầu tiên của Trung Hoa, còn trước cả Tư Mã Thiên đến hơn nửa thiên niên kỷ. Cuốn sử thực sự đầu tiên của Trung Hoa chính là… huyền sử Việt, như Truyện Rùa Vàng, An Dương Vương xây thành Cổ Loa vậy.

Tết Đoan Ngọ kể chuyện Âu vàng ngàn thủa lễ non sông

Vua Trần Nhân Tông sau chiến thắng Bạch Đằng đã làm hai câu thơ bất hủ: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá. Non sông ngàn thủa vững âu vàng”. Âu vàng đã trở thành hình ảnh tượng trưng cho non sông đất nước từ hàng ngàn năm trước. Cùng với câu thơ “Rành rành định phận tại sách trời” trong bài thơ Nam Quốc sơn hà của thời Lý thì đây là những bản tuyên ngôn lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Nhưng âu vàng và sách trời là gì mà lại có ý nghĩa to lớn như vậy?

1. Người Việt có câu ca dao: “Tháng năm là tết Đoan Dương. Nhớ ngày giỗ mẹ Việt Thường Văn Lang.” Như thế, ngày Tết Đoan Ngọ không chỉ là ngày diệt sâu bọ mà đó là một ngày lễ trọng đại trong lịch sử của người Việt, là ngày tế lễ tổ tiên và non sông đất nước.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể về sự ra đời của trăm người con trai của mẹ Âu Cơ: “Tới đầy tuần sinh nở, vào năm Canh Ngọ ngày 5 tháng 5, đúng ban ngày giờ Ngọ, mặt trời chiếu thẳng. Cái thai thần của Âu Cơ chuyển động, rồng mây đầy nhà, ánh sáng loé lên. Trong trướng, hoàng phi sinh ra một bọc ánh như ngọc trắng, hương lạ thơm nức…

Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện ngọc. Rồi bốn vị thiên tướng hiện ra… báo cho Hiền Vương đặt bào ngọc lên chiếc âu vàng, lệnh cho triều đình các tướng đến tề tựu ở ngôi chùa cổ ở Viễn Sơn, tức Từ Sơn Thiên Quang Hòa Thượng Thiền Thứu Lĩnh, đặt ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt.

Đầy 100 ngày sau khi bào ngọc nở ra trăm trai, có 8 vị tướng xưng là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Thượng Thiên Chư Phật Ngọc Đế sai xuống trợ giúp… Trời ban cho Hiền Vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một viên ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển sách trời, một chiếc thước ngọc, để trên âu vàng, tất cả đều đặt trong chính điện.”

Chùa Thiên Quang trên núi Nghĩa Lĩnh

Theo như ngọc phả Hùng Vương thì ngày Đoan Ngọ 5 tháng 5 là ngày mẹ Âu Cơ sinh ra trăm người con trai ở Phong Châu. Người con trưởng là Hùng Quốc Vương lên ngôi vua, lập nên nước Văn Lang. Số 5 là con số trung tâm của Hà Lạc, chỉ thủ lĩnh. 5 là Ngũ, cũng là Ngọ. Do đó giờ Ngọ, ngày Ngọ, tháng Ngọ, năm Canh Ngọ đều có ý chỉ vua, chỉ thủ lĩnh của cộng đồng dân tộc Việt. Đoan nghĩa là bắt đầu. Đoan Ngọ là ngày ra đời vị vua của đất nước, hay ngày lập quốc. Ngày tết Đoan Ngọ như thế là ngày tế lễ nhớ đến tổ tiên và cầu chúc cho non sông vững bền, một tục lệ đã có từ hàng ngàn năm nay trong phong tục của người Việt.

2. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể tiếp rằng, các hoàng tử đã thành những người lớn, nhưng trong triều không có ai có thể phân biệt được trưởng thứ và tên gọi. Hiền Vương lập đàn cầu trời thì có một vị Tiên ông xuất hiện, cầm gậy trúc, rửa chân trên bàn đá ở cạnh chùa Hoa Long bên bến sông Việt Trì. Vua cho mời Tiên ông vào hỏi chuyện và nhờ giúp cho việc đặt tên trăm người con trai.

Tiên ông lấy bút viết ra, đặt trăm tên cho các thần tướng, đặt lên chiếc âu vàng, phân định thứ bậc anh em. Trăm hoàng tử đến hội ở chính điện, mà nhận chữ đề tên, trong tên có cùng một tiếng. Một người là con trưởng, theo như lời định được lập làm Thái tử nối ngôi vua. Còn 99 người khác lần lượt đến trước âu vàng nhận danh hiệu được ban.”

Trong sự tích bào ngọc của mẹ Âu Cơ nở ra trăm người con trai, trưởng thành và được phân thứ bậc thì luôn nhắc tới một chiếc “âu vàng” (nguyên văn là “kim bàn”). Chiếc âu này đã đựng bào ngọc đặt ở trên núi Nghĩa Lĩnh, rồi lại dùng để đựng các bảo khí trời ban, và sau đó dùng để ghi tên và thứ tự cho trăm hoàng tử. Chiếc âu vàng là thứ gì mà lại quan trọng đến vậy trong huyền sử lập quốc của người Việt?

3. Thật vô cùng bất ngờ khi nhận ra rằng, chiếc âu vàng của Hiền Vương Âu Cơ là hình ảnh của một vật hoàn toàn có thật, mang ý nghĩa lớn lao như những dòng sử đầu tiên khi cha sinh mẹ đẻ, khai mở nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Một chiếc âu vàng như vậy là một cổ vật từ thời Tây Chu, cách đây khoảng 3.000 năm, tương đương với thời lập quốc Văn Lang. 

Âu đồng thời Tây Chu

Chiếc âu cổ đúc bằng đồng, có 3 chân là hình 3 tượng người đang ngồi quỳ như hành lễ. Thành phía bên ngoài của âu được trang trí bằng các hoa văn rồng và họa tiết vân lôi tinh tế. Trong lòng âu, trên nền vàng óng ánh của đồng cổ, là một bài minh văn đúc chìm, gồm 12 dòng, cộng tất cả là 144 chữ. Khoảng giữa thành của âu có 2 dòng chữ chạy xung quanh mâm, mỗi dòng gồm 10 chữ Kim văn. Đây là dạng chữ Kim văn, được đúc chìm, sâu, còn khá sắc nét, thể hiện thư pháp tiêu biểu của thể chữ này vào thời kỳ Tây Chu.

Bài minh văn trong lòng chiếc âu này có thể được đọc dịch như sau:

Minh rằng: Khi [Chu] Văn Vương lên nắm chính sự, gian nan để có được trên dưới. [Chu] Võ Vương chinh chiến khắp nơi, khuyến dân được lâu bền tốt đẹp, liên tục phạt Di. Khi lập con nối ngôi [Chu Thành Vương], có các đại thần tả hữu giúp trị, thi hành khuôn phép của Vương.

Thiên tử là một người cao cả. Trời ban cho các bậc văn võ xử lý công việc trên dưới.

Tông thất của Hạo bang [chỉ nhà Thương] mất, sau nhờ giữ mệnh phúc nên nhánh Kinh vẫn còn. Lại sinh ra việc dấy quân. Các quan Thiệu Chu chinh phạt Kinh.

Tốt đẹp thay tổ ở đất Vi. Võ Vương chiếm đất Vi, sai liệt tổ của nước đã mất đến gặp, [Võ Vương] lệnh cho Chu Công ân xá, cho dời đến vùng đất thờ của Ất Vương [Thiên Ất, tức Thành Thang]

Đến Tổ Tân có nhiều con cháu, duy giữ việc tế tự. Văn Công nối nghiệp, ông vất vả ngày tháng, tìm hiểu học sử, phép tắc đầy đủ, kế nối điều lành. Sau đó Tổ Văn ghi chép lại, quyết vì dân sinh, làm thành phép tắc, năm đó bền lòng quyết hợp, lấy đó mà dùng để cai quản.

Bài Kim văn trong chiếc âu cổ kể về giai đoạn lập triều của nhà Chu, từ khi Văn Vương khởi dựng, Võ Vương chinh phạt, yên định thiên hạ, đến Thành Vương cùng các đại thần Thiệu Công, Chu Công phụ tá, lập ra khuôn phép chế độ, bình định Kinh phương (quân Kinh thời Chu Thành Vương là chỉ cuộc nổi loạn của Vũ Canh, có Canh = Kinh). Người tạo ra chiếc âu này là con cháu của nhà Ân Thương, xưng là họ Vi. Khi Chu Võ Vương phạt Ân, đã triệu kiến Liệt tổ họ Vi (tức Vi Tử Khải, là anh cùng cha khác mẹ của Trụ Vương) đến gặp, rồi cho hưởng phong ở vùng đất nơi Thiên Ất Thành Thang đã khởi nghiệp lập Thương. Đến vị tổ tiếp theo của họ Vi tên là Tân, tiếp tục giữ gìn việc tế tự. Sau đó vị tổ Văn ra sức học tập, ghi lại những dòng sử này vào chiếc âu, dùng để cúng tế hiếu lễ với thiên tử Chu và truyền đời đời cho con cháu.

4. Những thông tin được ghi lại trên chiếc âu vàng là nỗ lực ghi chép lịch sử rất sớm về thời kỳ nhà Chu lập quốc, phân phong chư hầu cho các đại công thần và cho con cháu các triều đại trước đó. Trong bài sử này, vị vua Chu cuối cùng được nhắc đến là Chu Thành Vương, nên ước đoán, chiếc âu có bài minh văn này được tạo ra dưới thời vị vua Chu tiếp theo là Khang Vương (1020 TCN – 996 TCN), cách nay khoảng 3.000 năm.

Ở Trung Quốc, một chiếc âu có chữ Kim văn tương tự đã được phát hiện, có tên là “Sử Tường bàn” và được xếp là 1 trong số 64 bảo vật cấm mang ra khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, bài Kim văn trên âu Sử Tường dài hơn, kể sự việc tới thời Chu Mục Vương, nên niên đại của nó sau chiếc âu mô tả ở trên khoảng 60 năm.

Những bài minh văn trên âu vàng đúng là những cuốn “sách trời”, chứa đựng lịch sử 3.000 năm trước, từ khi Hiền Vương Âu Cơ (tức Chu Văn Vương) mang nặng đẻ đau, gian nan khởi dựng nước Văn Lang, đến Hùng Quốc Vương (tức Chu Võ Vương) lên ngôi thiên tử, phân định thiên hạ, chia các anh em ở trăm nơi đầu núi góc biển làm chư hầu, cha con nối tiếp nhau, đời đời thế tập dòng họ và đất đai. Những dòng Kim văn đúc trên các đồng khí Thương Chu là những tấm bia hàng ngàn năm của lịch sử cổ đại, chứng tích cho thời kỳ xã hội người Việt chuyển mình từ chế độ thị tộc sang chế độ phong kiến, lập nên một thiên hạ rộng lớn bao trùm toàn cõi trời Đông.

Phần chữ Vạn đại tử tử tôn tôn vĩnh dụng bảo đậu

5. Nguyên văn câu thơ của vua Trần Nhân Tông là “Sơn hà thiên cổ điện kim âu”, trong đó chữ “điện” nghĩa là bày đặt tế lễ. Vua Trần viết bài thơ này khi đang làm lễ tế mừng non sông chiến thắng ở Chiêu Lăng, do đó mới nhắc đến việc “điện kim âu” (đặt tế lễ trên âu vàng). Chiếc âu vàng thời Tây Chu ở trên ngoài việc xác nhận việc phân phong chư hầu (họ Vi) thì đồng thời cũng dùng cho mục đích tế tổ tiên và thiên tử. Dòng chữ Kim văn ở hai bên thành chiếc âu dịch nghĩa như sau: “Vua sớm tối dùng cho con cháu nhà Chu hiếu lễ tế tự. Trước tạo ra chiếc âu làm vật quý dùng lâu dài cho con cháu vạn đời.”

Câu thơ hào hùng của vua Trần “Non sông ngàn thủa vững âu vàng” có cùng ý nghĩa “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước” như lời Bác Hồ đã từng căn dặn bên đền Giếng ở núi Hy Cương. Nhân ngày giỗ mẹ Việt Thường, Văn Lang, xin dâng một nén hương lên ngôi chùa Thiên Quang linh thiêng trên núi Nghĩa Lĩnh để nhớ lại công sức của các bậc tiền nhân đã gian nan dựng và giữ non sông ngàn thủa trước âu vàng.

Bài đăng trên báo Lao Đông cuối tuần số 24 ngày 11-13/6/2021

Thần tích Triệu Thị Khoan Hòa Phu nhân và 5 Tướng quân ở Thanh Lãng

 (Bản thần tích được dịch từ bản chép tay lưu ở đền Thánh mẫu tại Thanh Lãng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc)

Xem xưa Vệ Dương Vương bị thua tướng Hán là Lộ Bác Đức. Về sau con cháu lạc trong nhân dân. Phu nhân là chắt của Vệ Vương. Phu nhân lấy chồng người huyện Chu Diên (không rõ tính danh), sinh được 5 con trai. Chồng mất sớm, Phu nhân dắt các con đến lánh ở chùa Quảng Hữu xã Thanh Lãng. Được vài năm thì Phu nhân qua đời, chôn ở khu đất tại thôn Minh Lương.

Khi ấy năm người con trai đã lớn, lại có nhiều tài sức, đã hội cùng Trưng Vương khởi binh. Năm chàng trai là người bản huyện cầm đầu quân kỳ. Trưng Vương đều sai đem quân chia thành các đạo cùng đánh tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long. Mỗi trận đều thắng. Quân của Trưng Vương lại bị nhiều thương tật. Chàng Cả lấy lòng vàng trứng ngỗng điều chế thành thuốc chữa. Quân binh lại được mạnh khỏe. Nhân đó phong Chàng Cả (húy 2 chữ) làm Hoàng Dược Nghĩa Dũng Tướng quân.

Đồng thời phong Chàng Hai (húy 2 chữ) làm Nhung Vụ Tướng quân, Chàng Ba (húy 2 chữ) làm Đốc Vận Hướng Mễ Tướng quân, Chàng Bốn (húy 2 chữ) làm Tướng quân, Chàng Năm (húy 2 chữ) làm Tướng quân. Tặng cho mẹ là Triệu Thị Khoan Hoà Phu nhân.

Đến khi Mã Viện đem quân đến, cuộc chiến của Trưng Vương bất lợi, tự thấy thế cùng, không chịu khuất nhục. Năm tướng quân trong đêm chôn cất Trưng Vương ở núi Hy Sơn, rồi dẫn quân vừa đánh

Vừa lui, quay về đến thôn Minh Lương chỗ mộ của Phu nhân, đều cùng bái khóc khấn rằng:

–          Nếu mẹ có linh xin dẫn các con tìm gặp Trưng Vương ở dưới đất. Lại xin lấy cái chết để không phụ chí chống giặc phương Bắc.

Dứt lời cùng rút kiếm tự vẫn, hiển linh ở đó. Xã thôn lập đền thờ phụng, có cầu tất ứng.

Trần Nhân Tông khi thân chinh dẫn đại quân thảo phạt tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, đêm ấy Nhân Tông nằm mộng thấy thần nhân

một mẹ năm con, xưng là cháu vua. Con xưng là tướng của Trưng Vương, hiện ở ba xã của Yên lãng, xin được giúp nước dẹp giặc phương Bắc để rửa hận trước đây. Đến khi tới sông Bạch Đằng, đại phá quân Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi, Phần Ấp. Khải hoàn trở về hỏi lại, dân xã tấu thấy sự việc hợp đúng như mộng. Bèn đều gia phong là Thượng đẳng thần.

Trải qua các triều đại tặng mĩ tự Triệu Thị Khoan Hòa Phu nhân, Yên Lãng và Minh Lương thờ phụng (Vị này chỉ có dân thôn phụng thờ nên trước khai là Khoan Hòa thần, ba xã Yên Lãng, Xuân Lãng, Hợp Lễ cùng thờ, có nhiều sai lệch, nay xin theo như thực mà cải chính).

Hoàng Dược Nghĩa Dũng Tướng quân (trước khai là Thành hoàng Hộ quốc chi thần, nay theo thực mà cải chính), Yên Lãng thờ phụng.

Đốc Vận Hướng Mễ Tướng quân (trước khai là Thành hoàng Hùng lược chi thần, nay theo thực mà cải chính), Xuân Lãng phụng tự

Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), Hợp Lễ phụng thờ.

Nhung Vụ Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), ba xã cùng thôn Minh Lương phụng thờ.

Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), Yên Lãng phụng thờ./.

Bình luận:

Bản thần tích này có chỗ ghi là do xã Hợp Lễ chép, có một số điểm khác với thần tích của xã Thanh Lãng. Đặc biệt là đoạn đầu nói về nguồn gốc của Thánh mẫu. Trong ngọc phả Thanh Lãng nói Thánh mẫu là  “dòng vua Thục An Dương Vương lấy cháu sáu đời vua Triệu Vũ Đế là vua Vệ Dương Vương“. Sau đó khi ẩn náu ở chùa Quảng Hữu, cảm với Áp thần bản thổ mà sinh ra năm con.

Trong khi đó thần tích của Hợp Lễ lại chép: Xem xưa Vệ Dương Vương bị thua tướng Hán là Lộ Bác Đức. Về sau con cháu lạc trong nhân dân. Phu nhân là chắt của Vệ Vương. Phu nhân lấy chồng người huyện Chu Diên (không rõ tính danh), sinh được 5 con trai. Chồng mất sớm, Phu nhân dắt các con đến lánh ở chùa Quảng Hữu xã Thanh Lãng.   

Thần tích của Hợp Lễ có lẽ đã muốn “cải chính” chỗ “vô lý” trong sự tích về Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa, vì nếu Thánh mẫu là vợ của vua Triệu Vệ Dương Vương thì:

1. Hóa ra khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra ngay sau khi nhà Triệu mất nước, tức là dưới thời Tây Hán, chứ không phải Đông Hán như sử sách đang chép.

2. Thánh mẫu họ Triệu, tại sao lại còn lấy vua Triệu?

Thực ra ngọc phả của Thanh Lãng mới là gốc và hoàn toàn đúng. Khởi nghĩa của Trưng Vương thực sự đã nổ ra ngay sau khi nhà Triệu mất nước, và bởi chính các hoàng phi nước Nam Việt lãnh đạo. Còn điểm thứ hai, Thánh mẫu mang họ Triệu bởi vì… Thục An Dương Vương mang họ Triệu. Kết hợp 2 thần tích trên thì thấy rõ, Triệu Thị Khoan Hòa là chắt của… An Dương Vương đời cuối, lưu lạc trong dân gian, rồi lấy vua Vệ Dương Vương. Vệ Dương Vương vốn không phải là họ Triệu, mà chỉ có tên triều đại là Triệu mà thôi.

An Dương Vương đời cuối mang họ Triệu thì không gì khác chính là nhà Tần. Tổ của nhà Tần là Tạo Phụ, đánh xe cho Chu Mục Vương rồi được phong ở Triệu thành, nhân đó lấy Triệu làm họ. Khi Tần Thủy Hoàng mất, Triệu Cao cùng với công tử Hồ Hợi giả truyền thánh chỉ, đoạt ngôi Hoàng đế, rồi cho giết tất cả các hoàng tử và công chúa của Tần Thủy Hoàng. Tuy nhiên, có thể trong số con cái của Thủy Hoàng vẫn còn người sống, nhất là vị Bạch Tĩnh công chúa, người đã được gả cho Lý Thân ở vùng Bắc Việt ngày nay.

Ngoài ra, dòng họ Triệu của nhà Tần còn chưa tận khi đó, vì sau Tần Nhị Thế còn có Tử Anh là một dòng dõi của nhà Ngoài ra, dòng họ Triệu của nhà Tần còn chưa tận khi đó, vì sau Tần Nhị Thế còn có Tử Anh là một con cháu của Tần lên ngôi. Khi Lưu Bang chiếm được Quan Trung, Hạng Vũ vào cung Tần diệt hết con cháu của nhà Tần, nhưng chắc chắn sẽ vẫn còn dòng dõi của Tần lưu lạc trong dân gian, nhất là ở khu vực phương Nam, vốn nằm ngoài sự kiểm soát của Hạng Vũ…

Thời đại Hùng Vương qua các mốc phát triển lịch sử và phả hệ

Bằng cách đối chiếu các ngọc phả Hùng Vương, các thần tích trong các di tích thờ Hùng Vương được lưu giữ đến nay với những thư tịch lịch sử của Việt Nam và Trung Hoa, thời đại Hùng Vương có thể được chia thành 4 thời kỳ phát triển gồm 18 đời (triều đại) Hùng Vương như trong sơ đồ sau.

Thời thủ lĩnh cộng đồng

Mốc lịch sử đầu tiên của người Việt được đánh dấu bằng Đế Minh, cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông. Vị vua Hùng đầu tiên, đứng đầu 18 đời Hùng Vương là Đế Minh, được các nơi thờ dưới tên Đột Ngột Cao Sơn, hay tên đầy đủ như trong Ngọc phả đền Vân Luông là Thánh tổ Hùng Vương Nam Thiên thượng thánh Tiền hoàng đế khai quốc hồng đồ Đột Ngột Cao Sơn cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương. Từ “đột ngột” hiểu nôm na là “bất ngờ xuất hiện”, cũng nghĩa là trước đó chưa có ai, chỉ vị vua đầu tiên. Rõ ràng chỉ có Đế Minh mới thích hợp ở vị trí “tiền hoàng đế khai quốc” này.

Ngọc phả đền Vân Luông còn cho biết: Đế Minh chính thống vạn bang chư hầu thiên hạ. Đế Minh như thế là người đã khai mở toàn thiên hạ, ngang với thời “Hoàng Đế mở muôn nước“, tức là cách đây khoảng 5.000 năm. Bắt đầu từ Đế Minh xã hội Việt đã có vua, có thủ lĩnh cộng đồng. Tên gọi cho thời kỳ này là kỷ Hồng Bàng Thị. Tên gọi trong các thần tích là “Sơn triều”. Tên nước là Xích Quỷ.

Hùng Vũ Vương Đế Minh là thế hệ ba đời từ Thần Nông, ban đầu đóng kinh đô ở Ngàn Hống (Nghệ Tĩnh), sau đi tuần thú ở phương Nam (xưa), kết hợp với dòng Tiên tộc của bà Vụ Tiên (Tây Thiên Quốc mẫu) mà khởi đầu vùng đất phương Nam ở dãy núi Nghĩa Lĩnh. Đế Nghi nối ngôi Đế Minh cai quản 2 vùng đất Bắc và Nam với kinh đô ở Ngàn Hống và Nghĩa Lĩnh. Để chọn người kế vị cho mình, Đế Nghi đã gả 2 công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung cho Lộc Tục, thuộc dòng Lạc tộc (Tiên tộc) ở núi Lịch. Lộc Tục có công khai phá đất phương Nam từ dạy dân cày cấy, săn bắn, làm đồ gốm sứ… Ba vị vua Hùng đầu tiên là Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục trở thành ba vị Hùng Vương Thánh Tổ, được thờ tại đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và nhiều nơi khác của vùng Đất Tổ.

Trong giai đoạn mở sử của Hùng Vương Thánh Tổ Sơn triều gồm những đời Hùng Vương sau:

1.   Hùng Vũ Vương

2.  Hùng Hy Vương

3.  Hùng Anh Vương (Hùng Hi Vương)

Thời chế độ thị tộc phụ đạo

Sau Đế Minh, mặc dù đã có thủ lĩnh của cộng đồng thiên hạ vạn bang nhưng chế độ vẫn đang là truyền hiền. Cụ thể là chuyện 2 vị công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung được gả cho Sơn Tinh, dẫn đến vị hiền tế phò mã này được tiếp ngôi chính thống. Những dấu vết khác của thời kỳ truyền hiền còn thấy ở Phú Thọ như lầu kén rể bên bến Việt Trì, hay tục rước chúa gái của 2 làng Vi Trẹo dưới chân núi Hùng.

Nối tiếp công lao mở Nam bang của Lộc Tục là Tản Viên Sơn Thánh hay Kinh Dương Vương, người đã đại thành trong công cuộc trị thủy ở cửa Long Môn trên sông Đà. Tản Viên Kinh Dương Vương kết hôn với mẫu Thần Long của miền Động Đình ven biển, hợp nhất các tộc người của 4 phương thời lập quốc.

Thời kỳ truyền hiền kết thúc bởi sự kiện Lạc Long Quân kế vị Kinh Dương Vương, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Chế độ thế tập xuất hiện ở thời điểm này cách nay khoảng 4.000 năm. Đây chính là mốc lịch sử trước đây thường được nhắc tới, gắn liền với tên tuổi của “cha” Lạc Long Quân. Tên gọi thời kỳ này là Việt Thường. Trong các thần tích thời này gọi là “Kinh triều” hay “Lạc triều”.

Dưới thời Lạc triều, người Việt theo Vua cha Lạc Long Quân mở nước về phía Đông Bắc, tiến lên khai phá các đồng bằng ven biển Đông. Trong thời gian này xảy ra sự kiện Chử Đồng Tử, một chư hầu của Lạc triều đã tiếm ngôi, chiếm đoạt ngôi báu dưới hình ảnh của công chúa Tiên Dung. Lạc triều trung hưng ở miền đất Nam Giao từ Hùng Uy Vương Hoằng Hải Lang. Rồi tới thời Hùng Huy Vương lại tiếp tục di dân, mở mang bờ cõi, vượt sông Trường Giang tiến lên phía Bắc. Tới thời Hùng Duệ Vương, triều đại cuối của Lạc triều, thì lãnh thổ Việt Thường về phía Bắc đã vượt qua cả Hoàng Hà.

Các đời Hùng Vương thời kỳ Kinh triều Thị tộc phụ đạo gồm:

4.  Hùng Việt Vương (Hùng Dương Vương)

5.  Hùng Hoa Vương (Hùng Diệp Vương)

6.  Hùng Uy Vương

7.  Hùng Huy Vương

8.  Hùng Duệ Vương (Hùng Tuyền Vương)

Thời chế độ phong kiến phân quyền

Thời kỳ bộ lạc thế tập, gọi vua là cha, kéo khá dài như chuyện nàng Âu Cơ mang nặng đẻ đau sinh ra bào ngọc trăm trứng… Cuộc chiến Hùng – Thục nổ ra được ghi lại trong các bản ngọc phả thần tích ở Việt Nam là lúc dòng Thục theo mẹ Âu Cơ nổi lên, thay thế cho dòng Hùng (Lạc) theo cha, mà đánh dấu bởi sự kiện Âu Cơ về đất Phong Châu lập nước Văn Lang.

Đến khi Hùng Quốc Vương, người con trưởng đích trong trăm trai, với kỳ công hiệu triệu chư hầu, tiêu diệt nhà Ân Thương (Lạc triều), thì xã hội Việt tiến thêm một bước quan trọng.

Ngọc phả Hùng Vương kể: Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn… Bấy giờ Vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm các tộc, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 

Bắt đầu từ Hùng Quốc Vương bờ cõi đất đai trong thiên hạ được chia phân thành các chư hầu phiên dậu bình phong. Mỗi chư hầu có người chủ trì gọi là “phụ đạo” và chức chư hầu này được thế tập nối nhau. Vua xưng là thiên tử. Đặt ra lễ chễ trăm quan. Nhân dân được định tộc họ. Những vị tiên tổ có công lao được phong làm thần mà thờ phụng.

Đây cũng là thời điểm đời Hùng thứ 6 với vị Lang Liêu, người có công hoàn tác Dịch học âm dương vuông tròn, khai mở lễ tiết (Tết). Truyện Bánh chưng bánh dày kể rõ, Lang Liêu nối ngôi đã phân chia cho các anh em làm phiên dậu bình phong…

Bản chất là xã hội Việt lúc này bước sang chế độ phong tước kiến địa hay chế độ phong kiến điển hình. Vua Hùng đứng đầu Bách Việt (là tổ của Bách Việt), vì mỗi “Việt” là một chư hầu trong thiên hạ họ Hùng. Thời điểm của mốc lịch sử này được ghi nhận sau khi Hùng Vương thứ 6 đánh thắng giặc Ân, tức vào quãng hơn 3.000 năm trước. Tên gọi đất nước của Lang Liêu thì như đã rõ, là Văn Lang. Thần tích kể thời kỳ này là “Thục triều”.

Những câu chuyện chính của Thục triều đã được ghi trong Truyện Rùa Vàng của Lĩnh Nam chích quái, từ việc Thục Vương thay thế Hùng Vương (Thục triều thay thế Lạc triều), An Dương Vương dời đô về Cổ Loa, rồi kết thúc bởi cuộc chiến với họ Triệu qua câu chuyện bi thương Mị Châu – Trọng Thủy.

Thời kỳ Trị bình Kiến phu (trị nước bình thiên hạ, kiến lập chư hầu) của Thục triều gồm các đời Hùng Vương sau.

9.     Hùng Chiêu Vương (Hùng Hiền Vương)

10.   Hùng Quốc Vương (Hùng Ninh vương, Hùng Vĩ Vương)

11.   Hùng Tạo Vương

12.   Hùng Nghị Vương

Thời chế độ phong kiến tập quyền

Mô hình Thiên tử – Chư hầu, vua Hùng – Bách Việt kéo dài qua các thời kỳ thịnh rồi suy, dẫn tới xung đột khốc liệt giữa các chư hầu. Để rồi nổi lên 1 chư hầu lớn thôn tính toàn bộ các chư hầu khác là Thục An Dương Vương như trong truyền thuyết Chín chúa tranh vua của người Tày. Vị vua đã thống nhất các nước chư hầu đến từ phía Tây – Thục này chính là nhà Tần. Truyền thuyết chép vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán.

Tuy nhiên, với sự tàn ác của Tần đế, truyền thuyết Việt không chấp nhận vai trò thống nhất thiên hạ của nhà Thục. Người được coi người khởi thủy nước Nam lại là Vũ Đế Triệu Đà. Xét kỹ thì với vai trò là bố của Trọng Thủy, Triệu Đà cũng chính là vua Tần, người đã diệt con cháu hậu duệ của Hùng Quốc Vương Lang Liêu.

Mặt khác, Triệu Đà thứ hai là người Tuấn kiệt đã lãnh đạo dân Việt kháng Tần thắng lợi, lập nên một triều đại Nam Việt thống nhất. Chế độ quận huyện từ trung ương xuống địa phương được áp dụng trên toàn lãnh thổ. Xã hội Việt bước vào giai đoạn quốc gia thống nhất.

Thời điểm cho mốc thống nhất toàn lãnh thổ hay phong kiến tập quyền này rơi vào quãng năm 256 TCN (thời điểm Tần diệt Chu) hoặc 207 TCN (thời điểm Triệu Vũ Đế diệt Tần), tức là cách nay trên 2.200 năm.

Thời kỳ quốc gia thống nhất bao gồm các đời Hùng Vương sau:

13.   Hùng Định Vương

14.   Hùng Trịnh Vương (Hùng Trinh Vương)

15.   Hùng Triệu Vương (Hùng Triêu Vương)

Ngoài ra còn 3 đời Hùng Vương kế tiếp, không được ghi trong ngọc phả, nhưng được bổ sung từ các truyền thuyết và di tích đối với thời Tiền Lý Nam Đế và Trưng Vương (vẫn là dòng Lạc Hùng chính thống).

16.   Hùng Hiếu Vương

17.   Hùng Trưng Vương

18.   Hùng Tân Vương

Từ thời điểm này xã hội người Việt đã thống nhất chế độ, thống nhất lãnh thổ nên lịch sử Việt chấm dứt thời Hùng Vương dựng nước, bước sang thời kỳ con cháu “giữ lấy nước”. Hơn 3.000 năm dựng nước đầy gian nan, từng bước, từng bước một cha ông đổ mồ hôi nước mắt mới có được những thành tựu to lớn để lại cho con cháu. Đọc lại Ngọc phả Hùng Vương xin chớ quên câu Uống nước nhớ nguồn