Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nhuế Đông, xã Lang Tài, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương
Chi Khảm, bộ Thượng đẳng
Chính bản bộ Lễ quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ mở vận ứng đồ hơn hai ngàn năm Hùng Vương dựng nước núi xanh vạn dặm lập nền đô thành cung điện, nước biếc một dòng mở đạo đế thánh vua sáng, mà cứu vật giúp người, cai quản 15 bộ, gọi là tổ ban đầu của Bách Việt vậy. Về sau họ Hùng có trăm thần sông núi thường hay xuất hiện, biến hóa thần kỳ, âm phù giúp nước giúp dân. Có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hoả ức niên phương.

Dịch nghĩa:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn năm đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.

Lại nói, cơ đồ họ Hùng tương truyền được 18 đời đến khi mạt tạo, ý trời muốn dứt, trải qua các triều đại Tây Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần mở mang cơ đồ, giữ quốc thống bền lâu vậy.
Xưa ở đất Việt có Trưng nữ vương. Vương họ Trưng tên Trắc, người huyện Mê Linh, Phong Châu, là con gái của Lạc tướng, lấy chồng là Thi Sách. Khi ấy có giặc Hán Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương, không người cứu giúp. Khi đó người cháu gái Hùng Vương tên là Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, là thánh thần trên đời, nổi oai hùng cất quân đến đánh. Đang khi ấy không có bậc nam nhi nào có đủ tài thao lược. Vương vì trả thù cho chồng mà cùng với em gái khởi binh. Nữ tướng dẫn quân, thần linh phát động. Thế rồi Trưng nữ bèn cầu đảo Tản Viên Sơn Thánh, lại lập đàn cầu đảo bách thần ở cửa sông Hát Môn (nay thuộc xứ Sơn Tây). Bèn chúc rằng:

  • Trời sinh con người là tông chủ của vạn vật trong đất trời, sinh linh có dòng dõi, cỏ cây có tương quan. Trải các đời đế vương trước đây là những bậc thiên tử thánh minh, triều đình có đạo yêu dân vì nước. Đức hóa chuyên năng. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có kẻ tộc ngoài là tên Tô Định, như loài dê chó quấy phá, lộng hành điên cuồng, bạo ngược nhân dân. Trời đất thần người đều căm phẫn. Thiếp hiềm chỉ là cháu của Hùng Vương trước đây, là một nữ nhân, nghĩ đến sinh linh, hoàng thiên rơi lệ. Ngày hôm nay đau lòng thương cảm mà trượng nghĩa trừ tàn bạo. Xin trăm vị chư tôn hội đàn chứng giám, giúp thêm sức cho Trưng nữ thiếp dẫn quân dẹp giặc, giữ nước cứu dân. Để thiếp khôi phục được cơ nghiệp trước đây của tổ tông, để các sinh linh được hưởng miếng cơm manh áo, đưa sinh linh khỏi chốn nước lửa, mà không phụ lòng của tiền nhân, thỏa sự linh thiêng đền miếu tiên hoàng, an ủi tổ phụ dưới nơi chín suối.

Chúc xong thấy xuất hiện ngàn hàng vạn đội âm binh. Ngay hôm đó Trưng nữ bèn truyền hịch đến các đạo, châu, huyện nước Nam, ai người có tài văn võ, anh hùng, có thể chống giặc thì ngay lập tức chiêu mộ tráng binh dẫn đến để chọn lựa người có kỳ tài mà phong chức vụ.
Hôm đó các đạo nghe thấy chiếu của Trưng nữ bèn đem các quân trong làng xóm dẫn đến ứng tuyển. Trưng nữ bèn phong những người có tài làm đại tướng. Còn binh sĩ xếp thành các đội. Ngày hôm đó Trưng nữ giao cho tướng lãnh quân đi trước dẹp đường. Còn mình thì dẫn quân đi sau ứng trợ.
Ngày hôm đó Trưng nữ sai các tướng đem quân tuần phòng các đường, dẫn quân xuất binh đường đường mà đi. Ngay hôm ấy Trưng nữ dẫn hai ngàn quân đi đánh với giặc Hán. Một buổi tiến đến đạo Kinh Bắc (xưa gọi là Vũ Ninh), phủ Thuận An (sau đổi là Thuận Thành), huyện Lương Tài (xưa là Thiện Tài). Trời đã về chiều, gặp quân Hán nên đóng quân thủy ở gần sông Thiên Đức. Trưng nữ bèn trú quân ở khu đất đầu trang Nhuế Đông, nơi có miếu thờ. Đến tối Trưng nữ bèn vào cầu đảo trong đền thần mong được âm phù dẹp giặc. Tối hôm đó tới giữa canh ba Trưng nữ bỗng nhiên nằm mộng thấy một bà lão tuổi khoảng 40, có phong tư yểu điệu, nhan sắc phi thường, mặt phượng mày ngài, má hồng môi phấn, vạn điểm như sóng thu, mười phần là sắc xuân, theo con đường trước miếu mà đến, tự xưng rằng:

  • Ta vốn là Hoàng Thái hậu triều Tống, tên là Càn Hải phu nhân. Do khi nhà Tống suy vong, giặc Nguyên xâm chiếm nên mẹ con ta ba vị hồng nương cùng xuống thuyền rồng lánh nạn ở ngoài hải đảo, vượt qua sông núi đên nơi cửa biển Am thì gặp sóng gió mà cùng hóa vậy (ngày hóa là 15 tháng 5). Thiên đình cảm động ban chiếu cho các trang khu, phường trại ở cạnh sông góc biển lập miếu mà thờ cúng để đề cao tích thiêng của phu nhân. Nay thấy nữ tướng dẫn quân dẹp giặc Hán đến trú quân và cầu đảo được âm phù nên ta xuất hiện, xin được theo quân đội dẹp giặc lập công.

Bà lão dứt lời thì biến mất (ngày thần hiện là mùng 9 tháng 2). Trong phút chốc Trưng nữ tỉnh lại, biết là linh thần xuất hiện giúp nước giúp dân. Rạng ngày Trưng nữ gọi nhân dân và phụ lão ở trang khu Nhuế Đông đến hỏi rõ việc này:

  • Ta muốn hỏi có phải hai khu trang ấp các người phụng thờ một vị Tống Hoàng Thái hậu, rất là linh hiển phải không?

Khi ấy nhân dân phụ lão trang khu Nhuế Đông đều sợ hãi mà làm lễ mừng, tâu rằng:

  • Đúng là trang khu chúng thần theo như trước đây khi mới lập trang khu có xin lĩnh lô hương ở cửa biển Am mang về dân lập miếu mà thờ cúng, thật sự rất linh nghiệm.

Trưng nữ nghe vậy bèn ban cho nhân dân phụ lão một nén vàng tím để tu sửa miếu điện, đợi khi yên bình sẽ gia phong Thượng đẳng thần. Hôm ấy Trưng nữ vương bèn dẫn quân về phía Tây, hội quân cùng các tướng. Tướng nam dẫn quân nam. Tướng nữ dẫn quân nữ, cùng với em là Nhị cùng các tướng chia thành các đạo tiến thẳng đến đồn Tô Định đánh một trận đại phá, bắt được Tô Định ở xứ Lãng Bạc mà chém đi. Quân Hán thua to, chém được chính tướng và tì tướng cùng binh sĩ vài ngàn đầu, thu được khí giới. Xây dựng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục toàn bộ đất đai nước Nam.
Hôm ấy các tướng đón Trưng nữ khải hoàn, lên ngôi xưng là Trưng nữ vương. Bèn mở tiệc mừng lớn, phong thêm cho các tướng sĩ cấp bậc tương ứng. Vương bèn nói với quần thần các tướng rằng:

  • Giặc Hán dẹp yên được cũng là do có thần âm phù trợ giúp.

Bèn sai sứ sắc phong cho bách thần các mỹ tự. Sắc phong thần hiệu nguyên tên phong là Đại Càn Nam Hải linh ứng tôn thần. Tặng phong là Nga hằng Uyển mị Chí đức Đoan trang Hoàng Thái hậu Thượng đẳng thần.
Từ đó về sau có nhiều sự linh ứng nên có nhiều các đời đế vương thường đều có phong thêm mỹ tự, cho phép cửa biển Am là nơi hộ nhi. Thường nước cầu dân khấn, anh linh không phai. Sắc vâng ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Đến thời Trần Anh Tông đi chơi ở núi Yên Tử, đến cửa biển thì gặp nạn sóng gió, mà được một vị tôn thần cứu thoát. Đến ngày về Đế bèn phong thêm mỹ tự là Huệ hoà Gia hành Đoan trang Thục diệu Phu nhân Thượng đẳng thần. Lại ngâm một câu thơ:
Hương hoả thiên thu âm tục Tống
Phong ba nhất trận mặc phù trần.

Nghĩa là:
Hương lửa ngàn thu âm nối Tống
Sóng gió một trận thầm giúp Trần.

Lại nói, sắc chỉ ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Thời sau khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn dẹp trừ giặc Minh, cùng bè đảng Mộc Thạnh, Liễu Thăng, đến khi có được thiên hạ thì vua Thái Tổ bèn phong thêm mỹ tự là Ý đức Thuần hoà Anh linh Phù tộ Phu nhân Thượng đẳng thần. Sắc chỉ ban cho trang Nhuế Đông khu Đặng Thượng và khu Thiên Lộc cùng tu sửa miếu điện để phụng thờ, cùng với nước nhà hưởng phúc, mãi là thức lệ. Vâng thay!
Ngày tiệc thần hiện vào ngày mồng 9 tháng 2. Lễ chính lệ dùng trên có mâm chay và phẩm quả, dưới tùy xếp cỗ, ca hát ba ngày.
Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 5 giữa xuân ngày tốt Đệ tam giáp Tiến sĩ trí sĩ Thượng thư bộ Lễ Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn [Bính] vâng soạn bản chính. Nội các bộ Lại tuân theo bản chính cũ vâng sao.
Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 13 ngày mồng 1 tháng 3 lý trưởng xã Nhuế Đông vâng sao nguyên như bản chính.

Những cuộc chiến tranh và di cư thời Hùng Vương qua các di tích đền miếu ở vùng đất tổ Phong Châu và đồng bằng Nam sông Hồng

Mở đầu

Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với các nấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới. Một triều đại mới lập nên kèm theo việc định cư người dân ở các vùng đất mới dưới một chế độ quản lý mới. Đây cũng là những mốc phát triển cương vực của nước ta trong thời đại Hùng Vương.

Những cuộc di cư, phân chia đất đai lãnh thổ được nói tới khá rõ ngay trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả. Trước tiên đó là cuộc chia tay lịch sử giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.

Người con trưởng là Hùng Quốc Vương theo mẹ Âu Cơ lập nước Văn Lang, lên ngôi vua: Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ.

Như thế, các vị sơn thần và thủy thần đều là những người con cùng bọc đồng bào đã chia ra trăm nơi đầu non góc bể trấn giữ, rồi mới hóa thần. Dấu vết của cuộc “đại phong thần” thời Hùng Vương này còn in đậm lưu truyền tới ngày nay qua các di tích thờ phụng các vị sơn thần thủy thần trải khắp từ miền trung du đất tổ Phong Châu tới vùng đồng bằng sông Hồng ven biển. Lần theo các di tích đền miếu còn lại và những sự tích lưu truyền có thể phục dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những cuộc chiến và di cư ở mỗi giai đoạn dựng nước.

GIAI ĐOẠN SƠN TRIỀU HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ

Câu đối ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh khái quát về giai đoạn “có tổ” của người Việt:
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Dịch:
Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

Hữu Hùng Đế Minh mở vạn bang chư hầu thiên hạ

Huyền sử Việt bắt đầu bằng Truyện Họ Hồng Bàng có Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên mà sinh ra Lộc Tục… Còn Đại Việt sử ký toàn thư mở đầu bằng câu “Thủa Hoàng Đế mở muôn nước”, nói tới cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên với Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, được huyền sử Việt chép là Đế Minh.

Ba vị quốc tổ Hùng Vương được thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và khắp các nơi trên vùng đất tổ Phong Châu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn Tây) là:

  • Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh Vương;
  • Viễn Sơn Thánh Vương;
  • Ất Sơn Thánh Vương.

3 vị Sơn Thánh là 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời Hồng Bàng, có trước thời Lạc Long Quân nên tương ứng đó là các vị Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục như kể trong Truyện họ Hồng Bàng

Cuộc chiến lập ra thiên hạ Họ Hùng đầu tiên được lưu truyền rõ nhất trong sự tích vùng núi Tây Thiên. Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên đã hội quân ở Đại Đình dưới chân núi Tam Đảo, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng đầu tiên là Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất. Công Cha như núi Thái Sơn ở Nghĩa Lĩnh – Phong Châu. Nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) của Tam Đảo chảy mãi không ngừng.

Tam vị Thánh Tổ họ Hùng được thờ rộng khắp trên miền đất tổ Phong Châu mà trung tâm là núi Hùng Nghĩa Lĩnh ở Việt Trì, mở ra miền ngược ở Thanh Ba, Hạ Hòa, Yên Bái, hay sang phía Đông qua sông Lô tới Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.

Xuôi sông Hồng, di tích thờ Hùng Vương Thánh Tổ ở đồng bằng phía Nam không nhiều, nhưng có thể kể đến: đình Đống Long ở xã Hòa Lâm, Ứng Hòa, Hà Nội thờ Đột Ngột Cao Sơn; đền Khả Phong ở Kim Bảng, Hà Nam thờ vua Hùng Cao Sơn, các đền ở xã Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình thờ vọng quốc tổ Hùng Vương. Ở nội thành Hà Nội từng có đền thờ vua Hùng, nay là đền Dâu (Thuận Mỹ) tại phố Hàng Quạt. Ngoài ra đáng kể là một số các đình ở ngay giữa khu phố cổ Hà Nội như đình Kim Ngân thờ Hiên Viên Hoàng Đế với tư cách là tổ bách nghệ.

Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn

Tiếp theo thời kỳ Sơn triều mở nước của 3 vị Thánh tổ Hùng Vương là thời kỳ của Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, gặp và lấy mẫu Thần Long Động Đình. Chuyện này cũng là việc Tản Viên Sơn Thánh cùng vui với các loài thủy tộc ở bộ Gia Ninh và kết thân với Thủy Tinh Động Đình thủy phủ. Kinh Dương Vương và Tản Viên Sơn Thánh đều được gọi là Nam Thiên Thánh Tổ, chỉ cùng một nhân vật trong lịch sử trời Nam.

Là vị Thánh tổ của trời Nam nên số lượng nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh trải khắp miền Bắc, nhưng tập trung nhất là ở vùng Sơn Tây. Nơi đây các di tích thờ Thánh Tản dày đặc thành từng cụm, được biết dưới tên Ngũ thần cung Tản Viên, cũng là vùng Ngũ Lĩnh nơi Kinh Dương Vương đi tuần phương Nam. 

Ngũ hành cung Tản Viên hình thành một khu vực “kinh đô” của thời kỳ Kinh Dương Vương, được truyền thuyết gọi là Ngũ Lĩnh. Mỗi một “Lĩnh” hay một “thần cung” là một khu vực, trong đó lại bao gồm nhiều các “hành cung”, nay là các đền, đình, di tích thờ Tản Viên Sơn.

  • Thượng Thần cung: là cụm di tích đền Thượng, đền Hạ, đền Trung ở núi Tản Viên. Đây là nơi thờ các bậc tiên tổ Thái Bạch Kim Tinh, Ma Thị Cao Sơn, Quốc mẫu Đinh Phi.
  • Hạ Thần cung: là khu vực thấp của vùng Bể Cạn (Hạc Hải) xưa, với các di tích như đình Thụy Phiêu, Văn Khê. Đây là nơi diễn ra cuộc giao chiến Sơn Tinh với Thủy Tinh.
  • Trung Thần cung: là vùng “hạ điền” (ruộng hè) xưa, gần với ngã ba Bạch Hạc, được thần tích gọi là vùng Cổ Đằng, Tam Vật Lại. Vùng này là nơi Thánh Tản dạy dân cày cấy, đánh cá, chăn nuôi…
  • Tây Thần cung: là vùng giáp sông Đà với các di tích Ngọc Nhị, Bằng Tạ, Khê Thượng. Đây cũng là nơi có bãi Trường Sa (bãi dâu Tang Ma), chốn Sơn Tinh cứu sống con rắn thần Thủy Tinh và cũng là chuyện Kinh Dương Vương gặp Thần Long Động Đình.
  • Đông Thần cung: nổi tiếng được biết là đền Và, cùng với đền Ngự Dội ở bên kia sông Nhị. Đây là nơi yết triều của Kinh Dương Vương.
  • Nam Thần cung: là vùng Thánh Tản đi săn ở xứ Mường Mang Sơn, Quang Diệu.
  • Bắc Thần cung: vùng phía bên kia sông Hồng, với những di tích như đền Thính, đền Tranh ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc.

Từ vùng kinh đô Ngũ Lĩnh này Kinh Dương Vương – Tản Viên đã khai mở quốc gia về các hướng Đông Tây Nam Bắc, cùng với “Tứ phủ Công đồng đi tuần trong nhân gian“, thực sự đã làm nên một cuộc “Đẻ Đất Đẻ Nước” trong lịch sử nước Xích Quỷ thời đầu Kinh triều.

Ở vùng phía Nam sông Hồng, di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh có thể kể đến khu vực Ứng Hòa, Hà Tây cũ; quần thể đền Tam Thôn gồm đền Kê Thượng, đền Kê Hạ và Miễu Sơn ở xã Ninh Vân của Hoa Lư, Ninh Bình. Việc thờ Thánh Tản ở vùng Hà Nam và Nam Định thường là thờ cùng trong bộ ba Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.

Một điểm đặc biệt của khu vực đồng bằng Nam sông Hồng là tục thờ thần Hậu Tắc, nhất là ở vùng hành cung tịch điền thời Lý Trần tại xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định. Về Hậu Tắc có câu chuyện bà Khương Nguyên sinh con ra bỏ trong rừng, được muông thú che chở nuôi nấng, chính là một cách kể khác của truyền thuyết về Kỳ Mạng Tản Viên Sơn Thánh. Hậu Tắc được nhà Lý tôn là Thiên Tổ Địa Chủ Xã Tắc Đế Quân, là vị Đế Tổ sánh ngang thời với Kinh Dương Vương mở nước.

Ngũ Lĩnh và Động Đình.

GIAI ĐOẠN KINH TRIỀU LẠC LONG QUÂN

Câu đối ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình):
Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích
Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh.
Dịch:
Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ
Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.

Cuộc tranh đoạt giữa Lạc Long Quân và Đế Lai

Sau thời Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã đi nốt chặng đường khởi dựng nhờ hòa hợp 4 tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc trong chuyện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân nhờ sự hỗ trợ của dòng tộc bên mẹ ở Động Đình (biển Đông) đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng Hữu Hùng phương Bắc là Đế Lai.

Truyện Họ Hồng Bàng mô tả cuộc chiến này: “Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.”

Cuộc chiến cách nay 4000 năm này đã khởi đầu thời kỳ thị tộc phụ đạo và còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua Cha của Thoải phủ, đã tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.

Nếu vùng Phong Châu là vùng đất tổ với tục thờ các vị Hùng Vương Sơn Thánh thì vùng đồng bằng Nam sông Hồng lại là khu vực đậm đặc các di tích thờ các vị thủy thần của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống khai phá miền biển Động Đình. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết Lạc Long Quân “hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân” nên đức vua cha Bát Hải Động Đình của Thủy phủ chính là Lạc Long Quân. Đền thờ chính của Bát Hải Động Đình là đền Đồng Bằng ở Thái Thụy, Thái Bình. Gắn liền với vua cha Bát Hải là Ngũ vị Tôn quan, mà điển hình nhất là Quan Đệ Tam ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên, Hà Nam) và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương.

Trong Truyện Hồ Tinh thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây trong Hà thư. Dòng tộc của Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là Thục (từ “thục” trong tiếng Nôm có nghĩa là “chín”, đồng âm với số 9, chỉ hướng Tây).

Câu chuyện về Thánh Tam Giang ở Ngã Ba Bạch Hạc thi tài giữa thần Thổ Lệnh và Thanh Khanh cũng chính là giữa Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Thổ Lệnh được thờ ở vùng Thường Tín, Phủ Lý với tên Trung Thành Phổ Tế Đại Vương, với sự tích gắn với Ngã Ba Bạch Hạc rất rõ như kể ở đền Đa Chất (Phú Xuyên).

Xuyên suốt từ Ngã Ba Hạc ra tới cửa Ba Lạt là tục thờ Linh Lang Đại Vương tuy bị chép vào nhiều thời kỳ khác nhau, từ thời Hùng chống Thục ở Vụ Bản, Nam Định, tới thời Lý, rồi thời Trần. Thực ra tất cả chỉ có 1 vị Linh Lang thời Hùng Vương đã đánh Thục thắng lợi như trong thần tích ở Duyên Trường, Vụ Bản, Nam Định. Linh Lang chính là Lạc Long Quân, người đã thắng trận chiến tranh giành quyền lực với dòng lên núi của Đế Lai. Linh Lang là vua của Thủy phủ Động Đình, lấy hồ Dâm Đàm làm kinh đô của Thủy quốc. Các di tích thờ Linh Lang chạy dọc theo sông Cái từ Hồ Tây – Thanh Trì – Lý Nhân ra đến tận Thái Bình và cửa Ba Lạt.

Thế tộc Tản Viên.

Một vị thủy thần phổ biến khác là Quý Minh, thường chép là Hữu kiên thần trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh với xuất xứ từ vùng bãi dâu Tang Ma bên sông Đà, có mang danh là Lãng Nhạc Quý Minh, chỉ rõ là dòng Thủy thần. Nhiều nơi Quý Minh được phong là Đông Hải Đại vương cũng chứng tỏ điều này. Ngay cái tên Trần Quý Minh như ở đền Nội Lâm tại Hoa Lư cũng mang nghĩa là vị thần trấn Đông (vì Trần là Đông A), hay thủy thần vùng ven biển Đông. Tương tự chuyện Linh Lang đánh Thục, Quý Minh chống Thục là cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân chống lại dòng Đế Lai. Quý Minh có thể chính là Lạc Long Quân hoặc người em thứ 3 cùng bọc, tức là Quan Đệ Tam Thoải phủ.

Phổ biến ở Hà Nam và Nam Định thờ vị thủy thần Câu Mang Đại Vương, cũng là một trong Ngũ phương Đế của Đạo Giáo. Ngũ đế của Đạo Giáo có thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thượng đế, Đông Hải quân. Có thể thấy thần Câu Mang hay Cao Mang tương đương với Đông Hải Quý Minh.

Còn nhiều hình thức thờ các vị Thủy thần khác ở vùng đồng bằng Nam sông Hồng bởi đây là khu vực của Thủy quốc Động Đình vào thời 4000 năm trước, khi nước sông và biển đang rút dần, mở ra vùng đầm phá, nơi con người có thể sinh sống, làm nghề đánh cá, sống lênh đênh trên sông nước. Đặc điểm chung của các thủy thần thời này là có xuất thế là Rắn hoặc Rồng, từ cùng một bọc 2, 3 hay 5 trứng, nở ra các vị tướng có công chống giặc Thục hoặc giặc Hồ, hoặc có sự tích giúp dân hộ đê hoặc cầu mưa. Không ít nơi kể chuyện ông Dài ông Cụt, khi có 1 vị thủy thần anh em đó bị mất đuôi.

Sự kiện rồng Lạc “cụt đuôi” có thể giải thích chính là trong truyện về Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử như một giai đoạn ngắt quãng của Lạc triều khi cướp công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng làm chủ một phương, rồi bay về trời. Di tích thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở Nam sông Hồng chủ yếu gần ven sông như khu vực bãi Tự Nhiên ở Thường Tín, đền Lảnh Giang ở Duy Tiên, Hà Nam và một số di tích lân cận, tới tận Ý Yên, Nam Định..

Những vị thủy thần ở vùng Nam sông Hồng có thể kể đến 5 anh em Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Xuyên, Quảng Tế, Quảng Hóa ở khu vực Duy Tiên – Cầu Giẽ – Chương Mỹ, hay Tam Lang Long Vương từ trên khu Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) xuống Vụ Bản (Nam Định), các vị thủy thần trong đình Công Đồng ở làng Tiên Lý (Bình Lục, Hà Nam), đình Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín)…

Cuộc chiến về lại đất Lạc của Thục Chúa

Dòng tộc Đế Lai di dời về phía Tây, trải qua gần ngàn năm tới thời “Hùng Vương 18” đã trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Chúa phát động một cuộc đại chiến mà các Ngọc phả về Tản Viên Sơn ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với quân Thục lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương. 

Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Thái tổ Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của dòng sơn thần theo Mẹ lên núi của người Việt.

Âu Cơ được thờ chính ở đền Hiền Lương tại Hạ Hòa, Phú Thọ, và một vài nơi khác ở miền xuôi như đền Thuận Mỹ ở Hà Nội, đình Ngọc Trục ở Đại Mỗ, Hà Tây xưa.

Cuộc chiến Âu – Lạc là nền tảng lịch sử cho việc thờ các vị Lạc tướng Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.

Trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh thì Tả kiên thần Cao Sơn còn được gọi là Nộn Nhạc Cao Sơn, là Sơn thần nên chỉ thỉnh thoảng bắt gặp một số di tích thờ ở vùng Nam sông Hồng. Làng Trung Kính Thượng tại Hà Nội thờ Hùng Nộn Công là một hình thức của Nộn Nhạc Cao Sơn Đại vương. Một số di tích ở Ninh Bình thờ Cao Sơn là Lạc tướng Vũ Lâm cũng có thể được nhận định là ở thời kỳ này.

Các vùng di tích Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.

Vùng Phong Châu gặp nhiều di tích thờ Cao Sơn và các vị tướng chống Thục hơn bởi vì nơi đây đã diễn ra cuộc đụng độ giữa dòng Hùng Vương và Thục Vương trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Ví dụ:

  • Ở Quế Nham (Đồng Quế, Sông Lô, Vĩnh Phúc) thờ 4 vị đại vương là danh tướng theo Sơn Thánh đánh Thục.
  • Ở Hương Lan (Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ) thờ 3 vị Chàng Chấu Linh Lang đại vương, là tùy tòng hầu kiệu của Duệ Vương.
  • Ở Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ) thờ Tả hữu kiên thần Cao Sơn, Quý Minh và Cương Trực tướng quân.

Sự kiện Hùng chống Thục thời Cao Sơn Đại vương  diễn ra 1000 năm sau cuộc chiến chống Thục thời Quý Minh – Linh Lang, khi đại diện của dòng Thục của Đế Lai xưa là Âu Cơ quay trở lại, đánh bại dòng Lạc từ Lạc Long Quân Sùng Lãm (Sùng cũng nghĩa là Cao nên Cao Sơn còn có tên Nguyễn Sùng), lập nên nước Văn Lang đóng đô ở Việt Trì.

GIAI ĐOẠN THỤC TRIỀU AN DƯƠNG VƯƠNG

Câu đối ở nghi môn đình Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì):
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch:
Mấy ngàn năm giúp đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.

Cuộc chiến đánh giặc Ân dựng nước Văn Lang

Lễ hội làng Phù Đổng kể Hùng Vương thứ 6 đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Dẫn đầu quân đội nhà Ân lúc này là “28 tướng cường nữ nhung” với các thủ lĩnh là Thạch Linh Thần tướng và Ma Cô Tiên (Ma Lôi), hậu phi của vua Ân. Theo Truyện Giếng Việt, Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương được truyền thuyết Việt gọi là vua Hùng đời cuối (Hùng Duệ Vương), chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng “Bách thần nguyên tự”, phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên Hùng – Thục để ngàn đời hương hỏa. 

Thục Vương còn được kể dưới tên Lang Liêu trong Truyện Bánh Chưng, chỉ thủ lĩnh của người Liêu – Lão (Ai Lao Di). Nhờ có lòng hiếu kính tổ tiên, Lang Liêu đã lên nối mệnh trời, lập cột đá ở Nghĩa Lĩnh thề trung thành với họ Hùng của Đế Minh, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ gìn đất nước. Trước đây ở Việt Trì có di tích phủ Lang Liêu ở làng Dữu Lâu, nay được được phục dựng lại. 

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể rằng Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời được cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương chính là vua Lang Liêu trong truyền thuyết. Bắt đầu từ đây xã hội Việt bước vào thời kỳ phong kiến phân quyền, hay thời kỳ “Trị bình kiến phu” (trị quốc, bình thiên hạ, kiến lập chư hầu) như chép trong Ngọc phả.

Khu vực phía Nam sông Hồng tuy không phải nơi xuất phát của Phù Đổng Thiên Vương nhưng cũng là nơi xuất tích của khá nhiều vị tướng cùng thời, theo Thánh Dóng diệt giặc Ân. Có thể kể đến anh em Minh Gia, Minh Tôn ở Hiển Khánh (Vụ Bản, Nam Định), Quan lang Hoàng Đào ở Hổ Sơn (Vụ Bản, Nam Định), 3 vị đại vương ở An Lạng (Văn Lý, Lý Nhân, Hà Nam), Cốt Tung ở Liễu Trì, Hạ Lôi, Lý Tiến ở Hà Nội…

Các vị thần nước Âu Lạc 

Trong thời kỳ dựng nước Văn Lang đã xuất hiện một số nhân thần được tôn thờ ở vùng Nam sông Hồng. Trước hết đó là Nam Hải Đại vương tức An Dương Vương, như ở Cố Đê, Vụ Bản, ở Lạc Na, Hồng Quang, Nam Trực (Nam Định) hay các nơi thờ vợ, con của An Dương Vương ở Thái Bình.

Tướng quân Cao Lỗ, người giúp An Dương Vương chế tạo nỏ thần cũng được thờ ở một số nơi tại vùng Nam sông Hồng, như ở đình Từ Châu, Liên Châu, Thanh Oai.

Vị thần khác thời kỳ Âu Lạc là Đồng Cổ Sơn thần được thờ rải rác từ Hà Nội (Nguyên Xá, Đông Xã), Nam Định (Vụ Bản) đến Thanh Hóa với sự tích về trống đồng trấn áp giặc Chiêm Hồ và hiển linh giúp vua Lý trong sự kiện Tam Vương.

Một vị nhân thần kỳ lạ đáng kể ở thời kỳ Thục An Dương Vương là Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử Lý Nhĩ Đam mà sự tích ghi quê ở Thúc Lực, Kim Chân tại Hà Nam (Kim Bảng). Thái Thượng Lão Quân được thờ ở đình Phù Vân tại Phủ Lý, chùa Bà Đanh thuộc Kim Bảng, Hà Nam, hay ở động Thiên Tôn Hoa Lư, với sự tích là đã giúp An Dương Vương trừ yêu diệt quỷ xây thành Cổ Loa hoặc chống “giặc” Xích Tị bằng phép thư phù (chữa bệnh dịch).

GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT THIÊN HẠ

Câu đối ở đình Xuân Quang tại Văn Giang, Hưng Yên:
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch:
Một lệnh dẹp không Tần, vạn dặm mở đầu dứt Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, nghìn năm gây nền vững đế vương.

Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Triệu Trọng Thủy

Truyện Rùa Vàng kể, cuối thời nhà Thục, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Hoàng thế tôn của Triệu là Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Đông Ngàn Cổ Loa của An Dương Vương. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển, chấm dứt thời kỳ tồn tại hơn 800 năm của nước Văn Lang – Âu Lạc. Từ đó bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất thiên hạ của nhà Triệu.

Sử ký Tư Mã Thiên chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương đánh bại Chu Noãn Vương năm 257 TCN, khởi đầu triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, truyền thuyết Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.

Vùng Phú Thọ có cụm di tích thờ  hai vị tướng là Hồ Thiên HươngĐinh Công Tuấn chống lại họ Triệu ở bên sông Thao.

Ở vùng phía Nam sông Hồng không có di tích thờ Trọng Thủy hoặc Mỵ Châu như vùng Cổ Loa. Tuy nhiên, có một số di tích ở vùng Hà Nam, Nam Định thờ các vị tướng của nhà Thục chống lại cuộc xâm lăng của nhà Triệu như ở đền Vĩ ở Cao Viên, Thanh Oai thờ tướng Vũ Chiêu Tâm. Ở Vụ Bản, Nam Định có các tướng của Thục là Cao ĐệTrì Chân chống lại giặc Triệu.

Về sự hiện hữu của nhà Tần trên đất Việt còn có di tích thờ Đức thánh Chèm là Lý Ông Trọng ở Ninh Sơn, Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, là nơi Lý Ông Trọng đã tử tiết.

Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Vũ Đế

Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu khắp nơi lại nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, lúc này một đình trưởng huyện Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hán Hiếu (Hảo hán).

Lịch sử Việt gọi Hiếu Cao Tổ là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), năm 206 TCN đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm các quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế. Sau khi Cao Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa lại chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) chiếm giữ vùng phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là Lữ Gia. Cuộc đối kháng 2 miền Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.

Cụm di tích thờ Triệu Vũ Đế ở Gia Viễn, Ninh Bình tại các đình Trùng Thượng, Trùng Hạ, Thần Thiệu. Một số di tích thờ Triệu Việt Vương ở Nam Định cũng có thể là thờ Triệu Vũ Đế. Đền Nhự Nương thời Hoàng hậu Trình Thị, vợ của Triệu Vũ Đế tại Nam Trực, Nam Định.

Đặc biệt là cụm di tích ở Mạo Phổ, Lương Lỗ, Thanh Ba và thị xã Lâm Thao, Phú Thọ thờ Triệu Ông Út hay Út Ngọ Lôi Mao, là Việt Tây Vương sau thời Tần. Đây chính là vua Văn Vương nhà Triệu của nước Nam Việt có kinh đô ở Phiên Ngung.

Thay cho lời kết

Các di tích tín ngưỡng dân gian ở nước ta thực sự là kho tư liệu phong phú, đa dạng, độc đáo, đặc sắc, không gì thay thế được đối với những nghiên cứu tìm về lịch sử nguồn cội của dân tộc, từ thời kỳ xa xưa nhất khi xã hội và con người Việt mới hình thành, từng bước từng bước dựng nên non sông vững bền bởi những công sức của các bậc tiền nhân mà đã hóa thành những vị thần trong lòng dân tộc. Đó là cuốn đại sử thi được viết nên từ những di sản vật thể và phi vật thể trong dân gian qua suốt chiều dài lịch sử.

Tìm hiểu, so sánh đối chiếu, tổng hợp khái quát vào kho tàng sử liệu dân gian cho phép phát hiện, nhận diện ra từ những chi tiết lịch sử đến cả tiến trình phát triển xã hội trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử thật sự của dân tộc bị khuất lấp trong lớp bụi mờ của thời gian nhưng không mất đi, mà lịch sử đó vẫn đang sống cùng với nhân dân trong từng di tích, từng sự tích, từng lễ hội ở mỗi làng quê miền xuôi cũng như miền ngược. Bảo tồn di tích, nhìn nhận lại quá khứ là sự thôi thúc đối với mỗi người dân đất Việt, để hướng đến tương lai một cách tự tin hơn, vững chắc hơn.

Trên cơ sở phân tích các thần tích, ngọc phả và đối chiếu các di tích thờ cúng các vị thần ở nước ta, thời đại Hùng Vương có thể được diễn đạt qua 4 giai đoạn như trong sơ đồ sau.

Bốn giai đoạn của thời đại Hùng Vương.

Tài liệu tham khảo

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, Thích Tâm Hiệp. NXB Lao động, 2022.

Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, NXB Lao động, 2022.

Lĩnh Nam chích quái. Trần Thế Pháp; Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận chính. Bản in của NXB Văn học, 1990.

Sự tích các vị thần linh thờ ở đền làng huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Bùi Văn Tam. NXB Khoa học xã hội, 2015.

Di sản văn hóa đình đền Mạo Phổ. Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân. NXB Lao động, 2022.

Sự tích các thành hoàng làng Thăng Long – Hà Nội. Đỗ Thị Hảo (chủ biên). NXB Chính trị quốc gia, 2020.

Hà Nội di tích và văn vật. Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội. Sở văn hóa và thông tin Hà Nội, 1994.

Thần tích thần sắc Hà Nam. Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh (chủ biên). NXB Khoa học xã hội, 2004.

Thần tích Hà Nội. Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội. Nguyễn Thị Oanh. NXB Hà Nội, 2019.

Sử ký Tư Mã Thiên. Phan Ngọc dịch. NXB Văn học, 2006.

Những cuộc chiến tranh lập quốc trong thời đại Hùng Vương

Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với các nấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới.

1. Cuộc chiến mở nước giữa Hoàng Đế và Xi Vưu (5000 năm trước)

Lịch sử Việt được bắt đầu bằng Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên… Hoa sử ghi là cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên đánh thắng Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê nhờ sự giúp đỡ của Cửu Thiên Huyền Nữ. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, sử Việt chép là Đế Minh.

Cuộc chiến lập nước Họ Hùng đầu tiên này được lưu truyền trong sự tích của Tây Thiên Quốc Mẫu ở vùng núi Tam Đảo. Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên hay Cửu Thiên Huyền Nữ là họp quân ở Đại Đình dưới chân núi Tây Thiên, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất, công Cha như núi Thái Sơn – Nghĩa Lĩnh, nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) chảy không ngừng.

Đền Hạ Tây Thiên, một trong những nơi tụ quân của Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu

2. Cuộc chiến mở đầu chế độ thị tộc phụ đạo giữa Lạc Long Quân và Đế Lai (4000 năm trước)

Thời kỳ mở đầu của họ Hùng cho tới khi Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình ở phía Đông đã hòa hợp các tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân với sự hỗ trợ của dòng bên mẹ ở Động Đình phía Đông đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng phương Bắc là Đế Lai. Truyện Họ Hồng Bàng mô tả:

Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.

Cuộc chiến khởi đầu thời kỳ lịch sử cha truyền con nối của Lạc Long Quân với dòng Đế Lai còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua cha của Thoải phủ trong Tứ phủ, tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.

Trong Truyện Hồ Tây thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây. Dòng Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là dòng Thục.

Hoa sử chép chuyện này là nhà Hạ Hậu (Hạ Khải) đã bỏ chức Tắc từ Hậu Tắc, làm cho con của Hậu Tắc là Bất Truất phải chạy vào vùng Nhung Địch. Hậu Tắc như vậy chính là Đế Lai trong truyền thuyết Việt. Ông cũng là tổ của nhà Chu sau này.

Chồng kiệu Uy Linh Lang và Lục bộ thủy phủ trong ngày hội đình Nhật Tân

3. Cuộc chiến về lại đất Lạc của dòng Âu (trên 3000 năm trước)

Dòng Đế Lai – Hậu Tắc chạy về phía Tây, tới thời Hùng Duệ Vương thì trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Vương phát động một cuộc đại chiến mà truyền thuyết Việt ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với Thục Vương lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương. 

Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Hoàng Đế, tức Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của người Việt.

Cuộc chiến này là căn cứ lịch sử cho việc thờ các vị Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.

Hoa sử chép đây là chuyện Tây Bá Hầu Cơ Xương đánh chiếm nước Sùng của Sùng Hầu Hổ nhà Ân Thương, rồi dời về lập Phong kinh. Hiền Vương Cơ Xương mất, con trai là Cơ Phát truy tôn cha là Chu Văn Vương. Do đó, đất nước lúc này có tên là Thục (Chu) Văn Lang (Văn Vương).

Ban thờ Âu Cơ ở Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ)

4. Cuộc chiến khởi lập chế độ phong tước kiến địa của Âu Lạc (khoảng 3000 năm trước)

Truyền thuyết Việt kể Hùng Vương thứ Sáu đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Cầm đầu quân đội nhà Ân lúc này là 28 tướng “nữ nhung” với tên Thạch Linh Thần tướng hay Ma Cô Tiên (Ma Lôi). Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương (Hùng Duệ Vương) chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên để ngàn đời hương hỏa. 

Thục Vương lúc này còn được gọi là Lang Liêu, tức thủ lĩnh của người Liêu – Lao (Ai Lao Di). Lang Liêu lên nối mệnh trời, lập cột đá thề trung thành với họ Hùng của Hoàng Đế Hiên Viên, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ đất nước.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể là Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương bắt đầu thời kỳ phong kiến phân quyền hay thời Trị bình kiến phu (trị quốc bình thiên hạ kiến lập chư hầu).

Hoa sử kể đây là cuộc chiến của Ninh Vương Cơ Phát nhà Chu, với Khương Thái Công Lã Vọng là Thừa tướng đã diệt Trụ Vương, lên ngôi Thiên tử của Thiên hạ, phân phong các chư hầu, đặt ra lễ chế, tín ngưỡng, hình thành Thiên hạ Trung Hoa của nhà Chu kéo dài hơn 800 năm.

Tượng thờ Ma Bà trên núi Châu Sơn

5. Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Trọng Thủy (năm 257 TCN)

Cuối thời nhà Thục của An Dương Vương, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Loa Thành Đông Ngàn của Vua. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. Thục An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển. Chấm dứt thời đại nước Văn Lang – Âu Lạc. Cũng là bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất của nhà Triệu.

Hoa sử chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương cử cháu là Tử Sở làm con tin ở nước Triệu (Châu), rồi đánh bại Chu Noãn Vương, khởi đầu Vương triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, sử Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.

Bộ Tần giản bằng đá ngọc phát hiện trên đất Việt

6. Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Đà (năm 206 TCN)

Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu đều nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Một đình trưởng đất Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm được Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả cuối cùng của cuộc phân tranh này là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hiếu. 

Lịch sử Việt gọi Lưu Bang là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm 3 quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế.

Lưu Bang mất, Lữ Hậu tiếm quyền. Sau khi Lữ Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) ở phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là họ Lữ. Cuộc đối kháng Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.

Long Hưng điện, nơi Triệu Vũ Đế thấy rồng bay trên sông Nhị

7. Khởi nghĩa Trưng nữ Vương dòng Lạc Hùng chính thống (sau năm 110 TCN)

Thần tích Việt cho biết, khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra ngay sau khi nhà Triệu nước Nam Việt ở Phiên Ngung thất thủ và Trưng Vương là dòng dõi “Lạc Hùng chính thống”. Trưng Vương khi khởi nghĩa đã lập đàn tế Tản Viên Sơn Thánh ở Hát Môn, nhưng vị thần hiện lên phù trợ lại là Lạc Long Quân. Trong các di tích thờ các tướng lĩnh của Trưng Vương cũng thường rất hay gặp những vị thần hiển linh phù giúp là Lạc Long Quân, Cao Sơn Quý Minh, Ma Cô Tiên… Tức là các vị thuộc dòng Lạc từ thời phân chia Âu – Lạc xưa. 

Bản thân ông Thi Sách được gọi là Lạc tướng Chu Diên hay Quốc vương Thiên tử Đông Hán đại vương, đều chỉ dòng Lạc ở phía Đông. Mối liên quan giữa Trưng Vương và dòng Lạc Long rất rõ. Và như thế đã ám chỉ, nhà Hiếu (Tây Hán) đối nghịch thuộc về dòng Âu xưa.

Đền Hai Bà Trưng và Đàn Thần Hiện ở Nỗ Châu (nay là Phương Châu, Việt Trì)

Tóm lại, khởi đầu từ 1 nguồn gốc Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã phân tách thành 2 dòng. Một dòng Lạc Long theo cha xuống biển phát triển về phía Đông. Một dòng Âu Thục theo mẹ lên núi phát triển về phía Tây. Những cuộc đụng độ giữa 2 dòng Rồng – Tiên, Hùng – Thục, Âu – Lạc này là đã đánh dấu mốc phát triển của xã hội Việt từ thấp đến cao, từ chế độ công xã lên thị tộc, rồi phong kiến phân quyền sang phong kiến tập quyền trung ương. 2 dòng tộc như 2 mặt Âm Dương, vừa hòa hợp, vừa đối nghịch, xoay vần mà tạo nên sự phát triển của xã hội Hoa Việt thời kỳ đầu dựng nước.

Thần tích Triệu Thị Khoan Hòa Phu nhân và 5 Tướng quân ở Thanh Lãng

 (Bản thần tích được dịch từ bản chép tay lưu ở đền Thánh mẫu tại Thanh Lãng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc)

Xem xưa Vệ Dương Vương bị thua tướng Hán là Lộ Bác Đức. Về sau con cháu lạc trong nhân dân. Phu nhân là chắt của Vệ Vương. Phu nhân lấy chồng người huyện Chu Diên (không rõ tính danh), sinh được 5 con trai. Chồng mất sớm, Phu nhân dắt các con đến lánh ở chùa Quảng Hữu xã Thanh Lãng. Được vài năm thì Phu nhân qua đời, chôn ở khu đất tại thôn Minh Lương.

Khi ấy năm người con trai đã lớn, lại có nhiều tài sức, đã hội cùng Trưng Vương khởi binh. Năm chàng trai là người bản huyện cầm đầu quân kỳ. Trưng Vương đều sai đem quân chia thành các đạo cùng đánh tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long. Mỗi trận đều thắng. Quân của Trưng Vương lại bị nhiều thương tật. Chàng Cả lấy lòng vàng trứng ngỗng điều chế thành thuốc chữa. Quân binh lại được mạnh khỏe. Nhân đó phong Chàng Cả (húy 2 chữ) làm Hoàng Dược Nghĩa Dũng Tướng quân.

Đồng thời phong Chàng Hai (húy 2 chữ) làm Nhung Vụ Tướng quân, Chàng Ba (húy 2 chữ) làm Đốc Vận Hướng Mễ Tướng quân, Chàng Bốn (húy 2 chữ) làm Tướng quân, Chàng Năm (húy 2 chữ) làm Tướng quân. Tặng cho mẹ là Triệu Thị Khoan Hoà Phu nhân.

Đến khi Mã Viện đem quân đến, cuộc chiến của Trưng Vương bất lợi, tự thấy thế cùng, không chịu khuất nhục. Năm tướng quân trong đêm chôn cất Trưng Vương ở núi Hy Sơn, rồi dẫn quân vừa đánh

Vừa lui, quay về đến thôn Minh Lương chỗ mộ của Phu nhân, đều cùng bái khóc khấn rằng:

–          Nếu mẹ có linh xin dẫn các con tìm gặp Trưng Vương ở dưới đất. Lại xin lấy cái chết để không phụ chí chống giặc phương Bắc.

Dứt lời cùng rút kiếm tự vẫn, hiển linh ở đó. Xã thôn lập đền thờ phụng, có cầu tất ứng.

Trần Nhân Tông khi thân chinh dẫn đại quân thảo phạt tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, đêm ấy Nhân Tông nằm mộng thấy thần nhân

một mẹ năm con, xưng là cháu vua. Con xưng là tướng của Trưng Vương, hiện ở ba xã của Yên lãng, xin được giúp nước dẹp giặc phương Bắc để rửa hận trước đây. Đến khi tới sông Bạch Đằng, đại phá quân Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi, Phần Ấp. Khải hoàn trở về hỏi lại, dân xã tấu thấy sự việc hợp đúng như mộng. Bèn đều gia phong là Thượng đẳng thần.

Trải qua các triều đại tặng mĩ tự Triệu Thị Khoan Hòa Phu nhân, Yên Lãng và Minh Lương thờ phụng (Vị này chỉ có dân thôn phụng thờ nên trước khai là Khoan Hòa thần, ba xã Yên Lãng, Xuân Lãng, Hợp Lễ cùng thờ, có nhiều sai lệch, nay xin theo như thực mà cải chính).

Hoàng Dược Nghĩa Dũng Tướng quân (trước khai là Thành hoàng Hộ quốc chi thần, nay theo thực mà cải chính), Yên Lãng thờ phụng.

Đốc Vận Hướng Mễ Tướng quân (trước khai là Thành hoàng Hùng lược chi thần, nay theo thực mà cải chính), Xuân Lãng phụng tự

Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), Hợp Lễ phụng thờ.

Nhung Vụ Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), ba xã cùng thôn Minh Lương phụng thờ.

Tướng quân (nguyên khai thần húy 2 chữ, nay theo thực mà cải chính), Yên Lãng phụng thờ./.

Bình luận:

Bản thần tích này có chỗ ghi là do xã Hợp Lễ chép, có một số điểm khác với thần tích của xã Thanh Lãng. Đặc biệt là đoạn đầu nói về nguồn gốc của Thánh mẫu. Trong ngọc phả Thanh Lãng nói Thánh mẫu là  “dòng vua Thục An Dương Vương lấy cháu sáu đời vua Triệu Vũ Đế là vua Vệ Dương Vương“. Sau đó khi ẩn náu ở chùa Quảng Hữu, cảm với Áp thần bản thổ mà sinh ra năm con.

Trong khi đó thần tích của Hợp Lễ lại chép: Xem xưa Vệ Dương Vương bị thua tướng Hán là Lộ Bác Đức. Về sau con cháu lạc trong nhân dân. Phu nhân là chắt của Vệ Vương. Phu nhân lấy chồng người huyện Chu Diên (không rõ tính danh), sinh được 5 con trai. Chồng mất sớm, Phu nhân dắt các con đến lánh ở chùa Quảng Hữu xã Thanh Lãng.   

Thần tích của Hợp Lễ có lẽ đã muốn “cải chính” chỗ “vô lý” trong sự tích về Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa, vì nếu Thánh mẫu là vợ của vua Triệu Vệ Dương Vương thì:

1. Hóa ra khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra ngay sau khi nhà Triệu mất nước, tức là dưới thời Tây Hán, chứ không phải Đông Hán như sử sách đang chép.

2. Thánh mẫu họ Triệu, tại sao lại còn lấy vua Triệu?

Thực ra ngọc phả của Thanh Lãng mới là gốc và hoàn toàn đúng. Khởi nghĩa của Trưng Vương thực sự đã nổ ra ngay sau khi nhà Triệu mất nước, và bởi chính các hoàng phi nước Nam Việt lãnh đạo. Còn điểm thứ hai, Thánh mẫu mang họ Triệu bởi vì… Thục An Dương Vương mang họ Triệu. Kết hợp 2 thần tích trên thì thấy rõ, Triệu Thị Khoan Hòa là chắt của… An Dương Vương đời cuối, lưu lạc trong dân gian, rồi lấy vua Vệ Dương Vương. Vệ Dương Vương vốn không phải là họ Triệu, mà chỉ có tên triều đại là Triệu mà thôi.

An Dương Vương đời cuối mang họ Triệu thì không gì khác chính là nhà Tần. Tổ của nhà Tần là Tạo Phụ, đánh xe cho Chu Mục Vương rồi được phong ở Triệu thành, nhân đó lấy Triệu làm họ. Khi Tần Thủy Hoàng mất, Triệu Cao cùng với công tử Hồ Hợi giả truyền thánh chỉ, đoạt ngôi Hoàng đế, rồi cho giết tất cả các hoàng tử và công chúa của Tần Thủy Hoàng. Tuy nhiên, có thể trong số con cái của Thủy Hoàng vẫn còn người sống, nhất là vị Bạch Tĩnh công chúa, người đã được gả cho Lý Thân ở vùng Bắc Việt ngày nay.

Ngoài ra, dòng họ Triệu của nhà Tần còn chưa tận khi đó, vì sau Tần Nhị Thế còn có Tử Anh là một dòng dõi của nhà Ngoài ra, dòng họ Triệu của nhà Tần còn chưa tận khi đó, vì sau Tần Nhị Thế còn có Tử Anh là một con cháu của Tần lên ngôi. Khi Lưu Bang chiếm được Quan Trung, Hạng Vũ vào cung Tần diệt hết con cháu của nhà Tần, nhưng chắc chắn sẽ vẫn còn dòng dõi của Tần lưu lạc trong dân gian, nhất là ở khu vực phương Nam, vốn nằm ngoài sự kiểm soát của Hạng Vũ…

Những thẻ ngọc quân lệnh của Trọng Thủy (phần 2)

Trong bài trước đã trình bày về phát hiện các thẻ ngọc thời Tần ở vùng Sóc Sơn – Mê Linh mang các chữ tiểu triện cổ. Bài trước cũng đã điểm qua quan hệ của nước Tần với vua Chu ở miền đất Bắc Việt và đưa ra nhận định, những chiếc thẻ ngọc này thuộc về đời Tần Trang Tương Vương, là vị Tần Vương đã chiếm Bắc Việt và chấm dứt triều đại nước Văn Lang của thiên tử Chu tại đây. Bài này tiếp tục đi sâu phân tích ý nghĩa của những dòng chữ khắc trên những lệnh bài thời Tần này.

Tấm thẻ lệnh mang dòng chữ Đồ báo nhi thuyết, nhắc tới chuyện đời Tần Mục Công được các binh sĩ dốc lòng ra sức chiến đấu bảo vệ Mục Công để đền ơn ban rượu và thịt ngựa. Tần Mục Công là vị thủ lĩnh nước Tần nổi lên trong số Xuân Thu Ngũ bá với sự phò trợ của tướng quốc Bách Lý Hề. Đồ báo nhi thuyết trên lênh bài có thể hiểu là khẩu hiện cho các chiến sĩ nước Tần chiến đấu để đền báo ơn vua.

Đồ báo nhi thuyết

Tấm thẻ lệnh có chữ Tín lễ Tần Vương chi chủ và mặt sau có 3 dòng chữ:

Giáp Ngọ trung hưng

Hành tẩu biến địa

Chúng sinh bình đẳng,

Đây là nói đến mốc nước Tần xưng Vương, ngang với Thiên tử Chu, xảy ra vào đời Tần Huệ Văn Vương năm Giáp Ngọ 325 TCN. Đây cũng là lúc mà Tần trở thành một trong những nước mạnh nhất của thời Chiến Quốc Thất hùng. Với sự phò trợ của tướng quốc là Trương Nghi, nước Tần lúc này bắt đầu các cuộc Đông chinh, Tây phạt đúng với phương châm “Hành tẩu biến địa” trên ngọc giản.

Điều đặc biệt nữa là ngọc giản này nêu câu khẩu hiệu “Chúng sinh bình đẳng“, một tư tưởng rất tiến bộ ở thời phong kiến. Tư tưởng này bắt nguồn từ quan niệm của phái Pháp gia: Trước pháp luật mọi người đều bình đẳng. Người có tội sẽ bị xử phạt. Người có công sẽ được ban thưởng. Không phân biệt là công tộc hay thứ dân, nô lệ. 

Tư tưởng của Pháp gia được Thương Ưởng bắt đầu thực hành tại nước Tần dưới thời Tần Hiếu Công và nó trở thành động lực rất lớn cho nước Tần và quân Tần hùng mạnh. Phương châm “Chúng sinh bình đẳng” ở trên lệnh bài hàm nghĩa các quân sĩ chiến đấu hy sinh vì nước Tần, vì Tần Vương thì sẽ được báo đáp đầy đủ và công bằng.

Tấm thẻ ngọc thứ ba bằng chất liệu đá thạch anh, được sơn màu đen. Khác với những thẻ ngọc cẩm thạch và ngọc bính, thẻ ngọc thạch anh lại có đục lỗ ở phía dưới của các chữ. Trên đó một mặt có 2 dòng chữ:

Xuất kỳ bất dụng

Bảo vệ binh hoang.

Như đã bàn ở bài trước, những tấm thẻ ngọc này thuộc về đời Tần Trang Tương Vương, tức cũng là Trọng Thủy trong truyền thuyết Việt. Nhà Tần lúc này đã diệt Chu thiên tử, lấy màu Đen, phương Bắc (nay), hành Thủy làm biểu tượng. Có thể vì vậy mà tấm thẻ đã được sơn màu đen.

Trong câu “khẩu quyết” Xuất kỳ bất dụng thì chữ “dụng” ở đây dùng với nghĩa cổ là dụng ý, ý định, nên câu đó tương đương trong ngôn ngữ ngày nay là Xuất kỳ bất ý, nghĩa là xuất binh bất ngờ. Khi liên hệ với câu chuyện của Trọng Thủy thì chợt nhận ra đây là chỉ sự việc Trọng Thủy đã đánh lừa An Dương Vương (cưới Mỵ Châu và đánh tráo lẫy nỏ thần) trong truyền thuyết Việt. Sau khi đã lừa được An Dương Vương (Chu Noãn Vương), Trọng Thủy (Tần Trang Tương Vương) cùng với tiên tổ là Tần Chiêu Tương Vương (Triệu Đà) đã xuất quân bất ngờ tấn công nhà Đông Chu, chấm dứt hơn 800 tồn tại của triều đại nhà Chu. Mưu mô này giúp Tần đạt được mục đích với sự tiêu hao binh lực thấp nhất (Bảo vệ binh hoang) cho việc thay đổi triều đại từ Chu sang Tần.

Mặt sau của tấm thẻ đen còn có 4 chữ, được đọc là Song thương? thọ phúc 雙 商 壽 福. Mặt này của ngọc giản được trang trí khá cầu kỳ bởi một hình rồng và một hình chim phượng lớn. Các chữ viết ở dạng cách điệu như cầu chúc. 

Tần Trang Tương Vương cầu thọ phúc cho 2 bên nào? Rất có thể nghĩa ở đây là đảm bảo sự lâu bền cho cả 2 bên Tần và Chu. Sau khi diệt Chu, Tần Vương không bạc đãi hay tận diệt con cháu vua Chu, mà vẫn ban cho Đông Chu Quân một vùng đất để thờ cúng. Lý do chính cho hành động này là 2 họ nước Chu và Tần vốn có quan hệ sâu xa.

Sử ký Tư Mã Thiên, Tần bản kỷ chép: Thái sử công bàn rằng: Tổ tiên của nhà Tần mang họ Doanh, về sau được phân phong, lấy nước làm họ… Song Tần vì tổ tiên là Tạo Phụ được phong ở Triệu thành nên mang họ Triệu.

Như vậy nhà Tần còn vốn mang họ Triệu. Tần Trang Tương Vương diệt Chu dưới thời thừa tướng Lã Bất Vi, với câu chuyện “buôn vua” nổi tiếng ở nước Triệu. Thực ra chuyện Tử Sở ở rể là ở đất Đông Chu, trong truyền thuyết về Trọng Thủy ở Việt Nam.Chính vì mối lương duyên sâu sắc của 2 bên Triệu Trọng Thủy và Thục Mỵ Châu mà Tần Trang Tương Vương khi xuất binh dù là đánh úp, nhưng vẫn muốn bảo vệ thọ phúc cho nhà Chu.

Còn một liên hệ nữa, là chuyện của Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Thanh Lãng (Bình Xuyên, Phú Thọ). Bà Khoan Hòa là vợ của vua Vệ Dương Vương nước Nam Việt nhưng được ngọc phả ghi là “dòng dõi của Thục An Dương Vương”. Dòng dõi Thục Vương lại là họ Triệu (Triệu Thị) thì phải là dòng dõi nhà Tần. 

Bà Triệu Thị Khoan Hòa sau đó có 5 người con tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương Ả Lã. Rất có thể họ Lã của Trưng Vương vốn cũng bắt đầu từ Tần tướng Lã Bất Vi thời Trọng Thủy, truyền qua thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt. Bản thân danh xưng nhà Triệu đối lập với nhà Hiếu (Tây Hán) cũng có ý muốn nhấn mạnh rằng nước Nam Việt là nối tiếp dòng đế vương của nhà Tần?Chiếc “móng rồng” của họ Tần Triệuliệu có phải đã được truyền cho nước Nam Việt của Triệu Quang Phục?

Ban thờ ngũ vị đại vương ở đền Thánh mẫu Thanh Lãng

Câu đối ở ban thờ 5 vị tướng ở Thanh Lãng, là các “đế tử” họ Triệu, con của bà Khoan Hòa:
徵氏多忠臣母之教也
蜀王有後裔神其盛乎
Trưng thị đa trung thần, mẫu chi giáo dã
Thục vương hữu hậu duệ, thần kỳ thịnh hồ.

Dịch nghĩa:
Họ Trưng nhiều trung thần, do mẫu dạy dỗ
Vua Thục có hậu duệ, thịnh thay ý thần.

Theo Phụ quốc Đại thần Đỗ Tế Công phu phụ Ngọc phả ở làng Mỹ Giang, nay là xã Tam Hiệp, Phúc Thọ, Hà Nội thì cha của Trưng Vương là Lạc tướng Phong Châu dòng dõi Hùng Định Vương. Hùng Định Vương đã được xác định chính là triều đại nhà Tần trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả, nên nhận định rằng Trưng Vương (hay một số tướng lĩnh thân cận của bà) là dòng dõi của nhà Tần lại càng trở nên khả tín.

Những tấm thẻ ngọc của Tần Vương trên đất Việt mang những thông điệp của đội quân Tần hùng mạnh hơn 2000 năm trước, từ việc Đền báo ơn vua, Trung hưng vương đạo, Mở rộng lãnh thổ, Thưởng phạt bình đẳng, Dùng mưu bất ngờ, Bảo vệ binh lực, Giữ gìn thọ phúc, là bằng chứng hiển hiện cho câu chuyện Trọng Thủy – Mỵ Châu, cũng như mối tương quan của nhà Triệu Nam Việt và khởi nghĩa của Trưng Vương với dòng dõi nhà Tần.

Ngọc phả về đức Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Xuân Lãng

Ngọc phả được ghi trong bản khai thần tích thần sắc năm 1938 của Thôn Miêng Lương, làng Yên Lan, tổng Xuân Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên. 

Chùa Quảng Hựu (Thanh Lãng)

Hiệu ngài là Quốc mẫu Hoàng hậu Công chúa, húy là Khoan Hòa, tên gọi thường là đức Quốc mẫu.

Ngài là: Thiên thần.

Ngài vốn là dòng dõi vua Thục An Dương Vương, ngày sinh không biết, ngày hóa là ngày 11 tháng 11. Ngài hiển thánh về đời vua Trần Nhân Tôn và vua Trần Dụ Tôn.

Sự tích hiện có sách ngọc phả. Sách ngọc phả ấy từ Hồng Phúc nguyên niên, mạnh hạ cát nhật, Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn. Đến Cảnh Hưng nhị thập ngũ niên, trọng xuân cát nhật Quản giám Bách thần Tri điện Hùng Lĩnh Bá thần tái nguyên bản phụng tả.

Cứ theo trong ngọc phả sao diễn ra rằng:

Ngài vốn là dòng vua Thục An Dương Vương lấy cháu sáu đời vua Triệu Vũ Đế là vua Vệ Dương Vương. Nhưng gặp thời nhà Triệu thất quốc, bên Hán sai tướng là Lộ Bác Đức với Dương Bộc hai tướng đem quân sang đánh nhà Triệu, bắt sống vua Vệ Dương Vương về Hán. Nghe ngài là người nhan sắc phương phi, nhân gian tuyệt phẩm, lại sai quân muốn bắt đem về. Nhưng ngài lánh đi được, đến huyện Chu Diên, xã Thanh Lãng (tức là xã Yên lan, chùa Quảng Hựu). 

Ngài trú ở chùa ấy, nhưng nghĩ rằng phải lúc nhà vua mất nước, không lòng cấm tịch phong lưu, lâu đài phú quí mới cắt tóc làm người ni, dốc lòng niệm Phật, thú vị thiền lâm. Được một hai năm thanh nhàn tự tại, gặp lúc trời quang trăng sáng ra đón mát ở cửa gác chuông, rồi ra tắm mát ở cái giếng phía Đông chùa ấy. Khi về nằm nghỉ, đến nửa đêm mộng có một thần nhân, đầu đội mũ lông, mình mặc án hoa từ trên trời sa xuống đứng trước mặt ngài bảo rằng:

– Người là Hoàng vương hậu phu. Tôi là Áp thần bản thổ. Sao bây giờ mới biết nhau.

Ngài chợt tỉnh dậy mới biết rằng thần nhân lại hiếp. Trong lòng có khác. Đầy kỳ sinh được một bọc năm trứng, tục gọi là nhất bào ngũ noãn. Càng ngày càng lớn. Hương nhân lấy làm điềm lạ, được 90 ngày sinh hóa được 5 vị con giai. Ngài nhân lấy làm y như mộng trung sơ kiến mới đặt tên năm ông là Áp Lương. Kịp đến khi năm ông trưởng thành, tài sức hơn người, văn hay võ mạnh, có chí phù vương giúp nước. Nhưng đến bấy giờ là ngày mồng mười tháng mười một năm ấy, ngài tuổi 60. Ngài mất ở chính tẩm chùa ấy.

Năm ông con cùng người làng mấy đạo trang đem nghinh táng ngài ở xứ gò Minh Lương. Ba năm xong trở, gặp thời vua Đông Hán sai Tô Định sang làm Thái thú bên này. Tô Định là người tham tàn bạo ngược, giết hại nhân dân, các nơi dứt khổ. Bà Trưng phu nhân là người huyện Mê Linh, thực là nữ trung anh kiệt, quyết đoán sự cơ, tài nghề vũ dũng, muốn đem lại giang sơn nước nhà, thu được nữ tốt hai ba nghìn người, nhưng chưa tìm được người đàn ông thao lược ninh cơ. 

Bấy giờ năm vị con đức Thánh mẫu chúng con, cùng nhau họp tập được tướng tài quân sĩ hơn nghìn người ra yết kiến bà Trưng ở cửa sông Hát Giang. Bà Trưng trông thấy năm người đều là anh hùng kiêu dũng, nan đệ nan huynh, gươm đòng sáng quắc, quân mạnh tướng bền. Bà Trưng lấy làm mừng rõ, có thể giúp ta lấy lại được giang sơn. Nhân đặt yến đại hội thết đãi năm ông cùng quân sĩ. Hỏi rõ họ tên năm ông, bấy giờ mới phong một ông làm Triều Đình Áp Lương tướng quân. Một ông phong làm Giám Sát Nhung Vụ tướng quân. Một ông phong làm Điều Lương tướng quân chuyên vận xướng mễ. Một ông phong làm Cương Đoán tướng quân, hướng tiền đại lộ. 

Phong tước xong rồi, bấy giờ Bà Trưng mới di hịch cho các quận huyện châu trang động sách, kịp quan lang phụ đạo đều đem quân đến thề, cùng cố sức cần vương, đồng tâm báo quốc, dẹp yên Tô tặc, đều hưởng giàu sang.

Trong một tháng Bà Trưng thu được năm sáu vạn người, binh uy cả nước. Đánh được quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố các quận. Bà Trưng lại sai năm ông đem quân thủy lục đều tiến, thuyền kỵ song hành, đến thành Tô Định đánh nhau với giặc hơn mười trận, được thua chưa quyết. Các quân sĩ không quen thủy thổ chẳng chịu sương hàn. Nhiều người phải bệnh sâu sương. Quân không đi đánh được.

Áp Lương tướng quân bắt tìm lấy trứng chim vịt để làm thuốc, nhưng lấy toàn lòng đỏ đổ cho quân sĩ. Vì thế quân sĩ được khỏi cả. Trong quân reo sướng gọi Triều Đình Áp Lương là Nga Hoàng Đại vương. Quân sĩ gắng mạnh, một người địch được trăm người, đánh một trận Tô tặc cả thua, chết không biết bao nhiêu mà kể. Đuổi được Tô Định về Tàu đem lại Lĩnh Nam hơn 60 thành.

Bà Trưng mới lên ngôi làm vua, phong cho em là bà Trưng Nhị làm Bình Khôi công chúa. Bà Trưng lấy năm ông làm thủy ứng nghĩa kỳ, có công lao lớn. Nhân ngày trước cùng trong quân sở xưng gia ban cho năm ông đều được Đại vương hai chữ, đều có phong ấp truy tặng cho đức Quốc mẫu là Quốc mẫu Hoàng hậu Công chúa. Còn các tướng tá trở xuống đều được hành thưởng.

Vừa thời ấy gội tắm đức vua, đượm nhuần ơn thánh. Mới được ba năm, vua nhà Đông Hán lại sai Mã Viện, Lưu Long hai tướng đem 30 vạn quân sang đánh vào thành Lạng Sơn. Hơn 1 năm được thua chưa quyết. Bà Trưng nấp quân ở sông Tam Kỳ đánh lại không được. Bên Hán quân sĩ mạnh, thịnh thế không chống nổi, lui giữ ở Cấm Khê. Chẳng may quân sĩ vỡ tan. Hai Bà Trưng thế cô chết ở trong trận. Năm ông ở trong trùng vi đánh phá đem được thánh thể Hai Bà Trưng về chôn ở núi Hi Sơn, rồi lại đánh quân Hán chém được hơn hai trăm người, vừa đánh vừa chạy.

Tướng Hán thấy năm ông là người anh hùng kiêu dũng, muốn bắt sống đem về, truyền trong quân không được bắn tên vì có thế năm ông được thoát đến đêm chạy về đến bản ấp. Quân Hán theo ríp năm ông tiến lui đều khó, chạy ra xứ Cổ Rùa gần lăng đức Quốc mẫu, liệu không chống được, năm ông đều khấn rằng:

– Hoàng Thiên soi xét, chết rồi có thiêng được gặp Bà Trưng ở dưới Hoàng tuyền để giả cái ơn tri ngộ.

Đương ngày ấy là ngày 10 tháng 5. Khấn xong năm ông đều tự tận. Đến ngay mai mối đắp thành gò. Hương dân sửa lễ cúng tế. Được một hai tháng gà gáy chó cắn, nhân vật không được yên, mới dựng đền để thờ.

Rồi đến đời vua Trần Nhân Tôn, nhà Nguyên sai tướng Ô Mã Nhi đem quân sang đánh. Vua Trần cùng Hưng Quốc Công tự tướng đem quân đi đánh giặc Nguyên. Đi qua đền Quốc mẫu dừng quân ở đây, trông thấy có bốn chữ Quốc mẫu Triều Đình, đòi hương nhân ra hỏi. Hương nhân đều lấy thực tâu. Vua Trần khấn rằng:

– Nhất môn mẫu tự vạn cổ anh thanh. Tôn thần có thiêng giúp ta dẹp được giặc Nguyên. Dẹp yên rồi là sẽ trọng thưởng gia phong.

Đêm hôm ấy vua Trần mộng thấy một mẹ năm con bái yết tâu rằng:

– Chúng tôi là thành hoàng bản xứ. Xin âm phù để đánh giặc Nguyên, giả ơn triều đình, rửa giận ngày trước.

Rồi vua Trần tiến quân đến sông Bạch Đằng đánh giặc Nguyên. Giặc Nguyên cả thua. Vua Trần kính làm sách mệnh sắc phong là phúc thần. Cấp thêm cho ngân tiền bảo hương nhân sửa sang chốn đền thờ cho nghiêm cẩn.

Rồi đến đời vua Trần Dụ Tôn giời nắng không mưa. Vua Trần Dụ Tôn đi tuần thú bốn phương đi qua đền đức Quốc mẫu trông thấy miếu vũ nguy nga uy dung nghiễm nhược, mệnh Uy Tĩnh Thiền sư vào mật đảo, được một phút giời cả mưa to. Vua Trần mệnh đem bạch mễ thanh tiền tế tạ. Rồi thấy gạo trắng hóa làm gạo đen. Vua Trần lấy làm linh ứng, đều y tôn hiệu trước gia ban là Thượng đẳng phúc thần, cúng tế muôn đời, hương nhân dựng đền thờ cúng mãi mãi sau này.

Từ thần tích làng Yên Phú bàn về khởi nghĩa Trưng Vương thời Tây Hán và các vị thủy thần dòng Lạc Long Quân ven sông Hồng

Bài tham luận trình bày tại hội thảo “Sư bà Phương Dung với đạo pháp và dân tộc” do Viện nghiên cứu tôn giáo tổ chức tại Hà Nội ngày 7/4/2021.

Làng Yên Phú, xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội còn lưu giữ được một bản thần tích có nhan đề là: Phả chép về Một vị âm thần Thái hậu, Hai vị dương thần Đại vương triều Trưng Nữ Vương

Thần tích Yên Phú được Hàn lâm lễ viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn dưới thời nhà Lê, niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (1572). Cuốn thần phả hiện lưu giữ tại chùa Yên Phú là bản chép tay trên giấy dó, được viết bởi một vị đạo sĩ trong xã vào năm Thánh Thái thứ 17 (1906), ghi theo bản chính lưu của bộ Lại nhà Lê năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740), chỉ sửa có 7 chữ.

Nghiên cứu kỹ lưỡng bản thần phả này và đối chiếu với các di tích, sự tích còn truyền tụng cho phép thu nhận thêm nhiều thông tin, đặc biệt về diễn biến lịch sử và văn hóa nước ta thời kỳ những năm trước Công nguyên. Bài viết sau tập trung tham luận về hai vấn đề: 

– Thứ nhất là thời điểm, thân thế và vai trò của Bà Phương Dung trước và trong cuộc khởi nghĩa Trưng Vương từ thần tích địa phương trong liên hệ với các thần tích nơi khác cùng thời. 

– Thứ hai là 2 vị thủy thần xuất thế Trung Vũ và Đài Liệu là những vị thần đã được thờ phụng tại khu vực Thanh Trì từ trước trong mối liên hệ với tín ngưỡng Thủy thần Lạc Long Quân của cả khu vực, mà cụ thể là dọc sông Hồng nơi đất Thăng Long xưa. 

I.    SƯ BÀ PHƯƠNG DUNG VÀ KHỞI NGHĨA TRƯNG VƯƠNG

Thời điểm của khởi nghĩa Trưng Vương qua thần tích ở Yên Phú

Thần tích làng Yên Phú chép về một vị thần nữ (âm thần) là bà Phương Dung, quê ở đạo Sơn Nam Hạ, năm 16 tuổi đã xuất gia đi tu cửa Phật tại chùa Thanh Vân, thuộc đất làng Yên Phú ngày nay. Khi Trưng Nữ Vương phất cờ khởi nghĩa, sư bà Phương Dung cùng 2 người con nuôi đã theo Trưng Vương làm tướng, đánh đuổi Tô Định, lập công trạng lớn.

Khám tượng thờ Hoàng bà Phương Dung tại đình Yên Phú

Thần tích Yên Phú ghi: Thời đó, có người Tô Định đem binh đến cõi, xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương không người cứu giúp. Đến khi có người cháu gái họ Hùng trước đây, tên là Trắc, vốn bậc hào kiệt trong giới nữ, là bậc đại thánh thần trên trần thế, dậy khởi oai hùng, dẫn binh đến đánh.

Đây là một thông tin hết sức lạ vì theo chính sử hiện nay, Trưng Vương khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định vào năm 40 sau Công nguyên, dưới thời nhà Đông Hán. Còn thần tích ở Yên Phú lại kể Tô Định đem quân đến xâm chiếm nước Nam Việt của họ Triệu và Trưng Nữ Vương là dòng dõi các vua Hùng, đánh giặc Tô Định vào lúc này. Vị vua cuối cùng của nhà Triệu là Vệ Dương Vương, mất nước vào tay nhà Tây Hán năm 111 trước Công nguyên (TCN). Như thế thông tin của thần tích Yên Phú so với chính sử chênh lệch nhau tới 150 năm cho thời điểm của cuộc khởi nghĩa Trưng Vương.

Thần tích của Yên Phú không phải là trường hợp duy nhất nói về khả năng khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra dưới thời Tây Hán. Một di tích được ghi nhận là nơi Trưng Vương chiêu quân tụ nghĩa là chùa Bối Linh ở làng Lâu Thượng, nay là xã Trưng Vương của thành phố Việt Trì. Bản Lâu Thượng thần tích ngọc phả cổ truyền chép:

Triệu Đà được quốc gia mà lên ngôi, cha truyền con nối được 5 đời thánh vương, trước sau cộng 149 năm. Tới khi Vệ Dương Vương nối truyền chính thống, ở ngôi được 1 năm thì có Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Trăm họ điêu tàng, không người cứu giúp. Lúc bấy giờ có hai người cháu gái (thuộc chi trưởng đời thứ 24 của nhà Hùng), nàng cả là Ả Nương Công chúa, nàng hai là Bình Khôi Công chúa. Nàng cả húy là Trắc, nàng hai húy là Trong…

Còn cuốn ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh có tên Tản Lĩnh ngọc ký ở sách Tang Ma (Thanh Thủy, Phú Thọ) cũng có đoạn tương tự: [Triệu] Đà được quốc gia mà lên ngôi vào năm Bính Ngọ. Cha truyền con nối được 5 đời thánh vương. Trước sau cộng 149 năm. Tới khi Vệ Dương Vương nối truyền chính thống, ở ngôi được 1 năm thì có Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu sớm bại vong, không người cứu giúp. Cho tới khi có người chắt gái của Hùng Vương tên Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, bậc thánh thần trên trần thế, dấy nổi oai hùng, cất quân đến đánh.

Cũng như thần tích ở Yên Phú, ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh cho một thông tin tưởng chừng như không đúng: Trưng nữ, cháu gái cuar vua Hùng, khởi nghĩa ngay sau khi nhà Triệu nước Nam Việt bị diệt. Tuy nhiên, khi xem xét đầy đủ các di tích và ghi chép về cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương thì thấy đây là một thông tin hết sức mới nhưng trung thực và chính xác.

Tóm tắt các sự kiện lịch sử nước ta thời kỳ Công nguyên như sau. Hùng Vương lập nước Văn Lang truyền quốc tới thời Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Phán, hoặc bị quân Tần tấn công Lĩnh Nam chiếm đất nước. Một thời gian ngắn sau đó Triệu Đà, người Chân Định, nổi lên, đánh thắng vua Thục và quân Tần, lập ra nước Nam Việt. 

Nam Việt nhà Triệu truyền ngôi 5 đời đến Vệ Dương Vương lên kế vị mới được 1 năm thì nhà Tây Hán cử Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức tấn công. Kinh đô Phiên Ngung thất thủ. Thừa tướng Lữ Gia đưa vua Vệ Dương Vương và cả hoàng tộc lên thuyền chạy về phía Tây. Lữ Gia tử nạn ở cửa biển thuộc đất Nam Định, hoặc chạy về đến vùng Trúc Viên (Sài Sơn) thì thất thủ. Nhà Triệu diệt vong, không người cứu giúp từ đó. Đó là năm 111 TCN.

Sử cũng chép tiếp rằng, ở vùng đất Phong Châu lúc này nổ ra một cuộc khởi nghĩa quy mô lớn, do một thủ lĩnh gọi là Tây Vu Vương cầm đầu, chống lại quân đội của Tây Hán. Tây Vu Vương ban đầu rõ ràng đã khởi nghĩa thành công, xưng là Vương vùng đất Tây Vu, đóng đô thành ở Cổ Loa. Khởi nghĩa Tây Vu Vương sau vài năm thì bị dập tắt. Nhà Tây Hán lấy đất Nam Việt cũ chia thành 9 quận, 7 quận trong đó sau lập thành Giao Châu. Thạch Đái, Nhâm Diên, Tích Quang, Đặng Nhượng là những thái thú, thứ sử Giao Châu đầu tiên được sử sách nhắc tới, với công đức tốt đẹp là giáo hóa nhân dân, truyền bá chữ viết.

Năm 9 sau Công nguyên, Tây Hán bị một ngoại thích là Vương Mãng soán ngôi, đổi thành nhà Tân. Các thái thú và thứ sử Giao Châu vẫn tiếp tục làm quan cho Vương Mãng. Khi Đông Hán là Lưu Tú diệt nhà Tân, chiếm Giao Châu thì từ đó chế độ cai trị của Hán Quang Vũ ở Giao Châu trở nên vô cùng hà khắc. Từ đó dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40. 

Điểm lại suốt các sự kiện của thời kỳ này thì rõ ràng thấy, cuộc khởi nghĩa do con cháu Hùng Vương dấy lên ngay sau khi nhà Triệu Nam Việt mất thì phải là khởi nghĩa của Tây Vu Vương. Chính sử có rất ít ghi chép về Tây Vu Vương, nhưng các thần tích đã có thể bổ sung nhiều thông tin cho cuộc khởi nghĩa này khi nhận ra khởi nghĩa của Trưng Vương được chép là thông tin về khởi nghĩa của Tây Vu Vương thời Tây Hán trước Tây lịch.

Tại xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) có tục thờ Thánh Mẫu và năm anh em chàng Vịt. Câu chuyện này tóm tắt như sau. Bà Triệu Thị Khoan Hòa là vợ của Triệu Vệ Dương Vương, chạy lánh nạn về ở chùa Quảng Hựu tại Thanh Lãng. Một đêm bà nằm mơ thấy một người kỳ dị, sau đó sinh được 5 quả trứng, nở ra 5 anh em trai có tài bơi lội, nên gọi là 5 chàng Vịt. Các chàng trai này lớn lên đầu quân cho Trưng Vương, tham gia đánh trận trên sông Nguyệt Đức, phá Tô Định. Khi Nhị Trưng Vương hy sinh, 5 anh em chàng Vịt đã xông pha đem được thi hài của các nữ vương về táng ở Hy Cương.

Đền Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Thanh Lãng

Câu đối ở đền Thánh Mẫu tại Thanh Lãng:

青朗寺生神北同簡狄南同粤
白藤江破賊母為陽王子為徵

Thanh Lãng tự sinh thần, Bắc đồng Giản Địch Nam đồng Việt
Bạch Đằng giang phá tặc, mẫu vị Dương Vương tử vị Trưng.

Dịch:

Chùa Thanh Lãng sinh thần, Bắc tựa Giản Địch, Nam tựa Việt
Sông Bạch Đằng phá giặc, mẹ vì Dương Vương, con vì Trưng.

Giản Địch là tổ của nhà Thương trong tích “chim huyền điểu sinh Thương”. Vế đối đầu muốn nói tới việc bà Triệu Thị Khoan Hòa sinh trứng nở ra 5 chàng Vịt như bà Giản Địch, hay như truyền thuyết Việt về Âu Cơ sinh bọc trăm trứng.

Chỗ khó hiểu của câu đối trên là ở vế thứ hai. Thời Trưng Vương thì phá giặc trên “sông Bạch Đằng” lúc nào? Vấn đề quan trọng hơn, bà Triệu Thị Khoan Hòa là cung phi hay hoàng hậu của Triệu Vệ Dương Vương từ năm 111 TCN. Còn khởi nghĩa Hai Bà Trưng lại nổ ra vào năm 40 sau Công nguyên. Tính ra giữa 2 việc này có đến trên 150 năm. Làm sao có thể “mẹ vì Dương Vương, con vì Trưng” được?

Truyền tích về Thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa và năm anh em chàng Vịt mang đến một suy nghĩ bất ngờ. Khởi nghĩa của Nhị Trưng Vương không phải xảy ra vào những năm 40 dưới thời Đông Hán, mà là ngay sau thất bại của nhà Triệu Nam Việt, thời Tây Hán. Ý tưởng này nghe thật vô lý, nhưng có lẽ lại là hợp lý nhất trong chuyện về Trưng Vương, giải đáp và gắn kết được phần lớn những di tích, truyền thuyết còn lại trong dân gian với sử sách.

GS. Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Đạo Thánh ở Việt Nam cho biết Thánh bà Ả Lã Nàng Đê là con gái của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt, đã giúp Trưng Vương đánh giặc Hán. Theo thần tích đình Đại Mỗ thuộc huyện Từ Liêm thì Ả Lã Nàng Đê là con gái tể tướng Lữ Gia quê ở Thiên Phúc, huyện An Sơn. Cuối thời Triệu, vua tôi nhà Hán muốn thôn tính Nam Việt, thừa tướng Lữ Gia đã chỉ huy quân sĩ giết giặc xâm lược là Hàn Thiên Thu. Mua chuộc không được, Hán Võ Đế sai tướng Bác Đức và Dương Phác đem quân xâm lược nước ta. Tướng Lữ Gia tổ chức kháng chiến chống lại, sau bị giặc bắt và sát hại. Ả Lã Nàng Đê đến tuổi trưởng thành, tiếp thu tinh thần của cha, đã đứng ra chiêu mộ dân binh, tụ nghĩa ở sông Hát cùng Hai Bà Trưng. Sau Ả Lã Nàng Đê được Hai Bà Trưng ban tước lộc và cho về lập ấp luyện quân ở cửa sông Đáy. Ba năm sau Mã Viện đem quân tiến đánh, Ả Lã Nàng Đê tham gia chiến đấu trận Lãng Bạc và Cấm Khê, cuối cùng bà trầm mình ở sông Hát.

Thần tích Đại Mỗ một lần nữa cho thấy mối liên quan trực tiếp giữa khởi nghĩa Trưng Vương với nhà Triệu Nam Việt, mà con gái của Thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu là Ả Lã, là một trong những người cầm đầu của cuộc nổi dậy ở Phong Châu thời Tây Hán. Ả Lã là vị thần được thờ ở nhiều nơi nhất trong số các nữ tướng thời Trưng Vương. Thậm chí ở làng Nại Xá (xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội), là miếu thờ ông Thi Sách, thần tích còn cho biết Trưng Vương có tên thời con gái là Ả Lã Nàng Đê.

Ban thờ Triệu Mỵ Nương và bà Phạm Tĩnh ở chùa Nôm

Ở Hưng Yên có đình Đại Đồng (Văn Lâm) hay còn gọi là đình Nôm, thờ vị thành hoàng là đức thánh Tam Giang thời Hai Bà Trưng. Đặc biệt là vị đại tướng của Trưng Vương này theo thần tích lại lấy vợ là cháu gái Triệu Đà. Hiện đình Nôm thờ đức thánh Tam Giang, còn bà mẹ Phạm Tĩnh và vợ ông là Triệu Mỵ Nương được thờ tại chùa Nôm.

Ở Hưng Yên còn một di tích là đình và đền thôn Thượng Bùi ở xã Trung Hòa, Yên Mỹ. Thần tích kể về vị tướng thống lĩnh nội vệ của Trưng Vương là Nguyệt Nga công chúa, nhưng bố của Nguyệt Nga là Phạm Cầu, làm đến chức Thái phó ở đời Triệu Ai Vương. 

Một trong những nữ tướng nổi danh nhất của Hai Bà Trưng là Thánh Thiên công chúa, nay còn đền thờ ở thôn Ngọc Lâm (Tân Mỹ, TP. Bắc Giang). Thần tích đền Ngọc Lâm cho biết thân phụ của Thánh Thiên là Nguyễn Huyến, vốn là một vị quan nhà Triệu ở Kinh Môn, Hải Dương. Sau khi cha mất Thánh Thiên đã cùng với cậu của mình khởi nghĩa ở vùng Yên Dũng – Bắc Giang, sau đó về tụ nghĩa với Hai Bà Trưng.

Chưa thể khảo sát hết các thần tích về các vị tướng thời Hai Bà Trưng mà lại có liên quan trực tiếp đến nhà Triệu Nam Việt, nhưng vài ví dụ ở trên cũng đã đủ để khẳng định, tại miền Bắc Việt đã có một cuộc khởi nghĩa nổ ra dưới thời Tây Hán, mà người cầm đầu là con cháu của họ Lữ của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu. Thư tịch Trung Hoa gọi là khởi nghĩa của Tây Vu Vương. Còn các thần tích ngọc phả của Việt Nam gọi là khởi nghĩa của Trưng Vương. Thời điểm nổ ra cuộc khởi nghĩa này khoảng năm 110 trước Công nguyên và kéo dài nhiều năm sau đó.

Vai trò của Hoàng bà Phương Dung trong khởi nghĩa Trưng Vương

Làng Yên Phú còn lưu giữ được 23 sắc phong của thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Trong đó có 18 sắc phong thời Lê từ niên hiệu Dương Hòa thứ 5 (1639) đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783) sắc cho Hoàng bà Phương Dung.5 sắc phong thời Nguyễn từ niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853) đến niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) cho 2 vị tôn thần Trung Vũ và Đài Liệu.

Theo sắc phong sớm nhất là sắc phong năm Dương Hòa thứ 5 (1639) thì nguyên tên gọi của bà Phương Dung là: Khâm từ Hoàng Thái hậu Hoàng bà Thái phó Tả giai dự hiến Vương thượng vị. Tên gọi này được duy trì trong tất cả các sắc phong về sau cho đến hết thời Lê. Điều rõ ràng rằng tên gọi trên không phải là những “mĩ tự” được sắc phong gia tặng cho thần sau khi hóa, mà là chức vị của bà Phương Dung lúc còn sống.

Thần tích Yên Phú chỉ ghi bà Phương Dung tham gia khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, được phong là Công chúa. Sau khi đánh đuổi được giặc thì bà cùng với 2 người con nuôi được ban phong trở về nơi cư trú. Tuy nhiên, sắc phong lưu giữ tại Yên Phú cho biết bà Phương Dung là Hoàng Thái hậu – Hoàng bà Thái phó – Tả giai dự hiến – Vương thượng vị. Cụ thể về ý nghĩa của những chức sắc này xin được bàn dưới đây.

Hàng loạt từ “Hoàng Thái hậu”, “Hoàng bà”, “Vương thượng vị” trong sắc phong cho thấy bà Phương Dung là người trong hoàng tộc của cuộc khởi nghĩa Trưng Vương. Như phần trên đã phân tích, hoàng tộc của Trưng Vương lúc này là người của 2 họ Triệu (của vua Nam Việt) và họ Lữ (của thừa tướng Lữ Gia). Thần tích Yên Phú cũng có nhan đề: “Phả chép về Một vị âm thần Thái hậu”, càng khẳng định hơn vị trí trong hoàng tộc Trưng Vương của bà Phương Dung.

Sắc phong ở Yên Phú cho bà Phương Dung cho biết bà là Thái phó, Tả giai dự hiến, Vương thượng vị. Thái phó là chức vị thứ nhì trong hàng Tam công, gồm Thái sư, Thái phó, Thái bảo thời phong kiến. “Tả giai dự hiến” cũng là một chức vụ rất cao trong triều đình, tương đương với Tả thừa tướng, là một trong những rường cột của nước nhà (ý của chữ “giai”) và tham dự vào chính sự quốc gia (dự hiến). Vị trí “tả giai” là vị trí còn quan trọng hơn “hữu giai”, vì theo thứ tự xưa tả là vị trí cao hơn “hữu”. “Vương thượng vị” có thể cũng chỉ chức vụ đứng vào hàng đầu trong triều đình, như chức Thượng công.

Theo sử sách thì Trưng Vương sau khi đánh đuổi được Tô Định thì lên ngôi xưng vương, cai quản đất nước trong ba năm. Khi đã lên ngôi xưng vương thì chắc chắn đã phải thiết lập triều đình một cách quy củ có trên dưới. Với thân phận là người trong hoàng thất, có công lớn trong cuộc khởi nghĩa dẹp giặc, bà Phương Dung đã giữ một vị trí tương đương với Tướng quốc, đứng đầu văn võ bá quan trong triều đình Trưng Vương.

Điều đặc biệt khác rút ra được khi nghiên cứu các sắc phong cho Thái hậu Phương Dung là trong tên phong trên sắc ngoài bà Phương Dung còn có 2 người nữa. Đó là:

–    Trương thị công hầu Thượng phẩm phán thú hầu Điều Quý Công 

–    Điều Quý Nương.

Cụm từ “Trương thị” – họ Trương cho thấy đây không phải là tên gọi hay mĩ tự được phong, mà là tên riêng chỉ người. Trong khi đó, thần tích Yên Phú cho biết: 

Ở làng Lưu Hàm, huyện Thượng Hiền, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam Hạ có ông Trương Công Điều (tên húy là Điều) là người được kế thừa tập ấm, lấy vợ là Phùng Thị, tên húy là Huệ, vốn là người cùng quận, dòng dõi trâm anh nức tiếng đã lâu, cũng là chỗ môn đăng hậu đối. Ông bà đã sinh mấy người con trai, sau này sinh thêm con gái đặt tên là Phương Dung.”

Theo thần tích bố của bà Phương Dung có tên là Trương công Điều, mẹ là Phùng thị Huệ. Rõ ràng, tên trên sắc phong chính là tên bố và mẹ của bà Phương Dung. Trong đó ông Trương công Điều có tước phong là “Thượng phẩm phán thú hầu”. Tước “hầu” là một tước vị khá lớn, chỉ sau tước “công” trong bộ máy phong kiến xưa. Chữ phán 判 chỉ sự xét xử. Chữ thú ở sắc phong ghi là 獸. Tuy nhiên, khả năng phải là chữ 守với nghĩa là coi giữ thì mới hợp lý. “Thượng phẩm phán thú hầu” có thể hiểu là vị hầu tước đứng đầu phụ trách việc xét xử trong triều đình, hay ngày nay nôm na gọi là “Thẩm phán tòa án tối cao”.

Sắc phong thời Lê ở Yên Phú như vậy phong tặng mĩ tự không chỉ cho Hoàng bà Phương Dung mà còn cho bố và mẹ của bà. Mĩ tự dài nhất phong cho ông Trương công là trong sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783): Trương thị công hầu Thượng phẩm Phán thú Anh hùng Vũ dũng Cương nghị Trung chính Linh thông Bác đạt Điều Quý Công. Mĩ tự này là những mĩ tự dùng phong tặng cho một vị quan võ.

Mẹ của bà Phương Dung được sắc phong gọi theo tên của chồng là Điều Quý Nương. Mĩ tự dài nhất được phong cho bà mẹ là trong sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783): Phù tộ Hợp nghi Đoan mục Gia huệ Thuận mỹ Điều Quý Nương.

Việc sắc phong cho cả bố và mẹ của Hoàng bà Phương Dung càng củng cố thêm giả thuyết rằng bà Phương Dung có xuất thân là người trong hoàng tộc. Rất có thể ông Trương công Điều, một vị quan lớn trong triều đình, là người trong họ với Trưng Vương (có liên hệ Trương – Trưng).

Về nơi thờ Hoàng bà Phương Dung, ở Yên Phú trong đình làng có khám thờ và tượng của bà. Bên cạnh đình còn có một phủ bà, trong cung thờ Hoàng bà Phương Dung với tượng khá đẹp. Phủ này tuy nhiên đã bị “tứ phủ hóa” thành miếu Hai cô.

Cung thờ Thánh mẫu Phương Dung ở Phủ Bà (miếu Hai cô)

Như vậy, qua phân tích các tên gọi trong sắc phong ở Yên Phú có thể nhận định Thái hậu Phương Dung vốn là người trong vương thất của nhà Triệu nước Nam Việt. Khi Nam Việt bị nhà Tây Hán tấn công, bà Phương Dung đã về vùng đất Thanh Trì đi tu ẩn mình ở ngôi chùa cổ Thanh Vân, chờ cơ hội báo quốc. Đến khi Trưng nữ phất cờ khởi nghĩa ở đất Tây Vu – Phong Châu, bà Phương Dung lại hội quân tham gia cùng với Trưng Vương và trở thành một trong những đại thần bậc nhất của Trưng triều. Lịch sử thật sự của cuộc khởi nghĩa của hậu quân nước Nam Việt đã được ẩn giấu trong các di tích, sắc phong, tín ngưỡng của người dân Việt trên khắp vùng miền Bắc Việt ngày nay.

II.    HAI VỊ THỦY THẦN Ở YÊN PHÚ TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN RỒNG LINH LANG 

Thần tích Yên Phú kể, sư bà Phương Dung lúc tu ở chùa Thanh Vân (Yên Phú, Thanh Trì) đêm nằm mơ thấy có Thủy quan báo mộng, sáng ra sông Tô Lịch nhặt được 2 quả trứng, đem về chùa nở thành 2 vị thủy thần đầu người thân rắn. Hai vị thủy thần nói với các phụ lão trong làng rằng:

Anh em chúng ta vốn là thủy thần mà các ông thờ phụng lâu nay, một người tên là Trung Vũ, một người tên là Đài Liệu. Nay phụng mệnh Thiên đình giáng sinh để giúp đỡ cho đất nước.

2 vị thủy thần xuất thế Trung Vũ và Đài Liệu là những vị thần đã được thờ phụng tại khu vực Thanh Trì từ lâu, trước thời Trưng Vương. Trước thời Trưng Vương tức là thời kỳ Hùng Vương, mà bản thân Trưng nữ là cháu gái dòng dõi của của vua Hùng. 

Khám tượng thờ Trung Vũ và Đài Liệu

Ở phần mở đầu của thần tích Yên Phú, cũng như trong các ngọc phả thời Hùng Vương, đều ghi chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra trăm trai, rồi chia 50 con theo cha xuống biển là Thủy thần, cai quản nguồn sông, góc biển. 50 con theo mẹ về núi làm Sơn thần, cai quản các ngọn núi và ruộng đồng. Như vậy, các vị “thủy thần” trong các thần tích thực ra chính là những người con đất Việt đã theo cha Rồng Lạc Long Quân xuống khai phá, cai quản vùng sông biển. Đây hoàn toàn không phải là các “nhiên thần” (thần có nguồn gốc từ các vật thể tự nhiên), mà là nhân vật lịch sử thực sự đã được “thần thánh hóa” hoặc là những hình tượng đại diện cho bộ phận người Việt đã tiến ra miền ven biển Đông của thời mở nước.

Đình Yên Phú

Trưng Nữ Vương khi phất cờ khởi nghĩa đã lập tế đàn cầu khấn bách thần tại cửa sông Hát Môn, đọc lời thề trừ tàn diệt giặc, khôi phục tông miếu, cứu vớt nhân dân, nguyện mong thần linh chứng giám. Khi đó, hai vị thủy thần Trung Vũ và Đài Liệu cùng với mẹ nuôi là sư bà Phương Dung đã đến tụ quân với Trưng Vương như một sự ứng nghiệm của thần linh. Hai vị được phong là Tả, Hữu tướng quân, dẫn binh đánh đuổi Tô Định. Đại công cáo thành, hai thần trở về bản quán ở Thanh Trì, xây sửa lại miếu điện…

Đôi câu đối ở nghi môn đình Yên Phú:

二氣良能扶國攻勳千古仰
一誠可格庇民事業萬年芳

Nhị khí lương năng, phù quốc công huân thiên cổ ngưỡng
Nhất thành khả cách, tí dân sự nghiệp vạn niên phương.

Dịch nghĩa:

Hai khí tốt lành, công danh giúp nước nghìn năm ngưỡng
Một lòng cảm cách, sự nghiệp hộ dân vạn thế thơm.

Bên cạnh công lao đánh giặc, đúng với vai trò của “Thủy thần”, hai vị Trung Vũ và Đài Liệu còn có công cầu mưa cứu hạn, được nhân dân trong vùng Thanh Trì hết sức kính phục. Sự tích truyền khẩu ở Yên Phú (được chép trong bản khai thần tích – thần sắc năm 1938 của làng Yên Phú) còn kể, khi đê ở Giầy Kẻ bị sạt vỡ, 2 vị đã hóa thân thành 2 ông rắn nằm ngăn nước để dân đắp, hộ được đê. Lúc hộ đê 1 ông bị đứt một tí đuôi, nên có hèm là Cụt.

Đê Kẻ Giầy được truyền khẩu là đê sông Hồng ở vùng Yên Phụ. Thông tin này là một đầu mối quan trọng để lần lại gốc tích và ý nghĩa lịch sử của nhị vị thủy thần của làng Yên Phú.

Khảo sát khu vực Yên Phụ thì những vị thủy thần đã hộ đê Yên Phụ là những vị thần được phong xung quanh hồ Tây. Trong số đó, có sự tích 2 vị thủy thần ở làng Hồ Khẩu là rất tương đồng với thần tích ở Yên Phú. Thần tích các vị nam thần làng Hồ Khẩu như sau:

“Xưa, vào đời Hùng Vương, ở động Đản Thánh, châu Bố Chính có ông Lê Quốc Công húy là Tín Phệ, làm quan trong triều…Ông cùng với phu nhân cầu tự ở đền Đông Hải Vương. Một hôm phu nhân du chơi Hồ Tây, thấy một con cá chép vẩy đỏ lấp lánh, đùa rỡn sóng nước. Trong lòng cảm động mà có thai. Đến khi mang thai đủ tháng, nằm mơ thấy có hai người mũ áo chỉnh tề, tới chắp tay nói rằng:

–  Chúng thần là ở bộ Lễ Long cung, vâng sắc mệnh đầu thai.

Phu nhân giật mình tỉnh giấc, bỗng thấy trời đất mù mịt, mưa gió ập tới, trong phòng hương thơm tỏa khắp, mây lành rực rỡ, sinh hạ được một bọc hai người con trai.

Ông liền theo giấc mộng đặt tên cho người con trưởng là Cống Lễ, người con thứ là Cá Lễ. Cống Lễ sinh ra đã cao 9 thước, tướng mạo đường hoàng. Cá Lễ sinh ra hàm én râu hổ, tay dài quá gối. Đều là bậc anh hùng cái thế, dũng lược hơn người, tài năng xuất chúng, sức nâng đỉnh bạt núi.

Duệ Vương lên ngôi, xuống chiếu tìm người có học vấn quảng bác, văn võ toàn tài. Hai ông liền ra ứng tuyển. Vua thấy nơi gần hai ông đứng có gió mát thổi quanh người. Vua biết là thủy thần xuất thế, bèn cùng cho nhận chức thị tòng.

Bấy giờ… Thục Vương bèn đem quân sang xâm chiếm. Vua bèn lệnh cho hai ông chỉ huy thủy quân (ông Cống Lễ làm Tả chưởng quản, ông Cá Lễ làm Hữu chưởng quản), lãnh ấn đại tướng quân ra sông Bạch Đằng nghênh địch…

Ngày khải hoàn, thuyền đến bên sông Tô Lịch, chợt trời đất tối sầm, gió thổi sóng cuồn cuộn, ánh cầu vồng đỏ như thép luyện từ trên trời chiếu thẳng vào thuyền. Hai ông bèn buộc lại mũ đai, hướng về cửa thành bái mệnh. Trong chốc lát, bay lên trời mà hóa…

Vào những năm Vĩnh Thọ triều nhà Lê, vỡ đê phường Yên Phụ. Cứ đắp lại đến đâu lại bị nước đánh trôi đến đó. Triều đình sai quan đến đền của hai vương cầu đảo. Lũ lụt mới tạm dừng. Bèn gia phong hai chữ Hiển ứng Uy linh.” 

2 vị thủy thần sinh ra có báo mộng hình cá chép đỏ, sinh cùng một bọc trứng, tướng mạo dị thường, khi đánh giặc được phong làm Tả Hữu chưởng quản, khi hóa về sông Tô Lịch, hiển linh thời Lê hộ đê Yên Phụ. Những chi tiết này hoàn toàn khớp với 2 vị thủy thần Trung Vũ và Đài Liệu ở làng Yên Phú.

Các vị thủy thần Hồ Tây theo ghi chép của các thần tích từng làng ven hồ thì đã có nhiều lần giáng thế. Như tại đình Tây Hồ, địa phương đã có nhận định: Uy Linh Lang là thủy thần là con trưởng của Lạc Long Quân theo cha xuống biển trấn trị khai thác sông biển lãnh đạo muôn dân xây dựng cuộc sống phồn thịnh. Ngay từ đầu thời Hùng Vương, Thần đã hóa thành bảy con rồng bay lên trời; làng Nhật Chiêu đã trồng bảy cây gạo để ghi dấu sự kiện này. Đình ấp Tây Hồ xưa kia chính là đền thờ Ngài.

Đến thời Hùng Vương thứ 18, Thần lại đầu thai làm con Lạc Hầu Lê Quốc Tín và bà Thục Nương, người phường Hồ Khẩu là Cống Lễ và Cá Lễ. Hai ông được vua Hùng thứ 18 phong là Tả Hữu chưởng quan chỉ huy giúp nhà vua dẹp giặc. Sau đó hóa đi về Thủy Quốc, nhà vua nhớ công ơn hai ông ban cho sắc phong, lập đền thờ nay là đền Vệ Quốc và đền Dực Thánh thuộc phường Bưởi.

Đến thời Lý Nam Đế thần nhân hóa thành Bảo Trung, Minh Khiết để giúp vua chống giặc ngoại xâm, trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa nên Châu Xuyên Bảo gồm các làng: Nội Châu, Ngoại Châu, Vạn Châu, Xuyên Châu thuộc phường Tứ Liên đều có đình để phụng thờ.

Thời Lý thần nhân hóa thành Thái tử Hoàng Lang con vua Lý Thái Tông giúp vua đánh giặc Chiêm Thành. Năm Đinh Tỵ Thái tử lại giúp vua Lý Thánh Tông đánh bại quân Tống tại sông Phả Lại và sông Cầu, đất nước trở lại thanh bình, Quốc gia hưng thịnh.Ngày 12 tháng 2 âm lịch, Thái tử không bệnh mà hóa, có thuyết lại nói Thái Tử bị bệnh đậu mùa rồi hóa thành con rắn khổng lồ chui xuống hồ Tây. Nhà vua biết tin vô cùng thương tiếc phong là Linh Lang đại vương cho lập đền thờ ở Voi Phục.

Thời Trần thần nhân hóa thành Hoàng tử thứ 7 con vua Trần Nhân Tông để giúp vua đánh giặc Chiêm Thành và giặc Nguyên xâm lược. Sau khi khải hoàn trở về Hoàng tử không nhận tước thưởng lui về tu thiền ở chùa Vân Hồ. Triều đình luận công phong thưởng phong là Dâm Đàm Đại Vương được thờ ở đình Tây Hồ, sau đó là các đình Nhật Tân, Yên Phụ, Yên Trì.

Vị trí một số nơi thờ thủy thần Uy Linh Lang ven Thăng Long – Hà Nội

Vị thần Dâm Đàm Đại vương (thủy thần Hồ Tây) là Uy Linh Lang, được thờ ở các làng Yên Phụ, Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân, là vị thủy thần trong dòng Lạc Long Quân đã có công đánh giặc và hộ đê Yên Phụ. Sự tích kể Uy Linh Lang sinh ra trong bọc trứng, nở thành 7 con rồng bay trên sông Nhị ở điện Nhật Chiêu, đánh giặc rồi hóa thần ở làng Yên Phụ.

Ngoài khu vực hồ Tây, cả dải sông Hồng từ Nhật Tân đến Lý Nhân (Hà Nam) rải rác có nhiều đền thờ Uy Linh Lang. Đình Thanh Trì là đình của làng Thanh Trì, trung tâm của huyện Thanh Trì xưa, cũng thờ Uy Linh Lang. Hay đình đền Lưu Phái (xã Ngũ Hiệp) cùng huyện Thanh Trì cũng là nơi thờ Uy Linh Lang. Thanh Trì xưa vốn có tên là Thanh Đàm, hay từ xa xưa là Long Đàm. Đây là đầm rồng, nơi có vị Rồng Uy Linh Lang làm thần chủ.

Nơi thờ Uy Linh Lang bên sông Hồng gần với làng Yên Phú là làng Xâm Dương (xã Đại Lộ) và làng Xâm Hồ (xã Vân Tảo) nay thuộc huyện Thường Tín. Đây là những di tích nằm trong khu vực tín ngưỡng thờ của Thoải phủ với đền Dầm là trung tâm thờ Mẫu Thoải nằm ở Xâm Dương. Mẫu Thoải được biết là vợ của vua Kinh Dương Vương, có tên là Xích Lân Long Nữ Động Đình Thủy Tinh Công chúa. Bà là người sinh ra Lạc Long Quân. 

Có thể thấy hệ thống thờ các thủy thần gắn với sự tích của Uy Linh Lang từ thời Lạc Long Quân và Long Nữ Động Đình nằm ven sông Hồng ở đoạn qua Thăng Long (Hà Nội). Đây là một dẫn chứng khác bổ sung cho lời chép trong các thần tích và ngọc phả rằng, các Thủy thần là dòng những người con đã theo Lạc Long Quân đi cai quản vùng sông biển. Những vị thủy thần này do đó được hình tượng hóa trong hình dáng của Rồng (thân rắn có vảy…) với nhiều lần giáng sinh ở các triều đại khác nhau.
Đôi câu đối cổ ở đình Yên Phú ca ngợi các vị thần thờ tại đây:

降生持近玄王蹟
掃患相傳夏禹功

Giáng sinh trì cận Huyền Vương tích
Tảo hoạn tương truyền Hạ Vũ công.

Dịch nghĩa:

Giáng sinh gần với tích Huyền Vương
Trừ nạn tương truyền công Hạ Vũ.
 

Tiền tế đình Yên Phú và đôi câu đối cổ

Vế đối đầu so sánh chuyện 2 vị Trung Vũ và Đài Liệu giáng sinh trong trứng, có đầu người thân rắn, mình có vảy, giống như sự tích Huyền Đế Chuyên Húc hóa thành “ngư phụ” được ghi trong Sơn Hải Kinh – Đại Hoang Tây Kinh. Vế đối sau nói tới công lao hộ đê giúp dân, sánh với công nghiệp của vua Đại Vũ nhà Hạ trong cổ sử Trung Hoa.

Như vậy, hai vị là Thủy thần tức là dòng dõi Lạc Long Quân, mở cõi nơi đất Thăng Long vùng ven bờ sông Nhị xưa, qua ngàn năm vẫn được phản ánh trong tín ngưỡng văn hóa, cũng như ghi chép lại trong các thần tích, hương khói thờ phụng ở đình chùa đền miếu. Hai vị là thần bản thổ linh ứng chống ngoại xâm và lũ lụt đi cùng chiều dài lịch sử dân tộc hàng ngàn năm. Cũng như rất nhiều vị thần thành hoàng làng khác trên cả miền đất cổ, họ đều là những bậc tiền nhân có công lao mở đất, phù trợ muôn đời cho con cháu, bao đời nay vẫn được ngưỡng vọng phụng thờ./.

Hiển linh hộ quốc. Ngọc phả cổ về Tản Viên Đinh Phi Thánh mẫu triều Hùng Việt Thường Thị, bộ Hạ

Bản ngọc phả được sao trong bản khai của làng Tang Ma, tổng Phương Giao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ năm 1938. Bản ngọc phả này được chép là tổng hợp các bộ phả gồm: bộ Thượng về thời Hùng Vương, bộ Trung về Tiền Thánh mẫu, bộ Hạ về sự tích Sơn Thánh.

Bộ Hạ
Hiển linh hộ quốc

Đình Quang Húc

Năm Giáp Thìn ngày 9 tháng 1, An Dương Vương lên ngôi, đóng đô ở thành Cổ Loa cai quản quốc gia, nối thừa cơ đồ to lớn mà Hùng Duệ Vương giao phó lại. Vua ở ngôi tổng cộng 60 năm. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Tuy nhiên Vua từ khi được nỏ thần linh quang quốc bảo của Hùng Vương thì không chịu khó tu sửa văn, huấn luyện võ, chọn tuyển tướng, luyện tập quân để chế ngự giặc ngoài. Tới khi An Dương Vương tuổi đã 80, có người họ Triệu tên Đà, người Chân Định, thừa cơ khởi binh dẫn lính đến thẳng huyện Quế Lâm, đại chiến với Thục Vương. Lúc ấy Sơn Thánh nghe được tin, liến biến phép thần thông, tự nhiên bay trên không mà tới, cùng với binh mã tiến thẳng đến nơi. Trong vòng 10 lần đấu với quân Triệu đều chiếm được phần thắng. Sơn Thánh nghĩ đến sinh linh và việc hương lửa bèn nói với Thục Vương rằng:
–    50 năm thiên hạ đã được Hoàng thiên định vậy. Ngày nay Triệu Đà có ý muốn thôn tính Nam Bang. Ta phụng mệnh lớn dẫn quân đến chinh chiến, thấy Triệu Đà anh hùng trí dũng. Sang Đông không lấy được cỏ Bồng, ta không đẩy lùi được nạn này. Triệu Đà đến khiêu chiến với Ta tới mức đánh cùng diệt tận. Sinh mệnh đều đang nằm trong tay của Vua. Vì nước tất phải vì dân. Chi bằng thuận theo lòng trời, gọi họ Triệu đến nhường cho ngôi vị.
Vua nghe thấy lời ấy bèn mới nhường lại ngôi vị cho Triệu Đà, còn mình thì đi vào biển lớn mà hóa. Đà được quốc gia mà lên ngôi vào năm Bính Ngọ. Cha truyền con nối được 5 đời thánh vương. Trước sau cộng 149 năm. Tới khi Thuật Dương Vương nối truyền chính thống, ở ngôi được 1 năm thì có Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu sớm bại vong, không người cứu giúp. Cho tới khi có người chắt gái của Hùng Vương tên Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, bậc thánh thần trên trần thế, dấy nổi oai hùng, cất quân đến đánh, đương thời nam nhi thao lược cũng không có người như vậy. Nữ tướng dẫn quân, cầu đến thần linh. Trưng nữ mật cáo Tản Viên Sơn Thánh và hội đồng bách thần ở cửa sông Hát Môn, nay là ở xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc xứ Sơn Tây, lập đàn tế cáo thần linh. Đọc chúc rằng:
–    Trời sinh ra người làm tông chủ vạn vật trời đất, sinh linh cây cỏ, thời gian các mùa. Các đế vương đời trước đều là các bậc thánh minh thiên tử. Triều đình có đạo yêu dân vì nước, có đức hóa rộng lớn. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có người ngoại tộc tên Tô Định tỏ thái ý ngông cuồng khắp nơi, ngược bạo người dân. Trời đất thần người đều căm phẫn. Kẻ hèn tôi vốn là một nữ nhân nhà họ Hùng, nghĩ tới sinh linh, rỏ trăm giọt lệ Hoàng thiên. Ngày hôm nay đau lòng thương dân đỏ, trượng nghĩa trừ bạo tàn. Xin trăm họ các vị tôn thần linh thiêng hội đàn chứng giám cho lời thề, giúp sức cho Trưng nữ dẫn quân dẹp giặc, giữ nước giúp dân. Dám mong phục dựng lại cơ đồ cũ của tổ tông, đưa nhân dân khỏi tầng cực khổ, thoát ra khỏi nơi nước lửa binh đao, sau không phụ ý của Hoàng thiên, thỏa linh thiêng của miếu đền tiên tử, an ủi cha ông dưới nơi chín suối.
Chúc xong bèn hô xuất quân ngàn hàng vạn đội. Lại truyền hịch khắp quan lang, phụ đạo các châu quận nước Nam, định ngày giờ dẫn quân 5 vạn, tức chia các đạo tiến đánh, tạo thành kỳ binh, đến thẳng đồn của Tô Định mà đại phá trong một thời. Quân Định bỏ chạy. Thế là Trưng nữ xây 65 thành ở ngoài, chiếm phục lại toàn bộ vùng đất Nam Bang. Trưng nữ lên ngôi Hoàng đế. Trưng nữ ở ngôi ba năm, từ năm Canh Tý đến năm Nhâm Dần lên ngự ở triều đình. Trưng nữ một thời xuân mộng, được lập miếu ở cửa sông Hát Môn, các xã ấy phụng thờ hương lửa, tới nay hiện còn di tích. Thời thuộc Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống Tề, Lương cộng là 314 năm đến khi Nam Bang thay nhau bốn đời Đinh, Lê, Lý, Trần khai mở hoàng đồ, đều có biến hóa điềm thần, các triều giúp nước. Sự đã được ghi rõ trong sử ký Nam Việt.
Khi ấy có người làm thơ khen nhớ Tản Viên Sơn Thánh rằng: (xem bài thơ này trong bài riêng https://bahviet18.com/2020/10/24/bai-tho-ve-tan-vien-son-thanh-trong-than-tich-lang-tang-ma/)
Hoàng triều niên hiệu Hồng Phúc năm đầu ngày 10 tháng 1, Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn

Lữ Nam Đế và Quốc Oai

Ngày mồng 6 tháng 3 năm Quý Mão được truyền là ngày Hai Bà Trưng tuẫn tiết trên sông Hát. Cũng những ngày này là ngày lễ hội ở chùa Thầy, nơi có đền Tam Xã thờ vị tướng của vùng Quốc Oai là Đỗ Động tướng quân Đỗ Cảnh Thạc. Tam xã Sài Sơn gồm các làng Thụy Khê, Sài Khê và Đa Phúc. Liệu cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và tướng quân Đỗ Cảnh Thạc có quan hệ gì với nhau?
Mối quan hệ giữa 2 ngày lễ của 2 sự kiện lịch sử này lại được tìm thấy qua nhân vật thừa tướng Lữ Gia của nhà Triệu nước Nam Việt. Câu chuyện về Lữ Gia, tể tướng ba đời nhà Triệu được ghi chép khá kỹ trong Nam Việt Úy Đà liệt truyện bởi Tư Mã Thiên, nhưng ở nước ta, chuyện về Lữ Gia được lưu truyền trong thần tích về vị tướng này. Một trong những bản thần tích như thế là ngọc phả của làng Đa Phúc ở Sài Sơn, mang tên Lữ Nam Đế sự tích. Bản ngọc phả giống như vậy cũng được chép ở làng Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai. Sự tích Lữ Nam Đế có một số chi tiết cụ thể hơn so với Sử ký của Tư Mã Thiên. Xin xem và xét những chi tiết mới này theo dòng lịch sử.
Sự tích Lữ Nam Đế mở đầu: Thần họ Lữ húy Gia, người xã Thiên Phúc (nay đổi là Đa Phúc) huyện Ninh Sơn (đời Lê Trang Tôn đổi là Yên Sơn), làm quan triều Triệu Văn Vương, đến khi Minh Vương lên ngôi, ông được ban chức Thái phó.
Thần tích này cho biết Lữ Gia là người quê ở vùng Quốc Oai (xã Thiên Phúc, huyện Ninh Sơn). Lữ Gia làm quan bắt đầu từ Triệu Văn Vương. Tới thời Triệu Minh Vương thì được ban chức Thái phó.
Lúc đầu, khi Minh Vương còn là Thái tử, vào làm con tin bên nhà Hán sống ở Trường An, lấy bà Cù Thị ở Hàm Đan, sinh được một người con trai tên là Hưng. Đến khi Minh Vương lên ngôi, nhân giấu ấn của Tiên đế, đã dâng thư cho nhà Hán xin lập bà họ Cù làm hoàng hậu, con trai Hưng làm Thái tử.
Chi tiết Triệu Anh Tề đã giấu ấn khi lên ngôi cũng được Sử ký Tư Mã Thiên kể:
Thái tử Anh Tề xin về nước. Hồ mất, thụy là Văn Vương. Anh Tề lên ngôi thay, lập tức giấu ngay ấn Vũ Đế của Triệu Đà.
Chi tiết này thật khó hiểu vì nó có vẻ không ăn nhập gì với những chuyện xảy ra. Anh Tề ở Hán về thì đã lấy ấn Vũ Đế ở đâu để giấu đi? Tại sao lại phải giấu? Việc giấu ấn Vũ Đế liên quan thế nào đến việc Anh Tề lên ngôi? Tại sao nhờ giấu ấn này mà Anh Tề xin được nhà Hán cho lập Cù Thị làm hoàng hậu? Đằng sau chiếc ấn Vũ Đế này là một bí ẩn của lịch sử giữa 2 triều Hán và Triệu.

Van De hanh ti
Ấn Văn Đế hành tỉ từ mộ Triệu Mạt ở Quảng Châu (ảnh wikipedia).

Rất có thể khi Anh Tề ở Trường An nhà Hán đã lấy được ấn Vũ Đế, rồi mang về nước Nam Việt mà xưng vua, lập hoàng hậu, thái tử. Cũng có thể ấn Vũ Đế đã có ở Nam Việt từ Triệu Văn Vương. Nhưng chiếc ấn này có ý nghĩa đặc biệt không chỉ với nhà Triệu mà còn với nhà Hán, vì đó mà Anh Tề có thể dùng để đòi quyền với nhà Hán (đòi người – Cù Thị và thái tử Hưng). Điều này cho thấy, ấn Vũ Đế thực chất là bảo tỉ khai quốc của Triệu Đà – Lưu Bang, ông tổ của cả 2 nước Hán (Hiếu) và Triệu. Người giữ ấn có quyền khẳng định ngôi vị chính truyền của mình từ vị Cao Tổ – Vũ Đế này.
Sau đó, khi Cù Hậu và Triệu Ai Vương (tên Hưng) định nội phụ vào chầu nhà Hán, nhà Hán ban cho Hưng và Lữ Gia “ấn bạc”. Điều này cho thấy, ấn Vũ Đế ban đầu là ấn vàng, tức là ấn của Hoàng đế, với nghĩa sánh ngang với nhà Hán.
Câu chuyện Triệu Anh Tề làm con tin ở Hán, lấy Cù Thị, rồi lúc về giấu ấn Vũ Đế để xưng vương là cốt của câu chuyện Nhã Lang lấy Cảo Nương rồi đánh tráo móng rồng trong truyền thuyết về Triệu Quang Phục. Cù và Cảo là cận âm. Nhã Lang là Anh Tề cận nghĩa.

Uoc LeMảng chạm đầu hồi đình Ước Lễ, Thanh Oai.

Thần tích Lữ Nam Đế kể tiếp đoạn Cù Hậu âm mưu hại Lữ Gia trong tiệc rượu:
Sứ giả ngồi phía Đông, Cù Hậu ngồi ở phía Nam, Hưng và các tướng đều ngồi ở phía Tây. Em trai Lữ Gia là Lữ Cường làm tướng, đem binh sĩ đến ở ngoài cung. Khi rót rượu, Cù Hậu nói với Lữ Gia rằng: “Nam Việt nội phục nhà Hán là có lợi, tướng quân không muốn là cớ làm sao?”. Nói vậy là có ý khích sứ giả nhà Hán, nhưng sứ giả hồ nghi không dám chống cự.
Lữ Gia thấy xung quanh không có tai mắt của mình liền bỏ ra ngoài. Cù Hậu tức giận muốn cầm mâu đâm Lữ Gia, nhưng Hưng cản lại. Lữ Gia đi ra, sai em trai mang quân đến phủ đệ riêng ở Trúc Viên Sài Sơn, cáo bệnh không gặp sứ giả.

Đoạn kể này cung cấp thông tin đặc biệt quan trọng mà Sử ký Tư Mã Thiên không đề cập tới. Em trai của thừa tướng Lữ Gia tên là Lữ Cường. Lữ Cường làm tướng võ, cầm đầu quân đội. Sau khi nội bộ nhà Triệu mâu thuẫn về việc nội phụ nhà Hán thì họ Lữ chia nhau ra. Lữ Gia ở lại Phiên Ngung. Lữ Cường dẫn quân về đóng ở quê họ Lữ ở Sài Sơn.
Thông tin này cho phép hiểu hơn diễn biến sau đó và việc thờ Lữ Gia ở vùng Quốc Oai. Lữ Gia sau khi giết Cù Hậu và Triệu Ai Vương, đã lập con trưởng của Minh Vương là Kiến Đức lên làm vua, tên hiệu là Triệu Vệ Dương Vương. Khi Lộ Bác Đức nhà Hán dẫn quân chiếm Phiên Ngung, Lữ Gia cùng hàng trăm gia quyến lên thuyền đi về phía Tây, trở về quê hương ở vùng Bắc Việt. Lộ Bác Đức đuổi theo và bắt giết được Lữ Gia ở vùng Nam Định (núi Gôi, Vụ Bản). Đây cũng là vùng cửa sông Hát (sông Đáy) đổ ra biển, xưa gọi là cửa Đại Ác.
Lữ Gia hy sinh ở vùng cuối sông Hát. Ông được tôn làm Lữ Nam Đế cho dù ông chưa hề làm vua bao giờ. Rất có thể cái tên Lữ Nam Đế này là tên kép chỉ Lữ Gia và Triệu Vệ Dương Vương, 2 người đã cùng lập vị và cùng vong ở cửa Đại Ác.
Vậy còn Lữ Gia nào tiếp tục chống quân Hán ở vùng đầu sông Hát – Quốc Oai? Hang Cắc Cớ trong núi Sài tương truyền là nơi nghĩa quân Lữ Gia tử tiết. Miếu thờ Lữ Gia ở làng Thụy Khê dưới chân núi Sài nay vẫn còn.

IMG_3842Điện thờ ở đền Lữ Gia tại làng Thụy Khê, Sài Sơn.

Thông tin từ thần tích cho thấy, vị họ Lữ chống quân Hán ở vùng Sài Sơn không phải là thừa tướng Lữ Gia mà là Lữ Cường, tướng chỉ huy quân đội đã dẫn quân về Sài Sơn trước khi nổ ra cuộc chiến giữa Nam Việt và nhà Hán. Vị “Lữ gia” được thờ ở vùng Thanh Oai – Quốc Oai như thế thực ra là Lữ Cường.
Vùng Thanh Oai – Quốc Oai xưa được gọi là Đỗ Động. Nơi đây có thành Quèn với các hiện vật khảo cổ của thời Tây Hán như các mảnh sành sứ, hay rõ ràng hơn nữa là các đồng tiền Ngũ Thù của thời Tây Hán đã được tìm thấy ở đây. Rất có thể thành Quèn chính là địa danh “Trúc Viên” được nói tới trong thần tích. Phép phiên thiết cho ta kết quả:
Trúc Viên thiết Triên – Chiên – Quyên – Quèn.
Tên gọi khác của thành Quèn là Cổ Hiền, cũng là tên phiên thiết, cho chữ Quyền – Quèn. Tên thành có thể thực sự là Quyền, chỉ trị sở trung tâm nắm quyền cai quản của khu vực “Quốc Oai” – oai nước, lúc này.
Sự kiện Lữ Cường dẫn quân Nam Việt lui về Quốc Oai, xây thành phòng thủ chống Hán được truyền thuyết Việt kể tiếp bằng sự tích về Đỗ Động tướng quân Đỗ Cảnh Thạc, đóng ở thành Quèn, hy sinh ở Tam Xã Sài Sơn. Chỉ có điều, sự kiện này đã bị chép gán vào thời kỳ 12 sứ quân, là thời kỳ vốn không hề xảy ra ở Việt Nam sau này.

IMG_3724
Hũ tiền Ngũ thù được tìm thấy ở thành Quèn.

Thừa tướng Lữ Gia cùng vua Triệu Vệ Dương Vương hy sinh ở cửa Đại Ác nhưng cuộc chiến chống Hán nước Nam Việt chưa dừng lại đó. Em trai của Lữ Gia là Lữ Cường trước đó đã chia quân về quê hương bản quán, xây dựng tuyến phòng thủ Đỗ Động Sài Sơn (Đỗ  có nghĩa là chặn, dừng). Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức tiếp tục đánh vào Bắc Việt. Thành Quèn thất thủ, Đỗ Động tướng quân hy sinh ở chân núi Sài…
Nhưng mối nợ nước thù nhà đó chưa hết. Mấy năm sau, cũng ở vùng đất nơi đầu sông Hát đã nổ ra cuộc khởi nghĩa mạnh mẽ của Ả Lã Trưng Vương. Ả Lã tức là con gái nhà họ Lã, là một trong các hoàng phi của vua Triệu đã chạy về vùng Mê Linh. Vua Triệu Vệ Dương Vương – ông Thi Sách hy sinh ở cửa Đại Ác. Ả Lã vì thù cha (Lữ Gia) thù chồng (Nam Đế) đã tập hợp lại người dân nước Nam Việt cũ làm nên cuộc khởi nghĩa tiếp theo…
Câu đối ở đền thờ Lữ Gia tại Sài Sơn:
一點精忠存趙社
千秋正氣峻柴岩
Nhất điểm tinh trung tồn Triệu xã
Thiên thu chính khí tuấn Sài nham.
Dịch:
Lòng trung một điểm gìn nhà Triệu
Chính khí ngàn thu hiểm núi Sài.

P1200460Đình Ngô Sài ở Quốc Oai, nơi thờ Đỗ Cảnh Thạc và Ả Lã Nàng Đê.

 

Châu trưởng Tam Trinh hay cuộc chiến của Trưng Vương thời Đông Hán

Làng Mai Động nay là quận Hoàng Mai, Hà Nội thờ vị tướng tên là Tam Trinh, chống giặc Đông Hán. Bản thần tích của làng được lưu giữ cẩn thận tại đình và được sao chép cho một số thầy đồ, thầy cúng lưu ở tư gia. Thần tích kể:
Về đời (nội thuộc) nhà Đông Hán, đất Long Biên cũng bị chiếm luôn. Thời kỳ này có một người tên là Triệu Cẩn, là nhà từng có quyền thế trong vùng, vợ là bà Tạ Thị Thành, cũng thuộc dòng dõi trâm anh, thi lễ, hai bên xứng đôi, kết nghĩa vợ chồng. Hai ông bà chuộng nghĩa, hay làm phúc, làm việc thiện cứu giúp mọi người.
Nhưng ông Triệu Cẩn đã ngoài 60 tuổi, bà Tạ Thị Thành đã bốn mươi tư mà vẫn chỉ có vài mụn con gái. Hai người khao khát có được một cậu con trai nối nghiệp. Một đêm, bà Thành nằm mộng thấy một ông tiên đi từ trên núi xuống, hẹn cho một viên ngọc trắng. Bà Thành liền cho vào miệng nuốt ngay. Khi chợt tỉnh, bà liền nói với chồng. Triệu Cẩn cho là điềm lành. Từ đó bà Thành thụ thai, đến ngày mồng 5 tháng Giêng năm Nhâm Dần vào giờ Dần sinh được một con trai, tướng mạo khác thường, có cốt cách khác các trẻ em khác.
Đoạn đầu thần tích trên đặc biệt gợi liên tưởng đến thần tích của vị Giao Châu cư sĩ họ Đặng thờ ở đình Gia Lâm (Lệ Chi, Gia Lâm, Hà Nội). Cũng là thời Hán, cũng ở Long Biên. Cũng là ông dòng dõi gia thế, bà dòng dõi trâm anh. Ông 60 tuổi, bà  hơn 40 mới chỉ có mấy con gái, rồi mới sinh con trai. Thậm chí tên Cẩn cha của đức Tam Trinh trùng với tên mẹ của Đặng cư sĩ, còn họ của mẹ là Tạ thị thì cả hai đều giống nhau.

IMG_1000
Hội làng tại đình Mai Động.

Thần tích Mai Động kể tiếp:
Ba tuổi đã biết lễ nghĩa, hay kính nhường, nghe người ta học mà biết chữ, biết thưởng thức âm thanh.
Bẩy tuổi, cậu bé được đi học, năm 13 tuổi kinh sử đã làu thông. Cậu lại còn tinh tường võ nghệ, sĩ tử đương thời ai cũng thán phục, đều coi như là con nhà Thần Thánh. Thầy học yêu lắm mới đặt tên cho là Tam Trinh. 
Đoạn này cũng hoàn toàn giống thần tích của Đặng cư sĩ ở Gia Lâm. Nguyên văn thần tích hẳn Tam Trinh được coi là “Thánh Đồng” như bên Gia Lâm vì đã thông kinh sử từ năm 13 tuổi. Đặc biệt đoạn này cho thông tin về xuất xứ của cái tên Tam Trinh, là do thầy học yêu quý đặt cho. Thử hiểu xem Tam Trinh nghĩa là gì?
Trinh ở đây hẳn là tượng trưng cho quẻ Khôn của Kinh Dịch, vì nó liên quan đến việc học hành (thầy giáo đặt cho). Tam là hào thứ 3. Tam Trinh như vậy là hào tam của quẻ Khôn. Lời hào tam: Hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung. Nghĩa là người có chương trình hành động lâu dài thì khi làm việc lớn không thành công cũng có thành tựu nhất định.
Như vậy Tam Trinh là “Hàm chương khả trinh”, chỉ người có kiến thức, có văn chương và có tương lai lâu dài.
Thần tích Mai Động kể tiếp:
Năm 18 tuổi, cha mẹ ông đều mất, ông Trinh liền chọn đất tốt và đặt mộ cha mẹ vào đấy. Sau ba năm chôn cất, ông ra mở trường dạy học trò, nhờ vậy mà đất Nam Châu (bãi phía Nam) từ dân không biết chữ đã trở thành vùng đất văn hóa. Nhân dân mến mộ ông lắm và tôn ông lên làm Châu trưởng. Ông chăm lo đời sống trong châu, sắp xếp mọi việc làm ăn, mở mang việc học, dân chúng rất được nhờ cậy. 
Đoạn này cũng hoàn toàn trùng khớp với thần tích Gia Lâm. Tam Trinh đã giáo hóa nhân dân ở “Nam Châu” và được tôn làm Châu trưởng. “Châu” ở đây không phải là “bãi phía Nam” như bản dịch. Châu đây là Giao Châu thời Hán. Châu trưởng Giao Châu thời Hán thì còn ai khác ngoài Đặng Nhượng?
Đoạn tiếp theo thần tích kể Tam Trinh đến trại Mai Động và lập trường dạy học cho dân. Còn trong thần tích về Đặng cư sĩ cho biết ông cũng lập hành cung và dạy học tại Gia Lâm.
Cần nói rõ đây chính là vị thầy giáo có công phổ biến văn hóa chữ viết rộng rãi trong nhân dân, tức chính là “Nam Giao học tổ“, danh hiệu đã gán cho Sĩ Nhiếp.
Câu đối ở đình Mai Động:
Đức bác thánh văn truyền Việt địa
Uy dương thần vũ trấn Nam thiên.
Dịch (theo Vũ Tuân Sán):
Văn thánh đức cao truyền đất Việt
Võ thần vui mạnh dậy trời Nam. 
“Văn giáo” như thế là công lao chính của thánh Tam Trinh, cũng với võ công của ông.

IMG_1008
Tiền tế đình Mai Động.

Tiếp theo thần tích Mai Động kể việc Tam Trinh đã theo Trưng Vương khởi nghĩa, đánh đuổi quân Tô Định xâm lược, thu được non sông nước Nam cũ 65 thành trì. Tam Trinh được phong là Liệt hầu. Còn thần tích Gia Lâm thì kể Đặng cư sĩ đã dẹp loạn các tù trưởng ở 7 quận của Giao Châu, và cũng được phong là Liệt hầu, và được cho làm chức Thái thú cai quản Châu.
Tiếp nữa, thần tích Mai Động kể quân Hán (Mã Viện) kéo sang, Tam Trinh được cử ra trấn giữ cửa ải. Quân Hán tràn vào, bao vây ông ở Mai Động. Ông phá vây chạy ra ngoài, ngửa mặt lên trời than rồi hóa.
Trong khi đó, thần tích Gia Lâm kể y hệt. Thời Vương Mãng, Đặng thái thú cũng ra đóng quan ải, không giao ước với Hán quân. Quân Hán phá ải, vây ông ở Long Biên. Ông phá vây, ngửa mặt lên trời than rồi cũng hóa (ngày 10/2 trùng với thần tích của vị họ Đặng ở làng Lý Đỏ, Tân Việt, Bình Giang, Hải Dương).
Câu đối ở nghè Mai Động:
鄊而師國而將而文而武
生為英死為灵為聖為神
Hương nhi sư, quốc nhi tướng, nhi văn nhi võ
Sinh vi anh, tử vi linh, vi thánh vi thần.
Dịch:
Thầy với làng, tướng với nước, vừa văn vừa võ
Sống anh hùng, chết linh thiêng, là thánh là thần.

Đến về sau, các lần linh hiển phù trợ quốc gia của thần Mai Động và Gia Lâm cũng giống y nhau. Một lần vào thời Lê Đại Hành phá Tống (theo thần tích ở làng Lý Đỏ), một lần thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên, chém Ô Mã Nhi (hiển linh tại Gia Lâm), một lần thời Lê Thái Tổ bình Minh Liễu Thăng.
Như vậy, cả về thời gian, sự tích của Tam Trinh ở Mai Động và Đặng Nhượng ở Gia Lâm đều hoàn toàn giống nhau, nếu chỉ cần thay “Trưng Vương” bằng “Vương Mãng”. Tam Trinh chính là Đặng thái thú của Giao Châu 7 quận vào cuối đời Tây Hán và nhà Tân của Vương Mãng, đã hy sinh chống cự lại sự xâm chiếm của quân Đông Hán tới vùng này.
Câu đối ở nghè Mai Động:
一陣黑雲除漢寇
千秋香火應洲區
Nhất trận hắc vân trừ Hán khấu
Thiên thu hương hỏa ứng Châu khu.
Dịch:
Một trận mây đen trừ giặc Hán
Nghìn thu hương lửa ứng châu Nam.

IMG_1086
Hoành phi Thông minh Duệ trí ở nghè Mai Động.

Dấu vết di tích, sự tích của các vị cư sĩ Nam Giao học tổ (Sĩ Vương) dạy học cho nhân dân và hy sinh chống giặc ngoại xâm còn lại ở khá nhiều nơi, trải dài từ Gia Lâm, Mai Động, Hưng Yên, Thanh Oai, Ứng Hòa. Đây là những dẫn chứng rất rõ ràng rằng, sự kiện các cư sĩ địa phương là châu mục và thái thú Giao Châu Đặng Nhượng, Tích Quang chống lại quân Đông Hán xâm lược đã bị gán thành chuyện Mã Viện đánh dẹp Hai Bà Trưng trong chính sử. Khởi nghĩa Trưng Vương thực sự xảy ra dưới thời Tây Hán, là hậu chiến của nước Nam Việt chống Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức.