Những cuộc chiến tranh và di cư thời Hùng Vương qua các di tích đền miếu ở vùng đất tổ Phong Châu và đồng bằng Nam sông Hồng

Mở đầu

Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với các nấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới. Một triều đại mới lập nên kèm theo việc định cư người dân ở các vùng đất mới dưới một chế độ quản lý mới. Đây cũng là những mốc phát triển cương vực của nước ta trong thời đại Hùng Vương.

Những cuộc di cư, phân chia đất đai lãnh thổ được nói tới khá rõ ngay trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả. Trước tiên đó là cuộc chia tay lịch sử giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.

Người con trưởng là Hùng Quốc Vương theo mẹ Âu Cơ lập nước Văn Lang, lên ngôi vua: Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ.

Như thế, các vị sơn thần và thủy thần đều là những người con cùng bọc đồng bào đã chia ra trăm nơi đầu non góc bể trấn giữ, rồi mới hóa thần. Dấu vết của cuộc “đại phong thần” thời Hùng Vương này còn in đậm lưu truyền tới ngày nay qua các di tích thờ phụng các vị sơn thần thủy thần trải khắp từ miền trung du đất tổ Phong Châu tới vùng đồng bằng sông Hồng ven biển. Lần theo các di tích đền miếu còn lại và những sự tích lưu truyền có thể phục dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những cuộc chiến và di cư ở mỗi giai đoạn dựng nước.

GIAI ĐOẠN SƠN TRIỀU HÙNG VƯƠNG THÁNH TỔ

Câu đối ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh khái quát về giai đoạn “có tổ” của người Việt:
Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Dịch:
Sách trời định chốn, chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt biết có tổ
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

Hữu Hùng Đế Minh mở vạn bang chư hầu thiên hạ

Huyền sử Việt bắt đầu bằng Truyện Họ Hồng Bàng có Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên mà sinh ra Lộc Tục… Còn Đại Việt sử ký toàn thư mở đầu bằng câu “Thủa Hoàng Đế mở muôn nước”, nói tới cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên với Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, được huyền sử Việt chép là Đế Minh.

Ba vị quốc tổ Hùng Vương được thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và khắp các nơi trên vùng đất tổ Phong Châu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn Tây) là:

  • Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh Vương;
  • Viễn Sơn Thánh Vương;
  • Ất Sơn Thánh Vương.

3 vị Sơn Thánh là 3 vị vua Hùng đầu tiên của thời Hồng Bàng, có trước thời Lạc Long Quân nên tương ứng đó là các vị Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục như kể trong Truyện họ Hồng Bàng

Cuộc chiến lập ra thiên hạ Họ Hùng đầu tiên được lưu truyền rõ nhất trong sự tích vùng núi Tây Thiên. Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên đã hội quân ở Đại Đình dưới chân núi Tam Đảo, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng đầu tiên là Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất. Công Cha như núi Thái Sơn ở Nghĩa Lĩnh – Phong Châu. Nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) của Tam Đảo chảy mãi không ngừng.

Tam vị Thánh Tổ họ Hùng được thờ rộng khắp trên miền đất tổ Phong Châu mà trung tâm là núi Hùng Nghĩa Lĩnh ở Việt Trì, mở ra miền ngược ở Thanh Ba, Hạ Hòa, Yên Bái, hay sang phía Đông qua sông Lô tới Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.

Xuôi sông Hồng, di tích thờ Hùng Vương Thánh Tổ ở đồng bằng phía Nam không nhiều, nhưng có thể kể đến: đình Đống Long ở xã Hòa Lâm, Ứng Hòa, Hà Nội thờ Đột Ngột Cao Sơn; đền Khả Phong ở Kim Bảng, Hà Nam thờ vua Hùng Cao Sơn, các đền ở xã Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình thờ vọng quốc tổ Hùng Vương. Ở nội thành Hà Nội từng có đền thờ vua Hùng, nay là đền Dâu (Thuận Mỹ) tại phố Hàng Quạt. Ngoài ra đáng kể là một số các đình ở ngay giữa khu phố cổ Hà Nội như đình Kim Ngân thờ Hiên Viên Hoàng Đế với tư cách là tổ bách nghệ.

Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn

Tiếp theo thời kỳ Sơn triều mở nước của 3 vị Thánh tổ Hùng Vương là thời kỳ của Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, gặp và lấy mẫu Thần Long Động Đình. Chuyện này cũng là việc Tản Viên Sơn Thánh cùng vui với các loài thủy tộc ở bộ Gia Ninh và kết thân với Thủy Tinh Động Đình thủy phủ. Kinh Dương Vương và Tản Viên Sơn Thánh đều được gọi là Nam Thiên Thánh Tổ, chỉ cùng một nhân vật trong lịch sử trời Nam.

Là vị Thánh tổ của trời Nam nên số lượng nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh trải khắp miền Bắc, nhưng tập trung nhất là ở vùng Sơn Tây. Nơi đây các di tích thờ Thánh Tản dày đặc thành từng cụm, được biết dưới tên Ngũ thần cung Tản Viên, cũng là vùng Ngũ Lĩnh nơi Kinh Dương Vương đi tuần phương Nam. 

Ngũ hành cung Tản Viên hình thành một khu vực “kinh đô” của thời kỳ Kinh Dương Vương, được truyền thuyết gọi là Ngũ Lĩnh. Mỗi một “Lĩnh” hay một “thần cung” là một khu vực, trong đó lại bao gồm nhiều các “hành cung”, nay là các đền, đình, di tích thờ Tản Viên Sơn.

  • Thượng Thần cung: là cụm di tích đền Thượng, đền Hạ, đền Trung ở núi Tản Viên. Đây là nơi thờ các bậc tiên tổ Thái Bạch Kim Tinh, Ma Thị Cao Sơn, Quốc mẫu Đinh Phi.
  • Hạ Thần cung: là khu vực thấp của vùng Bể Cạn (Hạc Hải) xưa, với các di tích như đình Thụy Phiêu, Văn Khê. Đây là nơi diễn ra cuộc giao chiến Sơn Tinh với Thủy Tinh.
  • Trung Thần cung: là vùng “hạ điền” (ruộng hè) xưa, gần với ngã ba Bạch Hạc, được thần tích gọi là vùng Cổ Đằng, Tam Vật Lại. Vùng này là nơi Thánh Tản dạy dân cày cấy, đánh cá, chăn nuôi…
  • Tây Thần cung: là vùng giáp sông Đà với các di tích Ngọc Nhị, Bằng Tạ, Khê Thượng. Đây cũng là nơi có bãi Trường Sa (bãi dâu Tang Ma), chốn Sơn Tinh cứu sống con rắn thần Thủy Tinh và cũng là chuyện Kinh Dương Vương gặp Thần Long Động Đình.
  • Đông Thần cung: nổi tiếng được biết là đền Và, cùng với đền Ngự Dội ở bên kia sông Nhị. Đây là nơi yết triều của Kinh Dương Vương.
  • Nam Thần cung: là vùng Thánh Tản đi săn ở xứ Mường Mang Sơn, Quang Diệu.
  • Bắc Thần cung: vùng phía bên kia sông Hồng, với những di tích như đền Thính, đền Tranh ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc.

Từ vùng kinh đô Ngũ Lĩnh này Kinh Dương Vương – Tản Viên đã khai mở quốc gia về các hướng Đông Tây Nam Bắc, cùng với “Tứ phủ Công đồng đi tuần trong nhân gian“, thực sự đã làm nên một cuộc “Đẻ Đất Đẻ Nước” trong lịch sử nước Xích Quỷ thời đầu Kinh triều.

Ở vùng phía Nam sông Hồng, di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh có thể kể đến khu vực Ứng Hòa, Hà Tây cũ; quần thể đền Tam Thôn gồm đền Kê Thượng, đền Kê Hạ và Miễu Sơn ở xã Ninh Vân của Hoa Lư, Ninh Bình. Việc thờ Thánh Tản ở vùng Hà Nam và Nam Định thường là thờ cùng trong bộ ba Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.

Một điểm đặc biệt của khu vực đồng bằng Nam sông Hồng là tục thờ thần Hậu Tắc, nhất là ở vùng hành cung tịch điền thời Lý Trần tại xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định. Về Hậu Tắc có câu chuyện bà Khương Nguyên sinh con ra bỏ trong rừng, được muông thú che chở nuôi nấng, chính là một cách kể khác của truyền thuyết về Kỳ Mạng Tản Viên Sơn Thánh. Hậu Tắc được nhà Lý tôn là Thiên Tổ Địa Chủ Xã Tắc Đế Quân, là vị Đế Tổ sánh ngang thời với Kinh Dương Vương mở nước.

Ngũ Lĩnh và Động Đình.

GIAI ĐOẠN KINH TRIỀU LẠC LONG QUÂN

Câu đối ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình):
Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích
Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh.
Dịch:
Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ
Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.

Cuộc tranh đoạt giữa Lạc Long Quân và Đế Lai

Sau thời Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã đi nốt chặng đường khởi dựng nhờ hòa hợp 4 tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc trong chuyện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân nhờ sự hỗ trợ của dòng tộc bên mẹ ở Động Đình (biển Đông) đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng Hữu Hùng phương Bắc là Đế Lai.

Truyện Họ Hồng Bàng mô tả cuộc chiến này: “Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.”

Cuộc chiến cách nay 4000 năm này đã khởi đầu thời kỳ thị tộc phụ đạo và còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua Cha của Thoải phủ, đã tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.

Nếu vùng Phong Châu là vùng đất tổ với tục thờ các vị Hùng Vương Sơn Thánh thì vùng đồng bằng Nam sông Hồng lại là khu vực đậm đặc các di tích thờ các vị thủy thần của dòng theo cha Lạc Long Quân xuống khai phá miền biển Động Đình. Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết Lạc Long Quân “hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân” nên đức vua cha Bát Hải Động Đình của Thủy phủ chính là Lạc Long Quân. Đền thờ chính của Bát Hải Động Đình là đền Đồng Bằng ở Thái Thụy, Thái Bình. Gắn liền với vua cha Bát Hải là Ngũ vị Tôn quan, mà điển hình nhất là Quan Đệ Tam ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên, Hà Nam) và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương.

Trong Truyện Hồ Tinh thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây trong Hà thư. Dòng tộc của Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là Thục (từ “thục” trong tiếng Nôm có nghĩa là “chín”, đồng âm với số 9, chỉ hướng Tây).

Câu chuyện về Thánh Tam Giang ở Ngã Ba Bạch Hạc thi tài giữa thần Thổ Lệnh và Thanh Khanh cũng chính là giữa Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Thổ Lệnh được thờ ở vùng Thường Tín, Phủ Lý với tên Trung Thành Phổ Tế Đại Vương, với sự tích gắn với Ngã Ba Bạch Hạc rất rõ như kể ở đền Đa Chất (Phú Xuyên).

Xuyên suốt từ Ngã Ba Hạc ra tới cửa Ba Lạt là tục thờ Linh Lang Đại Vương tuy bị chép vào nhiều thời kỳ khác nhau, từ thời Hùng chống Thục ở Vụ Bản, Nam Định, tới thời Lý, rồi thời Trần. Thực ra tất cả chỉ có 1 vị Linh Lang thời Hùng Vương đã đánh Thục thắng lợi như trong thần tích ở Duyên Trường, Vụ Bản, Nam Định. Linh Lang chính là Lạc Long Quân, người đã thắng trận chiến tranh giành quyền lực với dòng lên núi của Đế Lai. Linh Lang là vua của Thủy phủ Động Đình, lấy hồ Dâm Đàm làm kinh đô của Thủy quốc. Các di tích thờ Linh Lang chạy dọc theo sông Cái từ Hồ Tây – Thanh Trì – Lý Nhân ra đến tận Thái Bình và cửa Ba Lạt.

Thế tộc Tản Viên.

Một vị thủy thần phổ biến khác là Quý Minh, thường chép là Hữu kiên thần trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh với xuất xứ từ vùng bãi dâu Tang Ma bên sông Đà, có mang danh là Lãng Nhạc Quý Minh, chỉ rõ là dòng Thủy thần. Nhiều nơi Quý Minh được phong là Đông Hải Đại vương cũng chứng tỏ điều này. Ngay cái tên Trần Quý Minh như ở đền Nội Lâm tại Hoa Lư cũng mang nghĩa là vị thần trấn Đông (vì Trần là Đông A), hay thủy thần vùng ven biển Đông. Tương tự chuyện Linh Lang đánh Thục, Quý Minh chống Thục là cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân chống lại dòng Đế Lai. Quý Minh có thể chính là Lạc Long Quân hoặc người em thứ 3 cùng bọc, tức là Quan Đệ Tam Thoải phủ.

Phổ biến ở Hà Nam và Nam Định thờ vị thủy thần Câu Mang Đại Vương, cũng là một trong Ngũ phương Đế của Đạo Giáo. Ngũ đế của Đạo Giáo có thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thượng đế, Đông Hải quân. Có thể thấy thần Câu Mang hay Cao Mang tương đương với Đông Hải Quý Minh.

Còn nhiều hình thức thờ các vị Thủy thần khác ở vùng đồng bằng Nam sông Hồng bởi đây là khu vực của Thủy quốc Động Đình vào thời 4000 năm trước, khi nước sông và biển đang rút dần, mở ra vùng đầm phá, nơi con người có thể sinh sống, làm nghề đánh cá, sống lênh đênh trên sông nước. Đặc điểm chung của các thủy thần thời này là có xuất thế là Rắn hoặc Rồng, từ cùng một bọc 2, 3 hay 5 trứng, nở ra các vị tướng có công chống giặc Thục hoặc giặc Hồ, hoặc có sự tích giúp dân hộ đê hoặc cầu mưa. Không ít nơi kể chuyện ông Dài ông Cụt, khi có 1 vị thủy thần anh em đó bị mất đuôi.

Sự kiện rồng Lạc “cụt đuôi” có thể giải thích chính là trong truyện về Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử như một giai đoạn ngắt quãng của Lạc triều khi cướp công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng làm chủ một phương, rồi bay về trời. Di tích thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở Nam sông Hồng chủ yếu gần ven sông như khu vực bãi Tự Nhiên ở Thường Tín, đền Lảnh Giang ở Duy Tiên, Hà Nam và một số di tích lân cận, tới tận Ý Yên, Nam Định..

Những vị thủy thần ở vùng Nam sông Hồng có thể kể đến 5 anh em Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Xuyên, Quảng Tế, Quảng Hóa ở khu vực Duy Tiên – Cầu Giẽ – Chương Mỹ, hay Tam Lang Long Vương từ trên khu Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) xuống Vụ Bản (Nam Định), các vị thủy thần trong đình Công Đồng ở làng Tiên Lý (Bình Lục, Hà Nam), đình Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín)…

Cuộc chiến về lại đất Lạc của Thục Chúa

Dòng tộc Đế Lai di dời về phía Tây, trải qua gần ngàn năm tới thời “Hùng Vương 18” đã trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Chúa phát động một cuộc đại chiến mà các Ngọc phả về Tản Viên Sơn ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với quân Thục lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương. 

Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Thái tổ Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của dòng sơn thần theo Mẹ lên núi của người Việt.

Âu Cơ được thờ chính ở đền Hiền Lương tại Hạ Hòa, Phú Thọ, và một vài nơi khác ở miền xuôi như đền Thuận Mỹ ở Hà Nội, đình Ngọc Trục ở Đại Mỗ, Hà Tây xưa.

Cuộc chiến Âu – Lạc là nền tảng lịch sử cho việc thờ các vị Lạc tướng Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.

Trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh thì Tả kiên thần Cao Sơn còn được gọi là Nộn Nhạc Cao Sơn, là Sơn thần nên chỉ thỉnh thoảng bắt gặp một số di tích thờ ở vùng Nam sông Hồng. Làng Trung Kính Thượng tại Hà Nội thờ Hùng Nộn Công là một hình thức của Nộn Nhạc Cao Sơn Đại vương. Một số di tích ở Ninh Bình thờ Cao Sơn là Lạc tướng Vũ Lâm cũng có thể được nhận định là ở thời kỳ này.

Các vùng di tích Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.

Vùng Phong Châu gặp nhiều di tích thờ Cao Sơn và các vị tướng chống Thục hơn bởi vì nơi đây đã diễn ra cuộc đụng độ giữa dòng Hùng Vương và Thục Vương trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Ví dụ:

  • Ở Quế Nham (Đồng Quế, Sông Lô, Vĩnh Phúc) thờ 4 vị đại vương là danh tướng theo Sơn Thánh đánh Thục.
  • Ở Hương Lan (Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ) thờ 3 vị Chàng Chấu Linh Lang đại vương, là tùy tòng hầu kiệu của Duệ Vương.
  • Ở Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì, Phú Thọ) thờ Tả hữu kiên thần Cao Sơn, Quý Minh và Cương Trực tướng quân.

Sự kiện Hùng chống Thục thời Cao Sơn Đại vương  diễn ra 1000 năm sau cuộc chiến chống Thục thời Quý Minh – Linh Lang, khi đại diện của dòng Thục của Đế Lai xưa là Âu Cơ quay trở lại, đánh bại dòng Lạc từ Lạc Long Quân Sùng Lãm (Sùng cũng nghĩa là Cao nên Cao Sơn còn có tên Nguyễn Sùng), lập nên nước Văn Lang đóng đô ở Việt Trì.

GIAI ĐOẠN THỤC TRIỀU AN DƯƠNG VƯƠNG

Câu đối ở nghi môn đình Bảo Đà (Dữu Lâu, Việt Trì):
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch:
Mấy ngàn năm giúp đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.

Cuộc chiến đánh giặc Ân dựng nước Văn Lang

Lễ hội làng Phù Đổng kể Hùng Vương thứ 6 đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Dẫn đầu quân đội nhà Ân lúc này là “28 tướng cường nữ nhung” với các thủ lĩnh là Thạch Linh Thần tướng và Ma Cô Tiên (Ma Lôi), hậu phi của vua Ân. Theo Truyện Giếng Việt, Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương được truyền thuyết Việt gọi là vua Hùng đời cuối (Hùng Duệ Vương), chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng “Bách thần nguyên tự”, phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên Hùng – Thục để ngàn đời hương hỏa. 

Thục Vương còn được kể dưới tên Lang Liêu trong Truyện Bánh Chưng, chỉ thủ lĩnh của người Liêu – Lão (Ai Lao Di). Nhờ có lòng hiếu kính tổ tiên, Lang Liêu đã lên nối mệnh trời, lập cột đá ở Nghĩa Lĩnh thề trung thành với họ Hùng của Đế Minh, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ gìn đất nước. Trước đây ở Việt Trì có di tích phủ Lang Liêu ở làng Dữu Lâu, nay được được phục dựng lại. 

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể rằng Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời được cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương chính là vua Lang Liêu trong truyền thuyết. Bắt đầu từ đây xã hội Việt bước vào thời kỳ phong kiến phân quyền, hay thời kỳ “Trị bình kiến phu” (trị quốc, bình thiên hạ, kiến lập chư hầu) như chép trong Ngọc phả.

Khu vực phía Nam sông Hồng tuy không phải nơi xuất phát của Phù Đổng Thiên Vương nhưng cũng là nơi xuất tích của khá nhiều vị tướng cùng thời, theo Thánh Dóng diệt giặc Ân. Có thể kể đến anh em Minh Gia, Minh Tôn ở Hiển Khánh (Vụ Bản, Nam Định), Quan lang Hoàng Đào ở Hổ Sơn (Vụ Bản, Nam Định), 3 vị đại vương ở An Lạng (Văn Lý, Lý Nhân, Hà Nam), Cốt Tung ở Liễu Trì, Hạ Lôi, Lý Tiến ở Hà Nội…

Các vị thần nước Âu Lạc 

Trong thời kỳ dựng nước Văn Lang đã xuất hiện một số nhân thần được tôn thờ ở vùng Nam sông Hồng. Trước hết đó là Nam Hải Đại vương tức An Dương Vương, như ở Cố Đê, Vụ Bản, ở Lạc Na, Hồng Quang, Nam Trực (Nam Định) hay các nơi thờ vợ, con của An Dương Vương ở Thái Bình.

Tướng quân Cao Lỗ, người giúp An Dương Vương chế tạo nỏ thần cũng được thờ ở một số nơi tại vùng Nam sông Hồng, như ở đình Từ Châu, Liên Châu, Thanh Oai.

Vị thần khác thời kỳ Âu Lạc là Đồng Cổ Sơn thần được thờ rải rác từ Hà Nội (Nguyên Xá, Đông Xã), Nam Định (Vụ Bản) đến Thanh Hóa với sự tích về trống đồng trấn áp giặc Chiêm Hồ và hiển linh giúp vua Lý trong sự kiện Tam Vương.

Một vị nhân thần kỳ lạ đáng kể ở thời kỳ Thục An Dương Vương là Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử Lý Nhĩ Đam mà sự tích ghi quê ở Thúc Lực, Kim Chân tại Hà Nam (Kim Bảng). Thái Thượng Lão Quân được thờ ở đình Phù Vân tại Phủ Lý, chùa Bà Đanh thuộc Kim Bảng, Hà Nam, hay ở động Thiên Tôn Hoa Lư, với sự tích là đã giúp An Dương Vương trừ yêu diệt quỷ xây thành Cổ Loa hoặc chống “giặc” Xích Tị bằng phép thư phù (chữa bệnh dịch).

GIAI ĐOẠN THỐNG NHẤT THIÊN HẠ

Câu đối ở đình Xuân Quang tại Văn Giang, Hưng Yên:
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch:
Một lệnh dẹp không Tần, vạn dặm mở đầu dứt Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, nghìn năm gây nền vững đế vương.

Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Triệu Trọng Thủy

Truyện Rùa Vàng kể, cuối thời nhà Thục, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Hoàng thế tôn của Triệu là Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Đông Ngàn Cổ Loa của An Dương Vương. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển, chấm dứt thời kỳ tồn tại hơn 800 năm của nước Văn Lang – Âu Lạc. Từ đó bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất thiên hạ của nhà Triệu.

Sử ký Tư Mã Thiên chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương đánh bại Chu Noãn Vương năm 257 TCN, khởi đầu triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, truyền thuyết Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.

Vùng Phú Thọ có cụm di tích thờ  hai vị tướng là Hồ Thiên HươngĐinh Công Tuấn chống lại họ Triệu ở bên sông Thao.

Ở vùng phía Nam sông Hồng không có di tích thờ Trọng Thủy hoặc Mỵ Châu như vùng Cổ Loa. Tuy nhiên, có một số di tích ở vùng Hà Nam, Nam Định thờ các vị tướng của nhà Thục chống lại cuộc xâm lăng của nhà Triệu như ở đền Vĩ ở Cao Viên, Thanh Oai thờ tướng Vũ Chiêu Tâm. Ở Vụ Bản, Nam Định có các tướng của Thục là Cao ĐệTrì Chân chống lại giặc Triệu.

Về sự hiện hữu của nhà Tần trên đất Việt còn có di tích thờ Đức thánh Chèm là Lý Ông Trọng ở Ninh Sơn, Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, là nơi Lý Ông Trọng đã tử tiết.

Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Vũ Đế

Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu khắp nơi lại nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, lúc này một đình trưởng huyện Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hán Hiếu (Hảo hán).

Lịch sử Việt gọi Hiếu Cao Tổ là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), năm 206 TCN đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm các quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế. Sau khi Cao Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa lại chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) chiếm giữ vùng phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là Lữ Gia. Cuộc đối kháng 2 miền Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.

Cụm di tích thờ Triệu Vũ Đế ở Gia Viễn, Ninh Bình tại các đình Trùng Thượng, Trùng Hạ, Thần Thiệu. Một số di tích thờ Triệu Việt Vương ở Nam Định cũng có thể là thờ Triệu Vũ Đế. Đền Nhự Nương thời Hoàng hậu Trình Thị, vợ của Triệu Vũ Đế tại Nam Trực, Nam Định.

Đặc biệt là cụm di tích ở Mạo Phổ, Lương Lỗ, Thanh Ba và thị xã Lâm Thao, Phú Thọ thờ Triệu Ông Út hay Út Ngọ Lôi Mao, là Việt Tây Vương sau thời Tần. Đây chính là vua Văn Vương nhà Triệu của nước Nam Việt có kinh đô ở Phiên Ngung.

Thay cho lời kết

Các di tích tín ngưỡng dân gian ở nước ta thực sự là kho tư liệu phong phú, đa dạng, độc đáo, đặc sắc, không gì thay thế được đối với những nghiên cứu tìm về lịch sử nguồn cội của dân tộc, từ thời kỳ xa xưa nhất khi xã hội và con người Việt mới hình thành, từng bước từng bước dựng nên non sông vững bền bởi những công sức của các bậc tiền nhân mà đã hóa thành những vị thần trong lòng dân tộc. Đó là cuốn đại sử thi được viết nên từ những di sản vật thể và phi vật thể trong dân gian qua suốt chiều dài lịch sử.

Tìm hiểu, so sánh đối chiếu, tổng hợp khái quát vào kho tàng sử liệu dân gian cho phép phát hiện, nhận diện ra từ những chi tiết lịch sử đến cả tiến trình phát triển xã hội trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử thật sự của dân tộc bị khuất lấp trong lớp bụi mờ của thời gian nhưng không mất đi, mà lịch sử đó vẫn đang sống cùng với nhân dân trong từng di tích, từng sự tích, từng lễ hội ở mỗi làng quê miền xuôi cũng như miền ngược. Bảo tồn di tích, nhìn nhận lại quá khứ là sự thôi thúc đối với mỗi người dân đất Việt, để hướng đến tương lai một cách tự tin hơn, vững chắc hơn.

Trên cơ sở phân tích các thần tích, ngọc phả và đối chiếu các di tích thờ cúng các vị thần ở nước ta, thời đại Hùng Vương có thể được diễn đạt qua 4 giai đoạn như trong sơ đồ sau.

Bốn giai đoạn của thời đại Hùng Vương.

Tài liệu tham khảo

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, Thích Tâm Hiệp. NXB Lao động, 2022.

Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn. Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân, NXB Lao động, 2022.

Lĩnh Nam chích quái. Trần Thế Pháp; Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận chính. Bản in của NXB Văn học, 1990.

Sự tích các vị thần linh thờ ở đền làng huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Bùi Văn Tam. NXB Khoa học xã hội, 2015.

Di sản văn hóa đình đền Mạo Phổ. Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Lưu, Nguyễn Đức Tố Huân. NXB Lao động, 2022.

Sự tích các thành hoàng làng Thăng Long – Hà Nội. Đỗ Thị Hảo (chủ biên). NXB Chính trị quốc gia, 2020.

Hà Nội di tích và văn vật. Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội. Sở văn hóa và thông tin Hà Nội, 1994.

Thần tích thần sắc Hà Nam. Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh (chủ biên). NXB Khoa học xã hội, 2004.

Thần tích Hà Nội. Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội. Nguyễn Thị Oanh. NXB Hà Nội, 2019.

Sử ký Tư Mã Thiên. Phan Ngọc dịch. NXB Văn học, 2006.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s