Sách ebook LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG Tân biên & Vịnh sử

Lời nói đầu

Lịch sử các vua Hùng dựng nước luôn là câu hỏi nhức nhối đối với bất kỳ người Việt nào muốn tìm về nguồn cội của mình. Hàng ngàn năm lịch sử với 18 triều đại Hùng Vương đâu phải là một chớp mắt. Vậy thời đại Hùng Vương thực sự đã diễn ra như thế nào? Chắc chắn, trên bước đường chập chững lúc mới nên hình nước non đã xảy ra bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thách thức. Những bước tiến nào mà xã hội người Việt đã trải qua trong suốt hàng ngàn năm đó? Cha ông người Việt đã làm gì để đã vượt qua những thách thức đó?

Cuốn sách tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương thành một mạch xuyên suốt từ khi mở trời mở đất cho đến vị vua Hùng cuối cùng qua những sự kiện, những mốc phát triển chính. Cuốn sách không tham vọng khảo chứng lịch sử, mà là chia sẻ sự nhìn nhận có được qua việc tìm hiểu quá khứ từ những dữ kiện và góc nhìn khác nhau. Đó là việc đối chiếu các nguồn tư liệu thành văn của Hoa sử và Việt sử. Là những thông tin chắt lọc từ những sự tích thờ cúng, lễ hội cho những anh hùng, những nhân vật trong suốt chiều dài sử Việt. Là sự suy ngẫm trước những hiện vật khảo cổ biết nói đã được phát hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực trời Đông. Là góc nhìn địa văn hóa, sử văn hóa từ những dấu vết ngôn ngữ, triết học cổ.

Trên bìa những cuốn lịch sử Hùng Vương xưa (ngọc phả Hùng Vương) được soạn bởi các bậc hàn lâm học sĩ đương thời có đề đôi câu đối:

Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục mệnh thi.

Tức là:

Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử
Thấy rành như vẽ mới làm thơ.

Xem kỹ những gì đã biết về các vua Hùng, thấy sự việc rõ rành thì tất có cái hứng để làm thơ, để ca ngợi công đức tiền nhân, để cảm sự nỗ lực của người Việt dựng nên nền tảng văn hóa xã hội ngàn đời cho con cháu. Sau phần biên diễn lịch sử là những bài thơ vịnh sử xuất phát từ những cảm hứng này.

18 vương triều Hùng bất diệt. 3000 năm xã hội Việt phát triển qua 4 giai đoạn từ thấp đến cao. Không gian lịch sử bao trùm khắp trời Đông. Những vị anh hùng đã hóa thần trong sử Việt. Đó là những gì cuốn sách muốn gửi gắm đến các bạn đọc ngày hôm nay.

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách phát hành online bởi Hùng Việt sử quán.

Bất kỳ sự sao chép, in ấn nào từ tác phẩm với mục đích thương mại đều phải được phép của tác giả.

Link tải sách:

https://drive.google.com/file/d/1OmKTZHLxNdEhZaEcLS7Rfqu1pop4tpAx/view?usp=sharing

Mã QR

Liên hệ để nhận mật khẩu theo:

    Facebook: https://www.facebook.com/hungvietsuquan

    Email: bachviet18@yahoo.com, 

    Phone, Zalo: 0559551003.

Mục lục

Lời nói đầu 

LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG
    Thời thần thoại
    Tam Sơn Hùng Vương Thánh Tổ
    Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương
    Động Đình Lạc Long Quân
    Chử Đạo Tổ
    Long Khuyển Bàn Hồ
    Âu Cơ và Sùng Lãm
    Trị bình kiến phu
    Đông Chu phong vũ
    An Dương Vương
    Tần Việt nhân duyên
    Vạn Xuân Triệu Vũ Đế
    Triệu Việt Vương
    Hậu Lý Nam Đế
    Trưng Lữ Vương
    Vương Mãn
MẤY BÀI THƠ SỬ
    Thấy rành như vẽ mới làm thơ
    Ngày giỗ Tổ
    Sơn Tinh
    Tản Viên
    Sơn Tinh – Hạ Vũ
    Bốn ngàn năm
    Nhớ Hằng Nga
    Hiếu với trời đất
    An Dương Vương
    Phù Đổng Thiên Vương
    Phong thần
    Nước Việt Thường
    Lão Tử Cổ Loa
    Cổ Loa thành
    Ai oán Mỵ Châu
    Lý Bôn
    Chuyện Nam Việt
    Từ Nam Việt đến Đại Việt
    Trưng Triệu
    Đất nước tôi

Lưu hầu Trương Lương ở… chùa Hà

Khu vực chùa Hà ở Dịch Vọng (Hà Nội) thờ vị Đại Vương là Triệu Chí Thành, Đô thống Nguyên soái của Triệu Việt Vương. Sự tích đầy đủ của vị Đại vương này được chép trong thần tích hai giáp Thọ Tháp và Bối Hà dưới đây.

Điều lạ trong thần tích Bối Hà là không hề nói gì tới Lý Bôn (Lý Nam Đế), cho dù lại kể việc Triệu Việt Vương vào hồ Điển Triệt, rồi động Khuất Liêu chống giặc. Sau đó Triệu Việt Vương lên ngôi thiên tử, xưng Đế. Có thể thấy, Triệu Việt Vương trong thần tích này chính là Triệu Vũ Đế – Lý Bôn – Lưu Bang, chứ không phải Triệu Quang Phục.

Đại vương Chí Thành nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Ngài ngày ngày thường ở riêng một chỗ, tự xem sách, không cần người chỉ dạy, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Đến khi trưởng thành ngài tài đủ văn võ, phẩm chất hơn người, anh hùng vượt đời xưa, tính tình lương thiện, khoan hòa trung chính, giỏi bày mưu lược, nuôi dưỡng hùng tài.

Đoạn kể này không khác gì nói về Trương Lương, mưu sĩ số 1 của Lưu Bang. Trương Lương từng lập mưu ám sát Tần Thủy Hoàng khi đi Đông du, nên rất có thể Trương Lương đã từng đến vùng đất Bắc Việt nước ta ngày nay, vốn là nơi Tần Thủy Hoàng ra biển Đông gặp đạo sĩ Yên Kỳ Sinh tìm phương thuốc trường sinh.

Điểm đáng chú ý khác là Đại vương Chí Thành rất giỏi âm luật và đàn sáo. Tiếng sáo của Trương Lương cũng đã đi vào sử sách khi nó được dùng để phá tan quân Sở của Hạng Vũ bên sông Ô Giang.

Khi Triệu Việt Vương chống quân Lương gặp khó khăn, Đại vương Chí Thành đã lập đàn cầu khấn trời phật, và được Lão Phật giáng thế, ban cho tỉ phù làm bảo bối. Còn Trương Lương cũng nối tiếng với câu chuyện học được Thái công binh pháp của Khương Tử Nha. Đoạn trích Phật giáng trong thần tích Bối Hà cũng được chép trong Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả. Vị “Phật” ở đây không ai khác chính là Thái Công Lã Vọng của vua Hùng Văn Lang.

Đại vương Chí Thành còn là người đã dùng chiếc móng rồng mà Chử Đồng Tử trao cho Triệu Việt Vương làm ra nỏ thần, phá tan quân Lương ở sông Bình Giang, chém tướng Dương Sằn ở núi Phù Long. Tương tự như đã kể ở trên, Trương Lương là người đã thổi tiêu làm tan rã quân Sở, giết được Hạng Vũ bên bờ Ô Giang.

Sau khi Triệu Việt Vương lên ngôi Thiên tử, Đại vương Chí Thành mộng thấy Thiên tướng xuống triệu hồi về Thượng Đế, rồi hóa ở Thạch Bàn Long Đầu. Còn Trương Lương là đại công thần được Lưu Bang phong là Lưu hầu, nhưng cuối cùng xin được học phép tu tiên, không màng danh lợi mà mất.

Thạch Bàn là nơi Lã Vọng câu cá, Văn Vương cầu hiền, cũng là nơi Trương Lương trở về tìm gặp thầy của mình là Hoàng Thạch Công sau khi thành nghiệp, tức là khi quay về tu theo tiên đạo.

Có thể thấy 2 sự tích về Đại vương Triệu Chí Thành ở Bối Hà và Lưu hầu Trương Lương hoàn toàn khớp nhau, nhất là một khi xác định Triệu Việt Vương là Lý Bôn – Lưu Bang.

Chữ Hà ở đây nghĩa là nhờ ơn. Bối Hà là nhờ ơn quý báu của bậc Tiên Phật danh sĩ đại công thần Trương Lương, một trong Hán sơ tam kiệt.

Thần tích giáp Thọ Tháp và Bối Hà, Dịch Vọng: https://bahviet18.com/2023/07/18/giap-tho-thap-giap-boi-ha-xa-dich-vong-trung-phung-sao-than-tich/

Giáp Thọ Tháp, giáp Bối Hà xã Dịch Vọng trung phụng sao thần tích

Ngọc phả triều Triệu Việt Vương

Do bộ Lễ triều Lê Thượng thư Quản giám tri điện vâng sao sự tích cổ truyền,

Hoàng đế Bệ hạ khâm phụng sắc chỉ cho thần hiệu.

Xưa Đại vương là người ở trang Thái Bình, Chu Diên. Đất này bằng phẳng, nước trong đẹp, có một nhà họ Triệu tên là Xương, lấy vợ là Lý Thị Thích. Vợ chồng chuyên tâm làm phúc, ngày ngày thắp hương khấn cầu Thượng Đế, ba kiếp hương đèn, một đời phong lưu, để rồi có dư phúc đức. 

Vào đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, bà Lý nằm mộng thấy hào quang đầy nhà, chợt có một con rắn hoa màu trắng cuộn bò tới, lờ mờ hóa thành bông sen trắng. Bà Lý cầm lấy. Thế rồi có mang. Mang thai độ một năm, ngày 10 tháng 1 năm Quý Hợi thì thai nhi vận chuyển. Đến ngày 11 thì hương thơm khắp nhà, ánh sáng chiếu soi trong màn trướng. Giờ Ngọ ngày 11 thì sinh hạ được một nam nhi, tướng mạo phi thường, hình dung đẹp lạ. Mọi người đều vui mừng, biết là trời đất cảm cách lòng trung thành mới đặt tên cho ngài là Triệu Chí Thành. 

Ngài ngày ngày thường ở riêng một chỗ, tự xem sách, không cần người chỉ dạy, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Đến khi trưởng thành ngài tài đủ văn võ, phẩm chất hơn người, anh hùng vượt đời xưa, tính tình lương thiện, khoan hòa trung chính, giỏi bày mưu lược, nuôi dưỡng hùng tài.

Bấy giờ, Triệu Vương đánh quân Lương Trần Bá Tiên mà chưa phân thắng bại. Triệu Chí Thành Đại vương huy động được ba ngàn quân đến theo Triệu Việt Vương dẹp giặc. Việt Vương phong cho làm Đô thống Nguyên soái, cấp cho 8 nghìn quân, đóng quân ở sông Tô Lịch, cự chiến với Trần Bá Tiên ở Gia Ninh. Bị thất bại, bèn cùng với Triệu Việt Vương vào động Tân Xương, đóng đồn quân ở Điển Triệt.

Vào ngày mồng 10 tháng 8 lại dẫn quân đánh ở Thí Mô. Quân Lương thua. Đuổi theo chém vô số. Quân Lương kinh sợ. Đến ngày 21 tháng 11 cùng với Bá Tiên đánh ở động Khuất Liêu. Triệu Việt Vương và Đại vương thua trận, nên rút về giữ Dạ Trạch để chống cự với quân Lương. 

Triệu Việt Vương lo sợ quân Lương đang rất mạnh. Ngày 5 tháng 5 Triệu Việt Vương lệnh cho Đại vương sắm lễ lập đàn, bái yết với trời đất, thần linh, cầu Phật cầu tiên, truyền hịch đi các châu huyện, nơi nào có tăng ni đạo sĩ thì đến đó đều cấp phát áo mũ, lệnh giảng chân kinh, thuyết pháp tu hành, mở rộng đạo nguyên, tiến cúng hương hoa, ngày đêm thơm phức.

Đại vương Chí Thành kính cẩn dâng sớ lên Thượng giới. Quả là chốn Cửu tiêu tuy xa, hương khói vẫn thấu tới mây từ, một tấm lòng thành mà cảm cách thông tới trời đất. Do trọng việc quỷ thần mà có thể một lần được thấy thưởng công. Cầu gì tất ứng, ước nguyện là được như ý. Bỗng thấy một ông lão râu tóc bạc trắng, cao hơn 7 thước, ngồi ở ngã ba đường, cười nói nhảy múa. Người dân thấy vậy đều lấy làm lạ, nên vào tâu lên Việt Vương.

Vương cung kín đón vào trong đàn, lệnh cho Nguyên soái bày tiệc mừng. Việt Vương thân hỏi rằng:

– Nay có đại tướng Lương là Trần Bá Tiên, Dương Sằn đến xâm chiếm, thắng thua thế nào, xin Lão ông chỉ giáo cho.

Lão ônng nói:

–   Ta là thần ở miền Tây Vực, sống lâu trong biển Giác, chu du trên thuyền Bát Nhã, không nhiễm lòng trần, tẩy rửa con đường Niết Bàn. Nay do thành tâm mà cảm cách, kinh kệ truyền thanh âm, khiến ta cảm ứng mà đến giúp vậy.

Việt Vương mừng thầm, người chuyên tâm thanh tịnh, ý trời tất sẽ thông. Lát sau, Lão ông bốc thẻ gieo quẻ, nói với Việt Vương rằng:

– Nay Hoàng đế thành tâm cầu đảo, trời ắt ứng cho. Ngày sau Chử Đồng Tử sẽ cho chiếc móng rồng. Chử Đồng Tử là con rể quý của vua Hùng. Còn nay lão có một vật quý của trời, dùng chế làm ấn tín, nên mài dũa để làm quốc bảo.

Nói xong Lão ông cưỡi mây mà đi. Vương mới biết đó là Phật, bèn bái vọng theo. Ngay hôm đó sai quan kính cẩn làm lễ chay bái tạ.

Đến ngày 18 tháng 6 Việt Vương cho lập Vọng Tiên đàn ở đầm Dạ Trạch, sai trăm quan văn võ đứng chầu nghiêm trang. Triệu Vương bái yết, cầu khấn:

– Xin Trời cho thần tiên giáng hạ để trước may được gặp mặt, sau là thỏa ước ba sinh vậy.

Đọc chúc xong liền bái tạ. Tụng niệm suốt ba ngày vẫn không thấy dấu tiên. Việt Vương bồi hồi, không biết làm thế nào. Vào giờ Ngọ ngày 21 chợt thấy mây trời ảm đạm, nước sông ù ù như nổi sấm vang. Giao long, cá, ba ba nổi hàng đàn trên muôn sóng. Côn, ngạc, kình nghê xếp cuồn cuộn trên sóng ngàn tầng. Điện vũ nguy nga, yên hà lấp lánh. Rồng mây bốn bề mờ ảo, ẩn hiện Phật quốc lâu đài. Non nước một bầu, như thấy Bồng Lai tiên cảnh. Phong quang tươi thắm, trăm hoa đua hương. Nhấp nhô những đỉnh non nhỏ, tựa rồng trắng giáng khí. Bỗng thấy một áng mây vàng rực rỡ từ phía Tây bay lại tụ ở trên đàn. Việt Vương bái yết. Lại thấy rồng thành năm sắc, Chử Đồng Tử cưỡi trên lưng rồng vàng, tháo móng rồng trao cho Việt Vương, mà nói:

– Dùng nó làm lẫy nỏ, thì không còn lo giặc nữa.

Rồi tự nhiên bay lên mà đi. Việt Vương mới biết là Chử Đồng Tử ban cho móng rồng, đúng như lời báo của Lão ông, sự việc quả không sai, bèn vọng bái.

Triệu Việt Vương từ khi có được ứng điềm móng rồng tới ngày 12 tháng 7 sai Đại vương Chí Thành chế nỏ, lấy móng rồng làm lẫy. Đến ngày mồng 3 tháng 9 đánh một trận ở sông Bình Giang. Quân Lương thua. Lại đánh trận ở bãi Quân Thần (nay là Thượng Hạ Cát). Quân Lương thua to.

Khi ấy nhà Lương có loạn Hầu Cảnh. Vua Lương triệu Trần Bá Tiên về nước, để lại Dương Sằn chống cự cùng với Triệu Vương. Việt Vương sai Đại vương Triệu Chí Thành tấn công Dương Sằn ở núi Phù Long mà phá được, chém và bắt được rất đông quân giặc. Chém được Dương Sằn ngay trên xe.

Đại vương quay trở về, đi qua trang ấp nào, phụ lão đều thắp hương bái yết, nghênh giá. Đại vương ban tặng 300 quan tiền để mua ruộng làm ruộng thờ. Lệnh lập hành cung để sau này có chỗ hưởng thần. Cả thảy có hơn 15 cung.

Vào ngày mồng 10 tháng 10 Đại vương đến khu đất giữa trang Dịch Vọng, thấy phụ lão nhân dân đều thắp hương bái mừng đón như vậy. Trên đường Chí Thành đi qua, giữa trang thấy có một thế đất núi bằng nước đẹp, liền ở lại mấy ngày. Ban cho phụ lão 500 quan tiền để dựng hành cung. Phụ lão tranh nhau mổ trâu khao hưởng quân sĩ. Đại vương đều từ chối.

Ngày 12 tháng 10 Ngài dẫn quân về thành Long Biên để tấu sớ. Triệu Việt Vương mở tiệc lớn mừng. Triều thần trăm quan đều đến chầu. Việt Vương lên ngôi Thiên tử, đóng đô Long Biên. Triệu Vương lên ngôi, thực thi đức hóa, khuyến khích cấy trồng, làm cho nhân dân không lo thiếu thốn, nước nhà có của cải tích lũy.  Khắp nơi thái bình, dân không dối trá. Tục luật được làm đơn giản, thuần phác. Xét cốt lõi việc chế trị đương thời rạng hơn đời trước. Đương thế gọi là vị vua hiền vậy.

Việt Vương phong Chí Thành ở thành Ô Diên (nay là Hạ Mỗ). Trong ngày 6 tháng 8, Đại vương  đêm mộng thấy một người mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng, tự xưng là Thiên tướng, quỳ ở trước sân, nói rằng:

– Ngọc Hoàng Thượng Đế sắc chỉ triệu hồi ngài về chầu Thượng Đế.

Nói xong thì biến mất. Đại vương tỉnh dậy, gọi Phạm phu nhân, cùng các con tụ họp để lo chuẩn bị. Ngày hôm đó bỗng bị đau đầu, 3 ngày thân thể không yên. Triệu Việt Vương tự thân đến thăm, cầm tay Đại vương nói rằng:

– Trẫm nhờ ơn Ngài mà dẹp được giặc, yên ổn được nước. Nay Ngài bị bệnh đến như vậy, e khó qua khỏi.  Ngài có ý nguyện gì cho về sau này, Trẫm cũng sẽ  theo đó mà báo đáp được nhiều nhất có thể vậy.

Đại vương nói:

– Thần không có ý nguyện gì ngoài việc xin Bệ hạ đưa thần đến nơi đất đầu rồng bàn đá. Lá cờ dùng khi thần từng đánh giặc cũng đem đến. Thần tung cờ lên trên trời. Nếu cờ bay rơi ở đâu thì xin Bệ hạ cho địa phương nơi đó miễn tô thuế, các phục dịch, để cho việc thờ phụng thần được hưởng muôn năm không ngừng vậy.

Đế đều đồng ý. Tới ngày 12 Đại vương tung cờ lên trên trời rồi hóa. Đế than tiếc mãi không thôi, thật là thương xót. Bèn sai bề tôi một mặt xem cờ dừng ở địa phương nào thì dân địa phương đó lập tức đến kinh thành đón nghênh thần sắc về lập miếu phụng thờ. Mặt khác, lập miếu ở ngay chính nơi đầu rồng bàn đá, bao phong là Đại vương. 

Sứ thần theo cờ bay đến khu giữa Dịch Vọng, miếu Thọ Tháp thì cờ dừng ở tại đất đó. Nhân dân phụ lão lên kinh thành phụng nghênh thần hiệu. Triệu Vương cho miễn tô thuế và tạp dịch, ban cho tiền để lập miếu. Phụ lão vâng lĩnh tiền 38 quan, đón thần vị Đại vương. Mặt khác, bèn đón thỉnh thầy phong thủy nổi danh để tìm một khu có đủ thiên văn địa lý, lại đúng ở trong nơi hành cung trước đây. Khi hỏi kỹ phụ lão trả lời rằng:

– Đây đúng là chỗ hành cung cũ của Đại vương.

Phong thủy bèn lập hướng Càn Tốn kiêm dựa Nhâm Bính, hướng trước Cấn Khôn. Trước mặt có Sao vàng làm án. Sau có Mình rồng bao lót. Hai dòng nước hợp lại. Đất phát nhiều nam cường tráng, văn nhân tuấn tú. Khu vực xung quanh đó phụng thờ hàng năm hương hỏa, đời đời truyền thừa.

Đại vương khi sinh thời võ công hiển hách, tiếng tăm lẫu lừng, giúp bang lập quốc. Sau khi hóa các trang ấp địa phương có điển thờ phụng tôn nghiêm. Bảo hộ dân sinh. Lễ ấy, thờ ấy là mãi, là yên. Đẹp thay! Tốt thay! Mãi mãi không dừng!

Chánh hội Nguyễn Xuân Quyết,

Lý trưởng Đào Văn Hanh.

Ngọc phả chép về Triệu Việt Vương Hoàng Đế ở Độc Bộ – Kiên Lao

Dịch từ bản khai thần tích làng Độc Bộ, tổng Thanh Khê, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định và làng Kiên Lao, tổng Kiên Lao, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Ngọc phả chép về Triệu Việt Vương Hoàng Đế (Chi Càn, Bộ thứ nhất, Thượng đẳng thần)

Phụ cùng với Hiếu túc Anh nghị Đại vương và Vĩ tích Hồng hy Đại vương (Chi Cấn, Bộ thứ hai, Trung đẳng thần)

Chính bản của bộ Lễ quốc triều

Xưa đất Việt ta trời Nam mở đất phân ngang núi sông theo sao Dực, sao Chẩn. Nước Bắc được phong thẳng hướng sao Đẩu, sao Ngưu làm chốn chia phân. Từ triều Hùng mở vận hơn hai ngàn năm, Dương Vương nắm quyền đến cuối được 50 năm, Triệu Đà có nước, năm đời làm vua. Từ đó đất Việt ta nội thuộc Tây Hán. Trải qua Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Tề, Lương tổng cộng hơn ba trăm năm.

Đến thời Lương sai Tiêu Tư làm thái thú đất Việt ta. Tư là người tham lam, bạo ngược, xâm chiếm Trung Nguyên, sưu dịch nặng, cướp  bóc nhiều. Dân chúng chịu cảnh khổ cực ưu phiền kéo dài. May mà lòng người ghét loạn, ý trời cho bình an. Khi ấy có người đất Long Hưng, Thái Bình, họ Lý tên Bôn, khởi nghĩa lớn ở châu Thái Bình. Nhưng đang khi đó chưa có được người nào là nam nhi có tài thao lược để kết làm bạn cùng hưng vong. Cho nên gió thần khởi nghĩa còn chưa phát động. Tin thay! Đã có quân tất sẽ có thần. Rồng gầm bên suối không có ý tới mây, mà mây lại vì thế mà kéo đến.

Chính ở đất Việt ta tại huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một người ở địa phương họ Triệu tên Túc, vợ là Lý Thị Đàm. Ông Triệu nhà vốn thường làm việc thiện đức, phát chẩn cứu người nghèo, ba đời hương khói đều là bậc phong lưu lâu dài, có dư giả vậy. Một hôm phu nhân nằm nghỉ ở hiên nhà phía Tây, mơ màng nằm mộng. Bỗng thấy thân cưỡi rồng vàng bay thẳng lên trời. Hoàng thiên ban cho một Tiên đồng. Đến khi trở về tới nửa đường thì gặp một người đầu đội mũ sao, tay cầm quả đào, cưỡi con lân đỏ theo phương Nam mà đến, chỉ phu nhân nói rằng:

  • Gia đình nhà ngươi có được phúc tốt sao, lấy được một tiên đồng về. Ngày sau sẽ giữ nước yên dân, lưu tiếng ngàn năm. Đáng tiếc là phúc này chưa vẹn. Người con này không thành được lâu dài.

Phu nhân nghe lời, bỗng nhiên tỉnh giấc, kể với ông Triệu. Ông rất mừng nói:

  • Phúc của nhà ta chính là điều này.

Từ đó lo chia tài sản tạo phúc, chu cấp cho khách khứa, giúp xây dựng hưng công. Qua khoảng một năm phu nhân quả nhiên có mang. Đến kỳ mãn nguyệt vào năm Giáp Dân mùa xuân ngày mồng 6 tháng Giêng sinh được một người con trai, diện mạo khác thường, quả đúng như hình tiên đồng đã thấy. Ông Triệu rất mừng, cho rằng người con này tất sẽ khôi phục làm rạng rỡ nghiệp nhà, bèn đặt tên là Quang Phục.

Năm thứ hai phu nhân lại sinh được một người con gái, mày chia lá liễu, má rạng hoa đào, đúng là bậc nữ sắc khuynh thành. Ông Triệu bèn đặt tên là Đào nương. Đến khi trưởng thành thường theo anh trai Quang Phục cùng đi học ở chỗ Dương Đường tiên sinh. Học được mấy năm thì Quang Phục đã đọc hết kinh sử, biết rộng chuyện xưa nay. Đào nương thì cầm kỳ thi họa, không gì là không biết, cũng là bậc kỳ lạ trong giới nữ.

Lại nói, khi đó ở xã Kiên Lao, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, đạo Sơn Nam, có một nhà họ Nguyễn tên Bình, cũng là bậc hiểu biết thơ sách, lấy hiếu thảo đối xử trong nhà, nhưng không may gặp cảnh gian truân. Bố mẹ (tức là bố mẹ của ông Nguyễn Bình) mất sớm. Ông bèn gói ghém gia tài, một mình một cảnh đi khắp núi sông. Khi đi đến xã Châu Diên, ông (Nguyễn Bình) thấy nhân dân còn sơ dã, phong tục thuần hậu. Ông bèn dừng ở lại ở nơi quán trọ trong xã, xin ăn ở nhờ mọi người, học đọc sách vở. Được quãng một tháng tầm nhìn cao xa thì có thừa mà bút giấy thì lại thiếu.

Một hôm, ông Triệu (tức ông Triệu Túc) đi dạo chơi, thấy Nguyễn Bình có văn chương ứng đối, hiểu biết sâu rộng. Ông bèn đến hỏi tên tuổi, quê quán. Ông Nguyễn kể lại tình cảnh cô độc, nghèo nàn nơi quán trọ. Ông Triệu liền cho về nhà để nuôi dưỡng, cho cùng với Quang Phục lên lớp cùng học. Từ đó Nguyễn Bình có chỗ để không lo cảnh đói rét, ra sức học tập. Vài tháng sau đã tiến bộ mọi mặt. Ông Triệu thấy vậy thì rất yêu mến, bèn cho lấy Đào nương làm vợ. Thế là ngày lành tháng tốt đã định lễ, duyên lứa đẹp đẽ. Ông Nguyễn dẫn Đào nương cùng trở về quê gốc ở xã Kiên Lao. Sự việc tiếp theo thế nào xin xem đoạn dưới phân giải.

Lại nói, khi Quang Phục khoảng 15 tuổi, đặc biệt đã có chí lớn. Ông (ông Phục) thường nói với các bạn bè rằng:

  • Làm người có mắt mũi râu tóc, được trời cho sinh ra trên đời, phải như các bậc thánh hiền thời xưa trước mà lập nên công nghiệp lớn, không thì lúc ở sa trường phải da ngựa bọc thây sao cho đúng khí tiết của bậc đại trượng phu. Sao có thể yên vui mãi với việc nghiên bút được?

Thế là kết thành một đảng hơn vài trăm người, nuôi hoài chí lớn. Năm đó cả cha mẹ của ông (ông Phục) đều mất. Ông làm lễ chôn cất. Sau ba năm chịu tang xong thì Quang Phục đã vào tuổi 18. Nghe tiếng ông Lý Bôn có đại lược hùng tài, võ ngang văn dọc, thật là có khí tượng lớn của bậc đế vương. Ông bèn đem theo binh thư tìm đến.

Ông Lý thấy người này văn võ kiêm toàn, thông minh hơn người, rất vui mừng nói:

  • Ông Trời đã vì ta mà sinh ra người hiền giúp sức, gặp được đâu đã muộn.

Ngay hôm đó bèn lập đàn bái Quang Phục làm Tả tướng, Phạm Tu làm Hữu tướng, lĩnh binh tiến đánh Tiêu Tư. Tư bỏ thành mà chạy. Ít lâu sau có Lâm Ấp vào cướp bóc, lại dẹp yên được.

Ông Lý lên ngôi Hoàng đế, là Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở thành Long Biên, xếp đặt trăm quan, yên định đô ấp, dựng nước hiệu là Vạn Xuân (ý muốn truyền nước cho tới vạn năm vậy). Thế rồi gia phong cho các công thần, tướng tá thêm các cấp, bèn bái Quang Phục là Tiết chế sứ đạo Sơn Nam. Ông Phục vâng mệnh đến quản lý ở Sơn Nam, lấy nhân nghĩa, lễ nhường nhịn mà giáo huấn cho nhân dân. Qua vài năm ở trong đạo được đầy đủ, ngày nào cũng cẩn thận trung chính. Tiếng vang đến triều, Nam Đế thường có thưởng thêm cho.

Lại nói, ông Nguyễn Bình dẫn Đào nương trở về sống ở quê tại xã Kiên Lao. Ông chuyên tâm lấy việc dạy học làm nghề. Được mấy năm, vợ chồng hòa hợp, cầm sắt sánh duyên. Một ngày, Đào nương nằm mơ thấy hai con gấu thoáng thoáng mờ mờ nhảy múa ở trước sân. Từ đó thấy chuyển dạ mà có mang. Vào năm Giáp Thân mùa xuân ngày mồng 10 tháng 2 sinh được một bọc, nở ra được hai người con trai, đều có dáng vẻ tuấn tú, khí phách hiên ngang, khác xa người thường lắm lắm. Ông Nguyễn rất mừng khi thấy phúc lại thêm phúc, bèn đặt tên người con trưởng là ông Phúc, người con thứ là ông Lộc.

Ngày qua tháng lại đã trải qua 7 năm. Thương thay, người xưa nói không sai, bất hạnh không bao giờ đến một mình. Ông Nguyễn bỗng nhiên bị bệnh mà mất. Đào nương đau thương đến mức quên ăn quên ngủ, phát thành bệnh nặng, thuốc uống không đỡ, cầu thần không nghiệm. Nương rồi cũng mất ở mộ chính. Từ đó anh em ông Phúc tuổi nhỏ đã mồ côi, nghèo túng, thiếu thốn đồ dùng hàng ngày, thường khóc than rằng:

  • Xưa nói con của lương y thì chết vì bệnh tật, mà ngay chúng ta rút cục lại khốn khổ vì bệnh nghèo túng vậy.

Một hôm anh em nghe là có bác ruột (tức ông Quang Phục) đến nhận trị Sơn Nam. Anh em dắt nhau cùng tới nơi phủ đường quỳ bái, xưng họ tên. Quang Phục biết chuyện rất đau lòng, cho hai người ở cùng với mình, dạy cho học văn. Đến năm hai ông (ông Phúc, ông Lộc) lên 10 tuổi, văn chương hiểu rộng, trí có thể cầm đầu đám đông, tinh thông võ bị, tài năng hơn người. Ông Phục rất yêu mến.

Khi Nam Đế ở ngôi được khoảng 7 năm, nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên làm thứ sử đất Việt, Dương Sàn làm Tư mã, cất quân sang xâm lấn phương Nam. Đế cho gọi Quang Phục về triều định kế đánh dẹp. Ông Phục vâng mệnh cùng với hai người cháu (ông Phúc, ông Lộc) quay về triều. Hôm ấy, Đế bái Quang Phục là Đại tướng quân, cùng với Đế đóng đồn quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tới gần. Một sớm nước hồ đột ngột dâng cao, chảy vào giữa hồ. Bá Tiên dẫn quân theo dòng nước tiến vào. Quân Đế thua to, Đế để quyền lại cho Đại tướng Triệu Quang Phục giữ nước. Còn Đế tự mình vào động Khuất Liêu mà mất.

Từ đó Quang Phục dẫn hai vạn quân, lấy đầm Nhất Dạ (Dạ Trạch thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu, là nơi trước đây triều Hùng ông Chử Đồng Tử cùng với công chúa Phương Dung bay lên trời), bèn xưng là Dạ Trạch Vương. Trải qua 4 năm, ông (ông Phục) vì quân Lương không rút nên bèn lập đàn tràng cầu đảo trời đất. Sau thấy có thần nhân cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, tháo móng rồng giao cho, lệnh để ở trên mũ đâu mâu, hướng vào đâu thì giặc đều tan vỡ hết. Khi ấy Bá Tiên trở về nước, giao lại cho tướng Dương Sàn chống cự, cùng với Quang Phục giao chiến một trận. Ông Phục đánh bại hết quân Lương, chém được tướng Dương Sàn. Quân Lương thua to, phải chạy về Bắc.

Ông Phục vào ở trong thành Long Biên, tự xưng là Triệu Việt Vương. Bèn ban cho hai người cháu (ông Phúc, ông Lộc) quan tước. Phong cho ông Phúc là Tả đô đài, ông Lộc là Hữu đô đài. Khi ấy hai ông tự xin được về quê  bái yết gia tiên. Vương đồng ý. Hai ông bái tạ trước Vương, rồi cùng đi xe trở về quê quán xã Kiên Lao. Nhân dân sợ hãi, đều làm lễ bái hạ. Hôm ấy hai ông truyền mổ trâu làm lễ tế gia đường tổ tiên, mở tiệc mừng lớn. Việc xong hai ông ban cho nhân dân mười nén vàng, truyền nhân dân lập một nơi hành cung cạnh dân để làm nơi hai ông đi về có nơi trú ngụ. Nhân dân vâng mệnh xây dựng (cung này ở tại khu vực đất cao trong dân, hình đất có chính cục dựa Quý hướng Đinh, phân châm Bính Tý, Bính Ngọ, bên phải có một dòng suối nhỏ chảy bao xung quanh bên ngoài).

Việc xong hai ông lại quay xe về triều nhận chức. Vua tôi cùng hợp đức, chính sự được cải thiện nâng cao. Không lâu sau, có người con của anh Nam Đế tên Lý Phật Tử (Phật Tử là con của Thiên Bảo. Khi Tiền Lý Nam Đế lánh nạn quân Lương mà mất, anh là Thiên Bảo dẫn đầu chúng đảng vào động Dã Năng ở, xưng là Đào Lang Vương. Đến khi Đào Lang mất, Phật Tử nhận thủ lĩnh quân chúng) từ động Dã Năng dẫn quân đến đánh. Tất cả 5 lần liên tiếp quân Phật Tử đều thua. Vương nghĩ Phật Tử là con cháu của Tiền Lý Nam Đế nên không nỡ tuyệt đường, mới chia nước thành 2 cùng trị, lấy cát giới là bãi Quân Thần. Phật Tử ở nước phía Tây, dời đô về thành Ô Diên. Việt Vương ở nước phía Đông, đóng đô ở thành Vũ Ninh.

Khi ấy Vương có một người con gái tên là Cảo Nương, tuổi độ 16, nhan sắc tuyệt trần. Vương rất yêu quý. Lúc đó Phật Tử lập kế cầu hôn giảng hòa. Vương đồng ý. Ông Phúc, ông Lộc nhiều lần can gián, nhưng Vương không nghe. Thế là Phật Tử sai con trai là Nhã Lang vào trong quân ở rể. Vương rất tin tưởng, gọi Nhã Lang là rể hiền. Từ đó Nhã Lang cùng với Cảo Nương tình cảm tốt đẹp. Một hôm Nhã Lương ngầm dụ Cảo Nương lấy mũ đâu mâu móng rồng mà đen giấu đổi móng rồng đi. Ngày hôm sau Nhã Lang lấy cớ về thăm nhà, báo lại cho cha (Lý Phật Tử), cất quân đến đánh Vương. Vương lấy mũ đâu mâu móng rồng ra cùng giao chiến, không có tác dụng. Vương mới biết là móng rồng đã mất. Bèn lên ngựa chạy dài về đến cửa biển Đại Nha. Khi ấy quân Lý tiến đến rất gấp. Vương biết khó thoát được mới than rằng:

  • Ta đã cùng rồi.

Vương nhảy xuống cửa biển mà hóa (lúc đó là ngày 14 tháng 8).

Ông Phúc, ông Lộc bèn quay về xã Kiên Lao, mổ trâu dê  làm lễ tế Triệu Việt Vương, truyền nhân dân viết thần hiệu là: Triệu Việt Vương Hoàng đế, để phụng thờ. Khi ấy hai ông nói với nhân dân rằng:

  • Chúng ta cùng với nhân dân đã thành nghĩa cũ, không phải ngày một mà quên được. Bởi chúng ta có nơi hành cung để phụng thờ vua ta, ví như chúng ta sau này trăm tuổi, nhân dân hãy tuân theo mệnh chúng ta, chớ có thay đổi.

Khi ấy nhân dân bái tạ nhận mệnh. Hai ông lại truyền binh sĩ cùng nhân dân thiết lập một cung hội đồng ở trong dân, ở trên đó. Lại răn nhân dân rằng:

  • Cứ mỗi năm ngày 10 tháng 2 là ngày sinh nhật hai anh em ta, phải nghi lễ vâng đón tên thần của chúng ta, cùng hai người chúng ta về cung hội đồng, ca hát vui vẻ. Đấy là tất cả việc cho hai anh em ta.

Nhân dân vâng mệnh xây dựng. Việc xong, hai ông ở lại nơi đó, dạy dân cày cấy. Dân được lợi nhiều.

Lại nói từ đó Phật Tử chiếm được nước, chính là Hậu Lý Nam Đế. Khi ấy Nam Đế biết rõ hai ông Phúc Lộc là những anh hùng trùm thế, muốn mời ra giúp việc triều chính. Bèn sai sứ thần về xã Kiên Lao dụ các ông phụ giúp vương thất. Gạ gẫm mấy lần, hai ông không theo. Một hôm hai ông tự nói rằng:

  • Trung thần không thờ hai vua, sao có thể cam chịu nhục mà phụ người được. Kinh Thi rằng: Minh triết (Sáng suốt). Kinh Dịch rằng: Kiến cơ (Xem chính). Không đi tất sẽ như người Kỷ giữ ở chợ vậy.

Dứt lời, hai anh em dẫn vài gia thần đến thẳng Ái Châu, tới xã Nam Trịnh, huyện Yên Định, phủ Thiệu Thiên. Hai ông thấy địa thế có sông núi hữu tình. Nhân xã đó có một ngôi chùa, là một danh lam rất cổ, trải qua năm tháng đã xuống cấp. Hai ông mới nói với người trong làng cho ở tại chùa đó. Người làng đồng ý. Từ đó hai ông đổi tên, một là ông Túc, một là ông Tục.

Hai ông ở lại trong chùa, thành tâm hương khói tiến cúng. Qua vài năm, quyên góp mười phương trùng tu lại chùa. Công đức xong, hai ông lại chu du bốn biển, ngắm thưởng danh sơn, thắng cảnh. Một hôm đi tới núi Tam Điệp, hai ông bỗng nhiên bị cảm phong hàn, cùng một lúc đều mất (lúc đó là ngày 12 tháng 11). Trong một chốc, mối đùn thành gò lớn (tới nay gọi là xứ Gò Đôi). Từ ấy nhân dân qua lại buôn bán có cúng tiến nhiều vàng bạc, cầu đảo có nhiều linh ứng.

Lại nói từ sau khi hai ông đã hóa ở xã Kiên Lao nhân dân đều mắc tật dịch, súc vật ốm chết. Nhân dân làm lễ cầu đảo ở nơi miếu Triệu Việt Vương để xua đuổi tai ương. Tối đó nhân dân đều nằm trong miếu, mơ thấy Triệu Việt Vương ngồi nghiêm trên điện. Trăm quan văn võ ngồi đầy các bên. Lại thấy hai ông đường đường cùng các quân hầu, cờ xí voi ngựa đều như lúc còn sống, tiến thẳng đến trước miếu, bái yết rồi ngồi vào. Nhân dân vô cùng sợ hãi, làm lễ kính bái. Thấy hai ông nói rằng:

  • Chúng ta cùng vâng mệnh trời nắm quyền ở dân, vì dân ta mà là phúc thần. Thế mà nay chúng ta còn chưa có miếu thờ riêng. Vậy có phải là rất vô lễ hay không? Không nhận mệnh của chúng ta thì đừng có lời cầu xin gì nữa.

Lời nói còn chưa hết, nhân dân bỗng nghe một tiếng trống đồng vang lên đập vào trong tai, đột nhiên tỉnh lại, mới biết sự việc này. Tất cả đều sợ hãi. Mới nhớ lại những lời ngày trước hai ông đã dặn, lập tức lập miếu ở bên cạnh đền Triệu Việt Vương, viết thần hiệu của hai vị. Một là Túc công Đại vương, một là Tích công Đại vương, cùng phụng thờ. Từ đó tật dịch đều yên ổn. Người vật đều mạnh khỏe.

Trải tới thời Đường Cao Biền làm An Nam đô hộ. Khi đó có giặc Nam Chiếu khởi binh ở ven biển, quấy nhiễu đất Sơn Nam. Cao Biền dẫn quân đến đánh. Một hôm, thuyền quân theo sông Tiểu Hoàng xuôi tới xã Kiên Lao, huyện Giao Thủy. Lúc ấy mặt trời đã khuất sau núi. Ông (Cao Biền) thấy trên bờ có hai người, thân cưỡi ngựa ô, tay cầm thương vàng, tiến thẳng đến miếu bên bờ sông thì mất bóng. Theo sau thấy sóng đào hung dũng, gió bụi dương oai. Ông lấy làm lạ bèn dừng thuyền lên bờ, gọi nhân dân đến hỏi tên thần. Nhân dân kể lại sự tích. Nghe xong ông liền truyền binh sĩ cùng nhân dân làm lễ tế. Ông thân khấn rằng:

  • Nếu như có linh thiêng xin nhận lễ hưởng của tôi và âm phù cho xã tắc, dẹp giặc yên loạn. Đến sau này khi thanh bình sẽ tặng phong sắc chỉ để tỏ rõ linh thiêng.

Khấn xong, ông nằm ở trong miếu. Đến cuối canh ba nằm mơ thấy hai người đến nhanh bái chào, xưng tên họ, tự xin theo quân diệt giặc. Ông tỉnh lại biết là thần mộng, cho ghi vào sách vàng để xem nghiệm về sau. Sáng ngày lại làm lễ tế ở đền Triệu Việt Vương. Sự việc xong cất quân thẳng tiến, đầu thuyền chiêng trống vang như tiếng sấm sét vạn dăm, trên đường cờ xí hai bên bờ như hình rồng rắn. Quân của Vương như thế có thuận trời, thế mạnh như chẻ tre, oai chấn động như bẻ củi khô gỗ mục.

Đến khi dẹp được Nam Chiếu, ông Biền cho quân khải hoàn, gia phong tướng sĩ. Nhân nhớ lại sự việc ở Kiên Lao, tặng phong sắc chỉ cho Triệu Việt Vương Hoàng đế Thượng đẳng thần, tặng phong Túc công vi Hiếu túc Anh nghị Đại vương, Tích công vi Vĩ tích Hồng hy Đại vương. Cho xã Kiên Lao nghênh đón sắc về dân, tu sửa miếu điện để phụng thờ.

Từ đó về sau cầu mưa cầu gió đều có nhiều linh ứng. Trải bốn họ Đinh, Lê, Lý Trần sáng lập cơ đồ, ba vị Đại vương đều có nhiều công âm phù xã tắc, nên các đời đế vương có gia phong sắc chỉ, hương khói không ngừng.

Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn

Quản giám bách thần lễ điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền y chính bản vâng chép.

Hoàng triều năm Vĩnh Hữu thứ hai ngày tốt giữa thu.

Nam Việt Úy Đà diễn nghĩa

Nam Việt Úy Đà liệt truyện trong Sử ký Tư Mã Thiên rõ ràng có nhiều “nỗi oan” của vua Triệu cần được xem xét, diễn giải lại, mà “nỗi oan” có thể thấy ngay được là thông tin Triệu Đà trị vì 70 năm, thọ 121 tuổi (!!!). Với tuổi thọ “không thể có” này của vua Triệu, có thể thấy những câu chuyện về vua nước Nam Việt sẽ không phải đơn thuần là chỉ kể về 1 nhân vật như truyện đã chép…

Triệu Vũ Đế khởi nghĩa kháng Tần

Các di tích hiện còn tới nay về nhà Triệu ở Việt Nam là nguồn bổ sung những dữ liệu quan trọng cho quá trình khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Đà trên đất Việt. Thời Tần Triệu Đà làm quan huyện Long Xuyên (cũng là huyện Nam Hải, theo thần tích Đồng Sâm), lấy vợ Trình Thị ở Đồng Sâm, Thái Bình mà lưu cư tại đây. Trình Thị đọc thiết âm là Trĩ, chỉ ra sự liên quan của vị hoàng hậu này với Cao Hậu, người có tên cúng cơm là Lữ Trĩ. Lưu Bang xuất phát ban đầu cũng là một đình trưởng nhỏ ở đất Bái, lấy vợ là họ Lữ và sống tại đó. Khu vực Thái Bình còn là nơi có nhiều di tích khởi nghĩa của Lý Bôn, người đã kết duyên cùng Hoàng hậu Đỗ Thị Khương. Thái Bình đọc phản thiết là Bái, tên vùng đất nơi Lưu Bang làm đình trưởng và lấy bà Lữ Trĩ.

Ngoài di tích ở Đồng Sâm (Kiến Xương, Thái Bình), Triệu Đà còn được kể đến ở một số khu vực khác. Trước hết, đó là núi Vũ Ninh (Quế Võ, Bắc Ninh) nơi có tới 8 làng thờ Triệu Vũ Đế. Đây là căn cứ ban đầu khởi nghĩa của Triệu Đà chống lại nhà Tần. Di vật thời này còn tại đây là phần thân của con thần thú nửa rồng nửa phượng bằng đá lớn, hiện vẫn còn tại thôn Cựu Tự xã Ngọc Xá. Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể ở núi này có con rắn lớn, trên trán có chữ Vương, chuyên ăn thạch nhũ. Còn Cao Tổ bản kỷ kể việc Lưu Bang khi ở núi Mang Đãng đã chém rắn trắng, là con Bạch Đế mà khởi nghĩa.
Không xa núi Vũ Ninh, ở xã Ngô Cương (Gia Bình, Bắc Ninh) có sự tích kể Triệu Đà khi lâm trận thất thế, được một đám mây đỏ hạ xuống che chở mà thoát nạn. Câu chuyện này khá giống với việc Lưu Bang khi bỏ vào rừng núi Mang Đãng kháng Tần thì bà Lữ Trĩ luôn thấy có đám mây lành trên nơi Lưu Bang trú ngụ.
Khi quan úy Nam Hải là Nhâm Hiêu thấy phản loạn các nơi nổi lên chống lại nhà Tần, Nhâm Hiêu bàn với Triệu Đà chặn con đường nhà Tần mới mở đến Việt để tự giữ. Nhâm Hiêu chết, Triệu Đà thay, “lập tức truyền hịch đến các cửa ải Hoành Bồ, Dương Sơn, Hoàng Khê” để chặn đường, tự phòng thủ. Chi tiết này trong thần tích Đồng Sâm đã cho thấy con đường mà nhà Tần mở ra trên đất Việt là chạy từ vùng Cao Bằng (Hoàng Khê?) qua Bắc Kạn (Dương Sơn) tới Quảng Ninh (Hoàng Bồ). Trên con đường này Tần Thủy Hoàng đã làm cuộc Đông du, ra biển Đông, gặp đạo sĩ Yên Kỳ Sinh nơi chân núi Yên Tử ở Đông Triều. Cửa ải cuối cùng của con đường Tần – Việt này là Hoành Bồ, thuộc Quảng Ninh, gần bãi biển Hạ Long ngày nay.
Di tích quan trọng khác là ở khu vực Long Biên, đặc biệt là đình Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên). Đây là nơi Triệu Đà đã thấy rồng bay lên trên sông Nhị, bắt đầu “Long Hưng” lập nghiệp đế vương, tấn công vào trị sở của Tần lúc đó ở Cổ Loa. Thần tích Đồng Sâm cũng kể Triệu Đà đánh Thục, đóng quân ở Tiên Du, Bắc Ninh.
Sử ký Tư Mã Thiên ghi Triệu Đà giết các trưởng quan do Tần xếp đặt, dùng bè đảng của mình thay vào làm quận thủ. Nếu không phải là một cuộc “khởi nghĩa vũ trang” thì làm sao Triệu Đà có thể giết được các quan lại nhà Tần một cách dễ dàng như vậy? Long Hưng cũng là tên quê hương của Lý Bôn, người đã nổi lên đánh chiếm Long Biên, lập nước Vạn Xuân.

Thần thú ở núi Vũ Ninh.

Nam Việt lập quốc

Sử ký Tư Mã Thiên ghi, khi Tần bị diệt vong, Đà liền đánh chiếm Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương, Sau khi Cao Đế bình định thiên hạ, do Trung nguyên lao khổ nên bỏ qua không giết Đà. Nhà Hán năm thứ 11, sai Lục Giả nhân đó lập Đà làm Nam Việt Vương, cùng chẻ tín phù để thông sứ.
Đoạn sử hết sức quan trọng này về việc Triệu Đà xưng Vương, nhưng cũng lại hết sức khó hiểu, gây lầm lẫn. Nhà Tần diệt vong năm 206 TCN, còn Cao Đế năm thứ 11 là năm 196 TCN, ngay năm sau đó Lưu Bang mất. Hai sự kiện cách nhau tới 10 năm. Triệu Đà nếu đã xưng là Nam Việt Vũ Vương từ năm 206 TCN rồi thì sao mãi mười năm sau, đến cuối đời Lưu Bang mới cho người đến phong Vương cho Nam Việt? Người khởi nghĩa ở Chân Định chống Tần đã là Lưu Bang thì ai là người xưng Vũ Vương vào năm 206 TCN?
Vấn đề Nam Việt Vũ Vương được làm sáng tỏ nhờ nhận định: Triệu Đà khởi nghĩa ở miền Bắc Việt là Lý Nam Đế, cũng là Hiếu Cao Tổ Lưu Bang. Vì Lý Bôn – Lưu Bang đều xưng Đế của cả Thiên hạ Trung Hoa, nên người xưng Vương ở Nam Việt không phải là Triệu Đà.
Theo thần tích Hạ Mạo (Phú Thọ), Hậu Hùng Vương tên là Chàng Ánh, vốn là dòng dõi vua Hùng thứ 17 nước Văn Lang, được ban cho họ Lê, lấy vợ là con gái Đông Chu Quân (tức An Dương Vương). Khi Tần (Thục) chiếm được miền Bắc Việt, Chàng Ánh đã không khuất phục mà tự lập ở Việt Tây (Quảng Tây), xưng là Hậu Hùng Vương. Người con út của Hậu Hùng Vương đã được cử đem ba ngàn quân tham gia cuộc khởi nghĩa của Triệu Đà.
Triệu Đà lên ngôi là Vũ Đế, nhưng vẫn cắt Quảng Tây cho Việt. Sau 6 năm Hùng Ánh Vương lâm bệnh…. Đến khi Hùng Ánh Vương lâm chung… bèn ban tên Chàng Út Lôi Mao, cho tự cai quản. Ngày 15 tháng 8 Hùng Vương băng hà, Chàng Út phát tang, kế vị, xưng là Việt Tây Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Vũ Đế cho lệnh sách phong. Ba năm tang lễ xong, Vương cho hoàng hậu họ Triệu giám quản đất nước… Vũ Đế mới ban sắc: Cha truyền con nối là lễ thế tập…
Đối chiếu với Nam Việt Úy Đà liệt truyện thì:

  • Triệu Đà khởi nghĩa ở Đường Sâm, Vũ Ninh, Long Biên là Triệu Vũ Đế – Hán Cao Tổ – Lý Nam Đế.
  • Khi nhà Tần sụp đổ, thiên hạ phân chia, chư hầu tranh giành, người đã chiếm Quế Lâm, Tượng Quận, tự xưng Nam Việt Vũ Vương là Hậu Hùng Vương họ Lê.
  • Hơn 9 năm sau, tính từ khi Tần vong, tức đúng là quãng năm 196 TCN, Triệu Vũ Đế – Hán Cao Tổ sắc phong cho Út Ngọ Lôi Mao làm Nam Việt Vương. Vì Chàng Út là con rể Triệu Vũ Đế, nên từ đó Nam Việt Vương lấy Triệu làm họ.

Như vậy, người được Lưu Bang cử Lục Giả sang sắc phong ở Nam Việt không phải là Triệu Vũ Vương, mà là Triệu Văn Vương. Nhận định đột phá này cho phép giải quyết được vấn đề tuổi thọ 120 năm của Triệu Đà, vì trong 70 năm trị vì Nam Việt có tới 3 vị vua nối nhau: Triệu Vũ Đế – Lưu Bang, Triệu Vũ Vương – Lê Hùng Ánh và Triệu Văn Vương – Út Ngọ Lôi Mao.
Nhìn theo dòng sử khác của thời Tiền Lý Nam Đế, thì khi Lý Bôn chiếm Long Biên dựng nước Vạn Xuân, có Triệu Quang Phục tham gia khởi nghĩa, được phong là Tả tướng. Lý Nam Đế rút về hồ Điền Triệt là sự kiện Lưu Bang bị Hạng Vũ đuổi vào vùng Hán Trung. Triệu Quang Phục được Lý Bôn giao phó, ở lại giữ Long Biên, chống lại quân họ Hạng (truyền thuyết gọi là giặc Lương) không được, phải rút về vùng đầm Dạ Trạch ở Khoái Châu (Hưng Yên), dùng lối đánh du kích mà cầm cự trong nhiều năm. Cuối cùng Triệu Quang Phục cũng đuổi được quân Hạng ra khỏi Bắc Việt. Không lâu sau đó, Quang Phục dẫn quân dẹp loạn Lâm Ấp thắng lợi, thanh thế ngày càng lớn.
Tới khi Lưu Bang giết được Hạng Vũ, lên ngôi Hoàng đế thì vùng phía Nam đã nằm trong phạm vi cai quản của cha con Triệu Túc và Triệu Quang Phục. Triệu Túc là dòng quý tộc Lạc tướng Chu Diên, tức chính là Hậu Hùng Vương, người bắt đầu chiếm cứ quận Quế Lâm – Quảng Tây từ thời Tần. Quang Phục nhận sự ủy thác của Lý Nam Đế đóng quân ở quận Nam Hải (Long Biên) và rồi chiếm được cả vùng Lâm Ấp. Với địa bàn như vậy, không khó hiểu khi Triệu Túc tự xưng là Nam Việt Vũ Vương ngay khi Lưu Bang và Hạng Vũ còn đang tranh hùng thiên hạ.
6 năm sau, Lê Túc – Triệu Vũ Vương mất, khoảng năm 199 TCN. Quang Phục kế vương vị của cha, tiếp tục đánh chiếm mở rộng địa bàn và đi khắp nơi trong nước an định dân tình. Triệu hậu nắm giữ quyền triều chính khi Quang Phục không ở trong triều.
3 năm sau khi mãn tang cha, Triệu Quang Phục, tức Út Ngọ Lôi Mao, nhận sắc phong và phẫu phù của Hiếu Cao Tổ, trở thành Triệu Văn Vương. Đây mới là lý do chính việc Nam Việt Vương đã tiếp đãi sứ giả của Hán là Lục Giả một cách hậu hĩ, lưu giữ trong cung mấy tháng, tặng tơ lụa, trang sức, ngàn vàng. Nam Việt chính thức ra nhập nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế Lưu Bang dưới dạng một phiên vương nội thuộc.

Lý Nam Đế và Hoàng hậu Đỗ Thị Khương ở Thái Bình.

Triệu Văn Đế Hưng Quốc

Phần lớn các chư hầu là công thần được Lưu Bang phong vương khi tranh hùng cùng Hạng Vũ đều nhanh chóng bị Lưu Bang tìm cách loại bỏ sau khi lên ngôi. Tề Vương Hàn Tín, Lương Vương Bành Việt, Cửu Giang Vương Anh Bố, Triệu Vương Trương Ngao, Yên Vương Lư Quán lần lượt theo nhau ra đi. Danh hiệu phong vương chỉ còn đối với những người con của Lưu Bang.
Trong bối cảnh đó thì mới thấy Nam Việt Vương ngang nhiên tồn tại, lại còn được chính Lưu Bang phong vương, phải là một thế lực mạnh như thế nào. Chắc chắn Nam Việt Vương là đại công thần và có quan hệ thân thích với Hiếu Cao Lưu Bang.
Thời Cao Hậu, nhà Hiếu không bán đồ sắt cho Nam Việt. Nam Việt Vương cho rằng đây là âm mưu của Trường Sa Vương muốn phế bỏ tước vương của Nam Việt. Một lần nữa thông tin trên lại cho thấy sự tranh giành vương vị thời kỳ này khốc liệt như thế nào. Trong số các chư hầu nhà Hiếu, Nam Việt Vương là vị vương có thế lực mạnh nhất, uy hiếp trực tiếp đến Đế vị của nhà Hiếu.
Cao Hậu cử Long Lự Hầu Chu Táo xuất quân đánh Nam Việt nhưng đã nhận thất bại thảm hại. Cao Hậu mất. Triệu Việt Vương lúc này không còn phải kiêng dè gì nữa, công khai xưng chế, tức là xưng Đế toàn thiên hạ. Nhân đà binh uy đó, Triệu Văn Đế chiêu dụ luôn 2 vùng đất Mân Việt ở phía Đông và Tây Âu Lạc trở thành nước chư hầu của nhà Triệu. Trung Hoa lúc này chia thành 2 đế quốc. Nhà Hiếu làm Đế ở phương Bắc. Nhà Triệu xưng Đế ngang hàng với nhà Hiếu, đi xe mui vàng, cắm cờ tả đạo, ở phương Nam. Đất đai nhà Triệu Đông Tây dài vạn dặm.
Bằng chứng xác đáng về hiệu xưng Đế của Triệu Văn Đế là ngôi mộ Triệu Mạt đã phát hiện ở Quảng Tây. Trong mộ đã tìm được bộ ấn vàng, đặc biệt nhất là ấn “Văn Đế hành tỉ”, xác nhận chắc chắn rằng người xưng Đế Nam Việt là Triệu Văn Vương. Quy mô, mức độ phong phú và quý giá của các hiện vật trong mộ cho thấy nó không kém gì mộ của các vị Đế của nhà Hiếu cùng thời. Ngoài ấn Văn Đế hành tỉ trong mộ còn có “ấn Đế”, khẳng định ngôi Đế của nhà Triệu.
Cao Hậu mất, các trung thần nhà Hiếu đã tôn người con của Lưu Bang là Đại Vương Lưu Hằng (vị Vương ở đất Đại) lên ngôi, là Hiếu Văn Đế. Ngay trong năm đầu tiên khi lên ngôi, Hiếu Văn Đế đã phải vội vã giải quyết quan hệ với nhà Triệu. Lục Giả, người từng đi sứ phong Vương cho vua Triệu, một lần nữa được cử đi sứ Nam Việt.
Lý do Lục Giả đưa ra để thuyết phục Triệu Văn Đế bỏ xưng chế là chuyện mồ mả người thân và con em ở Chân Định đang thuộc nhà Hiếu. Lý do này thực là “lãng xẹt” vì xét ra vua Triệu đã hơn nửa thế kỷ không về quê, mồ mả với người thân đâu có quan trọng so với ngôi Đế nữa. Hợp lý hơn như theo truyền thuyết Việt cho biết, Triệu Việt Vương nghĩ đến ân tình cũ với Lý Nam Đế (Lưu Bang) từ khi khởi nghĩa kháng Tần nên mới đồng ý giảng hòa với Lý Phật Tử – con cháu họ Lưu.
Triệu Văn Đế là con của Triệu Túc, dòng dõi nhà Chu, nên mồ mả và người thân ở đây phải chăng là chỉ tông miếu và con cháu của Chu Vương? Chỉ khi vua Triệu thực sự xuất thân là quý tộc từ thời Chiến Quốc thì mới có mồ mả và dòng dõi ở phương Bắc.
Sau chuyến đi sứ của Lục Giả, Triệu Văn Đế đồng ý bỏ xưng chế và xưng là phiên vương khi thông sứ. Nhưng trong nước ông vẫn dùng ấn và nghi lễ Đế vị như thường, mà bằng chứng là những chiếc ấn vàng trong lăng mộ của ông ở Quảng Tây.
Một chi tiết mà Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép không rõ ràng là về Triệu Hồ. Sử ký chép Hồ là cháu Triệu Vũ Đế nhưng không rõ thời gian mất, tựa hồ như chuyện của Triệu Hồ được ghép vào dòng sử nước Nam Việt vậy. Lăng mộ tìm được ở Quảng Tây cho thấy Văn Đế có tên là Triệu Mạt. Và Văn Đế là người đã xưng Đế, chứ không phải ở thời kỳ đã bỏ Đế hiệu như Sử ký chép.
Chuyện Triệu Hồ là cháu của Triệu Đà có lẽ là chép theo truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy. Sự thực thì Trọng Thủy là con của nhà Tần họ Triệu, chứ không phải nhà Triệu nước Nam Việt. Triệu Hồ phải chăng tương đương với công tử Hồ Hợi, tức Tần Nhị Thế?

Cuối thời Triệu Văn Đế đã xảy ra chuyện Mân Việt Vương đánh phá biên giới với Nam Việt. Triệu Văn Đế muốn lợi dụng quân đội nhà Hiếu nên báo cho nhà Hiếu xin giúp binh. Không ngờ quân Mân Việt tự mâu thuẫn nội bộ mà tan. Triệu Văn Đế đành phải tạ ơn nhà Hiếu bằng cách cho thái tử Anh Tề vào chầu làm con tin.

Văn Đế hành tỉ
Đế ấn trong mộ Văn Đế Triệu Mạt ở Quảng Tây.

Nam Việt vong quốc

Như vậy Triệu Văn Đế mất năm Kiến Nguyên thứ 4 (137 TCN), là năm mà Sử ký chép Triệu Vũ Đế băng hà. Anh Tề làm con tin ở Trường An hơn chục năm, quay về kế vị. Anh Tề lập tức dấu đi Đế ấn.
Hành động dấu ấn này khá khó hiểu. Anh Tề dấu ấn để làm gì? Trong cách nhìn mới thì hành động này có thể hiểu là Anh Tề đã bỏ việc dùng Đế hiệu mà Triệu Văn Đế vẫn duy trì ở trong nước. Anh Tề trở thành Triệu Minh Vương, thần phục nhà Hiếu.
Rất có thể Đế ấn này là chiếc móng rồng mà thần nhân đã trao cho Triệu Quang Phục ở đầm Dạ Trạch. Anh Tề là Nhã Lang trong truyền thuyết Việt, đã dấu móng rồng thần đi, dẫn đến việc Nam Việc mất nước.
Những diễn biến tiếp theo của nhà Triệu Nam Việt thì đã khá rõ ràng. Minh Vương mất, con thái tử Hưng lên nối ngôi, là Triệu Ai Vương. Mẹ là Cù hậu làm Thái hậu, truyền thuyết Việt gọi là Cảo Nương.
Do đã đánh mất Đế hiệu, thần phục nhà Hiếu nên mẹ con Cù hậu đã bị thừa tướng họ Lữ giết. Kiến Đức được Lữ Gia lập làm vua Triệu Vệ Dương Vương.
Nguyên Đỉnh năm thứ 5, Hậu Lý Nam Đế cho Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc và Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức tấn công, Phiên Ngung thất thủ. Vua Triệu cùng Lữ Gia lên thuyền chạy về đến cửa Đại Nha ở Nam Định thì bị bắt. Nhà Triệu nước Nam Việt chấm dứt từ đây.

Thần tích xã Thượng Gia, tổng Đồng Sâm, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình

Xã Đường Sâm huyện Chân Định phủ Kiến Xương theo trước đây phụng thờ Triệu Vũ Hoàng Đế và Hoàng hậu Trình Thị, trải qua các triều đại đều đã được phong tặng. Đến Hoàng triều hiện nay (thời những năm Gia Long, Minh Mệnh) sắc phong cho phụng thờ theo như cũ, vâng khai sự tích các tuần tiết. Sự thần ở trong quốc sử, từ tế xuân độ hè, nhập tịch đầu thu, cúng thành giữa thu, cùng ruộng đó là ruộng dành riêng cho phụng sự thần, chỉ biết vốn là như vậy. Còn tại sao như vậy thì mờ mịt không biết gì thêm. Là những người lo việc thờ phụng, phàm là người có suy nghĩ, đều cảm thấy không thoải mái trong lòng. Nên nếu thấy có dã sử thế gia, thiế biên, thế ký, đều  tìm tòi, tham khảo, kê cứu tỉ mỉ để xác định được sự tích. Hồi tháng giữa thu năm Canh Thân, nghe nói ở xã Bằng Đắng huyện Bạch Hạc, Sơn Tây có người là hậu duệ của Lễ bộ Thượng thư thời niên hiệu Vĩnh Hựu, gia đình có cất giữ Ghi chép ngọc phả cổ của chi Càn, bậc Thượng đẳng quốc tế. Bèn soạn lễ đến để xin sao chép vậy. Ngọc phả này được vâng soạn bởi lời của Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính, vâng chép bởi chữ của Bát phẩm Thư lại Nguyễn Hiền. Trong số những lời kể đó có thể thời gian tương đối lệch trước sau, sự việc có thể sai khác, hãy cứ chép để đó mà không sợ rườm rà. Còn những lời hợp lý, sự việc tương đồng thì nên trích lấy tham khảo trong các bộ quốc sử để so sánh cho đầy đủ.

Phả lục cổ này chép rằng:

Xưa Bắc quốc, quận Linh Sơn có người quê Chân Định, họ Triệu, tên Đức công, vợ là Đào Thị Hoan, do trời tác hợp hơn 20 năm, cầm sắt tuy hài hòa mà giấc mộng điềm gấu sinh trai chưa đến. Từ đó ra sức tạo phúc. Một đêm đẹp trời Đức công và Thái bà ngắm trăng ở trước sân, đến giữa canh Hai, dựa lan can mà mông lung thiếp đi. Bỗng thấy có một người đến đứng trước mặt, tay cầm chiếc râu rồng nói:

  • Ta là Thiên sứ, vâng thừa mệnh của Thượng đế sai ta xuống đây cho vợ chồng các ngươi chiếc râu rồng này, ngày sau sẽ sinh ra một người con trai là thánh đồng xuất thế, dựng nước cứu dân.

Nói xong bèn bay lên không mà đi. Thái bà vì thế mà có mang thai, đến năm Ất Tỵ (Chu Noãn Vương năm thứ 59, Đông Chu Quân năm đầu), ngày mồng 1 tháng 4 Thái bà ở trong nhà nhìn ra thấy mây lành năm sắc như từ trên trời hạ thẳng xuống. Ngày hôm đó sinh Đế, râu rồng mắt phượng, tay dài quá gối. Khi lên 5 tuổi (Đông Chu Quân năm thứ 5) đã hiểu âm luật. Cha mẹ rất vui mừng cho đó là được phúc trời ban, nhân đấy đặt tên là Đà (nói đến khả năng hiểu biết khác người vậy). Bèn tìm thầy cho đi học với Dương Đường tiên sinh. Được 5-6 năm trên từ thiên văn dưới đến địa lý, không gì là không thông hiểu. Mọi người gặp ngài đều cho rằng đúng là một đấng nam nhi tốt, tất sẽ là người con làm rạng rỡ nghiệp nhà vậy. Chẳng được bao lâu, Đức công và Thái bà đều bị bệnh đau đầu mà cùng qua đời (tương truyền là ngày mồng 5 tháng 5). Đế làm lễ an táng ở bãi núi Linh Sơn. Hàng ngày ngài thương khóc thảm thiết không nguôi, thường than rằng:

  •  Phận làm con khi cha mẹ còn sống không phụng dưỡng, khi cha mẹ mất đi không chôn cất, thì sau này dẫu có nghìn chuông vạn xe đem đến cũng không thể báo đáp được.

Mỗi khi ngồi nhàn nói chuyện bàn luận cùng bạn bè, không ai là không sợ phục. Ngài nói rằng:

  • Bậc trượng phu có khí khái đích thực, sao lại chỉ vùi đầu vào nghiên bút mãi được? Chi bằng học thêm thuật cung tên, nghiền ngẫm binh thư.

Đến khi trưởng thành ngài làm quan cho nhà Tần. Khi ấy là thời nhà Thục, An Dương Vương năm thứ 44 (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33), Tần sai hiệu úy Sử Lộc dẫn quân sĩ đi thuyền nhẹ đào kênh chở lương thực, thâm nhập Lĩnh Nam, chiếm lấy đất Lục Lương, đặt thành Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận. Lấy Nhâm Hiêu làm quan úy Nam Hải, Đế làm quan lệnh Long Xuyên (tức huyện Nam Hải), dẫn những người đi đày đến đóng ở Ngũ Lĩnh (năm đó Đế 33 tuổi). Đế đi du hành đến trang Đường Sâm, phụ lão nhân dân mổ trâu chúc mừng. Đế thấy nơi đây có địa thế phong quang thắng cảnh. Hôm đó lệnh dựng hành cung ở bên sông để làm nơi dạo chơi ngắm cảnh.

Một hôm Đế đi chơi trên đường gặp một người con gái có nhan sắc đẹp khác thường, trong lòng rất ưa thích, nên cho gọi người trong trang đến hỏi. Người đó đáp rằng đó là con gái nhà họ Trình, tên Lan Nương, chưa lấy chồng (Trước đây ở trang Đường Sâm có người họ Trình, tên là ông Liên. Vợ người bản trang là Đinh Thị Ngoạn, tuổi ngoài 40, nằm mơ tìm được một chiếc gương ngọc, tự nhiên có mang. Đến ngày mãn thai mùa thu ngày 15 tháng 7 sinh hạ một người con gái, mặt ngư gương ngọc, sắc tựa hoa mai. Đến năm 18 tuổi tứ đức công dung ngôn hạnh đều vẹn toàn, bèn đặt tên là Lan Nương). Đế bèn sai người mang đồ sính lễ đến nhà họ Trình. Nhà họ Trình rất vui mừng, gả con gái cho Đế.

Thế là Đế chọn ngày đón dâu, đón về cung sở. Từ đó Đế lưu lại sống ở cung ấp, giáo hóa nhân dân thành phong tục lễ nghĩa. Khi phu nhân mang thai (mùa đông ngày 10 tháng 10) sinh hạ được một người con trai, đặt tên là Trọng Thủy. Đến khi tròn 1 tuổi Đế mời phụ lão, hào mục đến cùng ăn uống, nhân đó nói rằng:

  • Người dân trong trang với vợ chồng ta thật là tình quê ngoại, đâu chỉ là nghĩa một ngày. Ta có 30 nén vàng giao cho phụ lão nhân dân để mua thêm ruộng ao, lưu để ngày sau xây dựng đền miếu, làm chỗ phụng sự vợ chồng ta thành dấu tích không mất vậy.

Vào năm Thục An Dương Vương thứ 48 (Tần Thủy Hoàng năm thứ 37, năm này Thủy Hoàng mất), Nhâm Hiêu cùng với Đế nhân đó mưu đồ xâm chiếm Thục, bèn dẫn quân đến đánh. Đế đóng quân ở núi Tiên Du, Bắc Giang, cùng với An Dương Vương đánh lớn. An Dương Vương lấy nỏ thiêng đem bắn. Đế thua chạy. Khi ấy Nhâm Hiêu dẫn thủy quân đến tại sông Tiểu giang, nay là bến Đông Hồ, phạm vào thổ thần mà mắc bệnh, quay về nói với Đế rằng:

  • Nhà Tần vong rồi, hãy dùng mưu đánh Phán (tên của An Dương Vương) có thể dựng nước được.

Đế biết An Dương có nỏ thần không thể chống được, bèn lùi về giữ núi Vũ Ninh, cử sứ sang giảng hòa. Bèn chia sông Bình giang về phía Bắc do Đế cai quản, về phía Nam An Dương Vương cai quản. Đế sai Trọng Thủy vào làm thị vệ, cầu hôn với con gái Vương là Mị Châu. Vương đồng ý. Trọng Thủy cùng với công chúa ở lại Thục. Qua được 3 năm, Trọng Thủy mới dụ Mị Nương lấy nỏ thần cho xem, giấu hủy tráo lẫy nỏ đó. Rồi Trọng Thủy lấy cớ về Bắc để thăm thân, nói với Mị Châu rằng:

  • Ân tình vợ chồng không thể nào quên. Nếu như hai nước trở nên bất hòa, Nam Bắc cách trở, ta đến đâu để gặp được nhau đây?

Mị Châu nói:

  • Thiếp có một chiếc đệm gối lông ngỗng, thường mang theo mình. Đi đến đâu thì sẽ nhổ lông để ở nơi ngả đường mà đánh dấu.

Trọng Thủy về báo việc lên Đế. Đến năm Quý Tỵ [An Dương Vương] năm thứ 50 (Tần Nhị Thế năm thứ 2) Nhâm Hiêu bệnh sắp mất, nói với Đế rằng:

  • Nghe nói bọn Trần Thắng tác loạn, lòng người không biết dựa vào ai. Nơi đất này hẻo lánh, ta sợ nhiều đạo tặc xâm phạm. Do đó muốn chặn đường mà tự giữ (nơi Tần mở đường vào Việt vậy), đợi xem các chư hầu biến động ra sao.

Nhâm Hiêu bệnh nguy kịch, nói:

  • Phiên Ngung là nơi dựa núi cách sông, Đông Tây mỗi chiều dài ngàn dặm, lại có người Tần trợ giúp, nên cũng đủ để dựng nước hưng vương, làm chủ một phương. Trưởng lại trong quận không có ai đủ chí mưu, nên mời riêng ông đến để bàn.

Nhân đó cho Đế thay mình. Nhâm Hiêu chết, Đế lập tức truyền hịch đến các cửa ải Hoành Bồ, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng:

  • Giặc loạn đã đến. Phải nhanh chóng chặn đường, tập hợp quân lính để tự giữ.

Hịch truyền đến, các châu huyện đều hưởng ứng. Thế rồi Đế giết hết các trưởng sử do Tần cắt đặt, lấy các thân thuộc bạn bè của mình cho thay thế để quản. Sau ít lâu Đế phát binh đánh Thục Vương. Vương không biết nỏ thần đã mất, vẫn đánh cờ, cười nói rằng:

  • Bọn chúng không sợ nỏ thần của ta sao?

Quân của Đế tiến sát đến. Thục Vương giương nỏ bắn thì nỏ đã gẫy, nên thua chạy, đặt Mị Châu ở trên ngựa cùng với Vương chạy về phía Nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà truy đuổi theo. Thục Vương chạy đến bờ biển, đường cùng không thuyền chở tiếp, bèn hô:

  • Rùa vàng mau đến cứu ta.

Rùa vàng nhảy vọt trên mặt nước hô rằng:

  • Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đó. Sao không giết đi?

Vương rút kiếm định chém Mị Nương. Mị Châu khấn rằng:

  • Con một lòng trung tín, vì bị người lừa dối, xin hóa thành châu ngọc mong rửa sạch mối thù này.

Vương cuối cùng cũng chém Mị Châu, máu chảy trên mặt nước. Trai sò nuốt vào bụng hóa thành châu ngọc. Thục Vương cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi vào biển (tê giác rẽ nước tương truyền nay chính là vùng núi Dạ xã Cao Xá, Diễn Châu).

Trọng Thủy đuổi tới nơi thấy Mị Châu đã chết, thương khóc ôm lấy xác mang về an táng ở Loa thành, xác hóa thành đá ngọc. Trọng Thủy thương nhớ Mị Châu, trở về về nơi nàng thường trang điểm tắm gội, đau buồn không chịu nổi, cuối cùng nhảy xuống giếng mà chết. Người đời sau có được ngọc minh châu ở biển Đông lấy nước giếng này rửa thì sắc màu sẽ càng sáng bóng. Năm đó nhà Thục mất, nhà Triệu khởi hưng vậy.

Kỷ nhà Triệu năm đầu Giáp Ngọ (Đế 50 tuổi, Tần Nhị Thế năm thứ 3) Đế thắng được nhà Thục, chiếm được đất Lâm Ấp, Tượng quận, tự lập là Nam Việt Vương, đóng đô ở Phiên Ngung (nay chính là Quảng Đông). Khi đó Hoàng hậu vẫn còn đang ở nơi hành cung trước đây, bỗng có một trận cuồng phong từ phía Đông thổi tới, quấn quanh lấy thân. Rồi trong chốc lát Hoàng hậu tự hóa (tương truyền là ngày 20 tháng 12). Hôm đó các phụ lão và nhân dân sở tại dâng biểu tấu lên Đế. Đế nghe tấu rất đau lòng, liền lệnh sứ thần đến nơi hành cung làm lễ an táng. Sứ thần đến chưa kịp làm lễ thì thấy mối đùn lên thành mộ phần. Bèn dựng thành miếu ở trên lăng để phụng thờ (tại thôn Thượng Hòa). Gia phong Hoàng hậu Phương dung Trình Thị Đại vương, chuẩn cho các thôn Đường Sâm, Thượng Gia, Thượng Hòa cùng phụng thờ.

Quý Mão năm thứ 10 Đế lệnh cho 2 quan sứ làm chủ hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Ất Tỵ năm thứ 12 nhà Hán đã định được thiên hạ, nghe tiếng Đế đã là vua Việt nên sai Lục Giả đến bái Đế là Nam Việt Vương, giao cho tỷ phù tín vật để thông sứ, hòa hợp cùng với Bách Việt để không gây nạn cướp phá. Lục Giả đến Việt, Đế cùng với Lục Giả bàn luận so sánh Hán Việt. Sự thể xong, Đế bèn giữ Lục Giả ở lại vài tháng, tặng cho Lục Giả tơ lụa, trang phục đáng giá ngàn vàng. Đến khi Lục Giả trở về lại tặng ngàn vàng.

Đinh Tỵ năm thứ 24, Hán Cao Hậu xưng chế, cấm buôn bán đồ sắt với Nam Việt. Đế cho rằng đây là kế của Trường Sa Vương muốn dựa vào uy đức của nhà Hán mưu tính nước Việt phải bỏ xưng vương. Mùa xuân năm Mậu Ngọ, Đế lên ngôi Hoàng đế, phát binh đánh Trường Sa, đánh bại được mấy quận rồi trở về.

Canh Thân năm thứ 27 Hán cử Long Lự hầu Chu Táo đến đánh nước Việt ta để báo thù sự việc Trường Sa. Đế nhân đó lấy binh uy và tài vật chiêu phủ Mân Việt, Âu Lạc (tức Cửu Chân, Giao Chỉ) đều về theo phụ thuộc. Đất đai khi đó Đông Tây hơn vạn dặm. Đế đi xe mui vàng, cắm cờ tả đạo, xưng chế, sánh ngang với Hán.

Nhâm Tuất năm thứ 29 (Hán Văn Đế năm đầu), Hán Văn Đế vì mồ mả người thân của Đế ở tại Chân Định mà cắt đặt người phụ trách trông coi, ngày tháng phụng thờ, lại cho gọi con em của Đế đến cho chức quan quyền quý, ban tặng rất hậu. Văn Đế cho Lục Giả làm Thái trung đại phu, đến đưa thư cho Đế (có trong sử Hán và sử Việt).

Đế bèn vâng chiếu làm phiên vương, giữ lệ nạp cống hàng năm. Theo đó phàm là khi Đế giao sứ với Hán thì xưng vương triều, gọi như chư hầu của phương Bắc. Còn trong nước vẫn theo tên hiệu cũ. Cho nên Nam Bắc giao hảo, quân dân hai bên được nghỉ ngơi. Qua hơn 30 năm người Bắc không dám xem thường.

Canh Tý năm thứ 67 (Cảnh Đế năm thứ 9) tháng 12 , mặt trời như màu tía, ngũ tinh chuyển động ngược chiếm vào cung Thái vi, trùm suốt trong thiên đình.

Giáp Thìn năm thứ 71 ngày mồng 6 tháng 8 Đế không bệnh mà mất (thọ 120 tuổi), chôn cất ở cửa Tây trong nội thành. Sau đó ít lâu có lệnh truyền các hành cung nơi ở cũ lập miếu. Miếu cũ ở trang Đường Sâm là đền chính. Có một đôi búa nguyệt tại đây là tích việc dựng nước này. Đến triều nhà Trần tặng phong Đế là Khai thiên Thể đạo Thánh võ Thần triết Hoàng đế. Hoàng hậu Trình Thị cũng được phối thờ.

Đến hoàng triều Gia Long năm thứ 3 ngày 13 tháng 12, bộ Lễ vâng soát lễ đế vương các triều đại, xét rằng:

Triệu Vũ Hoàng đế họ Triệu tên Đà, người Chân Định nước phương Bắc, cuối thời Tần làm chức quan lệnh Long Xuyên, Nhâm Hiêu chết, thay Hiêu làm quan úy Nam Hải, diệt An Dương Vương mà có được nước, xưng là Nam Việt Vương, lại xưng Triệu Vũ Đế, chống lại nhà Hán, là người khởi đầu đế vương nước Việt ta. Sử  chép mở nước vạn dặm, truyền quốc trăm năm, đáng là vị vua danh tiếng, ở ngôi 71 năm, truyền vị 4 đời. Hoàng hậu Trình Thị, người Đường Sâm, con trai Trọng Thủy, nhân lấy tên làng thủa tắm gội mà đặt tên cho huyện. Nay dân huyện Chân Định còn thờ phụng nhiều.

Tế mùa xuân vào tháng 2 là ngày quốc tế các triều đại, quan phủ huyện đều đến làm lễ tế lớn. Thôn dân cúng lễ, phục dịch rất tốn kém, không đủ sức lực và của cải để làm. Đến triều Lê Cảnh Hưng năm thứ 24 dân xã trình lên xin được cho về tự lo việc tế lễ. Vua đồng ý cho phép miễn việc mổ trâu làm lễ. Chỉ có lệ cúng đầu trâu và tiền lệ phí là còn trong sổ giao việc.

Hội tế độ tháng 4, là ngày sinh Thánh đế.

Lễ cúng thành tháng 8, là ngày giỗ Thánh đế.

Tế thành ngày 20 tháng 12 là ngày giỗ Thánh hậu.

Phó lý Nguyễn Hữu Tính đã vâng nhận thực.

Lý trưởng Nguyễn Đức Thao vâng nhận thực.