Giải nghĩa bài thơ thần vua Hùng cầu tiên trên núi Tây Thiên

Trong bản Ngọc phả Hùng Vương do Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn năm Hồng Đức thứ nhất (1470) có đoạn kể vua Hùng thứ bảy lên núi Tam Đảo lập Vọng Tiên đàn thành tâm cầu khấn được gặp tiên, nhưng sau ba ngày vẫn không thấy tung tích của thần tiên. Tối hôm đó Vua nằm mộng thấy có thần linh hiện lên đọc cho một bài thơ bốn câu…
Bài thơ này liên quan đến sự xuất hiện của vị tiên ở núi Tây Thiên. Tuy nhiên nó lại khá khó hiểu và ở các bản sao ngọc phả khác nhau chép có hơi khác nhau. Bản Ngọc phả ở xã Hy Cương (Phú Thọ) chép là:
西大山人上,
不見心下相,
會東足名人
尹 居上口旺
Tây đại sơn nhân thượng
Bất kiến tâm hạ tướng
Hội đông túc danh nhân
Doãn cư thượng khẩu vượng.
Taythien 2
Trang bản sao Ngọc phả ở Hy Cương có bài thơ thần trên núi Tây Thiên.
Bài thơ này xưa nay chưa thấy ai dịch và giải nghĩa vì câu từ của nó trúc trắc, khó hiểu. GS Ngô Đức Thọ khi dịch bản ngọc phả Hùng Vương của xã Hy Cương cũng đã không dịch bài thơ này.
Nay xin thử giải mã lời nhắn của thần linh cho vua Hùng trên núi Tây Thiên.
Ở câu thứ nhất, có bản sao ngọc phả khác chép là Tây Thiên 西天 chứ không phải Tây đại 西大. Tây Thiên là địa danh nơi vua Hùng gặp tiên nên khả năng dị bản Tây Thiên là đúng hơn.
Ở câu thứ ba, có bản chép là “túc các” 足各 chứ không phải “túc danh” 足名. “Túc các” mới là đúng, lý do xin xem giải thích ở dưới đây.
Tay Thien
Bản chép bài thơ với mở đầu Tây Thiên.
Ngoài chi tiết chỉ địa danh Tây Thiên thì bài thơ thần báo mộng này thực ra dùng phép “chiết tự” chữ Nho ở tất cả các câu. Chính vì thế nó trở nên đánh đố các bậc túc Nho xưa nay, bí hiểm như lời giáng xuất của thần linh. Các chữ chiết tự trong từng câu như sau:
 – Câu 1: “sơn nhân” 山人 là chiết tự của chữ Tiên 仙. Như thế ý câu đầu là: Tiên ở trên Tây Thiên.
– Câu 2: “tâm hạ tướng” 心下相 là chữ Tưởng 想. Ý câu 2 là: Không thấy được như mong tưởng.
– Câu 3: “túc các” 足各 là chiết tự chữ Lộ 路. Đông Lộ là nơi sau đó vua Hùng gặp bà Ngọc Tiêu.
– Câu 4: “doãn“尹 cư thượng (ở trên) “khẩu” 口 là chữ Quân 君 chỉ vua Hùng.
Như thế đã có thể dịch cả bài thơ này như sau:
Trên Tây Thiên tiên đó
Không thấy điều mong chờ
Gặp người nơi Đông Lộ
Vua sẽ được như mơ.

Vua Hùng thứ bảy sau khi được bài thơ thần này đã xuống núi Tây Thiên, tới chân núi thì gặp được một người con gái tuyệt đẹp tên là Ngọc Tiêu, nhà ở thôn Đông Lộ, là Tiên giáng thế đợi kết duyên với nhà vua. Vua cưới bà Ngọc Tiêu sinh được hoàng thái tử. Về sau vua Hùng thứ bảy cùng vương phi Ngọc Tiêu đã đắc đạo thành tiên, hóa sinh bất diệt…

IMG_1139.JPGBan thờ Tây Thiên quốc mẫu ở đền Sinh tại Đông Lộ, Đại Đình, Tam Đảo.

Thần núi Tam Đảo Lăng Thị Tiêu

Ngọc phả và thần tích về Tam Đảo sơn Trụ quốc mẫu kể về vị mẫu chúa tên là Thẩm, húy Nhược Cảm, xuất xứ ở vùng núi Tây Thiên. Vị mẫu này từng tập hợp quân đội, giúp vua Hùng dẹp giặc Thục, sau đó dựng các hành cung ở chân núi Tam Đảo, rồi hóa về trời. Quốc mẫu Tây Thiên đã được xác định là con gái bà Vụ Tiên trong truyền thuyết họ Hồng Bàng, là Mẫu Thượng Thiên trong Tứ phủ, là Tây Vương Mẫu trong Đạo Giáo, là Hậu Thổ Nguyên Quân, Cửu Thiên Huyền Nữ, bà Lụy Tổ nghề dâu tằm… Tuy nhiên ở Tam Đảo còn một truyền tích về nhân vật nữ tiên khác cũng từ núi Tây Thiên.

Dien mau Hoa Long.jpgĐiện thờ với Hoành phi “Tây Thiên thánh mẫu” tại chùa Hoa Long, Việt Trì.

Ngọc phả Hùng Vương (soạn bởi Nguyễn Cố thời Lê Đại Hành) lưu tại Phú Thọ kể, vào đời Hùng Chiêu Vương (đời Hùng Vương thứ bảy), vua Hùng lên núi Tam Đảo, đến ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên. Vua cho dựng đàn tràng, làm lễ bái yết, khấn lời cầu nguyện Hoàng Thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho được có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong ước…. Khi về đến dưới núi Vua gặp một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao, biết là thần tiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Vua đón về trở về thành Phong Đô, lập tiên nương làm vương phi chính nhất….
Chưa đầy năm Ngọc Tiêu mang thai, rồi sinh một con trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt. Đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống…
Về sau, Vua cùng hoàng phi học được tiên thuật, hưởng nước được 200 năm, Vua truyền cho con lên ngôi trị vì. Vua thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt.
Ở xã Dữu Lâu của Việt Trì, Phú Thọ, từng có đền thờ Lang Liêu và vợ là nàng Lăng Thị Tiêu với sự tích tương tự về việc Lang Liêu đi cầu được tiên ở núi Tam Đảo. Lang Liêu cũng là vị vua Hùng thứ 7 sau khi nối ngôi vua cha. Điện thờ mẫu Lăng Thị Tiêu còn có ở trong chùa Hoa Long tại phường Bến Gót ở Việt Trì.
Như vậy, vị tiên mẫu thứ hai xuất phát ở núi Tam Đảo là bà Ngọc Tiêu hay Lăng Thị Tiêu, lấy vua Hùng đời thứ 7 là Hùng Chiêu Vương hay Lang Liêu. Vị thánh mẫu này đã cùng vua Hùng học được tiên thuật, hóa sinh bất diệt nên được tôn thờ từ thời Hùng Vương. Rõ ràng đây là một nhân vật thần nữ khác so với Tây Thiên Quốc Mẫu được kể ở trên. Ngay sự tích được kể cũng cho biết, khi vua Hùng lên núi Tam Đảo thì nơi đây đã có một ngôi chùa cổ Tây Thiên.
Tại khu di tích Tây Thiên còn dấu vết của của việc vua Hùng cầu tiên là là chùa Phù Nghì. Chùa này tương truyền được xây trên nền Vọng Tiên đài, nơi Hùng Vương thứ 7 đã lập đàn cầu tiên.

IMG_2418.jpgBia ma nhai do Lê Khắc Phục lập khi lên cầu đảo ở núi Tam Đảo.

Sự tích khác liên quan đến vị thần nữ núi Tam Đảo là truyện Thanh sơn đại vương được chép trong Việt điện u linh. Truyện như sau:
Núi Tam Đảo là một danh sơn ở nước ta, dãy núi vòng quanh phương Bắc, dài tới nghìn dặm. Đời Lý, Trần trước có ghi tên núi vào trong tự điển, nhưng chưa được rõ rệt, sau gặp nhiều lần binh lửa nên bỏ mất. Đến đời vua Nhân Tông nhà Lê, trong hai năm Kỷ Tị và Canh Ngọ (1449 – 1450) bị đại hạn luôn, cầu đảo khắp các thần, đều không thấy mưa. Triều đình họp bàn: Tam Đảo là núi có tiếng mà sự thờ cúng lại quá chểnh mảng, nay nên cho lên sửa sang và tế lễ để cầu đảo. Vua liền sai soạn văn, phong thần núi là Thanh Sơn đại vương và cho lên làm lễ cầu mưa. Hôm ấy mây nổi, khắp trời tối trăm, sáng hôm sau mưa xuống như trút, rồi năm ấy được mùa. Từ ấy về sau, hễ gặp đại hạn, lên đền cầu mưa đều ứng nghiệm. Thần núi được tôn làm phúc thần một phương và núi được ghi vào tự điển từ đấy.
Dấu vết của việc cầu đảo này còn lưu trên là tấm bia ma nhai khắc trên vách đá ven suối có tên Bát Nhã tuyền do quan đại thần Lê Khắc Phục lập. 
Ngày nay, vị thần núi Tam Đảo này được lập thành một ngôi đền riêng, gần với đền Thượng Tây Thiên. Trong đền có tượng thần hình dáng một mỹ nhân tuyệt sắc.

IMG_6495Điện thờ Thanh Sơn đại vương ở Tây Thiên.

Câu đối ở điện thờ Thanh Sơn đại vương trên núi Tây Thiên:
Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo
Cửu tiêu nhật nguyệt ánh trùng quang.
Đáng chú ý ở câu này dùng chữ “Cửu Tiêu”, chỉ chốn trời cao.
Với những thông tin về vị nữ thần chốn Cửu Tiêu, đẹp như một mỹ nhân này thì có thể nhận định: thần núi Tam Đảo chính là bà Ngọc Tiêu (Lăng Thị Tiêu), vị tiên nữ giáng trần người lấy vua Hùng thứ bảy trong Ngọc phả Hùng Vương ở Phú Thọ. Một số sự tích hiển linh khác ở Tây Thiên – Tam Đảo được kể như việc báo mộng cho Trần Nguyên Hãn về khởi nghĩa của Lê Lợi hẳn cũng thuộc về vị nữ thần này.
Hiện tượng ở một nơi nhưng có 2 vị thần thuộc 2 thời kỳ khác nhau là thường gặp trong tín ngưỡng thờ thần ở miền Bắc. Ví dụ, ở Sóc Sơn, trong khi vị thần thờ chính là Phù Đổng Thiên Vương (thánh Dóng), nhưng lại có thờ cả thần núi Vệ Linh là Na Tra thái tử. Sự tích kể Na Tra từng hiển linh trước giặc Tống trên sông Đà ở Thái Nguyên. Trong quần thể đền Dóng Sóc Sơn, có riêng đền Hạ là để thờ vị thần núi Sóc này.
Hay cũng ở núi Sóc còn có chuyện Tỳ Sa Môn thiên vương hiển linh trước nhà sư Khuông Việt. Trong đền Thượng Sóc Sơn ngoài Thánh Dóng được thờ chính còn có cả tượng thờ Na Tra thái tử và Tỳ Sa Môn thiên vương. Những chuyện này làm cho các nhận định về Thánh Dóng khá lẫn lôn, quy kết thành Tỳ Sa Môn thiên vương. Thực tế, Thánh Dóng vẫn là Thánh Dóng, còn cùng nơi đó có những vị thần khác hiển linh, tuy có liên quan, nhưng không phải là hình tượng gốc của Thánh Dóng.
Qua những tư liệu và di tích ở trên, có thể nhận định, ở Tây Thiên có 2 vị nữ thần được thờ phụng:
– Một là Tây Thiên quốc mẫu hay Tam Đảo sơn Trụ quốc mẫu, vị mẫu thời Hùng Vương thứ nhất, giúp vua Hùng dẹp giặc, dựng nước. Đây là vị quốc mẫu tối cao, chiếm nhiều ngôi vị quan trọng trong Đạo Mẫu và Đạo Giáo, cũng như các tín ngưỡng thờ tổ tiên của dân gian.
– Hai là Thanh Sơn đại vương Ngọc Tiêu (Lăng Thị Tiêu), người lấy Hùng Vương thứ 7, là vị thần núi Tam Đảo, thường được cầu đảo làm mưa và hiển ứng báo mộng qua các thời.
Câu đối ở đền Thỏng (Hữu thần cung), tại xã Đại Đình, Tam Đảo:
石路赴西天靈地存名仙降
高山豋扶議古臺記位母儀
Thạch lộ phó Tây Thiên, linh địa tồn danh tiên giáng
Cao sơn đăng Phù Nghị, cổ đài ký vị mẫu nghi.
Dịch:
Đường đá tới Tây Thiên, đất thiêng còn danh tiên hạ thế
Núi cao lên Phù Nghị, đài xưa ghi ngôi mẫu oai nghiêm.

Ngọc phả sự tích Quốc mẫu Tây Thiên Tam Đảo tối linh từ

Dịch từ bản Ngọc phả chữ Nho chép tay hiện đang lưu ở đền Hóa Tây Thiên, xã Đại Đình, Tam Đảo, Vĩnh Phúc.

20190508_084143

Bản quốc toàn dân kính hiệu Ngọc phả sự tích Quốc mẫu Tây Thiên Tam Đảo tối linh từ
Truyền lại để đời sau thờ phụng.

Nước Việt Nam ta, tổ quốc vua Hùng, ngày 12 tháng 7 năm Mậu Thìn (tức là năm 1988), tỉnh Vĩnh Phú, huyện Tam Đảo, xã Đồng Tranh, thôn Phù Liễn, Nguyễn Văn Ánh tuổi 76 phụng kính Thượng đẳng Thánh mẫu, chấp bút rõ ràng thừa sao chính bản Ngọc phả sự tích Tây Thiên, y như trước đây truyền lại, theo trước phụng sự đền thiêng quốc mẫu Tây Thiên.
Chuyện bày tới mai sau trong văn thờ tích thiện thường giúp yên giáng ứng, sắc phong chung đúc trạng nguyên tới nay, bậc tôn kính giúp nước cứu dân, lên ngôi rồng, cùng nhau mãi ngưỡng vọng phật thánh, cúi lạy bậc kính tôn.
Theo ở chính sự của bản xã Đại Đình, thôn Sơn Đình nguyên có tục trọng vọng bái Thánh mẫu Tây Thiên, đảo tất thông, cầu tất ứng, giáng phúc nhiều ơn, mọi người đều có phúc. Nên họp tại Đền Thượng, hội nghị Đền Đông trên lầu. Các chức sắc mục, trên dưới tiến đến, cùng một lòng tôn quý Ngọc phả phụng sự, sửa sắp tôn sùng đền Thánh mẫu, phụng sự ngàn năm, oai thiêng rộng lớn, cùng với các công trình, cố lấy tài mà chép truy lại xem cây lớn cội rễ thế nào để làm thành Ngọc phả. Hàng ngàn người chư tôn tín thiện, tăng thêm lòng lành, sinh điều hội họp, mong giáng phúc, được kết quả thành đủ, thời nay lập thành phủ miếu, truyền quốc danh cổ tích, phụng sao cho đời sau truyện cổ Tam Đảo sơn Trụ quốc mẫu Đại vương.

Nước Việt xưa Hùng Vương đóng đô trị nước, lấy hiệu là Văn Lang. Khi đó ở đảo Tây Thiên, phủ Đoan Hùng, huyện Tam Dương, xã Đông Lộ, trong xã có một Trưởng ông của xóm tên Phiêu Hùng, tuổi gần 40 mới lấy bà tên Lũy Tây. Trưởng ông là con người khí trượng, khôi ngô, thể hiện người anh hùng khoáng đạt, 40 tuổi vẫn còn như trẻ, thuộc dòng dõi Hùng Vương theo như Ngọc phả. Trong một ngày ông bà nằm mộng là hành du lên trên núi Tam Đảo, đến chùa Tây Thiên ngủ lại, dâng hương cầu đảo, mật khấn ở trong chùa. Trong ngày đó họ nằm chờ cầu ứng mộng. Đến khoảng ngoài canh ba khi đang mơ màng, chợt thấy trong người bàng hoàng, bên góc có mây ngũ sắc bay vào chùa. Hương khói đầy phòng, nghênh đón mây lành. Trong mây vàng hiện lên một dải tinh mỹ bay lượn trong mây. Trước sân chùa thấy một khối mây trắng, xa lập một quần tiên 7, 8 người đều mặc xiêm áo. Người thì ca hát, người thì nhảy múa, người thì gảy đàn, người thì ngâm thơ quanh bà Đào Thị. Đến lúc trời mờ sáng thì bay về phía Tây. Bà tỉnh lại mới biết đây là ứng mộng lành.
Từ đấy trở đi chuyển động tâm thần, mang thai hơn 14 tháng, đến ngày mồng 10 tháng 5 năm Giáp Thân sinh hạ một người con gái. Lúc mới sinh trong phòng khí sáng huy hoàng, ánh hồng sáng lạn, sắc mặt tươi tốt. Cả nhà đều biết trước sau đây là kỳ nhân giáng hạ từ Cửu thiên. Lên 3-4 tuổi, yểu điệu sánh phượng, mặt sáng như mặt trời bởi thời phượng. Nhan sắc như phượng, được bồi thêm nét thang tĩnh, có vẻ chim sa cá lặn, như hoa nhường nguyệt thẹn, mọi mặt đều đáng ca tụng.
Sáu tuổi đã thông thạo văn ấn, được mệnh danh là Thẩm, húy là Nhược Cảm. Trưởng ông và Thái bà rất mực yêu thương, chăm sóc. Tới năm 11-12 tuổi không có môn nữ tắc, nữ công nào không tường tận. Lại có tài năng võ nghệ, binh thư thao lược, các môn cưỡi ngựa, múa kiếm không có môn nào không thông thạo. Thực là người con gái anh hùng hào kiệt. Từ thời Đường Ngu đến đó chưa có ai có trí bằng.
20 tuổi đã anh hùng dũng mãnh, tài lược cầm quân. Người đến cầu đều là các bậc hào kiệt trong huyện. Đều thấy là một lãng tử hùng kiệt, vẻ ngoài tốt lành rõ ràng, có thuật thần tiên, một lúc vừa là thần, là thánh rành rành, lại vừa là chúa vừa là tiên, biến hóa thần thông, xuất nhập nhiều đường, không phải là dạng nhân gian thông thường. Trong xã đều gọi là bậc đệ nhất đại phu. 
Thời bấy giờ có giặc nước Ngô xâm lăng, trong nước hết sức lo sợ. Hùng Vương có chiếu loan báo trong thiên hạ, kêu gọi ai là anh hùng giải phóng nước Ngô Thục tới mùa xuân thu, thiên hạ yên bình, cứu nhân gian thoát cảnh binh đao, yên nước nhà khỏi cảnh hồn kinh phách lạc, lo sợ đầy rẫy.
Kim Nương nghe thấy chiếu chỉ liền tức tốc kêu gọi người bản bộ, xã Đông Lộ 50 người, Quan Nội 150 người, xã Sơn Đình 100 người, xã Quan Ngoại 150 người, xã Quyết Trung 10 tráng sĩ, cùng với các nơi đến tập hợp ở huyện đường, được tất cả 3000 tráng sĩ, theo về Phong Châu, Việt Trì, xin được vào yết kiến Hùng Vương.
Hùng Vương thấy là một đại tài, bèn giao tinh binh 10 vạn, ngựa chiến 3 ngàn, cùng 50 bộ quân thủy theo diệt phá Ngô Thục xâm lược. Kim Nương thống chế thủy bộ quân, vào tháng 2 ngày 29 ra quân dẹp giặc trước. Nàng lệnh hành trình từ kinh thành tiến quân chia thành 3 đạo. Một đạo tinh binh 3 vạn, ngựa mạnh 1 ngàn, từ Phong Châu tiến đến đạo Hưng Hóa, phủ châu Ngưu Giang, cùng với quân nữ Ngô Thục quyết chiến. Một đạo hộ quốc chống Ngô Thục, binh hùng 5 vạn, danh tướng 1 ngàn, ngựa 3 ngàn, cùng nhau từ sông Ấn đến sông Mã trực chiến cùng với quân Ngô Thục. Một đạo cuối hộ quốc giúp Hùng, 4 vạn ẩn binh, ngựa 24, tướng 1 ngàn viên, tiến đến Sóc Sơn tuân lệnh phân tán thành 3 vạn cùng giao chiến với quân Ngô Thục. Ba đạo vạn binh mã cùng tiến đánh, gặp tại chiến trường, giết được quân giặc Ngô Thục rất nhiều. Quân Ngô Thục đại bại, vứt bỏ giáo giáp, bỏ chạy về động của mình, về sau không dám quay lại xâm chiếm.
Kim Nương rút quân về phòng ngự, quay về triều đình. Hoàng đế thấy việc quốc sự vui mừng, bèn mở tiệc. Các tướng sĩ Tây Thiên được ban quan tước. Kim Nương được phong là Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại vương. Ngày 28 tháng 2 toàn huyện quê hương bái giá.
Tương truyền rằng Kim Nương đã dẹp được giặc Ngô, lập công lớn, cùng các tướng bản bộ và binh mã về quê, mổ trâu dê đãi quân sĩ, bái tạ cha mẹ, mời các phụ lão, anh hùng hào kiệt đến ăn mừng.
Ngày tháng qua đi, Thái ông Thái bà tuổi đã ngoài 80, không bệnh mà mất. Kim Nương làm lễ an táng cha mẹ vào ngày 10 tháng Giêng.
Công chúa lúc nhàn rỗi đi ngắm sơn thủy giải khuây, đến các nơi, liền truyền cho tổng xứ, tức là xã Quan Nội lập làm tả cung, Quan Đình và Nhân Lý là nơi thân thuộc lập hữu cung, xã Quyết Trung lập là hạ cung. Lại phụng sự đến núi Tam Đảo, miếu Tây Thiên, ngự tại trong đình, bỗng thấy mây năm sắc từ trên trời hạ xuống, phủ khắp một bên gian phòng. Lại có một vị thiên sứ từ trong mây xuất hiện nói rằng tuân lệnh Thượng Đế triệu Công chúa về triều. Công chúa liền về nhà tắm gội rồi Công chúa cùng với thiên sứ bay về trời.
Những gì còn lại được phụng thờ các đời ở miếu Tây Thiên. Lưu truyền thờ phụng. Sĩ Nông Công Thương một lòng cầu đảo, tất được ứng nghiệm, nhân gian lưu truyền là ngày 11 tháng 2.
Do có công phù Hùng diệt Ngô Thục, phù Đinh Lê, nên được sắc phong Quốc mẫu Đại vương, gia tặng sắc phong làm Tam Đảo sơn Trụ quốc mẫu đại Đệ nhất Thượng thượng đẳng Phúc thần. Xuân thu bốn mùa làm quốc tế, vạn năm cùng với đất nước nhớ ghi, lập miếu đình lưu truyền ngàn thu, vạn đời. Từ Đinh Lê Lý Trần đều đồng lòng thờ phụng Thánh mẫu Đại vương của thần điện Nam Bang. Thiên hạ đồng lòng cầu đảo, cầu lộc được lộc, lưu thông, cầu bình an, cầu phong chức, an cư lạc nghiệp, giúp nước cứu dân. An cư lạc nghiệp, vạn vạn đời nước Nam không quân giặc xâm chiếm, cả nước hòa bình. Đình nhận được quang vinh truyền đời đời, ngày sau đều cảm nhận được tiếng thơm xưa nay.