Đại Việt sử lược là cuốn sử sớm do một tác giả không biết tên (khuyết danh) viết ở bên… Tàu thời nhà Nguyên và được phát hiện trong đống 4 kho hàng Tứ khố toàn thư của nhà Thanh sau khi Càn Long cho hàng trăm “bác sĩ” thu gom sách sử, bản đồ về “chỉnh lý”… Về mở sử Việt, tác phẩm này viết như sau: “Xưa, Hoàng Đế dựng nên muôn nước thấy Giao Chỉ xa xôi ở ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc Tât Nam, có 15 bộ lạc là:… Những bộ lạc này đều không thấy đề cập đến trong thiên Vũ cống. Đến đời Thành Vương nhà Chu, Việt Thường Thị mới đem dâng chim bạch trĩ, sách Xuân Thu gọi là khuyết địa, sách Đái ký gọi là Điêu đề. Đến đời Trang Vương nhà Chu ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật quy phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chân chất, chính sự dùng lối thắt gút. Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương.” Tạm thời gác lại vấn đề văn bản của tác phẩm này, mà thử xem nội dung của Việt sử lược nói về thời đại Hùng Vương như thế nào.
Thứ nhất, Đại Việt sử lược ghi rõ Giao Chỉ có từ thời “Hoàng Đế mở muôn nước“. Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên được coi là thủy tổ của Trung Hoa, cách nay 5000 năm. Vậy sử Việt cũng bắt đầu từ thời Hoàng Đế, mà Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là “Đế Minh, thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ“.
Thứ hai, 15 bộ (bộ lạc) của đất Việt đúng ra là vào thời Văn Lang sau đó, chứ thời Giao Chỉ của Hoàng Đế đâu đã phân ra 15 bộ. Cho nên các bộ này mới “không có trong thiên Vũ cống“, tức là trong lịch sử thời Hạ Vũ. Truyện Việt Thường Thị cống chim trĩ cho Chu Thành Vương, tức vị vua thứ 3 của nhà Chu, cho thấy giai đoạn từ Hoàng Đế Hữu Hùng đến thời Chu, ở đất Việt vẫn tồn tại các chế độ xã hội. Thậm chí đã có họ (“Thị”) hay chế độ cha truyền con nối. Hình tượng “khuyết địa” với “điêu đề” chỉ vùng đất miền ven sông biển, nơi có nhiều thuồng luồng nên người dân xăm mình để xuống nước bắt tôm cá. Tương tự trong sách Quảng Châu ký ghi là các Lạc dân làm ruộng theo nước triều lên xuống. Như vậy đây là chỉ giai đoạn của các Lạc vương, Lạc hầu trên đất Việt, những người con theo cha Lạc Long Quân đi khai phá miền biển Đông.
Thứ ba, đến thời Trang Vương nhà Chu, có người lạ ở bộ Gia Ninh dùng ảo thuật quy phục các bộ lạc khác, lập nước Văn Lang, xưng Hùng Vương. Tiếp theo giai đoạn xuống biển là giai đoạn của dòng lên núi (bộ Gia Ninh ở phía Tây trên núi) đã dùng những tri thức “vượt thời đại” (ảo thuật) để quy phục các bộ lạc mà lập nước Văn Lang. Đây là chuyện Cơ Xương Văn Vương tác dịch (dùng lối thắt gút – các dịch tượng trong Hà đồ Lạc thư), dựng nên nước của vua Văn, đến Cơ Phát xưng thiên tử trăm nước. Thiên tử tức là con Trời, con cháu của dòng Hữu Hùng Hoàng Đế, vì nhà Chu mang họ Cơ của Hoàng Đế. Đây là lý do mà thiên tử Chu xưng là Hùng Vương, nối tiếp các đời Hùng Vương từ Hữu Hùng Hoàng Đế. Sử Việt gọi sự kiện này là Thục Vương đánh chiếm đất Lạc hầu, lập nước Âu Lạc. Lạc là đất của Lạc Vương thì hiển nhiên Thục chính là Âu. Nhà Thục tính từ Âu Cơ lập người con trưởng là Hùng Quốc Vương lên ngôi thiên tử ở Phong Châu (Gia Ninh), phân ra 15 “bộ lạc”, tức là 15 bang quốc chư hầu lớn. Số chư hầu nhỏ thì lên đến hàng trăm, nên gọi là Âu Cơ sinh trăm con Bách Việt. Nếu so với thời “Hoàng Đế mở muôn nước” hay “Đế Minh thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ” thì các chư hầu thời Âu Cơ – Thục Vương có con số hàng trăm là còn ít. Thư tịch lịch sử về cổ sử Việt không hề sai, mà sai ở cách đọc, cách nhìn nhận những thông tin ở trong đó. Thời đại Hùng Vương mở sử có 3 giai đoạn:
Hùng Vương Thánh Tổ bắt đầu ngang thời Hoàng Đế dựng muôn nước cách nay 5000 năm.
Lạc triều với con số 4000 năm lịch sử từ cha Rồng Lạc Long Quân khai phá đồng bằng ven biển trải nhiều đời các Lạc vương, phân chia các Lạc hầu cai quản các đầu sông góc bể, xăm mình lội nước đắp đê, gây dựng cơ đồ.
Thục triều với lịch sử bắt đầu ngang với thời nhà Chu, từ mẹ Âu Cơ tác dịch, Hùng Quốc Vương thề trung thành với họ Hữu Hùng, xưng mình là Hùng Vương, lập nước Văn Lang, đứng đầu trong trăm nước Việt chư hầu.
Truyền thuyết “Chín chúa tranh vua” của người Tày ở Cao Bằng kể, trong cuộc so tài với các chúa mường khác, chúa mường Nam Cương là Thục Phán đi lấy trống đồng về đến gò Đống Lân, mệt ngủ say, chuột cắn dây trống, trống lăn xuống đồi kêu vang cả một vùng. Các chúa khác tưởng chúa đi lấy trống đã thắng nên bỏ dở cuộc thi. Nhờ vậy Thục Phán là chúa mường thứ 9, đã giành thắng lợi trước các chúa mường khác và lên làm vua.
Truyền thuyết “Chín chúa tranh vua” cho thấy ý nghĩa của trống đồng trong việc hiệu lệnh chư hầu trước các nước lân bang. Chỉ một tiếng trống vang lên cũng đã làm các chúa mường phải thuần phục. Thục Phán nhờ có trống đồng đã trở thành vua chủ của 9 tộc người. Trống đồng là thứ gì mà lại có quyền uy như vậy?
Bất ngờ lớn nhất là những thông tin về công dụng của trống đồng lại được ghi trong cuốn kỳ thư cổ đại là Kinh Dịch. Trong 64 quẻ Dịch, quẻ Dự có lời tượng như sau: Dự – sấm vang rền mặt đất, tiên vương dùng tạo nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với tiên tổ. Trống đồng còn gọi là trống sấm, là loại trống duy nhất khi đánh để úp xuống đất, nên lời tượng quẻ Dự nói: sấm vang rền mặt đất. Quẻ Dự như vậy có hình tượng là trống đồng. Chữ “tác nhạc” cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế. Nó chính là tổ tiên của văn hóa cồng chiêng ngày nay. Nói đến vua Thục Phán không thể không nói tới thành Cổ Loa, tương truyền do An Dương Vương xây dựng. Cũng ở Cổ Loa, đã phát hiện đươc một chiếc trống đồng lớn cùng với những vũ khí hình như lưỡi cày đồng. Ở mặt trong vành chân đế của trống đồng Cổ Loa có khắc một dòng chữ triện, có thể đọc được như sau: “Vu tập bát cổ, trọng lưỡng cá bách bát thập nhất cân”. Nghĩa là: “Trống tế thứ 48, nặng hai trăm tám mươi mốt cân”. Chữ đầu tiên trong dòng chữ này đọc là Vu, có nghĩa là tế lễ, cầu mưa. Đây là một bằng chứng về công dụng sử dụng của trống đồng trong các buổi lễ tế trời và tổ tiên người Việt.
Trống đồng Cổ Loa
Huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa là nơi có đền thờ thần Trống Đồng, gọi là đền Đồng Cổ, nằm ở làng Đan Nê. Sách “Linh tích Tam Thai sơn” có đoạn viết về trống đồng ở Đan Nê như sau: “Trước kia, ở miếu thờ có 1 trống đồng, tương truyền là vật cổ từ thời vua Hùng, mặt trống có đường tròn 1 thước 5 tấc (0,6m), cao hai thước (0,8m), rỗng lòng không đáy, giữa mặt trống có chỗ lõm như rốn bụng, vành mép ngoài nối liền chữ triện, bốn bên có dây xoắn hình chữ Vạn, chữ lâu đời bị mòn, xoa xát cũng không rõ, xung quanh mặt chỉ còn vân hoa như hoa đẩu; núm có lỗ hổng bằng hạt đậu. Đó là trống đồng Lạc Việt nổi tiếng”. Theo Địa chí huyện Yên Định thì tại làng Đan Nê còn lưu truyền đôi câu đối: “Vật lưu Bách Việt tổ. Kiến ấp Trịnh Lưu Hà”. Di vật còn lưu lại ở Đan Nê là chiếc trống đồng như được mô tả trong sách Linh tích Tam Thai sơn. Trên chiếc trống này còn có chữ dạng triện (sách Đại Nam nhất thống chí chép là dạng chữ khoa đẩu), là loại chữ tượng hình sớm, trước thời nhà Tần. Câu đối ở Đan Nê cho biết trống đồng gắn liền với thời Hùng Vương, là tổ của Bách Việt và dùng trong việc phong ấp cho 3 dòng họ ở đây là họ Trịnh, họ Lưu và họ Hà. Công dụng của trống đồng dùng trong phong ấp lập họ cũng khớp với lời của quẻ Dự, nói: “Lợi kiến hầu, hành sư”. Theo lời quẻ, trống đồng được sử dụng để “kiến hầu”, tức là dùng để phong tước phong hầu, và “hành sư”, nghĩa là dùng để điều khiển quân đội. Trong cuốn cổ thư “Trúc thư kỷ niên” có chép khi Tần đánh bại và thu phục được các tiểu quốc Tây Nhung, vua Chu Tương Vương đã ban cho Tần Mục Công những chiếc trống đồng. Đây là tư liệu sớm nhất nhắc đến trống đồng trong lịch sử. Việc vua Chu ban trống đồng có ý nghĩa như là phong vùng đất Tây Nhung mới thu phục được cho Tần Mục Công. Nói cách khác, trống đồng đã được sử dụng làm vật ban phong đất và phong tước.
Tiền tế đền Đồng Cổ ở Đan Nê
Trống đồng là hiện vật đặc trưng của nền văn hóa Đông Sơn được biết gặp nhiều nhất tại Bắc Việt, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu. Phạm vi phân bố của trống đồng tương ứng với cương thổ của nước Văn Lang thời Hùng Vương, có phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Ba Thục, phía Bắc giáp Hồ Nam, phía Nam giáp Hồ Tôn. Vùng đất Quý Châu là đất Ba Thục, cũng là nơi được ghi nhận là xuất xứ của Thục An Dương Vương. Một chiếc trống đồng có nguồn gốc từ đất Thục ở Quý Châu với những họa tiết tạo hình và chữ viết rất độc đáo. Chiếc trống Thục này có dạng đặc trưng Heger II, cao 24cm, đường kính mặt trống 35 cm, đường kính đáy 29 cm. Ở giữa chiếc trống đồng là hình mặt trời có 16 tia, nhưng hết sức khác lạ là bên trong mặt trời lại có hình tròn với 5 vòng xoắn. Hình tròn 5 xoáy vừa là biểu tượng cho mặt trời, cũng là biểu tượng của Ngũ hành, xưa có tên là “Nhật nguyệt tinh thần”, gồm 4 tượng của các vì tinh tú và 1 hình tròn ở trung tâm. Đây là biểu tượng của nguyên thần, của những gì căn cơ nhất trong trời đất, tương tự như khái niệm Thái cực đồ âm dương sau này. Ở vòng tròn bên trong gần mặt trời là hình 16 con chim cổ dài như cổ cò, đứng thành từng 8 cặp quay vào nhau. Mỗi con chim đứng trên một con rắn dài nhỏ. Hình Chim – Rắn khá giống cảnh đôi Hạc đứng trên lưng Rùa để chầu. Chim – Rắn cũng như Hạc – Rùa là thể hiện không gian, trên trời có chim, dưới đất có rắn rùa. Tương tự trên trống đồng Ngọc Lũ là chim bay trên trời, hươu chạy dưới đất. Rắn cũng có thể coi là tượng hình của Rồng, nên biểu tượng Chim – Rắn là dẫn chứng nữa về sự hòa hợp biểu tượng của 2 dòng Tiên – Rồng trên mặt trống đồng. Vòng ngoài trên mặt trống gồm 4 đoạn giống nhau, phân tách bởi 4 tượng cóc. Mỗi đoạn gồm 3 cụm hoạt cảnh. Mỗi hoạt cảnh thể hiện hình một người có tóc búi đuôi sam dài, đang dương cung bắn vào một con thú, hình như con cáo. Đối diện là một hình người chim, có phần đầu như đầu chim, mỏ lớn, có 2 cánh. Tổng cộng có 12 hoạt cảnh giống nhau lặp lại ở vòng ngoài của mặt trống. Tóc đuôi sam, hình người chim đều là những biểu tượng đặc trưng có trong văn hóa Thục. Người chim được thể hiện trên cây vũ trụ tìm thấy ở Tam Tinh Đôi trên đất Thục cổ. Sử dụng nỏ thành thạo là sự liên hệ đến câu chuyện nỏ thần của An Dương Vương trong truyền thuyết Việt. Trên mặt trống có 4 tượng cóc cõng nhau. Khác với hình cóc thường gặp trên trống đồng Đông Sơn, mỗi tượng cóc ở đây được thể hiện thành khối dày chắc chắn, ngẩng đầu, có các xoáy âm dương ở hai bên thân. 4 tượng cóc nằm ở 4 góc, thể hiện tính vuông của Đất. Trong khi mặt trống hình Tròn, chỉ tính chất của Trời. 4 góc là nơi Trời tròn – Đất vuông giao hòa mà sinh ra vạn vật. Cho nên mới có cóc đực cái giao hợp, sinh sôi nảy nở không ngừng.
Trống đồng Thục
Trống Thục có 4 chiếc quai, khá đặc biệt, không giống kiểu quai hình văn thừng như các trống đồng Đông Sơn. Quai trống Thục có hình đầu rồng có tai lớn, ngậm quai. Hình này có thể gọi là hình Tiêu đồ, đặc trưng của các đồ đồng dòng đỉnh vạc thời Thương Chu. Sự kết hợp các chi tiết biểu tượng của 2 dòng đồ đồng Trung Hoa trên cùng một hiện vật, đánh dấu sự thống nhất 2 dòng văn hóa của thiên hạ. Dòng đồ đồng mang biểu tượng Rồng là dòng theo cha Lạc Long Quân, thể hiện trên các đồ vật có chân như đỉnh, vạc thời Thương Chu. Dòng đồ đồng mang biểu tượng Chim là dòng theo mẹ Âu Cơ, thể hiện trên các trống đồng, thạp đồng Đông Sơn. Ở vành ngoài trên mặt trống có 57 ký tự lớn ở dạng Đại triện. Niên đại của lối chữ này ước đoán vào khoảng thời Chiến Quốc, trước khi Tần thống nhất chữ viết toàn Trung Hoa thành chữ Tiểu triện. Sự kết hợp giữa trống đồng và chữ Triện là minh chứng đầu tiên và rõ ràng nhất rằng văn hóa trống đồng thuộc chung nền văn hóa chữ tượng hình phương Đông, tức là nằm trong cùng một thiên hạ Trung Hoa thời nhà Chu. Dòng chữ ngoài cùng được đúc sâu, khá rõ nét. Lối viết Đại triện này có nhiều khác biệt nên hiện không thể đọc hết được số chữ này. Tuy nhiên trong bài minh văn của chiếc trống Thục có nói tới việc phong tước và hành sư, như đoạn câu “Vương tứ Bá” – Vua ban thưởng cho Bá, và đoạn “nội sơn tác sư” – trong núi lập ra quân đội. Dựa vào nội dung chữ đọc được trên trống, có thể thấy đây là một chiếc trống được ban cho một vị tướng tước Bá để dùng làm hiệu lệnh, xây dựng quân đội.
Sách Đại Nam nhất thống chí chép về đền Đồng Cổ ở Yên Định như sau: “Xưa Hùng Vương đi đánh Chiêm Thành đóng quân ở núi Khả Lao, đêm mơ thấy thần báo mộng, bảo vua rằng: Xin có cái trống đồng và dùi đồng giúp nhà vua thắng trận phen này. Đến khi ra trận, thì thấy trên không văng vẳng có tiếng trống, tiếng kiếm kích, rồi quả nhiên vua được toàn thắng”. Như vậy, trong thần tích về thần Đồng Cổ, trống đồng được dùng trong việc đánh trận, điều khiển quân đội. Ở chiếc trống Thục trên, công dụng về việc hiệu lệnh quân đội thể hiện ở phần thân trống. Thân trống chia làm 3 phần. Phần tang trống có 16 hoạt cảnh người đi săn – người chim như trên mặt trống. Còn 2 phần lưng và chân trống là vòng tròn các chiến binh, gồm cụm 3 người một. Một người chống tay cầm kiếm, một người đang dương cung và một ngươi vung 2 tay như đang dùng dùi đục. Tổng cộng cả phần mặt trống và thân trống có tất cả 156 hình người. Có thể thấy đây là trống quân dùng trong quân ngũ, chứ không phải trống dùng trong tế lễ.
Mặt trống Thục
Chiếc trống đồng có chữ Đại triện là minh chứng cho mối liên hệ trực tiếp giữa vùng Bắc Việt và đất Thục ở Tứ Xuyên, Quý Châu. Những cặp đôi: Mặt trời – Ngũ hành, Chim – Rồng, Trống đồng – Chữ đại triện cho thấy thực chất cả 2 dòng Tiên – Rồng của truyền thuyết Việt đều thuộc một nền văn minh phương Đông cổ đại. Trống đồng thật sự là vật lưu truyền của tổ Bách Việt, từ cha Rồng mẹ Tiên hợp nhất trong vòng quay trường cửu quanh mặt trời ở trung tâm vũ trụ.
Có rất nhiều học giả Tây có, ta có, Tàu có, cho đến nay vẫn cho rằng sách vở xưa các cụ chép đã nhầm chữ “Lạc” thành chữ “Hùng”, nên kết luận Hùng Vương là Lạc Vương, hay các vua Hùng mang họ Lạc… Bài viết này xin tổng quan lại nhận định về dòng giống Lạc Hùng của người Việt trong suốt tiến trình lịch sử là gì.
Tên gọi “Lạc” đầu tiên được nhắc đến trong sử Việt là Lộc Tục Kinh Dương Vương làm vua phương Nam, lấy tên nước là Xích Quỷ. Chữ “Lộc” ở đây chính là đọc sai của “Lạc”, mà bằng chứng trực tiếp là sau đó Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc – Long quân, thủ lĩnh của vùng Lạc và Long. Nếu mẹ Rồng Động Đình đã là Long thì hiển nhiên cha Tiên phải là Lạc.
Lộc Tục tức là Lạc tộc, chỉ dòng tộc ở vùng đất phương Nam xưa thời lập quốc Xích Quỷ. Phương Nam xưa là phương của cây kim chỉ Nam, vốn luôn chỉ về địa cực, chứ không phải phương Xích đạo như ngày nay. Phương này trong Ngũ hành thuộc về hành Thủy (nước). Do đó tên nước Xích Quỷ thực ra là cách phiên thiết của chữ Thủy = Sủy, chỉ phương Nước mà thôi. Lạc cũng vốn phát âm là Nác, mà tiếng Nghệ Tĩnh ngày nay vẫn đang nói để đọc từ Nước. Lạc nghĩa là Nước, là Thủy, là phương Nam xưa.
Chính điện đình Triệu Phú (Hùng Sơn, Phú Thọ)
Câu đối ở đền Hùng, Phú Thọ:
Khải ngã Nam Giao, Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc
Hiển vu Tây Thổ, Tản Lô nhất đái thọ tân từ.
Dịch nghĩa:
Mở đất Nam Giao, Hồng Lạc nghìn thu xưng đế quốc
Sáng vùng Tây Thổ, Tản Lô một dải mãi lưu đền.
Dòng Lạc tộc của Kinh Dương Vương đã kết hợp với dòng Long tộc Động Đình mà sinh ra Lạc Long Quân. Con Rồng là biểu tượng của phương Đông trong Tứ linh, xuất xứ từ vùng ven biển Động Đình, tức biển Đông. 2 dòng Lạc ở vùng trung du Bắc Bộ và dòng Long ở ven biển Đông đã hợp nhất dưới thời vua cha Lạc Long Quân. Từ đó chữ Lạc cũng dùng chung với nghĩa Lạc Long, chỉ 2 vùng đất này ở miền Bắc Việt.
Phương hướng trong cổ sử Hoa Việt
Dòng Lạc Thị từ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân được thờ tập trung ở vùng Thuận Thành, Gia Bình (Bắc Ninh) với những di tích tiêu biểu như lăng Kinh Dương Vương ở Á Lữ (Thuận Thành), đình Đại Bái thờ Lạc Long Quân, đền Bình Ngô thờ Hùng Vương…
Lạc Long Quân khi nhận ngôi của Kinh Dương Vương đã phải làm một cuộc “cách mạng”, giành quyền cai quản từ dòng phía Tây là Đế Lai. Nhờ dựa vào những người anh em “cùng một bọc trứng” rồng của mẹ Thần Long mà Lạc Long Quân đã trở thành đức Vua cha Bát Hải, đứng đầu Thủy phủ Động Đình.
Câu đối ở đền Đồng Bằng, nơi thờ đức Vua cha Bát Hải Động Đình:
Bình Thục trứ nguyên huân, mỹ tai Hồng Lạc sơn hà, bi kệ trường minh Đào Động miếu Lịch triều long tự điển, tế thử Á Âu phong hội, sương uy do tại hải môn thu. Dịch nghĩa: Dẹp Thục nên công đầu, đẹp thay núi sông Lạc Hồng, bia kệ sáng dài Đào Động miếu Trải triều thịnh điển lề, đến nơi phong hội Á Âu, uy sương còn mãi hải môn thu.
Hình Rồng ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình)
Những người anh em phò trợ Lạc Long Quân được kể dưới nhiều cái tên. Đó là Thổ Lệnh và Thạch Khanh, hai vị thần Tam Giang ở bến Việt Trì. Đó cũng là 5 anh em của Trung Thành Phổ Tế Đại vương được kể ở vùng Thường Tín, Phủ Lý. Bên Hồ Tây thì đó là Uy Linh Lang và Đoài Hồ Thất giáp, lục bộ thủy phủ đã diệt con Cửu vĩ Hồ (người Hồ ở hướng Tây). Trong tín ngưỡng Tứ phủ thì đó là Ngũ vị tôn quan, lập nên Ban công đồng của Tứ phủ.
Trong truyền thuyết về Tản Viên Sơn thì Lạc Long Quân và những bộ tướng Thủy phủ được kể bằng các tên là Quý Minh như ở Ghềnh Bợ (Ba = Quan Đệ tam Thoải phủ) hay 5 vị thủy thần ở La Phù bên bãi Trường Sa của Đà giang. Đây cũng là các “Lạc tướng” dưới trướng của Lạc Vương (Long Quân), vì hiển nhiên các vị này cùng họ với Lạc Long Quân. Công nghiệp lớn nhất của họ là “phù Hùng đánh Thục”, tức là giúp Lạc Long Quân (vua cha Hùng Vương) đánh dòng phía Tây (Thục) của Đế Lai, lập nên nước Hồng Bàng hay Việt Thường.
Lạc triều từ Lạc Long Quân (hoặc từ Lộc Tục Kinh Dương vương) trải 18 đời (con số ước lệ) đều gọi là Hùng Vương, lấy theo tên của Thái tổ Hữu Hùng Đế Minh. Đến đời Hùng Vương thứ 18 là Duệ Vương thì thiên hạ họ Hùng đã trải rộng vượt bờ Hoàng Hà. Trên vùng đất Lạc lúc này có thủ lĩnh là Lạc tướng Cao Sơn mà truyền thuyết chép mang tên Sùng Lãm. Sùng có nghĩa là Cao. Truyền thuyết Trung Hoa gọi là Bắc Bá hầu Sùng Hổ của thời Ân Thương.
Chính điện đình La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ)
Hậu duệ của dòng theo Đế Lai đi về phía Tây (lên núi) lúc này là Âu Cơ hay Cơ Xương, là Tây Bá hầu của nhà Ân. Cơ Xương phát động cuộc đại chiến, tiến đánh Sùng Hầu Hổ ở đất Lạc, truyền thuyết gọi là Thục đánh Hùng Duệ Vương. Lạc tướng Cao Sơn cùng với những dòng tộc khác trên đất Lạc là Tản Viên Nguyễn Tuấn và Quý Minh Nguyễn Hiển chống lại sự tấn công của quân Thục ở vùng thượng du sông Đà, sông Thao (Mộc Châu, Quỳnh Nhai). Quân Thục của Cơ Xương giành phần thắng, đất Lạc bị dòng Âu Cơ chiếm. Cơ Xương dời đô từ Kỳ Sơn về Phong Châu (Phú Thọ), hợp nhất 2 vùng đất Âu (tức Ai Lao, hay vùng cao nguyên Vân Quý) và đất Lạc (tức vùng Nam Giao – Giao Chỉ thời Nghiêu Thuấn Vũ), gọi là nước Âu Lạc.
Cơ Xương băng, con trai là Cơ Phát đã phát động các chư hầu làm cuộc tổng tấn công nhằm vào Trụ Vương. Vua Ân chết ở Lộc Đài vào mùa thu, hóa thành Vua Địa phủ. Ngày vua Ân chết trở thành ngày Xá tội vong nhân, khi mà cánh cửa Dương gian và Địa phủ mở ra để Âm Dương có thể quy về hòa hợp.
Thục Vương Cơ Phát (Thục Phán) lên ngôi Thiên tử, xưng là Vũ Vương, truy phong cho cha là Văn Vương, nên lấy tên nước là Văn Lang. Cơ Phát dời lại đô về phía Tây ở Cảo kinh. Vùng đất Lạc ở phía Đông trở thành nơi tế tự tổ tiên họ Hùng và Văn Vương trên núi Nghĩa Lĩnh.
Vũ Vương băng, Thành Vương nối ngôi còn nhỏ, Chu Công Đán cùng Thiệu Công Thích nhiếp chính. Hậu duệ của nhà Ân là Vũ Canh cùng với ba vị giám thúc nổi loạn. Chu Công xuất thân Đông chinh, bắt đám “ngoan dân” của nhà Ân về an trí tại đất Lạc. Thượng thư có mấy thiên nói về viên việc này:
Thiệu cáo (lời của Thiệu Công với Thành Vương và Chu Công): Qua bảy ngày, Giáp tí, Chu Công bén sớm ra dùng thư để ra lệnh cho dân Ân… Dân Ân đều tới làm. Sau đó Thiệu Công đã trình bày sự việc và xin vua (Thành Vương) xá tội cho dân Ân ở đất Lạc.
Lạc cáo (lời đối thoại giữa Chu Công và Thành Vương): Duy thánh ba ngày rằm, Chu Công bắt đầu dựng nền, làm ấp lớn ở nước miền Đông là đất Lạc… Hỡi người do vua sai khiến! Dân Ân chịu lời dạy dỗ, muôn năm cũng vẫn xem mãi ông vua, cháu ta mà mến đức. Ngày Mậu Thìn nhà vua ở ấp mới làm lễ tế chưng hàng năm, tế Văn Vương 1 trâu, Vũ Vương 1 trâu…
Đa sĩ (lời Chu Công nói với các quan nhà Ân):Duy tháng ba, Chu Công bắt đầu ở ấp mới là Lạc, bèn bá cáo với các quan của vua Thương cũ… Bảo cho các ngươi, các quan nhà Ân được hay! Ta không giết các ngươi. Lúc này ta chỉ lại ra lệnh. Nay ta làm ấp lớn ở đất Lạc này. Ấy là ta vì không có chỗ tiếp đãi bốn phương. Và cũng vì các quan các ngươi chạy bạy làm việc, gần vớ nhiều kẻ biết nhường nhịn của ta… Các ngươi hãy nhận lấy ruộng đất của các ngươi! Các ngươi hãy yên ổn ở lại mà làm việc!…
Vùng đất Lạc lúc này ngoài dòng tộc của Lạc Long Quân xưa (Cao Sơn và Quý Minh) đã có thêm dòng tộc của Âu Cơ Văn Vương và của dòng nhà Ân Thương (Việt Thường) đến lập Lạc ấp. Việc yên định hậu duệ của nhà Ân ở đất Lạc là mối lo của các đời vua Chu từ Thành Vương đến Khang Vương, tới Tất Cônghọ Phan mới thành toàn được vùng Đông đô này:
Tất mệnh (lời Khang Vương truyền cho Tất Công): Than ôi! Cha Thái sư! Vì Văn Vương, Vũ Vương ra đức lớn với thiên hạ nên được nhận ngôi của nhà Ân. Nhờ Chu Công giúp đỡ vua trước, yên định được việc nhà. Khó nhọc với đám dân ngoan ngạnh của nhà Ân, dời họ sang ấp Lạc gần kề nhà vua, họa hóa theo lời dạy bảo. Trải qua ba kỷ (mỗi kỷ 12 năm), đời đổi, thói dời… Sự yên nguy của nước chỉ là trông bọn dân Ân ấy. Không cương, không như đức mới thực tu! Duy Chu Công cẩn thận được ban đầu. Duy Quân Trần thỏa hiệp được khoảng giữa. Duy ông thành toàn được đoạn cuối.
Vế đối có chữ Lạc Đô ở đình Tân Khai
Câu đối ở đình Tân Khai ở trung tâm Hà Nội gọi đích xác nơi này là “Lạc Đô”:
Đại La thành nhất đái giang sơn, Long Đỗ chí kim do thắng tích
Tứ vọng tự lũy triều hương hỏa, Lạc Đô chung cổ độc anh thanh.
Dịch nghĩa:
Thành Đại La một dải núi sông, Long Đỗ tới nay còn thắng tích
Bốn đền trấn các triều hương lửa, Lạc Đô tự cổ dậy tiếng thơm.
Thời Chu U Vương vùng Tam Xuyên (tức là vùng Tam Giang trên đất Lạc) gặp trận động đất lớn là điềm âm thịnh dương suy. Thái sử nhà Chu là Lão Tử Lý Bá Dương đã đăng đàn trên núi Thất Diệu, nhắc lại ân oán của 2 nhà Hạ và Thương (cùng là dòng Lạc Long) ở đây để răn dạy vua Chu. U Vương sủng ái Bao Tự, hóa thân của dãi rồng từ thời Hạ, dẫn đến mất nước. Nhà Chu buộc phải dời đô về Đông, tức là về vùng đất Lạc của tổ tiên họ Hùng xưa, đóng đô ở Đông Ngàn Cổ Loa, gọi là Lạc Dương. Dương là hướng mặt trời lên, chỉ phương Đông.
Câu đối ở nghi môn đền mẫu Bạch Kê trên núi Thất Diệu:
Hồng Lạc di phong trang thể thế
Tiên Long dư duệ khải hồng cơ.
Dịch nghĩa:
Di tích Lạc Hồng đẹp hình thế
Dòng dõi Tiên Long mở cơ đồ.
Câu đối ở miếu Bạch Kê
Cuối thời Chiến Quốc, nước Tần ở phía Tây trên đất Ba Thục trở nên hùng mạnh. Tần Vương (cũng gọi là Thục Vương) đánh chiếm đất Chu của họ Hùng, sát nhập vùng đất Lạc với lãnh thổ phía Tây của nhà Tần nên cũng được gọi là nước Âu Lạc. Tần Thủy Hoàng xưng Đế, thống nhất thiên hạ Trung Hoa.
Chế độ hà khắc của Tần không được lâu. Một người từ vùng đất Phong Bái, tức là đất Lạc, là Lưu Bang đã dựng cờ khởi nghĩa ở vùng núi Châu Sơn Vũ Ninh. Nước Vạn Xuân lập ra rồi lại tách làm 2 phần sau khi Lữ Hậu mất. Nước Nam Việt có địa bàn nằm trên vùng đất Lạc Long xưa, nên Triệu Vũ Đế được coi là dòng Lạc Hùng như câu đối ở điện Xuân Quan bên sông Hồng:
Bạt địa nguy thôi phương tích bất tùy Tần Hán khứ
Xung thiên để trụ anh tiêu trường yết Lạc Hùng lai.
Dịch là:
Bạt đất mênh mông, danh tiếng thơm bất khuất thời Tần Hán
Động trời cột trụ, chí anh hùng giữ mãi buổi Lạc Hùng.
Nhà Triệu truyền 5 đời tới Triệu Vệ Dương Vương thì thất thủ bởi cuộc tấn công của nhà Hiếu vào Phiên Ngung. Vua Triệu cùng với thừa tướng Lữ Gia đem gia quyến lên lâu thuyền chạy về phía Tây, về đất Lạc xưa ở cửa biển Đại Ác. Không may, vua và Lữ Gia đều bị bắt giết. Nhưng các vị hoàng phi nhà Triệu mang họ Lữ tiếp tục ngược sông Đáy, chạy về vùng Phong Châu, làm nên cuộc khởi nghĩa Trưng Vương. Trưng Vương là dòng “Lạc Hùng chính thống“, khởi nghĩa trả thù cho chồng là “Lạc tướng Chu Diên“, đọc lời thề ở Hát Môn.
Câu đối ở đền Đồng Nhân thờ nhị vị Trưng Vương, nói rõ Trưng Vương đã tiếp nối dòng Lạc, dựng nước Đinh:
Tiếp Lạc, khai Đinh, quan miện xưng vương tam tải sử
Khu Tô, kháng Mã, sơn hà hoàn ngã vạn niên phương.
Dịch là:
Tiếp Lạc Hồng mở Đinh Tây, áo mũ xưng vua ba mùa lưu sử sách
Đuổi Tô Định chống Mã Viện, núi sông thu lại vạn xuân truyền danh thơm.
Câu đối trên đá ở đền Đồng Nhân
Câu đối ở đình Nôm, thờ thánh Tam Giang, một vị đại tướng của Trưng Vương, lấy cháu gái của Triệu Vũ Đế là Triệu Mỵ Nương, nói tới Trưng Vương thu được 65 thành và đóng đô ở “Đông Lạc”:
Lục thập thành Đông Lạc đại đô, Hán thị sơn hà ki khả chuyển
Bách thiên tải Nam triều danh tích, Trưng gia nghĩa liệt khải năng ma.
Dịch nghĩa:
Sáu mươi thành đô lớn Đông Lạc, thời Hán núi sông mà lay chuyển
Trăm ngàn năm tích nổi Nam triều, nhà Trưng công nghĩa chẳng từ.
Khởi nghĩa Trưng nữ Vương thất bại, nhưng hậu quân của Nam Việt nhà Triệu vẫn tiếp tục duy trì ở vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ dưới tên Nam Triệu (Nam Chiếu) của Triệu Ông Lý. Lạc Dương thời Chu Thục trở thành Giao Chỉ với thủ phủ ở Long Biên.
Tới thời Đường, Lạc Điêu ngự sử Cao Biền được cử sang An Nam bình định Nam Chiếu. Chữ “Lạc Điêu” thực ra là Lạc Diên mới đúng, là đọc chệch của từ Lạc Dương. Cao Biền đuổi quân Nam Chiếu ra khỏi vùng đất Lạc Dương, xây thành Đại La.
Hội đình Kim Lan
Câu đối ở đình Kim Lan, thờ Cao Vương Biền:
Châu lĩnh ngật đồi ba, Hồng Lạc sơn hà lưu thắng tích
Nhị hà bồi xuân sắc, Thăng Long cố chỉ ánh Đại La.
Dịch nghĩa:
Đất ngọc sóng vờn vun, non nước Lạc Hồng lưu thắng tích
Sông Nhị đắp xuân sắc, nền cổ Thăng Long sáng Đại La.
Dòng dõi Lạc Vương, Lạc Hầu, Lạc Tướngsau khởi nghĩa Trưng Vương còn chưa dứt, bởi tới khi chúa Nguyễn Hoàng dựng nghiệp, Gia Long, Minh Mệnh lập lại đế quốc Đại Nam thì vẫn nhận mình là dòng dõi Hùng Vương, như được ghi trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả.Chúa Nguyễn Hoàng nay được thờ là ông Hoàng Mười với sự tích cho rằng là con của Vua cha Bát Hải giáng thế. Vua cha Bát Hải là Lạc Long Quân nên sự tích này ý chỉ họ Nguyễn là dòng dõi của Lạc triều xưa.
Trang ngọc phả đề Hùng Vương năm 32
Nhà thờ họ Nguyễn ở Kẻ Xốm (Vân Nội, Phú Lương, Thanh Oai), nơi lưu giữ Cổ Lôi ngọc phảtruyền thư và Bách Việt triệu tổ cổ lục, luôn coi mình là dòng dõi Kinh Dương Vương. Đình Bình Đà thờ thủy tổ Lạc Long Quân với bức giá tượng cổ Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ. Khu vực Thanh Oai này cũng là “quê mẹ” Bồng Lai của hoàng tử Linh Lang, tức là Lạc Long Quân trong truyền thuyết. Như thế 2 cuốn phả tộc họ Nguyễn trên thực chất là ghi chép lịch sử người Việt từ góc độ của dòng Lạc theo cha, khác với những truyền thuyết chép từ góc độ của dòng lên núi theo mẹ Âu Cơ nước Văn Lang xưa.
Có thể họ Nguyễn = Nguyên, là số 1, chỉ phương Nam xưa trong Hà thư, hành Thủy. Tức là Nguyễn cũng tương đương với Lạc.
Cấm cung đình nội Bình Đà
Lịch sử hơn 4.000 năm, từ khi Lạc tộc khai phá phương Nam, Lạc Long Quân mở nước về miền biển Đông, Thục Vương dời đô về Lạc ấp, Tần Vương thống nhất Âu Lạc, Triệu Vũ Đế khởi binh, Trưng Vương nêu cao ngọn cờ Lạc Hùng chính thống, Cao Vương xây thành Đại La, cho tới các vua Nguyễn hưng thịnh nước Đại Nam. Dòng máu Lạc Hồng chưa hề ngừng chảy trong con tim mỗi người dân Việt.
Nhà Chu kể từ lúc dời đô về phía Đông thì đã suy. Thậm chí, quyền lực của Thiên tử Chu từ lúc này đã bị coi là đã mất. Các chư hầu lần lượt xưng Bá vào thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc thì danh xưng Vương đã không còn là độc quyền của Thiên tử Chu mà hàng loạt nước mạnh đã lần lượt xưng Vương như Sở, Tề, Ngụy…
Nước Tần vốn là vùng đất xa xôi hẻo lánh, đầy rẫy Nhung Địch, khác xa với các cường quốc Sơn Đông. Vây tại sao nước Tần lại có thể nhanh chóng trở nên hùng mạnh, thôn tính cả nhà Chu rồi lần lượt diệt lục quốc, mà xưng Đế thiên hạ?Vào thời Chiến Quốc, phong trào Bách gia chư tử nở rộ, nhân tài như long vân tụ hội, quyết cùng nhau tranh giành… công chúa Mỵ Nương trong cuộc đua tài bên lầu kén rể ở bến Việt Trì. Các nước đồng loạt thực hiện những chính sách cai trị mới, với đặc điểm chung là dần dà bỏ những quy định về Lễ đã đặt ra từ thời Chu Công. Thế nhưng, nước thực hiện biến pháp thành công nhất lại là nước Tần? Vì sao vậy?
Chế độ phong kiến – phong tước kiến địa, thế tập cha truyền con nối được xác lập vào thời Hùng Quốc Vương, người con cả trong Bách Việt, đã phân cho trăm anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, hình thành nên trăm nước chư hầu của nhà Chu. Các chư hầu được phong phần lớn đều là tông thất nhà Chu và những công thần lập quốc, tham gia phạt Trụ diệt Ân cùng Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương. Chế độ phong kiến phân quyền của nhà Chu đã tạo thành nếp gấp sâu đậm trong xã hội của thiên hạ Trung Hoa. Lễ nhạc do Chu Công đặt ra trở thành tiêu chuẩn mẫu mực cho trăm nước noi theo.
Nước Tần lại không giống các chư hầu khác của nhà Chu, nó được hình thành muộn hơn nhiều. Thời Chu Mục Vương, Tạo Phụ là người đánh xe cho Mục Vương có công được phong đất ở Triệu Thành, lấy đó làm họ. Đến đời Chu Hiếu Vương, có Thân hầu, có tổ tiên là ông Bá Ế thời Đại Vũ giỏi việc chăn nuôi, nên Chu Vương đã cho Thân hầu lập đất Tần, lấy họ Doanh của Bá Ế để… chăn ngựa với người Khuyển Khưu. Mãi đến thời Chu Bình Vương, họ Doanh có công phò vua Chu đánh Khuyển Nhung mới được phong ở đất Kỳ Phong, bắt đầu hình thành nước Tần.
Như vậy nước Tần được thành lập rất muộn, mãi tới thời Đông Chu mới chính thức được ban phong. Đất Tần lại vốn là nơi người Khuyển Nhung chăn ngựa, nên dân Tần thực ra chủ yếu là người Nhung Địch. Mãi sau này cả đến khi Tần xưng Vương thì một nước của người Rợ là Nghĩa Cừ vẫn thường xuyên quấy phá và là mối họa của nước Tần.
Chính vì xuất xứ của nước Tần không từ việc phân phong công thần của thời Chu Vũ Vương diệt Trụ, người Tần lại không phải công hầu quý tộc thân vương của nhà Chu, dân Rợ, Nhung chiếm phần nhiều, đã tạo ra một xã hội “kém phát triển” nhất về chế độ quý tộc thế tập so với các nước chư hầu lớn khác. Đây lại là điều kiện tuyệt vời cho việc thực hành Pháp trị, bởi theo tư tưởng của Pháp gia: “Chúng sinh bình đẳng“. Ai có công được thưởng, có tội phải xử, không phân biệt tầng lớp, thân thế.
Lệnh bài Tần Vương với dòng chữ: Giáp Ngọ trung hưng, Hành tẩu biến địa, Chúng sinh bình đẳng
Chế độ Pháp trị do Thương Ưởng thực hành ở Tần là nơi dễ thành công nhất, do tầng lớp quý tộc của Tần vốn ít và yếu, chế độ Tông pháp của nhà Chu hầu như chưa thực hành ở Tần được bao nhiêu. Trong khi đó, Pháp gia ở các nước chư hầu đều không được hoan nghênh, hay thực hiện không thành công như trường hợp Thân Bất Hại ở nước Hàn. Nguyên nhân chủ yếu là do chế độ Tông pháp thế tộc đã ăn sâu ở các nước này.
Biến Pháp của Thương Quân tiếp tục được duy trì tại Tần quốc ngay cả khi Thương Ưởng bị Tần Huệ Văn Vương xử ngũ mã phanh thây. Với sức mạnh của biến pháp Huệ Văn Vương đã chính thức xưng Vương ngang hàng với các chư hầu lớn, đánh chiếm Ba Thục, đất gốc tổ của nhà Chu.
Sang thời Tần Võ Vương, rồi Tần Chiêu Tương Vương với Tuyên Thái hậu nhiếp chính, Pháp trị tiếp tục được duy trì, là nền tảng để tạo nên sức mạnh của nước Tần mà thâu tóm toàn thiên hạ. Tần Chiêu Tương Vương nhanh chóng diệt Tây Chu, rồi Đông Chu, chính thức trở thành Thiên tử thay thế cho nhà Chu. Để rồi đời sau, Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, thống nhất thiên hạ, xưng Đế, xóa bỏ chế độ thế tập phân phong của nhà Chu, lập nên chế độ trung ương tập quyền, quản lý theo quan chế quận huyện.Xã hội Trung Hoa vào thời Tần đã tiến thêm một bước, từ chế độ phong kiến phân quyền 1 nhà 100 nước, trở thành một nước thống nhất từ trên xuống dưới.
Mặt trống đồng với vòng chữ Đại triện và hình ảnh đạo quân Tần hùng mạnh
Sách sử Trung Quốc ngày nay một mặt thì chê bai nước Tần hung bạo, hoang dại, man di, mặt khác lại đề cao công nghiệp thống nhất của Tần Thủy Hoàng. Ngay cái tên China ngày nay cũng là từ tên gọi nước Tần mà ra.Còn người Việt, một mặt không thể bác bỏ những chứng cứ hiển nhiên trên các hiện vật khảo cổ về sự có mặt của nhà Tần tại Bắc Việt, cũng như những ghi chép lịch sử về sự chiếm đóng, lập quận huyện của Tần tại Lĩnh Nam, nhưng mặt khác lại luôn khăng khăng là Thục An Dương Vương đã đánh bại 50 vạn quân Tần của Đồ Thư. Đúng là một sự gán ghép vô căn cứ về mọi mặt, hiện vật khảo cổ cũng như sử sách.
Sự có mặt của Tần Thủy Hoàng trên đất Việt ít nhất được biết đến trong 3 di sản còn lại đến ngày nay:
1. Lý Thân, là Tư lệ hiệu úy của nhà Tần, được Tần Thủy Hoàng gả con gái là Bạch Tĩnh công chúa, rồi sai làm đại tướng trấn thủ người Hồ ở Lâm Thao.
2. Ngự sử đại phu của Tần là Thôi Lượng, người đã cho sửa sang miếu thờ Ân Vương trên núi Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh) trong Truyện Giếng Việt.
3. Đạo sĩ Yên Kỳ Sinh, người đã gặp Tần Thủy Hoàng trong các cuộc Đông du ven bờ biển Nam Hải, dưới chân ngọn núi Yên Tử ở Quảng Ninh ngày nay.
Tượng Lý Ông Trọng và Bạch Tĩnh Công chúa ở đình Chèm
Còn có nhiều tướng lĩnh thời Tần, hay chống Tần khác được thờ phụng trên đất Việt, trong các di tích đền miếu trải khắp ở Bắc Bộ. Chưa kể đến khả năng vị Nam Hải Đại vương được thờ ven biển Thái Bình, Nam Định chính là Tần An Dương Vương trong các cuộc Đông du Nam Hải vậy.
Chế độ Tông pháp có thể là chiếc “móng rùa” mà thần Cao Lỗ (Chu Công) đã dùng để chế ra chiếc nỏ thần của Thục Vương. Triệu Trọng Thủy là tôn thất nước Tần, đã phá bỏ chế độ Tông pháp, xác lập một “nỏ thần” khác là chế độ Pháp trị. Chính vì thế mà Thục Vương mất nước, nhà Tần lên làm thiên tử, lấy đất hai nhà Chu chia thành các quận Tượng, Tam Xuyên, Quế Lâm.
Tiếp theo thời Tần, thiên hạ Trung Hoa được thống nhất bởi một “đình trưởng” vô danh tiểu tốt là Lưu Bang, chứ không phải bởi một đại tướng quân dòng dõi nước Sở như Hạng Vũ. Thời thế đã rất rõ. Chế độ thế tập đã cáo chung. Nhường chỗ cho sự công bình giữa người với người. Tiêu chuẩn của xã hội lúc này là Pháp luật, chứ không phải là Thân tộc. Chính nhờ đó mà Trung Hoa mới trở nên thống nhất và mạnh mẽ dưới thời Triệu Vũ Đế Lưu Bang.
Sử Việt kể Thục An Dương vương đến từ Ba Thục chiếm nước của Hùng Vương lập nên nhà nước Âu Lạc thống nhất vào năm 257 TCN. Về khảo cổ, đã có những so sánh cho thấy vào quãng thế kỷ 3-4 TCN văn hóa trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam có nhiều hiện vật và họa tiết biểu tượng tương đồng với các hiện vật cùng thời ở vùng đất Quý Châu Ba Thục. Điều này đưa đến suy nghĩ của một số nhà nghiên cứu cho rằng Thục Phán đúng là đến từ nước Thục, đã thay thế Hùng Vương trong cuộc chiến chống lại quân Tần.
Tác giả Tạ Đức trong cuốn Nguồn gốc và sự phát triển của trống đồng Đông Sơn cho rằng An Dương Vương là dòng dõi vua Khai Minh của nước Thục, sau khi bị Tần diệt quốc đã chạy sang nước Dạ Lang (Quý Châu), rồi nước Điền (Vân Nam) liên tục chống lại Tần. Cuối cùng thì An Dương Vương chạy đến đất Âu Lạc, được người Việt tôn lên làm thủ lĩnh, chỉ huy cuộc kháng chiến chống lại Đồ Thư và giành thắng lợi…
Cách lý giải về An Dương Vương như trên tuy có vẻ hợp lý đối với các hiện vật khảo cổ ở các vùng đất này, nhưng nó lại quá vô lý về mặt thực tế, cũng như không có truyền thuyết hay ghi chép lịch sử nào kể việc Thục An Dương Vương vừa chạy, vừa giành nước của người khác, vừa chống Tần kỳ khôi như vậy. Vị Thục Vương này liệu thọ bao nhiêu tuổi mà sống từ lúc Tần đánh Ba Thục (năm 316 TCN) tới khi Tần Thủy Hoàng mất (năm 210 TCN)? Sự thực chắn chắn đã khác.
Sự thật rõ ràng hơn là nước Tần tới Huệ Văn Vương đã chính thức xưng Vương và bắt đầu cuộc chinh phạt khắp nơi trong thiên hạ. Tần tướng Trương Nghi cho quân đánh chiếm Ba Thục. Năm 316 TCN nước Thục của vua Khai Minh diệt vong. Tại nước Thục, Trương Nghi cho xây Thành Đô, với truyền thuyết gọi là thành Rùa do khi xây thành có Rùa thần giúp đỡ. Như vậy người xây thành ở đất Thục là Tần, chứ không phải vua Thục họ Khai Minh.
Tiếp sau đó việc Tần tấn công các vùng Quý Châu (Dạ Lang), Vân Nam (Điền) rồi dẫn hàng vạn quân đánh chiếm Lĩnh Nam ở Quảng Tây và Bắc Việt của nước Âu Lạc thì đã được sử sách ghi chép khá rõ ràng.
Như vậy, sự tương đồng giữa 2 nền văn hóa khảo cổ Đông Sơn với Ba Thục lúc này rõ ràng nhất chính là ảnh hưởng của cuộc “Nam tiến” của nước Tần. Từ đó cho thấy, người đến từ đất Thục, đã thay thế “Hùng Vương” lập ra nước Âu Lạc thống nhất phải là Tần Vương. Hay nói cách khác Tần Vương chính là Thục An Dương Vương được kể đến trong các truyền thuyết Việt.
Mối quan hệ giữa nước Tần – Thục An Dương Vương và trống đồng được thấy trong một số tư liệu cổ. Trúc thư kỷ niên cho biết, Chu Tương Vương đã ban cho Tần Mục Công những chiếc trống đồng khi Tần đánh bại và thu phục được các tiểu quốc Tây Nhung. Đây là tư liệu sớm nhất nhắc đến trống đồng trong lịch sử.
Trong truyền thuyết Chín chúa tranh vua của người Tày ở Cao Bằng kể, trong cuộc so tài với các chúa mường khác, chúa mường Nam Cương là Thục Phán đi lấy trống đồng về đến gò Đống Lân, mệt ngủ say, chuột cắn dây trống, trống lăn xuống đồi kêu vang cả một vùng. Các chúa khác tưởng chúa đi lấy trống đã thắng nên bỏ dở cuộc thi. Tổng Lằn là trống lăn, gọi chệch là Đống Lân. Thục Phán là chúa mường thứ 9, đã giành thắng lợi trước các chúa mường khác và lên làm vua.
Truyền thuyết này cho thấy rõ ý nghĩa của trống đồng trong việc hiệu lệnh chư hầu trước các nước lân bang. Chỉ một tiếng trống vang lên cũng đã làm các chúa mường phải thuần phục. Thục An Dương Vương trong chuyện Chín chúa tranh vua, đã làm chủ 9 tộc người (3 Nùng chủ, 2 Dao chủ, 1 Mán chủ, 1 Sán chủ, 1 Tày chủ, 1 Miêu Chủ), rất giống việc Tần Vương đã đánh bại Lục quốc và thống nhất Trung Hoa.
Trống đồng, hiện vật đặc trưng của văn hóa Đông Sơn được biết gặp nhiều nhất tại Bắc Việt, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu. Đây cũng đúng là phân bố của dòng Thục ở phía Tây Trung Hoa và trùng với con đường mà Tần quốc đã đánh chiếm phương Nam.
Một chiếc trống đồng đặc biệt, có thể có nguồn gốc từ đất Tứ Xuyên hoặc Quý Châu, thể hiện rất rõ ý nghĩa Tần Vương thống nhất thiên hạ Bách Việt họ Hùng. Bài viết đặt tên cho chiếc trống này là trống Thục và xem xét nó ở từng chi tiết dưới đây.
Trống đồng Thục
Trống đồng – chữ Đại triện
Chiếc trống đồng Thục có dạng Heger II, dạng đặc trưng của văn hóa trống đồng. Trống cao 24cm, đường kính mặt trống 35 cm, đường kính đáy 29 cm. Ở vành ngoài trên mặt trống có 57 ký tự ở dạng Đại triện. Loại chữ Đại triện này rất lạ, về kết cấu thì nhiều chữ giống như Kim văn, nhưng hình thể theo kiểu tiểu triện, với nét chữ tròn, kéo dài theo chiều dọc. Phần lớn đều là chữ đơn thể, không phải chữ ghép bộ. Nhiều chữ không tra thấy trong các từ điển chữ Kim văn hiện nay.
Nhận định về loại chữ trên trống đồng này thì đây là loại chữ có niên gian giữa thời kỳ Kim văn thuộc Tây Chu với chữ Tiểu triện sau này. Đây không phải lối chữ Kim văn của Lục quốc được gặp trên các tiền đồng cổ vì nét tròn, Triện hóa rất rõ. Có thể gọi là lối chữ Đại triện của nước Tần, nước mà sau này hình thành ra chữ Tiểu triện. Niên đại của lối chữ này ước đoán vào khoảng thời Chiến Quốc, trước khi Tần thống nhất chữ viết toàn Trung Hoa thành chữ Tiểu triện.
Sự kết hợp giữa trống đồng và chữ Triện là minh chứng đầu tiên và rõ ràng nhất rằng văn hóa trống đồng thuộc chung nền văn hóa chữ tượng hình phương Đông, tức là nằm trong cùng một thiên hạ Trung Hoa thời nhà Chu.
Mặt trời – Ngũ hành
Ở giữa chiếc trống đồng là hình mặt trời có 16 tia, nhưng hết sức độc đáo là bên trong mặt trời lại có hình tròn với 5 vòng xoắn. Dạng hình tròn này gặp khá nhiều trên các hiện vật đồ đồng thuộc dòng đồ Thương Chu, mà một ví dụ là chiếc Lôi cùng thời được thấy ở Việt Nam, mang những hình vòng tròn 5 xoáy này với hình đôi quỳ long chầu 2 bên.
Hình tròn 5 xoáy vừa là biểu tượng cho mặt trời, cũng là biểu tượng của Ngũ hành, xưa có tên là Nhật nguyệt tinh thần, gồm 4 tượng của các vì tinh tú và 1 hình tròn ở trung tâm. Đây là biểu tượng của nguyên thần, của những gì căn cơ nhất trong trời đất, tương tự như khái niệm Thái cực đồ âm dương sau này. Biểu tượng lưỡng long chầu mặt nguyệt như vậy đã có từ thời Chiến Quốc trên các đồ đồng Thương Chu, tồn tại mãi cho tới nay như biểu tượng của tín ngưỡng.
Lôi đồng có hình Lưỡng long chầu Nhật và chữ Đại triện
Năm 2013 ở Bắc Cường, Lào Cai đã phát hiện ra một “kho đồng” gồm một chiếc Lôi và 4 chiếc trống đồng. Đây cũng là dẫn chứng cho thấy sự hòa trộn 2 nên văn hóa đồ đồng đỉnh vạc (lôi) với đồ đồng Đông Sơn (trống đồng) ngay tại đất Việt.
Chim – Rắn
Ở vòng tròn bên trong gần mặt trời là hình 16 con chim cổ dài như cổ cò, đứng thành từng 8 cặp quay vào nhau. Mỗi con chim đứng trên một con rắn dài nhỏ. Hình Chim – Rắn này khá giống cảnh đôi Hạc đứng trên lưng Rùa để chầu. Chim – Rắn cũng như Hạc – Rùa là thể hiện không gian, trên trời có chim, dưới đất có rắn rùa. Tương tự trên trống đồng Ngọc Lũ là chim bay trên trời, hươu chạy dưới đất.
Rắn cũng có thể coi là tượng hình của Rồng, nên biểu tượng Chim-Rắn là dẫn chứng nữa về sự hòa hợp biểu tượng của 2 dòng Tiên – Rồng trên mặt trống đồng.
Mặt trời và Chim – Rắn trên trống đồng Thục
Người chim và người đi săn
Vòng ngoài trên mặt trống gồm 4 đoạn giống nhau, phân tách bởi 4 tượng cóc. Mỗi đoạn gồm 3 cụm hoạt cảnh. Mỗi hoạt cảnh thể hiện hình một người có tóc búi đuôi sam dài, đang dương cung bắn vào một con thú, hình như con cáo. Đối diện là một hình người chim, có phần đầu như đầu chim, mỏ lớn, có 2 cánh. Tổng cộng có 12 hoạt cảnh giống nhau lặp lại ở vòng ngoài của mặt trống.
Tóc đuôi sam, hình người chim đều là những biểu tượng đặc trưng có trong văn hóa Thục. Người chim được thể hiện trên cây vũ trụ tìm thấy ở Tam Tinh Đôi trên đất Thục cổ. Sử dụng nỏ thành thạo là sự liên hệ đến câu chuyện nỏ thần của An Dương Vương trong truyền thuyết Việt.
Cảnh người chim – người đi săn và đoạn chữ Vương tứ Bá
Cóc sinh sôi
Trên mặt trống có 4 tượng cóc mẹ cõng cóc con. Khác với hình cóc thường gặp trên trống đồng Đông Sơn, mỗi tượng cóc ở đây được thể hiện thành khối dày chắc chắn, ngẩng đầu, có các xoáy âm dương ở hai bên thân.
4 tượng cóc nằm ở 4 góc, thể hiện tính vuông của Đất. Trong khi mặt trống hình Tròn, chỉ tính chất của Trời. 4 góc là nơi Trời tròn – Đất vuông giao hòa mà sinh ra vạn vật. Cho nên mới có cóc mẹ cõng cóc con, sinh sôi nảy nở không ngừng.
Tượng cóc mẹ cõng cóc con
Minh văn
Dòng chữ ngoài cùng được đúc sâu, khá rõ nét. Tuy nhiên do lối viết Đại triện đặc biệt như đã nói, hiện không thể đọc hết được số chữ này. Những gì đọc được như sau. Có 56 chữ và 1 hình đánh dấu như hình chữ Ngũ.
Ngũ tự phương cửu quyết vong Phụ tử ? tứ ? tạp nội sơn tác Sư nguyệt phânbát xuyên trùng tác tứ Sư vong ? hợp công nãi tạp chi duy nguyệt trường duy chu khảo tác phụ cú phương Vương tứ Bá cổ kinh trùng dụng mộc chỉ tử tử túc tác Công tề ? khảo
(Những chữ in nghiêng là những chữ đọc được chắc chắn)
Để hiểu ý nghĩa công dụng của trống đồng cần xem Quẻ Dự trong Kinh Dịch. Lời tượng của Quẻ Dự nói: Lôi địa Dự: Lợi kiến hầu, hành sư.
Lôi Địa là tượng của quẻ Dự, là sấm nổ trên mặt đất, tức là cảnh đánh trống đồng bằng cách úp trống xuống mặt đất mà đánh. Quẻ Dự như vậy có hình tượng là trống đồng. Theo lời tượng, trống đồng được sử dụng để “kiến hầu”, tức là dùng để phong tước phong hầu, và “hành sư”, nghĩa là dùng để điều khiển quân đội.
Trong bài minh văn của chiếc trống Thục trên có cả việc phong tước và hành sư. Đó là đoạn “Vương tứ bá” – Vua ban thưởng cho Bá. Và đoạn “nội sơn tác sư” – trong núi tạo ra quân đội. Đây là một chiếc trống được ban cho một vị (Công) tướng tước Bá để dùng làm hiệu lệnh, xây dựng quân đội (tác sư).
Đoạn chữ Nội sơn tác sư
Người cầm đầu quân đội nhà Tần ở đất Thục lúc đó là tướng Tư Mã Thác. Rất có thể đây là chiếc trống đồng được Tần Vương ban cho Tư Mã Thác dùng để thống lĩnh quân đội nhà Tần trên đất Thục.
Đội quân hùng mạnh
Công dụng về việc hiệu lệnh quân đội còn thể hiện ở phần thân trống. Thân trống chia làm 3 phần. Phần tang trống có 16 hoạt cảnh người đi săn – người chim như trên mặt trống. Còn 2 phần lưng và chân trống là vòng tròn các chiến binh, gồm cụm 3 người một. Một người chống tay cầm kiếm, một người đang dương cung và một ngươi vung 2 tay như đang dùng dùi đục. Mỗi vòng có 36 chiến binh. Thân trống như thế là 2 đội quân binh 72 chiến binh được trang bị vũ khí đầy đủ.
Tổng cộng cả phần mặt trống và thân trống có tất cả 156 hình người. Đội quân hùng mạnh này nhắc nhớ tới đội quân đất nung trong lăng mộ của Tần Thủy Hoàng. Sức mạnh của quân đội Tần thể hiện ngay trên chiếc trống đồng. Đây là trống quân dùng trong quân ngũ, chứ không phải trống dùng trong tế lễ như các trống Đông Sơn (có các hoạt cảnh nghi thức tế lễ).
Hoa văn trên thân trống dạng hoa thị, chấm tròn và vạch lớn, chạy xung quanh thân dưới các hàng chiến binh. Ý nghĩa có thể là thể hiện tiền tài, vật lực dồi dào cho đội quân Tần ở trên.
Thân trống Thục
Quai rồng
Trống Thục có 4 chiếc quai, khá đặc biệt. Không giống kiểu quang hình văn thừng như các trống đồng Đông Sơn, quai trống Thục có hình đầu rồng có tai lớn, ngậm quai. Hình này có thể gọi là hình Tiêu đồ, đặc trưng của các đồ đồng dòng đỉnh vạc thời Thương Chu. Sự kết hợp các chi tiết biểu tượng của 2 dòng đồ đồng Trung Hoa trên cùng một hiện vật, đánh dấu sự thống nhất 2 dòng văn hóa của thiên hạ. Dòng đồ đồng mang biểu tượng Rồng là dòng theo cha Lạc Long Quân, thể hiện trên các đồ vật có chân như đỉnh, vạc Thương Chu. Dòng đồ đồng mang biểu tượng Chim là dòng theo mẹ Âu Cơ, thể hiện trên các trống đồng, thạp đồng Đông Sơn.
Quai trống hình Tiêu đồ
Chiếc trống đồng có chữ Đại triện là minh chứng cho mối liên hệ trực tiếp giữa vùng Bắc Việt và đất Thục ở Tứ Xuyên, Quý Châu thời kỳ nhà Tần. Những cặp đôi: Mặt trời – Ngũ hành, Chim – Rắn/Rồng, Trống đồng – Chữ đại triện cho thấy thực chất cả 2 dòng Tiên – Rồng, Âu – Lạc của truyền thuyết Việt đều thuộc văn minh Trung Hoa dưới thời Xuân Thu, Chiến Quốc và sau đó thiên hạ đã hợp nhất vào thời Tần.
Lịch sử thời Tần An Dương Vương có thể tóm tắt như sau:
Tần Mục Công, một trong Xuân Thu ngũ bá là người đã thu phục Tây Nhung, được Chu Tương Vương ban cho trống đồng làm hiệu lệnh.
Tần Hiếu Công áp dụng biến pháp của Thương Ưởng, trung hưng nước Tần.
Tần Huệ Văn Vương năm Giáp Ngọ (325 TCN) xưng Vương. Tướng Tần Tư Mã Thác chiếm vùng đất Ba (Quý Châu), Trương Nghi xây Thành Đô (Thành Rùa) ở đất Thục. Từ lúc này quân Tần còn được gọi là Thục.
Tần Chiêu Tương Vương năm 256 TCN diệt Chu Noãn Vương, chiếm đất Tây Chu, tức là đất Tây Âu ở Vân Nam, chấm dứt sự tồn tại gần 800 năm của triều đại nhà Chu. Tần Vương trở thành thiên tử của thiên hạ Trung Hoa. Sử Việt chép là năm 257 TCN Thục An Dương Vương kế nối Hùng Vương.
Năm 255 TCN Tần Chiêu Tương Vương chiếm nốt đất Đông Chu, tức là đất Lạc ở Bắc Việt – Quảng Tây. Tần xuất phát từ vùng phía Tây (Thục) diệt Đông Chu ở phía Đông mà có được thiên hạ. Do đó Tần có tên gọi là An Dương Vương, trong đó Dương là hướng mặt trời lên, tức là hướng Đông. An Dương Vương là là vị Vương đã bình định phương Đông.
Năm 221 TCN Tần Thủy Hoàng xưng Đế, thống nhất thiên hạ Trung Hoa, cho dời kinh đô về vùng đất giữa 2 nhà Chu (ở Quý Châu?). Cổ Loa vốn là thành Lạc Dương thời Đông Chu, có thể đã được xây dựng thêm dưới thời Tần Thủy Hoàng.
Thời đại Hùng Vương trên mảnh đất Việt ngày nay kéo dài khoảng 3.000 năm trải qua 18 triều đại vua Hùng với cácnấc thang phát triển chế độ xã hội ngày càng tiến bộ từ thấp lên cao. Không phải triều đại Hùng Vương nào cũng bắt đầu bởi chiến tranh giành giật quyền thống lĩnh thiên hạ họ Hùng, nhưng phần lớn những bước tiến trên nấc thang lịch sử Việt thời dựng nước đều là kết quả của những cuộc chiến “cách cổ đỉnh tân”, phá bỏ đi triều đại cũ để xây nên nền móng cho một triều đại mới.
1. Cuộc chiến mở nước giữa Hoàng Đế và Xi Vưu (5000 năm trước)
Lịch sử Việt được bắt đầu bằng Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông, đi tuần ở phương Nam, lấy bà Vụ Tiên… Hoa sử ghi là cuộc chiến giữa Hoàng Đế Hữu Hùng Hiên Viên đánh thắng Xi Vưu của bộ tộc Cửu Lê nhờ sự giúp đỡ của Cửu Thiên Huyền Nữ. Sau chiến thắng này Hoàng Đế lên nắm quyền thống trị vạn bang gồm tộc người thuộc các dòng phương Nam xưa (của bà Vụ Tiên), phương Bắc xưa (của Viêm Đế), phương Tây (của Xi Vưu). Hiên Viên trở thành Minh chủ của thiên hạ muôn nước, sử Việt chép là Đế Minh.
Cuộc chiến lập nước Họ Hùng đầu tiên này được lưu truyền trong sự tích của Tây Thiên Quốc Mẫu ở vùng núi Tam Đảo. Quốc Mẫu Tây Thiên là bà Vụ Tiên hay Cửu Thiên Huyền Nữ là họp quân ở Đại Đình dưới chân núi Tây Thiên, tiến về Phong Châu giúp vua Hùng Đột Ngột Cao Sơn chống giặc. Thắng trận, Tây Thiên trở thành Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu, vị Mẫu Thượng Thiên của người Việt trong tín ngưỡng Tứ phủ, và trong tục thờ Cha Trời, Mẹ Đất, công Cha như núi Thái Sơn – Nghĩa Lĩnh, nghĩa Mẹ như suối nguồn từ đỉnh Phù Nghi (Nghĩa) chảy không ngừng.
Đền Hạ Tây Thiên, một trong những nơi tụ quân của Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu
2. Cuộc chiến mở đầu chế độ thị tộc phụ đạo giữa Lạc Long Quân và Đế Lai (4000 năm trước)
Thời kỳ mở đầu của họ Hùng cho tới khi Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình ở phía Đông đã hòa hợp các tộc người ở 4 phương Đông Tây Nam Bắc. Con trai của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân với sự hỗ trợ của dòng bên mẹ ở Động Đình phía Đông đã tiến hành cuộc chiến tranh đoạt lấy ngôi thủ lĩnh (biểu hiện trong hình tượng Âu Cơ) với chính dòng phương Bắc là Đế Lai. Truyện Họ Hồng Bàng mô tả:
Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc.
Cuộc chiến khởi đầu thời kỳ lịch sử cha truyền con nối của Lạc Long Quân với dòng Đế Lai còn lưu dấu rất đậm nét trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lạc Long Quân là Vua cha của Thoải phủ trong Tứ phủ, tập hợp những người anh em trong cùng bọc trứng đánh lại quân “Thục”. Những người anh em này được tôn thờ là Ngũ vị Tôn quan, lập thành ban Công đồng của điện thờ Tứ phủ.
Trong Truyện Hồ Tây thì Long Quân đã sai “lục bộ thủy phủ” dâng nước tiêu diệt con Cửu vĩ Hồ ở Thủy quốc Động Đình (tức Hồ Tây). Cửu vĩ Hồ nghĩa là tộc người Hồ ở hướng Tây vì số 9 (cửu) là con số chỉ phương Tây. Dòng Đế Lai bị Lạc Long Quân đánh đuổi phải chạy về hướng Tây, nên từ đó còn được gọi là dòng Thục.
Hoa sử chép chuyện này là nhà Hạ Hậu (Hạ Khải) đã bỏ chức Tắc từ Hậu Tắc, làm cho con của Hậu Tắc là Bất Truất phải chạy vào vùng Nhung Địch. Hậu Tắc như vậy chính là Đế Lai trong truyền thuyết Việt. Ông cũng là tổ của nhà Chu sau này.
Chồng kiệu Uy Linh Lang và Lục bộ thủy phủ trong ngày hội đình Nhật Tân
3. Cuộc chiến về lại đất Lạc của dòng Âu (trên 3000 năm trước)
Dòng Đế Lai – Hậu Tắc chạy về phía Tây, tới thời Hùng Duệ Vương thì trở thành “Bộ chủ Ai Lao”, tức là thủ lĩnh vùng đất Âu ở Vân Nam, Quý Châu (Ba Thục) ngày nay. Thục Vương phát động một cuộc đại chiến mà truyền thuyết Việt ghi lại với số quân lên tới hàng chục vạn, tấn công đất nước của Hùng Vương (Lạc Vương). Đối đầu với Thục Vương lúc này là Tam vị Sơn Thánh gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Cuộc chiến Hùng – Thục (Lạc – Âu) lần này diễn ra ác liệt, qua nhiều trận đánh. Cuối cùng, Thục Vương giành thắng lợi, Sơn Thánh buộc phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Vương.
Thục Vương về đất Phong Châu (Phú Thọ), lập kinh đô Văn Lang, dựng lại đền miếu của Hoàng Đế, tức Đế Minh, trên núi Nghĩa Lĩnh để tôn thờ. Thục Vương trở thành Âu Cơ, vị quốc tổ của người Việt.
Cuộc chiến này là căn cứ lịch sử cho việc thờ các vị Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Duệ Vương chống Thục, được lập miếu đền trải khắp cả vùng đồng bằng sông Hồng cũng như vùng trung du Bắc Bộ ngày nay. Cao Sơn, Quý Minh là dòng dõi của Lạc Long Quân, theo cha xuống biển, nên ở nhiều di tích 2 vị này, nhất là Quý Minh, được thờ dưới dạng các thủy thần xuất thế.
Hoa sử chép đây là chuyện Tây Bá Hầu Cơ Xương đánh chiếm nước Sùng của Sùng Hầu Hổ nhà Ân Thương, rồi dời về lập Phong kinh. Hiền Vương Cơ Xương mất, con trai là Cơ Phát truy tôn cha là Chu Văn Vương. Do đó, đất nước lúc này có tên là Thục (Chu) Văn Lang (Văn Vương).
Ban thờ Âu Cơ ở Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ)
4. Cuộc chiến khởi lập chế độ phong tước kiến địa của Âu Lạc (khoảng 3000 năm trước)
Truyền thuyết Việt kể Hùng Vương thứ Sáu đã hiệu triệu các chư hầu, tìm người tài giỏi, thì được thiên thần giáng thế là Phù Đổng Thiên Vương giúp đỡ, tiên phong dẫn quân chống lại giặc Ân. Cầm đầu quân đội nhà Ân lúc này là 28 tướng “nữ nhung” với tên Thạch Linh Thần tướng hay Ma Cô Tiên (Ma Lôi). Ân Hậu bị Thánh Dóng đánh bại, chết dưới chân núi Vũ Ninh tại Châu Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh ngày nay). Ân Vương (Hùng Duệ Vương) chết hóa thành Vua của Địa phủ. Thắng giặc, Thánh Dóng trở về núi Vệ Linh (Sóc Sơn) lập đàn tế cáo trời đất, ghi bảng phong thần cho các tướng sĩ tử trận của cả 2 bên để ngàn đời hương hỏa.
Thục Vương lúc này còn được gọi là Lang Liêu, tức thủ lĩnh của người Liêu – Lao (Ai Lao Di). Lang Liêu lên nối mệnh trời, lập cột đá thề trung thành với họ Hùng của Hoàng Đế Hiên Viên, chia cho 22 người anh em ở các nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, cùng nhau giữ đất nước.
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể là Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ lên ngôi, chia nước làm 15 bộ, phân phong cho trăm anh em Bách Việt làm các phiên thần, thổ tù, quan lang, phụ đạo, đời đời cha truyền con nối đất đai và chức vị. Hùng Quốc Vương bắt đầu thời kỳ phong kiến phân quyền hay thời Trị bình kiến phu (trị quốc bình thiên hạ kiến lập chư hầu).
Hoa sử kể đây là cuộc chiến của Ninh Vương Cơ Phát nhà Chu, với Khương Thái Công Lã Vọng là Thừa tướng đã diệt Trụ Vương, lên ngôi Thiên tử của Thiên hạ, phân phong các chư hầu, đặt ra lễ chế, tín ngưỡng, hình thành Thiên hạ Trung Hoa của nhà Chu kéo dài hơn 800 năm.
Tượng thờ Ma Bà trên núi Châu Sơn
5. Cuộc chiến thống nhất thiên hạ của Trọng Thủy (năm 257 TCN)
Cuối thời nhà Thục của An Dương Vương, nước Triệu nhăm nhe thôn tính nước Âu Lạc. Trọng Thủy được cử sang kết giao làm con tin (con rể) tại Loa Thành Đông Ngàn của Vua. Rồi cuộc chiến giữa Triệu và Thục nổ ra. Thục An Dương Vương thất thế, phải cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển. Chấm dứt thời đại nước Văn Lang – Âu Lạc. Cũng là bắt đầu một thời kỳ toàn trị thống nhất của nhà Triệu.
Hoa sử chép đây là sự kiện Tần Chiêu Tương Vương cử cháu là Tử Sở làm con tin ở nước Triệu (Châu), rồi đánh bại Chu Noãn Vương, khởi đầu Vương triều Tần hùng mạnh. Tới Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu mà xưng Đế, lập quốc gia thống nhất, quản lý bằng chế độ quận huyện. Nhà Tần mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ đánh xe cho Chu Mục Vương được phong ở Triệu thành. Vì thế, sử Việt kể thành Triệu Đà diệt nước của An Dương Vương mà lập quốc.
Bộ Tần giản bằng đá ngọc phát hiện trên đất Việt
6. Khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Đà (năm 206 TCN)
Đế quốc Tần tồn tại không được lâu. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, các chư hầu đều nổi lên, như muốn quay lại thời kỳ phân phong xưa. Một đình trưởng đất Bái là Lưu Bang nhờ gặp được thời thế, dẫn quân chiếm được Quan Trung của nhà Tần, rồi phân tranh thiên hạ với quân Sở của Hạng Vũ. Kết quả cuối cùng của cuộc phân tranh này là Hán Vương chiến thắng, thống nhất thiên hạ, khởi đầu nhà Hiếu.
Lịch sử Việt gọi Lưu Bang là Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) đã khởi nghĩa kháng Tần từ vùng đất Long Xuyên, chiếm 3 quận ở Lĩnh Nam, lập quốc Nam Việt mà xưng Đế.
Lưu Bang mất, Lữ Hậu tiếm quyền. Sau khi Lữ Hậu mất, thiên hạ Trung Hoa chia thành 2 nước. Nhà Hiếu (Tây Hán) ở phương Bắc. Nhà Triệu ở Nam Việt với thừa tướng là họ Lữ. Cuộc đối kháng Bắc – Nam tiếp tục diễn ra.
Long Hưng điện, nơi Triệu Vũ Đế thấy rồng bay trên sông Nhị
7. Khởi nghĩa Trưng nữ Vương dòng Lạc Hùng chính thống (sau năm 110 TCN)
Thần tích Việt cho biết, khởi nghĩa của Trưng Vương nổ ra ngay sau khi nhà Triệu nước Nam Việt ở Phiên Ngung thất thủ và Trưng Vương là dòng dõi “Lạc Hùng chính thống”. Trưng Vương khi khởi nghĩa đã lập đàn tế Tản Viên Sơn Thánh ở Hát Môn, nhưng vị thần hiện lên phù trợ lại là Lạc Long Quân. Trong các di tích thờ các tướng lĩnh của Trưng Vương cũng thường rất hay gặp những vị thần hiển linh phù giúp là Lạc Long Quân, Cao Sơn Quý Minh, Ma Cô Tiên… Tức là các vị thuộc dòng Lạc từ thời phân chia Âu – Lạc xưa.
Bản thân ông Thi Sách được gọi là Lạc tướng Chu Diên hay Quốc vương Thiên tử Đông Hán đại vương, đều chỉ dòng Lạc ở phía Đông. Mối liên quan giữa Trưng Vương và dòng Lạc Long rất rõ. Và như thế đã ám chỉ, nhà Hiếu (Tây Hán) đối nghịch thuộc về dòng Âu xưa.
Đền Hai Bà Trưng và Đàn Thần Hiện ở Nỗ Châu (nay là Phương Châu, Việt Trì)
Tóm lại, khởi đầu từ 1 nguồn gốc Hữu Hùng Đế Minh, người Việt đã phân tách thành 2 dòng. Một dòng Lạc Long theo cha xuống biển phát triển về phía Đông. Một dòng Âu Thục theo mẹ lên núi phát triển về phía Tây. Những cuộc đụng độ giữa 2 dòng Rồng – Tiên, Hùng – Thục, Âu – Lạc này là đã đánh dấu mốc phát triển của xã hội Việt từ thấp đến cao, từ chế độ công xã lên thị tộc, rồi phong kiến phân quyền sang phong kiến tập quyền trung ương. 2 dòng tộc như 2 mặt Âm Dương, vừa hòa hợp, vừa đối nghịch, xoay vần mà tạo nên sự phát triển của xã hội Hoa Việt thời kỳ đầu dựng nước.
Truyện Bánh chưng kể, Lang Liêu nằmmơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được.Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”.
Vị thần nhân đã giúp Lang Liêu dùng gạo làm lễ vật là Hậu Tắc, người được Đế Nghiêu gọi là Nông sư. Hậu Tắc là tổ của nhà Chu, được Đế Thuấn đặt tên và ban họ Cơ. Tắc nghĩa là lúa tẻ, tức là lúa nước, chứ không phải lúa nếp (thử) trồng trên nương. Cũng như sự tích Đế Thuấn đi cày ở Lịch Sơn, chuyện Hậu Tắc trồng lúa nước cho thấy đây chắc chắn là một nhân vật lịch sử thời kỳ Hùng Vương Thánh tổ dựng “xã tắc” họ Hùng ở khu vực đất tổ Phong Châu.
Mẹ của Hậu Tắc là bà Khương Nguyên, vào rừng thấy vết chân người khổng lồ bèn dẫm vào rồi mang thai. Cho rằng đó là điềm không lành, khi sinh nở, Khương Nguyên bỏ đứa trẻ ra ngõ hẹp. Nhưng trâu ngựa đi qua đều tránh không dẫm vào đứa trẻ. Khương Nguyên bèn mang bỏ vào rừng, nhưng đúng lúc rừng lại đông người, nên bỏ vào lạch. Đứa trẻ được loài chim lấy cánh ủ cho. Khương Nguyên thấy lạ bèn mang con về nuôi và đặt tên là Khí (弃; nghĩa là bỏ).
Sự tích của ông Hậu Tắc giống một trong những truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Mẹ Tản Viên là bà Đinh Thị Nguộc, người rất xấu, không ai lấy. Một hôm, bà vào rừng kiếm củi, giẫm phải một vết chân lạ, trở về nhà thụ thai. Vì hoang thai nên khi sắp sinh nở bà bị người làng ghét bỏ, đuổi ra khỏi làng. Bà phải vào rừng để ở và sinh ra Nguyễn Tuấn. Người làng bèn kéo nhau lên rừng bắt vạ. Hùm beo ra đuổi những người bắt vạ và hàng ngày mang thịt hươu nai về nuôi mẹ con Nguyễn Tuấn.
Lại có truyền thuyết khác kể rằng thần núi Tản Viên thuở lọt lòng bị bỏ rơi trong rừng, được một người tiều phu gặp đem về nuôi, đặt tên là Kỳ Mạng. Sở dĩ thần có tên nầy là vì trước khi gặp cha nuôi, đứa bé mới lọt lòng đã được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ cho khỏi chết.
Chữ Kỳ với Khí cùng một âm. Truyền thuyết này cho thấy ông Hậu Tắc, tổ của nhà Chu, được truyền thuyết Việt ghi vào dòng Tản Viên Sơn Thánh, tức là dòng lên núi theo mẹ về phía Tây.
Chu bản kỷ trong Sử ký Tư Mã Thiên cho biết: Hậu Tắc mất, con là Bất Truất nối dõi. Cuối đời Bất Truất, chính sự nhà Hạ Hậu suy, bỏ dùng chức Tắc. Bất Truất vì vậy mất chức quan, chạy vào vùng Nhung địch.
“Hạ Hậu” ở đây là chỉ Hạ Khải, người nối tiếp Hạ Vũ, vì ông Hậu Tắc là người cùng thời với Hạ Vũ từ đời Nghiêu Thuấn. Hạ Khải trong truyền thuyết Việt là Lạc Long Quân. Hạ Khải “bỏ chức Tắc” tức là phế đi quyền nối dõi của con ông Hậu Tắc và đánh đuổi Bất Truất chạy vào vùng Nhung địch. Chính sự kiện này khởi đầu cho sự chia tay 2 dòng lên núi và xuống biển mà dòng ông Hậu Tắc là đại diện của Sơn Tinh, còn dòng Hạ Hậu là đại diện của Thủy Tinh. Dòng họ Cơ của Hậu Tắc bị dòng phía Đông tranh giành quyền lực, phải bỏ đất gốc mà chạy về phía Tây, để sau 14 đời mới lại phục hưng.
Chiếc mâm thời Tây Chu
Văn Vương Cơ Xương
Truyện Bánh chưng kể: Công tử thứ 9 là Lang Liêu… bèn lựa nếp hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày…
Vua khen ngợi hồi lâu, rồi cho Lang Liêu được giải nhất. Vua dùng thứ bánh ấy để cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm. Thiên hạ mọi người đều bắt chước theo. Lấy tên là bánh Lang Liêu và gọi là Tiết Liệu.
Con số 9 là số chỉ phương Tây trong Hà thư. Lang Liêu nghĩa là thủ lĩnh của người Liêu Lão ở phía Tây Trung Hoa. Vị thủ lĩnh người Liêu Lão xuất phát từ phía Tây là Tây Bá Hầu Cơ Xương. Cơ Xương cũng là người đã viết ra Kinh Dịch, bao hàm đạo Âm Dương, Trời Đất, nên được truyền thuyết Việt kể là Lang Liêu chế ra bánh chưng vuông tượng trưng cho Đất, bánh dày tròn tượng trưng cho Trời.
Cơ Xương là hậu duệ 14 đời của Hậu Tắc. Truyền thuyết Việt chép chung 14 đời này vào thành chuyện Âu Cơ chia đôi đàn con Bách Việt, dẫn một nửa lên núi đi về phía Tây mà lập nước Văn Lang.
Người Liêu Lão được nhắc đến tại phần Phong Tục, Cổ Nam Việt, chương Châu Quận Thập Tứ, sách Thông Điển, thời Đường, nói về nước Nam Việt của nhà Triệu như sau:
Phía Nam Ngũ Lĩnh, các bộ lạc người Di người Liêu cư trú lẫn lộn… Thủ lĩnh ở đây đều dùng đồng đúc thành trống lớn, trống vừa đúc xong thì treo giữa sân, bày rượu để đón mời đồng loại (ăn mừng). Họ lại thường hay gây thù chuốc oán với nhau, hay đánh nhau, khi đó sẽ gõ trống, người khắp nơi liền tụ về (tham chiến) đông nghịt như mây. Kẻ có trống đồng tự xưng là Đô Lão, dân chúng sẽ tôn phục.
Theo đó, người Liêu Lão là tộc người sử dụng trống đồng làm nhạc khí quy tập cộng đồng (đón mời đồng loại), dùng trong quân đội (khi đánh nhau) và là biểu tượng của thủ lĩnh (Đô Lão). Tộc người trước thời Hán dùng trống đồng để hiệu lệnh thì rõ ràng là thuộc về nước Văn Lang của Hùng Vương. Thủ lĩnh lập nước của nước Văn Lang là Lang Liêu Cơ Xương, hay bà Âu Cơ. Tên nước Văn Lang là lấy theo tên hiệu Văn Vương của Cơ Xương.
Âu đồng thời Tây Chu
Võ Vương Cơ Phát
Truyện Bánh chưng mở đầu: Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.
Thời vua Hùng phá giặc Ân là thời của Văn Vương Cơ Xương khởi nghiệp, đến Võ Vương Cơ Phát đại thành diệt Trụ, lên ngôi của Thiên tử.
Con số 22 vị quan lang công tử của vua Hùng khá khó giải thích ý nghĩa vì có vẻ nó không hợp với con số biểu tượng nào trong Dịch học. Tuy nhiên nếu liên hệ với lời mở đầu: “Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân”, thì chợt nhớ tới câu hát của phường Ải Lao trong hội Phù Đổng:
Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hai tám tướng cường nữ Nhung
Xâm cương cậy thế khoe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh.
Người đánh giặc Ân cùng với Phù Đổng Thiên vương là Lang Liêu Cơ Phát. Do đó mới có phường Ải Lao (Lao = Lão = Liêu) là đội quân chính của Thánh Dóng. Bên phía giặc Ân là 28 “nữ tướng”. Như vậy, phía Lang Liêu sẽ có 50 người con trừ đi 28 nữ nhà Ân thành ra 22 người anh em. Con số 50 này cũng như số 100, là con số chỉ sự tổng hợp của 2 dòng theo Cha Lạc Long Quân xuống biển và theo Mẹ Âu Cơ lên núi. 28 nữ đại diện của nhà Ân là dòng Lạc Long. 22 nam của Âu Cơ Xương là dòng Liêu (Ải Lao) phía Tây nhà Chu.
Truyện Bánh chưngghi: Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi hai anh em đều chia nhau giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, trấn thủ những nơi núi non hiểm trở.
Còn Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể là khi người con trưởng của Âu Cơ là Hùng Quốc Vương lên ngôi, Vua cha bèn dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ, xác định cương giới, các đầu núi góc biển, cử ra trăm quan trấn thủ, gìn giữ các phương… Vua mới phân quan lại, định các xứ, cai quản vạn dân. Khi đó lệnh cho anh em trăm trai có tài thần báu trời, cai quản rõ ràng các nơi. Trăm nơi núi sông một mối, xe sách quy mô chế độ đồng nhất, bốn biển một nhà, xưng thần phụ thuộc.
Lang Liêu Cơ Phát sau khi diệt Ân đã lên ngôi thiên tử, phân phong cho các anh em và công thần ở nơi làm chư hầu, gọi là phiên trấn, để quản lý các vùng đất. Đây là khởi đầu của chế độ phong kiến (phong tước kiến địa) trong lịch sử.
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả kể tiếp: Thái tử là Hùng Quốc Vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn. Quốc Vương sau khi nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ, vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.
Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Đất đai 15 bộ này được xác định cương giới, định người trưởng quân gọi là Bô (bố), cha gọi là Trá (cha), con trai gọi là Côn (con).
Nam nữ đều xem theo dòng cha mà xưng. Hậu thế đổi thành quan lang, phiên thần, thổ tù, phụ đạo. Cháu chắt của các công thần khai quốc được cha truyền con nối, vạn đời nối giữ Nam Bang. Còn các nhánh tông phái của các bộ chủ Hùng Vương đời đời trị nước, truyền mãi nước Nam.
Thời kỳ này cũng được Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả gọi là thời Trị bình kiến phu, tức là trị quốc bình thiên hạ, kiến lập các nước chư hầu.
Thành Vương Cơ Tụng
Võ Vương băng, con là Cơ Tụng nối ngôi, còn nhỏ. Chu Công Đán là chú, nhiếp chính. Chu Công đặt ra các lễ chế là Chu Lễ, viết hào từ cho Chu Dịch. Hậu duệ của nhà Ân là Vũ Canh cùng với 3 vị giám thúc nổi loạn. Chu Công Đông chinh, dẹp được loạn Vũ Canh và Tam Giám, an trí đám ngoan dân nhà Ân ở Lạc Dương. Truyền thuyết Việt kể là tướng Cao Lỗ giúp Thục Phán bảo vệ thành Cổ Loa. Chu Công cũng là thần Đồng Cổ, chủ minh thệ trung với nước với vua.
Dưới thời Chu Thành Vương, nước Việt Thường ở vùng cửa sông Trường Giang mang lễ vật là chim bạch trĩ qua 3 lần sứ dịch vào đến Cảo kinh gặp Chu Công. Chu Công nhận lễ, nhận sự chầu phục của nước Việt Thường trong thiên hạ Trung Hoa. Lại ban cho sứ Việt Thường xe chỉ Nam để về nước. Sứ Việt Thường đi dọc sông Mê Kong, qua đất Lâm Ấp và Phù Nam rồi men theo biển mà về.
Con của Thành Vương nối ngôi là Chu Khang Vương. Người nối nghiệp Chu Công, hoàn thành việc xây dựng, yên định vùng đất Lạc Đông Đô là Tất Công. Truyền thuyết Việt gọi là Phan Tây Nhạc. Thời Thành Khang chi trị nhà Chu đã thâu tóm, thuần phục được toàn bộ thiên hạ Trung Hoa, gồm cả vùng đất cũ của nhà Ân ở Trịnh, Vệ, quý tộc nhà Ân ở Lạc Dương, dân nhà Hạ ở Việt Thường.
Dòng chữ “Mục Vương quyết chính” trên mâm đồng
Mục Vương Cơ Mãn
Chu Mục Vương là người đã củng cổ lại triều chính nhà Tây Chu, đánh dẹp Khuyển Nhung, chinh phạt Kinh Sở. Dấu chân của ông đã rải khắp thiên hạ. Ông cũng là người theo truyền thuyết được kể đã lên núi Côn Lôn thấy cung điện ngọc của Hoàng Đế và gặp bà Tây Vương Mẫu.
Ngọc phả Hùng Vương thì kể, vị vua Hùng thứ bảy, sau thời vua Hùng thứ sáu đánh giặc Ân, là Hùng Chiêu Vương, cũng gọi là Lang Liêu. “Hùng Chiêu Vương, buổi đầu tiên nối ngôi nghiêm khắc, chuyên về chính trị. Bãi bỏ khí giới, không dùng việc quân binh. Chăm lo sức dân, chăm sóc nền giáo hóa để mở mang trí tuệ. Ðúc kiếm báu (Thiên linh kiếm), ấn báu (Thiên linh ấn) làm báu vật của quốc gia để giữ yên xã tắc vững bền mãi mãi. Lập đàn ở núi Tam Ðảo, đến chùa Tây Thiên mở hội 7 ngày, 7 đêm để cho trai gái bốn phương dự hội vui. Lại đến chùa Phù Nghì lập vọng Tiên đàn cầu trời đất, mong được gặp Tiên. Trên đường trở về, gặp được nàng Ngọc Tiêu, con gái nuôi của vị Trưởng ông thôn Ðông Lộ rồi kết duyên, sinh ra Hùng Vĩ Vương, lập làm con trưởng.”
Hùng Chiêu Vương chỉ một vị vua của nhà Tây Chu vì chữ Chiêu = chiều, chỉ hướng mặt trời lặn. Sự tích Lang Liêu lên núi Tam Đảo cầu tiên chính là sự kiện Chu Mục Vương lên núi Côn Lôn gặp Tây Vương Mẫu.
Các vị Lang Liêu nối tiếp Chu Mục Vương là Cung Vương, Ý Vương, Hiếu Vương và Di Vương.
Lai lôi thời Tây Chu
Lệ Vương Cơ Hồ
Truyện Bánh chưng kể: Về sau, anh em tranh giành nhau làm trưởng, mỗi người dựng “mộc sách” (hàng rào cây bằng gỗ) để che kín, phòng vệ. Vì thế, mới gọi là Sách, hay là Trại, là Trang, là Phường. Sách, hay Trại, Trang, Phường bắt đầu có từ đây vậy.
Nhà Tây Chu truyền đến Chu Lệ Vương thì bắt đầu suy. Lệ Vương sống xa xỉ, làm nhiều điều bạo ngược khiến nhân dân oán hận, dẫn đến loạn Quốc dân bạo động. Lệ Vương phải bỏ chạy đến đất Trệ. Trệ là đọc khác của Trại. Đất Trệ, có sách chép là đất Di (Di Lão?), nơi Lệ Vương nương náu có thể là địa danh Thạch Trại Sơn ở Vân Nam ngày nay, nơi có tộc người Di (Lô Lô).
Tên của các vị Lang Liêu từ Văn Vương đến Lệ Vương trong bài minh văn 340 chữ được đúc trên chiếc Lai lôi cổ bằng đồng.
Khi Lệ Vương lưu vong ở đất Trại, triều đình do 2 tướng quốc là Chu Công và Triệu Công quản lý, gọi là thời Chu Triệu cộng hòa. Lệ Vương mất, con là Chu Tuyên Vương lên nối ngôi, chấn hưng lại nhà Chu.
Những chữ: Cung Vương, Ý Vương, Hiếu Vương, Di Vương trên chiếc Lai lôi.
U Vương Cơ Cung Sinh
Cuối thời Tuyên vương, có đứa trẻ hát bài ca:
“Mặt trăng sẽ lên. Mặt trời sẽ lặn.
Cung dâu áo cỏ. Đồ vong nhà Chu.”
Theo Chu bản kỷ thì đây là khi xuất hiện Bao Tự. Bao Tự được Sử ký Tư Mã Thiên chép là từ nước dãi rồng của thời nhà Hạ, truyền qua nhà Ân Thương tới thời Lệ Vương mở ra, hóa thành con thằn lằn đen mà nhập cung. Tới thời Chu U Vương, vùng Tam Xuyên có động đất lớn. Thái sử nhà Chu là Bá Dương viết:
Nhà Chu sẽ mất. Khí của trời đất không để mất trật tự; nếu mất trật tự thì dân sẽ loạn. Khí dương ẩn náu mà không thể phát xuất, khí âm bị chèn ép không thể bốc lên, vậy nên có động đất.
Nay Ba Sông đã chấn động là do khí dương mất chỗ, mà khí âm dồn đầy. Dương mất là do âm, nguồn ắt bị tắc. Nguồn bị tắc, quốc gia ắt mất. Đất có nước tưới nhuần thì dân mới sử dụng được. Đất không có nước chảy, dân thiếu vật dụng, không vong sao được!
Xưa sông Lạc cạn mà nhà Hạ mất. sông Hà cạn mà nhà Thương mất. Nay đức của nhà Chu giống như buổi cuối của hai nhà kia rồi. Nguồn sông lại tắc, tắc tất cạn. Ôi, quốc gia dựa vào sông núi. Sông cạn núi lở, là điềm mất nước vậy. Sông cạn thì núi tất lở. Không quá mười năm nữa nước sẽ mất thôi. Sự ruồng bỏ của Trời không quá số này.
Thái sử Bá Dương, người đã lấy nhị khí âm dương hai thời Hạ Thương để khuyên răn Chu U Vương, là Lão Tử. Vùng Tam Xuyên là đất Bắc Việt ngày nay, nơi có đình làng Thổ Hà lưu dấu tích về Lão Tử đã đăng Chiên đàn Thất Diệu ở Cổ Loa, nhắc lại sự việc Đát Kỷ thời Trụ Vương nhà Ân qua chuyện Bạch Kê tinh. Chu U Vương không nghe theo. Lão Tử biết nhà Chu sắp vong nên rời bỏ thành Lạc Dương mà đi về phía Tây, chắc hẳn là đi gặp các vị Lang Liêu khai triều Tây – Chu thời Văn Vương, Võ Vương.
Chu U Vương sủng ái Bao Tự, đánh mất đạo lý trời đất âm dương của bánh chưng bánh dày từ Hậu Tắc, khinh thường các anh em chư hầu Bách Việt. Nhà Chu (triều Tây – Lang Liêu) vong. Hai mươi hai người anh em tranh giành nhau làm trưởng, mỗi người dựng hàng rào bằng gỗ để che kín, phòng vệ.Thiên hạ chuyển sang thời các liệt quốc Xuân Thu xưng bá chư hầu. “Cung dâu áo cỏ” là chỉ âm thịnh dương suy hay chư hầu lấn át thiên tử?
Người Việt ai cũng biết Truyện Rùa vàng kể việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thành cứ xây xong lại đổ. Vua lập đàn cầu khấn thì được một Lão ông đến chỉ cách đón thần Kim Quy về giúp đỡ, trừ diệt con Gà trắng tu luyện ngàn năm thành tinh, đã tụ tập yêu quỷ trong núi phá thành. Truyện về Tinh gà và Quỷ núi ở Cổ Loa là một trong những câu chuyện thần bí đáng sợ nhất trong kho tàng truyền thuyết Việt. Nhưng liệu đằng sau truyền thuyết này ẩn chứa sự thực nào trong lịch sử xa xưa của người Việt?
Nghi môn miếu Bạch Kê
1. Trong Truyện Rùa vàng, Bạch Kê tinh ẩn hình trong người con gái của quán trọ ở chân núi tại làng Ma Lôi gần thành Cổ Loa. Nói cách khác, Bạch Kê là tinh nữ có tên là Ma Lôi. Chữ Ma thực ra là âm đọc khác của Má – Mụ – Mẫu, chỉ một vị thần nữ.
Núi Thất Diệu là nơi Bạch Kê tinh hóa thành con chim cú bay lên cây chiên đàn ngậm lá thư tâu đến trời trong truyền thuyết thành Cổ Loa. Núi Thất Diệu nay ở xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây có ngôi đền thờ một vị công chúa con vua Hùng. Theo thần tích của đền, “thời Hùng Duệ Vương, công chúa nhiều lần hiển hách âm phù quân tướng nhà Hùng dẹp giặc. Khi quân Thục lấy được nước Lạc Việt xây thành Cổ Loa thì công chúa sai ngàn vạn âm binh phá thành. Sau nhờ thần Kim Quy, vua Thục mới xây xong được thành.”
Trong cấm cung của đền có bức tượng thờ chính bằng gỗ, thể hiện một vị Mẫu, đầu đội mũ mào gà, gọi là Mẫu Bạch Kê. Mẫu Bạch Kê ở đây được kể là dòng dõi Lạc Hồng, miêu duệ Rồng Tiên của vua Hùng. Điều này tương ứng với câu nói của thần Kim Quy: “Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước”. Thục An Dương Vương đã đánh dẹp triều Hùng rồi xây thành Cổ Loa. Bạch Kê là một vị nữ tướng, dòng dõi của nhà Hùng, hiện lên báo oán ở núi Thất Diệu, làm cho thành cứ xây lại đổ.
Ở Yên Phụ, Mẫu Bạch Kê còn được thờ tại đình và đền dưới tên Vua Bà Ma Vương. Đối chiếu với truyền thuyết về Ma Cô Tiên trong Truyện Giếng Việt ở núi Châu Sơn thì Mẫu Bạch Kê chính là Ân Hậu, vợ của vua Ân trong cuộc chiến với Thánh Dóng. Ân Hậu cũng là tướng cầm đầu quân đội nhà Ân sang đánh nước Văn Lang, được ngọc phả Hùng Vương gọi là Thạch Linh thần tướng.
Đình Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh
2. Truyện Rùa Vàng kể: “Trong núi có người nhạc công triều trước chôn ở đây, hóa thành quỷ.” Vị “nhạc công” triều trước ở trong núi là ai mà lại hóa thành quỷ chống phá Thục Vương xây thành?
Đền Yên Phụ còn có tên là đền Núi. Đền này cùng với Vua Bà Ma Vương còn thờ một vị Đại vương tên là Cao Sơn. Thần tích kể rằng Cao Sơn là một trong những người anh em của Tản Viên Sơn Thánh. Cùng với đức Quý Minh, đức Cao Sơn, đã được bà mẹ nuôi là Ma Thị Cao Sơn Thần nữ gửi cho em là Ma Lôi nuôi dưỡng. Sau này Cao Sơn và Quý Minh giúp Hùng Duệ Vương chống lại quân Thục.
Có thể nhận ra, vị “nhạc công” ở trong núi Thất Diệu là thần Cao Sơn. Từ “nhạc” còn có phát âm khác là “Lạc”. Nhạc công tức là Lạc Công, chỉ vị thủ lĩnh vùng đất Lạc lúc đó. Cao Sơn là một trong Tam vị Tản Viên Sơn tinh nên mới được Truyện Rùa Vàng kể là “quỷ trong núi”. Thần tích cũng cho thấy mối liên quan trực tiếp giữa Cao Sơn Đại vương và Ma Lôi, tức mẫu Bạch Kê ở núi Thất Diệu. Cao Sơn Đại vương là một đại tướng của Hùng Duệ Vương trong cuộc chiến chống lại Thục Vương, cũng giống như Mẫu Ma Lôi Bạch Kê đã nói ở trên.
Bình Cú thời Ân Thương (Hiện vật Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt)
3. Truyện Rùa Vàng kể sau khi An Dương Vương cùng thần Kim Quy giết con Gà trắng trong quán Ma Lôi, “Vua liền sai đào núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Trời gần tối, Vua và Rùa Vàng leo lên núi Việt Thường thấy quỷ tinh đã biến thành con chim cú, ngậm lá thư bay lên chiên đàn”.
Việc Thục Vương đào được nhiều nhạc khí cổ ở núi Việt Thường, rồi thấy chim Cú mèo ngậm lá thư bay lên chiên đàn không ngờ lại là một hình ảnh rất thật của thời đại nhà Ân Thương cách nay hơn 3.000 năm. Trên nhiều đồ đồng tế khí của nhà Ân thường dùng hình chim Cú trong tạo hình. Một chiếc bình đồng có hình chim Cú như vậy được thấy ở Việt Nam.
Bình có tiết diện hình trứng, một mặt bình được đúc nổi ở giữa là mặt một con chim Cú với 2 mắt tròn to, có mi mắt, mỏ nhọn. Phía trên có 2 tai to nhọn (tai mèo). Phần thân Cú có cánh và chân ở 2 bên. Xung quanh con Cú được trang trí bằng những hình rồng quỳ nhỏ. Toàn bộ chiếc bình được trang trí nền bằng hoa văn vân lôi vuông hoặc tròn, phủ một màu đồng cổ xanh lam độc đáo và đẹp mắt. Đôi mắt Cú mèo tròn to đúc nổi ở giữa thân bình tạo một ấn tượng rất trang nghiêm. Nhìn tổng thể chiếc bình có cảm tưởng như hình một chiến binh đang đứng thẳng, rất dũng mãnh với đầy đủ mũ giáp, áo giáp, mắt to tai lớn, có nanh có mỏ.
Cú mèo (tên chữ Nho là Si hiêu) là biểu tượng của nhà Ân Thương. Thậm chí trong Kinh Thi, phần Bân phong có bài thơ Si hiêu (Cú mèo) như sau:
“Cú mèo, Cú mèo. Đừng phá nhà ta. Bao nhiêu ân cần. Nỗi niềm nuôi nấng”.
Bài thơ này nói chuyện Chu Công, khi đi dẹp phản loạn hậu duệ của nhà Ân là Vũ Canh, bị phao tin là Chu Công sẽ làm hại ấu chúa. Chu Công đã viết bài thơ này gửi cho vua là Chu Thành Vương, ý nói loài Cú mèo nhà Ân, đã cùng các vị vương thân Giám Thúc của nhà Chu làm phản, thì đừng gây chia rẽ trong tông thất giữa Chu Công với vua Chu nữa.
Đáy bình Cú với dòng chữ Vong tông binh Tây sĩ cung…
4. Truyện Rùa Vàng kể, Bạch Kê tinh sau khi bị giết hóa thành một lá thư, được Chim Cú ngậm bay lên núi Thất Diệu. “Rùa vàng liền biến thành con chuột theo sau, cắn vào chân Cú, lá thư rơi xuống đất. Vua vội nhặt lấy, lá thư đã bị mọt ăn mất quá nửa.”
Điều hết sức bất ngờ là dưới chân chim Cú trên chiếc bình thời Ân Thương lại cũng có một “lá thư”. Đó là những chữ tượng hình cổ được khắc lớn và sâu. Dưới đáy bình Cú có 10 chữ dạng Kim văn, loại chữ của thời Thương Chu dùng trên đồ đồng. Đây có thể xem như là lá thư mà chim Cú đã ngậm khi bay lên chiên đàn ở Cổ Loa.
Chiếc bình đồng hình chim Cú cho phép hiểu ý nghĩa câu kể trong Truyện Rùa Vàng: khi chim Cú bị cắn rơi lá thư, lá thư đã bị “mọt ăn” mất quá nửa. Ý nói là mảnh đáy bình có khắc chữ đã bị rỉ mất phân nửa, nên có nhiều chữ không đọc được.
Dù phần đáy bình đã bị phong hóa, nhưng một số chữ Kim văn trên đáy chiếc bình Cú còn có thể đọc như sau: “Vong tông binh Tây sĩ cung”. Tuy không dịch hết dòng chữ này nhưng rõ ràng là nội dung viết về hành động của quan (sĩ) binh. Như thế có thể liên hệ chiếc bình này với Cao Sơn Đại vương ở núi Thất Diệu, vị thủ lĩnh cầm quân vùng đất Lạc chống lại Thục Vương.
Hoành phi Duy nhạc giáng thần ở đình Yên Phụ
5. Còn một nhân vật nữa trong sự tích Sát quỷ ở thành Cổ Loa là vị Lão ông đã cử thần Kim Quy đến giúp An Dương Vương. Vị Lão ông này không phải ai khác mà chính là Lão Tử, người được thờ ở làng Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang), cách núi Thất Diệu không xa.
Bia “Cung sao sự tích thánh” ở đình Thổ Hà cho biết, vị thần ở đây thờ có “họ là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng. Thời An Dương Vương, Vua xây thành có những u hồn và tà ma quấy nhiễu. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo Vua rằng: xin Vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi ngay hôm đó Người sai Thanh giang sứ, hiệu là Thần Quy, đến giúp trừ phép quỷ, giết Bạch Kê. Lại đào trong núi Thất Diệu được nhạc khí thời cổ cùng hài cốt, đem đốt đi. Từ đó yêu ma tan hết.”
Lão Tử hay Thái Thượng Lão quân được truyền thuyết hóa thành Huyền Thiên Trấn Vũ, vị thần bảo hộ của thành Cổ Loa. Tiểu sử của Lão Tử được ghi trong bài Lão Tử minh như sau: “Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U Vương, vùng Tam Xuyên bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.”
Đoạn trích “nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương” đã ghi rất đúng câu chuyện ở núi Thất Diệu. “Âm khí thời Thương” là Mẫu Bạch Kê hay Ân Hậu Ma Lôi. Còn “Dương khí thời Hạ” là Lạc tướng Cao Sơn, vốn gốc là dòng dõi nhà Hạ từ Lạc Long Quân (Tản Viên Sơn Thánh).
Trong lịch sử nhà Tây Chu (Thục Vương), thời U Vương gặp loạn Khuyển Nhung tấn công Tây kinh, nhà Chu buộc phải dời đô về lại vùng đất Lạc (Dương) ở phía Đông. Khi xây thành ở Tam Xuyên (Cổ Loa) lại gặp những trận động đất lớn. Lão Tử khi đó đang là “thủ thư” và là quốc sư của nhà Chu đã nhân đó bày chuyện tế trời, lấy tấm gương của hai nhà Hạ và Thương (Lạc Vương và Hùng Duệ Vương) để khuyên răn vua Chu (Thục Vương).
Cây “Chiên đàn” trên núi Thất Diệu theo đúng chữ Nho nghĩa là đàn tế có cắm cờ. Huyền Thiên Lão Tử đã đăng đàn tế ở núi Thất Diệu, nơi chiến trường ác liệt xưa giữa 2 dòng Đông – Tây (Hùng – Thục) từ thời Thục Vương chống giặc Ân, dựng nghiệp nhà Chu. Mẫu Bạch Kê Ma Lôi và Lạc Công Cao Sơn được tái xuất trên đàn tế qua những đồ tế khí đồng thau cổ của thời Ân Thương như những chiếc bình hình chim Cú và những dòng chữ Kim văn khắc sâu dưới chân chim. “Lá thư” của Mẫu Bạch Kê được chim Cú ngậm dâng tấu trên chiên đàn là lời nhắc nhở đấng quân vương không được thất đức, bỏ dân, coi thường các nước chư hầu anh em của Bách Việt mà đánh mất mệnh trời. Nếu không sẽ mất nước và phải chịu hậu quả thảm khốc với sự dày vò của Ma Quỷ. Thần thánh luôn ở trên hai vai. Lời nhắc của Lão Tử đã ghi vào Đạo Đức kinh, gửi gắm trong chiếc móng của thần Kim Quy để làm phép cai quản đất nước ngàn năm.
Bài đăng trên báo Lao Động cuối tuần số 26 từ 25.6 đến 27.6.2021
Bằng cách đối chiếu các ngọc phả Hùng Vương, các thần tích trong các di tích thờ Hùng Vương được lưu giữ đến nay với những thư tịch lịch sử của Việt Nam và Trung Hoa, thời đại Hùng Vương có thể được chia thành 4 thời kỳ phát triển gồm 18 đời (triều đại) Hùng Vương như trong sơ đồ sau.
Thời thủ lĩnh cộng đồng
Mốc lịch sử đầu tiên của người Việt được đánh dấu bằng Đế Minh, cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông. Vị vua Hùng đầu tiên, đứng đầu 18 đời Hùng Vương là Đế Minh, được các nơi thờ dưới tên Đột Ngột Cao Sơn, hay tên đầy đủ như trong Ngọc phả đền Vân Luông là Thánh tổ Hùng Vương Nam Thiên thượng thánh Tiền hoàng đế khai quốc hồng đồ Đột Ngột Cao Sơn cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương. Từ “đột ngột” hiểu nôm na là “bất ngờ xuất hiện”, cũng nghĩa là trước đó chưa có ai, chỉ vị vua đầu tiên. Rõ ràng chỉ có Đế Minh mới thích hợp ở vị trí “tiền hoàng đế khai quốc” này.
Ngọc phả đền Vân Luông còn cho biết: Đế Minh chính thống vạn bang chư hầu thiên hạ. Đế Minh như thế là người đã khai mở toàn thiên hạ, ngang với thời “Hoàng Đế mở muôn nước“, tức là cách đây khoảng 5.000 năm. Bắt đầu từ Đế Minh xã hội Việt đã có vua, có thủ lĩnh cộng đồng. Tên gọi cho thời kỳ này là kỷ Hồng Bàng Thị. Tên gọi trong các thần tích là “Sơn triều”. Tên nước là Xích Quỷ.
Hùng Vũ Vương Đế Minh là thế hệ ba đời từ Thần Nông, ban đầu đóng kinh đô ở Ngàn Hống (Nghệ Tĩnh), sau đi tuần thú ở phương Nam (xưa), kết hợp với dòng Tiên tộc của bà Vụ Tiên (Tây Thiên Quốc mẫu) mà khởi đầu vùng đất phương Nam ở dãy núi Nghĩa Lĩnh. Đế Nghi nối ngôi Đế Minh cai quản 2 vùng đất Bắc và Nam với kinh đô ở Ngàn Hống và Nghĩa Lĩnh. Để chọn người kế vị cho mình, Đế Nghi đã gả 2 công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung cho Lộc Tục, thuộc dòng Lạc tộc (Tiên tộc) ở núi Lịch. Lộc Tục có công khai phá đất phương Nam từ dạy dân cày cấy, săn bắn, làm đồ gốm sứ… Ba vị vua Hùng đầu tiên là Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục trở thành ba vị Hùng Vương Thánh Tổ, được thờ tại đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và nhiều nơi khác của vùng Đất Tổ.
Trong giai đoạn mở sử của Hùng Vương Thánh Tổ Sơn triều gồm những đời Hùng Vương sau:
1. Hùng Vũ Vương
2. Hùng Hy Vương
3. Hùng Anh Vương (Hùng Hi Vương)
Thời chế độthị tộc phụ đạo
Sau Đế Minh, mặc dù đã có thủ lĩnh của cộng đồng thiên hạ vạn bang nhưng chế độ vẫn đang là truyền hiền. Cụ thể là chuyện 2 vị công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung được gả cho Sơn Tinh, dẫn đến vị hiền tế phò mã này được tiếp ngôi chính thống. Những dấu vết khác của thời kỳ truyền hiền còn thấy ở Phú Thọ như lầu kén rể bên bến Việt Trì, hay tục rước chúa gái của 2 làng Vi Trẹo dưới chân núi Hùng.
Nối tiếp công lao mở Nam bang của Lộc Tục là Tản Viên Sơn Thánh hay Kinh Dương Vương, người đã đại thành trong công cuộc trị thủy ở cửa Long Môn trên sông Đà. Tản Viên Kinh Dương Vương kết hôn với mẫu Thần Long của miền Động Đình ven biển, hợp nhất các tộc người của 4 phương thời lập quốc.
Thời kỳ truyền hiền kết thúc bởi sự kiện Lạc Long Quân kế vị Kinh Dương Vương, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Chế độ thế tập xuất hiện ở thời điểm này cách nay khoảng 4.000 năm. Đây chính là mốc lịch sử trước đây thường được nhắc tới, gắn liền với tên tuổi của “cha” Lạc Long Quân. Tên gọi thời kỳ này là Việt Thường. Trong các thần tích thời này gọi là “Kinh triều” hay “Lạc triều”.
Dưới thời Lạc triều, người Việt theo Vua cha Lạc Long Quân mở nước về phía Đông Bắc, tiến lên khai phá các đồng bằng ven biển Đông. Trong thời gian này xảy ra sự kiện Chử Đồng Tử, một chư hầu của Lạc triều đã tiếm ngôi, chiếm đoạt ngôi báu dưới hình ảnh của công chúa Tiên Dung. Lạc triều trung hưng ở miền đất Nam Giao từ Hùng Uy Vương Hoằng Hải Lang. Rồi tới thời Hùng Huy Vương lại tiếp tục di dân, mở mang bờ cõi, vượt sông Trường Giang tiến lên phía Bắc. Tới thời Hùng Duệ Vương, triều đại cuối của Lạc triều, thì lãnh thổ Việt Thường về phía Bắc đã vượt qua cả Hoàng Hà.
Các đời Hùng Vương thời kỳ Kinh triều Thị tộc phụ đạo gồm:
4. Hùng Việt Vương (Hùng Dương Vương)
5. Hùng Hoa Vương (Hùng Diệp Vương)
6. Hùng Uy Vương
7. Hùng Huy Vương
8. Hùng Duệ Vương (Hùng Tuyền Vương)
Thời chế độ phong kiến phân quyền
Thời kỳ bộ lạc thế tập, gọi vua là cha, kéo khá dài như chuyện nàng Âu Cơ mang nặng đẻ đau sinh ra bào ngọc trăm trứng… Cuộc chiến Hùng – Thục nổ ra được ghi lại trong các bản ngọc phả thần tích ở Việt Nam là lúc dòng Thục theo mẹ Âu Cơ nổi lên, thay thế cho dòng Hùng (Lạc) theo cha, mà đánh dấu bởi sự kiện Âu Cơ về đất Phong Châu lập nước Văn Lang.
Đến khi Hùng Quốc Vương, người con trưởng đích trong trăm trai, với kỳ công hiệu triệu chư hầu, tiêu diệt nhà Ân Thương (Lạc triều), thì xã hội Việt tiến thêm một bước quan trọng.
Ngọc phả Hùng Vương kể: Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn… Bấy giờ Vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm các tộc, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương.
Bắt đầu từ Hùng Quốc Vương bờ cõi đất đai trong thiên hạ được chia phân thành các chư hầu phiên dậu bình phong. Mỗi chư hầu có người chủ trì gọi là “phụ đạo” và chức chư hầu này được thế tập nối nhau. Vua xưng là thiên tử. Đặt ra lễ chễ trăm quan. Nhân dân được định tộc họ. Những vị tiên tổ có công lao được phong làm thần mà thờ phụng.
Đây cũng là thời điểm đời Hùng thứ 6 với vị Lang Liêu, người có công hoàn tác Dịch học âm dương vuông tròn, khai mở lễ tiết (Tết). Truyện Bánh chưng bánh dày kể rõ, Lang Liêu nối ngôi đã phân chia cho các anh em làm phiên dậu bình phong…
Bản chất là xã hội Việt lúc này bước sang chế độ phong tước kiến địa hay chế độ phong kiến điển hình. Vua Hùng đứng đầu Bách Việt (là tổ của Bách Việt), vì mỗi “Việt” là một chư hầu trong thiên hạ họ Hùng. Thời điểm của mốc lịch sử này được ghi nhận sau khi Hùng Vương thứ 6 đánh thắng giặc Ân, tức vào quãng hơn 3.000 năm trước. Tên gọi đất nước của Lang Liêu thì như đã rõ, là Văn Lang. Thần tích kể thời kỳ này là “Thục triều”.
Những câu chuyện chính của Thục triều đã được ghi trong Truyện Rùa Vàng của Lĩnh Nam chích quái, từ việc Thục Vương thay thế Hùng Vương (Thục triều thay thế Lạc triều), An Dương Vương dời đô về Cổ Loa, rồi kết thúc bởi cuộc chiến với họ Triệu qua câu chuyện bi thương Mị Châu – Trọng Thủy.
Thời kỳ Trị bình Kiến phu (trị nước bình thiên hạ, kiến lập chư hầu) của Thục triều gồm các đời Hùng Vương sau.
9. Hùng Chiêu Vương (Hùng Hiền Vương)
10. Hùng Quốc Vương (Hùng Ninh vương, Hùng Vĩ Vương)
11. Hùng Tạo Vương
12. Hùng Nghị Vương
Thời chế độ phong kiến tập quyền
Mô hình Thiên tử – Chư hầu, vua Hùng – Bách Việt kéo dài qua các thời kỳ thịnh rồi suy, dẫn tới xung đột khốc liệt giữa các chư hầu. Để rồi nổi lên 1 chư hầu lớn thôn tính toàn bộ các chư hầu khác là Thục An Dương Vương như trong truyền thuyết Chín chúa tranh vua của người Tày. Vị vua đã thống nhất các nước chư hầu đến từ phía Tây – Thục này chính là nhà Tần. Truyền thuyết chép vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán.
Tuy nhiên, với sự tàn ác của Tần đế, truyền thuyết Việt không chấp nhận vai trò thống nhất thiên hạ của nhà Thục. Người được coi người khởi thủy nước Nam lại là Vũ Đế Triệu Đà. Xét kỹ thì với vai trò là bố của Trọng Thủy, Triệu Đà cũng chính là vua Tần, người đã diệt con cháu hậu duệ của Hùng Quốc Vương Lang Liêu.
Mặt khác, Triệu Đà thứ hai là người Tuấn kiệt đã lãnh đạo dân Việt kháng Tần thắng lợi, lập nên một triều đại Nam Việt thống nhất. Chế độ quận huyện từ trung ương xuống địa phương được áp dụng trên toàn lãnh thổ. Xã hội Việt bước vào giai đoạn quốc gia thống nhất.
Thời điểm cho mốc thống nhất toàn lãnh thổ hay phong kiến tập quyền này rơi vào quãng năm 256 TCN (thời điểm Tần diệt Chu) hoặc 207 TCN (thời điểm Triệu Vũ Đế diệt Tần), tức là cách nay trên 2.200 năm.
Thời kỳ quốc gia thống nhất bao gồm các đời Hùng Vương sau:
13. Hùng Định Vương
14. Hùng Trịnh Vương (Hùng Trinh Vương)
15. Hùng Triệu Vương (Hùng Triêu Vương)
Ngoài ra còn 3 đời Hùng Vương kế tiếp, không được ghi trong ngọc phả, nhưng được bổ sung từ các truyền thuyết và di tích đối với thời Tiền Lý Nam Đế và Trưng Vương (vẫn là dòng Lạc Hùng chính thống).
16. Hùng Hiếu Vương
17. Hùng Trưng Vương
18. Hùng Tân Vương
Từ thời điểm này xã hội người Việt đã thống nhất chế độ, thống nhất lãnh thổ nên lịch sử Việt chấm dứt thời Hùng Vương dựng nước, bước sang thời kỳ con cháu “giữ lấy nước”. Hơn 3.000 năm dựng nước đầy gian nan, từng bước, từng bước một cha ông đổ mồ hôi nước mắt mới có được những thành tựu to lớn để lại cho con cháu. Đọc lại Ngọc phả Hùng Vương xin chớ quên câu Uống nước nhớ nguồn.
Thần tích làng Đa Vạn, Song Tháp, Đình Vỹ tổng Yên Thường, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đình làng Đình Vỹ, nơi thờ Trọng Thủy
Ngàn thu tiết tại năm Canh Thân ngày mồng một tháng 6 (nay đã là tháng 4)
Triệu Võ Hoàng đế họ Triệu, húy Đà, chữ đệm là Úy, ở ngôi 72 năm, thọ 114 năm, quê ở huyện Chân Định, người xã Đường Thâm. Từ năm 32 tuổi Đế nhận chiếu phong của Tần Hoàng làm quan lệnh Long Xuyên, Nhâm Hiêu làm Thái thú Nam Hải. Đến khi Tần loạn, Nhâm Hiêu nói với Úy Đà rằng:
– Thiên hạ đại loạn. Duy có họ Hạng là mạnh. Nay chúng ta binh lương ít, lực khó chống lại sức mạnh của họ Hạng. Ông là quan lệnh Long Xuyên có chí lớn, xin tùy Ông khởi binh, đánh Nam Giao Ngũ Lĩnh để chống lại loạn Tần, lưu danh thiên cổ.
Đà nghe lời đó bèn nói với Nhâm Hiêu rằng:
– Hai người chúng ta là tương đắc, sao phải phân hơn kém vậy.
Bèn phát quân Nam Hải, Long Xuyên. Đế cho Nhâm Hiêu dẫn quân đến vùng sơn cước, định đoạt được vùng Trung Nam của Ngũ Lĩnh. Nhâm Hiêu nhân đó dẫn quân đánh chiếm đất phía Tây.
Đế tự dẫn quân đánh Thục, đóng quân ở núi Tiên Du của Bắc Giang, cùng giao chiến với tướng Thục. Yến Vương lấy nỏ thần ra bắn. Đế nhiều lần thua chạy, mới biết Thục Vương tất có thần giúp, bèn nói:
– Binh uy của quân ta như vậy, lẽ ra đánh tất thắng, công tất được. Như thế này ta lại không thể chống được Thục. Chắc chắn có nỏ thần, nay không thể đánh lại.
Bèn sai con trưởng húy là Toán, tên chữ là Trọng Thủy, vào làm con tin ở Thục. Dâng hiến một cặp ngọc bích trắng, 17 cuộn vải gấm, đến chầu để cầu kết hòa, hợp hôn với con gái Vương là Mị Châu. Vương đồng ý nhận. Từ đó hai nước tương hòa, không xảy ra binh đao. Khi quốc gia có việc, Vương gọi đến hỏi thì Trọng Thủy ứng đối trôi chảy, lời nói có lý. Vương rất yêu mến, nói với Toán rằng:
– Cha của con đúng là một vị chủ anh hùng, đã cùng với Trẫm kết hòa, quốc gia vô sự, ta có gì phải lo. Con đúng là hiền tế mà ta có được. Trẫm chỉ có một con gái là Mị Châu, nay gả cho con, coi con như con trai.
Toán dập đầu tạ Vương. Mị Châu cùng với Toán cá nước kết duyên, được vài tháng Châu có thai. Được 12 tháng sinh được một nam nhi, vẻ rồng mũi chim. Vương do có nỏ thiêng, nhân tên đó đặt là Linh. Khi biết nói thì tỏ ra ngoan ngoãn, yêu kính. Vương nói:
– Nay tuy còn nhỏ, sau thành nền tảng của xã tắc.
Trọng Thủy nhân đó tạ Vương mà nói:
– Tới nay tiểu tử con vào triều, ngày dài đã được hơn 4 năm. Nay được Vương ban gả cho Châu nương, lại được lâu dài cùng với đức của nước nhà. Vợ chồng thần duyên tình tương hợp, sinh được một con là Linh. Nay đã 3 tuổi. Vậy xin bái tạ ơn điển quốc gia, cho thần dẫn thê tử về thăm Cha của thần sức khỏe ra sao, để được làm tròn chữ Hiếu. Cha con ông cháu vui yến sum họp, cho đến kỳ mùa xuân sẽ cùng quay về triều. Vạn mong được hưởng sự chiếu cố của bề trên.
Vương đồng ý, lại cười nói rằng:
– Nay lúc thiên hạ đại loạn, con đi hãy quay về để giữ yên cho nước nhà.
Trả lời rằng:
– Hán Sở tương tranh, thiên hạ đại loạn. Nước nhà không dễ được bảo toàn. May là
nước nhà cùng với Cha của thần đã cùng kết hòa. Hưng vong là do số trời. Vương xin đừng lo lắng nhiều.
Vương cười rằng: – Tất nhiên.
Toán tạ Vương rời triều, trở về Đông các, trần tình cùng Mị Nương, kể lại rằng:
-Chuyện nước nhà như vậy. Vương đã cho phép sau một ngày vợ chồng con cái chúng ta cùng về Bắc thăm sức khỏe của Cha. Đến mùa xuân lại cùng trở về triều. Như vậy trung hiếu đôi đường đều vẹn.
Mị Châu nói:
– Vương chỉ có mình thiếp là con gái, tình cảm ngày đêm không rời khỏi bên Vương. Nay lúc thiên hạ đại loạn, nước nhà chưa biết có được yên ổn hay không. Thiếp không nỡ rời xa Vương. Thân thiếp đã gửi cho Lang quân được gần 5 năm, tâm trí đều một lòng. Nhưng nay việc lễ với vua cha của chàng thiếp đành cam chịu bất hiếu. Nhờ Lang quân cùng với Linh về thăm sức khỏe của Đế. Sau là cho thiếp được một lạy kính cẩn bái chúc Vua cha.
Toán đồng ý, lại dụ Châu rằng:
– Ta vẫn chưa được biết nỏ thần thật sự là như thế nào.
– Nay lúc thiên hạ đại loạn, nước nhà chưa chắc đã được bảo toàn. Còn ta lại Nam Bắc cách biệt. Nhỡ chẳng may không kịp quay về, vạn nhất nước nhà xảy ra việc gì, tình cảm vợ chồng, lấy gì để làm dấu tích?
Châu nói:
– Trong nhà có một con Ngỗng. Lông ngỗng rơi ra, thiếp thường nhặt cho vào trong túi. Còn một cặp thoa vàng mà Lang quân vẫn thường thấy. Đó là những dấu tích. Vạn nhất nước nhà có xảy ra chuyện, mong phu quân theo tình vợ chồng mà không chia biệt.
Toán nghe lời quay lại nói với nàng rằng:
– Hãy cẩn thận! Cẩn thận!
Sáng ngày vào bái tạ Vương. Vương sai sứ dẫn cha con Linh về Chân Định, nói với Toán rằng:
– Đến mùa xuân cha con nhà con liệu có lại triều nữa thật không?
Toán bái tạ Vương nói:
– Xin đúng như lời vậy.
Hôm đó phụng mệnh quay về, dẫn Linh vào bái tạ Vương và Châu. Châu gặp nói với Linh rằng:
– Đến mùa xuân mẹ con lại gặp lại.
Linh đáp: – Tất nhiên.
Phút chốc cha con cùng với sứ giả trở về Chân Định, vào triều kiến Vua cha, báo cáo lại sự việc, đã lấy được lẫy nỏ.
Nhâm Hiêu nằm trên giường bệnh nói:
– Hiêu ta nay mắc bệnh chắc sẽ chết. Việc thiên hạ quyết chính thế nào, Đế hãy làm.
Đế nói:
– Không phải là ta, mà hãy để cơ hội này cho Toán.
Đến khi Hiêu mất, Đế nói với Toán rằng:
– Trước đây hơn một tuần, thường thấy có mây lành tụ hợp. Nay đã qua 4 năm con vào Thục làm con tin, được lẫy nỏ, được con trai, đắc ý trở về. Đó là trời cho khởi sự, sao không thể thành?
Triệu tiến quân đánh Thục, tới thành Ốc. Yến Vương không biết đã mất lẫy nỏ, nên cười rằng:
– Đà không sợ nỏ thần của ta sao?
Quân Triệu tới gần. Vương bắn nỏ. Lẫy nỏ bị gãy. Vương đành thua chạy qua phía Tây, vượt qua Mỹ Lương, Chương Đức, qua Thanh Hóa đến núi Lạc Xá cửa biển Biện. Vương hô rằng:
– Ta xây thành thì được giúp, nay lúc mất nước, Kim Quy hiện ở đâu?
Dứt lời thấy Kim Quy hiện trên mặt nước, hô với Vương rằng:
– Giặc ở sau lưng!
Phía sau chỉ có Mị Châu. Mị Châu theo Vương nói:
– Thiếp ngu dốt nghe theo người ngoài, nay chắc phải chết. Nếu có lòng phản trắc, chết sẽ thành cát bụi. Còn nếu không có lòng phản, chết xin thành kim ngọc.
Vương rút kiếm chém Mị Châu, rồi theo Kim Quy mà đi. Sau vài tháng Trọng Thủy, Trương Hống, Trương Hát dẫn quân đuổi tới cửa Biện, thấy thi thể Mị Châu đeo một chiếc túi, hai chiếc thoa vàng, đúng là tích vật. Trọng Thủy cầm túi mà khóc, tình vợ chồng từ nay li biệt. Rồi ôm Mị Châu trở về thành Ốc, an táng ở núi Yên Phụ. Tháng 4 vào đầu giờ Dần ngày mồng 5, lấy dao trúc mà giết Ngỗng tế Mị Nương. Do cảm động nghĩa tử thê lương, người dân Yên Phụ đắp một mộ phần phụng sự. Đến xã Nội Trà ngày 10 tháng 4 nằm mộng mà chết. Dân Nội Trà cũng đắp một mộ phần. Nhân dân phụng sự đem về thành Loa an táng thành mộ phần. Tới tháng 6 ngày 10, thấy bóng hình Mị Châu ở trên giếng, thấy Toán tâm tính mất hết mà ra đi. Toán quay đầu muốn đuổi theo ôm lấy bóng hình mà không được, rơi xuống đáy giếng mà chết.
Nhân đó gọi là giếng Ngọc. Đến khi định được thiên hạ, Đế đã 43 tuổi. Tháng 5 mùa hè Đế lên ngôi ở bến Nghĩa Lĩnh, đóng đô Trung Nam, xe mui lụa vàng, lông mao cắm trái, không kém Hán Đế. Tháng 8 mùa thu lập Trình Thị làm Hoàng hậu, Hàn Thị làm Phi nhân. Trình Hậu sinh được 3 con trai. Hàn Phi sinh được 4 con trai. Xưng là Toán, viết Đô thống Càn Ngọ Tướng lang. Toán từ khi Đế là quan lệnh Long Xuyên, lấy con gái họ Khương sinh ra Toán. Khi trưởng thành Đế sai làm con tin ở Thục, lấy Mị Châu sinh được một con trai. Thục chủ có nỏ thần, nhân đó mà đặt tên là Linh. 3 tuổi về Triệu. Đế được lẫy nỏ thất lạc của Thục nên thêm chữ đệm là Lạc, gọi Triệu Lạc Linh. Triệu được thiên hạ đều nhờ công của Toán. Thiên hạ được yên định nhưng mẹ con Khương Thị đều đã mất. Đế nhớ công của Trọng Thủy, thấy Triệu Lạc Linh tài đức vẹn toàn, xứng là người cai trị tốt. Đế rất yêu mến, gọi là Hoàng thế tôn.
Đế sinh được 8 người con trai, nước giàu quân mạnh, cùng với Hán binh đao không ngừng. Tới thời Văn Đế mới hiến ngà voi, sừng tê, hai nước kết hòa, nước nhà vô sự. Thọ 114 năm. Ở ngôi 72 năm. Khi viết xưng là Lão phu. Khởi xướng cơ nghiệp đế vương. Thực ra vị chủ anh hùng. Công cao khó vượt.
Năm Quý Tỵ tháng 11 sang năm Tân Dậu tháng 12 Đế mất, an táng Trường lăng ở Nghĩa Lĩnh. Triệu Lạc Linh hiệu Hoàng thế tôn lên ngôi, tức là Văn Đế. Đế khi mới nối ngôi nghe lời Hoàng tổ, cảm trước công của cha mình mới có được như ngày nay, đã lại truy phong tôn Hoàng tổ khảo, gia phong cho cha mình mỹ tự, hiệu là Quý Minh Đại vương. Đế giữ nước khó khăn, phải sai con trai vào Hán làm con tin. Truyền tới Minh Vương, Ai Vương, Thuật Dương Vương thì hết. Bốn đời hưởng quốc được hơn 200 năm. Nước giàu dân mạnh. Không việc binh đao. Sau này mất cơ đồ bởi do móng rồng, vận nước cáo chung.