Tản mạn chuyện xưa

Trải khắp chốn mà xem chuyện cũ
Từ Vĩnh Tường nhớ thủa Tản Viên
Bắc cung đền Thính linh thiêng
Bà đồng cất tiếng cầu tiên độ trì.

Phà Vĩnh Thịnh vượt qua Mông Phụ
Này đền Và nơi chúa Sơn Tinh
Văn quan võ tướng tranh nghênh
Triều đình tứ trụ rõ hình đế vương.

Bạch Phiên Tân con đường thiên cổ
Thẳng như tơ nối ngọn Ba Vì
Gậy ngũ hành lập thần uy
Trấn dòng sông Nhị một khi nước về.

Ghé Hát Môn bên đê ngàn tuổi
Tiếng âm vang từ buổi Trưng Vương
Lời thề chí khí can trường
Sống linh, thác hóa sông Tương nữ thần.

Huyện Hoài Đức tuy gần mà khó
Gặp Lý Bôn Giang Xá linh từ
Vạn Xuân ngẫm chuyện Thục Ngô
Khắc ghi Đinh Triệu đền tô chữ đào.

Dấu thánh tích chẳng bao giờ mất
Trong một thân là phật, là thần
Thổ Hà trang hạ ngũ vân
Hiển hình Thái Thượng Lão Quân nơi này.

Vũ Đương Sơn bao ngày luyện đá
Mặc hình dung thân cả ở cao
Mây bay Huyền quán năm nào
Uy nghi Trấn Vũ đường vào Thăng Long.

Về Kinh Bắc Kinh Dương thủy tổ
Chốn Viêm Giao Bàn Cổ xa xưa
Vi vu thân trúc gió đưa
Lặng nghe chuyện cũ nắng mưa bao chầy.

Chuông chùa vọng mang đầy tiếng cổ
Ghé Luy Lâu tưởng nhớ Sĩ Vương
Giữa khi loạn lạc tứ phương
Nho khai mở lối, tạo đường dân Nam.

Cảnh Dục Tú mà quan ngư thủy
Cõi Đường Ngu thịnh trị hay không
Văn minh Thù Tứ lưu dòng
Quy về tiên tổ bên sông Vị Hoàng.

Bầu trời rộng rõ ràng Bích Hán
Phất đăng tiên Dạ Trạch một đêm
Sóng xô bờ cát Tự Nhiên
Chuyện xưa công chúa kết duyên Chử Đổng.

Bên sông rộng Hàm Rồng vết cũ
Gạch Giang Tây này của Cao Vương
Vẻ vang Tĩnh Hải Lý Đường
Thành kia ai đắp, bóng dương chưa tà.

Xuôi dòng nước Phù Hoa ghé tới
Đất An Đô chẳng đợi lâu đâu
Lừng danh lưỡng quốc Trạng Gầu
Lưu truyền tiết nghĩa thâm sâu gia đình.

Trong dân gian muôn hình vạn vẻ
Những chuyện xưa như kể chuyện nay
Lang thang khắp chốn quê này
Đôi dòng ghi lại sự hay nước nhà.

Tản Viên

Tôi nghe kể chuyện thánh Tản Viên
Lang Xương quê mẹ chốn thần tiên
Mười tháng sinh con bao khó nhọc
Nghìn năm vết đá dấu lưu truyền.

Ngọc Lĩnh mây bay tự bao đời
Thần truyền gậy trúc phép nơi nơi
Hiển hiện diệu kỳ trang sách ước
Bao trùm Hà Lạc khắp đất trời.

Ngũ hành bày trận chắn ngang sông
Thắng thủy Sơn Tinh thủa Lạc Hồng
Xuất Chấn đế vương trong chín cõi
Nguy nga Tây trấn chốn Đông cung.

Núi cao, sông rộng, đất xanh mầu
Công ơn vua Vũ biết bao sâu
Thống nhất Ba Vì, khai sử Việt
Linh thần bất tử mãi mai sau.

Trưng Triệu

Tôi viết bài thơ kể chuyện xưa
Đất nước lầm than dưới ách thù
Rên xiết dân đen đời nô lệ
Điêu tàn non nước biết bao thu.

Đầu voi Trưng nữ phất cờ vàng
Chị em khí phách thật hiên ngang
Một tiếng hô vang cùng bảy quận
Quyết dẹp giặc thù, phục giang san.

Dư sáu mươi thành thắng thu về
Áo mũ lên ngôi trọn câu thề
Sơn hà một dải không Hán tướng
Trời đất yên bình khắp chốn quê.

Xót thương hai vị lúc yên hà
Nghiệp lớn chưa tròn đã đi xa
Vó ngựa giặc Mông ầm kéo đến
Đất bằng lại nổi trận can qua.

Đồng trụ chia phân chốn Cửu Chân
Sống nên lương tướng, tử nên thần
Đô Dương ngăn Mã phương Nam tiến
Để tiếp Triệu Trinh dựng Tây quân.

Nối nghiệp anh hùng các nữ vương
Đông Ngô, Tây Thục vững phong cương
Hợp sức phá Tào nên chiến thắng
Máu thù nhuốm đỏ nước sông Đường.

Buồn cho con cháu giống Lạc Hồng,
Cha ông bất khuất giữ non sông
Thác xuống tuyền đài còn ôm hận
Bởi sử nghìn năm có biến không.

Phùng Hưng

Tôi nghe kể chuyện đức Phùng Hưng
Đường Lâm nghĩa dũng phất cờ hồng
Tiếp vận Mai Hoàng nêu chính khí
Phá Đường, Nam quốc tỏ phong công.

Nối bước tiền nhân diệt Lục Lâm
Tộc Mường, tộc Thái nổi phong vân
Mông Lễ thịnh hưng dòng rồng phượng
Đế truyền nghiệp lớn mấy trăm năm.

Lăng mộ nghìn thu cỏ biếc xanh
Trong thơ trong đá ẩn tinh anh
Ngưỡng như cha mẹ, thần thượng đẳng
Hiển linh hộ quốc mãi lưu danh.

Văn nhân góp ý:
Đại Mông và Đại Lễ là tên gọi khác của nước Nam Châu (Chiếu).
– Mông là ký âm Hán văn sai của từ Mường phiên thiết là Minh Đường, căn cứ vào tên gọi thì đây thực sự là 1 nước của người Việt sắc tộc Mường.
– Lễ là biến âm của Lỗ, nước vua Chu phong cho Chu công thời Xuân thu – Chiến quốc.

Đất nước tôi

Tôi viết bài thơ đất nước tôi
Gian nan từ thủa mới ra đời
Ngọn gió Động Đình ru ta lớn
Trăng chiếu sông Đường nước đầy vơi.

Trăm trứng mẹ sinh dòng Bách Việt
Diệt quái cha rồng mở biển khơi
Lang Thang dân tiến chinh phương Bắc
Văn minh Âu Lạc mãi rạng ngời.

Trông vời con nước nước sông Đà
Hình bóng Tản Viên thấp thoáng xa
Hồng thủy cơn xưa còn chưa dứt
Mà nay lại nổi sóng yên ba.

Vó ngựa giặc thù xéo giang sơn
Cưỡi voi ra trận ắp căm hờn
Một trận quyết vì non cùng nước
Xả thân vương nữ mấy ai hơn.

Văn hiến là đâu? Sử là đâu?
Trắng đen sao đánh lẫn đổi mầu?
Ngoảnh mặt phương Nam nhìn quê mẹ
Đau thương hồn Việt đã bao lâu?

Bước lên Nghĩa Lĩnh chốn cửu trùng
Linh anh tiên tổ các vua Hùng
Cho con cho cháu tâm trí sáng
Tìm lại cha ông giống Lạc Hồng.

Cổ Loa thành

Tôi nghe kể chuyện Cổ Loa Thành
Âu Lạc, Phong Khê chép sử xanh
Tùng bách Chiêu lăng lưu tích cũ
Sơn hà Thục quốc rạng thanh danh
Trời Tây thiên tử oai linh trấn
Đông Hải thánh thần thác gửi hình
Dẫu mất nỏ thiêng, sông núi đó
Ngàn thu cây tỏa bóng yên lành.

Bụi mờ

Trời cao lộng mà không soi tỏ
Lúc triều Lê chép sử nước nhà
Lầm lẫn sử Việt, sử Hoa
Thời Hùng Vương xếp vào là ngoại biên.
Giặc Mãn Thanh tràn miền đất Bắc
Cơn hồng thủy Tứ khố toàn thư
Đốt kinh, cạo sử, thu đồ
Cội nguồn Hoa Việt phủ mờ bụi xanh.
Nay con cháu hùng anh dòng dõi
Hướng về nguồn tìm cõi cha ông
Vạn năm văn hiến hay không?
Lặng im hay kể trống đồng Việt Nam?

Đại Việt khai quốc

Lòng phản trắc nhận danh trung nghĩa
Tướng Chu Ôn phế Lý lập Lương
Suy vi triều chính trung ương
Thi nhau các trấn xưng vương lập quyền.
Từ Tứ Xuyên tới miền Giang Khẩu
Tiền, Hậu Thục, Ngô, Sở, Kinh Nam
Ngô Việt, Mân Việt hai đàng
Vân Nam – Đại Lý, Nam Đường – Giang Tô.
Trên Lưỡng Quảng mở cờ Đại Việt
Lý Công Uẩn chí khí phi thường
Tiếp nối vỹ lược Hưng Vương
Đánh Khúc Thừa Mỹ, thu đường Giao Châu.
Đất La Thành còn lưu dấu vết
Lúc rồng bay dựng nghiệp thiên đô
Thăng Long mãi một cơ đồ
Nghìn thu lồng lộng màu cờ nước Nam.
Thời Tam quốc họ Hùng ba nước
Việt, Lý, Tống chiến cuộc liên miên
Khi Nùng xưng đế Quảng Nguyên
Khi Việt tái chiếm châu Liêm, Ung Thành.

Đoạn kết

Kể chuyện cũ, sử đan huyền thoại
Từ Tiên Nông canh cửi giáo dân
Khai quốc Hùng Vũ đế quân
Tiếp thời Nghiêu Thuấn muôn phần vẻ vang.
Kìa Đại Vũ núi san sông lấp
Kế Lạc Long mở khắp biển Đông
Trường Giang sóng nước mênh mông
Triều Ân Thương cũng là trong Việt Thường.
Ngẫm trời đất tròn vuông hun đúc
An Dương Vương Âu Lạc lập nên
Phong Châu này chốn thần tiên
Đây Chu thiên tử ở miền Văn Lang.
Hồn sông núi nước Nam còn mãi
Để hôm nay ta lại là ta
Xé mây, trời sáng bao la
Anh linh tiên tổ, hùng ca đời đời

Chống ngoại xâm

Giặc Kim Mãn hoành hành phương Bắc
Vó ngựa Nguyên dày xéo giang sơn
Tống hàng, Đại Lý mất luôn
Chỉ còn Đại Việt kiên cường kháng Mông.
Tiếng sát thát Diên Hồng vang tỏa
Mỏi chân bon ngựa đá ba phen
Quê cha đất tổ giữ yên
Chặn quân hung hãn xuống miền phương Nam.
Lửa lại cháy ngút ngàn đất Việt
Lũ giặc Minh tìm diệt văn minh
Đàn áp Làng Cả điêu linh
Tứ đại khí phá tan tành mới cam.
Nhánh tộc La núi Lam khởi nghĩa
Tiếp ý trời Lê Lợi dấy binh
Mười năm kháng chiến chống Minh
Bình Ngô đại cáo yên bình non sông.