Lâm Ấp và Giao Châu (phần 2)

Vào thời Hán Mạt, tại khu vực Giao Châu Đô Dương Khu Liên đã tiếp nối sự nghiệp của Nhị Trưng Vương, chặn Hán quân tại khu vực Tượng Lâm, là vùng đất nằm giữa Cửu Chân và Nhật Nam hay Quý Châu và Quảng Tây. Khu Liên có lẽ đã tử trận trong cuộc chiến này, nhưng cả một vùng đất phương Nam rộng lớn từ Nhật Nam đổ về đã thoát khỏi sự thống trị của Hán tộc.
Đối với vùng đất Lâm Ấp, nhà Hán thực hiện theo chính sách mà Lý Cố đề ra (Hậu Hán thư):
Quân ta ở Nhật Nam đơn chiếc và thiếu lương, giữ không được, đánh cũng không xong, chỉ có thể dời hết cả lại dân (người Trung Quốc) về Bắc để dựa vào Giao Chỉ. Việc yên rồi sẽ khiến trở về. Mộ người Man Di khiến họ tự đánh họ, lại chở vàng, lụa để tự cấp cho họ. Kẻ nào có thể phản gián, khiến giặc đầu thú được thì hứa thưởng bằng cách phong hầu cấp đất.
Nhà Đông Hán đã không thể đánh dẹp được những cuộc khởi nghĩa ở phương Nam, đành phải rút hết người Hán về, để quyền quản lý cho người bản xứ, chấp nhận phong hầu cấp đất. Chính tình thế này đã làm xuất hiện Sĩ Nhiếp ở Giao Châu.
Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ Sĩ Vương chép: Đinh Mão năm thứ 1 (187) (Hán Trung Bình năm thứ 4). Vương có 3 người em trai là Nhất, Vĩ và Vũ. Bấy giờ thứ sử Chu Phù bị giặc Di giết chết, châu quận rối loạn, vương (Sĩ Nhiếp) bèn dâng biểu cử Nhất làm thái thú Hợp Phố, Vĩ làm thái thú Cửu Chân, Vũ làm thái thú Nam Hải.
Thứ sử Chu Phù đã bị giết chết trong cuộc khởi nghĩa của Khu Liên. Anh em Sĩ Nhiếp nhân đó đã được phong nhận làm thái thú các quận của Giao Châu (Giao Chỉ, Nhật Nam, Hợp Phố, Cửu Chân, Nam Hải). Theo như chính sách mà Lý Cố đã đề ra thì có thể thấy anh em Sĩ Nhiếp là những người bản xứ, được phủ dụ phong hầu cấp đất tại Giao Châu. Năm 203 theo đề nghị của Sĩ Nhiếp, nhà Đông Hán đã buộc phải công nhận 7 quận phía Nam gộp lại thành Giao Châu, do Sĩ Nhiếp quản lý. Nhìn từ góc độ của người Việt ở phương Nam thì Sĩ Nhiếp chính là người đã tiếp quản nước Lâm Ấp của Khu Liên, dưới danh nghĩa chư hầu của nhà Đông Hán. Vì vậy mặc dù Sĩ Nhiếp không lên ngôi nhưng sử Việt vẫn gọi là Sĩ Vương và dành hẳn một kỷ trong sách sử cho thời kỳ này.
Trong khi đó nhà Đông Hán suy sụp sau khởi nghĩa Khăn Vàng của Trưng Trắc Trưng Nhị (Trương Giác, Trương Lương). Người Bách Việt ở Hoa Nam đã dành thắng lợi trước quân Hán ở khu vực Nam Trường Giang. Tôn Quyền dựng nên nước Ngô ở phía Đông. Anh em Lưu Biểu Lưu Bị làm nên nước Thục ở vùng Kinh Châu, Quý Châu và Ích Châu. Năm 210 Sĩ Nhiếp đem Giao Châu về với Ngô Quyền, được phong làm Tả tướng quân, rồi Long Biên hầu.
Truyền thuyết Việt lưu lại công đức của Sĩ Nhiếp dưới tên danh tướng Phạm Tu của Lý Nam Đế. Lý Nam Đế ở đây là Khu Liên, người khởi dựng nước Nam – Lâm Ấp. Phạm Tu cũng có các danh phong Tả tướng quân, Long Biên hầu. Sĩ Nhiếp mang họ Phạm vì sử sách cho biết người kế tục ở Lâm Ấp là cháu bên ngoại của Khu Liên họ Phạm.
Câu đối ở cổng đền thờ Sĩ Nhiếp tại thôn Tam Á, xã Gia Đông, Thuận Thành, Bắc Ninh:
豈忠義功神心祁彼何辰此何辰安得六百載遺容能攝林邑
是事業文科舉昔治亦進乱亦進最矩四十年政策拯表交州
Khởi trung nghĩa công thần tâm kì, bỉ hà thì thử hà thì, an đắc lục bách tải di dung năng nhiếp Lâm Ấp.
Thị sự nghiệp văn khoa cử tích, trị diệc tiến loạn diệc tiến, tối củ tứ thập niên chính sách chửng biểu Giao Châu.
Dịch:
Há tấm lòng công thần trung nghĩa lớn, đây thời nào đấy thời nào, yên ổn sáu trăm năm khoan dung ấy giúp quản Lâm Ấp.
Là thi cử văn khoa sự nghiệp xưa, trị cũng tiến loạn cũng tiến, quy củ bốn mươi thu chính sách kia cứu tỏ Giao Châu.
Với ân đức của Sĩ Nhiếp duy trì yên ổn Giao Châu trong 40 năm trong vòng vây của quân Hán và dưới thời Ngô, Sĩ Nhiếp còn được dân gian tôn thần, trở thành vị thành hoàng của thành Thăng Long. Thần Long Đỗ thực ra là danh phong Long Độ đình hầu của Sĩ Nhiếp. Vị thần sông Tô Lịch là Phạm Tu hay Phạm Tô, cũng chính là Sĩ Nhiếp.
Sĩ Nhiếp trở thành một vị thủy thần, bảo hộ cho thành Thăng Long. Hơn nữa Sĩ Nhiếp còn là người tác lập nên tục thờ Tứ pháp, đứng đầu là Pháp Vân (thần Mây) ở khu vực Luy Lâu cũ (Bắc Ninh – Hưng Yên). Phạm Tu Sĩ Nhiếp cũng là vua Mây họ Phạm ở đất Đằng Châu (Hưng Yên).

Me DauBan thờ Sĩ Nhiếp ở đình Mễ Đậu, Việt Hưng, Văn Lâm, Hưng Yên.

Trong khi ở phía Đông Giao Chỉ Sĩ Nhiếp nắm quyền cai quản thì ở phía Tây, trên các khu vực miền núi Mường Mán, người lãnh đạo lúc này là Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch là dòng dõi của nhà Triệu Nam Việt, sau khởi nghĩa của Trưng Vương họ Lữ không thành, vẫn hoạt động ở các khu vực miền núi Tây Bắc, Lào và Thanh Nghệ như trong Truyện Nam Chiếu chép:
Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà. Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn, là những xứ vắng vẻ không người. Khi bộ hạ đông đúc họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu.
Không rõ Mạnh Hoạch có tham gia trong khởi nghĩa của Khu Liên hay không, nhưng chắc chắn khu vực Tây Bắc Việt vẫn bất phục Đông Hán từ trước. Phải mãi tới khi Vũ Hầu Gia Cát dẫn binh xuống và dùng chính sách chiêu dụ thì Mạnh Hoạch mới phục tùng nhà Thục, nhưng vẫn giữ quyền tự trị ở phương Nam.
Tộc phả họ Phạm Công ở Quảng Ngãi cung cấp những thông tin rất xác đáng về thời kỳ này: Cuối đời Hùng Duệ Vương con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân – Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái Châu (Bình Trị Thiên) và Trung Châu (gọi là xứ Lâm Ấp) – tức là Nam Trung Bộ ngày nay.
Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 TCN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 TCN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa (xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).
Đời Hùng Duệ Vương ở đây có thể hiểu là thời Vương Mãng. Vương Mãng nghĩa là vị vua cuối cùng (Mãn) của họ Hùng (người Bách Việt). Cuối thời Tân của Vương Mãng là thời Đông Hán. Phạm Duy Minh trong tộc phả này là Đằng Châu Sĩ Nhiếp Phạm Tu. Lý Thành là đại diện cho nước Nam Triệu ở vùng Tây Bắc, hay Mạnh Hoạch. Vùng Nam Trung Bộ do con của Sĩ Nhiếp là Phạm Duy Hinh vào trấn thủ. Cả 3 khu vực này đều bắt đầu từ nước Lâm Ấp của Khu Liên khởi dựng trước đó, có quan hệ mật thiết với nhau, cùng là đồng minh chống Hán.

Lam Ap Tam quoc

Lâm Ấp thời Tam quốc.

Câu đối ở đình Mễ Đậu (Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên) về Sĩ Nhiếp:
於北朝當吳蜀之衝保全一境
衍南海以孔孟之道徳澤千秋
Ư Bắc triều đương Ngô Thục chi xung, bảo toàn nhất cảnh
Diễn Nam Hải dĩ Khổng Mạnh chi đạo, đức trạch thiên thu.
Dịch:
Đối đầu Ngô Thục ở Bắc triều, giữ vẹn toàn cảnh sắc
Lấy đạo Khổng Mạnh truyền Nam Hải, thấm công đức ngàn thu.
Sĩ Nhiếp, vị tướng họ Phạm đã kế tục sự nghiệp của Khu Liên tại Lâm Ấp không thể bị lãng quên. Mối liên hệ Giao Châu và Lâm Ấp rất gắn bó trong thời kỳ này.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s