Chuyện trầu cau

Tôi nghe kể chuyện miếng trầu cau
Tình cảm gia đình mãi đậm màu
Tân, Lang, Lưu thị đều trọn nghĩa
Anh em, chồng vợ chết vì nhau.

Dưới trời cao vút ngọn cây cau
Quấn quít xanh xanh cánh lá trầu
Đá vôi vị nồng từ lòng đất
Trầu nhai cho nước hóa đỏ màu.

Nước đỏ có phải nước Hồng Bang?
Xích Quỷ – Quẻ Ly, đất của Lang
Câu chuyện trầu cau lưu truyền mãi
Ngàn năm têm đậm nghĩa xóm làng

Hùng Ninh

Tiếp nghiệp cha Ninh Vương Cơ Phát
Hội chư hầu chinh phạt Ác Lai
Lên ba Thánh Gióng anh hài
Tung hoành ngựa sắt, khiếp oai giặc thù
Đốt Lộc Đài ù ù lửa khói
Dứt nhà Ân để nối nhà Chu
Bạch kỳ lồng lộng trời thu
Thừa Văn Lang – vua mười ba triều Hùng
Đây đất nước trùng trùng điệp điệp
Bốn phương trời đẹp tuyệt non sông
Văn Lang, Âu Lạc rạng hồng
Vòng quay Hà Lạc trống đồng ngàn năm
Chu hoàng đế tôn Văn, xưng Vũ
Dời Phong Châu, trấn giữ Cảo Kinh
Phân phong an định dân tình
Tề – Tây, Yên – Bắc, Sở – Kinh, Lỗ – Lào
Ngô cùng Việt tiếp giao bờ biển
Tấn với Tần phương cóng xa xăm
Hiếu sinh mở đức nhà Ân
Vũ Canh được giữ đất phần An Huy.
Tam Thúc giám để nguy xã tắc
Chống mệnh trời nghịch tặc kết binh
Chu Công vâng lệnh triều đình
Dẹp quân phản loạn, đắp thành Cổ Loa
Một thể chế Trung Hoa đất nước
Móng Kinh Qui lại được giao truyền
Cao Lỗ, Thục Phán lưu tên
Chu Dịch, Tông Pháp đặt nền văn minh.

Hùng Việt

Kìa một thuở biển đầy sóng gió
Ngọn triều dâng khắp chốn thành sông
Trắng trời nước ngập mênh mông
Cuốn băng nhà cửa ruộng đồng lúa ngô
Cửa Long Môn đắp bờ khơi suối
Nước càng cao, dựng núi càng cao
Vượt bao vất vả gian lao
Dân theo Hùng Việt quản nào thiên tai
Ba dòng tộc chung vai gắng sức
Nghi, Minh, Long nên bức Ba Vì
Sa Pa bãi đá khắc ghi
Liên Sơn dịch phép diệu kỳ ngàn xưa
Biển Đồ Sơn bao mùa vẫn nhắc
Hội chư hầu đủ khắp bốn phương
Nước non nên lúc thịnh cường
Triều thứ tám đức Tản Viên rạng ngời
Còn đâu đó dấu thời mở nước
Vết Phùng Nguyên, Đại Vũ Sơn Tinh
Quốc gia, dân tộc thành hình
Dứt thời sơ sử, chuyển mình vươn cao.

Hùng Tạo

Loạn Quốc Nhân bỏ kinh trốn chạy
Chu Lệ Vương lưu Trại Hòa Bình
Vua tàn bạo, dân điêu linh
“Cộng hòa hành chính” lập thành thay vua.
Lửa Ly Sơn trò đùa tai quái
Mua nụ cười mà hại đến thân
Bao Tự mê hoặc hôn quân
U Vương thác loạn, Khuyển Nhung phá thành.
Thế nước yếu hoàn kinh Cổ Lũy
Chu Bình Vương về lại Phong Châu
Tấn Tần tranh bá chư hầu
Sở, Tề, Tống đổi thay màu Xuân Thu.
Đông Chu nối Tây Chu thiên tử
Triều mười tư Hùng Tạo Quân Lang
Chiến Quốc máu chảy tràng giang
Xương chất thành núi, tiếng than dậy trời.
Muốn cứu đời thánh nhân Khổng Tử
Dốc lao tâm khổ tứ viết kinh
Thư, Thi, Dịch, Lễ, Nhạc thành
“Vạn thế sư biểu” tôn vinh đời đời.
Rạng rỡ thay một thời cổ sử
Mấy ngàn năm còn tỏ trời Đông
Văn minh đúc mặt trống đồng
Hướng về tiên tổ, nhận dòng anh em.

Thơ Đường

Thơ Đường ai biết có từ đâu
Là của Việt Nam hay của Tàu?
Bằng trắc thanh âm reo tựa nhạc
Ngôn vần câu chữ khéo thay nhau
Hồn thơ Đỗ Phủ như còn mãi
Vận nước Lý Uyên trải dãi dầu
Vạn vật xoay vần trong quá khứ
Chén trà nay bữa ngẫm nông sâu.

Hùng Định

Lặng lặng im mà nghe chuyện cũ
Tráo nỏ thần Trọng Thủy bội ân
Quốc Tây cự tráng Chân Đăng
Nhà Chu dứt, nối nhà Tần lập nên.
Diệt sáu nước Đinh Tiên Hoàng đế
Lấy Lạc Dương chia Quế, Tượng, Tam
Xua quân Ngô Việt qui hàng
Chiếm vùng Hà Sáo, vượt sang Hoàng Hà.
Nước Vỹ Thủy chảy ra biển lớn
Đất nhà Tần khắp bốn phương trời
Phân chia quận huyện rạch ròi
Trung Hoa thống nhất vào thời Chân Lang.
Thứ mười lăm triều Hùng Cồ Việt
Xây Trường Thành làm kiệt sức dân
Xa đồng trục, thư đồng văn
Chôn Nho, đốt sách oán ân để đời.

Ai oán Mỵ Châu

Tôi nghe ai oán chuyện Mỵ Châu
Ngọc quí lầm gieo nước đục ngầu
Thân vàng sánh cùng loài lang sói
Nợ nước, tình nhà nỗi nỗi sầu.

Trọng Thủy – Sở Khanh kẻ bất nhân
Lừa dối Triệu Cơ đoạt nỏ thần
Bỏ vợ, đem con trai Triệu Chính
Phản vua, bội ước, dẫn quân Tần.

Lông ngỗng cô chiêu đánh dấu đường
Tấm lòng nhẹ dạ thật đáng thương
Đầu rơi dưới lưỡi gươm oan nghiệt
Máu chảy thành châu đáy đại dương.

Cổ Luỹ còn đâu hỡi Thục Vương?
Bạo tàn giặc chiếm đất Văn Lang
Ngàn năm nghiệp mất Chu thiên tử
Đớn đau này lúc vượt trùng dương.