Tản mạn Cổ Loa

Nghimon

Nghi môn đền An Dương Vương ở Cổ Loa

Hai câu đối về Chiêu lăng nằm ở mặt trong của nghi môn đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa:

Chiêu lăng tùng bách kim hà xứ

Thục quốc sơn hà thượng cố cung

Vì sao đền An Dương Vương lại gọi là Chiêu lăng? Đền thờ này còn gọi là đền Vua Chủ. Thành Cổ Loa gọi là thành Chủ. Chiêu, Chủ có phải là Chu không?

Một chuyện lạ là An Dương Vương được biết là người “nước ngoài” đến thay thế triều Hùng. Nhưng trong văn hóa khảo cổ không hề có dấu tích nào về sự thay đổi này. Những hiện vật khảo cổ đào được quanh Cổ Loa, được gán vào thời đại An Dương Vương. Nhưng những trống đồng, tên đồng, cày đồng này rõ ràng là của văn hóa Đông Sơn thời Hùng Vương. Không có gì phân biệt. Ngoài Cổ Loa ra thì chẳng còn chỗ nào có hiện vật khảo cổ thời An Dương Vương cả.
An Dương Vương là một giai đoạn “lập quốc” quan trọng, một thời đại đánh thắng hàng vạn quân Tần ở thời thịnh nhất của nhà Tần, một huyền sử dài nhất trong các huyền sử đời Hùng. Thế mà lại chẳng để lại dấu tích gì rõ ràng. Chỉ có thể nói “chồi Âu Lạc mọc lên từ gốc Văn Lang”. Nói vậy thì đã cho An Dương Vương cũng chính là một vị Hùng Vương. Và như vậy thì An Dương Vương không chỉ tồn tại trong khoảng vài chục năm mà ít nhất phải ứng với một nền văn hóa khảo cổ lớn trên đồng bằng sông Hồng. Nền văn hóa đó không gì khác là văn hóa Đông Sơn với những đồ đồng như đã đào được ở Cổ Loa.

Ở am thờ Mỵ Châu có một bài thơ rất hay đề trên bảng gỗ:
Hoàng thành đoạn kính thảo ly ly
Vãng sự thương tâm bất khả ty
Tần Việt nhân duyên thành oán ngẫu
Sơn hà kiếp vận đáo nga my
Quyên đế cố quốc sương thiên mộ
Châu dựng hàn lưu bích hải chi
Thần nỗ điếu minh hà xứ khứ
Ngộ nhân đáo để thị kim qui.

Dịch (Đỗ Văn Hỷ):
Thành hoang khuất khúc xanh rì cỏ
Việc cũ đau lòng biết hỏi ai
Tần Việt nhân duyên thành cập oán
Non sông vận kiếp tới mày ngài
Quyên kêu nước cũ trời sương muộn
Trai nở dòng băng biển biếc hay
Mờ mịt nỏ thần đâu biệt mất
Rùa vàng lẫm lỡ tới ai đây.

Chỗ đáng chú ý ở đây là cụm từ Tần Việt. Nếu là dùng như thành ngữ thì hơi khó hiểu vì ít thấy ai dùng thành ngữ “Tần Việt” để chỉ duyên trai gái và thành ngữ này từ đâu ra (điển tích gì)? Người ta dùng “duyên Tấn Tần” vì Tấn và Tần nằm cạnh nhau. Tần và Việt thời Chiến Quốc thì quá xa, làm sao thành “nhân duyên” được?

Còn nếu Tần Việt là nghĩa đen thì rõ ràng chỉ Mỵ Châu là Việt, và Trọng Thủy là… Tần. Tần chứ không phải Triệu.

Tứ trụ triều đình của An Dương Vương thờ ở Cổ Loa:
1. Phương chính hầu Trần Tự Minh – Thái sư
2. Cao cảnh hầu Cao Lỗ – thái sư phụ quốc
3. Hữu thừa tướng Lý Ông Trọng
4. Trung tín hầu Vũ Bảo Trung

Nếu Cao Lỗ là Chu Công thì Trần Tự Minh có thể là … Quân Trần, vị toàn quyền kế nghiệp Chu Công cai quản Lạc Dương. Tục thờ Trần tử như đã thấy còn có ở chùa Hương Sơn và am Trang Vương ở Hà Tĩnh.

Bài thơ Khối tình con của Tản Đà:
Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân
ái nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi móng
Lông ngỗng thiếp đưa
đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ
Việc quân vương
Duyên nợ tình kia
dở dở dang
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng
Nghìn
thu khói nhang.

Tôi nghĩ là thành ngữ “Kẻ Việt người Tần” chính là từ
chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy.

Theo PGS. TS Phạm Minh Huyền
(http://www.tin247.com/khong_the_phu_nhan_su_ton_tai_cua_trieu_dai_an_duong_vuong-8-21239730.html):

Trên trống đồng Cổ Loa, mặt trong cũng có khắc chữ Hán… Đặc biệt trên một trong những khuôn đúc mũi tên đồng, đã phát hiện được 2 chữ theo lối chữ Hán. Một chữ đã đọc được là chữ “Thần” với nghĩa là “thần dân”, còn một chữ không đọc được… Các chuyên gia Trung Quốc cho biết là 2 chữ này có niên đại sớm nhất là thời Chiến Quốc và muộn nhất
là thời Tây Hán
“.
Các chuyên gia Việt Nam thì cho rằng những chữ Hán trên trống đồng Cổ Loa là chữ… Tàu nên thường không đưa dẫn chứng này ra khi nói về trống đồng. Có lẽ cũng còn có những đồ đồng Đông Sơn khác có chữ Hán thời Chiến Quốc nhưng không được công bố. Nếu trống đồng đã là của Việt thì chữ trên đó rõ ràng cũng là chữ Việt. Điều này thật khó tin, nhưng càng khẳng định sử thuyết Hoa Hạ là Việt.

Đạm Nhĩ Chu Nhai

Sau khi Lộ Bác Đức chiếm Nam Việt, nhà Tây Hán chia đất Nam Việt thành 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Uất Lâm, Nhật Nam, Hợp Phố, Nam Hải, Thương Ngô, Đam Nhĩ và Chu Nhai. Hai quận Đam Nhĩ và Chu Nhai được định vị là đều nằm ở đảo Hải Nam ngày nay. Nhưng… đảo Hải Nam cách đây không lâu cũng mới là một huyện đảo của tỉnh Quảng Đông, liệu vào đầu Công nguyên có được bao nhiêu dân mà lập tới 2 quận? (Văn nhân)

Mở đầu bài minh Mộ Chí tiến sĩ Thái Đình Lan của Lâm Hào đời nhà Thanh soạn:
Miền Chu Nhai hoang phục xa xôi, đất Quỳnh Sơn tích học, khởi nghiệp. Tường Kha vùng sông hẻo lánh, Doãn Trân giỏi kinh truyện mà danh tiếng xa truyền. Nhờ khôn linh hun đúc mà biết địa mạch rộng dài. Nhân văn tuỳ khí vận mà sinh, ấp ủ lâu tất hào kiệt đột phát, phải đâu thời tục có thể cản ngăn, tự phát tiếng kêu cho người đời kinh hãi! Ta đã thấy điều đó ở Thu Viên tiên sinh.
Thu Viên tiên sinh là Thái Đình Lan, tiến sĩ người Bành Hồ – Đài Loan, đã từng bị nạn thuyền lưu lạc sang Việt Nam thời vua Minh Mạng. Trên đường từ Việt Nam về ông đã viết tác phẩm Hải Nam tạp trứ, một tài liệu ghi chép về tình hình Việt Nam lúc đó còn lưu tới nay.
Trong bài minh trên cho thấy rõ quê của Thái Đình Lan Bành Hồ – Đài Loan được gọi là miền Chu Nhai. Như vậy Chu Nhai là đất Phúc Kiến xưa chứ không phải ở đảo Hải Nam.

Bài thơ Cư Đam Nhĩ (Ở Đam Nhĩ) của Tô Đông Pha thời Tống có câu:
Cửu từ nam hoang ngô bất hận
Tư du kỳ tuyệt quán bình sinh
Dịch nghĩa
Chín chết phương nam ta không hận
Chuyến này kỳ tuyệt nhất bình sinh

Chuyện Tô Đông Pha bị đi lưu trú ở Đam Nhĩ cũng được Nguyễn Trãi nhắc đến trong bài Tặng con cháu ba họ: Khổng, Nhan, Mạnh dạy học ở Thái Bình:
Nhân sinh thập lự cửu thường quai
Thạnh thế thùy tri hữu khí tài
Pha lão tích tằng Đam Nhĩ khứ
Trường Canh diệc hướng Dạ Lang lai.

Dịch
Nghĩ mười, sai chín người đời
Bỏ quên tài lúc thịnh thời biết không
Lão Pha, Đam Nhĩ đã từng
Trường Canh cũng phải hướng vùng Dạ Lang.

Tuy nhiên khi xem đến tiểu sử của Tô Đông Pha thì lại thấy Tô Đông Pha do mâu thuẫn với Vương An Thạch đã bị chuyển đi lưu trú ở Hàng Châu (Triết Giang). Như vậy Đam Nhĩ có thể không phải ở đảo Hải Nam mà chính là tỉnh Triết Giang ngày nay.

Nếu Đam Nhĩ và Chu Nhai thời Tây Hán là Phúc Kiến và Triết Giang thì đất của Nam Việt Triệu Đà phải là toàn bộ vùng Nam Dương Tử.  Không biết ai đó đã cố ý ép 2 quận lớn ven biển này vào hòn đảo Hải Nam hoang vu, mục đích rõ ràng để dấu đi qui mô của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng trên vùng Hoa Nam.

Mã Viện khi đánh Hai Bà Trưng đuợc phong là Phục Ba tướng quân, tức là danh hiệu của Lộ Bác
Đức nhà Tây Hán khi tiêu diệt nước Nam Việt của Triệu Đà. Chỉ danh hiệu này cũng cho thấy qui mô của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không kém gì Triệu Đà xưng đế Nam Việt xưa.

Nam Giao

Với sự giải thích của Tàu và của không ít “nhà khoa học” Việt Nam, Giao Chỉ nghĩa là dân tộc có 2 ngón chân cái bành ra, giao chạm nhau. Họ dẫn chứng ở Quảng Bình ngày nay vẫn còn những người như thế… Nhưng cũng ở đấy bố mẹ thì đúng là ngón chân giao nhau, nhưng con cái lại không. Họ
giải thích là do “gen lặn” (?). “Lặn” gì mà mới đời bố sang đời con đã hiện ra? Chẳng qua con cái người dân tộc bây giờ được ra ngoài xuôi ăn học, không phải leo núi nữa nên ngón chân bình thường như bao người khác.


Nếu Giao Chỉ là tộc người có ngón chân giao nhau thì Nam Giao là gì? Ngón chân phía Nam chạm vào nhau chăng (!?).
Trong khi đó cả Giao Chỉ và Nam Giao là những địa danh có từ thời Thái cổ. Hoa sử chép vua Nghiêu “… mệnh Hy thúc trạch Nam Giao…”, nghĩa là đã cho ông Thuấn đi mở cõi Nam Giao. Vậy Nghiêu Thuấn ở đâu mà biết đến Nam Giao?

Câu đối ở đền Hùng:
Khải ngã Nam Giao Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc
Hiển vu Tây thổ Tản Lô nhất đái thọ tân từ

Dịch nghĩa
Khởi nơi Nam Giao, Hồng Lạc nghìn năm là đất đế vương
Hiển linh Tây Thổ, Tản Lô một giải chốn miếu đền.

Câu đối nói tớiHồng Lạc khởi Nam Giao, hay vua Hùng dựng nước khởi đầu ở cõi Nam Giao.

Khi vua Minh Mạng cho rước bài vị Hùng Vương về thờ ở Huế có làm bài thơ đặt trên chính điện Thái Hoà:
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng Bang khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu

Câu “
Nam phục nhất Đường Ngu” đã đánh đố nhiều bậc nho giả. Chẳng nhẽ Đường Nghiêu và Ngu Thuấn lại đi mở nước Nam cho Hồng Bàng người Việt?
Hai tư liệu trên đều cho thấy Nghiêu, Thuấn chính là những đời vua Hùng, đã mở nước Hồng Bàng ở ngả Nam Giao. Nam Giao là Bắc Việt và một phần Quảng Tây ngày nay…

Động Đình Hồ

Câu đối ở Lăng mộ Hùng Vương ở đền Hùng:
Vân ám Động Đình Long chắc dạng
Nguyệt khuê Lĩnh Biểu Hạc qui tiên
.

Dịch nghĩa (Vũ Kim Biên):
Mây phủ Động Đình Rồng xuất thế
Trăng soi Nghĩa Lĩnh Hạc qui tiên
.

Cáí khó hiểu ở đây là Hùng Vương dính dáng gì đến “Động Đình” mà theo sử hiện nay cho là ở … tận đầm Vân Mộng bên Trung Quốc.

Vấn đề khác là Động Đình hồ này lại gắn liền với xuất rồng (Long). Ở đền thờ Lạc Long Quân (cũng ở khu vực đền Hùng – Phú Thọ) cũng có một câu đối tương tự nói tới Động Đình. Đầm Vân Mộng là hồ nước nằm trong đất liền, làm sao có “rồng xuất thế” được? Khi Rồng xuất thì phải là mây mưa, sấm chớp nổi lên. Cảnh này chỉ có ở vùng biển nhiệt đới mà thôi.
Nếu giải nghĩa “Động” là tính chất của phương Đông trong Dịch lý (chính xác phải là phương Động). “Đình” có nghĩa là to lớn (“To như cái đình”, “Nổi đình nổi đám”). Thì Động Đình Hồ là hồ lớn phía Đông, hay là Biển Đông.
Biển Đông cũng là nơi xuất rồng. Rồng hay Rung (tiếng Hán thành Lung) cùng nghĩa với Động. Rồng là con vật biểu trưng của phía Đông.
Lạc Long Quân nghĩa là vua của dân Lạc và dân Long. Dân Lạc ta đã biết ở trên (Hùng Lạc) là phần phía Tây của Bắc Việt ngày nay (Nam Giao). Dân Long là nền văn hóa khảo cổ Hạ Long, vùng ven biển Đông. Theo truyền thuyết Việt mẹ Lạc Long Quân là con gái Động Đình Quân ở chốn Bồng Lai… Từ Bồng Lai cho phép ta liên tưởng tới vịnh Hạ Long, di sản văn hóa thế giới ngày nay.
Ta còn có Hạ Long nghĩa là … vua Hạ. Không phải là rồng hạ cánh xuống mà chính là đất quê của nhà Hạ. Lạc Long Quân chính là Hạ Khải (Khải = Khởi), người khởi đầu nhà Hạ trong Hoa sử…
Chuyện ghép Hồ Động Đình vào đầm Vân Mông là vô lý, dẫn đến kết cục Lạc Long Quân của Việt sinh ra ở bên Tàu. Động Đình là tên của Biển Đông xưa chứ không phải biển… Nam Hải.

Nghĩa của từ Triệu

NamViettrieuto-2

Những hoành phi câu đối ở đền Hùng như những thông điệp ẩn chứa từ xưa để lại, nếu suy nghĩ có thể thấy khá nhiều điều.

Trước hết nói về bức hoành phi Triệu Tổ Nam bang ở đền Trung. Chữ “Triệu” theo từ điển ngày nay nghĩa là “gây, phát sinh, mở mang”, hay đều là động từ cả. Nhưng nếu là động từ thì không thể nào dịch được câu trên, chẳng nhẽ là “Mở mang tổ gốc nước Nam”?
Để động từ thì không đúng cách trình bày của hoành phi, vì tất cả các hoành phi khác đều là cụm danh từ. Sách ở đền Hùng dịch là “Tổ muôn đời của nước Việt Nam”, rõ ràng là không sát nghĩa vì ép từ “triệu” thành “muôn đời” (triệu đời?), làm gì có chữ “đời” nào ở đây đâu.
Cách hiểu chính xác hơn thì “Triệu” nghĩa là “Chúa”, một nghĩa cổ của từ này, nay không còn dùng. Triệu Tổ Nam Bang nghĩa là “Chúa tể (tổ) nước Nam”, nghĩa rất rõ ràng.

Ở đền Thượng còn có bức hoành phi “Triệu Cơ vương tích“. Tương tự nếu dịch “triệu” ở dạng động từ thì câu này không thể dịch nổi vì vừa “mở nền móng” (Triệu Cơ) đã có dấu tích (vương tích). Cũng sách ở đền Hùng dịch là “Dấu tích nền móng đầu tiên của vua“, nghe quá gượng ép và tối nghĩa.
Phải hiểu “Triệu Cơ vương tích” là “Dấu tích của vua chúa họ Cơ“. Họ Cơ là họ của nhà Chu. Đền Thượng theo
truyền thuyết là của Hùng Vương thứ sáu sau khi thắng giặc Ân lập nên. Thắng giặc Ân thì rõ ràng là nhà Chu.
Đền Thượng được gọi là Cửu trùng thiên điện hay Kính thiên điện. Dịch Cửu trùng thiên điện thành điện trên chín tầng trời thì không chính xác. Cửu trùng là cách xưng hô đối với vua (cửu trùng = trùng cửu = trường cửu). Cửu trùng thiên điện là điện Kính thiên, đồng nghĩa.
Họ Cơ cũng là họ của Hiên Viên Hoàng Đế. Hiên Viên là vua nước Hữu Hùng, tức là vua Hùng khai quốc. Hoàng Đế là Ngọc Hoàng thượng đế, tức là “thiên”, ông trời của phương Đông. Vua chúa Trung Hoa xưa xưng là “thiên tử”, ý nói mình là con cháu của Hiên Viên, hay con cháu họ Hùng. Việc vua xưng là thiên tử có lẽ chỉ bắt đầu từ thời
Chu. Trước đó Hạ, Thương, Ân chưa thấy xưng thiên tử cho dù đã có không ít nước chư hầu. Nguyên nhân như đã biết: nhà Chu cùng họ với Cơ với Hoàng Đế.

Núi Nghĩa Lĩnh trước khi Hùng Vương lập điện Kính thiện thì đã có đền thờ thần lúa với hạt lúa khổng lồ ở trên đỉnh. Trên đền Thượng còn có câu đối bắt đầu là “Thần thánh khải Viêm Bang…“, tức là nói đến Viêm Đế Thần Nông.
Ở núi Nghĩa Lĩnh còn có tích Thục Phán sau khi được Hùng Vương nhường ngôi, cảm ơn công đức của Hùng Vương nên đã lập cột đá thề, thề trung thành với họ Hùng. Chuyện này thật khó hiểu vì làm gì có chuyện nhường ngôi một cách dễ dàng như vậy, lại là sau khi Hùng Vương vừa đánh thắng Thục Phán. Và Thục Phán cùng Hùng Vương có dây mơ rễ má thế nào mà Thục Phán lại thề trung thành với họ Hùng?
Nay nếu nhìn theo góc độ Thục Phán chính là Cơ Phát, người đã đánh nhà Ân diệt vua Trụ (Hùng Vương) thì ta hiểu rõ ý nghĩa của cột đá thề. Đó là cột đá thề trung thành với quốc tổ Hùng Vũ và là biểu tượng khi Cơ Phát lên ngôi “thiên tử” – con cháu vua Hùng.

Tóm lại có thể hiểu lịch sử cả cụm di tích đền Hùng như sau: Cơ Phát với sự giúp đỡ của Phù Đổng thiên vương diệt được giặc Ân (đánh Trụ) về Phong Châu (đất của Cơ Xương) lên núi Nghĩa Lĩnh, nơi trước đó là đền thờ Thần Nông, lập điện kính cáo trời đất (Kính thiên điện – đền Thượng), lập cột đá thề trung thành với họ Hùng (với quốc tổ Hùng Vũ Hiên Viên), rồi lên ngôi xưng là “thiên tử” Chu.