Con Rồng cháu Tiên ở… Myanmar

Myanmar là một quốc gia Phật giáo nổi tiếng với những ngôi chùa tháp, tượng Phật vàng khổng lồ và các dấu chân, xá lợi Phật như ở các thành phố Yagon, Mandalay … Thế nhưng ở Myanmar vẫn không khó nhận ra một lớp văn hóa bản địa truyền thống, không phải Phật giáo hay Ấn Độ giáo, mà lại là những nét văn hóa rất… Việt.
Trước hết phải nói về người Karen, là nhóm dân tộc tới nay vẫn còn dùng trống đồng ở Myanmar. Người Karen sống tập trung ở 2 bang Kayah và Kayin, là dân tộc lớn thứ ba của Myanmar, chiếm 7% dân số của nước này. Thực tế về nhóm người ở Myanmar dùng trống đồng có thể làm cho nhiều người phải ngỡ ngàng đặt câu hỏi, vậy những người dân này có liên hệ thế nào với nền văn hóa trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam?

Trong dong Myanmar 1

Trống đồng ở Myanmar.

Trống đồng Karen thuộc loại trống đồng loại Heger III có trang trí là hình mặt trời ở trung tâm và nhiều vòng tròn đồng tâm với các mô típ chính là cá và chim. Trên mặt trống ở 4 góc là hình những con cóc chồng lên nhau, thường là 3 tầng. Do đó, loại trống này còn gọi là trống cóc (frog drum).
Trống đồng là nhạc cụ được người Karen rất coi trọng, sử dụng trong các buổi cúng lễ để gọi hồn tổ tiên về chứng giám các đám cưới, đám tang, mừng nhà mới hay để xua đuổi tà ma. Người Karen cũng tin rằng trong trống đồng có các linh hồn ngự trị nên họ cất giữ trống cẩn thận và phải làm lễ cúng trống nếu mặt trống bị thay đổi biến dạng.

Hinh tren trong dong Myanmar

Hoa văn trên trống đồng Myanmar.

Người Karen cũng thường để các đồ quý giá trong trống đồng và chôn cất ở nơi kín đáo, tin rằng đó là những của mà sau khi họ chết sẽ đem theo. Tục chôn trống đồng cùng với người chết cũng từng gặp ở người Karen, cho những thủ lĩnh của bộ tộc.
Trống đồng còn là biểu tượng của sự giàu có và quyền lực đối với người Karen. Thậm chí bang Karenni (một bang nhánh của người Karen trước đây) dùng hình ảnh mặt trống đồng làm biểu tượng trên lá cờ của mình.

Co KarenniCờ của người Karenni.

Người Karen có truyền thuyết nói rằng họ xuất phát từ một vùng “sông cát bay” (river of running sand). Người ta cho rằng đó là nói tới sông Hoàng Hà ở Trung Quốc. Nhưng với nền văn hóa trống đồng sâu sắc vẫn còn tới nay như vậy thì người Karen không thể nào khởi nguồn từ vùng sông Hoàng Hà được. Nhóm dân tộc này chắc chắn có khởi nguồn ở khu vực văn hóa trống đồng tại Đông Nam Á. Vùng “cát bay” ở “Trung Quốc” cổ đại có thể là vùng miền Trung Việt vì nước Việt cổ chính là Trung Hoa.
Một nhóm người Karenni được biết đến nhiều nhất là nhóm người cổ dài Kayan, nổi tiếng bởi tục đeo các vòng đồng ở cổ. Những người phụ nữ Kayan quấn các vòng đồng quanh cổ từ khi còn nhỏ. Có truyền thuyết cho rằng những chiếc vòng cổ này là tượng trưng cho cổ rồng.

Nguoi Kayan

Phù điêu phụ nữ người Kayan với những chiếc vòng đồng trên cổ, cổ tay và cổ chân.

Người cổ dài Kayan không chỉ đeo các vòng đồng ở cổ mà ở cổ tay, cổ chân họ cũng đeo những chiếc vòng này. So sánh thì tục đeo vòng ở cổ tay cổ chân rất tương đồng với những chiếc vòng đồng trong văn hóa Đông Sơn.
Tín ngưỡng của người Kayan cho rằng dân tộc mình được hình thành do kết quả sự kết hợp giữa mẹ rồng (a female dragon) và cha tiên (a male angel). Họ được sinh ra từ một trong những quả trứng của rồng. Truyền thuyết khởi nguồn này của người Karen chỉ rõ mối liên hệ nguồn gốc trực tiếp với người Việt cổ, cùng là dòng giống Rồng Tiên, dùng trống đồng, vòng đồng.
Trong truyền thuyết Việt, Cha Tiên lấy Mẹ Rồng là chuyện Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình. Phải chăng người Karen là một nhánh tộc từ thời mở sử Việt này đã di cư về phía Tây?

4-1463545283_1200x0

Vòng ống chân ở di chỉ Làng Vạc, Nghệ An (Ảnh internet).

Hình tượng rồng trong văn hóa Myanmar tới nay còn rất phổ biến. Các bức chạm khắc gỗ hình rồng, hình chim phượng được dùng để trang trí khách sạn, công sở, gia đình ở nhiều nơi. Hình rồng còn dùng trong tạo hình các giá đỡ cho các bộ cồng chiêng. Cồng chiêng cũng là nhạc cụ và văn hóa phổ biến ở Myanmar.
Doi rong

Chạm gỗ hương hình rồng đỡ cồng ở Myanmar.

Con rồng ở Myanmar còn biến thể thành một loài linh thú đầu sư tử, sừng và chân hươu, vòi và ngà voi, thân và đuôi cá, cánh chim. Biểu tượng linh thú này dùng phổ biến trong các trang trí chùa đền, ngai vàng… ở Myanmar.

Cong chieng MyanmarHình mẫu một bộ giá cồng chiêng với linh thú dạng rồng ở Myanmar.

Một liên hệ khác của tộc người tại Myanmar với lịch sử Việt là nhóm người Shan. Người Shan ở Myanmar thuộc nhóm Tai-Kadai, là dân tộc lớn thứ hai ở nước này, chiếm 9% dân số. Bang Shan là bang có diện tích rộng nhất Myanmar, nằm ở phía Đông của nước này.

Ban do dan toc Myanmar

Bản đồ phân bố các nhóm dân tộc ở Myanmar
(Màu đỏ là nhóm Karen. Màu xanh xám là nhóm Shan).

Người Shan thuộc nhóm Tai Luang hay Tay Yai (Thái Lớn). Hiện người ta cho rằng người Shan di cư đến từ Vân Nam từ trước thế kỷ 10. Đối chiếu lịch sử các quốc gia Đông Nam Á có thể nhận ra rằng bang Shan chính là 1 trong 7 “chiếu” hình thành dưới thời Khun Borom hay Bố Cái đại vương Phùng Hưng ở thế kỷ 8. Khun Borom là vị vua đầu tiên khởi dựng nước Nam Chiếu dưới thời nhà Đường và được coi là ông tổ của người Thái Lào.
Theo sử Thái – Lào thì một hoàng tử của Khun Borom là Khun Lok Klom đã được cử tới Muang Hongsa (Mường Hồng Sa?) thuộc đất Myanmar ngày nay. Nguồn gốc của người Shan như thế không phải từ Vân Nam mà là từ vùng Tây Bắc Việt Nam vì Khum Borom đầu tiên lập thủ phủ ở Mường Then, nay là Điện Biên của Việt Nam.

Bang Shan

Vị trí 7 chiếu dưới thời Khun Borom (Nam Chiếu).

Kiến trúc của người Shan còn để lại đáng kể những cụm di tích với hàng ngàn ngôi tháp tương đối nhỏ thờ Phật tại khu Indein cạnh hồ Inle hay ở thủ phủ Shan tại Taunggyi. Những trang trí trên các tháp này khá tương đồng với người Chăm ở Việt Nam, với nổi bật các hình chim và nét cong như tượng người chim (Kinnari), hình chim công, hình vũ nữ… Những trang trí tương tự có thể thấy trên các kiến trúc thời Lý Trần cùng thời ở Việt Nam.
Kinnari

Trang trí người chim và chim vẹt trên mái một ngôi tháp ở Indein, cố đô của tộc Shan.

Như thế 2 nhóm dân tộc lớn thứ hai và thứ ba của Myanmar là Shan và Karen đều có mối liên hệ với người Việt. Có thể coi nhóm Karen là dòng giống Rồng. Còn nhóm Shan là giống Tiên (Chim), là 2 nhánh của một nền văn hóa cổ con Rồng cháu Tiên xưa.

Rong phuong

Chạm gỗ Rồng – Phượng ở Mandalay.

Phù Đổng Thiên Vương và nhà Chu

Lời tiếm bình Việt Điện u linh của tiến sĩ thời Lê là Cao Huy Diệu chép “Hương, Bổng, Đổng, Đằng là bốn vị tối linh của nước ta”
Câu đối ở chính điện đền thờ Thánh Dóng tại làng Phù Đổng (Gia Lâm, Hà Nội):
神威古及今文郎國四最靈之右
壯烈南而北武寧部一大定之功
Thần uy cổ cập kim, Văn Lang quốc tứ tối linh chi hữu
Tráng liệt Nam nhi Bắc, Vũ Ninh bộ nhất đại định chi công.
Dịch:
Oai thần từ trước tới nay, nước Văn Lang tứ linh chưng giúp
Oanh liệt trong Nam ngoài Bắc, bộ Vũ Ninh nhất định đây công.
Câu đối này cho biết Phù Đổng thiên vương là một trong Tứ linh của nước Văn Lang. Đây là ghi chép thứ 2 ít ỏi về bộ Tứ linh thần nước Nam còn lưu lại tới nay. Phù Đổng thiên vương là 1 trong Tứ linh chứ không phải trong bộ Tứ bất tử. Ở các nơi thờ Thánh Dóng đều không hề có tư liệu cổ nào nói Thánh Dóng là thần bất tử.

p1060322Thủy đình ở đền Phù Đổng.

Câu hát phường Ải Lao trong lễ hội Phù Đổng:

Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hai tám tướng cường nữ Nhung
Xâm cương cậy thế khoe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh.

Vào ngày lễ hội này 28 cô gái trẻ đóng làm 28 tướng Ân, đối địch với Thánh Dóng. Thông tin từ sự tích của làng Phù Đổng hoàn toàn phù hợp với thời Ân Thương. Thời kỳ này nhà Ân còn đang trong giai đoạn chế độ mẫu hệ. Phụ nữ làm tướng chỉ huy quân đội nhà Ân điển hình như trường hợp nữ tướng Phụ Hảo dưới thời Ân Vũ Đinh đã cầm quân đánh nước Quỷ Phương.

phuong-dong-thoi-an
Một chiếc phương di đồng thời Ân Thương có minh văn tìm thấy ở Việt Nam.

Sự xuất hiện của phường hát Ải Lao trong lễ hội Phù Đổng đánh đố các nhà nghiên cứu, vì không ai hiểu Thánh Dóng đánh giặc Ân thì liên quan gì tới nước Lào hay nước Chăm ở đây. Ý kiến cho rằng đây là phường hát do Lào hoặc Chăm cống tiến xem ra không hợp lý vì cần biết rằng các bố trí, lễ tục trong hội Phù Đổng đều mang tính biểu trưng rất cao. Không thể có chuyện cả một “đạo quân” lớn của Thánh Dóng trong lễ hội lại chỉ là hàng “nhập khẩu” để hát cho hay.
“Đạo quân” Ải Lao là biểu tượng hoàn toàn xác thực cho quá khứ lịch sử khi nhận ra rằng Ai Lao Di là tộc người ở Vân Nam, Quý Châu. Ai Lao thiết Âu, là phần đất Âu trong nước Âu – Lạc đã cùng tham gia với Thánh Dóng đánh giặc Ân. Biểu tượng của phường Ải Lao là ông Hổ. Hổ cũng là con vật thiêng được người Ai Lao Di ở Vân Nam Quý Châu thờ.
Đền Thượng ở xã Phù Linh, Sóc Sơn, nơi tương truyền Thánh Dóng cởi áo giáp bay lên trời trong hậu cung có 7 bức tượng thờ.  Có tài liệu chép rằng 7 bức tượng này là gồm: Phù Đổng Thiên Vương, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Nữ Oa Bộ Thiên, Na Tra Thiên Tử, Tả Xiên Xiên Lực Sĩ, Hữu Vạn Vạn Tinh Binh.
Vu Điền quốc vương phải chăng là vua đất Điền? Điền quốc là một nước từng tồn tại ở vùng Vân Nam, chính của người Ai Lao Di hay Di Lão xưa.
Đặc biệt tư liệu trên nói tới Na Tra thiên tử. Na Tra là nhân vật được biết đến trong truyện Phong Thần, là nhân vật đã theo Khương Thái Công và Chu Vũ Vương diệt Trụ.
Phù Đổng Thiên Vương sự tích diễn âm cũng chép lời của Thánh Dóng:
Vốn ta nay thái tử Na Tra
Vị Hùng Vương loạn quốc gia
Khâm sai đế mệnh dẹp trừ Ân binh.
Na Tra cùng với Thánh Dóng đánh giặc Ân. Vậy đây phải là cuộc chiến lịch sử của Trung Hoa khi nhà Chu diệt Ân Trụ Vương.
Thần tích đền Phù Đổng có đoạn:
Thiên Vương thao trận khiến quan quân giặc Ân toán loạn, bèn giết Ân Vương ở dưới Chu Sơn…
Thiên vương đánh tan giặc Ân, vứt tre trên ruộng tại xã Nghiêm Xá, huyện Quế Dương. Tre ở đây sau này rất xanh tốt, có thần miếu gọi là miếu Tam Giang đại vương.
Làng Nghiêm Xá nay ở thị trấn Phố Mới (Quế Võ, Băc Ninh) là nơi thờ đức thánh Tam Giang. Đức thánh là người ở xứ Ngõ Đông, thôn Đống Cải. Cha mẹ sinh được hai anh em… Khi hai người đang đập đất trên đồng thấy Thánh Dóng đuổi giặc chạy qua liền vác vồ đi theo và lập công lớn…
Ta chú ý tên thánh là Tam Giang đại vương.
Cùng với làng Phù Đổng mở hội còn có làng Lệ Chi Nam (Lệ Chi, Gia Lâm, Hà Nội). Hội ở làng Lệ Chi Nam gọi là hội Phù Dóng. Theo thần tích thì làng Lệ Chi Nam thờ một vị tướng quân thời Hùng Vương tên là Bùi Duy Trí. Ông là người giỏi võ nghệ nên được vua cho chỉ huy một đạo quân lớn. Khi giặc Ân kéo quân vào chiếm đất Châu Sơn thuộc bộ Vũ Ninh vua Hùng phong cho Bùi tướng công chức Đô Thống, thống lĩnh đại quân đi đánh giặc Ân. Sau nhiều trận đánh ác liệt, quân của vị tướng họ Bùi vẫn không thắng nổi quân giặc hung ác… Khi Thánh Dóng ra trận, tướng Đô Thống cho tập trung tất cả binh mã tại làng Lệ Chi rồi tiến về phía núi Châu Sơn cùng Phù Đổng tham chiến… Sau khi mất vị tướng này được phong là Tam Giang đại vương, hiệu Châu Đô Thống.
Các thần tích trên đã cho những cái tên quan trọng trong chuyện này là Châu Đô Thống, Châu Sơn và Tam Giang. Châu đây là chỉ nhà Châu hay Chu, triều đại đã đánh diệt nhà Ân. Châu Đô Thống nghĩa là tướng thống lĩnh quân đội nhà Chu. Châu Sơn ở bộ Vũ Ninh ghép thành Chu Vũ Vương. Cơ Phát trước khi lên ngôi thiên tử có tên là Ninh Vương. Nhân danh Châu Đô Thống và địa danh Châu Sơn chính là tên gọi của nhà Chu còn lưu lại mãi tới ngày nay trong truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương.
Tam Giang ở đây là vùng đất của nhà Chu vì khi Tần Thủy Hoàng lập quận huyện đã lấy đất của Đông Chu lập thành quận Tam Xuyên. Tam Xuyên = Tam Giang. Tam Giang là nơi 3 con sông lớn hội tụ Đà, Lô, Thao tại ngã ba Việt Trì. Tam Giang xưa chỉ vùng Bắc Bộ Việt, là phần Lạc trong nước Âu – Lạc.
Như thế trong truyền thuyết về Phù Đổng thiên vương có đủ Ải Lao – Tam Giang hay Âu – Lạc, là 2 khu vực khởi phát chính của nhà Châu – Chu khi Ninh Vương Cơ Phát phát động các chư hầu làm cuộc tổng tấn công Trụ vương.
Câu đối ở đình Chi Nam (Lệ Chi, Gia Lâm, Hà Nội):
鐵馬出神威朱粵山頭天古頌
金旗揚將略白騰海口萬年聲
Thiết mã xuất thần uy, Chu Việt sơn đầu thiên cổ tụng
Kim kỳ dương tướng lược, Bạch Đằng hải khẩu vạn niên thanh.
Dịch:
Ngựa sắt tỏ thần oai, đầu non Chu Việt khen ngàn thủa
Cờ vàng nêu mưu tướng, cửa biển Bạch Đằng vọng vạn năm.
“Chu Việt sơn đầu” ở đây nói tới núi Chu – Châu Sơn, là nơi Châu Đô Thống đánh giặc Ân. Núi Châu Sơn là ngọn núi đã được kể trong Truyện Giếng Việt của Lĩnh Nam chích quái, nơi vua Ân tử trận, có miếu thờ, cột đá buộc ngựa… Cuộc chiến mà vua Ân tử trận thì chỉ có cuộc chiến của Vũ Vương Cơ Phát nhà Chu dẹp Trụ Vương mà thôi.

img_0043
Núi Châu Sơn nhìn từ hồ Phùng Dị.

Núi Châu Sơn ở Vũ Ninh rất có thể như vậy là nơi hội quân ban đầu của Vũ Vương trong cuộc chiến phạt Ân Trụ Vương, đánh dấu sự thay đổi triều đại Trung Hoa từ Thương sang Chu. Nhà Chu được gọi chính xác trong câu đối trên là Chu Việt. Người đời sau không hiểu gọi thành núi Trâu Sơn, mất đi danh hiệu gốc của quốc gia thời Văn Lang – Âu Lạc trong đị danh này.
Câu đối khác ở đền Sóc Sơn:
天上降神鐵馬鐵韉朱粵動
水中顯聖金鎗金甲太原寒
Thiên thượng giáng thần, thiết mã thiết tiên Chu Việt động
Thủy trung hiển thánh, kim thương kim giáp Thái Nguyên hàn.
Dịch:
Thần xuống từ trời, ngựa sắt yên đồng rung Chu Việt
Thánh tỏ trong nước, giáo vàng giáp bạc lạnh Thái Nguyên.
Một lần nữa lại có cụm từ Chu Việt. Chu Việt chỉ rõ quốc danh nước Việt thời Thánh Dóng là Chu. Nước Văn Lang của Vũ Vương nhà Chu (Vũ Ninh) ban đầu như vậy gồm 2 phần Âu và Lạc, được gọi trong truyền tích Phù Đổng Thiên Vương là Ải Lao và Tam Giang.

Cao Biền và Trang Nghị đại vương trên đất Thái Bình

Năm 1985 ở khu vực chợ Quài (Thái Hà, Thái Thụy, Thái Bình) Bảo tàng Thái Bình đã tiến hành đào một miệng giếng cổ và phát hiện hàng trăm viên gạch mang dòng chữ Giang Tây quân 江西軍. Giang Tây quân là gạch loại gạch của Tĩnh Hải quân thời Đường, mà Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân đầu tiên là Cao Biền. Đây cũng là loại gạch được tìm thấy ở lớp gạch dưới cùng trong Hoàng thành Thăng Long và một số thành cổ khác như thành Hoa Lư (Ninh Bình), thành nhà Hồ (Thanh Hóa).
Theo nhận xét của đoàn khai quật khu vực này tập trung đậm đặc loại gạch trên ở trong khoảng đất dài khoảng 1000m, rộng từ 50-100m. “Di tích khảo cổ Thái Hà – Thái Phúc cao, hẹp, dài, án ngữ cửa Kỳ Bố và cửa Đại Toàn… Rất có khả năng đây là một công trình quân sự phòng thủ ven biển…”.

Thai Binh

Gạch Giang Tây quân ở Thái Bình.

Ở chùa Phúc Lâm của thôn Phúc Tiền (Thái Phúc, Thái Thụy, Thái Bình), cũng là nơi phát hiện loại gạch Giang Tây khi nhà chùa đào đất lấy cát sau chùa. Cùng với những viên gạch Giang Tây quân này nhà chùa còn đào được 1 hũ tiền Khai Nguyên thông bảo, tức là tiền mang niên hiệu Khai Nguyên (713-741) của vua Đường Huyền Tông. Tiền Khai Nguyên thông bảo là loại tiền được dùng phổ biến trong suốt thời nhà Đường. Chùa Phúc Lâm do đó có thể là một trạm hoặc kho quân dụng trong tuyến phòng thủ ven biển dưới thời Đường.
Trong khuôn viên chùa Phúc Lâm nay còn một ngôi đền nhỏ thờ thành hoàng làng. Trước đây đình Phúc Tiền (Thái Phúc) theo Danh mục thần tích thần sắc Thái Bình có thờ tướng quân Cao Biền. Sau đình bị phá nên nhà chùa mang các đồ thờ về dựng một ngôi đền nhỏ để tiếp tục thờ.
Câu đối ở đền thờ thành hoàng trong chùa Phúc Lâm:
文物彬彬地是前東材舊邑
宫庭飭飭歲在己未春新修
Văn vật bân bân, địa thị Tiền Đông tài cựu ấp
Cung đình sức sức, tuế tại Kỷ Mùi xuân tân tu.
Dịch:
Văn vật mộc mạc, đất ở Tiền Đông nơi ấp xưa
Cung quán nghiêm trang, năm tại Kỷ Mùi xuân mới sửa.
“Văn vật” ở đây phải chăng nói tới những viên gạch có chữ Giang Tây quân?

IMG_6915Đền thờ thành hoàng ở chùa Phúc Lâm (Phúc Tiền, Thái Thụy, Thái Bình).

Những viên gạch Giang Tây quân và tục thờ Cao Biền tại Thái Phúc đã xác nhận đây là một điểm đồn binh quan trọng của Cao Biền trên đất Tĩnh Hải. Thần tích của một nơi khác ở Thái Bình đã kể lại rõ ràng diễn biến của việc này. Đó là thần tích về Trang Nghị đại vương ở Hoa Dương (nay là xã Thái Phương, Hưng Hà, Thái Bình). Hoa Dương xã thần tích chép như sau:
Giữa Đời Đường Hàm Thông đời vua Ý Tông lại cử Yêu Vệ tướng quân Cao Biền: ông họ Cao húy là Biền, cháu của Cao Sùng, con của Cao Luân, mẹ người họ Lý vốn người ở Quảng Đông, gia truyền làm thầy địa lý tinh thông, đời nối đời làm quan. Vào thời Đường, thay quan chức Tù trưởng bằng chức Đô hộ Tổng quản Kinh lược Chiêu thảo sứ tướng quân tất phải trao cho Cao Biền. Cao Biền khấu tạ (vua Đường) đem quân ra đi, tới cửa biển làm lễ cầu đảo trời đất, rồi lệnh cho hơn 5 vạn tinh binh xuống thuyền ra đi từ cửa biển thuận buồm xuôi gió hứng khởi ngâm một vần thơ:
Ba quân lẫm liệt xuất trùng quan
Vạn dặm sóng cồn vạn dặm an
Tự hồng mao chẳng nề sống thác
Thờ vua nợ nước dám từ nan?
Vừa khi đi tới địa đầu huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam, có một ngày đi qua địa đầu trại Yến Liên, sau đổi là trang Hoa Dương, ở đó có một con sông nhỏ.
Đoạn trên trong thần tích tại Hoa Dương kể rất rõ việc Cao Biền xuất quân từ bên phương Bắc theo đường biển đổ bộ vào cửa biển nước Nam tại Thái Bình. Đó cũng là lý do để Cao Biền xây dựng một tuyến phòng thủ ven biển tại đây như đã thấy qua di tích gạch Giang Tây quân ở trên.
Đại Việt sử ký toàn thư chép về lần tiến quân này của Cao Biền:
Ất Dậu (865) (Đường Hàm Thông năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Biền trị quân ở trấn Hải Môn, chưa tiến. Giám quân là Lý Duy Chu ghét Biền muốn tống đi, nhiều lần giục Biền tiến quân. Biền đem hơn 5000 quân vượt biển đi trước, hẹn Duy Chu đem quân ứng viện. Biền đi rồi, Duy Chu cầm quân còn lại không đi. Tháng 9, Biền đến huyện Nam Định và Châu Phong, người Man gần 5 vạn đương gặt lúa, Biền đánh úp, chúng tan cả, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy lúa đã gặt để nuôi quân.
Như vậy việc đổ bộ của Cao Biền vào Nam Định (đúng ra là đất Thái Bình) của Châu Phong (có lẽ là Tĩnh Hải hay Giang Tây) là trận thắng đầu tiên của quân nhà Đường trước quân Nam Chiếu. Nhờ có trận thắng này mà lực lượng ban đầu của Cao Biền đã đứng vững trên đất Giao Châu.
Đoạn tiếp theo thần tích thôn Hoa Dương kể tại đây Cao Biền gặp 4 vị thần, tự xưng là tứ vị Lôi Đình (Lôi Oanh): một vị tên là Thanh Cung, một vị tên là Chàng Chiểu, một vị tên là Từ Kinh, một vị tên là Trang Nghị,… Vốn là thần nắm giữ gió mây sấm chớp, chăm chăm phụng mệnh trời giáng làm Thủy thần trông coi bốn phía phương dân, cai quản đất đai cảnh thổ.
Lại nói, bấy giờ ở đất Phong Châu có trên 5 vạn tên giặc Man vào xâm lấn bờ cõi. Viên quan dâng tấu vua Đường, vua sai quan truyền lệnh cho Biền công Thứ sử Giao Châu đem quân đi đánh Nam Chiếu (tức Ai Lao), Biền công lập tức điều quân đi đánh Nam Chiếu. Trong một ngày, quan quân vừa tới trang Hoa Dương, huyện Ngự Thiên phủ Tiên Hưng, Biền công ra lệnh cho quân đình trú ngự tại thần từ, kỷ đảo xin thần phù hộ cho quân đi đánh giặc đợi sau khi chiến thắng trở về, sẽ phong sắc cho thần là Thượng Thượng đẳng.
Sáng hôm sau ông bái yết thần từ, đề binh tiến thẳng tới Nam Chiếu đại phá giặc, chém đầu Chánh tướng và Tỳ tướng của chúng gồm 20 thủ cấp, thu hồi vũ khí, xe ngựa của chúng nhiều vô kể. Giặc tháo chạy tan tác chẳng biết đi lối nào hết. Từ đây thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự, Biền công làm sớ tâu lên vua Đường: giặc Man đã quét sạch cũng là nhờ công âm phù trợ của thần linh.
Vua ban sắc cho Tứ Vị Lôi Oanh là Thượng đẳng phúc thần để thần cùng được trường tồn với trời đất mà việc phụng thờ thần trở thành nghi thức muôn thuở vậy thay.
Cao Biền được nhà Đường cử sang An Nam để đánh dẹp giặc Nam Chiếu. Bước tiến quân đầu tiên của Cao Biền là dẫn quân đi thuyền vào đất Thái Bình. Tứ vị Lôi Oanh ở Thái Bình đã hiển linh phù trợ Cao Biền trong trận chiến này. 4 vị “thần sấm” này là ai mà lại trợ giúp Cao Biền đánh Nam Chiếu?
Xét các vị thủy thần của khu vực đất Thái Bình thì 4 vị thần này chỉ có thể là những người trong Ngũ vị tôn quan trong thần tích thờ vua cha Bát Hải Động Đình ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình). Nói cách khác, đây chính là những người anh em đã theo Lạc Long Quân (vua Hùng) đánh Thục, gây dựng nên triều đại cha truyền con nối đầu tiên của Trung Hoa. Vì là những vị thần có công đánh Thục ở phía Tây nên các vị này mới hiển linh giúp Cao Biền đánh giặc Nam Chiếu (Ai Lao – cũng là ở phía Tây).
Chữ Lôi là quẻ Chấn, chỉ hướng Đông. Hướng Đông là hướng biển (Động Đình), là hướng Bát (số 8 của Hà thư) trong tên Bát Hải Động Đình. Lạc Long Quân có nơi như ở làng Bình Đà (Hà Nội) còn được gọi là Pháp Lôi là với ý này.
Tứ vị Lôi Oanh còn gọi là Lôi Đình. Lôi là quẻ Chấn, tương đương với hướng Đông, tính Động. Lôi Đình = Động Đình. Tứ vị Lôi Đình là Ngũ vị tôn quan của Động Đình.
Xét tên của 4 vị Lôi Oanh ở Hoa Dương thì đây là 4 phương vị:
– Thanh Cung rõ nhất là hướng Đông vì Thanh, màu xanh là màu phương Đông.
– Chàng Chiểu là hướng Tây vì Chiểu – Chiêu – Chiều, hướng mặt trời lặn.
– Từ Kinh là hướng Bắc vì Kinh hay Canh là can chỉ phương Bắc (như trong kim La Kinh).
– Trang Nghị như thế phải là thần hướng Nam. Chưa hiểu liên hệ từ ngữ thế nào.
Địa danh Hoa Dương cũng có thể xuất phát từ “Hoa Đào trang”, là nơi lập nghiệp của vua cha Bát Hải Động Đình. Hoa – Hạ là tên của vương triều do Lạc Long Quân lập nên, xuất phát từ đất Thái Bình.
Trang Nghị đại vương là vị thần thời Hùng Vương, công thần lập quốc của Lạc Long Quân và là một trong 5 vị quan lớn của ban Công đồng trong Tứ phủ. Một vị cổ thần anh linh đã 4000 năm như vậy mà bị biến thành bố của Thái sư Trần Thủ Độ thì… con cháu quá to gan, chẳng mấy bữa các cụ hiển linh vặn cổ cho chẳng còn đường mà sống…

Triệu Vũ Đế và núi Trâu Sơn

Cuốn sách Nhà Triệu mấy vấn đề lịch sử do Trung tâm nghiên cứu văn hóa minh triết vừa mới xuất bản tập hợp một số bài nghiên cứu của các tác giả có tiếng hiện nay bàn về vai trò của Triệu Đà trong sử Việt với ý muốn công nhận nhà Triệu là một triều đại chính thống trong sử Việt. Các bài viết này dẫn luận khá nhiều thông tin và tư liệu thành văn, khảo cổ, tín ngưỡng dân gian. Trong số đó đặc biệt đáng chú ý là thông tin của Bảo tàng Bắc Ninh về tục thờ Triệu Đà ở tỉnh này.
Theo thống kê của các tác giả Nguyễn Văn An và Lưu Ngọc Thành trong sách này tại tỉnh Bắc Ninh hiện còn lưu giữ được các sắc phong thờ Triệu Vũ Đế ở 2 khu vực. Một là ở 2 làng Song Tháp và Đa Vạn ở thị xã Từ Sơn. Hai là ở 6 làng thuộc huyện Quế Võ là Hữu Bằng, Cựu Tự, Kim Sơn, Long Khê (xã Ngọc Xá), Châu Cầu, Thất Gian (xã Châu Phong). Các ngôi đình của 6 làng này trước đây thờ Triệu Vũ Đế và phu nhân Trình Thị làm thành hoàng làng, nay đều đã không còn. Duy nhất ở chùa Hữu Bằng (Ngọc Xá, Quế Võ) còn giữ được một bức tượng gỗ Triệu Vũ Đế, tuy đã bị hư hỏng khá nặng.

Huu BangChùa Hữu Bằng ở Ngọc Xá, Quế Võ, Bắc Ninh.

Thông tin về di tích thờ Triệu Đà ở Bắc Ninh như trên thoạt xem tưởng không có gì quan trọng so với các khu vực khác thờ Triệu Đà là Thái Bình (đền Đồng Xâm) hay Hưng Yên (đình Xuân Quan), nhưng đây lại thực là thông tin quý giá và mới mẻ về công nghiệp của Triệu Vũ Đế ở nước ta. Ở Thái Bình có nhiều di tích thờ Triệu Đà vì đó là nơi ông lấy vợ là hoàng hậu Trình Thị. Ở vùng Văn Giang – Hưng Yên có đền thờ Triệu Vũ Đế là vì đó là nơi ông từng đóng quân khi khởi nghĩa và thấy rồng bay lên (Long Hưng) trên sông Nhị Hà. Còn tại sao khu vực huyện Quế Võ lại từng có đậm đặc tục thờ Triệu Vũ Đế như vậy? Nơi này gắn với công nghiệp của vị đế vương đầu tiên của nước Nam Việt như thế nào?
Trước hết cần nhận ra rằng khu vực huyện Quế Võ (Bắc Ninh) chính là địa danh Vũ Ninh với núi Trâu Sơn, là địa danh hay được nhắc tới trong truyền thuyết Việt. Trâu Sơn nay gọi thành Châu (Châu Phong, Châu Cầu), nằm gần khu vực Lục đầu giang, trên tuyến đường quốc lộ 18 ngày nay. Đây là địa bàn rất thuận tiện cho việc giao thông cả thủy lẫn bộ, lại có núi đồi và sông nước, khá hiểm trở dễ cho việc ẩn náu, phòng thủ, tiến lui.
Về núi Trâu Sơn Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể:
Giếng Việt ở miền Trâu Sơn huyện Vũ Ninh. Đời vua Hùng Vương thứ ba, nhà Ân cử binh sang xâm chiếm nước Nam, đóng quân ở dưới núi Trâu Sơn. Hùng Vương cầu cứu Long Quân, Long Quân truyền đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ thì sẽ dẹp được giặc. Sóc Thiên vương ứng kỳ mà sinh, cưỡi ngựa sắt đánh giặc. Tướng sĩ nhà Ân đều bỏ chạy. Ân Vương chết ở dưới chân núi, biến thành vua ở địa phủ, dân phải lập miếu thờ, lâu năm suy dần đền miếu bỏ hoang.
Qua đời Chu tới đời Tần, có người nước ta là Thôi Lượng làm quan cho nhà Tần đến chức ngự sử đại phu, thường qua vùng này thấy cảnh suy tàn, chạnh lòng thương cảm, bèn sửa sang sang lạ đền miếu…
Sau các tướng Nhâm Ngao, Triệu Đà đem quân xâm chiếm phương Nam, đóng quân ở núi này.
Truyện kể Thôi Vỹ là con Thôi Lượng sau khi chữa bệnh cho Nhâm Ngao, ngã xuống hang tại núi Trâu Sơn, lạc vào Ân Vương thành, được Ân hậu tiếp đãi tiệc rượu…
Bỗng thấy có một người râu dài, bụng to tiến lên dâng biểu, quỳ xuống mà tâu rằng: “Ngày mồng 3 tháng giêng, người phương Bắc là Nhâm Ngao đã bị thần Xương Cuồng đánh chết”. Tâu xong, Hậu bèn nói: “Dương quan nhân hãy đưa Thôi công tử trở về trần thế”.
Ân hậu tiễn khách quay vào. Dương quan nhân bèn bảo Vỹ nhắm mắt, ngồi lên vai mình. Hơn một khắc sau đã đến tới đỉnh núi. Dương quan nhân biến thành một con dê đá đứng ở trong núi, nay con dê ấy còn ở sau chùa Việt Vương trên núi Trâu Sơn.
Đoạn trích này là dữ liệu cho biết khu vực núi Trâu Sơn từng có chùa thờ Triệu Việt Vương, tức là thờ Triệu Đà, hoàn toàn khớp với thông tin mà bảo tàng Bắc Ninh cho biết về tục thờ Triệu Vũ Đế ở vùng Quế Võ. Chùa Hữu Bằng (xã Ngọc Xá) nay còn tượng Triệu Vũ Đế có thể coi là ngôi “chùa Việt Vương” mà Truyện Giếng Việt đã nói tới.

Bia daHàng bia đá ở chùa Hữu Bằng.

Cũng Truyện Giếng Việt như trên cho biết Trâu Sơn là nơi mà hai tướng Nhâm Ngao và Triệu Đà đã đóng quân vào thời Tần. Nhiều thần tích khác cũng kể về việc Triệu Đà khi đánh nước Âu Lạc đã từng đóng quân ở Vũ Ninh. Như vậy nguyên do của tục thờ Triệu Đà ở đây là vì nơi đây từng là một nơi đồn quân quan trọng của Triệu Vũ Đế.
Tuy nhiên, vấn đề khó lý giải ở chỗ là chiếu theo chính sử thì Triệu Đà chưa từng sang miền Bắc nước ta bao giờ. Triệu Đà làm quan huyện Long Xuyên (ở Quảng Tây?), thay Nhâm Ngao ở Nam Hải (Quảng Đông?), rồi chiếm Quế Lâm, Tượng Quận lập nên nước Nam Việt. Mãi tới sau khi Cao Hậu nhà Hán mất, Triệu Đà mới “nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình” (Sử ký Tư Mã Thiên). Vậy tại sao lại có nhiều di tích của Triệu Đà ở Bắc Việt như vậy? Triệu Đà lấy vợ ở Thái Bình khi nào? Đóng quân ở Bắc Ninh khi nào? Thấy rồng bay lên ở Long Biên khi nào?
Di tích và tư liệu dân gian rõ ràng nói những điều khác so với cách giải thích của chính sử ngày nay về Triệu Đà. Những địa danh và những câu chuyện về thời khởi nghĩa của Triệu Đà đều nằm ở Bắc Việt. Nói cách khác, Triệu Đà vốn khởi nghĩa ở miền đồng bằng sông Hồng, chống lại nhà Tần. Đây là cuộc khởi nghĩa của người Việt kháng Tần như sách Hoài Nam tử đã chép:
Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người Tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư.
“Người Tuấn kiệt” được nói tới là Triệu Đà, chứ không phải An Dương Vương như sự “tưởng tượng” của các sử gia ngày nay. “Quân trưởng Tây Âu” đã bị giết rồi, làm gì còn An Dương Vương nào lúc này nữa.

Trau Son 2Núi Trâu Sơn nhìn từ quốc lộ 18.

Chuyện người Việt bỏ vào rừng, “đánh du kích” chống quân Tần là lời giải cho tục thờ Triệu Việt Vương ở núi Trâu Sơn. Trâu Sơn là điểm đóng quân phòng thủ rất thuận lợi như đã nói ở trên, là nơi mà Triệu Đà đã cầm đầu người Việt dựa vào thế sông núi vùng Lục đầu giang mà chống Tần.
Một liên hệ khác, Truyện Đầm Dạ Trạch cũng có thông tin liên quan tới Triệu Việt Vương ở núi Trâu Sơn:
… Đến đời tiền Lý Nam Đế, bọn nhà Lương đem quân sang xâm lược, vua Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục đem quân ẩn nấp trong đầm. Đầm sâu rộng lớn, bùn lầy, rất khó ra vào, Quang Phục dùng thuyền độc mộc, dễ bề đi lại, quân giặc khó biết tung tích ở đâu. Đêm đến dùng thuyền độc mộc lẻn ra đột kích, đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu…
… Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn lên ngôi lấy hiệu là Triệu Việt Vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh.
Triệu Quang Phục lên ngôi thay Lý Nam Đế thì phải đóng đô ở chốn phồn hoa đô hội, chứ sao lại vào núi Trâu Sơn làm gì? Ở đây phải hiểu là thành Trâu Sơn của Triệu Việt Vương vốn là căn cứ chống giặc từ khi khởi nghĩa chưa thành công. Mạnh dạn hơn, những chuyện Triệu Quang Phục ẩn nấp trong đầm, dùng thuyền lẻn ra đột kích, chính là chuyện Triệu Đà trú quân ở núi Trâu Sơn chống Tần.
Các tài liệu tới nay rất hay nhầm lẫn Triệu Quang Phục với Triệu Đà vì cả hai đều là Triệu Việt Vương. Ví dụ, cũng trong cuốn sách mới xuất bản đã dẫn ở đầu bài có đăng ảnh đình Phù Sa (ở Yên Mô, Ninh Bình) và ghi chú là đình thờ Triệu Đà. Thực tế là đình Phù Sa thờ Triệu Quang Phục, nằm trong hệ thống các di tích thờ vua Triệu này ở vùng cửa sông Đáy (cửa Đại Ác, nơi Triệu Quang Phục theo truyền thuyết đã tử tiết).
Câu đối ở đình Phù Sa:
兜鍪聖武興南李
獨木神兵走北梁
Đâu mâu thánh vũ hưng Nam Lý
Độc mộc thần binh tẩu Bắc Lương.
Dịch:
Đâu mâu võ thánh dấy Nam Lý
Độc mộc binh thần đuổi Bắc Lương.

Phu SaĐình Phù Sa ở Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình.

Sự nhầm lẫn này không phải ngẫu nhiên, mà thực ra chuyện Triệu Quang Phục chính là chuyện của nhà Triệu Nam Việt. Khởi nghĩa của Triệu Quang Phục vùng đầm Dạ Trạch là nói tới thủa ban đầu của Triệu Vũ Đế ở núi Trâu Sơn – Vũ Ninh. Sau đó, như đã biết, Triệu Vũ Đế chuyển quân về đóng ở Long Biên, nơi có di tích điện Long Hưng (Xuân Quan) ngày nay. Từ đó, đế nghiệp của họ Triệu bắt đầu hưng thịnh, với việc thấy rồng vàng bay lên trên sông Hồng.
Về đoạn sử này, Cổ Lôi ngọc phả truyền thư chép là Triệu Vũ Đế lúc nhỏ có tên là Nguyễn Thận, cùng với Chử Đồng Tử nương tựa vào nhau, mò cua bắt ốc ở bãi Tự Nhiên mà sống. Sau đó Nguyễn Thận gặp và đi theo Nhâm Ngao về Bắc. Chị ruột Nhâm Ngao lấy quan thái giám Triệu Cao, không có con, nên nhận Nguyễn Thận về nuôi, đổi tên thành Triệu Đà…
Đây là cách kể khác của phần đầu khởi nghĩa Triệu Đà – Triệu Việt Vương tại “đầm Dạ Trạch” (cùng nơi với Chử Đồng Tử) và liên quan đến Nhâm Ngao. Đầm Dạ Trạch của Triệu Việt Vương như thế không phải ở bãi Tự Nhiên (Long Biên) mà là ở Trâu Sơn – Vũ Ninh, nơi ngày nay còn ngôi “chùa Việt Vương” với tục thờ Triệu Vũ Đế tại huyện Quế Võ.

2017-08-24 (1)Vị trí các khu vực được nói tới liên quan đến Triệu Vũ Đế.

Tóm tắt lại phần khởi nghiệp của Triệu Đà ở đồng bằng sông Hồng: Triệu Vũ Đế người Chân Định (có thể là Chân Đăng, đời Trần là vùng Việt Trì – Phú Thọ như được tiến sĩ Phạm Sư Mạnh nói tới trong bài Tuần thị châu Chân Đăng), lấy vợ là bà Trình Thị ở Kiến Xương (Thái Bình). Sau đó tụ tập nhân dân Việt chống Tần ở vùng núi Trâu Sơn (Bắc Ninh). Khi Nhâm Ngao mất (bị thần Xương Cuồng vật chết) Triệu Đà tiếp vị trí của Nhâm Ngao ở Long Biên và bắt đầu cuộc khởi nghĩa kháng Tần thắng lợi.
Đây cũng chính là đoạn đầu khởi nghĩa của Lưu Bang trong Hoa sử. Lưu Bang người đất Phong (Phong Châu – Vĩnh Phú), lấy bà Lữ Trĩ (Trình Thị thiết Trĩ) ở đất Bái (Thái Bình phản thiết Bái). Một lần áp giải dân phu đi làm ở Lịch Sơn (Lịch Sơn là dãy núi giữa Tuyên Quang và Vĩnh Phúc ngày nay vẫn mang tên này), giữa đường dân phu bỏ trốn nhiều. Lưu Bang biết theo luật pháp nhà Tần quan áp giải để dân phụ trốn như thế sẽ phải chịu tội chết, nên đã thả hết dân phu và cùng nhau lên núi ẩn náu (núi Trâu Sơn – Vũ Ninh). Mười năm lẩn tránh trong núi, lấy cướp làm nghề (truyền thuyết gọi là đánh du kích ở đầm Dạ Trạch), chống đối lại nhà Tần.
Núi Trâu Sơn là địa danh Mang Đường nơi Lưu Bang tụ tập bè đảng ban đầu trong Sử ký Tư Mã Thiên. Nơi mà Lữ Hậu (Trình Thị) đã theo “khí mây” mà tìm đến với Lưu Bang.
Tới khi Tần Thủy Hoàng mất, viên huyện lệnh (Nhâm Ngao) đất Bái (lúc này là huyện Long Xuyên ở khu vực Long Biên – Từ Sơn) vì lo lắng loạn lạc nên theo lời Tiêu Hà cho mời Lưu Bang về trợ giúp. Sau đó viên huyện lệnh này lại đổi ý, dẫn tới việc nhân dân trong thành nổi dậy, giết Nhâm Ngao (Truyện Giếng Việt kể là bị thần Xương Cuồng vật chết), rồi tôn Lưu Bang làm thủ lĩnh (Bái Công). Lưu Bang chém con rắn trắng (truyền thuyết Việt chép là thấy rồng vàng bay lên ở Long Hưng), bắt đầu cuộc khởi nghĩa kháng Tần.
Rồng bay lên là lấy ý trong hào ngũ của quẻ Càn: Phi long tại thiên, chỉ việc thành nghiệp của bậc đế vương. Rõ ràng ý nghĩa của hình ảnh “Long hưng” sâu sắc hơn chuyện chém rắn như cách kể của Hoa sử.

Rong Phu SaRồng ở đình Phù Sa.

Chi tiết trong Cổ Lôi ngọc phả truyền thư chép Triệu Đà lấy họ theo Triệu Cao phải hiểu đây là Triệu Cao… Tổ, tức là Cao đế Lưu Bang. Lưu Bang trong sử Việt được chép là Lý Bôn. Triệu Quang Phục nối nghiệp của Nam Đế Lý Bôn, “hưng Nam Lý”. Triệu Quang Phục tức chính là các vị vua Triệu nước Nam Việt đã tiếp ngôi của Cao đế Lưu Bang ở miền Nam
Vấn đề Triệu Đà trong sử Việt nay nhìn nhận lại, không chỉ ở việc công nhận sự chính thống của triều đại này, mà cần làm sáng tỏ thân thế và sự nghiệp vị “Hưng đế” đầu tiên của nước Nam người Việt. Triệu Đà – Lý Bôn – Lưu Bang là một nhân vật sinh ra gặp cảnh loạn lạc, thời thế tạo anh hùng, đã buộc phải nắm lấy ngọn cờ khởi nghĩa, lật đổ nhà Tần, lập nên triều Hiếu huy hoàng của người Việt.

Quan hệ Sa Huỳnh – Lâm Ấp – Chămpa: nhận định của Sử thuyết Hùng Việt

Trong bài trích từ sách của tác giả Lâm Thị Mỹ Dung đã dẫn một số ý kiến của các học giả, chủ yếu là các nhà khảo cổ học, bàn về mối liên hệ giữa nền văn hóa Sa Huỳnh với quốc gia Lâm Ấp và Chămpa. Sau đây là một số nhận xét theo Sử thuyết Hùng Việt giúp giải tỏa những vướng mắc trong mối quan hệ phức tạp của giai đoạn hơn 1000 năm lịch sử phương Nam này.
Trước hết là các học giả đều nhất trí, với sức sản xuất của nền văn hóa Sa Huỳnh, không kém gì văn hóa Đông Sơn, thì khu vực này chắc chắn đã phải xuất hiện “Nhà nước”. Nhưng tại sao sử sách không hề ghi chép gì về một nhà nước nào đã tồn tại ở miền Trung Việt Nam vào thời kỳ trước Công nguyên (niên đại của văn hóa Sa Huỳnh)?

Chien Quoc

Vị trí các nước thời Chiến Quốc theo Sử thuyết Hùng Việt.

Sử thuyết Hùng Việt giải đáp rõ ràng câu hỏi này. Khu vực miền Trung Việt cũng như miền Bắc Việt vào thời kỳ Đông Sơn – Sa Huỳnh đã hình thành các nhà nước quân chủ với trình độ phát triển cao. Đây là thời kỳ mà Hoa sử gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc. Các nhà nước lúc này chính là các nước chư hầu của Trung Hoa, bao phủ trên toàn cõi Đông Nam Á. Cụ thể:
– Bắc Việt lúc đó là đất của nhà Đông Chu, nơi có thành Lạc Dương ở Cổ Loa của thiên tử Chu.
– Bắc Trung Bộ (Thanh Nghệ) và Tây Bắc – Lào là đất của nước Lỗ. Nước này vốn là đất phong của Chu Công Đán, quê hương của Khổng Tử, Lỗ Ban.
– Khu vực quãng từ Quảng Bình đến Nha Trang là đất của nước Yên, hoặc còn có tên khác là nước Cam. Cam = Chàm = Chiêm. Hoặc Cam Yên thiết Chiêm. Dấu vết của nước này là địa danh Cam Ranh – ranh giới phía Nam nước Cam. Hoặc trong cái tên An Chiêm mà Trần Nhân Tông từng gọi khi ông đi thăm khu vực Khánh Hòa. Nước này vốn là đất phong của Thiệu Công Thích, vị đại thần lập quốc của nhà Chu.
– Phía Nam của Cam Ranh là nước Phan với các địa danh Phan Rang (Phan Ranh), Phan Thiết… Sử cũ gọi là Phù Nam vì Phù Nam thiết Phan. Đây là nước không thấy nhắc đến trong thời Chiến Quốc, nhưng là đất phong của Tất Công họ Phan, vị quân chủ thứ 3 của Đông Đô nhà Chu. Sử Việt gọi là Phan Tây Nhạc.
Khoảng giữa thời kỳ Sa Huỳnh và Lâm Ấp các nhà khảo cổ biết rõ là có sự xen lẫn thời kỳ các hiện vật “Hán” phương Bắc. Tuy nhiên, sự xen lẫn này không phải bắt đầu vào thời Hán (dù là Tây Hán) mà trước đó 1 triều đại. Nhà Tần đã tấn công diệt Đông Chu từ năm 256 TCN dưới thời Tần Chiêu Tương Vương. Sau đó Tần Thủy Hoàng tiếp tục diệt các nước Lỗ và Yên ở phía Nam. Biên giới phía Nam nhà Tần khi thống nhất lục quốc đã tới miền “Bắc Hộ”, miền nhà cửa quay về hướng Bắc, tức là vùng Nam Trung Bộ Việt. Có thể Tần chưa chiếm tới vùng đất Phan ở xa hơn nữa về phía Nam.

Cac quan thoi TanCác quận cực Nam của nhà Tần.

Trên khu vực này Tần đặt ra các quận gồm:
– Lấy đất Đông Chu đặt thành quận Tam Xuyên hay Long Xuyên, là vùng Bắc Bộ Việt và một phần Quảng Tây.
– Nước Lỗ và một phần phía Bắc nước Yên xưa thành quận Lang Gia (Lang Gia thiết La = Lỗ).
– Hậu duệ nhà Chu được ân sủng đặc biệt của Tần đế, ban cho một vùng đất để sinh sống gọi là Đông Chu quân. Vùng đất này có thể chính là thành Châu Sa (Sa là thủ lĩnh, Châu = Chu) ở Quảng Ngãi.
Cũng vì khu vực Trung Bộ đã thuộc nhà Tần nên sang thời nhà Triệu vùng đất này thuộc luôn về đất của Nam Việt. Ta không hề thấy các vua Triệu cần phải đánh đấm gì ở phía Nam cả mà vẫn có vùng “Nhật Nam” sau đó ở Trung Bộ Việt. Các hiện vật khảo cổ khẳng định giai đoạn “thuộc Hán” hiện diện trên khu vực văn hóa Sa Huỳnh ở Trung Bộ.
Sang đến giai đoạn Lâm Ấp, có điểm quan trọng phải làm rõ. Các sử gia hiện tại đang hết sức sai lầm khi cho rằng Khu Liên khởi nghĩa và lập nước Lâm Ấp chỉ là khu vực Nam Trung Bộ. Chỉ cần điểm qua vài thông tin về khởi nghĩa Khu Liên cũng thấy sự thật không phải thế. Nơi Khu Liên khởi nghĩa được Thiên Nam ngữ lục chép là Tượng Quận. Các tài liệu khác gọi là vùng Tượng Lâm. Khởi nghĩa của Khu Liên đã giết cả thứ sử Giao Châu là Chu Phù. Như vậy Khu Liên không thể khởi nghĩa ở tận Nam Trung Bộ vì ở đó làm gì có Tượng Quận và làm gì có thứ sử Giao Châu nào ở tít trong đó. Khởi nghĩa Khu Liên thực chất nổ ra ở giữa vùng Tượng Quận – Quế Lâm, tức là từ đó đổ về Nam là đất của Lâm Ấp, bao gồm cả Giao Châu, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ.
Chỉ khi nhận ra điểm kết nối này thì mới giải thích được tính liên tục của văn hóa Sa Huỳnh sang Lâm Ấp. Toàn bộ khu vực phương Nam từ vùng Tượng – Lâm ở Quảng Tây kéo dài xuống tới miền Bắc Hộ xưa của nhà Tần là nước Lâm Ấp của Khu Liên. Khu Liên mất, lịch sử Lâm Ấp lúc này mới tách dòng. Ở phía Bắc (Giao Châu) người kế tục Khu Liên là Sĩ Nhiếp, được nhà Hán buộc phải công nhận là thứ sử Giao Châu 7 quận gồm cả vùng Quảng Đông, Quảng Tây. Phần Tây Bắc và có thể cả Bắc Trung Bộ thuộc một thủ lĩnh khác trong cùng liên minh Lâm Ấp là Mạnh Hoạch.

Lam Ap

3 phần của Lâm Ấp thời hậu Khu Liên.

Ở phần cực Nam của Lâm Ấp, Sĩ Nhiếp giao cho con của mình là Phạm Hùng cai quản. Tộc phả họ Phạm ở Quảng Ngãi chép là Đại lang Phạm Duy Hinh, con Phạm Duy Minh ở Đằng Châu (Giao Châu), làm vua cai quản tại thành Châu Sa – Quảng Ngãi.
Các nhà khoa học đã nhận định rất chính xác rằng Lâm Ấp ban đầu vốn là một quốc gia nói tiếng Nam Á, thuộc dòng Âu Lạc (xem bài đã dẫn của Lâm Thị Mỹ Dung). Bởi vì Lâm Ấp do Phạm Hùng cai quản hiển nhiên là dùng tiếng như ở Giao Châu (Phạm Hùng là con của Sĩ Nhiếp – Phạm Tu).
Một phát hiện gần đây cho biết Sĩ Nhiếp là một tu sĩ theo đạo Bà La Môn, thờ Tứ pháp, là đặc tính của thần Đế Thích – Indra trong Bà La Môn giáo. Khu vực mà Phạm Hùng cai quản do vậy cũng theo đạo này. Rất có thể cái tên Indrapura (chỉ phần đất/tộc người phía Bắc Chiêm Thành) là bắt nguồn từ tên thần Indra của Bà La Môn.
Sau khi Sĩ Nhiếp mất, Giao Châu thuộc về nhà Đông Ngô của Tôn Quyền. Hậu duệ của Sĩ Nhiếp bị Tôn Quyền phế bỏ. Với sự phát triển của dòng Thiền Phật giáo như Khương Tăng Hội ở Luy Lâu thì Giao Châu chuyển sang tín Phật. Trong khi đó khu vực còn lại của Lâm Ấp xưa ở Nam Trung Bộ do họ Phạm nắm giữ,  không thuộc Đông Ngô, vẫn tiếp tục truyền thống cũ của đạo Bà La Môn. Chỉ từ lúc này khái niệm Lâm Ấp mới dùng để chỉ riêng vùng Nam Trung Bộ Việt.
Họ Phạm ở Nam Trung Bộ sau đó nhiều lần tiến đánh đòi lại đất đai cha ông ở miền Bắc, cũng như mở rộng thêm các diện tích xa hơn về phía Nam. Lâm Ấp họ Phạm tồn tại mãi tới khi tướng Tùy là Lưu Phương dẫn quân tiến đánh năm 605 mới tạm chấm dứt. Cho tới lúc đó rõ ràng ngôn ngữ chính của Lâm Ấp là tiếng Việt – Nam Á.
Cần nói thêm rằng Nam Trung Bộ Việt là nơi hội tụ các ngôn ngữ của cả 2 dòng Nam Á và Nam Đảo rất sâu rộng. Ở đây (như trên Tây Nguyên) có thể bắt gặp các tộc người sống ngay cạnh nhau nhưng thuộc 2 nhóm ngôn ngữ khác nhau này. Đồng thời, tuy gọi là khác nhau nhưng mức độ hòa lẫn, giao thoa của các ngôn ngữ địa phương này lại rất lớn. Ngay tiếng Chăm ngày nay cũng có rất nhiều yếu tố Nam Á. Phải nói rằng Nam Trung Bộ là nơi xuất phát gốc của cả 2 dòng ngôn ngữ Nam Á và Nam Đảo. Vì thế, ở đây không thể hoàn toàn dùng ngôn ngữ để xác định lịch sử hay dân tộc được, khi không thể phân biệt đâu là Nam Á, đâu là Nam Đảo trong ngôn ngữ, ai là ngọn, ai là gốc.
Dù như thế nào thì từ góc nhìn của Sử thuyết Hùng Việt văn hóa Sa Huỳnh – Lâm Ấp – Chămpa là sự tiếp nối và phát triển liên tục. Chính sự phát triển theo tiến trình của lịch sử mới dẫn đến những phân hóa về dân tộc và ngôn ngữ như ngày nay. Nhưng tất cả tộc Chăm và Việt vốn đều cùng một nguồn gốc ban đầu. Vùng Trung Bộ Việt vốn là đất phong Lỗ, Yên, Tề, Phan của những đại công thần lập quốc của nhà Chu. Tức là tất cả cùng một bà mẹ Âu Cơ sinh Bách Việt dưới thời thiên tử Chu của thiên hạ Trung Hoa.

Chuyện Nam Chiếu trong sách An Tĩnh cổ lục

An Tĩnh cổ lục là một công trình khảo cứu địa phương Nghệ An – Hà Tĩnh của học giả người Pháp Hippolyte Breton, hiệu trưởng trường quốc học Vinh từ những năm 1920. Công trình này khác với cách viết các loại “địa chí” của nước ta trước đây ở chỗ nó áp dụng cách nghiên cứu liên ngành địa chất, lịch sử, văn hóa, khảo cổ trên những tư liệu thực tế ở địa phương và cho những nhận định khái quát tổng hợp khá thú vị.
H. Breton dẫn nhập cuốn sách của mình bằng cách nói về diễn biến địa chất của vùng bờ biển Nghệ Tĩnh, nhưng lại khai thác đối chiếu với các thông tin từ văn hóa dân gian. Sách viết: Kho tàng truyền thuyết Hán – Việt… chứng minh rằng tổ tiên của người An Nam và người Trung Hoa đã được chứng kiến những cuộc xâm chiếm của lãnh địa đối với lãnh hải, hiện tượng mà người ta phải đặt vào đầu thời hình thành các đồng bằng duyên hải của Trung Quốc và của An Nam.
H. Breton đã đề cập đến truyền thuyết Nữ Oa, con của Viêm Đế bị chết đuối ngoài biển, hóa thành chim Tinh Vệ ngậm đá từ núi Tây bay sang lấp biển Đông (Tinh Vệ hàm thạch hay Tinh Vệ điền hải trong Sơn hải kinh).
Như thế, ngay từ đầu tác phẩm H. Breton đã sử dụng truyền thuyết kết hợp với địa chất để bàn luận về lịch sử. Đây là điều táo bạo, ít người dám làm thời đó. Tuy nhiên Breton thực sự chưa biết rằng chuyện Tinh Vệ lấp biển xảy ra chẳng ở đâu xa mà chính là vùng biển Trung Bộ của Việt Nam. Trung Quốc thời Viêm Đế, lập quốc ở tận lưu vực sông Hoàng Hà, làm gì có giáp biển mà bồi với lấp. Tinh Vệ lấp biển chính là chuyện Mai An Tiêm khai phá hoang đảo trong truyền thuyết Việt và cũng là chuyện Nữ thần Trầm hương Thiên Y A Na của người Chăm.
Từ diễn biến địa chất “bãi bể nương dâu” này H. Breton đã mô tả và giải thích sự kiện Cao Biền đào kênh ở Nghệ An:
Xứ Diễn Châu được bao vây tất cả mọi mặt bởi đồi núi, chỉ mở ra mặt biển về phía Đông, Ở thời kỳ đệ tứ kỷ, xứ này làm thành cái mà tôi gọi là “vịnh Diễn Châu” thông về phía Bắc với vịnh Thanh Hóa bởi eo Hoàng Mai và về phía Nam với vịnh Vinh bởi eo Đò Cấm. Cuộc nổi lên của lục địa vào cuối thời kỳ đệ tứ kỷ biến vịnh thành vũng, va hai eo bể thành đèo, ngày nay mang tên của hai làng Hoàng Mai và Đò Cấm. Vào thế kỷ thứ IX Tiết độ sứ Cao Biền người Trung Quốc sai đào hai con kênh ở hai đèo để nối liên với nhau các vũng Thanh Hóa, Diễn Châu và Vinh.

Ban do ATCL

Các địa danh được nói tới trong bài.

Ghi nhận công tích của Cao Biền trên đất Nghệ Tĩnh, H. Breton viết: viên quan này đã để lại ở An Tĩnh những kỷ niệm bất diệt… Cao Biền sang cai trị vùng Tĩnh Hải (Bắc Bộ và miền Bắc Trung Bộ) từ 865 đến 875 đã xây dựng:
– Đào sông Hoàng Mai và Đò Cấm.
– Chùa Hương Tích và Nhạn Tháp.
– Đắp thành Long Môn.
 Về Đò Cấm, nhân dân gọi là “kênh sắt”. Truyền thuyết dân gian kể lại rằng khi đào con kênh này Cao Biền đã phải dùng thuốc súng để phá vỡ những “tảng đá sắt” chẹn ngang đèo.
Ở phần Xứ Vinh, H. Breton nói về một phế tích Tháp Cao Biền: Ở địa phận làng Phương Tích và làng Yên Trường có một hòn núi khiến con sông đào từ Vinh đến Đò Cấm phải uốn dòng về phía Đông. Trên đỉnh núi ấy Cao Biền… đã dựng lên một cái tháp, người thì nói đó là một cái tháp để xá lỵ của nhà Phật, người thì nói đó là một cái đèn để ban đêm chiếu sáng cho thuyền bè qua lại trên sông đào, hoặc đó là đồn binh để báo hiệu…
Tại làng Yên Trường, giữa chân núi và con sông đào là đền Lĩnh Vạn. Đền này do Cao Biền dựng…
Chứng tích sự hiện diện của Tiết độ sứ Cao Biền ở Nghệ Tĩnh quá rõ ràng. Cao Biền còn lưu lại bài thơ Quá Thiên Uy kính:
Sài lang khanh tận khước triều thiên,
Chiến mã hưu tê chướng lĩnh yên.
Quy lộ hiểm hy kim thản đãng,
Nhất điều thiên lý trực như huyền.
Dịch:
Sài lang chôn sạch lại chầu vua
Ngựa chiến thôi kêu cõi núi mờ
Đường hiểm nay về bằng phẳng rộng
Một lèo nghìn dặm thẳng như tơ.
(Theo Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1996).
Kênh Thiên Uy chính là kênh Thiết Cảng hay kênh sắt ở khu vực sông Cấm của Nghệ An. Cao Biền đã đào 2 con kênh Hoàng Mai và Đò Cấm nối liên vận đường thủy từ Bắc Bộ vào Nghệ An để đánh dẹp quân Nam Chiếu như trong bài thơ cho biết. Sự hiện diện này của Cao Biền cũng hoàn toàn khớp với phân bố các nơi thờ thần Cao Sơn Cao Các ở Nghệ An tại các huyện Nghi Lộc, Yên Thành và Hưng Nguyên. Tục thờ Cao Sơn Cao Các chính là thờ Tiết độ sứ Cao Biền ở khu vực này.

Chua Thien Ton

Chùa Thiên Tôn ở Ninh Bình.

Cao Biền đã vượt sông Cấm tiến vào phía Nam. H. Breton cho rằng Cao Biền có liên quan tới việc xây chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh ở Hà Tĩnh. Điều này rất có lý vì ở chân núi Hồng Lĩnh còn có cái hồ lớn được gọi là Hồ nhà Đường. Ngoài ra, khá đặc biệt là ở Ninh Bình có chùa Thiên Tôn tương truyền do Cao Biền dựng nên. Chùa Thiên Tôn thờ Phật Bà Quan Âm Diệu Thiện và bố mẹ của bà là vua Trang Vương và Hoàng hậu. Tức là giống với chùa Hương Tích, nơi thời Phật Quan Âm và có di chỉ nền đài Trang Vương.
Cao Biền đã đào thông kênh qua Đò Cấm, tiến vào xứ Vinh là để dẹp quân Nam Chiếu vì căn cứ gốc của Nam Chiếu ở khu vực này. Đó là nơi có Nhạn Tháp và thành Long Môn ở Nam Đàn. H. Breton từng thu thập được viên gạch của Nhạn Tháp có đề niên hiệu thời Đường và nhắc đến việc cần tìm hiểu thêm nguồn gốc của ngôi tháp này. Khảo cổ ngày nay ở Nhạn Tháp đã tìm thấy hộp vàng đựng xá lỵ và các viên gạch có chữ với niên hiệu Trinh Quán lục niên (632). Với niên hiệu này thì nguồn gốc của Nhạn Tháp và Long Môn tại Nam Đàn phải sớm hơn thời Cao Biền vì Cao Biền sang An Nam vào những năm Đường Hàm Thông (860-874).
Nhạn Tháp nằm trong khu vực một thành cổ có tên Hồ Thành hay Chiêm Thành. Trong An Tĩnh cổ lục gọi là Lồi Vương Thành với cửa Long Môn. Rõ ràng đây là một tòa thành của người Chăm. Nhưng tại sao thành của người Chăm lại nằm ở Nghệ An và có niên đại vào thời Đường Trinh Quán (632)?
Di tích Nhạn Tháp này không liên quan đến Cao Biền nhưng lại là một di tích của Nam Chiếu. Nam Chiếu còn được gọi là người Hồ như trong thần tích về Cao Sơn Cao Các dẹp họ Hồ. Vì thế thành này gọi là Hồ Thành hay Chiêm Thành.
Niên đại Trinh Quán lục niên (632) của gạch Nhạn Tháp đưa đến một nhận định khá bất ngờ. Nhạn Tháp và Lồi Vương thành được xây dựng bởi vị “đệ nhất đại chiếu”, tổ của Nam Chiếu là Tế Nô La vào đầu thời nhà Đường. Lúc này Nam Chiếu chưa lập quốc riêng mà còn đang thần phục nhà Đường. Vì vậy mà gạch xây tháp tuy là tháp trong thành Chăm nhưng vẫn mang niên hiệu của nhà Đường.
Lồi Vương do đó có thể là đọc sai từ Lỗ Vương (Lồi khi ghi chữ Nho thì ghi bằng chữ Lỗi). Nam Chiếu khi lập quốc lấy tên là Đại Lễ. Lễ cũng là Lỗ như trong tên của Cáp Lỗ Phong sau này.
Nhạn Tháp và Lồi Vương Thành nằm cách không xa thị trấn Sa Nam, nơi Mai Thúc Loan khởi nghĩa. H. Breton trong An Tĩnh cổ lục đã đưa ra nhận định rằng Mai Thúc Loan là người gốc Chămpa. Điều này đúng với nghĩa Chăm hay Chiêm là gồm cả người Nam Chiếu.
Cái tên Sa Nam có thể hiểu là: Sa nghĩa là chúa trong tiếng Chăm. Sa Nam là Nam Chúa hay Nam Chiếu, rất rõ.

Den Mai Thuc LoanĐền thờ Mai Thúc Loan ở chân núi Hùng Sơn tại Nam Đàn.

Tế Nô La cũng là Phùng Tói Cái, vị tiền nhân 7 đời của Phùng Hưng, là người đã từng vào chầu Đường Cao Tổ và được làm quan lang ở Đường Lâm. Tên Đường Lâm rất có thể còn lưu lại trong địa danh Nam Đàn = Nam Đường = Đường Lâm.  Một số tư liệu chép về Mai Hắc Đế: Năm Nhâm Tuất (722) là năm Khai Nguyên thứ 10 về đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở Hoan Châu có một người tên là Mai Thúc Loan nổi lên chống cự với quân nhà Đường. Mai Thúc Loan là người huyện Thiên Lộc, tức là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, mặt mũi đen sì, sức vóc khỏe mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn bạo, dân gian khổ sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc giã,ông ấy bèn chiêu mộ những người nghĩa dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan Châu (nay thuộc huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng đế, tục gọi là Hắc Đế”.
Thành Vạn An của Mai Hắc Đế nằm ở huyện Nam Đàn nên trong tư liệu trên đã gọi Nam Đàn là Nam Đường. Còn Phúc Lộc (địa danh khác trong tên quê của Phùng Hưng) là vùng Can Lộc – Hà Tĩnh, cũng là quê hương của Mai Thúc Loan.
Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh từng tham gia khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Như thế châu Đường Lâm – Phúc Thọ của họ Phùng nằm ở xứ An Tĩnh, hoàn toàn có lý.
Phùng Hưng là hậu duệ của Phùng Tói Cái hay Nam Chiếu Mông Tế Nô La nên khởi nghĩa Phùng Hưng chính là sự nổi dậy thành lập nước Nam Chiếu độc lập. Cao Biền khi dẹp quân Nam Chiếu chiếm thành Tống Bình ở Bắc Bộ đã tiến quân vào xứ An Tĩnh, đào kênh thông thủy, dẹp “sài lang” ở vùng đất Nam Đàn – Đường Lâm.
Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái kể sau thời Cao Biền:
Tướng Tư Mã là Lý Tiến đem 30 vạn quân đánh vào Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về biên giới Ai Lao, hiệu là Đầu hoành Mô quốc Bồn Man, thường lấy sự cướp bóc làm nghề, lúc đánh lúc nghỉ, chưa hề bao giờ yên chiến sự. Đất đó nay là phủ Trấn Ninh, muôn đời sát nhập trong bản đồ nước Đại Việt.
Bồn Man la Mường Phuon hay Xiêm Khoảng của Lào, từng gọi là Trấn Ninh thời Pháp. Con đường thượng đạo phía Tây Nghệ An mà H. Breton nói đến trong sách của mình là con đường nối từ Nam Đàn sang Xiêm Khoảng. Con đường này có vai trò chiến lược quan trọng trong nhiều thời đại khi quân khởi nghĩa sử dụng nó để rút lui phòng thủ hay làm bàn đạp để tấn công miền ven biển Nghệ Tĩnh.
Một chi tiết lạ nữa trong An Tĩnh cổ lục nói: Mười hai sứ quân cát cứ vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Một trong 12 sứ quân là Hồ Hưng Dật, tổ của họ Hồ ở vùng An Tĩnh.
Đây là tư liệu độc đáo nói rằng thái thú Diễn Châu Hồ Hưng Dật là một sứ quân thời Đinh Bộ Lĩnh. Về nguồn gốc nguyên tổ họ Hồ này đã từng bàn. Nó liên quan đến việc Lý Thái Tổ – Đinh Bộ Lĩnh đi đánh dẹp châu Diễn. Lý Thái Tổ cũng là Lý Tiến được nói đến trong Truyện Nam Chiếu.
Thay lời kết, xin dẫn lời của H. Breton trong An Tĩnh cổ lục:
Cái gọi là sự tiến bộ chỉ là truyền thống đang đi lên. Nếu không có những truyền thống tốt đẹp, con người sẽ bị lôi cuốn theo bản năng xấu. Nước Đại Việt giàu về quá khứ và các bạn nên hiểu rằng chính người chết cai trị người sống. Những đức tính tốt mà chúng ta có, chúng ta nhờ cha mẹ ông bà mà có. Hãy kính thờ vong linh tổ tiên bằng cách phổ biến lịch sử của tổ tiên”.

Cá vượt Vũ môn hóa Rồng

Thac BoTừ Mai Châu nhìn xuống lòng hồ sông Đà.

Thác Bờ ở Hòa Bình xưa còn gọi là thác Vạn Bờ, được tạo bởi hàng trăm mỏm đá lớn nhỏ nhấp nhô như đàn voi khổng lồ giữa dòng sông Đà gầm thét ồn ào, sinh ra một kỳ khu hiểm lộ.
Sách Đại Nam nhất thống chí đã chép như sau: “Ở địa phận Đà Bắc, gần châu lị, đằng trước trông ra sông Đà, có núi Long Môn, tên nữa là núi Thác Bờ, đá núi chắn ngang nửa dòng sông, thế nước xoáy mạnh ầm ầm, trông rất dữ dội. Đầu đời Lý, quân đi đánh Ma Sa đóng ở mỏm Long thuỷ, hồi đầu đời Lê đi đánh Đèo Cát Hãn, đường qua đê Long thuỷ, tức là chỗ này. Ngay giữa ghềnh đá có một chỗ rộng chừng 5,6 trượng, người ta gọi là “ao vua”, tức là bến sông Vạn Bờ xưa thuộc xã Hào Tráng, châu Đà Bắc”…lại có tên núi nữa là núi Ngải.
Sách Đại Thanh nhất thống chí chép: “núi ở huyện Gia Hưng; trông ra sông cái…tương truyền trên núi có cây ngải tiên, mùa xuân nở hoa, sau khi mưa, hoa rụng xuống nước, con cá nào nuốt phải hoa ấy thì vượt được Long – môn mà hoá thành rồng. Nay núi Long môn châu Đà Bắc, trước mặt trông ra sông Đà, gần đê Long thuỷ, có lẽ là đấy”.
Như vậy, Thác Bờ trên dòng sông Đà còn có tên là Long Môn, là nơi có truyền thuyết “Cá vượt Vũ môn hóa rồng”. Vũ môn không phải là “cửa mưa” mà là cửa của vua Vũ (= Vua = Long). Long Môn hay Vũ Môn chính là nơi vua Đại Vũ nhà Hạ trị thủy, khơi thông dòng Hắc Thủy (tên khác của sông Đà) thời lập quốc người Việt. Truyền thuyết Việt kể là Tản Viên Sơn Thánh ở núi Ba Vì.
Long Môn là nơi dòng sông Đà đổi dòng, chảy ngược lên phía Bắc để tránh dãy Ba Vì rồi đổ vào sông Thao và sông Lô tại ngã ba Bạch Hạc Việt Trì.

Lang XuongĐền Lăng Xương ở xã Thanh Thủy, Phú Thọ bên bờ sông Đà, nơi sinh của thánh Tản.

Văn Nhân góp ý:
Đầu tiên ghi nhận chuyện “cá vượt Vũ môn hóa rồng” là truyện cổ tích Việt Nam. Chuyện kể:
Vào một năm, trời hạn hán, vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hoà cho khắp mọi nơi, Trời mới đặt ra một kỳ thi kén các vật lên làm Rồng, gọi là “Thi Rồng”. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thuỷ Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kỳ. Mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng. Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thuỷ tộc đến thi đều bị loại cả vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau có cá Rô nhảy qua được một đợt nhưng cũng bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi, đã gần hoá Rồng, nhưng đến lượt thứ ba đuối sức ngã bổ xuống mà lưng đã còng lại. Đến lượt con cá Chép vào thi thì gió thổi ào ào, mây kéo ầm trời. Cá Chép ta vượt luôn một hồi qua ba đợt sóng, và lọt vào cửa Vũ môn. Cá Chép đỗ. Vẩy, đuôi, râu, sừng mọc đủ, vóc dáng thật oai linh, thật đúng là thần Rồng. Cá chép hoá Rồng phun nước làm gió táp, mưa sa, muôn loài sung sướng. Sự sống đã hồi sinh
Nhưng người Tàu cũng có Vũ môn…
Theo Bửu Kế, tác giả của Tầm nguyên tự điển, Vũ môn là tên một con sông hiểm trở mà vua Vũ (Trung Quốc) đã đào trong việc trị thủy. Đó “là con sông có một khúc hiểm trở, nước không thông lên trên được, nên hễ con cá nào nhảy lên được thì hóa rồng”.
Theo truyền thuyết Trung quốc, từ thời thượng cổ, vua Vũ nhà Hạ trị thủy bằng cách cho đục phá một mỏm đá có hình dạng như cái cửa ở thượng lưu sông Hoàng Hà (giữa huyện Hà Tân, tỉnh Sơn Tây và huyện Hàn Thành, tỉnh Thiềm Tây) nên gọi cửa Vũ, hay Vũ môn. Theo đó, Vũ môn có sóng dữ, hằng năm vào tiết tháng ba, cá chép tập trung đến đây, con nào vượt qua được Vũ môn thì hóa rồng.
Còn Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển thì cho rằng Vũ môn “là tên một khúc núi ở thượng du sông Trường Giang nước Tàu, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, chân núi có vực rất sâu, tương truyền đến mùa thu nước lụt lớn thì cá đua nhau tới đó nhảy thi, con nào vượt qua vũ môn thì hóa rồng”.

long-mc3b4n_html_b0b5ea2bfee40700-1Lãnh thổ nhà Hạ theo định vị của Trung Quốc.

Chỉ tiếc theo sơ đồ do chính các con nhà Giời vẽ thì đất đai nhà Hạ của Đại Vũ lại ở Sơn Tây – Hà Bắc ngày nay. Như thế vua Vũ có lẽ… mộng du đến thượng lưu Hoàng hà hay xuống tuốt Trường giang để đục núi trị thủy…
Đối chiếu với thực tại… Kinh Thư chép: Ông Vũ cho đục bạt cả một nửa Long Môn sơn để khai thông dòng chảy… hoàn toàn đúng với cảnh quan ghi nhận trong bài viết trên và cũng hoàn toàn khớp đúng một cách lạ kì với ghi chép của Đại Nam nhất thống chí… “Ở địa phận Đà Bắc, gần châu lị, đằng trước trông ra sông Đà, có núi Long Môn, tên nữa là núi Thác Bờ, đá núi chắn ngang nửa dòng sông, thế nước xoáy mạnh ầm ầm, trông rất dữ dội”…
Vậy Vũ môn hay Long môn cũng là Vũ Long môn ở đâu? Bên ta hay bên Tàu?
Vũ môn nơi vua Đại Vũ khai sơn phá thạch trị thủy lập nên 9 châu Trung Hoa có thể nào lại là thác Bờ trên dòng sông Đà?
Tích cá vượt Vũ môn được ghi nhận nhiều trong dân gian Việt Nam:
Ca dao có câu:
Mồng bốn cá đi ăn thề
Mùng tám cá về cá vượt Vũ môn.
hay:
Một ngày ở với người khôn
Cũng như cá vượt Vũ môn hóa rồng.
Còn theo các tư liệu:
Sách Giao Châu ký nói: “Có Long Môn (Cửa Rồng) nước sâu trăm tầm (phép đo đời nhà Chu 5 thước là một tầm), cá lớn vượt lên được đó thì thành rồng”.
Sách Sơn Đường dị khảo nói: “Sông Long Môn ở huyện Gia Hưng, nước An Nam, nước sông đến đó, hai bờ cao ngất, đá lớn chấn ngang dòng sông, giữa mở 3 lối, nước tóe xuống như bay, cao mấy trượng, tiếng nước dội xuống, tiếng đá đập nhau kêu ầm ầm như trống thúc sấm vang, ngoài trăm dặm còn nghe tiếng. Thuyền đến đó, phải khiêng lên bờ mới đi được. Bên cạnh có hang và nhiều cá Anh Vũ. Chỗ sông sách kể đây tức là chỗ Thác Pha này đó”.
Theo Quế Đường của Lê Quý Đôn: “… Núi Ngải, ngó xuống sông Đà. Bờ bên kia là xứ Ngôi Lạt. Tương truyền trên núi có thứ cây ngải tiên, về mùa xuân hoa trôi xuống sông, đàn cá nào hớp được là lên được Long Môn hóa rồng.”
Hiện nay địa danh Long Môn được ghi nhận đích xác trên bản đồ địa lý Việt, không tơ lơ mơ như mấy ông Tàu. Những gì dân gian đã ghi nhận thì khó có thể sai vì dân gian không có lý do để phải xiên xẹo…
Quan điểm của Sử thuyết Hùng Việt: Vua Đại Vũ khai sơn phá thạch trị thủy ở vùng núi Tản sông Đà. Đại Vũ chính là Hùng Việt Vương – Tuấn Lang trong Hùng phả. Tuấn chỉ là tên chữ biến âm của Tản – tán – Tốn tên quẻ Tốn, Tốn là “phong”, chỉ miền Phong châu nước Việt cổ.

Bách Việt trùng cửu thêm ý:
“Thác Pha” trong Sơn Đường dị khảo rõ ràng là ghi âm Nôm của từ “Thác Bờ”.
Long Môn còn là quê hương của nhà thơ Đường nổi tiếng thần đồng Vương Bột. Hóa ra Vương Bột là người Hòa Bình (Đà Bắc), có cha làm quan ở Phong Châu (Phú Thọ). Vương Bột từ ngã ba Việt Trì xuôi dòng sông Hồng tới dự yến tiệc ở Đằng Vương Các tự tại Lý Nhân – Hà Nam chỉ cần mất có 1 đêm (“Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa“) hoàn toàn có thể. Đúng là “cá” (Vương Bột) vượt Vũ Môn (Đà Bắc) hóa rồng (Đằng Châu).

Nhà Chu và bài thơ Thử ly trong Kinh Thi

Trong Kinh Thi phần Vương phong có bài Thử ly gồm 3 đoạn thơ, khác nhau ở 4 câu đầu và chung phần điệp khúc. Phiên âm Hán Việt của bài này như sau:
I. Bi thử ly ly
Bỉ tắc chi miêu
Hành mại mỹ mỹ
Trung tâm dao dao.
đoạn lặp:
Tri ngã giả
Vị ngã tâm ưu
Bất tri ngã giả 
Vị ngã hà cầu.
Du du thương thiên 
Thử hà nhân tai.
II. Bi thử ly ly
Bỉ tắc chi toại 
Hành mại mỹ mỹ 
Trung tâm như tuý.
“đoạn lặp”
III. Bi thử ly ly
Bỉ tắc chi thật 
Hành mại mỹ mỹ 
Trung tâm như ất (yết).
“đoạn lặp”
Giải thích về phần Vương phong Chu Hy đời Tống viết:
Vương là nói nhà Chu đóng đô về phía đông ở Lạc Ấp, trong vòng kinh kỳ của Vương Thành. Đất vuông 2600 dặm, theo sách Vũ Cống, nhắm khoảng núi Thái Hoạ và núi Ngoại Phương thuộc châu Dự, phía bắc được vùng Hà Dương, rồi lần xuống phía nam của châu Ký.
Lúc khởi đầu nhà Chu, Văn Vương ở đất Phong, Vũ Vương ở đất Hạo. Đến đời Thành Vương, Chu Công bắt đầu dựng Lạc Ấp làm chốn hội họp chư hầu lúc bấy giờ, vì cớ đất ấy ở ngay chính giữa, bốn phương đến đấy thì dặm đường xa đồng nhau. Từ đấy gọi đất Phong, Hạo là Tây Đô, còn Lạc Ấp là Đông Đô.
Đến khi U Vương sủng ái nàng Bao Tự, sanh ra Bá Phục, phế hoàng hậu nước Thân và thái tử Nghi Cữu. Nghi Cữu chạy sang nước Thân. Thân Hầu nổi giận, cùng với rợ Khuyển Nhung đánh Tông Chu, giết U Vương ở đất Hý.
Văn Hầu nước Tấn và Vũ Công nước Trịnh rước thái tử Nghi Cữu ở nước Thân và lập lên làm vua. Ấy là Bình Vương. Bình Vương dời về Đông Đô, tức Vương Thành. Từ đấy, nhà Chu lại hèn kém, không khác gì các nước chư hầu, cho nên thơ ca không được gọi là nhã, mà gọi là phong, nhưng vương hiệu chưa bị bỏ, cho nên không gọi là nhà Chu mà gọi là Vương.
Như vậy bài thơ Thử ly trên là bài ca dao của nước Chu khi nhà Chu đã dời về phía Đông tại Lạc Ấp. Thử là lúa nếp, còn Tắc là lúa tẻ (tễ). Bài thơ nói về một người đi qua ruộng lúa và suy tư…
Có điều, Đông Đô của nhà Chu ở chỗ nào mà lại nhiều ruộng lúa, cả nếp, cả tẻ đến vậy? Theo các sử gia Tàu ngày nay thì kinh đô Lạc Dương của nhà Chu ở tận Hà Nam Trung Quốc, chỗ đó là vùng ôn đới, thời trước Công nguyên làm gì có cây lúa nào mọc được đâu mà trồng với chả ngẫm nghĩ, suy tư. Rõ ràng đất Lạc của nhà Chu phải nằm ở vùng ấm ẩm hơn nhiều, nơi các loại lúa phát triển rất tốt.
Hiện quan niệm phổ biến cho rằng nhà Chu là một bộ tộc du mục ở Thiểm Tây, nổi lên diệt nhà Ân làm chủ thiên hạ Trung Hoa. Thế nhưng bài thơ Thử ly trên đã chỉ rõ, nhà Chu nằm ở khu vực cận nhiệt đới, canh tác nông nghiệp lúa nước, chứ chẳng du mục gì cả. Bản thân chữ Chu 周 là ghép của hai chữ Điền 田 và Khẩu 口. Điền 田 là ruộng lúa vuông vắn, chia ô rõ ràng. Nhà Chu là một dân tộc trồng lúa nước điển hình, hiển nhiên không hề xuất phát từ vùng rừng núi Thiểm Tây, vừa khô vừa lạnh, chỉ có cỏ cho ngựa ăn như người Tàu chú thích.

IMG_1631 (2)

Hoàn tiền Đông Chu 東周 và Tây Chu 西周 tìm thấy ở miền Bắc Việt Nam.

Bỉ thử ly ly hiện được dịch là “Kìa nếp đã chín đầu rủ ngọn”. Nhưng chữ Ly 離 không hề có nghĩa là rủ. Ly ly là tua tủa. Bỉ thử ly ly tức là Lúa nếp đang mọc lên tua tủa, sum xuê, rập rạp, tươi tốt. Lúa nếp là giống lúa có thân cao, thời gian sinh trưởng dài, nên từ đầu bài tới cuối bài vẫn mọc tua tủa, trong khi cây lúa tẻ từ cây mạ, ra bông rồi đã kết hạt.
Tâm tình của người qua đường (hành mại mỹ mỹ) thay đổi theo sự sinh trưởng phát triển của cây lúa tẻ. Khi cây mới mọc mạ (miêu) thì người thấy “dao dao”, tức là đang lo lắng. Khi cây trổ bông (toại) thì người như say (túy). Khi cây lúa kết hạt (thật) thì người thấy như nghẹn ngào (rất hứng khởi).
Đây đúng là thái độ của một người chủ ruộng, một nông dân trồng lúa, hàng ngày đi thăm đồng. Lúc mới gieo cấy thì lo lắng. Khi lúa trổ đòng thì vui mừng. Khi lúa nên thóc thì quá thích thú tới nghẹn ngào.
Đoạn điệp khúc:
Người biết ta thì nói ta đang ưu tư
Người không biết ta thì nói ta đang tìm kiếm
Hỡi trời xanh xa thẳm, đó là ai vậy?
Đoạn này đúng là “than trách” người đời không chịu hiểu mình, có thể có ý nuối tiếc quá khứ huy hoàng của nhà Chu, là triều đại đã ươm mầm văn hóa để xã hội Trung Hoa đơm hoa kết trái, nhưng lại bị lãng quên. Câu “Thử hà nhân tai” có thể hiểu là ý trách: người đời vốn là vậy (vốn dễ quên đi công lao của triều đại cũ).
Dịch lại bài thơ này:
I
Lúa nếp tua tủa

Lúa tẻ nảy mầm
Người đi chầm chậm
Trong lòng xiêu xiêu
“Người biết thì nói
Ta đang ưu tư
Người không lại bảo
Ta đang kiếm tìm
Hỡi trời xanh thẳm
Người đời vậy chăng?”
II
Lúa nếp tua tủa

Lúa tẻ trổ bông
Người đi chậm chậm
Trong lòng như say…
III
Lúa nếp tua tủa

Lúa tẻ hạt thành
Người đi chầm chậm
Trong lòng nghẹn ngào…

Hắc thủy và Đại Vũ

Sách Hà Nội địa dư do Dương Bá Cung soạn năm Tự Đức thứ 4 (1852) phần Sông Nhị Hà viết:
… Có tên là Lô Giang hay còn gọi là sông Phú Lương. Nước sông cuốn theo phù sa sắc đỏ như son, tới mùa thu nước mới trong trở lại. Dòng sông bắt nguồn từ nội địa bên Vân Nam chảy xuống.
Xét: sách Vũ Cống nói: “Dẫn nước sông Hắc Thủy đến núi Tam Nguy chảy nhập vào biển Nam Hải”. Nhà nho đời trước nói: “Có bốn dòng sông vùng Tây Di chảy về phương Nam ra biển, thứ nhất là Tây Nhị Hà”. Quế Đường Lê (Quý Đôn) viết: “Phủ Xa Lý có sông Lạn Thương và sông Cửu Long đều chảy vào Giao Chỉ, trở thành sông Phú Lương, tức là hạ lưu của sông Hắc Thủy vậy.
Nước sông chia thành hai dòng chảy: một là sông Thao, một là sông Đà, hợp lưu ở ngã ba Bạch Hạc, gọi là sông Nhị Hà…
Tương tự, sách Hà Nội sơn xuyên phong vực thời Nguyễn cũng chép về sông Nhĩ Hà:
Xét thiên Vũ Cống sách Kinh Thư có câu: “Dẫn nước sông Hắc Thủy đến núi Tam Nguy rồi ra biển Nam Hải”. Sái Phó dẫn lời của Phàn Xước đời Đường: “Có bốn dòng sông từ Tây Di chảy về phương đổ ra biển Nam Hải, một trong số đó là Tây Nhĩ Hà”. Ông Trình Tử nói: “Sông Hắc Thủy ở phía Tây đất Thục. Sông Nhĩ Hà và sông Hắc Thủy nối liền nhau, đổ thẳng ra biển Nam Hải”. Tra cứu sách Địa dư chí thì sông Nhĩ Hà bắt nguồn từ nội địa tỉnh Vân Nam. Vân Nam là đất Ba Thục xưa. Tra sách vở, bản đồ thấy phần đất nước ta nằm cách sông Hắc Thủy về phía Tây, như vậy là khớp với tên sông Nhĩ Hà nêu trên.
Các nhà Nho thời Nguyễn khi khảo cứu về sông Nhị Hà thường liên hệ với câu trong thiên Vũ Cống của Kinh Thư: “Dẫn nước sông Hắc Thủy đến núi Tam Nguy rồi ra biển Nam Hải”, và cho rằng Hắc Thủy đây là ngọn nguồn từ Vân Nam của sông Nhĩ Hà hay sông Hồng ngày nay. Vấn đề là thiên Vũ Cống nói về thời vua Đại Vũ của nhà Hạ Trung Hoa từ cách đây trên 4000 năm. Thế mà sao lại có nói đến con sông chảy qua Việt Nam và còn biết cả biển Nam Hải? Hạ Vũ ở chỗ nào mà có sông đổ ra biển Nam Hải (tức biển Đông)?
Không chỉ các nhà Nho nước Nam thời Nguyễn. Sách Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu – Bùi Quý (đầu thế kỷ 19) có bài Khảo cứu về nguồn lạch sông Nhị Hà, dẫn các tư liệu của Trung Quốc:
Sách Lý Nguyên Dương Hắc thủy khảo chép rằng: Vũ Cống nói rằng: “dẫn nước sông Hắc Thủy đến núi Tam Nguy chảy vào biển”. Núi Tam Nguy chẳng biết ở đâu, cứ Lũng, Thục, Điền (Vân Nam) ba phương đứng chân đỉnh thì nước ở Lũng, Thục vốn không chảy vào biển. Duy 2 sông Lan Thương, Lô Giang ở tỉnh Vân Nam (Điền) đều phát nguyên từ Thổ Phồn chảy về phía Tây Bắc rồi chảy vào Nam Hải…
Hắc Thủy là dòng sông mà Đại Vũ đã khơi dòng trị thủy từ thủa hồng hoang. Vậy mà dòng sông này lại được xác định là thượng lưu của sông Nhĩ Hà (sông Hồng). Như thế rõ ràng Đại Vũ trị thủy chẳng phải ở đâu xa mà chính là ở vùng đất Bắc Việt ngày nay. Chỉ vì các chuyên gia sử địa cả ta và Trung Quốc không chịu nhìn nhận điều này nên mới vô cùng lúng túng khi so sánh cổ thư để khảo về dòng Hắc Thủy đổ ra biển Nam Hải. Đại Vũ mà trị thủy ở vùng trung lưu Hoàng Hà thì lấy đâu ra biển mà đổ (vì sông Hoàng Hà chảy lòng vòng ngược lên phía Bắc đổ ra biển Bột Hải), chưa nói gì còn đổ ra tận biển Đông (Nam Hải).

LangXuong
Đền Lăng Xương, tương truyền là nơi sinh của thánh Tản bên tả ngạn sông Đà.

Hắc Thủy chính xác là sông Đà vì Đà = Đen = Hắc. Thượng nguồn sông Đà từ Vân Nam. Dòng sông trị thủy của Đại Vũ là sông Đà nên Đại Vũ chẳng phải ai khác chính là Tản Viên Sơn Thánh trong truyền thuyết Việt. Tản Viên quê ở Lăng Xương (Thanh Thủy, Phú Thọ) và thành nghiệp ở núi Ba Vì, đều là những nơi ở 2 bên tả và hữu ngạn dòng sông Đà – Hắc thủy này cả. Dòng sông Đà chảy tới ngã ba Bạch Hạc (Việt Trì) đổ nhập vào với sông Thao và sông Lô thành sông Hồng (Nhị/Nhĩ Hà hay Phú Lương), rồi chảy ra biển.
Còn núi Tam Nguy nơi sông Hắc Thủy dẫn nhập ra biển thời Đại Vũ cũng không phải ở Vân Nam. Tam Nguy rành rành chính là núi Tam Đảo, nằm ngay cạnh ngã ba Bạch Hạc. Dẫn chứng là huyền sử Trung Hoa chép: Tây Vương Mẫu được 3 con chim Thanh Điểu thay nhau mang thức ăn tới. Ba con chim này sống ở trên núi Tam Nguy, ở phía Tây của núi Côn Lôn. Núi Tam Nguy gồm ba ngọn, cao vút xuyên qua cả mây trời nên mới có tên như vậy.
Côn Lôn là tên gọi khác của dãy Tam Đảo. Tam Nguy của Tây Vương Mẫu là 3 ngọn của núi Tam Đảo luôn khuất trong mây trắng. Tây Vương Mẫu được người Việt tôn thờ là Tây Thiên Quốc Mẫu hay Tam Đảo sơn trụ quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, cũng là Mẫu Thượng thiên trong tín ngưỡng Tứ phủ.
Thời Đại Vũ cách đây trên 4000 năm, khi đó mực nước biển dâng cao hơn bây giờ. Căn cứ theo bậc thềm phù sa cổ để lại thì cửa sông đổ ra biển lúc này nằm vào sát vùng trung du ngày nay. Tam giác đồng bằng sông Hồng lúc đó là vùng bán ngập nước mà đỉnh của tam giác này là ngã ba Việt Trì. Do đó thời Đại Vũ ngã ba sông Bạch Hạc nằm không xa biển là bao nhiêu. Như thế câu chép của thiên Vũ Cống hoàn toàn chính xác với địa hình thủy văn ở vùng Bắc Việt lúc này: Dẫn nước sông Hắc Thủy đến núi Tam Nguy rồi ra biển Nam Hải. Tức là dẫn nước sông Đà đến ngã ba Bạch Hạc – Tam Đảo rồi ra biển Đông.

DSC02661

Chính điện đền Và – Đông cung Tản Viên ở Sơn Tây.

Với định vị sông Hắc Thủy là sông Đà, núi Tam Nguy là Tam Đảo, biển Nam Hải là biển Đông thì rõ ràng Đại Vũ, vị vua thái tổ của nhà Hạ Trung Hoa chính là Tản Viên Sơn Thánh ở nước Nam. Ngôi đền thờ lớn nhất của Tản Viên Sơn Thánh là đền Và ở thị xã Sơn Tây. “” là tiếng phát âm khác của từ “” trong tên của Đại Vũ – Tản Viên mà thôi. Mà bản thân từ nghĩa là Vua. Đại Vũ là vị Vua lớn, đã trị thủy thắng lợi, mở đầu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử người Hoa Việt.

Thiên Y Thánh Mẫu, hành trình của một nữ thần Chăm – Việt – Hoa

Thiên Y A Na là vị nữ thần được tôn sùng ở vùng Nam Trung Bộ bởi cả người Việt và người Chăm. Sự tích về vị nữ thần này được chép trong văn bia tại Tháp Poh Nagar, Nha Trang, do Lễ bộ Thượng thư Phan Thanh Giản soạn năm Tự Đức thứ 9 (1857), tóm tắt như sau:
Xưa kia tại núi Đại An (tức Đại Điền hiện nay) có hai vợ chông ông Tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín, thường hay bị mất. Một hôm, ông rình bắt gặp một thiếu nữ trạc mười chín tuổi hái dưa, dồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương, ông đem về nuôi, hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.
Một hôm, trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, thiếu nữ lấy đá chất thành ba hòn giả sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông Tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng lai. Đã buồn thêm bực! Nhân thấy khúc kỳ nam theo nguồn trôi đến, tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ nam, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả, rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay thơm ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ, rủ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiên, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.
Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực. Thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nổi không giở lên, Thái tử lấy tay nhắc thử. Chàng hết sức lạ lùng, vì thấy khúc gỗ nhẹ như tờ giấy! Bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.
Một đêm, dưới bóng trăng mờ, Thái tử thấy có bóng người con gái thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tư bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất một mùi hương nhè nhẹ từ khúc kỳ nam bay ra. Chàng quyết rình xem, suốt mấy đêm liền, không hề thấy gì khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt, từ trong khúc kỳ nam bước ra. Thái tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái tử về cung và cho biết rõ lai lịch. Giai nhân ấy chính là bà Thiên Y A Na.
Thái tử vốn đã trưởng thành, nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường, bèn tâu cùng phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua sai quan bói cát hung. Bói trúng quê “đại cát”, liền cử lễ thành hôn.
Vợ chồng Thái tử ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên là Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô. Thời gian qua, sống trong êm ấm. Nhưng một hôm, lòng quê thúc giục, Bà Thiên Y bồng hai con nhập vào khúc kỳ nam, trở về làng cũ.
Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông Tiều đã qua đời. Bà Thiên Y bèn đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn lạc hậu, Bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hoá: dạy dân cày cấy,  kéo vải, dệt sợi… và đặt ra lễ nghi… Từ ấy ruộng nương mở rộng, đời sống của nhân dân mỗi ngày thêm phú túc, phong lưu. Công khai hoá của Bà chẳng những ở trong địa phương, mà các vùng lân cận cũng được nhờ.
Rồi một năm sau, vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, một con chim hạc từ trên mây bay xuống, Bà cùng hai con lên lưng hạc bay về Tiên.
Nhân dân địa phương nhớ ơn đức, xây Tháp tạc tượng Bà phụng thờ. Và mỗi năm vào ngày Bà thăng thiên, tổ chức lễ tưởng niệm múa bóng, dâng hoa rất tôn nghiêm, long trọng.
Ở Bắc Hải, Thái tử trông đợi lâu ngày, không thấy vợ, con trở về, bèn đem một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền Thái tử đến nơi thì Bà đã cởi hạc quy Tiên. Bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con Bà. Bị oan ức và đau đớn, nhân dân đã thắp hương khấn vái Bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay, đất bằng dậy sóng… đánh đắm đoàn thuyền của Thái tử Bắc Hải.

p1160727Các cột lớn tại Tháp Bà, Nhà Trang.

Truyền thuyết về Thánh mẫu Thiên Y A Na do người Chăm kể lại cũng tương tự y như trên. Núi Đại An nơi bà giáng thế nằm ở huyện Diên Khánh của Khánh Hòa. Còn nơi thờ chính của bà là ở Tháp Bà, Nha Trang. Câu đối tại điện thờ Thiên Y A Na ở Tháp Bà tóm tắt sự tích về vị mẫu thần này:
琦筏駕長濤英靈莫測
瓜山彰異跡變化無邉
Kỳ phiệt giá trường đào, anh linh mạc trắc
Qua sơn chương dị tích biến hóa vô biên.
Dịch:
Kỳ nam vượt sóng dài, linh thiêng bát ngát
Núi dưa tỏ tích lạ, biến hóa không cùng.
Sự tích một vị nữ thần được cho vốn là gốc gác của người Chăm, vậy mà lại có những đoạn nói tới “Bắc Hải”, rồi lại còn “Trung Hoa” nữa. Thiên Y A Na đã “đem văn minh Trung Hoa ra giáo hoá: dạy dân cày cấy,  kéo vải, dệt sợi… và đặt ra lễ nghi…”  cho vùng Nam Trung Bộ. Khu vực Khánh Hòa thì liên quan thế nào đến Trung Hoa? Việc này phải hiểu như thế nào?

P1160732Quần thể Tháp Bà ở Nha Trang.

Gốc tích của vị Thiên Y Thánh Mẫu “người Chăm” này bất ngờ được bộc lộ qua ghi chép về núi Đại An thời Trần. Đây là ngọn núi mà Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã lưu lại trong thời gian đi du hóa ở Chiêm Thành. Thiền sư Thích Nguyên Minh ở chùa Sắc Tứ (Nha Trang, Khánh Hòa) đã khảo cứu cuốn Trung Châu nhân vật ký của Lam Trà Tiến sĩ Nguyễn Văn Chương kể lại sự tích như sau:
Đại Điền (gồm 4 thôn: Đại Điền Trung, Đại Điền Đông, Đại Điền Nam, Đại Điền Tây – nay là các xã Diên Điền, Diên Sơn huyện Diên Khánh tỉnh Khánh Hoà) là nơi lưu xuất và truyền tụng một câu chuyện (sự tích) có từ thời Hùng Vương. Chuyện kể rằng: Vào thời các Vua Hùng có bà Tinh Vệ Mễ Nương – con gái đầu của Hùng Càng Vương – cùng chồng là Chấn Long Thần Phi “du hạ nam phương” có đem hạt dưa từ Trường Sa vào trồng tại vùng đất dưới chân Hòn Dữ (về sau, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông mới đặt tên cho núi là Đại An, và tên này tồn tại cho đến tận ngày nay). Do vùng đất này trồng rất nhiều dưa nên thường được gọi là xứ Đồng dưa (Qua điền xứ).
Núi rừng bao quanh xứ Đại Điền có rất nhiều lâm đặc sản quí, đặc biệt là cây trầm (trầm hương). Gặp lúc bão lụt nhiều cây trầm gãy đổ trôi xuống lại bị sóng biển đánh tấp lên đầy cả xứ Đồng dưa. Cư dân kéo lên chất thành từng đống đốt. Khói hương thơm tỏa ngào ngạt tẩy trừ mọi sơn lam, chướng khí, dịch bệnh. Cây trầm trở thành một loài cây hết sức quí giá. Từ đó xứ Đồng dưa còn có một biệt danh là xứ Trầm hương.
Vợ chồng bà Tinh Vệ Mễ Nương – Chấn Long Thần Phi hô hào dân chúng trong vùng đem đất cát lấp thành lũy dài gọi là trường sa lũy để ngăn sóng biển. Lũy này nối từ đèo Ninh Mã tới Cần Lương, tạo thành vịnh Vân Phong ở phía Bắc. Còn lũy Thủy Triều chạy dài từ mũi Cầu Hin, Bãi Dài đến mỏm Chà Đà, tạo thành vịnh Cam Ranh ở phía Nam. Trước mặt Bạch Hổ Sơn (còn gọi là đồi Trại Thủy ở giữa Nha Trang) là quần đảo có tên là Hòn Tre, do Chấn Long Thần Phi dời núi từ phía Tây ra làm tấm bình phong chắn gió cho Nha Trang (ngày đó đảo này được trồng toàn là tre nên có tên Hòn Tre). Được bao bọc bằng các lũy và các núi (đảo) chắn gió đó, cù lao Nha Trang rất an toàn, bình yên trên mặt biền hiền hòa. Do vậy mà NhaTrang cũng được gọi là Cù Huân…
Sau khi hoàn thành công nghiệp dời núi, đắp lũy tạo cuộc sống yên bình cho xứ Trầm hương, ông bà Tinh Vệ – Chấn Long theo sóng biển về nơi không dấu tích. Để ghi nhớ công ơn sự nghiệp của vợ chồng bà, dân chúng lập đền thờ Bà tại núi Đại An. Nhưng đến cuối triều Hùng Duệ Vương (258 trước Tây lịch). Thục Phán trị nước, bị ngoại tặc thôn tính, ngôi đền này bị triệt phá.
Khi lên xứ Trầm Hương – Đại Điền, nhớ lại tích xưa, tưởng niệm công đức của vợ chồng bà Tinh Vệ – Chấn Long Thượng Hoàng Trần Nhân Tông tôn phong Bà Tinh Vệ là Thiên Y Thánh Mẫu, và bàn với chúa Chiêm Chế Mân cho trùng tu lại ngôi đền thờ ông bà Tinh Vệ. Chúa Chiêm Chế Mân đã cho trùng tu ngôi đền. Trên mái trước đền tạc 4 chữ Nho Thiên Y Thánh Mẫu và 2 bên trụ đền tạc đôi câu đối do chính Thượng Hoàng Trần Nhân Tông ngự đề:
Tinh Vệ hận chí năng điền hải
Chấn Long cừu lực khả di sơn.
Nghĩa là:
Chí Bà Tinh Vệ (giận) có thể lấp biển
Sức ông Chấn Long (thù) khả dĩ dời núi.
Cùng lúc với việc trùng tu đền thờ Thiên Y Thánh Mẫu là việc xây dựng một ngôi chùa dưới chân núi Đại An. Với tên chùa cũng do chính Đức Điều Ngự (Trần Nhân Tông) đặt là Đại An Tự. Chắc chắn việc đặt tên chùa là Đại An không phải là ngẫu nhiên. Hai chữ Đại An thể hiện rất rõ quyết sách của Hoàng Đế Thiền sư Trần Nhân Tông là phục hưng quốc gia Đại Việt và tạo dựng cuộc sống yên bình tươi đẹp mãi mãi cho dân tộc Chiêm…
Sự tích này về vị Thiên Y Thánh Mẫu ở núi Đại Điền – Đại An không giống như sự tích thường kể như trong bia Tháp Bà ở trên. Thiên Y Thánh Mẫu là tên mà Thượng hoàng Trần Nhân Tông đề tặng phong cho bà Tinh Vệ, vốn là con gái vua Hùng, đã có công cùng chồng che chắn sóng biển, khai phá vùng đất ven vịnh Nha Trang từ thời xa xưa…
Truyện Tinh Vệ lấp biển lại là một truyện được chép trong Sơn Hải Kinh, một cuốn kinh cổ của Trung Hoa. Truyện này nguyên như sau:
Núi Phát Cưu có nhiều cây dâu chá. Có loài chim đậu trên đó, trông như con quạ, đầu có hoa văn sặc sỡ, mỏ trắng, chân đỏ, tên là Tinh Vệ, tiếng kêu như gọi tên nó. Đó là người con gái trẻ của vua Viêm Đế, tên là Nữ Oa. Nữ Oa đi chơi ở biển Đông, bị chết đuối không về được, hóa thành chim Tinh Vệ, thường ngậm gỗ đá ở núi Tây để lấp biển Đông.

p1160747Bốn chữ Thiên Y  Cổ Tháp trong điện thờ ở Tháp Bà, Nha Trang.

Phải chăng Tinh Vệ Nữ Oa tương đương với Tinh Vệ Mễ Nương?
Như thế 3 câu chuyện của người Chăm về Thiên Y A Na, của người Việt về Tinh Vệ – Chấn Long và của người Hoa về Tinh Vệ Nữ Oa đều là 1, chỉ 1 nhân vật nữ thời cổ đã tạo công đức ở vùng vịnh Nha Trang. So sánh 3 câu chuyện Chăm, Việt và Hoa về vị nữ thần Thiên Y – Tinh Vệ này để thấy được cái cốt của truyện.
– Núi Phát Cưu hay núi Tây, nơi xuất khởi của Tinh Vệ Nữ Oa chính là núi Đại Điền – Đại An ở Diên Khánh – Khánh Hòa.
– Cây “dâu chá” như thế hẳn chính là cây Dó bầu (Trầm hương,) vốn có rất nhiều trên các khu vực núi ở Nam Trung Bộ.
– Loài chim biển Tinh Vệ là loài chim Yến, nổi tiếng ở Khánh Hòa. Có thể Yến = Yên = An, loài chim đặc trưng của nước Yên?
– Vị nữ thần này là con vua Hùng (hay Viêm Đế) đã vào vùng miền Nam Trung Bộ lập nghiệp. Công nghiệp chính của vị nữ thần này là ở việc che chắn sóng biển (Tinh Vệ Nữ Oa lấp biển, Tinh Vệ – Chấn Long dời núi) và giáo hóa nhân dân vùng ven biển làm ăn sinh sống.
– “Trầm” trong Trầm hương nghĩa là “chìm”, nói tới sự việc Tinh Vệ bị chết đuối ngoài biển. Trong sự tích Thiên Y Thánh Mẫu là bà đã hóa thân vào gỗ Kỳ nam (gỗ Trầm) trôi trên biển.
– Bà Tinh Vệ của Trung Hoa chỉ có thể chết đuối ở biển Đông, tức là vùng ven biển của Việt Nam ngày nay, chứ thời vua Viêm Đế Trung Hoa theo định vị của sử Tàu đang ở tít trong vùng Thiểm Tây Hoàng Hà, làm gì có biển mà chết đuối.
– Do việc “trị hải” cho nhân dân mà bà Tinh Vệ đã bị chết đuối ngoài biển. Ý chí dời non lấp biển, chinh phục thiên nhiên của Tinh Vệ chưa bao giờ ngừng. Chính vì những công đức này mà Tinh Vệ đã được cả người Việt lẫn người Chăm tôn thờ thành Thiên Y Thánh Mẫu, tức là ngôi Thánh Mẫu tương đương với bà Mẹ Trời, Thượng Thiên của tín ngưỡng Tứ phủ.
Tại sao một nhân vật từ thời thượng cổ của Trung Hoa lại thành ra vị nữ thần của người Chăm ở tận miền Trung Việt? Tại sao một nữ thần Chăm lại là con gái vua Hùng?
Điều này chỉ có thể giải thích được nếu biết người Chăm vốn là nhánh phía Nam (hướng Xích đạo) của dòng họ Hùng. Truyền thuyết Việt Truyện họ Hồng Bàng kể vua Hùng Đế Minh cho Đế Nghi làm vua phương Bắc, Lộc Tục làm vua phương Nam. Phương Bắc Nam nay đã bị đảo lộn. Dòng Đế Nghi là dòng tộc phát triển xuôi xuống hướng Xích đạo hay Viêm phương. Vì thế truyền thuyết mới chép Tinh Vệ là con gái Viêm Đế hay vua Viêm phương, xứ nóng.
Vua Trần Nhân Tông đã đặt tên cho núi Đại Điền là Đại An và tự tay ghi câu đối ở chùa Đại An:
Đại Việt cơ đồ tu hưng phục
An Chiêm sự nghiệp lại diên khang.
Tên núi Đại An và tên gọi trong câu đối này cho biết xứ Chiêm còn gọi là An Chiêm. Chính điểm này xác định khu vực Nam Trung Bộ là nước An hay Yên của thời Chu (Văn Lang). An = Ơn là số 2 chỉ Viêm phương trong Hà thư. An cũng là Ôn, chỉ phương nóng bức.
Thêm một so sánh nữa. Rất có thể tích Thiên Y Thánh Mẫu của người Chiêm được truyền thuyết Việt kể lại trong Sự tích quả dưa hấu về Mai An Tiêm. Tiêm = Chiêm, hoàn toàn hợp lý. An Tiêm tức là An Chiêm mà Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã nói. Việc trồng dưa và khai phá vùng đất ven biển cũng được nói rõ trong cả 2 sự tích về Mai An Tiêm và Thiên Y A Na.
Câu đối ở đền thờ Mai An Tiêm ở Nga Sơn (Thanh Hóa):
萬山發跡留瓜種
神浮濤鎮靜海波
Vạn Sơn phát tích lưu qua chủng
Thần Phù đào trấn tịnh hải ba.
Dịch:
Vạn Sơn phát tích còn dưa đỏ
Thần Phù trấn sóng lặng biển xanh.

IMG_4955Đền thờ vợ chồng Mai An Tiêm ở Nga Sơn, Thanh Hóa.

Vậy Mai An Tiên là Chấn Long Thần Phi và vợ chính là Thiên Y Thánh Mẫu. Mai là ban mai, phương mặt trời mọc, tức phương Đông. Còn Chấn Long đều có nghĩa là phía Đông, Chấn là quẻ Chấn chỉ phía Đông trong Bát quái, Long là con vật tượng trưng của phương Đông. Chấn Long Thần Phi hiểu đơn giản là vị phi thần phía Đông.
Bản thân cái tên Thiên Y a na rất có thể là cách đọc tam sao thất bản của Tiêm Yên hay An Tiêm. Mai An Tiêm còn là “Thái tử Bắc Hải” được nhắc đến trong truyền thuyết của người Chăm.
Sự tích Chấn Long – Tinh Vệ đã được phản ánh bằng một bài thơ rất hay ghi trong sách Trung Châu nhân vật ký:
Đại Điền cổ xứ thị trầm hương
Đông chí phong ba nịch thủy luân
Tinh Vệ, Chấn Long di thực hải
Hoằng khai gia lý phú diên khang.
Tạm dịch:
Đại Điền xưa ấy xứ Trầm hương
Đông tới phong ba nước ngập tràn
Tinh Vệ, Chấn Long dời chắn biển
Mở ra thôn xóm mãi yên lành.
Bài thơ này có chi tiết là vùng Đại Điền vào mùa Đông có nước lớn. Điều này rất chính xác vì vùng Nam Trung Bộ Việt (Trung Châu) có chế độ mưa thu đông, mùa đông mới là mùa mưa, khác hoàn toàn so với vùng miền Bắc Việt là mưa hè.
Dưa hấu được gọi là Tây Qua, vì theo sự tích Mai An Tiêm thì do loài chim mang từ phía Tây tới. Điều này trùng hợp với truyện Tinh Vệ lấy đá núi Tây mà lấp biển, còn Thiên Y A Na vốn trồng dưa ở núi Tây – Đại Điền.
Thật bất ngờ khi biết được rằng vị thánh mẫu Thiên chủ của người Chăm miền Trung lại chính là Tinh Vệ của Trung Hoa, là vợ Mai An Tiêm của người Việt thời Hùng Vương. Đây là câu truyện kể về người Việt – Chăm – Hoa đã khai phá vùng ven biển phương Nam. Tất cả càng thêm sáng rõ: Việt – Hoa – Chăm vốn là những dân tộc cùng nguồn gốc, cùng xuất phát từ dòng dõi các vua Hùng.