Câu đối ở đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng:
Mẫu phúc thụ tư, miếu mạo Tương linh thiên tải hậu
Nhân sinh ngưỡng chỉ, thần công Đông Hán bách niên tiền
Câu đối này tuy đơn giản nhưng có 2 chỗ cần suy nghĩ. Ở vế đầu có tên riêng “Tương linh” không rõ nghĩa là gì. Ở vế sau có nói tới “bách niên tiền” – “trăm năm trước”. Trăm năm là so với thời điểm nào, tại sao khởi nghĩa Hai Bà Trưng lại kéo dài tới trăm năm?
Chữ “Tương linh” đối với “Đông Hán” rõ ràng là tên riêng, chỉ Hai Bà Trưng. Có thể có mấy cách giải thích:
– “Tương linh” là thần sông Tương, lấy tích Nga Hoàng Nữ Anh mà chỉ Hai Bà. Nga Hoàng Nữ Anh là con của Đế Nghiêu được gả cho Đế Thuấn. Khi Đế Thuấn mất hai vị vương phi này đã tự vẫn theo chồng ở sông Tương. Còn Hai Bà Trưng khi Thi Sách bị giặc giết thì tự mình phất cờ khởi nghĩa, giành thắng lợi, sau đó khi Mã Viện tấn công chị em đã tự vẫn ở sông Hát. Liên hệ sự so sánh này với câu đối đã trình bày ở bài trước tại đền Hát Môn:
Việt tổ bách nam, gián xuất anh thư năng phục quốc
Đường sơ song nữ, vị văn khuê tú tự hưng vương.
Dịch:
Trăm trai tổ Việt, chợt có bậc anh thư tài phục quốc
Đôi gái sơ Đường, có nghe đấng khuê tú tự xưng vua.
– Một khả năng khác: “Tương” là chữ ghi kỵ húy của vua Trưng. Trong đền Hát Môn không thấy chỗ nào có chữ Trưng cả, mà chỉ dùng Tương để chỉ Trưng vương. Ví dụ như trong câu:
Tây Giang tỉ muội thần Tương nữ
Đông Hán tung hoành bá Việt vương.
Dịch:
Ngang dọc Việt vương làm bá chủ thời Đông Hán
Chị em Trưng nữ hoá thần thánh ở sông Tây.
Tây Giang ở đây có lẽ chỉ sông Hát.
Việc chữ Tương dùng ghi kỵ húy cho tên Trưng cho thấy khả năng Hai Bà có họ… Trương. Tương = Trương = Trưng. Trong bách gia tính của người Hoa Việt không hề có họ Trưng nên khả năng Hai Bà mang họ Trương thì hợp lý hơn.
Vấn đề thứ hai về cụm từ “bách niên tiền” phức tạp hơn. Nếu hiểu thông thường “thần công Đông Hán bách niên tiền” có nghĩa là “thần công của nhà Đông Hán trăm năm trước”. Tuy nhiên dịch như vậy thành ra vô lý. Câu đối trong đền thờ Hai Bà Trưng không thể ca ngợi “thần công” của nhà Đông Hán được. Còn “trăm năm trước” thì càng chẳng biết tính trăm năm là từ lúc nào. Câu đối này làm ra vào khoảng thời Nguyễn, từ thời Đông Hán đến thời Nguyễn có cả ngàn năm, làm sao tính có trăm năm được?
Về đối thứ hai cần hiểu như sau:
– “Thần công Đông Hán” không phải là “thần công của nhà Đông Hán” mà là thần công (của Hai Bà Trưng) vào thời Đông Hán.
– “Bách niên tiền” không hiểu là vào trăm năm trước mà là trong vòng trăm năm xưa.
Như vậy vế đối này hiểu là:
Người đời còn ngưỡng mộ, công nghiệp trăm năm thời Đông Hán xưa.
Tới đây thì có vấn đề phải bàn. Theo sử Trưng nữ vương khởi nghĩa thành công, lên ngôi vua năm 40 sau CN. Sau đó chỉ vẹn vẻn có 3 năm, tới năm 43 Hán Quang Vũ sai Phục Ba Mã Viện sang đàn áp. Vậy “thần công trăm năm” của Hai Bà ở đây là gì?
Thiên Nam ngữ lục có kể chuyện khác với chính sử. Mã Viện đánh nhau long trời lở đất với Hai Bà Trưng, không thắng được, phải giảng hòa, dựng cột đồng ở Man Thành (Quảng Tây). Hai Bà sau đó không may bị nhiễm bệnh mà mất.
Theo chính sử, người kế tục Hai Bà là Đô Dương, đã kháng cự thành công quân Mã Viện ở Cửu Chân. Hàng loạt khởi nghĩa tiếp theo của Chu Đạt, Lương Long, Triệu Thị Trinh cho thấy sự nghiệp khởi đầu từ Hai Bà Trưng đã không chỉ dừng lại có 3 năm, mà đây là một cuộc kháng chiến… trường kỳ, trong suốt thời Đông Hán, tới thời Tam Quốc mới mở ra cục diện khác…
Dịch lại câu đối trên:
Đền miếu nghìn thu, linh thiêng phúc lớn từ Trưng Mẫu
Sự nghiệp trăm năm, ngưỡng mộ người đời thủa Hán Ngô.
Cuộc khởi nghĩa của Trưng nữ vương nổ ra trên bảy quận Hoa Nam thời Đông Hán đã không thất bại. Trái lại khởi nghĩa nối tiếp khởi nghĩa, kéo dài cả trăm năm, làm nhà Đông Hán lung lay tận gốc và sụp đổ, dẫn đến cục diện hai nước của người Bách Việt là Thục và Ngô chống giặc Ngụy.
Nếu gạch “Giang Tây chuyên” là gạch của Tĩnh Hải quân thì “Tây Giang” ở câu đối trên cũng có thể nghĩa là đất Tĩnh Hải. Như vậy sẽ hợp lý hơn vì khó mà trong cùng một vế có tới 2 con sông (Tây Giang và sông Tương).
Văn nhân góp ý:
Bách Việt thân, Tôi đang suy nghĩ, có thể 2 chữ Việt hiện thường dùng lẫn lộn thực ra chỉ 2 khái niệm khác nhau có thể phân biệt rạch ròi:
– Chữ Việt bộ Mễ là chữ Việt Tĩnh dùng chỉ đất nước – quốc gia. (đất thì tĩnh)
– Chữ Việt bộ Qua (tẩu?) là chữ Việt động dùng chỉ dân tộc – dòng giống (người
thì động). Có phân biệt như thế mới có thể lý giải … tại sao lại có tới 2 chữ Việt?