Vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt

Câu đối ở điện Long Hưng (Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên) nơi thờ Triệu Vũ Đế, vị vua đầu của nước Nam Việt:
一指已無秦萬里開先閩貉絶
两立何難漢億年倡始帝王基
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch:
Một lệnh dẹp không Tần, vạn dặm mở đầu dứt Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, nghìn năm gây nền vững đế vương.
Vế đầu của câu đối này nói tới cuộc khởi nghĩa của Triệu Đà đã giành thắng lợi nhanh chóng dưới thời Tần:
Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương (Nam Việt Úy Đà liệt truyện, Sử ký Tư Mã Thiên).
Và sự kiện Triệu Đà khuất phục Mân Việt và Âu Lạc vào thời Tây Hán:
Cao Hậu mất, liền bãi binh. Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”, chẳng kém gì Trung Quốc.

xuan-quanTiền đình điện Long Hưng ở Xuân Quan.

Vấn đề đặt ra là đất Tây Âu (Lạc) được nói đến trong Sử ký Tư Mã Thiên ở trên là chỗ nào. Việc xác định vị trí đất Âu Lạc liên quan đến sự lịch sử của triều đại trước đó, tức là thời kỳ An Dương Vương, một thời kỳ “nửa thực nửa hư” trong quan niệm của các sử gia ngày nay.
Cũng trong Nam Việt Úy Đà liệt truyện, khi tiếp sứ giả nhà Tây Hán là Lục Giả thì Triệu Đà có đề cập: Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”.
Như vậy Âu Lạc hay Tây Âu là mảnh đất nằm ở phía Tây nước Nam Việt. Quan trọng hơn đây là khu vực không thuộc sự cai quản của Nam Việt vì chỉ “lệ thuộc” và vẫn xưng vương. Tây Âu và Mân Việt lúc này vẫn độc lập, chỉ theo Nam Việt dưới dạng nước chư hầu.
Bằng chứng về sự độc lập của 2 nước này đối với Nam Việt là sự kiện vua Mân Việt tấn công Nam Việt sau khi Triệu Đà mất:
Đà mất, cháu Đà là Hồ làm Nam Việt Vương. Lúc bấy giờ vua Mân Việt là Dĩnh đem binh đánh các ấp ngoài biên của nước Nam Việt.
Nếu Mân Việt đã thuộc Nam Việt trước đó thì không thể vẫn còn vua và tấn công Nam Việt.
Cuộc tấn công này đã buộc vua Nam Việt là Triệu Hồ phải nhờ nhà Tây Hán (nhà Hiếu) giúp chống lại quân Mân Việt. Nhưng Quân của Hán chưa vượt núi Ngũ Lĩnh thì em của Mân Việt Vương là Dư Thiện đã giết Dĩnh để hàng.
Vì Mân Việt đã hàng Nam Việt nên đây là thời điểm đất Mân Việt trở thành 1 quận của nước Nam Việt. Đây chính là quận Thương Ngô, do Tần Vương là Triệu Quang, một người trong hoàng tộc nhà Triệu cai quản như được nói đến trong truyện.
Mân Việt đã sát nhập vào Nam Việt nhưng vùng Tây Âu thì không. Do đó khi Lộ Bác Đức nhà Hiếu (Tây Hán) đánh dẹp Nam Việt, bắt vua Vệ Dương Vương Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia thì: Thương Ngô Vương là Triệu Quang là người cùng họ với Việt Vương, nghe quân nhà Hán đến, cùng quan huyện lệnh Kê Dương của Việt tên là Định tự quyết định đi theo nhà Hán; quan giám quận Quế Lâm của Việt tên là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán. Những người này đều được phong tước hầu.
Như vậy đất Mân Việt cũ, thời Triệu Vệ Dương Vương là quận Thương Ngô, đã hàng nhà Tây Hán. Còn nước Âu Lạc thì được quan giám của quận Quế Lâm dụ, cũng theo về nhà Tây Hán.
au-lac

Các quận và khu vực lân cận nước Nam Việt nhà Triệu
(Tên quận trong nước Nam Việt lấy theo tên các quận thời Tần).

Từ tất cả những sự kiện và nhận định trên, vị trí các quận, đất thời Nam Việt có thể được xác định như sau (xem bản đồ):
– Quận Nam Hải thời Tần, nơi có kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt, là khu vực tỉnh Quảng Đông ngày nay.
– Quận Quế Lâm là khu vực tỉnh Quảng Tây.
– Vùng Bắc Việt ngày nay là quận Long Xuyên hay Tam Xuyên, nơi Triệu Vũ Đế khởi nghĩa ban đầu chống Tần. Đây cũng là phần đất Lạc trong Âu Lạc.
– Nước Mân Việt, sau thành quận Thương Ngô của Nam Việt, là khu vực phía Đông Nam Việt, tức là vùng Phúc Kiến và Chiết Giang.
– Khu vực tỉnh Quý Châu là đất Dạ Lang hay Ba Thục, thuộc nhà Tây Hán vì trong các cánh quân của Lộ Bác Đức đánh Nam Việt có Trì Nghĩa Hầu, đem thêm tội nhân nước Ba Thục, đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường Kha.
– Nước Tây Âu hay Tây Âu Lạc nằm ở phía Tây của Nam Việt, như vậy phải là khu vực tỉnh Vân Nam. Thời Tần đây là quận Tượng vì bản thân từ Tượng là chỉ phía Tây. Khả năng thủ lĩnh vùng Tây Âu (Vân Nam) lúc này gọi là Điền vương.
Hán thư chép: “Năm thứ 5 niên hiệu Nguyên Phượng thời Hiếu Chiêu Đế quận Tượng bị bãi bỏ, chia cắt vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha”.
Sự kiện này một lần nữa cho thấy quận Tượng không thuộc đất Nam Việt của nhà Triệu vì sau khi Tây Hán chiếm Nam Việt chia vùng này thành 9 quận, không có quận Tượng ở trong: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đam Nhĩ, Châu Nhai, Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô. Dưới thời Hiếu Chiêu Đế (76 TCN) quận Tượng cũ bị đổi thành quận Tường Kha và một phần nhập vào quận Uất Lâm.
Chỗ khó giải thích ở đây là tại sao khi đánh Tần thì Triệu Vũ Đế đã chiếm được Tượng quận, nhưng tới sau đó (sau khi Lữ Hậu mất) Tượng quận lại không nằm trong Nam Việt, và Triệu Đà phải dùng của cải mua chuộc để Tây Âu (vùng Tượng quận thời Tần) theo mình?
Điều này chỉ có thể hiểu khi nhận ra, thực ra có 2 người được Sử ký Tư Mã Thiên cùng chép thành Vũ Đế Triệu Đà. Một Triệu Vũ Đế lãnh đạo người Việt khởi nghĩa kháng Tần, khi Tần Thủy Hoàng mất đã lấy lại 3 quận mà Tần lập ra trên đất Việt và xưng Nam Việt Vũ Vương. Một Triệu Đà thứ hai nổi lên sau khi Lữ Hậu mất, chỉ chiếm các khu vực Bắc Việt và Lưỡng Quảng (3 quận Long Xuyên, Nam Hải, Quế Lâm), rồi phủ dụ 2 nước Tây Âu và Mân Việt phục tùng mình.
Thêm về nước Âu Lạc xưa thời An Dương Vương. Theo đúng mô tả của sử sách về nước Văn Lang, cũng là Âu lạc, có Bắc giáp Hồ Nam (Trường Sa Động Đình), Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Xuyên Thục (Tứ Xuyên), đông giáp quận Nam Hải (Quảng Đông). Như vậy nước Âu Lạc này gồm đất các tỉnh sau:
– Vân Nam: là đất Tây Âu, tức phần Tây của đất Âu.
– Quảng Tây: là quận Quế Lâm thời Tần – Nam Việt.
– Quý Châu: là Dạ Lang. Quảng Tây và Quý Châu là phần Đông của đất Âu.
– Bắc Việt: là Long Xuyên thời Tần – Nam Việt. Là phần đất Lạc trong Âu Lạc.

au-lac-2

Phạm vi Âu Lạc thời An Dương Vương.

Những sự tích trên miền đất tổ

Vùng đất Phong Châu ở Vĩnh Phúc – Phú Thọ theo truyền thống được chia  thành 3 khu vực văn hóa dân gian (folklore) chính, bao gồm:
– Khu vực Hùng Vương
– Khu vực Thánh Tản
– Khu vực Hai Bà Trưng.
Cách chia này tỏ ra hợp lý vì nó phản ánh được sự phong phú của những phong tục, lễ hội, truyền thuyết trên vùng đất tổ. Những di tích, sự tích lưu lại ở vùng đất này cũng là những minh chứng cho những thời kỳ lịch sử của dân tộc mà Phong Châu đóng vai trò trung tâm chính trị văn hóa trong quá khứ.

Vinh Phu

Vị trí các địa danh trong bài viết.

HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC
Rất không chính xác khi cho rằng những vị Hùng Vương được thờ ở vùng Phong Châu đều là hàng con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Thời đại Hùng Vương không phải bắt đầu từ vị Hùng Quốc Vương, con cả của Âu Cơ. Vị vua Hùng đầu tiên phải là Đế Minh, cháu 3 đời Viêm Đế Thần Nông, người mở sử Việt như được chép trong Truyện họ Hồng Bàng:
Cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần thú phương Nam, tới miền Ngũ Lĩnh, gặp con gái bà Vụ Tiên, đem lòng yêu thích, lấy về, sinh ra Lộc Tục.
Tại vùng Vĩnh Phú Đế Minh được thờ với cái tên Đột ngột Cao Sơn. Chính vị thờ ở đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh (Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ) có bài vị ghi Đột ngột Cao Sơn cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương. “Đột ngột” nghĩa là bất ngờ xuất hiện, ý nói tới người đầu tiên. Cao = Cả là từ chỉ thủ lĩnh. Sơn là núi, là quẻ Cấn trong Bát quái, chỉ phương Nam xưa (Bắc nay). Đột ngột Cao Sơn hiểu nôm na là vị vua đầu tiên của trời Nam. Vị vua đầu tiên của trời Nam, mở đầu 18 đời Hùng Vương thì phải là Đế Minh.

IMG_0176Hùng Vương miếu ở Đình Chu.

Ở xã Đình Chu (Lập Thạch, Vĩnh Phúc) có đình và miếu Hùng Vương, đặc biệt chỉ thờ riêng Đột Ngột Cao Sơn. Câu đối ở miếu Hùng Vương tại Đình Chu:
十 八 葉 璽 符南 國 初 頭 第 一
億 萬 年 香 火 西 天 上 等 最 靈
Thập bát diệp tỉ phù, Nam quốc sơ đầu đệ nhất
Ức vạn niên hương hỏa, Tây thiên thượng đẳng tối linh.
Dịch:
Mười tám đời ấn phù, nước Nam ban đầu thứ nhất
Ức vạn năm hương khói, trời Tây thượng đẳng tối linh.
Trời Tây được nói tới đây là vùng đất Phong Châu hay vùng Tây Thổ của các vua Hùng. Bản thân chữ Chu trong tên Đình Chu cũng có nghĩa là hướng Tây vì Chu = Châu = Chiêu = Chiều. Chu Đề (tên cũ của xã này) nghĩa nôm na là vị đế của vùng trời Tây. Đình Chu là cái “đình” hay nơi đóng quân phía Tây.
Đất Phong Châu là nơi Đế Minh đóng đô dựng nước đầu tiên nên còn gọi là Minh Đô. Còn Tây Thiên cũng là vùng đất của bà Tây Thiên Quốc Mẫu, vị nữ thần núi Tam Đảo. Tây Thiên Quốc Mẫu có tên Lăng Thị Tiêu, chính là “con gái bà Vụ Tiên” được nhắc tới trong chuyện của Đế Minh. Vùng chân núi Tam Đảo là phạm vi của tín ngưỡng thờ Tây Thiên Quốc Mẫu với hàng chục các di tích khác nhau. Cách không xa Hùng Vương miếu của xã Đình Chu là đền Đại Lữ (Đồng Ích, Lập Thạch, Vĩnh Phú), tương truyền là nơi Tây Thiên quốc mẫu đã tập hợp quân đội giúp vua Hùng đánh giặc. Như vậy Đình Chu chính là nơi tưởng nhớ sự gặp gỡ của vua Hùng Đế Minh với Tây Thiên quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, dẫn đến lập đô ở đất Phong Châu, mở ra thời đại Hùng Vương của người Việt.

P1210820Tam Đảo linh từ ở Đại Lữ.

Đế Minh cũng là Hoàng Đế Hiên Viên, người mở đầu của Hoa sử. Còn bà Tây Thiên là Mẫu chủ của Thiên phủ hay Cửu Thiên Huyền Nữ, cũng là Tây Vương Mẫu trong Đạo Giáo. Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu được người Hoa và người Việt tôn là ông Trời, bà Trời vì là những vị tiên tổ đầu tiên khai sinh ra quốc gia, giống nòi.
Câu đối khác ở miếu Đình Chu:
西 州 堯 舜 垂 衣 日
南 粤 鴻 厖 拓 土 年
Tây Châu Nghiêu Thuấn thùy y nhật
Nam Việt Hồng Bàng thác thổ niên.
Dịch:
Tây Châu rủ áo ngày Nghiêu Thuấn
Nam Việt năm mở đất Hồng Bàng.
Thành ngữ “thùy y củng thủ” nghĩa là “chắp tay rủ áo”, chỉ sự cai trị thiên hạ một cách thái bình, yên vui. Nghiêu Thuấn là Đế Nghiêu và Đế Thuấn, những vị vua thời thịnh trị của cổ sử Trung Hoa. Tưởng là ở đây chỉ dùng điển ngữ để nói tới sự thịnh trị thời Hùng Vương, nhưng sự thực thì…
Truyện họ Hồng Bàng tiếp: Đế Minh thấy thế, lấy làm lạ, cho nối vua, nhưng Lộc Tộc cố nhường cho anh là Đế Nghi, không dám vâng mệnh. Đế Minh vì vậy lập Đế Nghi thay mình cai trị đất Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ.
Đế Nghi là Đế Nghiêu của Hoa sử, người đã tiếp ngôi Hoàng Đế – Đế Minh. Còn Lộc Tục, con của Đế Minh với dòng Vụ Tiên là Đế Thuấn. Đế Nghi và Lộc Tục hay Đế Nghiêu và Đế Thuấn được thờ ở vùng Phong Châu cùng với Đế Minh dưới tên Ất SơnViễn Sơn, như trong bài vị tại Đền Hùng (Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ). Người Việt tôn 3 vị vua Hùng đầu tiên này làm quốc tổ của mình, thành kính thờ cúng hàng năm trong quốc lễ.

P1210805Lịch Sơn (núi Sáng) và Lôi Trạch (hồ Suối Sỏi ở xã Lãng Công, Lập Thạch).

Lộc Tục hay Đế Thuấn là dòng của Tây Thiên quốc mẫu ở dãy Tam Đảo. Di tích còn lại ở đây khẳng định thêm điều này. Phía bắc liền dãy với Tây Thiên Tam Đảo là dãy Lịch Sơn, nằm giữa huyện Sơn Dương của Tuyên Quang và huyện Sông Lô của Vĩnh Phúc. Ngọn núi cao nhất của dãy Lịch Sơn là núi Sáng, trên có cánh đồng Bách Bung nơi Đế Thuấn đi cày và chân núi có hồ Lôi Trạch nơi Đế Thuấn bắt cá…
Như vậy tục thờ Hùng Vương ở vùng đất Phong Châu trước hết là thờ 3 vị thánh tổ khai mở đầu tiên của nước Nam gồm 2 dòng Nam và Bắc thời cổ. Đế Minh và Đế Nghi – Đế Nghiêu là dòng Viêm Đế Thần Nông ở phương nóng bức (phương Bắc xưa). Bà Tây Thiên và Lộc Tục – Đế Thuấn là dòng phương Nam xưa. Phong Châu là vùng Minh đô thời Hùng Vương, nơi hội tụ của 2 dòng Nam Bắc thời mở nước.

SƠN TINH – THỦY TINH
Sự tích về Tản Viên Sơn Thánh ở vùng Phong Châu không chỉ bó hẹp ở mỗi nhân vật Tản Viên. Đây là giai đoạn tiếp theo của thời Hùng Vương dựng nước trong Truyện họ Hồng Bàng:
Kinh Dương Vương có tài xuống Thủy Phủ, lấy con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, ấy là Lạc Long Quân, thay cha trị nước.
Kinh Dương Vương ở đây là Tản Viên Sơn Thánh, hay vua Đại Vũ, người đã nhận lại ngôi từ Đế Thuấn theo lối truyền hiền (con rể vua Hùng). Một số hành cung Tản Viên như đền Thính và đền Tranh (Yên Lạc) nằm trên đất Vĩnh Phúc. Quê hương Tản Viên là Lăng Xương ở Thanh Thủy, Phú Thọ.
Sơn Thánh sau khi được cây gậy thần đầu sinh đầu tử trên núi Tản đã cứu sống con rắn thần bên sông, là Thủy Tinh, con của Long Vương Động Đình. Đây là chuyện Kinh Dương Vương lấy Long Nữ Động Đình được kể đến, là sự kết hợp của Lạc tộc (Lộc Tục) với Long tộc để hội tụ đầy đủ 4 phương Đông Tây Nam Bắc trong buổi đầu dựng nước. Thần Long Hồng Đăng Ngạn, bà mẹ của Lạc Long Quân, được thờ là Mẫu Thoải trong tín ngưỡng Tứ phủ và có đền thờ riêng là đền Tiên Cát ở Việt Trì.

IMG_8998Đền Tiên Cát ở Việt Trì.

Diễn biến tiếp theo của thời kỳ này là sự xuất hiện của Lạc Long Quân. Truyện họ Hồng Bàng kể: Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Nhân khi phương Bắc vô sự, nhớ đến chuyện ông mình là Đế Minh đi tuần thú phương Nam gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn bảo kẻ bề tôi thân cận là Xuy Vưu, thay mình giữ nước, rồi đi tuần du nước Xích Quỷ ở phương Nam. Đến nơi, Đế Lai thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước vô chủ, bèn để cho ái nữ Âu Cơ và những kẻ hầu hạ ở lại nơi hành tại, còn mình thì đi dạo chơi trong thiên hạ, xem khắp các nơi hình thắng. Thấy những hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, tê tượng đồi mồi, bạc vàng châu ngọc, tiêu quế nhũ hương, trầm đàn các vị, cùng sơn hào hải vật không thiếu một thứ nào. Bốn mùa khí hậu lại không lạnh không nóng, Đế Lai lòng yêu thích, quên cả chuyện về. Nhân dân nước Nam khổ vì cảnh phiền nhiễu, không được yên lành như xưa, ngày đêm mong Long Quân trở lại, bèn cùng nhau cất tiếng gọi rằng: “Bố ở nơi nao, hãy mau về cứu chúng con!”. Long Quân thoát nhiên trở về, thấy Âu Cơ đang một mình, dung mạo tuyệt mỹ. Long Quân lấy làm yêu thích, bèn hóa thành một chàng trai hình dáng xinh đẹp, tả hữu trước sau có đông đảo kẻ hầu người hạ, tiếng ca tiếng nhạc vang lừng đến nơi hành tại. Âu Cơ thấy Long Quân, lòng cũng xiêu xiêu. Long Quân đón về ở động Long Trang. Đến lúc Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần, biến hóa ra trăm hình vạn vẻ, nào yêu tinh quỷ mị, nào rồng rắn hổ voi, làm cho kẻ đi tìm sợ hãi không dám lục sạo, Đế Lai đành phải trở về phương Bắc.
Tản Viên Sơn Thánh do nhận ngôi từ dòng vua Hùng Đế Minh nên khi mất muốn truyền lại cho con cháu dòng này là Đế Lai. Đế Lai tức là Đế Lửa, hoặc còn gọi là Đế Ai, tức là Đế Hai (Ất, Ích, số 2 chỉ phương xích đạo). Đế Lai thuộc dòng tộc phương Nóng (phương Bắc xưa của Viêm Đế Thần Nông). Tuy nhiên, con của Tản Viên là Long Quân không đồng ý, đã làm ra cuộc chiến với Đế Lai để đoạt lấy nàng Âu Cơ (hình ảnh của vương vị). Nhờ sự trợ giúp của dòng tộc bên mẹ là Long Nữ Động Đình, Long Quân đã dành chiến thắng. Dòng Đế Lai thất bại phải bỏ xứ mà đi.
Dấu tích của cuộc nội chiến giữa 2 dòng tộc này được truyền thuyết ở vùng Vĩnh Phú kể lại dưới một loạt các hình ảnh:
– Âu Cơ và Lạc Long Quân thủy hỏa xung khắc, chia đàn con Bách Việt làm 2, kẻ lên rừng, người xuống biển.
– Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh đoạt Mỵ Nương (vương vị), gây ra cuộc chiến dữ dội liên miên.
– Vua Hùng đánh thắng giặc Thục với sự giúp đỡ của Sơn Tinh.
Trong nhóm sự tích về Sơn Tinh – Thủy Tinh có chuyện Hùng Hải trị nước như ở đình Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ). Hùng Hải chính là Hải Lang Lạc Long Quân. Tam Công, ba người con của Hùng Hải là các vị quan lớn đã giúp Long Quân trong cuộc chiến Hùng – Thục. Những sự tích về các thủy thần, sinh ra trong một bọc trứng, giúp vua Hùng đánh Thục ở vùng Phong Châu về thực chất là chuyện Lạc Long Quân đánh dòng Đế Lai – Âu Cơ. Hai vị thần sông Bạch Hạc là Thổ Lệnh và Thạch Khanh cũng là 2 vị quan lớn đệ Tam và đệ Ngũ trong Thoải phủ, là những anh em đã giúp Lạc Long quân trong cuộc chiến Hùng Thục.

P1220064Tranh bơi thuyền rồng ở đền Tam Công tại Đào Xá.

Trong tam vị Tản Viên (Ba Vì) thì ngoài Tản Viên còn có các vị Cao Sơn và Quý Minh. Cao Sơn ở đây chỉ dòng Lạc tộc từ Tây Thiên quốc mẫu ở núi cao Tam Đảo phía Nam xưa. Còn Quý Minh là chỉ dòng dõi Long tộc của Long Nữ Động Đình vì Quý là số 3 (trong thứ tự Mạnh, Trọng, Quý), chỉ phương Đông, Thoải phủ (phủ Tam). Bản thân bà Mẫu Thoải gọi là Quý Nương.
Trong cuộc chiến Hùng – Thục dòng Đế Lai – Âu Cơ tuy thất bại, phải rời xứ nhưng cuộc chiến giữa 2 dòng tộc này như chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh vẫn xảy ra hàng năm không dứt. 1000 năm sau, kết thúc thắng lợi của Thục An Dương Vương trước Hùng Vương là sự tích Âu Cơ dẫn 50 người con lên núi lập nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Đền thờ mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương (Phú Thọ). 2 dòng tộc Âu và Lạc lại một lần nữa hòa hợp thành nước Âu Lạc. Thục An Dương Vương lên ngôi ở núi Nghĩa Lĩnh, dựng cột đá thề thề trung thành nối tiếp cơ nghiệp của dòng họ Hùng từ Hoàng Đế Đế Minh.

LỮ GIA VÀ TRƯNG VƯƠNG
Sau nước Văn Lang của mẹ Âu Cơ có một quãng thời gian khá dài đất Phong Châu không đóng vai trò trung tâm chính trị của nước Nam. Phải tới khi nhà Triệu Nam Việt sụp đổ, Trưng nữ Vương phất cờ khởi nghĩa ở đất Phong Châu thì vùng đất này lại dày đặc những sự tích, di tích của cuộc khởi nghĩa kỳ lạ này.
Chuyện về khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Phong Châu phải kể từ thừa tướng nhà Triệu là Lữ Gia. Sau khi kinh đô của Nam Việt ở Phiên Ngung thất thủ Lữ Gia đã rút về vùng đất Phong Châu tiếp tục chống giặc. Những di tích của Lữ Gia gặp ở nhiều nơi hai bên bờ sông Lô, tương truyền là phòng tuyến cuối cùng của họ Lữ.
Một di tích thờ Lữ Gia là đình Sen Hồ (Thái Hòa, Lập Thạch, Vĩnh Phúc). Căn cứ vào các sắc phong thì đình Sen Hồ thờ hai vị thành hoàng là:
1. Ông Nguyễn Triêu Lệ, tướng nhà Triệu
2. Bà An Bình Phu Nhân, tức bà Quý Lan là tướng của Trưng Trắc.
Nguyễn Triêu Lệ là tên thờ của Lữ Gia ở vùng Vĩnh Phúc.
Ở chính gian đình Sen Hồ có câu đối:
宮粧戚譜聫輝世紀二徴存野史
廟貌山容相映地隣三島壯神居
Cung trang thích phả liên huy, thế kỷ nhị Trưng tồn dã sử
Miếu mạo sơn dung tương ánh, địa lân Tam Đảo tráng thần cư.
Dịch:
Phả ngoại trang cung nối ngời, thời kỷ Hai Trưng còn dã sử
Dáng núi mặt đền cùng rọi, đất bên Tam Đảo mạnh nơi thần.
Thông tin của câu đối nói tới “thích phả”, nghĩa là gia phả dòng tộc bên ngoại. Bên ngoại ở đây là như thế nào? Liên quan gì tới Lữ Gia và vị phu nhân thời Hai Bà Trưng?
Nhà Triệu Nam Việt từ Triệu Vũ Đế tồn tại tới năm 111 TCN thì bị tướng Lộ Bác Đức của nhà Hiếu (Tây Hán) dẫn quân tấn công kinh đô Phiêng Ngung ở Quảng Đông. Lữ Gia cùng vua Triệu Vệ Dương Vương và gia quyến lên thuyền chạy về đất Giao Chỉ. Triệu Vệ Dương Vương bị truy sát, bị bắt giết ở vùng cửa sông Đáy đổ ra biển. Truyền thuyết Việt lưu giữ sự kiện này dưới truyện Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử đuổi, chạy tới cửa Đại Ác thì đi ra biển mà mất. Lữ Gia về vùng Phong Châu, chiến đấu một thời gian rồi cũng hy sinh.
Tuy nhiên, con gái Lữ Gia là Ả Lã, cũng là hoàng phi của vua Triệu đã nối tiếp ý chí của cha, dựng cờ khởi nghĩa ở cửa Hát thề đền nợ nước (Nam Việt) trả thù nhà (cho vua Triệu). Ả Lã là Trưng nữ Vương. Vì vậy Lữ Gia mới là dòng dõi bên ngoại được nói đến trong câu đối ở đình Sen Hồ. Cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương tại Phong Châu không phải chống lại nhà Đông Hán, mà là chống lại nhà Hiếu (Tây Hán) sau khi nước Nam Việt thất thủ.

P1250850Đình Sen Hồ và dải núi Tây Thiên.

Theo tư liệu của nhà nghiên cứu dân gian Lê Kim Thuyên tại Vĩnh Phúc:
Vào thời Triệu Võ đế huý là Đà, ở bộ Cửu Chân, huyện Lôi Dương, phủ Nghệ An có một gia đình ông họ Lữ tên huý là Tạo, có nghề làm thuốc trị bệnh cứu người. Vợ là con gái nhà họ Trương tên là Châu, gọi là Trương Thị Ninh người bộ Vũ Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Hai người sinh được 07 người con nhưng đều đã mất sớm. Đến năm ông ở tuổi 60, mới sinh tiếp một con trai vào ngày 10 tháng 02 năm Tân Hợi (?), đặt tên là Gia. Khi lớn lên lại đặt tên là Lệ. Đến năm 15 tuổi thì cha mẹ đều qua đời…
Bởi thế ông mới qua bờ Bắc sông Nhĩ Hà đến nhờ người cậu ruột là Trương Viêm. Được tròn 03 năm, ông Viêm bị người bộ trưởng ở Vũ Ninh là Đào Trịnh mưu sát hại, chí muốn báo thù nhưng vì tuổi còn nhỏ, sức mỏng nên chưa thể làm nổi. Bởi vậy mới chuyển đến ở đất Ô – Lí thuộc Lâm Ấp, nương nhờ vào vị Thiền sư chùa Hoàng Long đạo hiệu là Huyền tông.
Ở đất Ô – Lí Gia ngày đêm vẫn mưu tính báo thù cho người cậu. Tự thân ông khổ công không nguôi, mới chiêu nạp được độ vài trăm người nghĩa binh, rồi dùng thuyền từ Linh Giang huyện Chí Linh tiến xuống cửa sông Bạch Đằng, bỏ thuyền lên bờ, gặp ngay bọn Đào Trịnh ở khe núi Chung Sơn. Ông hăng hái tiến đánh một trận giết chết bọn chúng. Rồi ông quay trở lại chỗ nhà người cậu, bàn bạc với người nhà làm lễ tế cậu chu tất. Rồi mới trở lại đất Lâm Ấp. Rồi cũng ở Lâm Ấp, ông kết hôn với 02 con gái nhà bộ trưởng đất ấy họ Hùng là Lâu Bảo Hoa và Nhĩ Bảo Hoa, rồi xin trở về quê nhà…
Đoạn tư liệu trên cung cấp thông tin liên quan giữa Lữ Gia với họ Trương. Đây là liên hệ để sau đó có cuộc khởi nghĩa của Trương Hống, Trương Hát hay Nhị Trưng Vương, là con của tể tướng Lữ Gia. Đoạn trên cũng đề cập tới quan hệ giữa Lữ Gia với đất Lâm Ấp. Chuyện này được kể đến trong sự tích Lý Phục Man, người đã đánh dẹp Lâm Ấp thời Tiền Lý. Lý Phục Man cũng là một cách kể khác của câu chuyện về Lữ Gia nhà Triệu.
Tể tướng Lữ Gia còn được truyền thuyết Việt lưu giữ dưới tên Đỗ Động tướng quân, tức tướng quân Đỗ Cảnh Thạc. Ở Vĩnh Phúc có khu vực đình Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh (Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) thờ 6 vị thành hoàng là:
– Chính vị: Ngô Xương Ngập (Thiên Sách hoàng đế) và mẹ (Linh Quang thái hậu)
– Đông vị: Ngô Xương Văn (Quốc vương thiên tử) và vợ (Ả Lã nương nương)
– Tây vị: Đỗ Cảnh Thạc và vợ (Thị Tùng phu nhân)
Khu vực Vĩnh Phúc không phải là vùng đất liên quan tới nhà Ngô của Ngô Quyền. Nhà Ngô ở đây là chỉ Phiên Ngô, Phiên Ngu ở phía Bắc, tức nhà Triệu Nam Việt. Nhận diện những vị thành hoàng được thờ ở cụm di tích Tam Canh như sau:
– Đỗ Động tướng quân là thừa tướng Lữ Gia. Di tích thành Quèn ở Quốc Oai (Hà Nội) với những di vật thời Hán xác nhận việc này.
– Ả Lã Nương Nương, chính xác hơn là Ả Lã Nương Đề, hay Ả Lữ Lang Tề, chính là Trưng Vương họ Lữ làm thủ lĩnh phương Tây (Lang Tề = Lang Tây hay Tây Vu Vương).
– Ngô Xương Văn chồng của Ả Lã như vậy ứng với vua Triệu Vệ Dương Vương.
– Linh Quang thái hậu chỉ Thái hậu Cù Thị của nhà Triệu, hay nàng Cảo Nương trong truyền thuyết Triệu Quang Phục, liên quan tới cái móng rồng (Linh Quang thần trảo) bị đánh tráo.
– Ngô Xương Ngập ở đây như vậy là Triệu Ai Vương, con của Cù hậu.
Di tích và tục thờ các nhân vật triều Ngô ở Tam Canh như vậy là gợi ý để xác định lại thông tin về nhà Ngô trong sử Việt, thực chất là chuyện của nhà Triệu nước Nam Việt.
Hai Bà Trưng đóng đô ở Mê Linh, không phải chỉ là vùng huyện Mê Linh ngày nay. Mê Linh đọc thiết âm là Minh, là vùng Minh đô của vua Hùng từ thời Đế Minh dựng nước. Mê Linh là đất Phong Châu của thời Hùng Vương. Vùng đất Tây Thổ Phong Châu, từ Minh Đô của vua Hùng đến Mê Linh của Trưng Vương là nơi ghi dấu của những triều đại, những cuộc khởi nghĩa, đấu tranh dựng nước và giữ nước oanh liệt trong lịch sử nước Nam.

Đi cày Lịch Sơn

Thần thoại Trung Hoa chép về Đế Thuấn, một vị vua thịnh trị thời Ngũ Đế:
Thời thượng cổ có vị vua họ Diêu tên Thuấn nổi tiếng hiếu thuận từ lúc còn thơ ấu. Cha của vua Thuấn là người hung bạo, không biết phân biệt đúng sai, hay dở nên người ta đặt cho cái tên Cổ Tẩu là người mù mắt. Mẹ Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu lấy vợ bé rồi sinh ra một người con trai tên Tượng. Cả hai mẹ con Tượng đều là người độc địa, ác nghiệt, thường xuyên hành hạ và đối xử tệ bạc với Thuấn.
Cha Thuấn nghe lời gièm pha của vợ bé, muốn giết Thuấn đi nên bắt Thuấn đi cày ruộng ở đất Lịch Sơn có nhiều chướng khí, dã thú và đi bắt cá ở hồ Lôi Trạch có nhiều sóng to, gió lớn. Chẳng những không trách cha mà Thuấn còn giữ tròn đạo hiếu với cha và mẹ kế và giữ hòa thuận với Tượng, riêng mình gánh chịu muôn điều cay đắng, bất công mà không một lời than thở.
Tấm lòng hiếu thảo, hòa mục của Thuấn động đến lòng trời. Trời sai cả đàn voi đến giúp Thuấn cày đất, muông chim đến giúp Thuấn nhặt cỏ, làm cho hồ Lôi Trạch sóng lặng, gió im để Thuấn đánh bắt cá. Chính vì lòng hiếu thảo mà Thuấn được vua Đường Nghiêu gả cho hai người con gái yêu và truyền ngôi báu.
Trong ca dao Việt và quan họ Bắc Ninh lời cổ có câu hát về Đế Thuấn:

Rủ nhau đi cấy xứ đương
Cấy cho vua Thuấn ở đồng Lịch Sơn.

Đồng Lịch Sơn nơi vua Thuấn đi cày nằm ở đâu mà dân ca Việt lại hát vậy? Trung Quốc cho rằng Đế Thuấn đóng kinh đô ở Bồ Phản nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Thời kỳ Đế Thuấn cách đây trên 4.000 năm, ở Sơn Tây Trung Quốc làm gì có điều kiện canh tác lúa mà đi cày đồng Lịch Sơn.

Hình vẽ Đế Thuấn thời Hán.

Liên quan đến tích vua Thuấn Việt Nam ở Lâm Thao – Phú Thọ có hội Tứ xã với trò diễn Trám. Tứ Xã là nơi có các di chỉ khảo cổ học nổi tiếng thời Hùng Vương như Gò Mun, Đồng Đậu con, Gót Rẽ… Cái tên Trám được các cụ già kể lại, nơi đây ngày xưa là rừng cây trong đó có nhiều cây Trám, theo tiếng Hán gọi là “Cổ Lãm”.
Hạt Trám cũng từng được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ thời Hùng Vương. Theo thư tịch Trung Hoa (Nam phương thảo mộc trạng đời Tấn) cây Trám của nước ta được chép là “Cảm Lãm”. GS. Trần Quốc Vượng từng cho rằng đây là phiên âm của tiếng Việt cổ clam có tổ hợp phụ âm kép cl.
Thực ra Cổ Lãm hay Cảm Lãm là những cụm từ ký âm Nôm bằng phép phiên thiết của từ Trám. Cổ Lãm – Cảm Lãm (và cả Khả Lãm) đọc thiết âm là Cám – Chám – Trám.
Trò Trám ở Tứ Xã là trò trình nghề tứ dân Sĩ – Nông – Công – Thương, trong đó có vai đóng “vua Thuấn cày voi”, hát ca trù:

Vốn tôi đây dòng dõi thần minh
Kẻ tên hiệu tôi là Ngu Thuấn
Nghĩ cha mẹ tôi càng oán hận
Hận ở điều ăn ở không cân
Em dượng tôi ngạo mạn bất nhân
Ân tôi phải dĩ nông vi bản
Tôi cũng mong hữu gia hữu sản
Nhác trông lên núi Lịch tốt thay
Ân tôi phải bắt voi cày núi đá.

Vua Thuấn, Ngũ Đế của Trung Hoa, mà lại đi cày ở đất Phú Thọ, lại còn nhìn thấy cả quả núi Lịch (Lịch Sơn) tươi tốt. Dân gian (ca trù, quan họ, lễ hội) Việt có “sính ngoại” quá không khi đã dùng tích của một vị vua khởi thủy được cho là của người Trung Quốc?
Sự thực thì Đế Thuấn của Trung Hoa đi cày đúng ở chính đất Phú Thọ chứ chẳng phải ở bên Tàu. Nhà bác học Lê Quý Đôn trong sách Vân Đài loại ngữ cho biết:
Núi Lịch ở địa phận xã Yên Lịch, huyện Sơn Dương, trấn Tuyên Quang. Mạch núi từ núi Sư Khổng, huyện Đương Đạo kéo xuống, đến đây năm, sáu ngọn núi đất bày hàng đột khởi ngay ở đồng bằng, chia một chi đổ xuống huyện Lập Thạch làm núi Sáng; còn ở mặt dưới huyện Tam Dương là núi Hoàng Chỉ“.
Núi Sáng, ngọn núi đột khởi thuộc dãy Lịch Sơn nay thuộc đất huyện Sông Lô của tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.
Núi Sáng là ngọn cao nhất trong dãy núi Lịch, có 5-6 chỗ bằng phẳng như cung điện, có đền thờ Đế Thuấn. Xứ Ngòi Vực về bên phải, hàng năm nước sông Lô tràn vào, tương truyền chỗ ấy là bến sông ngày trước thường nặn đồ nung. Bên cạnh chỗ dân cư, có một cái giếng cổ, người ta cho là Đế Thuấn đào giếng ấy. Ở đây cũng có miếu thờ Đế Thuấn, trước miếu có ruộng chiêm, rộng chừng vài mẫu, khá sâu, người ta cho đấy là chằm Lôi Trạch, ngày trước Đế Thuấn cày ruộng và đánh cá. Trên núi Sáng cũng có đền thờ Đế Thuấn. Đằng trước núi lại đột khởi một ngọn núi đất hơi thấp, đỉnh núi như hình ghế chéo, trong núi có chỗ rộng ước dăm sào, có thể gieo được trăm bung mạ (nhổ mạ lên rồi buộc lại gọi là đon, mỗi đon phỏng 2,3 chét tay, 40 đon là một bung, bung là xâu những đon mạ gánh ra ruộng để cấy; thông thường khi xưa, cứ mỗi sào ruộng cấy 15-20 đon, trăm bung là 4000 đon gieo khoảng 5 sào. Tương truyền chỗ ấy Đế Thuấn cấy lúa, nhân dân mới gọi là Bách Bung).

p1210792-2Khu vực Bách Bung trên núi Sáng và hồ Suối Sỏi.

Thông tin của Vân đài loại ngữ đã xác định rất rõ vị trí của Lịch Sơn và sự việc Đế Thuấn đi cày. Núi Sáng trong dãy Lịch Sơn chạy từ Sơn Dương – Tuyên Quang sang phía Tây Bắc tỉnh Vĩnh Phúc. Trên núi có cả cái tên đầy cổ tích “Bách Bung” để chỉ sự kiện này. Bách Bung có miếu thờ Đế Thuấn và giếng cổ tương truyền do Đế Thuấn đào. Bên cạnh đó có núi Con Voi, liên quan đến “Đế Thuấn cày voi”. Rồi cánh đồng Lôi Trạch ở trước núi, nơi Đế Thuấn đi bắt cá theo truyền thuyết, nay là khu vực hồ Suối Sỏi của xã Lãng Công. Tương truyền nơi đây từng là nơi chế tác đồ gốm (đồ đất nung).
Đế Thuấn ở vào giai đoạn cuối thời đồ đá mới, người ta mới có “đá” với “đất”, chưa có sắt hay đồng. Vậy Đế Thuấn đi cày bằng loại cày gì?
Chuyện cổ Phú Lương quân của người Tày kể về Báo Luông, vị tổ khởi thủy của người Tày, có đoạn mô tả khá chi tiết việc Báo Luông nghĩ ra cách trồng lúa:
Anh vào rừng chặt một cây lim nặng đem đẽo nhọn một đầu đi buộc dây vào rồi vắt lên vai cho mấy người kéo để cày đất lên. Sau đó lại lấy một khúc gỗ có nhiều mắt cho kéo làm đất nhỏ đi rồi mới gieo thóc giống… Chiếc cây vót nhọn để lật đất gọi là “thây”, tức là cái cày. Còn cây khác nhiều mắt gọi là “phưa”, tức là cái bừa.
Như vậy trước khi có lưỡi cày đồng thì người dân Việt đã biết dùng gỗ đẽo làm dụng cụ cày cấy. Nền văn hóa “đồ gỗ” không lưu được dấu vết vật chất trong khảo cổ vì gỗ là loại vật liệu bị phân hủy qua thời gian. Nhưng sự sáng tạo về nghề canh nông đã bắt đầu từ trước khi con người biết làm đồ kim khí là dựa vào những vật liệu sẵn có trong tự nhiên.

p1210741-e1458208587135
Một bậc Thác Bay trên núi Sáng, nơi có những khối đá cứng, trong như ngọc.

Trong tục thờ Hùng Vương ở đất Phong Châu thì ba vị vua Hùng được thờ là Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn và Viễn Sơn. Như từng xác định, Đột Ngột Cao Sơn hay Thánh tổ Cao Sơn Minh Vương là Đế Minh, người khởi đầu sử Việt trong Truyện Họ Hồng Bàng. Ất Sơn, vị vua thứ hai (trong thứ tự Giáp, Ất,…) là Đế Nghi hay Đế Nghiêu.
Vị vua thứ ba Viễn Sơn là Đế Thuấn. Ngọn “Viễn Sơn” đây là Lịch Sơn hay núi Sáng. Rất có thể Sáng là từ chữ Minh mà ra. Minh Đô của thời Hùng Vương chính là đất Phong Châu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc), nằm ở ngã ba sông Việt Trì. Ngũ Đế trong thần thoại Trung Hoa đều là những vị vua Hùng của người Việt, đã chinh phục thiên nhiên và lập nước từ chính khu vực đất tổ Phong Châu này.

Nước Lỗ của Khổng Tử nằm ở đâu?

Nhân thể chuyện xây văn miếu và thờ Khổng Tử ở Việt Nam đang được dư luận bàn tán rôm rả xin góp vui vài ý về sự thật nước Lỗ và quê hương của Khổng Tử.
Khổng Tử người nước Lỗ thì ai cũng biết, nhưng nước Lỗ này nằm ở đâu? Sử ký Tư Mã Thiên chép về quê hương của Khổng Tử  như sau: Khổng Tử sinh ở ấp Trâu, thuộc làng Xương Bình nước Lỗ. Tổ tiên trước kia là người nước Tống…
Thông tin gốc như vậy mà không biết căn cứ vào đâu cho rằng quê của Khổng Tử “nay là” huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc? Khổng Miếu ở Sơn Đông cho dù có là di sản văn hóa thế giới nhưng niên đại của cái miếu đó chắc không quá được thời Đường Tống đổ về, tức là xây cách thời Khổng Tử cỡ trên 1.500 năm.

Nước Lỗ vốn là đất phong của Chu Công Đán, vị đại công thần lập  quốc lớn nhất của nhà Chu. Nước Lỗ của Chu Công không hề nằm ở vùng Sơn Đông vì thời Ân Thương khu vực Sơn Đông là đất của dân Di, không phải của người Hoa. Chu Công còn phải vất vả đi đánh dẹp cuộc nổi loạn của hậu duệ nhà Ân là Vũ Canh liên kết với đám Hoài Di, Từ Nhung thời Chu Thành Vương. Như vậy làm gì có chuyện đất phong của Chu Công trước đó lại nằm trên đất của Di Địch được.
Trà kinh của Lục Vũ (học giả thời Đường) chép: Trà làm thức uống, khởi từ Thần Nông thị, truyền bởi Lỗ Chu Công, Tề có Án Anh… Vậy là 3.000 năm trước Chu Công nước Lỗ đã thích uống trà. Nhưng vùng Sơn Đông (hay vùng Hoàng Hà nói chung) làm gì có cây trà mà uống? Trà (chè) là loài cây gốc tự nhiên ở khu vực dãy Hymalaya, như ở Vân Nam và Bắc Việt. Làm gì có trà mọc ở bán đảo Sơn Đông băng giá.
Chuyện khác, Khổng An Quốc, cháu 12 đời sau của Khổng Tử đã ghi trong bài tựa cuốn Thượng Thư (Kinh Thư) như sau: “… thời Lỗ Cung Vương, thích sửa sang cung thất, Vương cho phá nhà cũ của Khổng Tử để mở rộng thêm. Trong tường nhà tìm được Thư, phần Ngu, Hạ, Thương, Chu cùng Tả Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ Khoa Đẩu cổ văn do ông cha chúng tôi cất giấu. Vương lại lên nhà thờ đức Khổng Tử, nghe được tiếng vàng, đá, tơ, trúc, bèn không cho phá nhà nữa, đem toàn bộ sách trả cho họ Khổng”.
Thì ra Khổng Tử chép Ngũ kinh bằng chữ Khoa đẩu. Chữ Khoa đẩu được biết là chữ của người Việt cổ. Khổng Tử soạn kinh bằng chữ Việt, hỏi Khổng Tử là người Việt hay người Tàu?
Chân lạp phong thổ ký do Chu Đạt Quan thời Nguyên đi sứ sang đất Chân Lạp (Cămpuchia) thì ghi nhận: Ngôi tháp bằng đá (Phnom Bakheng) ở ngoài cửa thành hướng Nam nửa dặm, người ta thuật lại rằng ông Lỗ Ban, vị kiến trúc sư Trung Hoa theo huyền thoại đã xây cất trong một đêm. Ngôi mộ của ông Lỗ Ban (Angko Wat) ở ngoài cửa Nam lối một dặm, có hàng trăm căn nhà bằng đá.
Lỗ Ban, vị tổ nghề mộc và xây dựng người nước Lỗ cùng thời với Khổng Tử mà lại đi xây tháp ở Cămpuchia và mộ nằm ở Angko Wat. Hỏi nước Lỗ của Lỗ Ban và Khổng Tử phải nằm ở đâu?
Khổng Tử làm Kinh Xuân thu đến năm Lỗ Ai Công săn được con Lân thì dừng bút. Vì thế Kinh Xuân thu còn gọi là Lân kinh. Thế nhưng, Chu Hy (thế kỷ 12 thời Nam Tống) chú giải về con Lân như sau: Lân, loại thú mình giống con chương, đuôi bò, móng ngựa, thú đứng đầu trong các loài có lông… Chân con lân không đạp lên cỏ tươi, không dẫm lên côn trùng còn sống.
Loài thú đứng đầu các loài có lông mao (động vật có vú), trông giống hươu, đuôi bò, móng ngựa, có một sừng thì phải là con Tê giác. Con Lân là con Tê hay con Tây. Vấn đề là con Tê giác thì không thể nào có ở khu vực Sơn Đông được. Tê giác là loài vật của vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới, gặp ở Lào – Việt Nam – Cămpuchia. Nước Lỗ nơi Lỗ Ai Công săn được con Lân chắc chắn nằm ở khu vực bán đảo Đông Dương, chứ không phải bán đảo Sơn Đông của vùng ôn đới.

NhathohoCao

Nhà thờ họ Cao tại Nho Lâm, Diễn Thọ.

Thông tin từ văn hóa dân gian Việt cũng cho một số chỉ dẫn về vị trí nước Lỗ. Nhà thờ họ Cao ở làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, Nghệ An thờ tổ Cao Đại Tôn là ông Cao Thiện Trí, sống vào quãng năm 1360. Gia phả họ Cao nhận mình là xuất xứ từ vùng Bột Hải. Bột Hải nếu như ngày nay là vùng biển giáp với Triều Tiên ở tít phía Bắc Trung Quốc. Thực ra Bột Hải hay Bát Hải nghĩa là biển ở phương số Tám (8), tức là phương Đông trong Hà thư. Bột Hải của họ Cao là vùng biển Đông ngày nay.
Ông Cao Thiện Trí còn được gia phả họ Cao ghi lấy vợ là bà Khổng Thị Tám, người… nước Lỗ chạy loạn sang Nghệ An. Nước Lỗ ở gần Nghệ An và Bột Hải – biển Đông thì phải là khu vực nước Lào ngày nay. Đây mới là vị trí thực sự quê của Khổng Tử, nơi có những con Lân – Tê sinh sống, có những cây trà cổ thụ mọc trong tự nhiên, nơi người dân vốn dùng chữ Khoa đẩu mà chép sách truyền kinh.
Nhà thờ họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Diễn Châu, Nghệ An thì có câu đối:
Cổ nguyệt môn cao, hệ xuất thần minh Ngu đế trụ
Bảng sơn địa thắng, thế truyền thi lễ Khổng sư tông.
Dịch:
Cửa cao trăng Hồ, sinh ra dòng dõi anh minh đế Ngu Thuấn
Đất lành núi Bảng, các đời truyền lễ nghĩa thầy Khổng Khâu.
Họ Hồ, dòng họ của những vĩ nhân Hồ Quý Ly, Quang Trung và Hồ Chí Minh, là có nguồn gốc từ Đế Ngu Thuấn, theo lễ nghĩa của Khổng Tử. Người Việt thực sự đã bị lạc hướng và hiểu sai về nguồn gốc và văn hóa của mình. Những đóng góp to lớn của Khổng Tử cho nền văn hóa Trung Hoa chính đã tạo nên nền tảng của văn hóa Việt.
Có thơ:
Muốn cứu đời thánh nhân Khổng Tử
Dốc lao tâm khổ tứ viết kinh
Thư, Thi, Dịch, Lễ, Nhạc thành
“Vạn thế sư biểu” tôn vinh đời đời.

Bàn về nước Việt Thường

Truyện chim bạch trĩ trong Lĩnh Nam chích quái là truyện rất ngắn gọn nhưng lại rất khó hiểu vì những thông tin địa lý lịch sử mang trong đó không khớp gì với sử sách ngày nay. Truyện này bắt đầu như sau:
Về đời vua Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim bạch trĩ sang tiến cống. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ qua nhiều lần dịch mới hiểu nhau được…
Đây là tích truyện đầu tiên nói tới nước Việt Thường. Nước Việt Thường này nằm ở đâu và quan hệ của nó đối với lịch sử Việt Nam như thế nào là câu hỏi đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm do có thể nước Việt Thường là một giai đoạn cội nguồn của lịch sử Việt Nam.
Gần đây, tác giả Tạ Đức trong cuốn Nguồn gốc người Việt người Mường cho rằng nước Việt Thường này nằm ở Hồ Nam, hình thành vào cuối thời Ân đầu thời Chu sau khi nước Xích Quỷ ở Ngô Thành bị tan rã. Sau đó do sự bành trướng của nước Sở mà người Việt Thường đã di cư dần xuống phía Nam, cùng với dân bản địa ở đây lập nên các quốc gia tiếp theo trong sử Việt (Tường Kha, Thương Ngô, Văn Lang)…
Người Việt Thường nếu vậy thì là dân “thiên di” thuộc loại siêu đẳng… Người Việt Thường đúng là “chuyên gia”, cứ giặc đánh đến thì bỏ nước mà đi, sang đất láng giềng rồi lập quốc ở đó. Truyền thuyết và lịch sử Việt sao không thấy có chút “ký ức” gì về phương pháp lập quốc độc đáo này?

VIỆT THƯỜNG VÀ CẢO KINH
Đọc tiếp Truyện chim bạch trĩ:
Chu Công hỏi: “Tại sao tới đây?”. Họ Việt Thường đáp: “Đời nay không có mưa dầm gió dữ, ngoài bể không nổi sóng lớn đã ba năm nay, ý chừng là Trung Quốc có thánh nhân xuất thế, nhân vậy tới đây”.
Chu Công than rằng: “Chính lệnh không thi hành thì người quân tử không bắt được kẻ khác thuần phục mình, đức trạch không mở rộng thì người quân tử không hưởng lễ của người. Còn nhớ Hoàng Đế có câu thề rằng: phương Việt Thường không thể xâm phạm được”. Bèn ban thưởng cho phẩm vật địa phương, dạy răn mà cho về.
Họ Việt Thường quên đường về, Chu Công bèn ban cho 5 cỗ biền xa đều chế cho hướng về phương Nam. Họ Việt Thường nhận lấy rồi theo bờ biển Phù Nam, Lâm Ấp đi một năm thì về tới nước. Cho nên, xe chỉ nam thường dùng để đi trước đưa đường.
Truyền thuyết cho thấy rõ nước Việt Thường được nhắc tới là một nước giáp với biển. Sứ Việt Thường nói: “ngoài bể không nổi sóng lớn” và khi về thì men theo bờ biển mà về nước. Nước Việt Thường do vậy không thể ở Hồ Nam, là vùng đất còn cách biển cả ngàn km.
Nhưng khó hiểu nhất là đoạn họ Việt Thường “theo bờ biển Phù Nam, Lâm Ấp” để về nước. Nhà Chu ở đâu mà sứ giả Việt Thường lại đi về qua Phù Nam và Lâm Ấp? Phù Nam và Lâm Ấp ở tận miền Trung và miền Nam Việt Nam ngày nay cơ mà.
Theo Hoa sử nhà Chu khởi nghiệp từ Cơ Xương, ban đầu đóng ở đất Phong. Khi Cơ Phát cùng chư hầu đánh Trụ diệt Ân thắng lợi, lên ngôi thiên tử của Trung Hoa thì đã cho dời lại đô về đất Cảo ở phía Tây, bắt đầu thời kỳ Tây Chu. Chu Thành Vương nối ngôi cha khi còn nhỏ, Chu Công làm phụ chính. Sứ giả Việt Thường vào cống chim trĩ thời Chu Thành Vương như vậy là ở Cảo Kinh. Cảo Kinh của nhà Chu phải nằm không xa đất “Phù Nam, Lâm Ấp”, nên không thể là vùng Thiểm Tây ở tận Bắc sông Hoàng Hà như các sử gia Tàu chú thích.
Dựa trên những thông tin mới trong địa lý lịch sử Việt Nam thì nước Việt Thường và kinh đô nhà Chu có thể xác định như sau. Đầu tiên, nước Việt Thường thời Tây Chu là nước… Việt. Điều này thật đơn giản và rõ ràng đến bất ngờ. Nước Việt thời Chu có địa bàn ở vùng hạ lưu sông Dương Tử, nay là các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang. Người nước Việt là con cháu nhà Hạ, đã khai phá vùng đất này và lấy đó làm nơi thờ cúng Hạ Vũ. Tới thời Đông Chu, nước Việt cường thịnh, Việt Câu Tiễn đánh thắng nước Ngô, trở thành một bá vương trong Xuân Thu ngũ bá.
Thượng thư đại truyện đầu thời Hán chép: “Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng…”. Việt Thường có nghĩa là nước Việt ở phía Nam vì Thường = thẳng, là đầu hướng Nam xưa trong cặp lưỡng lập thẳng – cong, vuông – tròn. Phương Nam xưa là phương Bắc ngày nay, tương tự như kim la bàn gọi là Nam châm lại luôn chỉ về cực Bắc. Nước Việt nằm ở cửa sông Dương Tử thì đúng là ở phía Nam của đất Giao Chỉ. Phải gọi là Việt Thường (Việt ở phương Nam) để phân biệt với Việt gốc là đất Giao Chỉ của thời nhà Hạ.
Đất Phong của Văn Vương được xác định là Phong Châu (Phú Thọ), kinh đô của nước Văn Lang trong truyền thuyết Việt. Do vậy Cảo Kinh của thời Tây Chu phải là vùng Vân Nam. Có vậy thì sứ giả Việt Thường mới có thể từ Cảo Kinh mà ra đến bờ biển Phù Nam, Lâm Ấp được.
Tạ Đức có cho một thông tin đáng chú ý về di chỉ Ngô Thành ở Giang Tây. Thành ấp này đã bị phá hủy vào cuối thời Ân, đầu thời Chu, sau không thấy dấu tích của người ở nữa. Ai đã phá hủy Ngô Thành? Không thể là nhà Ân vì lúc này Ân Trụ Vương còn đang phải đối phó với cuộc tấn công của Chu Vũ Vương ở An Huy. Càng không phải do nước Sở bành trướng xuống phương Nam vì thời kỳ này nước Sở còn chưa ra đời. Ngô Thành đã bị tấn công bởi chính Chu Vũ Vương trong đợt phạt Trụ vì đây vốn là đất gốc của nhà Thương, từ trước khi Bàn Canh dời đô. Đây chính là vùng Thương Ngô, tức là đất Ngô của nhà Thương.
Tuy nhiên, trong cuộc tấn công này Chu Vũ Vương chỉ dừng lại ở Thương Ngô mà không tiến xa hơn về phía Đông, nơi có nước Việt từ thời Hạ. Lý do như Chu Công đã nói: “phương Việt Thường không thể xâm phạm được”. Không phải Hoàng đế hay các vua Chu sợ gì sức mạnh của nước Việt, mà vì nước Việt là đất dành riêng để thờ Đại Vũ, tổ tiên của người Hoa Hạ. Đây là khu vực linh thiêng đối với những người Hoa dòng dõi từ Hoàng Đế Hữu Hùng nên “không thể xâm phạm”.
Cũng vì sự liên hệ ruột thịt giữa nước Việt này với nhà Hạ mà nhà Hạ là nước Xích Quỷ ở vùng Nam Giao – Động Đình, tức là khu vực Giao Chỉ, nên trong khi nói chuyện Chu Công mới hỏi sứ giả Việt Thường về người Giao Chỉ (đúng hơn là hỏi về những người dòng dõi nhà Hạ): “Người Giao Chỉ cắt tóc ngắn, xăm mình, để đầu trần, đi chân đất, nhuộm răng đen là cớ làm sao?”. Hoa sử chép về việc lập nước Việt là vào thời Hạ trung hưng, con cháu nhà Hạ vua tôi cắt tóc ngắn, xăm mình lội nước lao động cật lực khai phá đất mới… Vùng đất mới ở cửa sông Dương Tử này được dành riêng thờ vua Vũ nhà Hạ, chính là nước Việt (Việt Thường) thời Chu.
Nước Việt lại là dòng dõi nhà Hạ thì rõ ràng nhà Hạ là một triều đại lịch sử của người Việt. Hạ là Việt, tức là Hoa là Việt vì Hoa Hạ là một. Trung Hoa cổ đại chính là Bách Việt.
Chu Vũ Vương mất, Thành Vương nối ngôi thiên tử của Trung Hoa. Nước Việt lúc này (“sau 3 năm” từ khi Vũ Vương diệt Trụ?) thấy “Trung Quốc có thánh nhân xuất thế” nên cử sứ giả vào cống, tỏ ý thần phục nhà Chu. Chim trĩ là biểu tượng của văn minh vì Trĩ = trữ = chữ. Có chữ viết tức là có văn minh. Cống chim trĩ ý muốn nói nước Việt sẽ theo văn minh, theo ánh sáng dẫn đường của nhà Chu. Với việc cống chim trĩ này nước Việt Thường chính thức tham gia vào thiên hạ Trung Hoa mà nhà Chu là thiên tử.

ĐƯỜNG ĐI CỦA SỨ VIỆT THƯỜNG
Vấn đề hấp dẫn nhất trong chuyện chim bạch trĩ là sứ giả Việt Thường đã đi cống nhà Chu và về nước theo con đường nào. Những thông tin ngắn gọn được chép trong truyền thuyết cho phép xác định tuyến đường đi về của sứ giả Việt Thường.
Sử ký Tư Mã Thiên cho biết họ Việt Thường đã phải qua “ba lần sứ dịch” mới đến được kinh đô nhà Chu. Dị bản Lĩnh Nam chích quái chép từ ngữ chỗ này là “trùng dịch” với chữ “dịch” mang nghĩa là “tạm nghỉ chân để đổi ngựa”. Hiểu thông tin ở đây thành “phiên dịch” (thông ngôn) nhiều lần là sai. Sứ giả Việt Thường đã dừng chân ở dịch quán dành cho sứ giả nước ngoài 3 lần, tức là từ Việt Thường đến Cảo Kinh sứ giả đã đi qua 3 nước. Mỗi nước phải dừng lại để lấy “visa”, hay đóng “giấy thông hành” kiểu như Đường Tăng đi thỉnh kinh vậy.
Khi nối giữa nước Việt ở Chiết Giang với Cảo Kinh ở Vân Nam bằng một đường chim bay thì thấy rõ tuyến đi của sứ Việt Thường qua đúng 3 nước. Đó là: nước Ngô ở Giang Tây (Thương Ngô), nước Sở ở Hồ Nam (Kinh Sở) và khả năng là nước Thục ở Quý Châu (Quý Châu là Ba Thục, đất khởi nghiệp của Tây Bá hầu Cơ Xương).

Viet ThuongTuyến đường đi về của sứ Việt Thường

Khi ra về, sứ Việt Thường “quên đường”… Đường đi tới một nước xa lạ còn biết chẳng nhẽ đường về nhà lại quên? Thay vì đi theo hướng cũ sứ Việt Thường chọn đi hướng gần như ngược với lúc đi, kể cả khi đã được phát xe chỉ nam để định phương hướng. Hẳn không phải đơn giản là sứ Việt Thường quên đường mà là muốn đi một con đường khác, nhân thể đi “thăm chính thức” các chư hầu của nhà Chu, nhằm công bố sự hội nhập của mình trong thiên hạ Trung Hoa. Cũng vì thế Chu Công mới cấp cho 5 cỗ biền xa, tương tự như một dạng “giấy giới thiệu” từ trung ương xuống các địa phương cho Việt Thường. 5 cỗ biền xa này do vậy mới được đi trước để đưa đường.
Như vậy thì ra vùng “Phù Nam, Lâm Ấp” cũng là những chư hầu của nhà Chu mà nước Việt đã đến đặt “quan hệ ngoại giao”. Từ Vân Nam để ra biển Phù Nam, Lâm Ấp thì hẳn sứ Việt Thường đã đi dọc theo dòng Mê Kông, hay sông Khung Giang trong ngôn ngữ xưa. Khung = Khương, Khương là họ của Thái Công Lã Vọng, đại công thần lập quốc của nhà Chu, được phong ở đất Tề.
Nhà sử học Đào Duy Anh cho biết: “Sách Điền Hệ của Súy Phạm viết về các dân tộc thiểu số ở miền Vân Nam cho biết rằng một dân tộc thiểu số tên là Sản Lý hay Xa Ly, có truyền thuyết nói rằng đời Chu Thành vương họ sai sứ giả đến triều cống, khi về được Chu công cho xe chỉ nam, vì thế họ lấy tên là Xa Lý. Lại có một dân tộc khác là Lão Qua (Lào) có truyền thuyết rằng ở thời nhà Chu, tổ tiên của họ là nước Việt Thường. Sách Điền Nam tạp chí thì nói Diến Điện (Mianma) là nước Việt Thường xưa“.
Xa Lý nay là tỉnh Phong Xa Lỳ của Lào, giáp với Lai Châu, Điện Biên ngày nay. Từ Vân Nam để ra dòng Mê Kông thì rõ ràng phải qua vùng Phong Xa Lỳ và tiến tới biên giới giữa Lào và Mianma. Truyền thuyết ở vùng Lào – Miến này một lần nữa xác nhận tuyến đường về của sứ Việt Thường, cũng như vị trí Cảo Kinh của Tây Chu ở Vân Nam.
Khu vực đất Lào thời Chu thực ra là nước Lỗ, đất phong của Chu Công. Khu vực này còn gọi là Lâm Ấp vì Lâm = Ly = La = Lỗ = Lão. Còn đất Phù Nam thiết Pham hay Phan, là họ của Tất Công, vị quân chủ thứ ba ở thành Lạc Dương (phần Đông của nhà Chu). Phù Nam là đất phong của họ Phan. Sứ nước Việt trên đường về đã đến thăm một loạt các nước chư hầu, là những đại công thần khởi nghiệp của nhà Chu.
Khi ra đến biển Phù Nam, vì biết chắc nước Việt Thường nằm cạnh biển nên sứ giả cứ men theo bờ biển mà về. Tuyến đường men biển này khá dài, chạy ngược hình chữ S của Việt Nam ngày nay, qua Quảng Tây, Quảng Đông, về đến quê hương Việt Thường ở Phúc Kiến, Chiết Giang. Thời gian cho quãng đường về dài như vậy tới hơn một năm là hoàn toàn hợp lý.
Tổng khoảng cách cả đi và về của sứ Việt Thường tính vào khoảng 8.000 – 10.000km. Một quãng đường du hành ngoại giao kỷ lục vào thời kỳ 3.000 năm trước. Với kỷ lục này ấn tượng của chuyến đi sứ họ Việt Thường đã để lại khắp dọc đường và in sâu trong truyền thuyết Việt qua Truyện chim bạch trĩ. Cũng vì phạm vi của chuyến công du này quá rộng dẫn đến tình trạng định vị nước Việt Thường lúc thì ở phía Bắc, lúc lại là phía Nam, thậm chí còn ở cả bên Lào và Miến Điện. Nay với việc xác định nhà Chu là nước Văn Lang thời Hùng Vương, Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh tại Vân Nam thì nước Việt Thường cống chim trĩ là nằm ở phía Đông, là nước Việt hậu duệ của nhà Hạ ở hạ lưu Nam Dương Tử.

Các quận trên đất Việt thời Tần

Tần Thủy Hoàng bản kỷ: Năm thứ 28 (năm 219 TCN), Thủy Hoàng đi về phía đông đến các quận và các huyện, lên núi Trâu Dịch, dựng đá cùng các nho sinh nước Lỗ bàn việc khắc vào đá để ca tụng công đức nhà Tần…

Tư liệu khác cho biết Lang Gia đài khắc thạch là bia đá có khắc chữ tiểu triện. Năm thứ hai mươi tám (năm 219 TCN), Thủy Hoàng nhà Tần đi tuần thú miền đông, đến núi Lang Gia, sai Thừa tướng là Lí Tư khắc bia đá này để ca tụng công đức. Trong đó đoạn văn như sau:
Ở trong sáu cõi đều là đất của hoàng đế. Phía tây vượt bãi cát Lưu Sa, phía nam đến tận miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc. Phía đông có biển đông, phía bắc qua đất Đại Hạ. Nơi nào có vết chân người đi đến, không nơi nào là không thần phục.”

Lang Gia là nơi Thủy Hoàng cho khắc bia đá năm 219 TCN. Nơi đây Thủy Hoàng lại bàn chuyện với “các nho sinh nước Lỗ“. Phải chăng Lang Da thiết La = Lỗ?

Lang Gia cũng có thể là đất Dạ Lang. Khu vực người Dạ Lang gồm đất Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây.

Lang Gia còn là quê của đạo sĩ Yên Kỳ Sinh thời Tần. Chuyện về Yên Kỳ Sinh được một số từ điển Đạo giáo Trung Quốc hiện đại chép, đại thể như sau: Yên Kỳ Sinh người Phụ Hương, thuộc Lang Gia. Ông bán thuốc ở ven biển Đông Hải. Người đời gọi là Thiên Tuế Ông. Tương truyền khi Tần Thủy Hoàng đông du đã gặp ông, ban cho ông hàng vạn vàng ngọc. Ông bèn để tất cả lại nơi Phụ Hương đình rồi bỏ đi. Ông để thư lại cho Tần Thủy Hoàng đến tìm ông dưới núi Bồng Lai. Tần Thủy Hoàng mấy lần sai người ra biển tìm ông nhưng đều bị bão phải quay về. Bèn lập đền thờ ở Phụ Hương đình và hơn 10 nơi ven biển.

Một số nơi có di tích Yên Kỳ Sinh là núi Yên Tử ở Quảng Ninh Việt Nam, Ngọc Tích Các ở Bồ Giản thuộc Quảng Châu … Những di tích này cho thấy nơi Tần Thủy Hoảng gặp Yên Kỳ Sinh khi đi tuần du phía Đông là ở khu vực quanh bờ biển Đông. Quận Lang Gia thời Tần do vậy không thể nằm ở tận bán đảo Sơn Đông mà là phần đất Quảng Tây và Đông Bắc Việt ngày nay.

Tư liệu khác chép về chuyến Đông du khác của Tần Thủy Hoàng đi tìm chiếc đỉnh bị rơi khi chuyển cửu đỉnh của nhà Chu về Tần qua dòng Tứ Thủy gần Bành Thành: Thời điểm dừng lại tại Bành thành gần 30 ngày, (Tần Thủy Hoàng) khi đó lần lượt gặp mặt quận thủ 3 quận Tứ Thủy quận, Đông Hải quận, Lang Gia quận. Cuối tháng 6 từ Tam Xuyên quận rộng lớn trưng tập mười vạn hộ bách tính di cư tới 2 quận Lang Gia và Đông Hải.

Việc Tần Thủy Hoàng cho di cư 10 vạn hộ từ quận Tam Xuyên sang quận Lang Gia và Đông Hải có thể chính là vào năm thứ 33 (năm 214 TCN), khi “Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải, cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ.” (Tần Thủy Hoàng bản kỷ)

Như trong bia Lang Gia đài khắc thạch thì từ năm 219 TCN đất nhà Tần đã đến miền Bắc Hộ – miền Trung Việt Nam. Đất Giao Chỉ đã nằm trong đất nhà Tần từ lúc này. Vậy tại sao năm 214 TCN Tần còn phải đánh đất Lục Lương làm gì nữa?

Có thể thấy quận Tam Xuyên là đất nhà Chu đã bị Tần chiếm từ năm 256 TCN dưới thời Tần Chiêu Tương Vương. Cuộc chinh phạt đất Lục Lương (hay Dương Việt theo Nam Việt Úy Đà liệt truyện) vào năm 214 TCN của Tần Thủy Hoàng là cuộc di dân của quận Tam Xuyên sang phía Đông, xuôi theo dòng Tứ Thủy tới các quận Lang Gia và Đông Hải. Sau đó khu vực này được chia lập lại thành 3 quận Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải.

Trên cơ sở các truyền tích và tư liệu trên có thể suy đoán:
– Quận Lang Gia là Quảng Tây + Đông Giao Chỉ, nơi có các di tích của Yên Kỳ Sinh người Lang Gia. Sau khi di dân Tần Thủy Hoàng đổi thành quận Quế Lâm. Thời Đường là đất Quế Hải hay Tĩnh Hải.
– Quận Đông Hải đổi thành Nam Hải. Thời Đường là đất Thanh Hải.
Que Tuong Nam
 Vị trí 3 quận nhà Tần lập trên đất Việt

– Tượng Quận là phần của quận Tam Xuyên cũ, gồm Vân Nam và Tây Giao Chỉ. Thời Đường là đất của Nam Chiếu.Một lý do khác cho việc Tần Thủy Hoàng di dân và đổi tên quận là việc nhà Tần dời đô về phía Đông Nam. Tần Thủy Hoàng bản kỷ chép:
Năm thứ 35 (205 TCN), sai làm con đường thông từ huyện Cửu Nguyên đến đất Vân Dương, đục núi, lấp các khe núi, nhờ vậy đường đi suốt và thẳng. Thủy Hoàng cho rằng ở Hàm Dương người thì đông mà cung đình các vua trước thì nhỏ nói:
– Ta nghe vua Văn Vương nhà Chu đóng đô ở đất Phong và Vũ Vương đóng đô ở Cảo, miền giữa Phong và Cảo là đô của đế vương.
Bèn sai xây cung để tiếp các triều thần ở phía Nam sông Vị….
Ở Quan Trung, số cung đến 300 cái, ở ngoài Quan Trung hơn 400 cái. Thủy Hoàng bèn sai dựng đá ở bờ biển Đông Hải thuộc đất Cù để làm cửa phía Đông của nhà Tần, nhân đấy dời 3 vạn nhà đến Ly Ấp, 5 vạn nhà đến Vân Dương, những nhà này đều được tha việc công dịch mười năm.

Ly Ấp có thể là Lâm Ấp (trong liên hệ “lâm ly”), chỉ đô ấp phía Nam. Nếu vậy thì Ly Ấp là quận trị của quận Quế Lâm đã lập trên đất Việt.

Vân Dương nơi Thủy Hoàng làm đường ra biển Đông hẳn là Dương Thành, tức là thành Quảng Châu ở tỉnh Quảng Đông ngày nay, hay quận Nam Hải thời Tần. Việc di 8 vạn hộ dân khi dời đô sang vùng đất “giữa Phong và Cảo” của hai nhà Chu như vậy hoàn toàn trùng với sự kiện đánh chiếm Dương Việt và lập 3 quận Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải ở trên.

Sự kiện di dân và đổi tên 3 quận trên đất Việt thời Tần Thủy Hoàng như vậy cho phép nhận định lại thời điểm khu vực này bị Tần đánh chiếm. Vùng đất Tam Xuyên của nhà Chu đã bị chiếm dưới thời Tần Chiêu Tương Vương năm 256 TCN. Năm 214 TCN vùng này không bị đánh chiếm một lần nữa mà Tần Thủy Hoàng cho di dân và dời đô về phía Đông ra gần biển hơn, chia lập lại 3 quận lớn Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải.

Nam Hải thần tiên

Thần thoại Trung Hoa:
Nam Hải, trên núi Tiểu Ngu có Mẹ Quỷ (Quỷ mẫu), có khả năng sinh ra mọi giống quỷ trên trời dưới đất. Mẹ Quỷ mỗi ngày sinh ra mười quỷ, sáng sinh ra quỷ con, tối lại ăn mất. Nay đất Thương Ngô có thần Quỷ Cô, chính là Mẹ Quỷ vậy. Mẹ quỷ đầu hổ, chân rồng, mi mắt mãng xà, mắt giao long.
Chuyện về Quỷ Mẫu ở Nam Hải có nét tương đồng với truyện cổ tích Việt Nam Cây nêu ngày Tết, kể rằng loài quỷ sống ở ngoài biển Đông.

Sách Sơn hải kinh, có chuyện Tinh Vệ điền hải, kể về con gái của Viêm Đế Thần Nông là Nữ Ai bị chết đuối ngoài biển Đông, biến thành chim Tinh Vệ thường ngậm gỗ đá ở núi Tây để lấp biển. Thần Nông Trung Hoa ở chỗ nào mà lại có biển Đông?

Các thần thoại của Trung Hoa chép trong các sách Sơn Hải kinh, Hoài Nam Tử, Trang Tử, … đều có từ thời Tiên Tần. Thời kỳ này theo chính sử, Trung Hoa còn chưa tiến xuống phương Nam. Vậy mà trong thần thoại Trung Hoa từ thời thái cổ lại đầy rẫy chuyện xảy ra ở Nam Hải hay biển Đông. Lại còn có cả địa danh Thương Ngô, không rõ chỗ nào nhưng chắc chắn ở Nam Trường Giang. Trung Hoa như vậy phải nằm ở nơi có biển “Nam Hải”, chứ không thể là vùng sa mạc ở ven sông Hoàng Hà được.

Thời Thần Nông còn có người Túc Sa biết làm muối từ nước biển. Nghề muối chỉ có thể có ở vùng nhiệt đới, nơi ánh nắng mặt trời đủ nóng để phơi nước biển tạo thành muối. Viêm Đế như vậy rõ ràng là một vị vua của xứ nóng ven biển. Là biển có muối chứ không phải chỉ là nơi có mặt nước rộng trong lục địa.

Trang Tử, Nam Hoa kinh, Tiêu dao du:
Biển Bắc có con cá gọi là cá Côn, mình dài không biết mấy ngàn dặm. Nó biến thành con chim gọi là chim Bằng, lưng rộng biết mấy ngàn dặm, khi tung cánh bay thì cánh nó như đám mây trên trời. Biển (Bắc) động thì nó dời về biển Nam, biển Nam là Ao trời.
Trang Tử sống vào thời Chiến Quốc, ở đất Mông (nước Tống?). Thời đó người Trung Hoa còn chưa vượt qua nước Sở, vậy làm sao Trang Tử có thể biết có cõi biển Nam (Nam minh), lại còn có hình cái Ao (mô tả chính xác hình ảnh của biển Đông) như vậy?
Rất có thể Trang Tử người nước Tống, là vùng đất Quảng Đông bây giờ, phía Nam đất này giáp biển Đông. Vì vậy trong tác phẩm Nam hoa kinh ông thường dùng khá nhiều hình ảnh về biển Đông hoặc biển Nam minh.

Đối chiếu với tư liệu của người Việt, Thiên Nam ngữ lục chép về Kinh Dương Vương:
Kinh Dương ngày ấy đi chơi
Thuyền trăng buồm gió tếch vời Nam minh.

Ở chốn Nam minh ấy Kinh Dương Vương gặp con gái Thần Long:
Nàng rằng: thiếp con Động Đình
Thần Long là hiệu, Nam minh là nhà.

Như vậy Nam minh chính là Động Đình, là biển Đông, nơi Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình.

Thần Long Động Đình vẫn còn lưu tồn trong tín ngưỡng thờ mẫu ở Việt Nam, một tín ngưỡng tối cổ, từ thời mẫu hệ. Đó là vua Bát Hải Động Đình, vua cha của hầu hết các mẫu và các vị quan trong hệ thống thờ tứ phủ. Bát là số 8, con số chỉ phương Đông. Bát Hải là biển Đông.

Bát Hải cũng là Bột Hải, là chốn tiên cảnh, có các đảo Bồng Lai, Doanh Châu và Phương Trượng của thần thoại Trung Hoa. Các đảo này hẳn nằm trong quần thể vịnh Hạ Long, một kỳ quan thiên nhiên thế giới trên biển.

Bột Hải cũng là nơi Tần Thủy Hoàng phái Từ Phúc ra biển tìm thuốc trường sinh. Ở Việt Nam cũng còn dấu vết của Yên Kỳ Sinh, một danh y thời Tần đã ở vùng biển Đông tìm hái cây thuốc Thạch xương bồ ở Yên Tử (Quảng Ninh).

Tại sao người Việt lại gọi vùng biển Đông là biển Nam minh hay Nam Hải? Không phải là vì biển này nằm ở phía Nam của Trung Quốc. Nam đây là hướng của … Kim chỉ Nam, chỉ vào phương Bắc, nay Nam Bắc đã bị lộn ngược.

Đông Nam là hướng mà Lạc Long quân đã dẫn 50 người con xuống biển:
Cha con xuống ở thủy cung
Mở mang chế độ, quan phòng đông nam.

50 người con theo mẹ Âu Cơ về Phong Châu lập nước Văn Lang, thì ắt hẳn 50 người theo cha xuống biển tiến lên phía Nam (phía Bắc ngày nay) đã khai mở nhà Hạ của Trung Hoa. Lạc Long Quân cùng các con tiến dọc ven biển từ vịnh Bắc bộ dọc tới tận Phúc Kiến, Triết Giang. Dấu tích để lại là nền văn hóa đá mới Hạ Long, vươn sang tận Philippin. Nam Hải chính là nơi lưu dấu thời khởi đầu “Nam tiến” của người Việt.

Thời Đông Chu ở Việt Nam còn có tích về công chúa Diệu Thiện và Trang Vương tại Hương Sơn Hà Tĩnh. Công chúa Diệu Thiện tu hành ở núi Hương Sơn. Trang Vương đến thăm con, để lại nền hành cung ở núi này. La sơn phu tử Nguyễn Thiếp có bài thơ về Hương Sơn:
Vân túc Trang Vương hà đại chỉ
Thụ suy Trần tử nhất phong am
.
Dịch:
Xe mây đâu chốn Trang Vương nghỉ
Trận gió rung cây Trần tử am.

Vua Trang Vương thời Đông Chu thì hẳn là Chu Trang Vương, vị vua thứ ba từ khi nhà Chu dời đô về Đông Đô Lạc Ấp. Phải chăng Đông Ngàn (tên vùng đất Cổ Loa) chỉ là một cách gọi khác của Đông Đô?

Đối chiếu tích Diệu Thiện và Trang Vương với chuyện Nam Hải Quan Âm thì có thể thấy hai chuyện chỉ là một. Công chúa Diệu Thiện, con của Chu Trang Vương Cơ Đà đi tu ở Hương Sơn, đã được “phật hóa” thành Quan Âm bồ tát, vị bồ tát gần gũi nhất, linh thiêng nhất, nghìn tay nghìn mắt đối với người Việt.

Nhà Tần đánh Lĩnh Nam, đặt ra quận Nam Hải ở Quảng Đông. Triệu Vũ Đế lập nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung. Biển Đông – Nam Hải từ thời Chu Tần vẫn luôn sống động trong lòng người Việt. Vùng ven biển ở Hải Phòng, Quảng Ninh thờ Nam Hải đại vương, là tướng Phạm Tử Nghi thời nhà Mạc, từng quấy phá châu Khâm, châm Liêm của nhà Minh như Lý Thường Kiệt vậy. Phan Kế Bính viết truyện các danh nhân lịch sử Việt Nam đặt tên là Nam Hải dị nhân liệt truyện. Rồi cả tiến sĩ người Bành Hồ Thái Đình Lan bị đắm thuyền, trôi sang Việt Nam, được triều đình Huế đưa về, lúc về có chép Hải Nam tạp trứ, kể lại những gì tai nghe mắt thấy trên nước Đại Nam.

Nam Hải là đất Việt, người Việt, là chốn tiên cảnh của thần thánh Hoa Việt từ thời thái cổ. Nam Hải không phải là biển Nam Trung Quốc, mà là biển của vùng mở đất Nam Giao theo dấu chân của Lạc Long cùng các con tiến về Đông Nam.

Lịch Tam Hoàng chí Tam Vương

Câu đối ở đền Hùng:
Lịch Tam hoàng chí Tam vương, thần truyền thánh kế.

Đĩnh bách nam khai Bách Việt, tổ thiện tôn bồi.

Nguyễn Khắc Xương dịch:
Trải qua ba đời đến ba đời vương, thánh thần truyền dõi.
Sinh trăm trai nở trăm giống Việt, tổ tiên xây đắp, con cháu vui bồi
.
Phần dịch của Nguyễn Khắc Xương biến các danh từ riêng (Tam Hoàng, Tam Vương, Bách Việt) thành danh từ chung, làm mất hết ý nghĩa lịch sử của câu đối.
Câu đối này nói rõ từ đời Tam Hoàng đến đời Tam Vương truyền nối nhau, đều là tổ tiên, lịch sử mở nước của Bách Việt. Trong khung cảnh của đền Hùng thì Tam Hoàng lẫn Tam Vương rõ ràng cũng là những đời vua Hùng. Vậy Tam Hoàng và Tam Vương ở đây là những ai?
Phần đầu của các vế đối gồm 3 âm tiết một đoạn, kết cấu theo kiểu của Tam tự kinh. Tam tự kinh là sách  “vỡ lòng” để học chữ Nho, được biên soạn từ thời Tống. Phần nói về khởi đầu lịch sử Trung Hoa trong sách này như sau:
Kinh tử thông, Độc chư sử.
Khảo thế hệ, Tri chung thủy:
Tự Hy Nông, Chí Hoàng Đế,
Hiệu Tam Hoàng, Cư thượng thế.
Đường hữu Ngu, Hiệu Nhị Đế,
Tương ấp tốn, Xưng thịnh thế.
Hạ hữu Vũ, Thương hữu Thang,
Châu Văn Võ, Xưng Tam Vương…

Dịch:
Thông kinh sách, Đọc truyện sử.
Xét mối đời, Biết trước sau:
Từ Hy Nông, Đến Hoàng Đế,
Kêu Ba Hoàng, Thời thượng thế
Đường và Ngu, Là Hai Đế,
Nhường vái nhau, Xưng thịnh trị.
Hạ có Vũ, Thương có Thang
Chu Văn Võ, Xưng Ba Vương.

Như vậy theo Tam tự kinh:
– Tam Hoàng gồm: Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế, là các vị vua thời thượng cổ (thượng thế).
– Tam Vương gồm: Hạ Vũ, Thương Thang và Chu Văn Vương – Chu Vũ Vương là các vị vua lập nên 3 triều đại thời cổ sử Hạ – Thương – Chu, gọi là Tam Đại.
– Ngũ đế gồm: Đường Nghiêu, Ngu Thuấn (Nhị Đế) và Tam Vương ở trên.
Câu đối ở đền Hùng trên đã nêu rõ thời Tam Hoàng và Tam Vương là lịch sử của người Bách Việt. Từ Phục Hy, Thần Nông, thậm chí Hoàng Đế Hiên Viên – ông tổ của Trung Hoa cổ đều là các triều đại của người Việt. Và cả thời Tam Đại huy hoàng của Trung Hoa là nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu cũng đều là những … Hùng triều khác nhau mà thôi. Tất cả cùng một gốc “Đĩnh bách nam khai Bách Việt” mà ra cả. Tam Hoàng, Ngũ Đế đều là lịch sử của người Bách Việt.
Dịch lại câu đối:
Từ Tam Hoàng đến Tam Vương, thần dõi truyền, thánh nhân kế tục
Sinh trăm trai mở Bách Việt, tổ thiện đức, con cháu bồi vun.
Có lẽ người Việt nên lấy những câu đối ở đền Hùng để làm “Tam tự kinh” về lịch sử cho mình vì nay có quá nhiều người đến những câu “ba chữ vỡ lòng” này về sử Việt cũng không hiểu và không muốn hiểu.

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng qua các câu đối ở đền Hát Môn

Trong số các câu đối ở đền thờ Hai Bà Trưng tại Hát Môn (nguồn Phạm Hy Sơn:
http://www.giaomua.freehomepage.com/GM89Unicode.html#V1) có một số câu đáng chú ý:

Cung kiếm thất tu mi, nữ chủ uy thanh lưu thất quận
Bình mông phổ bào dư, thần vương phúc tỉ vĩnh thiên thu.

Phạm Hy Sơn dịch:
Cung kiếm vượt nam nhi, Nữ Vương uy danh lưu bảy quận
Vì đồng bào diệt Mông, Thần linh công đức mãi muôn năm.

Trong vế đối đầu cho thấy khởi nghĩa Trưng Vương đã nổ ra trên một diện rộng gồm 7 quận. Như vậy khởi nghĩa này không chỉ bó hẹp trên đất Việt ngày nay vì vùng Bắc và Trung Việt cùng lắm chỉ chứa được 3 quận (Giao Châu, Cửu Chân và Nhật Nam).
Trong vế đối thứ hai dịch giả đã đọc nhầm. Chữ “mông” ở đây nghĩa là cái màn trướng, chứ không phải giặc Mông.

Một câu đối khác ở Hát Môn:
Cửu Chân cương lý dư, địa thượng Bắc Nam công bán tại
Tam chiến can qua hậu, nữ trung hào kiệt cổ lai vô.

Phạm Hy Sơn dịch:
Cửu Chân biên cương vạch rõ Bắc Nam hai nước riêng hai
Sau mấy cuộc chiến chinh nữ anh hùng trước sau có một.

Vế đầu nói đến Cửu Chân là biên cương nước của Hai Bà Trưng. Điều này thật khó hiểu vì theo cách nghĩ ngày nay, Cửu Chân là vùng Thanh Hóa, không thể nào là biên cương nước của Trưng Vương với nhà Đông Hán. Phía Nam Cửu Chân (Thanh Hóa) còn có Nhật Nam, nằm trong “bảy quận” của Hai Bà, nên Cửu Chân cũng không là biên giới phía Nam.
Cách hiểu khác chính xác hơn: Cửu Chân = Quí Châu. Vùng Quí Châu mới là ranh giới phía Bắc nước của Trưng Vương. Đất của Trưng Vương trải khắp Bắc Nam (địa thượng Bắc Nam) từ Giao Châu đến Quí Châu. Nếu chỉ bó hẹp ở Việt Nam ngày nay thì làm sao đất của Trưng Vương có thể gồm 7 quận và 65 thành?
Vế đối thứ hai có nhắc đến “Tam chiến”, cho biết trong khởi nghĩa Trưng Vương đã có 3 cuộc chiến lớn. Ba trận chiến này cũng được nhắc đến trong một câu đối khác tại đây:

Mã chừng nhất nhung chinh, tử liễu tham tàn do hổ phách
Tượng bành tam tiệp chiến, sinh hoàn quắc thước thượng kinh hồn.

Phạm Hy Sơn dịch:
Ngựa chứng một lần lâm chiến, tham tàn chết gặp hồn run vía cọp
Voi bành ba trận thắng oai hùng tái sinh tướng Mã sợ kinh hồn.

Như vậy những “mảnh thông tin” còn lại đã kể về một thời kỳ lịch sử oai hùng, về một cuộc khởi nghĩa của hai nữ tướng nổ ra trên 7 quận của Hoa Nam từ Giao Châu đến Quí Châu, với nhiều trận đánh lớn, chống lại lũ người “Mông muội” phương Bắc.

Một câu khác:
Lập đồng trụ cố Nam thiên chi cảnh
Vọng môn ? hàn Bắc địch chi tâm

Pham Hy Sơn dịch:
Cửa bắc lạnh Ðịch nhòm vượt ải
Trời Nam lo mê mải cột đồng!
và giải thích Ðịch – 1 bộ tộc hùng mạnh ở phía bắc nước Tàu thời xưa.

Thực ra câu này hiểu đúng là:
Dựng cột đồng trời Nam cảnh cũ
Nhìn cửa ải giặc Bắc lạnh tâm.

(Chữ bị chép thiếu có thể là chữ “quan”, nghĩa là quan ải).
Theo ý câu này thì Bắc địch (quân Đông Hán) còn chưa chiếm được đất của Trưng Vương, phải dựng cột đồng làm mốc, nhìn cửa ải mà khiếp sợ.

Hậu Nghệ

Thần thoại Trung Hoa về Hậu Nghệ:
Sau khi bắn mặt trời, mặt đất trở nên tối tăm, các loài ác thú, quỉ dữ được dịp xuất hiện, hại người. Vua Nghiêu sai Hậu Nghệ đi diệt trừ các quái thú như Khiết Du ở Nhược Thủy, Tạc Xỉ ở đầm Trù Hoa, Cửu Anh ở sông Hung Thủy, Đại Phong ở Thạch Khâu, Tu Xà hay Ba Xà ở hồ Động Đình. Tu Xà là một con mãng xà khổng lồ, gây ra sóng to, làm lật thuyền của người dân đánh cá, rồi ăn thịt những người đắm thuyền.
Hậu Nghệ cưỡi chiếc thuyền nhỏ đi trên mặt hồ Động Đình tìm con Ba Xà… Cuối cùng chàng chém nó thành mấy khúc…, xương nó chất thành núi Ba Khâu ở Hồ Nam…

Trong câu chuyện trên ta thấy:
– Hồ Động Đình (đầm Vân Mộng) ở tận Hồ Nam. Vậy làm sao thời Đế Nghiêu lại có thể đi đến được (từ Hoàng Hà vượt cả Trường Giang?)? Rõ ràng thời Nghiêu dân Hoa Hạ không hề ở vùng Hoàng Hà.
– Truyện Hậu Nghệ giết Ba Xà vô cùng giống chuyện Lạc Long Quân đánh Ngư tinh của Việt Nam. Lạc Long Quân theo sử Việt cũng là người Động Đình Hồ.
– Sau khi cơn hồng thủy chấm dứt vào thời Đại Vũ là thời kỳ khí hậu khô hơn, nước biển rút, mở ra những vùng đất mới và tất nhiên là những loài chim, thú, cá lớn được dịp phát triển mạnh. Người Hoa Hạ khi tiến ra khai phá những vùng đất mới này đã phải đấu tranh với những loài thú ở đây. Đó là ý nghĩa lịch sử của truyền thuyết Hậu Nghệ đánh yêu quái sau khi bắn mặt trời hay Lạc Long Quân đánh Mộc Tinh, Hồ Tinh, Ngư Tinh.
– Tên của con mãng xà là một chỉ dẫn về… vị trí của hồ Động Đình. Tu là Từ, dịch nghĩa của từ Thương, là tính chất của phương Đông trong Dịch lý. Ba là… tiếng Việt 100%, nghĩa là số 3, con số trấn phương Đông của Dịch Lý. Như vậy Tu Xà hay Ba Xà là con mãng xà ở… biển Đông.

Truyền thuyết Hoa còn có chuyện khi Đế Thuấn đi tuần, chết ở Thương Ngô, hai bà phi gieo mình xuống sông Tương chết theo. Linh hồn họ rong chơi ở vực sâu hồ Động Đình… Tất cả các địa danh Thương Ngô, sông Tương và hồ Động Đình đều cho thấy quê hương của người Hoa Hạ không hề ở Hoàng Hà.

Hồ Động Đình không phải chỉ có trong truyền thuyết Việt mà cả truyền thuyết Hoa. Việc gán hồ Động Đình vào đầm Vân Mộng cũng không thể giải thích nổi tại sao người Hoa Hạ ở Hoàng Hà lại có truyền thuyết với địa danh ở Hồ Nam. Chỉ có thể giải thích Hoa Hạ chính là người Việt xuất phát từ khu vực quanh Bắc Việt ngày nay.