TRIỆU ĐÀ, NHỮNG ĐIỀU CÒN ÍT BIẾT

1. Triệu Đà có quê gốc ở đất Phong Châu – Mê Linh, tức là vùng đất gốc tổ của các vua Hùng. Cổ Lôi ngọc phả cũng ghi nhận như vậy. Triệu Đà là dòng “Lạc Hùng chính thống” hay “Nam Thiên chính thống thủy”, không hề có chuyện ông là người Tàu.

Tượng Triệu Vũ Đế ở Châu Sơn

2. Dưới thời Tần, Triệu Đà làm một đình trưởng nhỏ ở Chân Định, nay là đất Thái Bình – Nam Định. Tại đây ông lấy vợ là bà Nhữ Nương Trình Thị (đọc phiên thiết là Lữ – Trĩ). Ông được coi là người khai cơ lập nền cho vùng đất này nên có tên huyện Kiến Xương. Cũng vì là người ở Thái Bình nên ông còn có tên là Bái Công do Thái Bình đọc thiết là Bái. 

3. Trong một lần dẫn dân phu đi lao động về núi Lịch (sử đọc thành Triệu Đà dẫn những người ở rể… đi đánh chiếm…), do dân phu bỏ trốn nhiều nên Triệu Đà đã cùng nhân dân ẩn vào vùng rừng núi Châu Sơn nương náu chống Tần. Sách Hoài Nam Tử gọi Triệu Đà là “người tuấn kiệt” đã lãnh đạo người Việt kháng Tần. Trên núi Châu Sơn nay vẫn còn vật chứng là tượng con “dê đá” có niên đại cổ nhất Việt Nam từ thời Tần Hán, còn đang đứng “sau chùa Triệu Việt Vương”.

Con Phi liêm ở Châu Sơn

4. Tần Thủy Hoàng mất, chư hầu các nơi nổi dậy. Triệu Đà từ vùng núi Châu Sơn dẫn quân vào đánh chiếm Long Biên, quận trị của quận Long Xuyên lúc này. Khi dẫn quân đi qua sông Nhị Hà đã thấy rồng bay lên, nên gọi nơi đây là Thăng Long. Di tích nay còn là Long Hưng điện ở Văn Giang. Con Xích Xà Triệu Đà chém con Bạch Xà nhà Tần bắt đầu từ đây mà dựng nghiệp thiên thu.

Long Hưng điện ở Văn Giang, Hưng Yên

5. Triệu Đà chiếm 3 quận Quế Lâm, Tượng và Nam Hải, tiến quân vào kinh đô nhà Tần, lập nên cơ đồ một triều đại mới của Viêm Việt. Do đó ông được gọi là … Triệu Cao… Tổ. Lập quốc rồi, ông cho các nơi đã từng đóng quân trước đây dựng làm hành cung, sau thành nơi thờ tự. Một trong những hành cung Triệu Đà là khu vực Tri Hối Thần Thiệu ở Gia Viễn Ninh Bình, nay vẫn còn các làng thờ ông.

Đình Thần Thiệu ở Gia Viễn, Ninh Bình

Câu đối về Long Hưng Triệu Vũ Đế ở Hưng Yên:

Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.

Dịch nghĩa:

Một lệnh sạch không Tần, vạn dặm mở đầu khắp Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, muôn năm dựng nền vững đế vương.

Leave a comment