Tể tướng Lữ Gia

Bài viết của nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên ở Vĩnh Phúc.

Có môt thời kì lịch sử mà giới sử học Việt Nam tranh cãi là có nên chép vào lịch sử nước Việt Nam hay không, đó là kỉ Nhà Triệu của Triệu Đà. Ở thế kỉ XV Nguyễn Trãi viết câu đầu trong bài Bình Ngô đại cáo:
 … Xét như nước Đại Việt ta
Thực là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lí, Trần, Lê nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt không bao giờ thiếu.
Sang thế kỉ XVIII, nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong sách “ Việt sử tiêu án” lại chưa tán đồng quan điểm này. Nhưng đó là truyện của lịch sử.

1. Nước Nam Việt của Triệu Đà
Họ Triệu, tên là Đà là viên quan uý, người huyện Chân Định nước Hán,  nhân lúc nhà Tần ở phía bắc suy yếu đã nổi dậy cướp lấy đất Quế Lâm và Tượng quận, tự lập làm Nam Việt Vũ vương, xưng đế đóng đô ở Phiên Ngung tức đất Quảng Châu Trung Quốc ngày nay. Đất đai của Đà  chiều ngang có hàng vạn dặm, gồm cả đất đai của nước Âu Lạc thời Thục An Dương vương, đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “ chế”, chẳng kém gì hoàng đế Trung Hoa. Truyền 05 đời làm vua: Trỉệu Vũ vương ( 207-136Tcn), Triệu Văn vương ( 136-124Tcn), Triệu Minh Vương (124-112Tcn), Triệu Ai vương (112Tcn), Triệu Thuật Dương vương ( 111Tcn). Việt sử thông giám tổng luận của Lê Tung in lên đầu sách Toàn thư của họ Ngô có đoạn viết: Triệu Vũ đế nhân loạn nhà Tần, chiếm lấy đất Lĩnh Biểu, đóng đô ở Phiên Ngung, cùng với Hán Cao Tổ, đều làm đế một phương; có lòng nhân thương dân, có mưu trí giữ nước. Vũ công khiến Tàm Tùng phải kính sợ, văn giáo khiến Tượng quận được chấn hưng, lấy thi thư mà biến đổi tục nước, lấy nhân nghĩa mà cố kết lòng người, dạy dân cày trồng, nước giầu binh mạnh, đến như các việc sai sứ (sang nhà Hán) thì lời lẽ khiêm tốn, Nam Bắc chung vui, thiên hạ vô sự, hưởng nước hơn trăm năm, đúng là bậc vua anh hùng tài lược. Còn có một nhân vật lịch sử thời thời nhà Triệu trước công nguyên được nhắc đến nhiều ở huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, đó là ông Lữ Gia, vị tể tướng thuộc kỉ nhà Triệu.
Vậy ông là ai?

2. Ông Lữ Gia là người Việt
Vào thời Triệu Võ đế huý là Đà, ở bộ Cửu Chân, huyện Lôi Dương, phủ Nghệ An có một gia đình ông họ Lữ tên huý là Tạo, có nghề làm thuốc trị bệnh cứu người. Vợ là con gái nhà họ Trương tên là Châu, gọi là Trương Thị Ninh người bộ Vũ Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Hai người sinh được 07 người con nhưng đều đã mất sớm. Đến năm ông ở tuổi 60, mới sinh tiếp một con trai vào ngày 10 tháng 02 năm Tân Hợi (?), đặt tên là Gia. Khi lớn lên lại đặt tên là Lệ. Đến năm 15 tuổi thì cha mẹ đều qua đời, mà nhà thì quá nghèo nàn, chẳng có gì lo việc tang ma. Mới tự than rằng: Cha ta có tài, làm thuốc chữa được hàng nghìn con người, thế mà chẳng thể cứu được bệnh nghèo của con mình. Người xưa có câu rằng “ lương y chi tử, tất tử hồ”, nghĩa là chữ “ tử” là con của lương y cũng đồng nghĩa với chữ “ tử” là chết vậy!
Bởi thế ông mới qua bờ bắc sông Nhĩ Hà đến nhờ người cậu ruột là Trương Viêm. Được tròn 03 năm, ông Viêm bị người bộ trưởng ở Vũ Ninh là Đào Trịnh mưu sát hại, chí muốn báo thù nhưng vì tuổi còn nhỏ, sức mỏng nên chưa thể làm nổi. Bởi vậy mới chuyển đến ở đất Ô – Lí thuộc Lâm Ấp, nương nhờ vào vị Thiền sư chùa Hoàng Long đạo hiệu là Huyền tông.
Ở đất Ô – Lí Gia ngày đêm vẫn mưu tính báo thù cho người cậu. Tự thân ông khổ công không nguôi, mới chiêu nạp được độ vài trăm người nghiã binh, rồi dùng thuyền từ Linh Giang huyện Chí Linh tiến xuống cửa sông Bạch Đằng, bỏ thuyền lên bờ, gặp ngay bọn Đào Trịnh ở khe núi Chung Sơn. Ông hăng hái tiến đánh một trận giết chết bọn chúng. Rồi ông quay trở lại chỗ nhà người cậu, bàn bạc với người nhà làm lễ tế cậu chu tất. Rồi mới trở lại đất Lâm Ấp. Rồi cũng ở Lâm Ấp, ông kết hôn với 02 con gái nhà bộ trưởng đất ấy họ Hùng là Lâu Bảo Hoa và Nhĩ Bảo Hoa, rồi xin trở về quê nhà.
Ở quê được 02 năm thì gặp lúc Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) thăng hà, Triệu Văn vương lên nối nghiệp (136 Tcn), các châu quận cử những người ngay thẳng, có trình độ hiếu liêm (người có học hạnh mà do địa phương tiến cử), văn võ đầy đủ học vấn rộng rãi về bộ Cửu Chân cùng dự thi tuyển ở trường Nghệ An. Đến khi vào gặp nhà vua, ông lại có tài ứng đối nên được phong làm chức “Thị tòng tham quan” dùng để rèn luyện nghi thức chính sự trong triều. Lại kiêm chức “Đốc lĩnh thuỷ đạo Long chu, tả súy đô thống chế đại vương”. Sáu năm sau, lại được bái phong làm tể tướng (Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép, vào năm 124 Tcn Minh vương nhà Triệu lấy Lữ Gia làm chức Thái phó, tức là vào hàng “tam công” của triều đình nhà Triệu). Bia đền Cả xã Liễn Sơn chép: Cùng với Triệu Minh vương, vua tôi hợp đức, thiên hạ thái bình, muôn dân no đủ, bốn biển yên vui phồn thịnh, Triệu Minh vương vì ông có công nên ban cho một chiếc búa “phủ việt”, tỏ ý trường tồn cùng đất nước.

3. Vai trò của Lữ Gia trong triều đình nhà Triệu
Về việc này, Sử kí của Tư Mã Thiên chép khá tường tận: Lữ Gia là thừa tướng 03 đời vua, tuổi cao, chức trọng. Họ hàng làm quan trường lại đến hơn 70 người. Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua, lại thông gia với Tần vương ở Thương Ngô. Ông ở trong nước rất được tôn trọng. Người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông. Ông được lòng dân hơn vương.

4. Những lục đục trong triều đình
Năm 113 Tcn, Minh vương khi còn làm thế tử, sang làm con tin cho nhà Hán ở Trường An có lấy người con gái họ Cù ở Hàm Đan. Đến khi về nước lên ngôi, giấu ấn của tiên đế là Triệu Đà, dâng thư sang nhà Hán xin lập Cù thị làm hoàng hậu, Hưng làm thế tử. Năm ấy Minh ương mất, con thứ là Hưng lên nối ngôi, tức là Ai vương, tôn mẹ làm thái hậu.
Khi trước, ở nước Hán, khi chưa lấy Minh vương, hậu đã từng thông dâm với người ở Bá Lăng họ tên là An Quốc Thiếu Quý. Năm này, nhà Hán sai Thiếu Quý sang dụ nhà vua và thái hậu vào chầu. Khi ấy vua còn ít tuổi, Cù hậu đến là người Hán, Thiếu Quý đến lại tư thông. Người trong nước biết, phần nhiều không theo thái hậu. Thái hậu sợ loạn nổi, muốn dựa uy nhà Hán, nhiều lần khuyên vua và các quan xin nội phụ nhà Hán. Bèn nhờ sứ giả dâng thư, xin theo như các chư hầu ở trong, cứ 03 năm một lần vào chầu, triệt bỏ cửa quan ở biên giới.
Năm 112 Tcn, thái hậu đã sửa soạn hành trang lễ vật quý giá để vào chầu, Lữ Gia nhiều lần dâng thư can ngăn, vua không nghe, nhân thế có lòng muốn phản lại thái hậu, thường cáo ốm không tiếp sứ giả nhà Hán. Sử Toàn thư chép tiếp: Các sứ giả nhà Hán, đều chú ý đến Gia, nhưng chưa thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ bọn Gia khởi sự trước, muốn nhờ sứ giả nhà Hán trù mưu giết bọn Gia. Thái hậu bày tiệc rượu mời sứ giả đến dự, các đại thần đều ngồi hầu rượu. Em Gia làm tướng, đem quân đóng ở ngoài cung. Tiệc rượu mới bắt đầu, thái hậu bảo Gia rằng: Nam Việt nội thuộc (Trung Quốc) là điều lợi cho nước, thế mà tướng quân lại cho là bất tiện là tại sao? Cốt để chọc tức sứ giả. Sứ giả còn đang hồ nghi, chần chừ chưa dám làm gì. Gia thấy tai mắt họ có vẻ khác thường, lập tức đứng dậy đi ra. Thái hậu giận muốn lấy giáo đâm Gia, vua ngăn lại. Gia bèn ra chia lấy quân lính của em dẫn về nhà, cáo ốm không chịu gặp vua và sứ giả. Ngầm cùng các đại thần mưu làm loạn. Vua vẫn không có ý giết Gia. Gia cũng biết thế, vì vậy đến mấy tháng không hành động gì. Thái hậu muốn một mình giết Gia nhưng sức không làm nổi.

5. Binh biến trong triều đình
Trước tình trạng đó, thiên tử nhà Hán sai Hàn Thiên Thu và em của Cù thái hậu là Cù Lạc đem 2000 quân tiến vào đất Việt. Thấy vậy, Lữ Gia  bèn hạ lệnh cho người trong nước biết rằng: “Vua còn nhỏ tuổi, thái hậu vốn là người Hán lại cùng với sứ giả nhà Hán dâm loạn, chuyên ý muốn nội phụ với nhà Hán, đem hết đồ châu báu của tiên vương (Triệu Đà) dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, đem theo nhiều người đến Trường An rồi bắt bán cho người ta làm đầy tớ, chỉ nghĩ mối lợi một thời, không đoái gì đến xã tắc họ Triệu và lo kế muôn đời”. Bèn cùng với em đem quân đánh, giết vua và thái hậu, cùng tất cả bọn sứ giả nhà Hán, rồi sai người đi báo cho Tần vương ở Thương Ngô và các quận ấp, lập con trưởng của Minh vương là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua, gọi là Thuật Dương vương vào năm 111 Tcn.

6. Phá Hàn Thiên Thu
Tháng 11 mùa đông, quân của Hàn Thiên Thu đã vào cõi, đánh phá một vài ấp nhỏ. Lữ Gia bèn mở một đường thẳng để cắp lương cho quân. Khi quân của nhà Hán đến còn cách Phiên Ngung 4o dặm (mỗi dặm bằng 444,44m), thì Lữ Gia xuất quân đánh giết được bọn Hàn Thiên Thu. Sai người đem cờ tiết sứ giả của Thiên Thu cho vào hòm để ở trên núi Tái Thượng (tức là đèo Đại Dũ), dùng lời khéo để tạ tội vói thiên tử nhà Hán, mặt khác, lại phát binh giữ các chỗ hiểm yếu,  lập trận, chất đá ở giữa sông gọi là Thạch Môn.

7. Thế yếu bại binh
Nghe tin sứ giả Hàn Thiên Thu bị giết, Hán Vũ đế sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xất phát từ Quế Dương; Lâu thuyền tướng quân xuát phát từ Dự Chương; Qua thuyền tướng quân tên là Nghiêm xuất phát từ Linh Lăng; Hạ lại tướng quân tên là Giáp đem quân xuống Thương Ngô; Trì Nghĩa hầu tên là Quý đem quân Dạ Lang xuống sông Tường Kha, đều hội ở cả Phiên Ngung.
Mùa đông năm 111 Tcn, tướng Hán là Dương Bộc đem 9000 quân tinh nhuệ vay hãm Tam Hiệp, phá tan trận Thạch Môn, lấy được thuyền thóc của Nam Việt, kéo luôn cả các thuyền ấy đi, đem mấy vạn người đợi Lộ Bác Đức. Bác Đức cùng Bộc hội quân tiến đến Phiên Ngung. Bấy giờ Bác Đức có hơn 1000 người cùng tiến với số quân đi trước của Dương Bộc, gặp vương và Lữ Gia đang giữ thành. Dương Bộc tự chọn chỗ thuận tiện ở mặt đông nam, Bác Đức đóng ở mặt tây bắc. Vừa chập tối, Dương Bộc đánh bại quân Triệu, phóng lửa đốt thành. Bác Đức không biết quân trong thành nhiều hay ít, bèn đóng doanh, sai sứ chiêu dụ. Ai ra hàng đều được Đức cho ấn thao và tha cho về để chiêu dụ nhau. Dương Bộc cố sức đánh, đuổi quân Triệu chạy ngược vào dinh quân của Lộ Bác Đức. Đến tờ mờ sáng thì trong thành đầu hàng. Vua và Lữ Gia cùng vài trăm người đang đêm chạy ra biển. Bác Đức lại hỏi những người đầu hàng biết chỗ ở của Lữ Gia bèn sai người đuổi theo.
Về phần này bản ngọc phả ở đình Nhân Lạc chép: Nước Việt đã mất, ông mưu tính việc khôi phục, mới đem theo số nghĩa binh mới mộ vài nghìn người, giữ vững miền thượng lưu sông Lô, cùng với hai phu nhân đóng doanh riêng cố thủ. Dựa vào thế hiểm của núi Long Động trên núi Thét (núi ở xã Quang Yên huyện Sông Lô) bí mật lẻn ra đánh tập kích quân Hán. Quân Hán mấy lần bị thua, buộc phải trở lại kinh thành, Lộ Bác Đức sai người kết giao với bộ tướng của ông là Chu Năng, bàn với Năng phản lại ông, hứa rằng sau sẽ cho Năng làm Toàn Việt vương. Năng cùng quân Hán đánh lại ông ở bên sông Nhân Mục trên sông Lô, nhưng trận chẳng thành. Chu Năng lại theo đường núi Lãng Sơn (núi Sáng) đánh úp, ông phải rút lui về bến Bạch Hạc (Phong Châu) đóng quân. Ngày hôm sau, Lộ Bác Đức đem quân đến vây, quân giặc cả bốn bề xông lên. Ngựa không còn dùng được quân Việt tán loạn, chỉ còn một mình ông tả xung hữu đột, thế khó đương nổi. Ông mới ngửa mặt lên giời than rằng:
出師為捷申先死
長史英雄淚滿衾
Xuất sư vi tiệp, thân tiên tử
Trường sứ anh hùng lệ mãn khâm.
Nghĩa là:
Ra quân chưa thắng, thân đã chết
Khiến bậc anh hùng lệ chứa chan.
Ông đánh tiếp một hồi, liền sau đó ông bị một viên tướng Hán chém một đao sát thương ngay trong trận. Lữ Gia chết, nước Nam Việt cũng mất.
Bình luận về việc này, trong sách Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận in lên đầu sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư của sử thần Ngô Sĩ Liên do Lê Tung biên soạn có đoạn: Minh vương buổi đầu nối nghiệp, yên vui buông thả. Cù Hậu được yêu, vợ Việt bị bỏ, trong nước không hoà, kỉ cương đại loạn. Ai vương tuổi ấu thơ, chưa biết lẽ trị nước, mẫu hậu kiêu dâm, quyền thần chấp chính, mà cơ nghiệp họ Triệu rút cuộc lụn bại. Thuật Dương vương là anh Ai Vương, lập nên bởi tay quyền thần, trí kém sức yếu, giặc mạnh xâm lấn mà cơ đồ nhà Triệu từ đấy xụp đổ. Xét tai hoạ của Ai Vương, tuy ở Lữ Gia, nhưng thực ra là do ở Minh Vương yêu chiều Cù Hậu mà gây ra. Nữ sắc làm nghiêng đổ nước nhà như thế, phải lấy làm răn.
Bình luận như thế là đúng với thời cục lúc đó của triều đinh nhà Triệu, nhưng có phần khe khắt với Lữ Gia vì dù sao ông cũng chỉ là vị tướng già có lòng rất biết tự tôn và xả thân vì nước đến cuối cùng.
Từ đó, nhà Hán lấy nước Nam Việt chia làm 09 quận là: Nam Hải (quận của nhà Tần, sau là đất Quảng Đông của nhà Minh). Thương Ngô (nhà Đường gọi là Ích Châu, xưa là đất Âu Lạc, đất của nước Việt ta). Uất Lâm (nhà Tần là quận Quế Lâm, Hán Vũ đế đổi là tên này). Hợp Phố (nhà Tần là Tượng Quận, đời Minh thuộc Liêm Châu). Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đều là Tượng Quận đời Tần). Châu Nhai, Đạm Nhĩ (nay là vùng đất đảo Hải Nam). Bắt đầu đặt chức Thứ sử cai trị một châu, Thái thú cai trị một quận. Quận là cấp dưới của châu.

8. Câu truyện hậu Lữ Gia ở Sông Lô
Truyện trong ngọc phả đình làng Nhân Lạc chép lại rằng: Sau khi bị một viên tướng Hán chém một nhát trọng thương, Ông Lữ Gia vẫn cứ tả xung hữu đột phá vòng vây, chạy đến thôn Lữ Chỉ huyện Thiên Bản (nay thuộc tỉnh Nam Định), gặp một bà lão. Ông mới hỏi rằng:
– Từ xưa đến nay, nguời không có đầu sống được chăng?

Bà lão liền trả lời:
– Người ta có sống được là nhờ ở thân thể được toàn vẹn. Chưa từng nghe thấy người không có đầu mà có thể sống được bao giờ!
Bà lão vừa nói dứt lời, ông từ trên mình ngựa thét lên một tiếng, rồi nói:
一言封得英雄骨
萬古遺來恨淚長
Nhất ngôn phong đắc anh hùng cốt
Vạn cổ di lai hận lệ trường.
Nghĩa là:
Một lời nói đổ xương anh kiệt
Muôn năm mắt lệ hận còn dài.
Nói xong đổ gục ngay xuống chỗ đất ấy. Trong chốc lát mối đã đùn lên thành ngôi mộ lớn. Nhân dân thôn Lữ Chỉ dựng ngôi miếu thờ cúng ông. Sau khi Tể tướng đa hi sinh nơi chiến trường, như các tổng, huyện, xã nơi ông từng đi qua từ nơi chiến trận, những địa phương ngựa chạy máu rơi đầm đìa, nhân dân đều lập đền thờ phụng. Người đời sau có thơ vịnh rằng:
生為名將死為忠臣
萬古綱常係一身
江上土堆秋月桉影
往來人說呂公墳
Sinh vi danh tướng, tử vi trung thần
Vạn cổ cương thường hệ nhất thân
Giang thượng thổ đôi thu nguyệt ảnh
Vãng lai nhân thuyết Lã công phần.
Nghĩa là:
Sống là danh tướng, chết làm trung thần
Muôn thủa cương thường một tấm thân
Gò đống trên sông trăng sáng tỏ
Người qua ngắm mãi Lã công phần.
Truyền thuyết ở huyện Sông Lô kể lại rằng: Khi Lữ Gia chết trận, có một con  “chó ngao” ngậm lấy đầu, chạy đến đầu núi trang Yên Thiết (tức núi Thét), liền bị thần núi ấy hiện lên lấy lại, chôn cất ở phía nam núi ấy.
Do là con “ chó ngao” là con vật mà ông rất yêu mến. Phàm mỗi khi hành quân hay dừng lại ở đâu, đều dắt theo “ chó ngao” cùng đến đó. Cho nên khi ông bị chém, con “ chó ngao” cảm nhớ ơn đức ấy, ngậm lấy đầu mà chạy trốn đi, đến khi thần núi lấy lại, chôn cất ở phía Nam núi ấy, con “chó ngao” tự vẫn chết. Ngày hôm ấy xã Yên Thiết lập miếu thờ phụng, gọi là ‘Đền Am”, địa điểm ở xứ “Gò Chùa”, di tích đến nay hãy còn. Năm 2012. UBND tỉnh Vĩnh Phúc cấp băng di tích LS – VH cấp Tỉnh – Thành phố.
Lại nói, hai phu nhân họ Hùng của ông cùng với ba thị nữ đem 300 quân đi trên 05 chiếc thuyền theo sông Lô mà theo sau. Đến làng Thượng Nha, Hạ Nha huyện Phù Khang (nay là Phù Ninh) rồi đỗ lại đấy. Đó là ngày 12 tháng 05. Vừa thiêm thiếp đi, hai bà bỗng thấy một người học trò, mình mặc áo xanh, tay cầm cờ vuông có đề chữ rằng:
天本瀘江已顯神
扶康立石望邊津
Thiên Bản, Lô Giang dĩ hiển thần
Phù Khang, Lập Thạch vọng biên tân.
Nghĩa là:
Thiên Bản, Lô Giang đã hiển thần
Phù Khang, Lập Thạch ngóng bên sông.
Chính phu nhân choàng tỉnh dậy mới biết là vừa nằm mơ. Hai phu nhân phán đoán chưa rõ là điềm gì thì ngay lúc đó dời thuyền lên bờ ở bến Thượng Nha, truyền binh sĩ thiết lập đồn luỹ doanh trại đợi tin tức. Đến ngày 30 tháng 05 bỗng thấy quân Hán kéo đến ngày một mhiều, cờ xí rợp đất, khí giới đầy trời, rồi vây kín hai phu nhân vào giữa. Hai phu nhân không thể giải vây, ứa nước mắt mà than rằng: Tướng công ở nơi nao, nay sự việc xảy ra với thiếp là cùng đường rồi.
Tin tức ngầm cũng không thông do những người qua lại đưa tin đều bị quân Hán giết chết. Đến giữa canh ba đêm đó, bỗng thấy mưa to gió lớn nổi lên kín trời, sấm vang dậy đất, thấy ông từ phương đông bắc lọt vào giữa vòng vây của quân Hán, gặp gỡ hai phu nhân nói cho biết rằng ông đã bị quân Hán giết hại rồi. Nay hai phu nhân lại bị vây khốn ở nơi đây, cho nên hiển linh để cứu giúp.
Giờ dần (03 – 05 h) ngày hôm sau, ông sai một đạo quân thuỷ đến tổng Nhân Mục lấy 10 con trâu đem về doanh trại ở Thượng Nha, mở tiệc khao quân. Lại giết ba con gà trống, lấy máu ăn thề, cùng nhau giết giặc để rửa sạch mối hận anh hùng. Xong tiệc khao quân, ông biến thành đám sương trắng bay ngang qua sông từ bến Nhân Mục đến bến Thượng Nha thẳng lên trời. Rồi lại thấy ông cưỡi ngựa, đội mũ hoa, thân mang giáp, tay cầm thương vàng dài 10 thước từ trên không trung miệng thét lớn xuống dưới quân Hán:

-Ta sinh làm tôi trung, chết làm thần. Ngày nay chúng bay sao phản lại được ta, thát sao khỏi lưới trời!
Nói xong ông cầm đao “ thất hoả” xông vào giữa vòng vây quân Hán, chém tướng Hán là Chu Năng và các quân sĩ tới hơn trăm người. Quân Hán rối loạn ở sông Lô, phải rút lui tan tác. Rồi ông bay lên không mà đi.
Đến vùng trên bến sông Nhân Mục, bỗng thấy có hai chiếc thuyền con, hai phu nhân bước lên thuyền rồi nhìn theo. Bỗng thấy chiếc thuyền bị vỡ ra một mảnh, phu nhân nhặt lấy nhìn xem chỉ thấy 04 chữ “phục ẩn thánh thần” (dấu ở trong có thánh thần), hai phu nhân cảm tưởng như có dẫn đường mới trở lại bến Thượng Nha, đến giữa dòng mới cùng nhau nhảy xuống sông tự vẫn.
Dân hai bên bến sông lập miếu phụng thờ hai bà. Bốn thôn Thượng Nha, Hạ Nha huyện Phù Khang lập đền chính. Đền miếu nơi đây linh ứng rõ ràng. Hàng năm cúng giỗ chính vào ngày 01 tháng 06.

Còn như đầu của ông, từ khi chó ngao ngậm lấy, về sau máu chảy thấm những nơi chạy qua, tất cả đều lập miếu thờ. Còn ở Phong Châu nơi chính sảy ra chiến trận xưa, nhân dân lập đền thờ phụng. Lễ chính vào ngày 20 tháng 05.
Khi trở về trang Nhân Mục huyện Lập Thạch (nay là huyện Sông Lô), sau khi ông mất, dân lập lại đền thờ chính, huý là Nguyễn Triêu Lệ đại vương. Lệ tiệc giỗ chính vào ngày 10 tháng 05.
Xã Yên Thiết tổng Bạch Lưu nơi mộ chính chôn đầu ông, lập miếu thờ phụng. Còn các xã của tổng Đạo Kỉ, tổng Nhân Mục, các xã tổng Bạch Lưu nơi máu chảy đều lập miếu thờ. Các di tích hiện còn.
Đời sau có thơ vịnh rằng:
生為忠將死為神
萬古綱常舊更新
夫婦一心同此節
留傳祠宇兩邊津
Sinh vi trung tướng, tử vi thần
Vạn cổ cương thường cựu canh tân
Phu phụ nhất tâm đồng thử tiết
Lưu truyền từ vũ lưỡng biên tân.
Dịch là:
Sống làm trung tướng, chết làm thần
Muôn thủa cương thường chẳng đổi thay
Chồng vợ một lòng cùng khí tiết
Lưu tuyền đền miếu hai bên sông.
Cũng vì sự tích ông chọn lấy 10 con trâu ở tổng Nhân Mục mở tiệc khao quân, mà ở tổng này có tục giết trâu hiến tế. Sử sách ghi lại rằng: Xã Bạch Lưu Hạ huyện Lập Thạch , hàng năm nuôi 20 con trâu, cứ ngày 18 tháng giêng hoặc ngày 28 tháng 12 đặt đàn tế thần ở ngoài nội, cho trâu uống rượu, rồi lùa vào trong cái chuồng có tường đất xung quanh cho trâu chọi nhau, con nào bị thua thì giết lấy thịt để tế thần.
Còn làng Nhân Mục có tục thi bơi để tưởng lệ hai phu nhân. Có ngôi “đền Bơi” để tổ chức các cuộc thi bơi đó.
Năm 2002, tục hội chọi trâu đẫ được khôi phục lại, gọi là “Hội chọi trâu xã Hải Lựu” để tưởng nhớ Lữ Gia. Tổ chức vào ngày 17 tháng giêng, có bài chúc văn làm theo lối mới tuyên đọc rất nhiều ý nghĩa. Bài văn ấy có đoạn mở đầu như thế này:
Nhớ Đại vương xưa,
Sinh vi tướng, tử vi thần
Đức sánh càn khôn, tài xoay vũ trụ.
Trung dũng vẹn toàn, võ văn gồm đủ.
Lòng trung ái trong triều, ngoài nội, thương xót muôn dân
Chí kinh luân dọc đất, ngang trời, giúp vì nước Tổ.
Bao trận sông Lô sôi nổi, giặc Hán hồn kinh
Mấy năm núi Thét vang lừng, trời Nam mặt tỏ.
Dư uy mặt nước réo ầm ầm
Chính khí đỉnh non soi rực rỡ.
Đầu dẫu mất, thề không thua giặc, một thời lẫm liệt oai động lân bang
Kiếm chưa mòn, sông núi reo thiêng, danh truyền lịch sử…
Sơn Đông. Ngày 30 tháng 08 năm 2011

Tài liệu chính dùng để viết bài:
1. SỬ KÝ. Tư Mã Thiên.  Đời Hán (Trung Hoa).
2. ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ. Ngô Sĩ Liên. Thế kỉ 15.
3. Việt sử tiêu án. Ngô Thì Sĩ. Thế kỉ 18.
4. Bia thần tích Đền Cả xã Liễn Sơn Huyện Lập Thạch, Có tên: VIỆT THƯỜNG THỊ ĐẠI LA THÀNH PHÙ KÍ TỨC HÀ THƯỢNG CỔ ĐẠI PHU HỰU PHỤ MINH PHU NHÂN NGỌC PHẢ CỔ LỤC CHÍNH BẢN.
5. Ngọc phả đình Nhân Lạc xã Đôn Nhân huyện Sông Lô: VIỆT THƯỜNG ĐẠI LA THÀNH DŨNG THÁNH ĐẠI VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỀN.

Địa chỉ:  Thôn Quan Tử xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc.
ĐT;  02113828069. DĐ:  0984550547. Email: thuyenlk@gmail.com

Vang bóng anh hùng

Lữ Gia, cái tên của vị tướng nước Nam Việt tận trung vì nước, kiên quyết chống lại Hán quân xâm lăng, được người Việt qua các thời đại tôn vinh, cho dù không ít người vẫn đặt nghi ngờ về tính chính thống của nhà Triệu. Ngọn nguồn của thừa tướng Lữ Gia phải kể bắt đầu từ Triệu Vũ Đế, người sáng lập ra nước Nam Việt.
Vũ Đế họ Triệu tại làng Đồng Xâm (Hồng Thái, Kiến Xương, Thái Bình) đã kết duyên với bà Trình Thị. Trình Thị không phải là người con gái họ Trình, ở khu vực Đồng Xâm không hề có gia tộc họ Trình. Trình Thị đọc thiết âm là Trĩ. Đây là tên cúng cơm của Lữ Hậu, người vợ đã cùng Lưu Bang dựng nghiệp. Lưu Bang và Lữ Hậu mới là khởi nguồn thực sự câu chuyện về thừa tướng Lữ Gia.

IMG_4207-1024x683Đền thờ Hoàng hậu Trình Thị ở Đồng Xâm.

Đất Thái Bình chẳng phải địa danh xa lạ gì trong cổ sử Trung Hoa vì Thái Bình đọc phản thiết là Bái, là nơi Lưu Bang dựng cờ khởi nghĩa. Dưới chế độ hà khắc của nhà Tần, Lưu Bang được nhân dân đất Bái tôn làm Bái Công, là “người tuấn kiệt” lãnh đạo cuộc nổi dậy chống Tần của người Việt.
Triệu Vũ Đế ở Thái Bình là Bái Công Lưu Bang, người đã dẫn quân vào Quan Trung của nhà Tần năm 206 TCN, chiếm lại 3 quận lớn mà Tần Thủy Hoàng lập ra trên đất Việt trước đó (Quế Lâm, Tượng và Nam Hải). Triều đại nhà Hiếu bắt đầu được tính từ đây. Năm 206 TCN là năm Hiếu Cao Tổ thứ nhất. Sử Tàu tráo đổi, biến triều Hiếu thành Hán, gọi triều đại do Lưu Bang lập nên là Tây Hán, cho dù Lưu Bang khởi nghĩa từ đất Thái Bình, là một người Việt chính cống.
Lưu Bang còn được sử Việt chép thành Nam Việt đế Lý Bôn người ở phủ Long Hưng đất Thái Bình. Hiện ở Thái Bình còn lưu đậm đặc các di tích, thần tích về thời kỳ Tiền Lý này vì đây là nơi nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Tần của Lý Bôn – Lưu Bang. Hoàng hậu của Lý Bôn ở Thái Bình được các thần tích chép là bà Đỗ Thị Khương. Đỗ Thị Khương hay Trình Thị thực chất đều là Lữ Hậu, người đã giúp Lý Bôn – Triệu Vũ Đế – Lưu Bang diệt Tần phá Sở, lên ngôi đế vương của thiên hạ Trung Hoa.

Ly-Bon-1-1024x692
Tranh thờ Lý Bôn và hoàng hậu Đỗ Thị Khương ở Thái Bình.

Họ Lữ là những đại công thần khởi lập của triều Hiếu nên đều đã được phong tước hầu. Những người anh của Lữ Hậu là Lữ Thai được phong là Lịch hầu, còn Lữ Sản là Giao hầu. Lịch là đọc sai của Lạc. 2 chức vụ Lịch hầu và Giao hầu của anh em họ Lữ càng cho thấy Giao Chỉ – Lạc Việt là vùng đất khởi nghiệp của Lưu Bang – Lữ Hậu.
Hiếu Cao Lưu Bang mất, Lữ Hậu lên nắm toàn quyền triều chính, phế lập các vị đế họ Lưu theo ý mình. Lữ Hậu đã nhiều lần muốn phá bỏ cam kết ăn thề từ thời Lưu Bang “Ai không phải họ Lưu mà làm vương thì thiên hạ cùng nhau đánh nó”. Bà thái hậu này đã ép các quân thần và phong vương cho gia tộc họ Lữ. Tước vương đầu tiên được phong cho Lịch hầu Lữ Thai là Lữ vương, tức là vua của vùng đất Lữ.
Đất Lữ là quê của Lữ Hậu, tức là vùng đất Bái – Thái Bình. Lữ Vương là một vị trí chức vụ rất quan trọng dưới thời Lữ Hậu vì đó là người phụ trách hậu phương của họ Lữ. Người đầu tiên nắm chức Lữ Vương là Lữ Thai, anh của Lữ Hậu. Lữ Thai mất, thái tử Gia thay thế được lập làm Vương. Sau đó, Gia ăn ở kiêu ngạo hống hách, nên bị phế truất, cho Lữ Sản… làm Lữ Vương”. Mấy tháng sau, Lữ Sản được dời làm Lương Vương và làm thái phó. Lữ Hậu lập Bình Xương hầu Lữ Thai làm Lữ Vương, đổi tên đất Lương gọi là đất Lữ và đất Lữ đổi là Tế Xuyên (Sử ký Tư Mã Thiên, Lữ Hậu bản kỷ).
Việc đổi Lữ Sản làm Lương Vương và đổi tên đất Lương thành đất Lữ cho thấy thực chất Lữ Sản vẫn giữ vai trò của Lữ Vương (vua đất Lữ). Còn vùng đất Lữ trước đây đổi thành Tế Xuyên (Tam Xuyên?) do một vị hầu tước khác cai quản.
Khi Lữ Hậu mất, Lữ Sản làm binh biến định dành ngôi vị nhưng không thành, bị đám cận thần trung thành với họ Lưu giết chết. Trong sự kiện này “những người họ Lữ không kể trai gái, già trẻ đều chém hết”. Tuy vậy, Sử ký không nói gì đến vị Lữ Vương cuối cùng là Bình Xương hầu Lữ Thai sau cuộc binh biến này ra sao. Một vị vương chủ chốt, nắm toàn bộ hậu phương của họ Lữ, do chính Lữ Hậu quan tâm gây lập nên qua mấy đời chắc chắn phải có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp của họ Lữ. Vậy mà tung tích của vị này lại không hề được nhắc tới.
Sử ký bàn: “Cao Hậu người đàn bà làm chủ, gọi mệnh lệnh của mình là “chế” nhưng việc chính sự không ta khỏi nhà, thiên hạ yên lành”. Có thật là “thiên hạ yên lành”, không ảnh hưởng gì bởi sự tiếm quyền của họ Lữ? Yên lành gì mà ngay sau khi Lữ Hậu mất ở phương Nam bỗng nhiên nổi lên nước Nam Việt của Triệu Đà, chiếm mất cả nửa diện tích Trung Quốc:
“Cao Hậu mất… Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”, chẳng kém gì Trung Quốc”.
Đặc biệt hơn nữa lúc này trong triều Nam Việt nhà Triệu bỗng xuất hiện Thừa tướng Lữ Gia. Theo Sử ký thì Lữ Gia dưới thời Triệu Anh Tề đã làm thừa tướng tới ba đời vua, tức là từ Triệu Vũ Đế, Triệu Văn Đế tới Triệu Minh Vương (Anh Tề). Như vậy Lữ Gia là thừa tướng của nhà Triệu ngay từ vị vua Triệu lập quốc đầu tiên sau khi Lữ Hậu mất.
Sử sách của nhà Hiếu (Sử ký Tư Mã Thiên) đã dấu đi hoặc đã cố ý không nói tới một sự thật. Sự tiếm ngôi của họ Lữ đã không hề kết thúc một cách yên lành sau khi Lữ Hậu mất. Họ Lữ ở kinh thành Trường An bị giết hết nhưng vẫn còn vị Lữ Vương cuối cùng, người nắm giữ vùng đất Lữ ở phương Nam. Đây chính là thừa tướng Lữ Gia của Nam Việt. Vị Lữ Vương này đã lập một người cháu của Lưu Bang lên làm vua Triệu của nước Nam Việt, bắt đầu thế đối kháng Nam Bắc. Vua Triệu xưng đế ngang với nhà Hiếu ở phương Bắc.
Diễn biến tiếp theo của nước Nam Việt thì như đã biết, sau khi Minh Vương Triệu Anh Tề mất, thái tử Hưng lên ngôi là Triệu Ai Vương. Thái hậu Cù Thị, truyền thuyết Việt gọi là Cảo Nương, con của Triệu Quang Phục, có ý theo về với nhà Hiếu ở phương Bắc. Tất nhiên thừa tướng Lữ Gia không đời nào đồng ý việc này vì mối thù diệt tộc khi Lữ Hậu mất vẫn còn đó, và họ Lữ đã mất công mấy đời gây dựng nước Nam Việt để có lãnh thổ riêng, vương quyền riêng, không thể nào lại hàng nhà Hiếu. Lữ Gia nhanh chóng giết mẹ con Cù Hậu, lập Triệu Kiến Đức lên ngôi và tích cực chiến đấu chống quân nhà Hiếu.
Khi kinh đô Phiên Ngung của Nam Việt thất thủ, vua Triệu Kiến Đức cùng Lữ Gia và cả gia đình hoàng thân quốc thích hàng trăm người đã lên thuyền đi về phía Tây. Phía Tây của Phiên Ngung (Quảng Đông) tức là đất Giao Chỉ, là miền đất gốc của họ Lữ từ thời Lữ Hậu (đất Bái). Không may, khi thuyền vừa mới tới miền đất cũ của họ Lữ, vua Triệu cùng Lữ Gia bị quân nhà Hiếu truy sát bắt được.

IMG_4785-1024x683
Đền thờ Lữ Gia ở chân núi Gôi.

Câu chuyện thảm thương, kết thúc một triều đại này trong sử Việt được truyền thuyết kể thành chuyện Triệu Việt Vương bị Hậu Lý Nam Đế đuổi, chạy đến cửa Đại Ác thì đường cùng, ra biển mà mất. Đại Ác là cửa sông Đáy đổ ra biển, nay còn di tích đền Độc Bộ (Ý Yên, Nam Định) thờ Triệu Quang Phục, “cháu đời xa của Triệu Vũ Đế”. Gần đó ở chân núi Gôi (Vụ Bản, Nam Định) là nơi thừa tướng Lữ Gia tử trận. Ngôi đền thờ vị tể tướng 4 đời vua Triệu này còn lưu câu đối, nói tới chí khí kiên cường chống giặc của Lữ Gia:
趙氏有天存社稷
漢人無地出楼船
Triệu thị hữu thiên tồn xã tắc
Hán nhân vô địa xuất lâu thuyền.
Dịch:
Còn trời họ Triệu còn xã tắc
Không Hán, lên thuyền đất chẳng chung.
Trong truyền thuyết Việt câu chuyện Lữ Gia không kết thúc ở đây. Sau thất bại ở Phiên Ngung Lữ Gia đã lui về vùng phía Tây dựng phòng tuyến chống lại quân nhà Hiếu. Đó là phòng tuyến bên sông Lô với các di tích về Lữ Gia ở 2 bên bờ sông ở Việt Trì và Lập Thạch. Cũng có chỗ là ở vùng đất Hà Tây (cũ), như các di tích Linh Tiên quán (Hoài Đức), nơi tương truyền Lữ Gia đã gặp tiên đánh cờ.

P1010119-1024x768
Nghi môn Linh Tiên quán.

Câu đối ở quán Linh Tiên :
聖駕仙棋趙承留勝跡
靈僊古觀三教顯名藍
Thánh giá tiên kỳ Triệu thừa lưu thắng tích
Linh tiên cổ quán tam giáo hiển danh lam.
Dịch
Thánh giá cờ tiên, Triệu tướng lưu thắng tích
Linh Tiên quán cổ, Tam giáo tỏ danh lam.
Trong sử Việt Lữ Gia còn được kể dưới một loạt các tên khác nữa. Đó là Đỗ Động tướng quân Đỗ Cảnh Thạc ở vùng Thanh Oai – Quốc Oai (Đỗ động). Họ Đỗ ở đây cũng giống như trường hợp Lữ Hậu ở Thái Bình được gọi là Đỗ Thị Khương. Đỗ Cảnh Thạc bị sử Việt ghép thành 1 trong 12 sứ quân của thời Đinh Bộ Lĩnh, cách sau đó hơn nghìn năm.

P1130096-1024x768
Đình Giá ở Yên Sở trong ngày hội.

Truyền thuyết Việt còn kể về thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu dưới tên nhân vật Lý Phục Man. Lý Phục Man là đại tướng của Lý Nam Đế, khi tử trận được người nhà là Trương Hống, Trương Hát đưa về an táng tại làng Yên Sở (Hoài Đức, Hà Nội). Lý Phục Man cũng được gọi là Đỗ Động tướng quân. Nơi mất của Lữ Gia – Lý Phục Man – Đỗ Cảnh Thạc đều ở dưới chân Sài Sơn là chứng thực rõ nhất rằng cả 3 sự tích này đều là về vị thừa tướng họ Lữ lẫy lừng của nhà Triệu Nam Việt.
Về Lữ Gia còn có thêm một dẫn chứng liên hệ nữa. Ở thôn Mai Trung xã Mai Đình (Hiệp Hòa, Bắc Giang) có đình Lợ hay gọi là đình Mới thờ Lữ tể tướng nhà Triệu. Bản thân tên đình Lợ có thể là đọc tránh của họ Lữ. Tương tự ở vùng này có vùng Đông Lỗ nhưng lại có chợ Lữ.
Là đình thờ Lữ Gia nhưng đình Lợ lại nằm trong trong cụm di tích làng Mai thờ anh em Trương Hống, Hát, Lẫy, Lừng và Đạm Nương cùng con thứ của Trương Hống là Trương Kiều. Lễ hội Mai Thượng ở Hiệp Hòa bên dòng sông Cầu tới nay vẫn là một lễ hội lớn, đặc sắc bởi màn tung hoa (bánh dày) để tưởng nhớ tới thánh Trương Kiều, hy sinh theo cha lúc mới 8 tuổi tại đây. Theo sự tích ở thôn Mai Trung thì Lữ Gia là thầy dạy của 5 vị thánh họ Trương.
Sự tích về thánh Tam Giang ở Vân Mẫu (Quế Võ, Bắc Ninh) cũng kể anh em họ Trương đã theo học tiên sinh Lã Thị người hương Chu Minh, lộ Bắc Giang. Tới khi Triệu Quang Phục khởi nghĩa ở đầm Dạ Trạch thì cả nhà họ Trương cùng dấy binh theo về… Triệu Quang Phục phong Trương Hống làm thượng tướng quân, Trương Hát làm phó tướng quân, Lã tiên sinh làm quân sư, Trương Lừng, Trương Lẫy làm tỳ tướng, Đạm Nương làm hậu binh lương và lo kế sách đánh giặc.
Thật khó hiểu vì sao thừa tướng nước Nam Việt ở thời kỳ trước Công nguyên lại làm “thầy” của các vị tướng thời Triệu Việt Vương, mà theo chính sử ngày nay là vào thế kỷ 6 sau Công nguyên. Chỉ khi xác định Triệu Quang Phục là vua Triệu nước Nam Việt thì thừa tướng Lữ Gia mới là cùng thời với anh em họ Trương.

P1240859-1024x768
Đình Lợ ở thôn Mai Trung thờ Lữ Gia, thầy dạy của Trương Hống, Trương Hát.

Lữ Gia là “thầy” của Trương Hống, Trương Hát. Chữ “thầy” ở đây không phải là thầy dạy học. Thầy nghĩa là cha. Lữ Gia là bố của anh em họ Trương, hay anh em Trương Hống Trương Hát mang họ Lữ. Cũng chính Trương Hống, Trương Hát là “người nhà” đã đem thi hài của Lữ Gia về an táng dưới chân núi Sài trong thần tích về Lý Phục Man ở Yên Sở.
Và cũng Trương Hống, Trương Hát là những người tiếp tục sự nghiệp của cha mình để làm nên cuộc khởi nghĩa tiếp theo ở đất Phong Châu. Trương Hống, Trương Hát chính là Trưng Trắc, Trưng Nhị. Các vị nữ vương này mang họ Lữ/Lã của gia tộc họ Lữ và nối tiếp truyền thống “quần thoa anh kiệt” từ tiền nhân là Lữ Hậu. Sông Như Nguyệt (sông Cầu) của thánh Tam Giang mới là dòng Lãng Bạc nơi nổ ra cuộc chiến ác liệt giữa quân của Trưng Vương và Phục Ba tướng quân.
Dòng họ Lữ của nhà Triệu Nam Việt sau thất bại của Trưng Vương vẫn còn cầm đầu các cuộc nổi dậy tiếp theo với sự kiện Triệu Quốc Đạt – Triệu Thị Trinh chống Mã Viện nhà Đông Hán. Họ Triệu của anh em Bà Triệu cho liên hệ với nhà Triệu Nam Việt. Lệ Hải bà vương Triệu Ẩu có thể mang họ Lữ/Lã vì Lệ Hải thiết . Khu vực khởi nghĩa của Bà Triệu được gọi là nước Nam Triệu, là tiền thân của nước Nam Chiếu thời kỳ sau này (Truyện Nam Chiếu, Lĩnh Nam chích quái).
Lịch sử luôn diễn biến theo quy luật, không có gì tự nhiên mà có. Các triều đại, các cuộc khởi nghĩa thời đầu Công nguyên ở nước Nam đã nối tiếp nhau và được xuyên suốt bởi một dòng họ Lữ từ khi Lữ Hậu theo Lưu Bang thấy rồng vàng bay lên trên sông Nhị Hà tới khi Bà Triệu tử tiết ở Tượng Sơn. Cái khí tiết anh hùng “mẹ truyền con nối” ấy thật đáng khâm phục, để lại cho đời sau cả một trang sử hào hùng, phát triển nền tảng của nước Nam người Việt qua mấy trăm năm.

Đỗ Động tướng quân là ai?

Chính sử Việt ngày nay chép năm 938 Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, lên ngôi vua, lập ra nhà Ngô, khởi đầu nền độc lập của nước ta. Tiền Ngô Vương qua đời, Dương Tam Kha tiếm ngôi, nhà Ngô suy yếu. Tới khi Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất, các hào trưởng, tướng lĩnh ở các nơi nổi lên chiếm giữ các vùng, bắt đầu thời kỳ gọi là loạn 12 sứ quân. Đến năm 968 Đinh Bộ Lĩnh mới dẹp được các sứ quân, thống nhất vùng Tĩnh Hải và lên ngôi Hoàng đế nước Đại Cồ Việt.
Mọi việc tưởng như hai năm rõ mười, sách nào cũng chép vậy… nhưng ngày càng có nhiều dẫn chứng cho thấy những chuyện của thời này không hẳn diễn ra như vẫn nghĩ. Đặc biệt khảo cổ học giai đoạn này không cho một dẫn chứng nào tương ứng với những biên chép của chính sử. Không hề tìm thấy chiếc cọc gỗ nào ở Bạch Đằng có niên đại quãng thế kỷ 9-10. Thành Cổ Loa, nơi được chép là kinh đô của triều Ngô không có vết tích gì về triều đại này. Các lớp gạch bên dưới Hoàng Thành Thăng Long và Hoa Lư cho thấy, không hề có nước Đại Cồ Việt như sử sách vẫn chép…
Thay vào đó, có thể dễ dàng nhận ra tên gọi “Sứ quân” là Tiết độ sứ của một Quân. Ví dụ, như Cao Biền sau khi đánh dẹp giặc Nam Chiếu ra khỏi thành Tống Bình được phong là Tĩnh Hải Tiết độ sứ, tức là vị Sứ quân của Tĩnh Hải quân. Bằng chứng rõ ràng về phạm vi của đơn vị “quân” thời này là lớp gạch “Giang Tây quân” nằm dưới cùng của thành Thăng Long, Hoa Lư hay thành nhà Hồ ở Thanh Hóa. Giang Tây quân là vùng đất Tĩnh Hải, bao gồm Bắc Việt và Tây Quảng Tây. Với quy mô của một Quân rộng lớn như vậy, không thể có chuyện trong vùng đồng bằng ven sông Hồng lại có tới 12 sứ quân. Với phạm vi mỗi sứ quân chỉ cỡ độ 2-3 huyện ngày nay thì nhân lực, vật lực đâu ra để mà đánh lẫn nhau? Sử Việt đang nhầm lẫn sự phân rã thời Mạt Đường của các Tiết độ sứ phụ trách các đạo/quân trên phạm vi toàn Trung Hoa thành Thập quốc (thời kỳ Ngũ đại Thập quốc) hóa ra loạn 12 sứ quân ở vùng Giao Chỉ.
Một trong những sứ quân chính được sử Việt chép là Đỗ Cảnh Thạc ở khu vực Đỗ Động Giang là vùng Thanh Oai – Quốc Oai ngày nay. Tuy nhiên, khi so sánh các sự tích về Đỗ Cảnh Thạc thì chợt nhận ra: vị tướng quân này không ai khác chính là Thừa tướng Lữ Gia của nhà Triệu Nam Việt, đã được dân gian kể lại dưới một góc độ khác.
Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục của nhà Nguyễn chú rằng Đỗ Cảnh Thạc “người huyện Thuận Đức thuộc Quảng Đông“. Xuất thân trong gia đình quý tộc, ông bị mất một tai trong lần giao chiến vì chạy loạn xuống phương Nam. Đỗ Cảnh Thạc là vị phụ chính của 3 triều Ngô Vương từ Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập sang Ngô Xương Văn. Những thông tin này hoàn toàn giống với thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt. Nhà Triệu đóng đô ở Quảng Đông, gọi là Phiên Ngu hay Phiên Ngô. Chính vì vậy các vua Triệu trong chuyện của Đỗ Cảnh Thạc đã bị gọi thành Ngô Vương. Lữ Gia là thừa tướng 3 triều vua Triệu được dân gian kể thành Đỗ Cảnh Thạc làm quan phụ chính 3 triều vua Ngô.

Den Tam Xa

Câu đối ở đền Tam Xã (Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội) thờ Đỗ Cảnh Thạc:
罰北征東威武振二朝漢主
教民护國德光流三世吳王
Phạt Bắc chinh Đông, uy vũ chấn nhị triều Hán chủ
Giáo dân hộ quốc, đức quang lưu tam thế Ngô vương.
Dịch:
Đánh Bắc dẹp Đông, oai võ chấn hai triều chúa Hán
Dạy dân giúp nước, đức sáng lưu ba đời vua Ngô.
Câu đối trên nhấn mạnh đến việc Đỗ Cảnh Thạc đánh giặc Hán. Công nghiệp chính của Đỗ Cảnh Thạc là chống Hán chứ không phải làm sứ quân thời Đinh Bộ Lĩnh. Đây không phải là lần đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng thời Ngô Quyền mà là chuyện Lữ Gia kiên quyết chống lại nhà Tây Hán, giết bỏ phe theo Hán của Cù Hậu và Triệu Ai Vương, lập Triệu Kiến Đức lên ngôi.
Thần phả Cao Thị bản tự chùa Chợ ở Bình Đà (Thanh Oai) còn cho một thông tin… không thể hiểu nổi. Năm 16 – 17 tuổi Đỗ Cảnh Thạc gặp cảnh chướng tai gai mắt đã đánh lại quan quân nhà Nam Tấn, do thế cô bị chúng quây bắt và xẻo mất một tai… Nhà Tấn Trung Quốc kết thúc vào năm 420, Đỗ Cảnh Thạc sống vào thời nào mà lại đánh nhau với quan quân nhà Tấn? Phải chăng Tấn là chữ phiên thiết từ Tây Hán? Đỗ Cảnh Thạc đánh quân Tây Hán, tức là thời của Lữ Gia Nam Việt.
Tinh thần trung trinh với tiền triều được nhấn mạnh trong chuyện của Đỗ Cảnh Thạc. Đại Việt sử ký toàn thư chép ở Đỗ Động Giang có tới “500 con em họ Ngô” theo về. Còn về Lữ Gia Sử ký Tư Mã Thiên cho biết năm 111 trước Công nguyên khi nhà Tây Hán tiến đánh Nam Việt, Phiên Ngung thất thủ, “Lữ Gia cùng Kiến Đức từ đêm đã cùng gia thuộc vài trăm người, chạy trốn ra biển, lấy thuyền đi về phía Tây”. Cần nhớ rằng gia thuộc của Lữ Gia cũng là gia tộc nhà Triệu vì “Họ hàng [Lữ Gia] làm quan trường lại đến hơn bảy mươi người. Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em, tôn thất của vua, lại thông gia với Tần vương ở quận Thương Ngô”. 500 con em họ Ngô được nhắc đến ở Đỗ Động Giang là những người đã lên thuyền cùng Lữ Gia và vua Triệu rút về đất Giao Chỉ – Phong Châu.
Thần tích về Đỗ Cảnh Thạc ở Bình Đà cho biết Ngô Quyền muốn xây dựng ở Đỗ Động Giang một bản doanh đủ mạnh, còn có ý định xây dựng lại “Minh đô Giao Chỉ”, giao việc này cho Đỗ Cảnh Thạc. Chữ Đỗ 杜 có nghĩa là “ngăn chặn”. Đây cũng là nghĩa của chữ Sài 柴 trong Sài Sơn (Quốc Oai), nơi Đỗ Cảnh Thạc hy sinh. Có thể thấy đây không phải là họ Đỗ, mà Đỗ Động có nghĩa là một căn cứ để chặn giặc.
Câu đối ở đền Tam Xã:
十二山河杜洞雄争王伯業
三千宫阙柴岩神界佛仙間
Thập nhị sơn hà, Đỗ Động hùng tranh vương bá nghiệp
Tam thiên cung khuyết, Sài Nham thần giới phật tiên gian.
Dịch:
Mười hai núi sông, Đỗ Động tranh hùng nghiệp vương bá
Ba ngàn thế giới, Đá Sài thần tách cõi phật tiên.
Thông tin về Minh Đô Giao Chỉ cũng khớp với chuyện Lữ Gia đã rút về vùng phía Tây Giao Chỉ chống Hán. Minh Đô là đất Phong Châu nơi các vua Hùng dựng nước. Minh Đô sau đó thời Hai Bà Trưng là đô kì của Trưng Vương vì Mê Linh thiết Minh. Đỗ Động như vậy là vùng cửa ngõ của Minh Đô – Mê Linh, chặn giặc phương Bắc.

Dinh Uoc LeĐình Ước Lễ, Tân Ước, Thanh Oai, Hà Nội.

Ở vùng Thanh Oai, tương truyền là quê của Đỗ Cảnh Thạc tới nay không còn di tích nào thờ vị tướng quân này. Nhưng thay vào đó, hai làng Ước Lễ và Phúc Thụy của vùng này lại thờ Lữ Gia làm thành hoàng làng. Câu đối về Lữ Gia ở đình Ước Lễ:
位望冠三朝趙帝山河身上重
精忠存一劍漢軍戈甲目中輕
Vị vọng quán tam triều, Triệu đế sơn hà thân thượng trọng
Tinh trung tồn nhất kiếm, Hán quân qua giáp mục trung khinh.
Dịch:
Ngôi danh đầu ba triều, núi sông đế Triệu thân coi trọng
Trung thành còn một kiếm, giáo mác quân Hán mắt xem khinh.
Còn ở thị trấn Quốc Oai nay còn đình Ngô Sài và miếu thờ Đỗ Tướng quân, tương truyền là nơi Đỗ Cảnh Thạc đã cai quản, an định nhân dân. Nơi đây trước được gọi là Sài Trang. Đình Ngô Sài còn phối thờ Ả Lã Nàng Đề, được nhân dân quanh vùng gọi là Vua Bà. Ả Lã như đã biết, chính là Trưng nữ Vương mang họ Lữ của Lữ Gia. Nàng Đề hay Lang Tề, nghĩa là vị vua phía Tây vì Trưng Vương dựng đô ở đất Tây Thổ Phong Châu. Sự phối thờ Ả Lã với Đỗ tướng quân ở Ngô Sài một lần nữa xác nhận khả năng Đỗ Cảnh Thạc chính là thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu.

Dinh Ngo SaiĐình Ngô Sài, Thị trấn Quốc Oai, Hà Nội.

Quốc Oai còn có di chỉ khảo cổ thành Quèn hay trại Quyền ở xã Tuyết Nghĩa, tương truyền là đại bản doanh của Đỗ Cảnh Thạc. Nay ở đây còn đình làng Cổ Hiền thờ Đỗ Tướng quân và các ngôi miếu xung quanh thờ các tướng của Đỗ Cảnh Thạc. Câu đối ở đình Cổ Hiền:
杜洞雄才稱第壹
古城主宰是無双
Đỗ Động hùng tài xưng đệ nhất
Cổ thành chủ tể thị vô song.
Dịch
Đỗ Động tài cao xưng đệ nhất
Thành cổ chúa tể chính vô song.
Cổ Hiền là tên chữ của trại Quyền hay thành Quèn. Cổ Hiền thiết Quyền – Quèn. Đây là cách dùng phiên thiết để đặt tên chữ cho địa danh xưa.

Ngu thuMột số đồng tiền Ngũ thù.

Di chỉ Thành Quèn được khai quật với những mảnh ngói, gốm thời Bắc thuộc. Gần đây ở phía Nam thành Quèn người ta đã đào được nhiều chum tiền Ngũ thù. Các cụ trong làng cho rằng đây là kho quân lương của Đỗ Tướng quân. Những đồng tiền này được các chuyên gia cổ tiền học xác định là của thời Hiếu Vũ Lưu Triệt nhà Tây Hán. Đây là bằng chứng rõ ràng rằng tướng quân Đỗ Cảnh Thạc không phải ở vào thời Đinh Bộ Lĩnh thế kỷ 10 mà là thời kỳ trước Công nguyên, đầu nhà Tây Hán. Đỗ Cảnh Thạc thời Tây Hán thì không thể là ai khác ngoài thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu cùng con cháu là Nhị Trưng Vương (Ả Lã) đã lập căn cứ chống nhà Hiếu (Tây Hán) ở Đỗ Động – Sài Trang và Minh Đô – Mê Linh.
Cuối cùng nơi mất của Đỗ Cảnh Thạc là ở chân núi Sài Sơn, nơi có đền Tam Xã trong quần thể di tích chùa Thầy. Sài Sơn là nơi có hang Cắc Cớ với bể xương các nghĩa quân của Lữ Gia tử trận. Sài Sơn còn là nơi hy sinh của tướng Lý Phục Man (Thánh Giá ở Yên Sở, Hoài Đức).

Sai SonSài Sơn ở Quốc Oai.

Còn có chuyện kể Đỗ Cảnh Thạc trước khi chết đã nói chuyện với bà bán nước dưới gốc đa ở Sài Sơn. Cây đa này nay nằm trong đền Tam Xã, nơi gọi là mộ của Đỗ tướng quân. Vừa mới đây cây đa này đã được cộng nhận là cây di sản. Chuyện bà bán nước và vị tướng quân trước lúc mất cũng gặp trong thần tích về Lý Phục Man ở Yên Sở.
Lý Phục Man cũng được gọi là Đỗ Động tướng quân. Trong các bài viết trước từng xác định Lý Phục Man là thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu. Như vậy, mọi thông tin đều trùng khớp và chỉ ra rằng Đỗ Cảnh Thạc chính là thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu.
Vị sứ quân lớn nhất trong 12 sứ quân thế kỷ 10 lại là thừa tướng Lữ Gia cách đó hơn 1000 năm trước. Sử Việt còn biết bao nhiêu điều cần được chỉnh lý từ những dữ liệu dân gian và thực tế.

Đinh Hoàng Lã Thị Ả

Cổng đình So.

Đình So ở xứ Đoài là ngôi đình cổ nổi tiếng với câu nói lưu truyền “đẹp đình So, to đình Sở”. Đình So nằm ở xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai của Hà Nội nay. Làng So còn có tên chữ là Sơn Lộ. Đình thờ Tam vị đại vương có công phò giúp vua Đinh dẹp loạn. Hai bên cửa đình So có câu đối:
威靈赫奕山前後
伍雨謳敭路往来
Uy linh hách dịch sơn tiền hậu
Ngũ vũ âu dương lộ vãng lai.
Tạm dịch
Núi trước sau oai linh đầy tỏ
Đường đi lại mưa hàng ngợi khen.
Câu đối này cho biết tên chữ của làng So là Sơn Lộ được viết bằng 2 chữ Nho 山路.
Trong cách đặt tên xưa cho các địa danh của người Việt bên cạnh một tên Nôm còn có thêm tên chữ. Tên chữ được dùng trong các ghi chép, văn bản xưa vì trước đây văn viết dùng chữ Nho chứ không dùng chữ Nôm. Tên chữ thường có liên hệ về ngữ nghĩa với tên Nôm của nơi được đặt tên. Nhưng mối liên hệ giữa tên Sơn Lộ với tên làng So lại không nằm ở nghĩa mà ở phần âm. Khi dùng phép phiên thiết Hán văn thì “Sơn Lộ” thiết “Sổ”. Xóm Sổ là nơi có đình làng So. “Sổ” cũng là “So”.
Thần tích đình So chép (theo TS Nguyễn Xuân Diện): Vào mùa xuân năm Canh Thìn có ông Cao Hiển và bà Lã Thị Ả ở hương Vạn Kỳ, huyện Gia Định, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc nhà vốn rất nghèo, làm nghề đánh cá trên sông. Hai ông bà rất thích làm việc thiện, một việc thiện dù nhỏ cũng làm. Một hôm hai ông bà chài lưới trên sông Như Nguyệt, kéo được 15 dật vàng. Từ đấy hai ông bà làm ăn cứ khấm khá mãi lên nên cuộc sống rất khá giả.
Hiềm nỗi hai ông bà đã ngoài 50 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Ông vẫn thường nói: Tiền rừng gạo bể mà không có con thì sống không được vui và bàn với bà đi tìm nơi cầu tự. Hai ông bà nghe nói ở đền Hữu Linh, trang Sơn Lộ là nơi linh ứng cầu gì được nấy, bèn cùng nhau sắm sửa lễ vật đến đó cầu tự. Sớm hôm sau ông bà làm lễ tạ rồi xuống thuyền cùng với hai người vạn chài xuôi dòng sông Hát. Thuyền đang đi, trời bỗng nhiên tối sầm lại như đêm và một trận gió lớn ập đến. Lúc này thuyền chở ông bà đến địa phận trang Sơn Lộ, hai người ngẩng đầu nhìn lên trời thấy có đám mây vàng hướng vào bà mà hạ xuống. Lã thị hoảng sợ, nằm miên man. Sau đó bà có mang. Tháng 2 năm Quý Tỵ bà sinh được 3 người con trai…
Ba anh em này đã theo giúp Đinh Bộ Lĩnh, một người làm Chỉ huy sứ, một làm Đô úy, và một làm Hiệu úy, tất cả đều là tướng được giao nhiệm vụ cầm quân đi đánh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, Họ chém được chánh tướng Đỗ Thanh Long, giải thoát cho Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi bèn sắc phong 3 ông là Tam vị Thông Hiện Nguyên soái Đại Vương. Trải qua các triều đại, Tam Thánh đều được sắc phong mỹ tự và cho trang Sơn Lộ đời đời thờ phụng.
Câu đối ở chính điện đình So ca ngợi 3 vị thành hoàng làng:
徳禀靈長駱鴻玄出神明冑
地鍾奇勝龍鳳環為拱衛星
Đức lẫm linh trường, Lạc Hồng huyền xuất thần minh trụ
Địa chung kỳ thắng, long phụng hoàn vi củng vệ tinh.
Tạm dịch:
Đức thiêng dài lâu, Lạc Hồng sinh diệu sáng dòng thánh
Đất đúc hơn lạ, rồng phượng chầu quanh hướng Vệ tinh.

P1190962Hát hầu thánh tại cửa đình So.

Ở làng So trước kia khi hát cửa đình hầu thánh phải kiêng 5 chữ: Hiển, Lã, Hiện, Suý, Lang. Hiển là tên huý của ông cụ thân sinh ra các thánh. Lã là tên họ của cụ bà Lã Thị Ả. Hiện, Suý và Lang là tên huý và tước phong của ba anh em nhà thánh. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ và tránh đi, ví như chữ “Hiển” thì đọc là Hởn, chữ “Lã” thì đọc là Lữ.
Việc nói tránh, nói lái ở làng So không chỉ trong khi hát cửa đình. Người dân trong làng mỗi khi nói chuyện kiêng không nói tới từ “nước lã”. Dù uống nước giếng, nước ao hồ người làng cũng nói tránh là nước chưa đun sôi. Vì từ “Lã” là họ bà Vương Mẫu, người sinh ra ba vị tướng thờ ở làng. Trong làng So đã lập đền thờ để ghi nhớ công ơn của bà. Có người lỡ mồm nói “nước lã” đã phải đến đền thờ của Vương mẫu để xin bà tha thứ.
Gắn liền với tục kiêng hèm này làng So còn có tục con gái đặt họ theo tên đệm của cha. Ví dụ tên bố là Nguyễn Tiến Thành, sinh được con gái đặt tên là Mai thì ghi khai sinh là Tiến Thị Mai. Việc đặt tên ngược này gây nhiều phiền toái, nhất là cho những phụ nữ ở làng khi ra ngoài đi làm…
Từ tất cả những thông tin kiêng húy và đặt họ ngược như vậy có thể thấy vị vương mẫu Lã Thị Ả ở làng So được sùng kính đặc biệt. Nếu áp dụng cách gọi tên ngược và nói tránh của làng So thì tên bà Lã Thị Ả có thể đọc thành Ả Lã. Đây chính là điểm mấu chốt để lần lại nguồn gốc của những nhân vật được thờ tại làng So.
Ả Lã là tên của Trưng Vương theo thần tích của làng Nại Xá (xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội). Lã, hay nói tránh là Lữ, là họ của Trưng Vương vì Trưng Vương mang họ Lữ của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt. Bà Lã Thị Ả ở làng So chính là Trưng Vương. Đây là lý do vì sao người dân làng phải kiêng chữ Lã và nói tránh, nói ngược họ của các con gái trong làng. Ba vị thành hoàng ở làng So là 3 vị tướng trong khởi nghĩa của Trưng Vương.
Tại sao Tam vị đại vương ở làng So sống vào thời Trưng Vương lại tham dự vào chuyện của vua Đinh? Vua Đinh đây là vua Đinh nào? Việc này không khó giải thích nếu biết rằng triều đại của Trưng Vương trong dân gian được gọi tên là triều Đinh. Ví dụ, câu đối ở đền Đồng Nhân (phường Hai Bà Trưng, Hà Nội), nơi thờ Hai Bà Trưng:
接貉開丁冠冕稱王三載史
驅穌抗馬山河還我萬年芳
Tiếp Lạc khai Đinh, quan miện xưng vương tam tải sử
Khu Tô kháng Mã, sơn hà hoàn ngã vạn niên phương.
Dịch là:
Tiếp Lạc mở Đinh, áo mũ xưng vua ba năm sử
Đuổi Tô chống Mã, núi sông về ta vạn xuân thơm.
Theo câu đối này thì Hai Bà Trưng là người đã tiếp nối truyền thống Lạc Hồng của các vua Hùng và khai mở triều Đinh, làm vua trong 3 năm. Triều đại của Trưng Vương mang tên Đinh bởi vì Đinh hay định là tính chất tĩnh lặng của phương Tây trong Dịch lý. Đinh có nghĩa là hướng Tây, gọi vậy bởi Trưng Vương khởi nghĩa ở vùng Phong Châu – Tây Thổ: Ngàn Tây nổi áng phong trần (Đại Nam quốc sử diễn ca).
Câu đối khác ở đền thờ Hai Bà Trưng tại cửa sông Đáy (Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội), nơi Hai Bà Trưng đã lập hội thề, phất cờ khởi nghĩa. Trong đền có câu đối:
大義復夫讎猶令東漢當辰嶺南六十五城勞逺略
鴻圖肇國統從此皇丁而後越甸數千餘載定天書
Đại nghĩa phục phu thù, do kim Đông Hán đương thời, Lĩnh Nam lục thập ngũ thành lao viễn lược
Hồng đồ triệu quốc thống, tòng thử Hoàng Đinh nhi hậu, Việt Điện sổ thiên dư tải định thiên thư.
Dịch:
Nghĩa lớn báo thù chồng, sánh ngang Đông Hán cùng thời, sáu mươi lăm thành Lĩnh Nam lập kế lớn
Cơ đồ dựng quốc thống, từ đó Hoàng Đinh về sau, trên mấy nghìn năm Việt Điện định sách trời.
Một lần nữa thông tin từ dân gian cho biết triều đại của Trưng Vương có tên là Hoàng Đinh. Ở đình So cái tên này bị nhầm thành Đinh Tiên Hoàng, dẫn đến thần tích đã gắn các 3 vị thành hoàng làng vào cuộc dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ 10, sau thời Trưng Vương cả ngàn năm.

IMG_5294Một góc mái đình So.

Một điểm đáng chú ý khác trong thần tích đình So là 3 vị tướng đã giúp vua Đinh đánh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc. Đỗ Cảnh Thạc được gọi là Đỗ Động tướng quân, được thờ ở vùng Thanh Oai (Bình Đà) và Quốc Oai, quanh khu vực Sài Sơn (chùa Thầy). Ở Quốc Oai tại xã Tuyết Nghĩa tương truyền còn có căn cứ thành Quèn của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc. Khu vực này cũng là phạm vi thờ nhân vật Lý Phục Man (ở làng Giá – Yên Sở). Như đã từng biết Lý Phục Man là tên thờ của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt vì ông có tên Gia Thông, sinh ở làng Lữ… Lý Phục Man cũng được gọi là Đỗ Động tướng quân. Rất có thể Đỗ Cảnh Thạc thời Đinh Tiên Hoàng chính là Lữ Gia thời Hoàng Đinh của Trưng Vương.
Lời hát sử trong nghi lễ hát cửa đình về Trưng Vương:
Giết giặc xá chi là phận gái
Trưng nữ vương chèo lái ra tay
Đất Phong Châu phất phới ngọn cờ bay
Đuổi Tô Định 65 thành chung một dải…
Âm vang của cuộc khởi nghĩa Trưng Vương những năm xưa trên vùng đất Hoàng Đinh – xứ Đoài lại được tái hiện ở đình So. Những sự tích các vị thần, những tục lệ còn lưu lại trong các làng xã Việt là những vết tích, những đầu mối, những chỉ dẫn xác đáng về lịch sử của dân tộc. Thần thánh sẽ “hiển linh” trong dân gian để làm sáng tỏ những nhân vật, những sự kiện từ trong quá khứ.

 

 

Trước Bà Trưng, sau Bà Triệu, cùng một bậc người

Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Hát Môn có lẽ đã là người lập “Hội phụ nữ” đầu tiên của nước Nam. Dưới cờ Nhị Trưng Vương có rất nhiều tướng lĩnh là nữ, cùng chung chí hướng, “đền nợ nước, trả thù nhà”. Nhưng người phụ nữ đầu tiên nắm quyền lãnh đạo đất nước có lẽ phải kể đến tiền nhân của Hai Bà Trưng là… Lữ Hậu.

Lữ Hậu, tên cúng cơm là Trĩ, người Đồng Xâm (Kiến Xương, Thái Bình). Tại đây bà được gọi là Hoàng hậu Trình Thị (thiết Trĩ). Lữ Trĩ là người vợ từ thủa hàn vi của Lưu Bang, được truyền thuyết Việt chép là Lý Bôn. Lưu Bang khởi nghĩa tại đất Bái, được chép là đất Thái Bình, cũng là Triệu Vũ Đế quê ở Chân Định (tên cũ của huyện Kiến Xương). Lưu Bang là người Tuấn kiệt, đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng Tần thắng lợi, lên ngôi Hiếu Cao Tổ, Lữ Trĩ trở thành Lữ Hậu.

ly-bon

Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương, tranh thờ ở Thái Bình.

Lưu Bang mất, Lữ Hậu nắm toàn quyền, phân phong cho họ Lữ những chức vụ quan trọng nhất, nắm binh quyền. Đáng chú ý là có tước Lữ Vương, là người cai quản vùng đất quê họ Lữ, tức là vùng đất Bái – Thái Bình xưa.

Lữ Hậu mất, họ Lữ định làm cuộc đảo chính nhưng không thành. Anh em Lữ Lộc, Lữ Sản bị các cận thần của Lưu Bang giết chết. Tuy nhiên, họ Lữ không tuyệt đường ở đây. Vị Lữ Vương ở phương Nam đã tôn một người cháu của Lưu Bang lên làm vua, lập nước Nam Việt, gọi là Triệu Đà, còn bản thân mình làm thừa tướng Lữ Gia. Họ Lữ ở Nam Việt “con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em, tôn thất của vua“, nắm quyền hành lớn.

Năm 111 TCN Hiếu Vũ Đế cử Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức tấn công Nam Việt. Phiên Ngung thất thủ, Lữ Gia cùng vua Triệu Vệ Dương Vương và gia quyến lên thuyền đi về phía Tây. Tới cửa Đại Ác (cửa sông Đáy đổ ra biển ở Nam Định) cả vua Triệu và Lữ Gia bị bắt, giết.

Nhưng họ Lữ vẫn còn người. Hai hoàng phi nhà Triệu là Trưng Trắc, Trưng Nhị, truyền tích gọi là Ả Lã, con gái của Lữ Gia, đã chạy thoát về Phong Châu. Từ đây Nhị Trưng lập đàn thề ở cửa sông Hát, tưởng nhớ tới chồng là Triệu Vệ Dương Vương tử nạn ở cuối sông, phất cờ Quang Phục, đánh Tô Định, chiếm Luy Lâu, xưng là Tây Vu Vương hay gọi là Lang Tề (Nàng Đê).

Với thân phận là hoàng phi nhà Triệu nên khởi nghĩa Trưng Vương đã được sự tham gia đông đảo của con cháu các quan lại nhà Triệu trước đó, nhiều người là nữ, có hoàn cảnh cha hay chồng bị giết trong cuộc bình định Nam Việt của nhà Hiếu. Truyền thống nữ trung hào kiệt từ Lữ Hậu cùng với nợ nước thù nhà đã làm nên một “Hội thề” Hát Môn hùng tráng, lập nên quốc gia Hoàng Đinh độc lập.

Khởi nghĩa của các hoàng phi nhà Triệu dưới thời Hiếu – Tây Hán giành thắng lợi. Trưng Trắc lên ngôi vua của nước Tây (Đinh), là Tây Vu Vương. Nhưng chỉ ít lâu sau nhà Hiếu cử Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức, người từng đại phá Nam Việt, dẫn quân xuống đánh dẹp. Những trận đánh ác liệt giữa hai bên nổ ra ở Lãng Bạc – Bạch Đằng, rồi Cấm Khê, kết thúc bằng cái chết của Nhị Trưng Vương. Thiên hạ Trung Hoa lại thống nhất về một mối.

Nhà Hiếu truyền đời mấy trăm năm thì bị đại thần Vương Mãng soán ngôi. Vương Mãng mang hoài bão phục cổ, xây dựng một thế giới lý tưởng, đã thực hiện hàng loạt cải cách ảnh hưởng toàn diện đến xã hội. Nhân lúc Trung Hoa suy yếu người Hán tụ tập thành lũ giặc cỏ ở núi Lục Lâm, rồi diệt nhà Tân của Vương Mãng, biến Trung Hoa của người Hoa Việt thành Hán quốc (Đông Hán).

Trên đất Giao Châu các châu mục, thái thú lúc này là Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục cai quản, vừa lo chống giặc Hán bên ngoài, vừa dung nạp các hiền sĩ chạy loạn về phương Nam nương nhờ, mở trường dạy học, nêu cao văn hiến. Đặng Nhượng là Đặng cư sĩ thờ ở làng Lệ Chi, Gia Lâm. Đỗ Mục có thể là vị cư sĩ được thờ ở khu vực Thanh Oai – Chương Mỹ ngày nay (Đỗ Lang). Các vị này đã kiên cường chống lại sự bành trướng của Hán tộc xuống phương Nam và bỏ mình vì nước, như thần tích các nơi thờ cho biết.

Ang Phao

Đình Áng Phao, Cao Dương, Thanh Oai, Hà Nội, nơi thờ một vị Cư sĩ chống giặc thời Hán.

Giao Châu bị Mã Viện của Đông Hán chiếm, bắt hàng trăm các “cừ súy” Việt về Bắc. “Cừ súy” thiết “quý”, chỉ các quý tộc, tầng lớp lãnh đạo của người Việt. Truyền tích Việt trong các nơi thờ cúng chép thành “cư sĩ“. “Cư sĩ” cũng thiết “quý”. Đây là bằng chứng cho thấy cuộc tấn công của Mã Viện chiếm Giao Châu bắt các cừ súy Việt xảy ra vào thời đầu Đông Hán, đánh các “cư sĩ” là các châu mục, thái thú của nhà Tân.

Chiếm được Giao Châu Mã Viện xóa bỏ luật Việt, áp đặt luật Hán, thiết lập chế độ cai trị hà khắc ở Giao Châu. Sử ta đã lầm lẫn giữa cuộc hành quân của Lộ Bác Đức đánh Trưng Vương thời nhà Hiếu với cuộc tấn công xâm lược Giao Châu của Mã Viện thời Đông Hán.

Nước Nam mất, nhưng Hán tộc không được lúc nào yên ở phương Nam. Sử ghi trong hàng chục năm của thế kỷ thứ 2 người Nhật Nam, Cửu Chân liên tục nổi dậy. Đặc biệt khởi nghĩa của Khu Liên ở đất Tượng Lâm đã thành công, lập nên nước Lâm Ấp ở phương Nam. Khu Liên hay Khu Đạt, cũng là Triệu Quốc Đạt, cũng là Chu Đạt, người đã cầm đầu người Di khởi nghĩa ở Nhật Nam – Cửu Chân, buộc nhà Đông Hán phải cắm cột đồng phân giới Bắc Nam ở Man Thành Quảng Tây.

Em của Triệu Quốc Đạt là Triệu Thị Trinh, hay Bà Triệu, trong cuộc chiến này đã nổi danh là một nữ tướng xinh đẹp, dũng mãnh. Bà Triệu đi guốc vàng, mặc áo vàng, đầu voi phất ngọn cờ vàng, nối tiếp truyền thống nước Hoàng Đinh của Trưng Vương, chống giặc. Mã Viện lúc này đã buộc phải xây lũy đắp đê ở Cửu Chân, ngăn cản sự nổi dậy của cơn sóng khởi nghĩa phương Nam của Lệ Hải Bà vương.

Khu Liên – Triệu Quốc Đạt mang họ Lý của Lý Bôn – Lưu Bang, cũng được truyền thuyết Việt gọi là Lý Nam Đế vì đã lập nên nước Nam – Lâm Ấp. Hai Bà Trưng mang họ Lữ của Lữ Hậu, còn Bà Triệu mang họ Lý của Lưu Bang. Cái cội nguồn truyền thống, mối liên thông lịch sử giữa các triều đại của thời kỳ này cho giải thích về khí phách và chiến công của các vị nữ vương, nữ tướng người Việt.

Câu đối ở đình Luật Ngoại tại xã Quang Lịch, Kiến Xương, Thái Bình:
Trăng thu trải cuộc bể dâu, Nam nước Việt, Bắc giặc Lương, ghi ngàn đời sử.
Sông Bài nổi gương tiết nghĩa, trước Bà Trưng, sau Bà Triệu, cùng một bậc người.

Nhân ngày phụ nữ Việt Nam, xin ôn xưa kể cũ để biết phụ nữ Việt truyền thống anh hùng bất khuất thế nào. Chúc mừng các bà, các mẹ, các chị em người Việt Nam, con cháu Bà Trưng, bà Triệu, nhân ngày này.

Lâm Ấp và Giao Châu (phần 1)

Dưới thời Hiếu Vũ Đế Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức tấn công tiêu diệt nước Nam Việt của nhà Triệu. Đất Nam Việt cũ được chia thành 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô, Đam Nhĩ, Châu Nhai. Theo sử sách hiện tại vào năm 40 tại Giao Chỉ đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống lại nhà Hán. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai Bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.
Câu đối ở cổng đền thờ Trưng Vương tại Hát Môn, tương truyền do Cao Bá Quát đề:
縱不金刀天再造
未應銅柱地分疆
Túng bất kim đao thiên tái tạo
Vị ưng đồng trụ địa phân cương.
Trong vế đối thứ nhất có cụm từ “kim đao” 金刀 là chiết tự của chữ Lưu 劉, họ của các vua Hán. Câu đối này có thể được dịch như sau:
Mặc không Lưu Hán trời riêng tạo
Chẳng nhận cột đồng đất rạch biên.
Vế đối thứ nhất nói tới chí khí của Trưng Vương đã khởi nghĩa chống quân Hán, lập nên một “thiên hạ”, một mảnh trời riêng của mình. Vế đối thứ hai nói tới cột đồng do Mã Viện nhà Đông Hán dựng nên, nhưng ở đây lại là để đánh dấu phân giới đất đai với Trưng Vương. Trưng Vương thậm chí còn không bằng lòng với vị trí cột đồng phân giới này.

IMG_8025 (2)Đền thờ Hai Bà Trưng ở Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Nội).

Quan niệm rằng đồng trụ Mã Viện là dùng để phân giới hai nước Hán – Trưng cũng được Thiên Nam ngữ lục nhắc tới:

Viện bèn cắt giới phân cho
Man Thành đắp lũy ấy là Tư Minh
Đồng trụ cắm ở Man Thành
Hán – Trưng hai nước dẫn binh cùng về.

Khởi nghĩa Trưng Vương đã không thất bại mà đã buộc nhà Hán phải giảng hòa và đắp lũy, dựng cột phân biên. Biên giới nước của Trưng Vương lúc đó là ở Man Thành – phía Bắc Quảng Tây.
Tấn thư chép: Nước Lâm Ấp vốn là huyện Tượng Lâm thời Hán, là nơi Mã Viện dựng cột đồng.
Như vậy cột đồng Mã Viện dựng ở Tượng Lâm là ở phía Bắc Quảng Tây. Phía Nam cột đồng là nước Lâm Ấp. Tức là Lâm Ấp chính là nước hình thành từ khởi nghĩa của Trưng Vương thời Đông Hán.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Quý Mão, mùa xuân, tháng Giêng, Trưng Nữ Vương cùng em gái là Nhị chống cự lại với quân nhà Hán, thế cô, đều thua chết. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót là bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong thì [bọn Đô Dương] đầu hàng, [Viện] bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán.
Cư Phong được chú là ở Cửu Chân – Thanh Hóa. Mã Viện tiến quân đến đất Cửu Chân thì dừng lại, dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng. Như vậy khu vực từ Nghệ An đổ về Nam Trung Bộ không bị Mã Viện tấn công, hay không nằm trong đất của nhà Đông Hán từ sau cuộc tấn công của Mã Viện. Khu vực Trung Bộ Việt này được cho là quận Nhật Nam, là quận đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương. Điều lạ là cũng tại Nhật Nam sau đó Khu Liên đã khởi nghĩa lập nước Lâm Ấp. Quận “Nhật Nam” ở miền Trung Việt chưa hề bị quân Đông Hán chiếm, thì làm sao Khu Liên, con của công tào địa phương lại phải khởi nghĩa giết huyện lệnh?
Hậu Hán thư chép: Năm thứ 12 hiệu Vĩnh Nguyên (100)… hơn 2.000 người Man Di huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam cướp bóc trăm họ, đốt phá chùa, công quán, quận, huyện phát binh đánh, chém được bọn tướng giặc còn dư chúng thì đầu hàng. Bấy giờ đặt chức Tướng binh trưởng sự ở Tượng Lâm để phòng hậu họa…
Năm thứ 2 hiệu Vĩnh Hòa (137) người Man Di ngoài cõi là bọn Khu Liên ở Tượng Lâm, quận Nhật Nam, mấy nghìn người đánh huyện Tượng Lâm, đốt thành và chùa, giết trưởng lại, thứ sử Giao Chỉ là Phàn Diễn phát binh 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân hơn vạn người đến cứu. Quân sĩ sợ đi xa bèn phản trở lại đánh bản phủ. Hai quân tuy đánh phá được bọn làm phản nhưng thế giặc trở lại thịnh. Gặp có quan Thị lang sứ là Giã Xương đương đi sứ ở quận Nhật Nam, bèn cùng với chây quận hợp sức đánh giặc. Đánh không được lại bị giặc vây, hơn 1 năm mà binh khí lương thực đều không gửi đến được. Vua Hán lấy làm lo. Năm sau bèn vời công khanh bách quan cùng các thuộc quan 4 phủ để hỏi phương lược mọi người đều bàn nên sai đại tướng phát 4 vạn quân các châu Kinh Dương Duyên Dự đi đánh, nhưng quan Đại tướng quân tòng sự trung lang là Lý Cố bác đi nói rằng: “… Quân ta ở Nhật Nam đơn chiếc và thiếu lương, giữ không được, đánh cũng không xong, chỉ có thể dời hết cả lại dân (người Trung Quốc) về Bắc để dựa vào Giao Chỉ. Việc yên rồi sẽ khiến trở về. Mộ người Man Di khiến họ tự đánh họ, lại chở vàng, lụa để tự cấp cho họ. Kẻ nào có thể phản gián, khiến giặc đầu thú được thì hứa thưởng bằng cách phong hầu cấp đất…”. Theo lời bàn của Lý Cố, lấy Chúc Lương làm Thái thú Cửu Chân… Lương đến Cửu Chân một mình vào giữa giặc, bày phương lược, lấy uy tín mà chiêu hàng, kẻ hàng có hơn vạn người, đều vì Lương mà xây dựng lại thành và chùa…
Năm đầu hiệu Kiến Phong (144) hơn nghìn người Man Di quận Nhật Nam lại đánh đốt huyện ấp, rồi phiến động cả dân Cửu Chân, liên kết với họ. Thứ sử Giao Chỉ là Hạ Phương, người Chử Giang, mở ơn chiêu dụ, giặc đều hàng phục…
Năm thứ 3 hiệu Vĩnh Thọ (157) huyện lệnh Cư Phong tham bạo vô độ, người trong huyện là bọn Chu Đạt cùng người Man Di họp đánh giết huyện lệnh đông đến 4.000 – 5.000 người, rồi tiến đánh quận Cửu Chân. Thái thú Cửu Chân là Nghê Thức tử trận… Đô úy Cửu Chân là Ngụy Lãng đánh phá được…
Bọn tướng của giặc còn đóng quân giữ Nhật Nam, chúng lại trở nên cường thịnh. Năm thứ 3 hiệu Diên Hy (160) (vua Hán) lại bổ Hạ Phương làm Thứ sử Giao Chỉ. Phương vốn uy tín đã nổi tiếng, quân giặc ở Nhật Nam nghe tiếng thì rủ nhau đến hàng Phương đến hơn 2 vạn người…
Năm đầu hiệu Quang Hòa (178) người Man ở Giao Chỉ, Hợp Phố, Ô Hử làm phản, chiêu dụ người Cửu Chân và Nhật Nam mấy vạn người đánh lấy quận huyện. Năm thứ 4 Thứ sử Chu Tuấn đánh phá được. Năm thứ 6, nước ở ngoài cõi Nhật Nam lại trở lại triều cống.
Những thông tin của Hậu Hán thư cho thấy suốt thời Đông Hán khu vực Giao Châu không lúc nào yên. Bắt đầu từ khi quân Đông Hán chiếm được Giao Châu từ tay các thái thú châu mục Đặng Nhượng Tích Quang, người Việt luôn quật cường nổi dậy. Đọc lịch sử lúc này mới hiểu thế nào là lấy máu xương đắp đổi núi sông. Hàng ngàn, hàng vạn người nối tiếp nhau đứng dậy, ngã xuống vì độc lập ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Căn cứ theo các thông tin trên thì quận Nhật Nam là một quận lớn nằm trong đất nhà Đông Hán. Như vậy Nhật Nam không thể là khu vực vùng Trung và Nam Trung Bộ ngày nay được vì Mã Viện đã xác nhận mốc giới nhà Đông Hán ở Cửu Chân, nằm phía Bắc hơn nhiều so với miền Trung.
Nhật Nam phải là khu vực Quảng Tây. Huyện Tượng Lâm nơi Khu Liên khởi nghĩa là vùng đất nằm giữa Tượng Quận và Quế Lâm, tức là quãng giữa Vân Nam – Quý Châu – Quảng Tây. Quý Châu được chép thành Cửu Chân, không phải ở đất Thanh Hóa. Có như vậy thì mới có thể hiểu cột đồng Mã Viện trên đất Cửu Chân – Tượng Lâm lại là ở Man Thành – Quảng Tây.

Lam ApVí trí các quận phía Nam nhà Đông Hán.

Thời điểm Khu Liên lập quốc qua các sử liệu không rõ ràng. Lúc thì là năm 137 Khu Liên khởi nghĩa. Lúc thì tới tận năm 192 mới giết Thứ sử Chu Phù, lập nước Lâm Ấp. Hai thời gian này cách nhau tới 55 năm. Khu Liên khởi nghĩa từ năm 137 tới năm 192 thì đã ngoài 80 tuổi rồi, còn làm vua gì nữa?
Cũng trong quãng thời gian giữa 137 và 192 ở Cửu Chân và Nhật Nam lại có khởi nghĩa lớn hàng vạn người của Chu Đạt. Vậy lúc đó Khu Liên ở đâu? Rõ ràng chỉ có thể Chu Đạt chính là Khu Liên (còn có tên là Khu Đạt).
Cột đồng mà Mã Viện làm mốc giữa hai nước Hán và Lâm Ấp như vậy phải là được dựng ở thời kỳ này. Đô Dương cũng là Khu Liên – Chu Đạt, người đã buộc quân Hán phải dừng bước ở Cửu Chân (Quý Châu), cắm cột đồng ở Tượng Lâm (Quảng Tây). Nước Lâm Ấp từ Khu Liên là toàn bộ khu vực phía Nam từ Quảng Tây tới miền Trung Việt.
Tùy thư xác nhận mối liên quan giữa Khu Liên và khởi nghĩa Trưng Vương: Lâm Ấp trước đây, nhân loạn người con gái Trưng Trắc ở Giao Chỉ thời Hán Mạt, con viên công tào trong huyện là Khu Liên giết huyện lệnh tư xưng làm vua.
Khu Liên chính là Đô Dương, người đã tiếp nối thành công sự nghiệp của Trưng Vương trên đất Lâm Ấp, khởi dựng một quốc gia phương Nam rộng lớn không thuộc Hán. Thắng lợi của Khu Liên làm tiền đề cho các vùng đất phương Nam thoát khỏi sự xâm lược của Hán tộc trong hàng trăm năm tiếp theo.

Khởi nghĩa Trưng Vương thời Tây Hán

Theo chính sử hiện tại, khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra vào năm 40 khi chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị thái thú Tô Định của nhà Đông Hán giết chết. Trưng Trắc lập đàn ở cửa sông Hát thề đền nợ nước, trả thù nhà. Từ vùng Phong Châu Hai Bà Trưng Trắc Trưng Nhị đánh xuống Long Biên, đuổi Tô Định, chiếm được 65 thành ở vùng Lĩnh Ngoại. Trưng Trắc lên ngôi, làm vua được 3 năm thì nhà Đông Hán cử Mã Viện làm Phục Ba tướng quân dẫn quân thủy bộ tiến vào. Sau một số trận đánh lớn như ở Lãng Bạc, Hai Bà đã tử tiết tại Cấm Khê, kết thúc một cuộc khởi nghĩa hào hùng và bi tráng của 2 nữ vương.

Trong khi sử sách Trung Quốc có rất ít thông tin về khởi nghĩa của Trưng Vương tại Giao Chỉ thì trong dân gian có rất nhiều tướng lĩnh của khởi nghĩa Hai Bà Trưng được thờ ở khắp miền Bắc nước ta. Tuy nhiên, những thần tích về các tướng lĩnh của Trưng Vương lại có những thông tin rất lạ về thời điểm của cuộc khởi nghĩa. Ví dụ như thần tích đình Lạc Cầu (Giai Phạm, Yên Mỹ, Hưng Yên) kể về 2 vị thành hoàng là Trương Công Tuấn và Lý Công Mẫn là tướng Tham tán của Trưng Vương, nhưng lại bắt đầu thần tích vào thời Tây Hán, Tô Định được cử làm thái thú nước ta… Tô Định là thái thú nhà Tây Hán, vậy Hai Bà Trưng khởi nghĩa vào lúc nào?

Đình Nôm (Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên).

Cũng ở Hưng Yên có đình Đại Đồng (Văn Lâm) hay còn gọi là đình Nôm, thờ vị thành hoàng là đức thánh Tam Giang thời Hai Bà Trưng. Làng Nôm là một làng còn lưu được nhiều nét văn hóa cổ của vùng đất Phố Hiến. Đình có kiến trúc theo phong cách hội quán Phúc Kiến. Thần tích đình Nôm kể (Theo cuốn Di tích lịch sử – văn hóa Hưng Yên):
Vào thời Tây Hán ở trang Vân Mẫu thuộc đạo Bắc Giang có người con gái họ Phạm húy là Tĩnh. Năm 18 tuổi nổi tiếng về tài sắc nhưng nàng không muốn lấy chồng, chỉ một lòng theo đạo Phật. Nàng đến chùa Pháp Vân thấy cảnh chùa linh ứng phù hợp với tâm linh của mình liền xin tu ở chùa. Cò lần nàng ra sông Nguyệt Đức tắm, bỗng trời đất tối sầm, sóng gió nổi lên một con thuồng luồng quấn chặt lấy nàng. Đêm ấy nàng nằm mơ thấy mình nuốt vầng trăng vào bụng, từ đó mang thai. Đến ngày 10 tháng 2 năm Nhâm Thìn nàng sinh được người con trai khôi ngô tuấn tú, tướng mạo khác thường, đặt tên là Tam Giang.
Lớn lên Tam Giang trở thành trang nam nhi dũng lược, văn võ kiêm toàn. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, Tam Giang đứng lên chiêu mộ trai tráng quanh vùng tham gia và được cử làm Điện tiền chỉ huy tướng quân…
Sau một thời gian quân của Hai Bà Trưng đánh thắng giặc Hán… Tam Giang trở về trấn sở ở trại Đồng Cân, trang Đồng Xá sinh cơ lập nghiệp. Thấy cháu gái Triệu Đà là Triệu Mỵ Nương xinh đẹp nết na, Tam Giang lấy làm vợ. Từ đó nhân dân trại Đồng Cân được sống yên vui.
Ba năm sau nhà Hán cử Mã Viện sang xâm lược. Tam Giang ra trận nhưng thế giặc mạnh, quân ta bị thua. Tam Giang cùng mẹ và vợ xuống thuyền ở bến đò sông Nguyệt Đức rồi vùng tuẫn nạn trên sông.
Hiện đình Nôm thờ thánh Tam Giang, còn bà mẹ Phạm Tĩnh và vợ ông là Triệu Mỵ Nương được thờ tại chùa Nôm. Câu đối ở nghi môn đình Nôm:
生為將死為神萬古英靈桐嶺峙
功在徴名在漢一心忠義徳江清
Sinh vi tướng tử vi thần vạn cổ anh linh Đồng lĩnh trĩ
Công tại Trưng danh tại Hán nhất tâm trung nghĩa Đức giang thanh.
Dịch:
Sinh là tướng chết là thần, vạn cổ anh linh cao Đồng Lĩnh
Công ở Trưng danh ở Hán, một lòng trung nghĩa sáng Đức Giang.
Hay câu đối khác:
六十城東洛大都漢氏山河幾可轉
百千載南朝名蹟徵家義烈豈能磨
Lục thập thành Đông Lạc đại đô, Hán thị sơn hà ki khả chuyển
Bách thiên tải Nam triều danh tích, Trưng gia nghĩa liệt khải năng ma.
Dịch:
Sáu mươi thành đô lớn Đông Lạc, thời Hán núi sông mà lay chuyển
Trăm ngàn năm tích nổi Nam triều, nhà Trưng công nghĩa chẳng từ nan.

Ban thờ mẹ và vợ thánh Tam Giang ở chùa Nôm.

Vấn đề là một “Điền tiền chỉ huy tướng”, tức là chức vụ cầm đầu quân đội, của Hai Bà Trưng lại lấy vợ và cháu gái Triệu Đà. Triệu Đà là vua nước Nam Việt từ thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, thời Tây Hán. Cháu gái Triệu Đà đến năm 40 sau Công nguyên đã ngoài trăm tuổi, sao lại còn lấy chồng là đại tướng của Trưng Vương? Liên hệ giữa nhà Triệu Nam Việt và Trưng Vương là như thế nào?
Ở Hưng Yên còn một di tích khác vời thần tích nêu cụ thể về thời gian giữa nhà Triệu và Trưng Vương. Đình và đền thôn Thượng Bùi ở xã Trung Hòa, Yên Mỹ kể:
Ở động Hoa Lư, huyện An Khánh, phủ Trường An, châu Ái có người tên là Ngô Thông vốn dòng dõi thế gia. Ngô Thông làm đến chức Phủ doãn phủ Hà Trung. Lại có người tên là Phạm Cầu, người động Nga Sơn, huyện Thanh Sơn, phủ Hà Trung, làm đến chức Thái phó ở đời Triệu Ai Vương, được bổ nhiệm làm Bộ chúa Hải Dương… Hai họ Ngô Phạm thân thiết với nhau và có giao ước sẽ kết gả con cho nhau.
Ngô Công sinh con trai đặt tên là Ngọ. Nhà họ Phạm sinh hai con gái, đặt tên là Nga Nương và Châu Nương…
Năm Ngọ Công 11 tuổi cha bị quân Hán giết hại, mẹ sau cũng mất theo. Ngọ Công trở thành mồ côi, tìm đến nhà Phạm Công nương nhờ. Khi Ngọ Công 17 tuổi Phạm Công gả Nga Nương cho Ngọ Công. Lúc ất Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh Tô Định. Ngọ Công và Nga Nương đem quân tướng bái yết Trưng Vương. Trưng Vương phong cho Ngọ Công làm Than tán quốc chính thượng tướng quân Ngọ Phong Hầu và Nga Nương là Thống Lĩnh tả hữu nội vệ nữ tốt Nguyệt Nga công chúa…
Như vậy, Phạm Công người Thanh Hóa, làm chức Thái phó đời Triệu Ai Vương (117 TCN – 112 TCN). Thế mà con là Nguyệt Nga khi mười bảy đôi mươi lại là tướng thống lĩnh nội vệ của Trưng Vương. Tất cả những thần tích nêu trên ở Hưng Yên chỉ ra rõ ràng rằng có một khởi nghĩa Trưng Vương xảy ra không phải vào thời Đông Hán sau Công nguyên, mà là ngay sau khi nhà Triệu Nam Việt bị nhà Tây Hán diệt. Chuyện này là thế nào?
Nhà Triệu Nam Việt thành lập từ thế kỷ 2 trước công nguyên, đô đóng Phiên Ngung (Quảng Đông), truyền tới Triệu Vệ Dương Vương thì bị nhà Tây Hán tấn công. Thừa tướng ba đời nhà Triệu là Lữ Gia cùng với vua Triệu và gia quyến đã lên thuyền rời kinh đô đi về phía Tây, tức là về vùng duyên hải Giao Chỉ lúc đó. Lữ Gia và Triệu Vệ Dương Vương bị quân Hán truy sát, bị bắt và tử tiết ở cửa sông Đáy đổ ra biển. Truyền thuyết Việt chép thành chuyện Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) bị Lý Phật Tử đuổi, ra đến cửa Đại Nha thì đi ra biển mà mất. Còn thừa tướng Lữ Gia là tướng Lý Phục Man của Lý Nam Đế, sau khi tử trận đã được tùy tướng là Trương Hống Trương Hát đem về chôn cốt ở làng Giá – Yên Sở đầu sông Đáy.
Trương Hống Trương Hát chính là Nhị Trưng Vương, làm nên cuộc khởi nghĩa tiếp theo ở Phong Châu. Nhị Trưng Vương là con gái thừa tướng Lữ Gia và là hoàng phi của Triệu Vệ Dương Vương. Vì vậy Trưng nữ vương mới lấy cửa sông Đáy (Hát Môn) làm nơi phất cờ khởi nghĩa đền nợ nước Nam Việt đã mất và trả thù nhà là vua Triệu đã bị chết ở cửa Đại Nha. Các tướng lĩnh của Trưng Vương do vậy mới có thân phụ làm quan cho nhà Triệu còn con thì cùng Trưng Vương trả thù nhà, đền nợ nước.
Thánh Tam Giang ở đình Nôm lấy cháu gái Triệu Đà tức là hoàng thân quốc thích của nhà Triệu Nam Việt và của Trưng Vương. Đức thánh do vậy nhận chức Điện tiền chỉ huy, tổng quản quân đội là hợp lý. Tam Giang thực ra là Tam Xuyên, là quận mà nhà Tần đã lập ra khi chiếm đất nhà Chu ở Giao Chỉ. Thánh Tam Giang là vị tướng cai quản vùng Tam Xuyên (Giao Chỉ) thời Trưng Vương.
Tư liệu dân gian cho thấy sử Việt đã chép thiếu khởi nghĩa của Nhị Trưng Vương dưới thời Tây Hán. Khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Phong Châu là nhằm phục quốc Nam Việt của nhà Triệu, nối tiếp ý chí chống Hán của thừa tướng Lữ Gia. Quốc thống và dòng dõi nhà Triệu, triều đại xưng Nam đế, xưng Việt đế đầu tiên trong lịch sử, không mất mà còn nối tiếp bởi các hoàng phi họ Lữ và sau đó là nước Nam Triệu ở vùng Tây Bắc Việt.

Thánh Giá Lữ Phục Man

GS. Lê Văn Lan nêu “có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết“. Còn ý kiến “kết luận” của GS. Phan Huy Lê: “Quan điểm về Phạm Tu và Lý Phục Man là 1 người hay 2 người hiện nay chưa thống nhất…”.
Vấn đề phân biệt hay đồng nhất 2 vị tướng Lý Phục Man và Phạm Tu thời Tiền Lý đã làm đau đầu các nhà sử học danh tiếng nhất cũng như các vị dòng họ Phạm, vì họ này lấy tướng quân Phạm Tu làm Thượng thủy tổ. Chỗ rắc rối là cả 2 nhân vật này đều là đại tướng quân thời Tiền Lý Nam Đế, đều đánh dẹp quân Lâm Ấp. Theo sử sách ngày nay thì thời Tiền Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân khá ngắn ngủi, vẹn vẹn chưa được 5 năm (544 – 548). Trong thời gian đó chẳng nhẽ cùng một chiến công lại có đến 2 vị tướng làm nên? Phe “đồng nhất” Phục Man và Phạm Tu lấy đó làm lý do chính. Nhưng phe “phân biệt” cũng có lý không kém vì xét sự tích, tên tuổi, địa điểm… của 2 vị tướng này chẳng có chỗ nào giống nhau cả.
Câu hỏi về Phạm Tu và Lý Phục Man chỉ có thể giải đáp khi xét bắt đầu… từ Tiền Lý Nam Đế. Nếu Lý Nam Đế là cái tên chỉ 2 vị vua Lý Bôn và Lý Bí khác nhau thì hiển nhiên Phạm Tu và Phục Man cũng là 2 vị tướng khác nhau. Lý Phục Man là tướng của Lý Bôn, còn Phạm Tu là tướng của Lý Bí. Đây là 2 thời kỳ cách nhau hơn 400 năm, đã bị sử Việt chép vào thành một chuyện, dẫn đến những mâu thuẫn không giải đáp nổi giữa các vị anh hùng nghĩa sĩ của các thời kỳ này.

P1100534Đình quán Giá ở Yên Sở

Sự tích Lý Phục Man được chép trong Việt điện u linh riêng thành một truyện Sự tích thần xã An Sở, tóm tắt như sau: Gia Thông đại vương, người làng Cổ Sở. Vương giúp vua Lý Nam Đế, được vua cho làm đại tướng trấn thủ đất Đỗ Động. Quân Lâm Ấp vào cướp quận Cửu Đức, bị đại vương phá tan. Vua bèn nhân đó đặt tên là Phục Man, cho theo họ nhà vua là họ Lý, lại gả công chúa Lý Nương cho vương và thăng chức Thái úy, giữ chính quyền đứng đầu các quan. Thái úy có tính trung hậu thanh liêm, mạnh bạo can ngăn vua, không dung tha kẻ có lỗi đàn hặc kẻ lộng quyền, không e sợ gì cả.
Bấy giờ Lý Nam Đế sai Thái úy lên giữ đất Đường Lâm. Năm Đinh mão quân Lương tiến đánh. Nam đế lui giữ đầm Khuất Lạo được ít lâu rồi mất. Thái úy sai quân giữ vững các nơi hiểm yếu. Một đêm bỗng thấy lửa sáng rực trời, man binh lũ lượt kéo đến trước sân vây bọc. Thái úy phá vòng vây nhưng rồi bị đuổi gấp nên đã tự vẫn mà chết. Người nhà rước linh cữu về bến Hồ Mã rồi táng ở bên sông ngoài làng.
Nơi chôn cất và thờ phụng chính của Lý Phục Man là ở đình quán Giá thuộc Yên Sở (Hoài Đức, Hà Nội). Đình quán này nằm ngoài đê, gần sát sông Đáy hay sông Hát, là bến Hồ Mã được nói đến trong thần tích. Trong đình ngoài tượng của Lý Phục Man còn có tượng 2 tùy tướng thân cận là Trương Hống, Trương Hát, những người có công đưa được thi hài của chủ tướng về quê an táng.
Chi tiết về “đôi họ Trương” này cũng được ghi trong thần tích của quán Giá, nhưng ở mục “Tồn nghi”. Chỗ khó hiểu là Trương Hống, Trương Hát được biết là 2 trung thần của Triệu Quang Phục, không hàng phục Lý Phật Tử và tự vẫn ở vùng Bắc Ninh (sông Cầu). Đây cũng là 2 vị thần đã hiển linh đọc bài thơ Nam quốc sơn hà trước quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt thời Lý. Vậy làm sao Trương Hống Trương Hát lại là tùy tướng của Lý Phục Man?

Truong HongTượng Trương Hống ở đình quán Giá

Thông tin Trương Hống, Trương Hát đã đưa thi hài của Lý Phục Man về quê Cổ Sở đã dẫn đến một suy nghĩ bất ngờ. Trong mạch sử mới thì Trương Hống, Trương Hát là bộ tướng của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt (Triệu Việt Vương), đã chống lại quân nhà Hiếu (Tây Hán, được truyền thuyết chép là quân của Lý Phật Tử) sau khi Lữ Gia mất ở cửa Đại Nha cùng với Triệu Vệ Dương Vương. Như vậy Lý Phục Man, chủ tướng của Trương Hống, Trương Hát, không ai khác chính là thừa tướng Lữ Gia.
Từ nhận định này, có thể tìm ra một loạt những dẫn chứng khác làm sáng tỏ thân thế của Lý Phục Man – Lữ Gia. Trước hết, bản thân tên làng Giá, thánh Giá (chỉ Lý Phục Man) là đọc sai tên của Lữ Gia. Việt Điện u linh kể về Lý Phục Man cũng bắt đầu bằng tên “Gia Thông đại vương”. Chữ Giá ở đây hoàn toàn không phải là cây dừa (chữ Nho là “gia”) như cách giải thích vùng Yên Sở trước kia là khu rừng dừa (!?).
Tương truyền nơi cha sinh mẹ đẻ của Lý Phục Man là Lã Xá ở Yên Sở. Nơi đây còn có chợ Lựa, là chữ Lã/Lữ đọc chệch ra. Vị tướng sinh ở Lã Xá có tên Gia Thông thì rõ ràng là Lữ Gia.
Truyền thuyết vùng Yên Sở kể Lý Phục Man bị trọng thương đứt mất đầu vẫn phá vòng vây giặc chạy về quê Cổ Sở. Trên đường gặp một người đàn bà, ông dừng lại hỏi: “Ta bị thương thế này có việc gì không?”. Người đàn bà thấy tướng đã đứt đầu mà vẫn còn hỏi được sợ quá không nói nên lời. Vì thế khu làng này sau gọi là Thị Cấm.
Đi thêm một quãng Lý Phục Man lại gặp một người con gái, và đặt lại câu hỏi trước. Cô gái chỉ cười chẳng dám nói gì. Thế là làng này có tên Hòe Thị. Hai làng Thị Cấm và Hòe Thị sau đều lập miếu thời Lý Phục Man.
Khi ngựa Lý Phục Man với tới dốc đình Cầu, Lý Phục Man đặt câu hỏi với bà hàng nước thì được trả lời là chưa thấy ai bị đứt đầu lại có thể sống cả. Nghe bà cụ nói vậy Lý Phục Man phóng ngựa ra khu hồ Mã rồi hiển thánh…
Đoạn chuyện kể trên hoàn toàn giống chuyện Lữ Gia mất ở chân núi Gôi (Vụ Bản, Nam Định). Thiên Bản lục kỳ kể: “Làng Gôi thờ đầu, làng Hầu thờ cổ, làng Hổ thờ chân” với câu chuyện Lữ Gia bị thương đứt cổ khi chống trả quân Hán, nhưng vẫn ôm cổ phi ngựa chạy, đến núi Gôi hỏi bà hàng nước: Người mất đầu có sống được không? Bà hàng nước trả lời là không sống được. Sau đó đầu Lữ Gia rời khỏi cổ, ông lại chạy tiếp xuống làng Hầu, làng Hổ gần đó … Do vậy ba làng này chia nhau thờ đầu thờ cổ và thờ chân.
Câu đối ở đền thờ Lữ Gia tại chân núi Gôi
不得己用権忠在先君名在史
洁然存者氣生為良將死為神
Bất đắc kỷ dụng quyền/ trung tại tiên quân danh tại sử
Khiết nhiên tồn giả khí/ sinh vi lương tướng tử vi thần.
Dịch:
Bất đắc phải dùng quyền, trung với tiền vương danh với sử
Thanh khiết còn chính khí, sinh là lương tướng tử là thần.
Vế đối đầu nói tới chuyện Lữ Gia bất đắc dĩ phải giết Cù Hậu và Triệu Ai Vương, không đầu hàng nhà Hiếu (Tây Hán), trung liệt với tiền vương (Triệu Văn Vương). Chuyện này ứng với mô tả về Lý Phục Man trong Việt Điện u linh: Thái úy giữ chính quyền đứng đầu các quan. Thái úy có tính trung hậu thanh liêm, mạnh bạo can ngăn vua, không dung tha kẻ có lỗi đàn hặc kẻ lộng quyền, không e sợ gì cả… Đến cả vua và hoàng thái hậu còn bị Lữ Gia phế truất, giết bỏ thì đúng là không e sợ gì cả.

Tu lang linh tuTứ lăng linh từ ở chân núi Gôi

Ý nghĩa của truyền tích kể về vị tướng mất đầu trên nay đã có thể hiểu. “Đầu” của thừa tướng Lữ Gia đã bị chém tức là vua Triệu Vệ Dương Vương đã bị giết ở cửa Đại Nha. “Thân” xác của Lữ Gia tử mạng ở núi Gôi. Còn phần “chân” được tùy tướng Trương Hống, Trương Hát đưa về quê hương Cổ Sở chôn cất. Dân gian đã thật khéo léo lưu truyền sự thật lịch sử trong truyền thuyết về Lữ Gia – Lý Phục Man ở 2 vùng đầu và cuối sông Hát. Cửa Đại Nha và núi Gôi là vùng sông Đáy hay sông Hát đổ ra biển. Vùng Hồ Mã – Yên Sở là nơi bắt đầu của dòng sông Hát.
Câu đối cổ ở đình quán Giá tại Yên Sở thì chép về Lý Phục Man:
佐李烈猶傳貞石春秋柴嶺月
拒胡聲遹駿雄風今古喝江濤
Tá Lý liệt do truyền/ trinh thạch xuân thu Sài lĩnh nguyệt
Cự Hồ thanh duật tuấn/ hùng phong kim cổ Hát giang đào.
Dịch:
Nghiệp giúp Lý còn truyền, đá bền năm tháng trăng Sài đỉnh
Tiếng chống Hồ vẫn nổi, gió mạnh xưa nay sóng Hát giang.
Câu đối trên cho một chỉ dẫn đặc biệt. Sự tích của Lý Phục Man còn liên quan đến đỉnh Sài Sơn. Sài Sơn là quả núi nhỏ nơi có chùa Thầy, nằm cách quán Giá chỉ khoảng 2-3 km. Trên đỉnh Sài có hang Cắc Cớ, tương truyền là nơi chôn vùi hàng ngàn nghĩa quân của Lữ Gia khi chống lại quân Hán thất bại. Với thông tin này thì không còn nghi ngờ gì nữa, người được thờ ở quán Giá Lý Phục Man chính là thừa tướng Lữ Gia của nhà Triệu.
Các tác giả Nguyễn Bá Hân, Trương Sĩ Hùng trong sách Thành hoàng làng Lý Phục Man ở Hà Nội đã thống kê có tới 74 nơi thờ Lý Phục Man và Phạm Tu. Trong đó chủ yếu là thờ Lý Phục Man tập trung ở các khu vực xứ Đoài (Sơn Tây cũ) như các huyện Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Đan Phượng, Phúc Thọ. Đây cũng là khu vực có truyền tích về Lữ Gia như Quán Linh Tiên ở Hoài Đức, đình Liên Hà (Đan Phượng). Hội làng Giá là một trong những lễ hội lớn nhất ở vùng này. Nếu xét Lý Phục Man là vị tướng có công nghiệp chủ yếu trấn giữ ở đất Lâm Ấp – Chiêm Thành và hy sinh ở miền Thanh Nghệ thì việc thờ Lý Phục Man phổ biến tại vùng Sơn Tây cũ là khó có cơ sở. Nơi mà tướng quân này đã “Phục Man” là một khu vực khác…
Khi nhận ra Lý Phục Man là Thừa tướng Lữ Gia thì ý nghĩa của việc Lý Phục Man giữ quận Cửu Đức ở phía Nam là chuyện Lữ Gia đã phò tá các vua Triệu lập nước Nam Việt, đối lập với nhà Hiếu ở phía Bắc.
Sử ký Tư Mã Thiên chép “Họ hàng [Lữ Gia] làm quan trường lại đến hơn bảy mươi người. Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em, tôn thất của vua, lại thông gia với Tần vương ở quận Thương Ngô”. Đây là lý do vì sao Phục Man lại được vua ban cho họ Lý và lấy công chúa Lý Nương. Lý là họ của các vua nhà Triệu Nam Việt, bắt đầu từ Lý Bôn.
Chữ Phục Man ở đây có thể không phải nghĩa là thuần phục người man Lâm Ấp. Phục Man cũng như Quang Phục (Triệu Việt Vương) có nghĩa là Phục hưng phương Bắc. Man = Mun, màu đen chỉ phương Bắc. Chí hướng của Lữ Gia cũng như Triệu Việt Vương là khôi phục đất đai ở phương Bắc của nhà họ Lý – Lữ từ Lưu Bang và Lữ Hậu.
Chỉ khi xác định Tiền Lý Nam Đế Lý Bôn là Lưu Bang, Triệu Quang Phục là chuyện của 4 đời vua Triệu nước Nam Việt thì mới có thể nhận ra vị Thái úy Lý Phục Man là Lữ Gia, Thừa tướng của nhà Triệu, người đã một lòng vì tiền triều muốn khôi phục giang sơn phương Bắc, kiên trinh chống lại quân nhà Hiếu tới cùng, tử tiết ở cửa Đại Nha. Con cháu đã mang người về chôn cất ở vùng núi Sài sông Hát và tiếp tục ý chí đó mà làm nên cuộc khởi nghĩa tiếp theo của Trương Hống, Trương Hát hay Nhị Trưng Vương ở vùng Hát Môn – Sơn Tây…

Ả Lã Trưng Vương

Cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương là một cuộc khởi nghĩa kỳ lạ hiếm có trong lịch sử nhân loại khi 2 người gái tuổi còn son trẻ đã lãnh đạo quân khởi nghĩa giành thắng lợi trên toàn quốc, áo mũ lên ngôi xưng vương trong 3 năm. Khởi nghĩa của Trưng Vương có sự tham gia đông đảo của nhiều nhân vật nữ, trở thành những danh tướng nổi tiếng trong thời kỳ này.
Tại sao những vị nữ nhân này lại có khí dũng, có tiềm lực mạnh mẽ như vậy? Tinh thần vì nước vì nhà của các vị nữ anh hùng này chưa đủ là lý do thuyết phục cho một cuộc khởi nghĩa lớn như vậy. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến khởi nghĩa Trưng Vương là gì?
Câu đối về Hai Bà Trưng ở đền Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Nội):
越祖百男閒出英雌能復國
唐初雙女未聞閨綉自興王
Việt tổ bách nam, gián xuất anh thư năng phục quốc
Đường sơ song nữ, vị văn khuê tú tự hưng vương.
Dịch:
Tổ Việt trăm trai, xen có anh thư hay phục quốc
Sơ Đường đôi gái, chưa nghe khuê tú tự xưng vua.
Sơ Đường đôi gái” ở đây là chỉ Nga Hoàng, Nữ Anh con của Đường Nghiêu, đã chết theo Đế Thuấn (xem thêm sự tích này ở phần dưới).
Trong số các nữ tướng của Trưng Vương có một vị là Thánh bà Ả Lã Nàng Đê. Thánh bà này được thờ ở 11 tỉnh thành, tổng cộng lên tới 56 làng, chủ yếu là ở Hà Nội và Vĩnh Phúc (theo Thư mục thần tích thần sắc của Viện Thông tin khoa học xã hội). Thần tích làng Nghĩa Lộ và Yên Lộ (Yên Nghĩa, Hoài Đức, Hà Nội) cho biết bà là con gái ông Nguyễn Viên quê ở Hoằng Hóa Ái Châu, theo giúp Trưng Vương đánh giặc. Thần tích ở làng Sa Khúc (Yên Lãng, Mê Linh, Hà Nội) thì chép bà là con người họ Lã quê ở Tống Sơn Thanh Hóa và bà trở thành một danh tướng của Hai Bà Trưng, lập nhiều chiến công.
Đặc biệt GS Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Đạo Thánh ở Việt Nam cho biết Thánh bà Ả Lã Nàng Đê là con gái của thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu Nam Việt, đã giúp Trưng Vương đánh giặc Hán. Thừa tướng Lữ Gia theo thần tích Việt cũng có quê ở Cửu Chân (Thanh Hóa).
Thông tin ngắn gọn của các thần tích trên cho phép giải đáp khúc mắc về xuất xứ và thời gian khởi nghĩa của Bà Trưng. Bởi vì bà Trưng Trắc theo thần tích ở Nại Xá (Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội), nơi thờ ông Thi Sách, có tên là Ả Lã Nàng Đê. Kết hợp với thông tin của GS Vũ Ngọc Khánh thì có thể nhận thấy Trưng Vương chính là con gái của thừa tướng Lữ Gia của nhà Triệu Nam Việt.
Sử ký Tư Mã Thiên cho biết: “Họ hàng (Lữ Gia)… con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em, tôn thất của vua”. Ả Lã Nàng Đê, con gái thừa tướng Lữ Gia, cũng phải là một hoàng phi của nhà Triệu Nam Việt. Ông Thi Sách, chồng của Ả Lã Trưng Vương do vậy không ai khác chính là Triệu Vệ Dương Vương, vị vua cuối cùng của nhà Triệu đã bị quân Hán giết hại. Ả Lã Trưng Vương phất cờ khởi nghĩa đúng là vừa vì nước (Nam Việt) vừa vì nhà (Triệu Vệ Dương Vương).
Triệu Vệ Dương Vương bị bắt khi cùng Lữ Gia chạy về đất Giao Chỉ cũng là Triệu Việt Vương – Triệu Quang Phục trong truyền thuyết Việt, người đã tử tiết ở cửa Đại Ác tại Nam Định – Ninh Bình. Đền thờ Triệu Việt Vương ở đây nay là đền Độc Bộ (Yên Nhân, Ý Yên, Nam Định). Cách đó không xa là khu vực núi Gôi (Vụ Bản, Nam Định), nơi Lữ Gia đã “rơi đầu”.
Thông tin của GS Vũ Ngọc Khánh một lần nữa xác định, khởi nghĩa của Ả Lã Trưng Vương không thể xảy ra vào thời Đông Hán. Bởi vì từ khi Lữ Gia cùng Triệu Vệ Dương Vương thất thủ Phiên Ngung năm 111 TCN tính tới thời Đông Hán có tới 150 năm. Con gái Lữ Gia tới năm 40 sau Công nguyên đã “ngoài trăm tuổi”, không thể tham gia khởi nghĩa của Trưng Vương được.
Thời gian của chuyện Ả Lã này cũng trùng với thần tích về Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Thanh Lãng (Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Bà Triệu Thị Khoan Hòa là Hoàng hậu của Triệu Vệ Dương Vương. Năm người con trai của bà là 5 chàng Vịt lại tham gia vào khởi nghĩa Hai Bà Trưng và cùng chết sau khi các nữ vương tử tiết. Khởi nghĩa của Hai Bà Trưng do đó không thể xảy ra vào thời Đông Hán những năm sau Công nguyên, mà phải là ngay sau cái chết của Triệu Vệ Dương Vương vào năm 111 TCN.
Như vậy, cái tên Ả Lã thì đã rõ, chỉ người con gái họ Lữ của Lữ Gia. Còn tên gọi Nàng Đê theo mặt chữ ở các thần tích khác nhau có thể đọc là Lang Đề. Thời kỳ này còn có nhân vật Lang Tề là con của Tây Vu Vương, khởi nghĩa chống lại nhà Tây Hán (theo thần tích ở đình Tràng Đông, xã Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ). Có thể Nàng Đê nghĩa là Lang Tề hay Lang Tây, là vị vua của hướng Tây. Trưng Vương khởi nghĩa ở đất Tây Thổ – Phong Châu nên còn được gọi là Lang Tây. Ả Lã Nàng Đê nghĩa là vị vua nữ phía Tây mang họ Lữ.

P1000611Miếu thờ Nữ Ả đại vương ở làng Bì La (Đồng Ích, Lập Thạch, Vĩnh Phúc)

Trong số các thần tích về Ả Lã Nàng Đê cũng có khá nhiều các thần tích chép rằng bà là vợ (hoặc con gái) của Triệu Quang Phục. Ví dụ thần tích làng Trung Hậu (Yên Lãng, Mê Linh, Hà Nội) chép: ông Lã Hòa ở châu Hoan sinh con gái đặt tên là Ả Lự, sau gả cho Triệu Quang Phục. Thần tích thôn Điệp (Tráng Việt, Mê Linh, Hà Nội) thì ghi Triệu Việt Vương lấy bà Lê Thị Hinh sinh ra Ả Lã Nàng Đê. Khi Lý Phật Tử định cầu hôn Cảo Nương cho con trai là Lý Nhã Lang thì Ả Lã Nàng Đê hết sức can ngăn. Đến khi Triệu Việt Vương thất trận Ả Lã Nàng Đê chạy về thôn Điệp rồi mất tại đó, triều đình phong tặng là Quốc Vương Thiên Tử Ả Lã Nàng Đê. Danh hiệu tương tự của Ả Lã Nàng Đê còn gặp ở đình Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) là Quốc vương thiên tử Nga hoàng đại vương.
Vì Triệu Quang Phục và vua Triệu nước Nam Việt là một nên Ả Lã Nàng Đê là vợ/con gái của Triệu Việt Vương thì cũng là Trưng Vương họ Lữ.
Danh hiệu “Quốc vương thiên tử” cho thấy Ả Lã Nàng Đê không chỉ là nữ tướng bình thường mà là dòng dõi “thiên tử”, hoặc chính Ả Lã là Trưng Vương thiên tử, đã lên ngôi cai quản toàn bộ 65 thành ở Lĩnh Ngoại.
Danh hiệu “Nga hoàng đại vương” chỉ một mối liên hệ khác. Nga Hoàng và Nữ Anh là 2 con gái Đế Nghiêu được gả cho Đế Thuấn thờ cổ. Đế Thuấn đi tuần mất ở Thương Ngô, Nga Hoàng và Nữ Anh nhảy xuống sông Tương chết theo chồng. Câu đối ở đền Hát Môn cũng có so sánh Nhị Trưng Vương với Nga Hoàng Nữ Anh (Đường sơ song nữ):
西江姊妹神湘女
東漢縱横霸粵王
Tây Giang tỷ muội thần Tương nữ
Đông Hán tung hoành bá Việt vương.
Dịch:
Tây Giang em chị thần Tương nữ
Đông Hán dọc ngang xứng Việt vương.
Tây Giang ở đây chỉ khởi nghĩa Trưng Vương nổ ra ở vùng phía Tây của biển (Giang = Dương, đại dương là biển), là đất Phong Châu (Tây Thổ).
Nhà Triệu Nam Việt đóng đô ở Dương Thành Phiên Ngung ở hướng Đông, nên thần tích chép ông Thi Sách họ Dương, quê ở Chu Diên (=Châu Dương). Ả Lã Nàng Đê (Lang Tề) Trưng Vương đóng đô ở Phong Châu (Mê Linh thiết Minh là Minh đô của vua Hùng), ở hướng Tây tiếp nối thời kỳ trước của nhà Triệu.
Đặc biệt hơn nữa, thần tích của xã Phú Lạc (Cẩm Khê, Phú Thọ) theo bản dịch của Nguyễn Duy Hinh trong sách Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam có đoạn kể về Trưng Vương như sau:
… Triệu Đà được nước cha truyền con nối 5 đời cộng 149 năm. Đến đời Thuật Dương Vương kế ngôi chính thống vừa được một năm thì có Tô Định mang quân vào đất nước chiếm Trung Hoa, họ Triệu tàn tạ không người cứu nước. Đến đó cháu gái Hùng Vương húy là Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt thánh thần trong đời oai hùng cử binh đánh thẳng đến thành Tô, đại phá. Tô Định thuy chạy. Bà Trưng bèn xây 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục toàn bộ cảnh thổ nước Nam. Bà Trưng tức vị tự lập làm vua.
Thần tích ở Phú Lạc là một trong những bản thần tích dài, kể khá đầy đủ mọi chuyện về công tích của Tản Viên Sơn Thánh. Trong đoạn thần tích trên đã nói Tô Định “mang quân vào đất nước chiếm Trung Hoa” của Triệu Vệ Dương Vương (Thuật Dương Vương), do vậy dẫn đến khởi nghĩa của bà Trưng Trắc. Rõ ràng khởi nghĩa của Trưng Vương đã xảy ra khi Nam Việt của nhà Triệu bị Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức đánh chiếm. “Nước ta” được gọi là “Trung Hoa”, không phải 1 lần trong bản thần tích trên. Trước đó khi kể về việc Sơn Tinh khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục vương thần tích này cũng nói:
Sơn Thánh đem quân khải hoàn. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Vua bèn nhường ngôi cho Sơn thanh. Sơn Thánh cố từ, tâu: 18 vua Hùng hưởng quốc dài lâu, ý trời có hạn khiến Thục vương thừa cơ chiếm Trung Hoa. Nhưng Thục vương bốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái của hoàng đế trước…
“Nước ta” là Trung Hoa nên lịch sử được kể trong thần tích không chỉ bó hẹp ở khu vực Đại Việt của thời Lê sau này. Gốc tích của Ả Lã Trưng Vương bắt nguồn từ vị thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu, vốn là gia tộc của… Lữ Hậu, vợ của Hiếu Cao Lưu Bang. Khi Lưu Bang mất, Lữ Hậu nắm quyền triều chính. Lữ Hậu mất, ở kinh đô Trường An họ tộc Lữ định tiếm ngôi nhưng không thành. Cùng lúc đó ở phương Nam lại nổi lên Triệu Đà chiếm Mân Việt và Tây Âu Lạc, xưng đế cùng với sự phò trợ của thừa tướng Lữ Gia. Thừa tướng Lữ Gia như vậy hẳn là vị Lữ Vương (vị vương được phong cai quản vùng đất của họ Lữ dưới triều Hiếu – Tây Hán) đã tôn một người cháu của Triệu Vũ Đế Lưu Bang lên ngôi ở Nam Việt. Truyền thống nữ nhi khởi nghĩa và cai quản quốc gia của Ả Lã Trưng Vương là tiếp nối từ Lữ Hậu…

Lời thề sông Hát

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng bắt đầu từ việc ông Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc bị quân Hán giết. Theo sử sách thì vì nợ nước thù nhà mà Hai Bà đã tụ quân lập đàn thề ở Hát Môn, dựng cờ khởi nghĩa. Lời thề Hát Môn được ghi lại:
Một, xin rửa sạch quốc thù
Hai, xin khôi phục nghiệp xưa họ Hùng
Ba, kẻo oan ức lòng chồng
Bốn, xin vẻn vẹn sở công lênh này.

Dan the Hat Mon

Đàn thề Hát Môn

Tuy nhiên, nguyên nhân “vì chồng bị giết” mà dẫn đến cuộc khởi nghĩa lớn của Trưng Vương xem ra… không hợp lẽ cho lắm. Thi Sách chết trước hay sau khi Hai Bà khởi nghĩa thì các sử gia còn đang đặt nghi vấn. Ông Thi Sách họ gì thì lại càng là cả một điều bí ẩn…

Gần Hát Môn ở Nại Xá (xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội) xưa có miếu Đinh Nguyên thờ Thi Sách. Tương truyền nơi đây là Tử Khê, là nơi Thi Sách tử tiết. Khi Trưng Vương khởi nghĩa đã cho lập miếu thờ chồng ở đây. Thần tích miếu Nại Tử mở đầu như sau:

Xưa vào niên hiệu vua Quang Vũ triều Đông Hán có lạc tướng đất Mê Linh – Phong Châu tên là Trưng Nghĩa Dũng, tức là Phúc Bố, vợ là bà Hồng Thị Đào tuổi đã đều trên 40 mà khó sinh con đã sắm sanh lễ vào chùa Hương Tích cầu có con nối dõi. Lòng thành của họ đã được trời đất ban phúc báo mộng sẽ cho họ một bậc anh hùng quốc chủ giúp nước an dân. Quả nhiên sau đó vợ chồng sung sướng khi tin vui có thai và vào giờ sửu ngày 10 tháng 4 bà Hồng đã sinh ra Kim Tiên nữ dáng mạo đoan trang, cốt cách hơn người và đặt tên là Trắc thường gọi là Ả Lã và khi lớn gọi là nàng Đê có mày cong trăng non, mắt tựa như làn thu thủy…

Lúc đó có người Chu Diên cũng con của lạc tướng (Dương Thái Bình, mẹ là Hồ Thị Nhữ) tên là Dương Thi Sách tuổi đã 29, sinh ngày 10 tháng 6. Nghe nói Ả Lã nàng Đê có nhan sắc kiều diễm vẫn chưa lấy chồng. Chàng Dương Thi Sách thưa với bố sang xin kết duyên với nàng. Lạc tướng Dương Thái Bình nói rằng: Ta và Lạc tướng Phong Châu trước đã có nguyện ước nay nghe có nàng Ả đó phải chăng là duyên tiền định vậy và cho người đến hỏi đón về. Đất Chu Diên hai họ đến cùng vui mừng.

Thần tích này cho biết Thi Sách họ Dương, còn Trưng Trắc vốn có tên là Ả Lã. Thông tin về tên họ của Thi Sách và Trưng Vương đã chỉ ra mối liên hệ giữa khởi nghĩa Hai Bà Trưng với … nhà Triệu Nam Việt.

Thần tích Nại Xá cho biết Dương Công Thi Sách đã được tôn phong là “Quốc vương Thiên tử Đông Hán Đại vương”. Phải hiểu chữ “Đông Hán đại vương” ở đây là thế nào? Thi Sách sao lại là đại vương của Đông Hán?

Họ Dương của Thi Sách thực ra là chỉ hướng Đông. Đây cũng là chữ Dương trong tên của Vệ Dương Vương, vị vua cuối cùng của nhà Triệu Nam Việt. “Đông Hán” là nước Nam Việt, có kinh đô đóng ở Dương Thành (Phiên Ngung – Quảng Đông) nên gọi là Đông. Còn gọi là “Hán” bởi vì Nam Việt và Tây Hán đều cùng một gốc từ Hán Cao Lưu Bang – Triệu Vũ Đế cả.

Khi Lộ Bác Đức nhà Tây Hán tấn công Dương Thành, Triệu Vệ Dương Vương cùng thừa tướng Lữ Gia đã lên thuyền đi về phía Tây, trở lại đất Phong Bái của Triệu Vũ Đế. Trong thần tích Nại Xá bố của Thi Sách tên là Dương Thái Bình, rất có thể Thái Bình đây chỉ đất Bái xưa.

Vệ Dương Vương bị bắt ở cửa Đại Nha, là cửa sông Đáy đổ ra biển tại Nghĩa Hưng, Nam Định ngày nay. Truyền thuyết Việt chép thành Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử đuổi chạy tới cửa Đại Nha thì mất. Nơi đây còn đền Độc Bộ lưu dấu sự kiện này.

Thần tích đền Độc Bộ có một chi tiết thêm so với những thần tích khác về Triệu Việt Vương. Thần tích này cho biết Triệu Quang Phục là “cháu đời xa của Triệu Vũ Đế”. Thông tin này thật chính xác. Triệu Vệ Dương Vương thì rõ là cháu mấy đời của Triệu Đà. Triệu Quang Phục cùng đường ở Đại Nha chính là Triệu Vệ Dương Vương.

Dương Thi Sách là Triệu Vệ Dương Vương, vậy Ả Lã Trưng Trắc là hoàng phi của vua Triệu.
Sách Thư mục thần tích thần sắc do Viện Thông tin khoa học xã hội biên soạn xuất bản năm 1996 thống kê ở 11 tỉnh thành trong cả nước có 56 làng thờ Ả Lã Nàng Đê làm thành hoàng. Nhân vật này được biết chủ yếu hoặc là một nữ tướng thời Trưng Vương hoặc là phi nhân của Triệu Quang Phục (các thần tích vùng Yên Lãng, Mê Linh, Hà Nội). Với nhận định Thi Sách là Triệu Quang Phục (Triệu Vệ Dương Vương), Ả Lã là Trưng Vương thì 2 tích về Ả Lã Nàng Đê trên đều chỉ là một chuyện.

Ả Lã mang họ Lã hay Lữ của thừa tướng Lữ Gia. Nhà họ Lữ có nhiều con gái được gả cho vua Triệu Nam Việt. Trưng Trắc hẳn là một trong số đó. Triệu Vệ Dương Vương bị bắt. Gia quyến nhà Triệu cùng Lữ Gia đã lui về châu Phong, từ đó làm nên của khởi nghĩa của Trưng nữ vương họ Lữ.

Lịch sử Việt Nam đã chép 2 cuộc khởi nghĩa khác nhau vào một khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Cuộc khởi nghĩa đầu nổ ra vào thời Tây Hán ngay sau khi nhà Triệu Nam Việt thất thủ. Khởi nghĩa này đúng là đền nợ nước, trả thù nhà của các hoàng phi nhà Triệu họ Lữ. Vua Tây Hán lúc này là Hiếu Vũ Đế chứ không phải Hán Quang Vũ đã cử Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức đi dẹp loạn. Sau thất bại ở Lãng Bạc, Ả Lã tử tiết ở Cấm Khê.

Cuộc khởi nghĩa Trưng Vương thứ hai vào cuối thời Đông Hán là khởi nghĩa Khăn Vàng của anh em Trương Giác, Trương Lương, Trương Bào. Đây mới là cuộc khởi nghĩa nổ ra trên một diện rộng ở Lĩnh Nam. Khởi nghĩa đang thắng lợi thì thủ lĩnh Trương Giác ốm mất, đúng như Thiên Nam ngữ lục chép:
Chị em nhiễm bệnh yên hà
Nửa đêm bỏ đất ruổi ra lên trời.

Người lãnh đạo quân khởi nghĩa tiếp theo là Đô Dương Triệu Quốc Đạt cùng em là Triệu Thị Trinh đã “đầu voi phất ngọn cờ vàng”, chặn được quân Hán ở Cửu Chân, buộc Mã Viện phải cắm mốc phân giới ở Man Thành (Quảng Tây)…

Cua Dai Nha

Cửa sông Đáy bên đền Độc Bộ

Câu đối ở đền Độc Bộ:
Độc mộc phá Lương binh, Nam quốc đồng bào giai xích tử
Đồi ba chướng hải khẩu, phù sa thác thực hữu thanh xuân.

Dịch:
Độc mộc phá quân Lương, nòi giống nước Nam cùng máu đỏ
Sóng dồn che cửa bể, cỏ hoa bồi đắp hóa xuân xanh.

Câu chuyện bên cửa sông Đáy của hơn 2 ngàn năm trước nay đã bị sóng biển dồn che, phù sa bồi lấp. Anh hùng đã “thác hóa xuân xanh”, Triệu Vệ Dương Vương được gọi đổi thành Dương Thi Sách. Làng Nại Xá nơi có miếu thờ Thi Sách nay cũng đã lở trôi theo dòng nước sông Hồng. Trưng Trắc chọn Hát Môn làm nơi phát lời thề khởi nghĩa đền nợ nước, trả thù nhà cũng là có lý do. Hát Môn là nơi bắt đầu của sông Hát hay sông Đáy. Nơi kết thúc của sông Hát chính là cửa Đại Nha. Ả Lã Trưng Vương khởi nghĩa và lập miếu thờ chồng ở đầu sông Hát là để tưởng nhớ tới vua Triệu đã tử tiết ở cuối sông tại cửa Đại Nha.