Giữa huyện Phù Hoa nổi một gò

Truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa là câu chuyện được lưu truyền rộng rãi trong dân gian người Việt. Tống Trân không chỉ là nhân vật trong truyện mà được cho là có thật, quê ở xã An Cầu, huyện Phù Cừ, Hưng Yên. Nay ở xã An Cầu còn đền thờ Tống trạng nguyên, bên dòng sông Luộc xanh mát.

Bantho-2

Điện thờ Lưỡng quốc trạng nguyên trong đền Tống Trân ở An Cầu – Phù Cừ – Hưng Yên

Nếu theo những gì lưu truyền trong truyện và thần tích địa phương thì vị Trạng Gầu Tống Trân giành mọi “kỷ lục” trong nền khoa bảng nước nhà:
–    Trạng nguyên trẻ nhất: Tống Trân đỗ trạng nguyên từ lúc 8 tuổi, còn trẻ hơn cả Trạng Hiền thời Trần (làm Trạng lúc 13 tuổi).
–    Trạng nguyên đầu tiên: theo thần tích thì Tống Trân đỗ trạng nguyên dưới thời Tiền Lý Nam Đế, cách nay gần 1500 năm, còn trước cả ông Khương Công Phụ đỗ tiến sĩ dưới thời Đường.
–    Tống Trân được cử đi sứ phương Bắc và nhờ tài năng đã trở thành lưỡng quốc trạng nguyên như Mạc Đĩnh Chi vậy.

Tuy nhiên thật khó xác định thực sự Tống Trân là trạng nguyên của thời gian nào. Thời Lý Nam Đế thì đến bên Trung Quốc (nhà Lương) cũng còn chưa đặt ra chế độ khoa cử, làm sao mà có Tống Trạng Nguyên thời này ở Việt Nam được? Nhận thấy điều này nên một số sách như Nam sử tập biên có sửa là Tống Trân đỗ trạng nguyên thời Trần Thái Tông và đi sứ nhà Nguyên. Nhưng như vậy cũng không ổn vì trong số trạng nguyên được lưu danh bảng vàng từ thời Lý tới nay thì không hề thấy có tên Tống Trân.

Đôi câu đối được chép từ tư liệu của Bảo tàng Hưng Yên, tương truyền là ở đền Tống Trân:
Văn vũ bẩm toàn tài, kháng Nguỵ sánh Ngô, cái thế huân danh minh Việt sử
Bắc Nam giai cử thủ, phong tích tước huy, thiên niên thang mộc trang lăng từ.

Xin dịch lại nghĩa là:
Văn võ vốn toàn tài, chống Ngụy sánh Ngô, danh sáng trùm đời rạng sử Việt
Bắc Nam đều đứng đầu, phong tích ban tước, nghìn năm đất quê vững lăng đền.

Câu trên có chỗ thật khó hiểu: “kháng Ngụy sánh Ngô“. Tống trạng nguyên sao lại đánh Ngụy dẹp Ngô là thế nào? Thần tích ở Hưng Yên về Tống Trân cũng chép:
Tống Trân là con của ông Tống Triệu và bà Đào Thị Quang, sinh năm Bính Ngọ, giờ Dần, tháng 11, đời vua Lý Nam Đế. Tống Trân lớn lên theo học ông Lý Đường, 7 tuổi thi khoa Hiền Lương phương chính, đỗ Trạng Nguyên, sang sứ Trung Quốc nhận chức ở châu Yên Kinh, có tham gia đánh Đông Ngô Bắc Ngụy trong 10 năm, đem lại thái bình.

Đông Ngô, Bắc Ngụy là hai nước của thời Tam quốc, từ đầu công nguyên. Tống Trân là trạng nguyên nhà Tiền Lý. Vậy hóa ra Tiền Lý là nhà Tây Thục, nước đã “kháng Ngụy” và “sánh Ngô” của thời kỳ này? Thời Tam quốc đâu đã có chế độ khoa cử mà có trạng nguyên?

Theo thần tích khi đi sứ Tống Trân bị vua phương Bắc là Linh Long Kiểu Huy giam vào chùa 100 ngày, song nhờ biết bẻ tượng bằng chè lam ăn nên mới sống sót. Sau đó Tống Trân còn phải lưu sứ 10 năm mới hết hạn. Chuyện này rất giống việc Tô Vũ thời Hán Vũ Đế đi sứ ở Hung Nô, uống tuyết trong chùa, chăn dê ngoài thảo nguyên hơn chục năm. Mô típ của chuyện Tô Vũ chăn dê có thể đã lấy để sáng tác trong truyện Tống Trân chứ khó lòng mà Tống Trân lại là người từ thời Hán.

Ở vùng Lạng Giang tại đình Thanh Lương còn tìm thấy cây cột xà gỗ đề: “Phật Hoa phủ Tống Trân Bắc quốc sứ thần cung tiến nhất chu”.
Nghĩa là: “Tống Trân người phủ Phật Hoa là sứ thần Bắc quốc cung tiến một cây”.
Phật Hoa tức là hoa sen, tương đương với Phù Dung/Phù Cừ/Phù Hoa, là tên quê của Tống Trân. “Phật Hoa phủ Tống Trân” rõ ràng là chỉ Tống trạng nguyên ở huyện Phù Hoa.

Cotda

Cột gạch cổ trước đền Tống Trân

Tới đây thì thật hết biết Lưỡng quốc Trạng Gầu là người sống vào đời nào. Theo những thông tin đã nêu thì Tống Trân có thể là đời Tây Hán, hay Tam quốc, thời Lý Nam Đế, thậm chí thời Lê sau này…

Bài thơ ở đền Tống Trân:
Giữa huyện Phù Hoa nổi một gò
An Đô sớm nảy bật cờ Nho
Trạng nguyên tám tuổi thơm trời Việt
Sứ sự mười đông khét đất Ngô.

Để giải đáp câu hỏi về thời gian sống của nhân vật lịch sử Tống Trân xin đưa ra giả thuyết sau:
–    Khoa cử Trung Hoa (và Việt Nam) bắt đầu từ thời Tùy Dạng Đế (605 – 618). Như vậy Tống Trân không thể có trước thời gian này.
–    Tống Trân cũng không thể là trạng nguyên sau thời Lý của Việt Nam vì nếu không thì ông đã có tên ở các bia Văn Miếu nước ta. Khoa cử thời Lý bắt đầu năm 1075 dưới thời Lý Nhân Tông với trạng nguyên đầu tiên là Lê Văn Thịnh.
Thời gian sống của Tống Trân như vậy có thể đoán định là khoảng giữa thời nhà Tùy tới trước thời Lý.

Trong thần tích Tống Trân theo học “thầy Lý Đường”. Điều này có thể hiểu hàm ý là Tống Trân đã theo học chế độ khoa cử của nhà Đường Trung Hoa (vua Đường họ Lý). Trong truyền thuyết về Tống Trân có thể thấy thời gian này tồn tại rất nhiều “quốc gia”: nước Việt nơi Tống Trân đỗ trạng nguyên, “Bắc quốc” nơi Tống Trân đi sứ, châu Yên Kinh nơi Tống Trân trị nhậm ở Bắc quốc, Bắc Ngụy và Đông Ngô, nơi Tống Trân đánh dẹp, an dân. Thời kỳ nhà Đường và có nhiều quốc gia như trên thì chỉ có thể là thời Mạt Đường – Ngũ đại thập quốc. Thời kỳ này đúng là có đủ cả các nước Việt, Ngô, Yên Kinh, “Bắc quốc”, có thể có cả Ngụy nữa. Thời Ngũ đại thập quốc cũng khớp với suy đoán trên về thời gian thi đỗ của Tống Trân ở khoảng giữa nhà Tùy và nhà Lý Việt Nam.

Câu đối ở cửa đền Tống Trân:
Nhất gia hiếu nghĩa sinh Tiền Lý
Lưỡng quốc huân danh mộng Hậu Ngô.

Dịch:
Thời Tiền Lý sinh hiếu nghĩa một nhà
Thủa Hậu Ngô mộng sáng danh hai nước.

Một khi xác định Tống Trân sống vào thời Ngũ đại thập quốc thì có thể hiểu nhà “Tiền Lý” ở đây là… nhà Lý của anh em Lưu Cung, Lưu Ẩn. Nước Đại Việt do Lưu Cung thành lập, sau khi dẹp Khúc Thừa Mỹ ở đất Tĩnh Hải năm 930 tồn tại đến năm 971. Trong vòng hơn 40 năm này nước Đại Việt – Đại Hưng này hoàn toàn đã có thể đã tổ chức thi tuyển theo chế độ khoa cử của nhà Đường trước đó. Người đỗ đầu khoa thi này có thể chính là Tống Trân huyện Phù Cừ.

Như vậy, Tống Trân thi đỗ trạng nguyên nước Đại Việt (Đại Hưng) rồi được cử đi sứ “Bắc quốc”. Đối chiếu với lịch đại Trung Hoa thì “Bắc quốc” đây có thể là nhà Hậu Tấn (936-947) hay Hậu Hán (947-951). Những “đại quốc” này đều có phần “Yên Kinh”, nơi Tống Trân được cử đi trấn thủ, chống lại “Bắc Ngụy”.

Trong đền Tống Trân có câu:
Đẩu Nam Bắc nhất huân Lý thế trạng nguyên lưu tín sử
Thần anh linh vạn cổ Nông giang trụ bút chuẩn ba đào
.

Tạm dịch:

Sao sáng Bắc Nam có một, trạng nguyên thời Lý lưu sử sách
Thần xưa anh linh vạn cổ, cây bút sông Nông vẽ sóng cao.

Đặc biệt chữ “thời Lý” (Lý thế) ở đây dùng chữ Lý 理 trong từ “đạo lý”, “lý học”, chứ không phải chữ Lý mộc tử 李 như họ Lý sau này. “Tiền Lý” hay “Lý thế” ở đây rõ ràng chỉ một triều Lý khác chứ không phải triều đại họ Lý như thông thường.

Việc người Tày cũng có truyện thơ Nôm Tống Tân – Cúc Hoa và vết tích về Tống Trân ở vùng Lạng Giang như ở đình Thanh Lương cho thấy chuyện Tống Trân có ảnh hưởng không chỉ ở vùng đồng bằng Bắc bộ, mà còn lan sang các vùng núi Đông Bắc và trong các tộc người Tày Nùng. Điều này phần nào ủng hộ giả thuyết rằng Tống Trân là trạng nguyên của nước Đại Việt – Đại Hưng, gồm cả vùng Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay.

Câu đối đền Tống Trân:
Bát tuế trạch Nho khoa, sử hữu tài danh long Bách Việt
Thập niên trì sứ tiết, khước giao vạn sự bá thiên thu.

Dịch:
Tám tuổi chọn khoa Nho, sử có tài danh lừng Bách Việt
Mười năm cầm cờ sứ, xưa còn vạn sự dõi nghìn thu.

Đúng là chuyện Tống trạng nguyên đã “lừng Bách Việt” vì không gian của câu chuyện rất rộng, trên hầu khắp các nước thuộc Bách Việt xưa từ Phù Cừ – An Đô, sang tới tận Yên Kinh (Bắc Kinh?).

Một câu khác:
Khoa hoạn ức niên tiền, Phù địa thượng truyền giang mạn bút
Lăng từ thiên tải lữu, An Đô trường ngưỡng quốc châu phê.

Dịch:
Khoa cử nhớ năm xưa, đất Phù còn truyền cây bút thần tỏa khắp trên sông
Lăng miếu lưu nghìn thủa, An Đô mãi ngưỡng việc sắc phong ngọc báu nước nhà.

Giang mạn bút” ở đây nói đến việc Tống Trân khi về làng, gặp chuyện bực mình (do dân làng đón tiếp không đầy đủ) nên đã ném bút xuống sông, nguyền rằng là làng này sẽ không còn ai đỗ đạt nữa. Tương truyền đến ngày lễ Tống Trân trên sông Luộc trước cửa đền lại có một dải đất nổi lên hình như cây bút.

Thời gian của vị lưỡng quốc trạng nguyên Tống Trân khó được xác định bởi vì đây là giai đoạn lịch sử khá lắt léo của sử Việt với sự chuyển đổi từ nhà Đường sang Đại Việt – Đại Hưng rồi nhà Lý sau này. Chuyện Tống trạng nguyên đã khẳng định thêm giả thuyết rằng nước Đại Việt thời Ngũ đại thập quốc là do người họ Lý (“Tiền Lý”)  là Lý Cung hay Lý Nghiễm lập nên. Chẳng có nước Nam Hán nào trong thời gian này cả, mà chỉ có nước Đại Hưng của người Việt chính cống. Trạng nguyên của nước Đại Hưng cũng là trạng nguyên Việt. Con cháu người Việt mà không nhìn nhận ra lịch sử giai đoạn này thì khéo phải nhớ đến cây bút Nho của Tống trạng nguyên vứt dưới sông Luộc, hàng năm lại nổi lên nhắc nhở cần tôn kính tiền nhân và lịch sử.

Nôm Tày kể chuyện quan trạng Tống
Đi sứ mười năm nhớ Cúc Hoa.

Vạn Xuân Lý Nam Đế

Linhquocsutu

“Linh quốc sử từ” tại Giang Xá

Làng Giang là một làng cổ nằm cạnh thị trấn Trôi của huyện Hoài Đức, Hà Nội. Làng này có điều đáng chú ý là nơi có ngôi đền thờ Lý Nam Đế gọi là Quán Giang. Theo thần tích của đền do Nguyễn Bính soạn thì Giang Xá là nơi Lý Nam Đế lớn lên (tại chùa Linh Bảo) và tế trời đất khi khởi nghĩa. Khởi nghĩa thành công, Lý Nam Đế lên ngôi Hoàng đế, lập kỷ nguyên Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân. Giang Xá cùng một số nơi khác được phong là Thang mộc ấp. Khi Lý Nam Đế rút về động Khuất Liêu, dân Giang Xá đã lập sinh từ để cúng tế về sau. Từ Lý Phật Tử lên tập vị bao năm đều có xuân thu quốc tế (do các quan trên về tế xuân). Sau này, tới thời Lê Thần Tông (1622) dân làng mới xin và được cho qui tế.

Đôi câu đối ghi lại được từ Quán Giangi có phần vế sau chụp không rõ với những chữ Nho cổ khá hiểm hóc. Sau khi thảo luận (cảm ơn các bạn fanzung và minh2mum tại diễn đàn Viện Việt học) đã phiên âm như sau:
洪惟南越肇基貉雄吳蜀以前赫濯殾靈天德紀元初一綂
歷考帝王世祀丁趙陳黎而後焜煌彞典萬春建國閲千秋
Hồng duy Nam Việt triệu cơ, Lạc Hùng Ngô Thục dĩ tiền, hách trạc tuấn linh, Thiên Đức kỷ nguyên sơ nhất thống
Lịch khảo đế vương thế tự, Đinh Triệu Trần Lê nhi hậu, hỗn hoàng di điển, Vạn Xuân kiến quốc duyệt thiên thu.

Bên trên vế đối thứ nhất có hai chữ “Thành Thái” cho biết thời gian sáng tác câu đối này là dưới thời Nguyễn (vua Thành Thái).

Câu đối này có những thông tin thật khó hiểu:
– Vế đối đầu nói tới “Nam Việt” mở nền móng nhưng cùng với Lạc Hùng lại còn kể cả Ngô Thục. Ngô, Thục nào của nước Nam Việt đây?
– Vế thứ hai sau khi đã tra cứu “lịch đế vương thế tự” một cách đầy đủ, thay vì kể “Triệu, Đinh, Lý, Trần” như trong Bình Ngô đại cáo, thì ở đây lại nêu một trật tự khác: “Đinh, Triệu, Trần, Lê”. Nhà Đinh nào trước nhà Triệu đây?
– Cuối cùng, Lý Nam Đế theo câu đối này là triều đại mà trước đó (“dĩ tiền”) là Ngô Thục, còn sau đó (“nhi hậu”) là Đinh Triệu. Theo kiến thức lịch sử thông thường Lý Nam Đế chống giặc Lương vào thế kỷ thứ 6 thì không thể nào sắp xếp cho ổn thỏa thứ tự trong câu đối trên.

Để hiểu câu đối này cần đọc từng chữ, từ đầu:
– “Hồng duy”, dễ bị hiểu là “riêng xét”. Nhưng so vào câu đối, vì đối lại với chữ “lịch khảo” ở vế dưới nên chữ “duy” ở đây phải là động từ, trong từ “tư duy”, chứ không phải là “duy nhất”. “Hồng duy” nghĩa là phải tư duy cho rộng. Một câu mở đầu rất hay. Muốn hiểu lịch sử các đế vương Nam Việt xưa trước hết phải biết nghĩ cho rộng, cho sâu.

– “Sơ nhất thống”, có người đọc thành “thống nhất sơ sơ”, thật buồn cười. Nghĩa ở đây phải là kỷ nguyên Thiên Đức của Lý Nam Đế đã thống nhất đất nước Nam Việt thủa sơ khai ban đầu. Vì là thời quốc sơ, thông tin chưa thực rõ ràng nên những triều đại này mới “hóa thần hóa thánh” (“tuấn linh”). Cụm từ “sơ nhất thống” cho thấy rõ khởi nghĩa của Lý Bôn đã diễn ra vào thời điểm rất sớm và đã lập được kỳ tích, thống nhất được giang sơn.

Với cách “hồng duy” nghĩ rộng như vậy thì có thể lý giải được câu đối trên:
Nhà Thục thời lập quốc của Nam Việt là Thục An Dương Vương. Điều này còn ghi trong chính sử phần “ngoại kỷ” = quốc sơ.
Nhà Ngô: Ca dao Việt có câu:

Vua Ngô ba sáu tấn vàng
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.

Vua Ngô hay vua phương Bắc mà giàu có mà lại chết “bất đắc kỳ tử” thì có thể có mấy vị:

– Hạ Kiệt: ông này từ thời đồ đá, chắc là sẽ không có nhiều vàng như vậy.
– Trụ Vương: vị vua nổi tiếng xa xỉ, chết trong ngọn lửa thiêu chính cung điện của mình.
– Tần Thủy Hoàng: đại đế thống nhất Trung Hoa, chết dọc đường đi “công tác”, bị bỏ chung với cá muối mà mang về.
– Tùy Dạng Đế: cũng cực kỳ xa xỉ, nhưng cái chết tương đối nhẹ nhàng.
Trong số trên có Ân Trụ Vương và Tần Thủy Hoàng là có thể hợp với nhà Ngô trong câu đối. Nhiều khả năng nhất là nhà Tần đã được sử Việt gọi là Ngô, là thời kỳ trước khi Thục An Dương Vương bị diệt.

Một dẫn chứng khác từ Thiên Nam ngữ lục, khi nói về âm mưu của Triệu Đà:

Bắc Nam hai nước thư giao
Sức nào chống Thục, sức nào chống Ngô.

Khi Triệu Đà còn chưa tiếp vị của Nhâm Hiêu thì rõ ràng “Ngô” ở đây là nhà Tần, “Thục” là Âu Lạc của An Dương Vương.

Như vậy nghĩa của vế đầu câu đối đã sáng tỏ: thời mở nước của Nam Việt trước kia từ Lạc Hùng tới Tần Thục, tiếp là kỷ nguyên Thiên Đức đã thống nhất quốc sơ. Với sử quan “hồng duy” rộng lớn, tác giả câu đối ở đây đã coi nhà Tần cũng là một triều đại lập quốc của người Việt.

Nhà Đinh: trước nhà Triệu thì chỉ có thể là … Trưng Vương, chứ không phải Đinh Bộ Lĩnh. Hoàng Đinh là tên nước của Hai Bà Trưng. Xin xem thêm các câu liên quan.
– Xác định như vậy thì nhà Triệu ở đây có thể là của Bà Triệu hoặc Triệu Quang Phục.

Thông tin của vế đối thứ hai rõ ràng hơn, có thể “khảo cứu lịch các triều đại” và vẫn còn được chép trong sử sách (“di điển”).

DenGiangXa

Một khoảnh khắc hiếm khi đền Giang Xá mở cửa

Chỗ khó giải nhất của câu đối là Lý Nam Đế ở vào thời điểm: trước Trưng nữ vương, sau Tần Thục. Vậy khởi nghĩa Lý Nam Đế không thể gì khác chính là khởi nghĩa chống Tần của …Bái công Lưu Bang, hồi “quốc sơ” và đã thống nhất đất Việt, mở nên triều Hiếu huy hoàng, rộng lớn. Đúng là “Thiên Đức” và “Vạn Xuân”.

Dịch câu đối:
Rộng suy Nam Việt mở nền, Lạc Hùng Ngô Thục thủa đầu, loáng bóng trúc thần, Thiên Đức kỷ nguyên ban sơ thống nhất.
Xét lịch Đế Vương thứ tự, Đinh Triệu Trần Lê sau đó, chói vàng sách miếu, Vạn Xuân dựng nước sừng sững ngàn thu.

TronghoiVanXuan

Trống hội Vạn Xuân ở Giang Xá

Chữ “hồng duy” vẫn còn. Lời nhắc nhở của người xưa, muốn biết sử cũ không thể hạn chế tư duy, tầm nhìn của mình. Mở mắt mới thấy sử Việt bao la. Cái ước muốn đất nước “vạn xuân” của Lý Bôn – Lưu Bang có được vững vàng hay không cũng từ nhận thức “hồng duy” này.

Phần hương, Quế Hải

Câu đối ở trước cửa đình Gia Phương, quê Đinh Bộ Lĩnh ở Gia Viễn – Ninh Bình.
Phấn hương trở đậu thiên thu tại
Quế Hải dư đồ nhất thống sơ.

Dịch:
Làng Phấn nay nghìn thu lễ cúng
Quế Hải xưa qui thống địa đồ.

Phấn hương” với nghĩa làng Phấn, là địa danh khá thú vị. Tương truyền Đinh Bộ Lĩnh sinh tại thôn Văn Bòng, thuộc sách Bông, nay là Gia Phương – Gia Viễn – Ninh Bình. Rất có thể Phấn là từ ký âm hay cách đọc cổ của tên làng Bông.

Một cách giải thích khác là Phấn có thể là ghi sai của từ Phần. “Phần hương” được hiểu là từ tích quê của Hán Cao Tổ có cây Phần, cây Du mọc ở đầu làng nên Phần hương là quê hương… Giải thích kiểu “word by word” này mà vẫn khối người tin. Hiếu Cao Tổ Lưu Bang người “huyện Bái đất Phong”, chứ làm gì có cây phần cây du nào.

Đại Nam quốc sử diễn ca viết về Lý Bôn như sau:

Cỏ cây chan chứa bụi trần
Thái Bình mới có Lý Phần hưng vương.

Lý Phần là tên khác của Lý Bôn. Dã sử Hoa đã lấy tên “Phần” này cho rằng là chỉ quê quán của Lưu Bang. Ngược lại dã sử Việt thì lấy tên Hưng vương (Hơn vương hay Hán vương) của Lưu Bang lắp vào thành quê Long Hưng – Thái Bình của Lý Bôn. Đây là vết tích cho thấy Lưu Bang Hán Cao tổ và Lý Phần Hưng vương của Việt chỉ là một.

Thiên Nam ngữ lục có câu:

Cho nên con chẳng có cha
Lang bồn lẩn lút người ta dày vò.

Chữ “lang bồn” tác giả khảo cứu Thiên Nam ngữ lục đành chịu, không biết là thành ngữ gì. Chỉ cần thay “bồn” bằng “bang” thì sẽ rõ. “Lang bang”, hay “lang ba lang bang” nghĩa là đi khắp nơi. Nói cách khác “bồn” là cách đọc cổ của “bang”.

Có thể thấy rõ liên hệ sau:
Bang (trong Lưu Bang) = bồn (như trên) = phần (trong Phần Du, quê của Lưu Bang)
Bôn (trong Lý Bôn)= Phần (tên Lý Phần) = Bông (sách Bông hay thôn Bông, quê Đinh Bộ Lĩnh) = Phấn (trong câu đối Phấn hương).

DinhGiaPhuong

Đền vua Đinh ở thôn Văn Bòng, Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình

Trong câu đối trên vế sau có nói Đinh Bộ Lĩnh đã thống nhất vùng Quế Hải. Cũng như trong lời tựa của Lĩnh Nam chích quái có mở đầu: “Quế Hải tuy ở ngoài cõi Lĩnh ngoại…“. Như vậy Quế Hải là chỉ nước ta thời trung đại.

Quế Hải thường được giải nghĩa là: Quế = Quế Lâm hay Quảng Tây, Hải = Nam Hải hay Quảng Đông. Tuy nhiên như vậy thì Quế Hải thời Đinh đâu có vươn tới Quảng Đông. Làm sao Đinh Bộ Lĩnh có thể nhất thống cả Quế Lâm lẫn Nam Hải được?

Còn cách giải thích “Nam Hải có cây quế, nên gọi là Quế Hải” thì không thể tin được. Giữa biển làm gì có cây quế nào? Quế Hải cũng không tương đương với Nam Hải.

Chính xác hơn:
– Quế = Quí, một trong thập can chỉ hướng Tây (tương tự như trong Quế Lâm hay Quí Châu).
– Hải là … Hải.
Quế Hải là từ tương đương với Tĩnh Hải, chỉ vùng đất phía Tây của biển Đông, tương ứng chính xác với tước phong Tĩnh Hải tiết độ sứ của nhà Đinh Lê. Từ đời Đinh Lê về sau người ta không dùng từ Tĩnh Hải nữa mà thay vào đó bằng Quế Hải như trong Lĩnh Nam chích quái. Phải chăng bởi vì quốc gia đã độc lập, không lấy từ “Tĩnh Hải” của thời tiết độ sứ nội thuộc?

Thiên Nam ngữ lục trong đoạn về Cao Biền còn có một số địa danh nữa:

Sơ vâng chiếu chỉ bước sang
Đến miền Gia Định Quế Dương dần dà.

Gia Định được chú thích là Gia Bình – Bắc Ninh ngày nay. Nhưng như vậy không ổn vì Gia Định là nơi Cao Biền đánh dẹp quân Hậu Lý – Nam Chiếu:

Ngày sau Biền mới ra quân
Gia Định yên trần quét sạch như tro.

Gia Định ở đây phải là vùng đất có phạm vi lớn hơn. Rất có thể:
–    Định = Đinh, chỉ phía Tây.
–    Gia với nghĩa là phủ, trị sở.
Gia Định là trị sở phía Tây. Có thể Gia Định tương đương với “Đinh Bộ” của Đinh Bộ Lĩnh.

Còn Quế Dương rõ ràng là từ tương đương với Quế Hải vì Dương = Hải (đại dương nghĩa là biển).

Một loạt những tên địa danh Gia Định, Quế Dương, Quế Hải, Giang Tây đều là những từ chỉ vùng Bắc và Bắc Trung Việt ngày nay, là Tĩnh Hải sứ từ thời Đường.

Hưng quốc

Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý nói về sự xuất hiện của Lý Công Uẩn: “Trước đây ở viện Cảm Tuyền chùa Ứng Thiên Tâm châu Cổ Pháp, có con chó đẻ con sắc trắng có đốm đen thành hai chữ “Thiên tử”. Kẻ thức giả nói đó là người sinh vào năm Tuất sẽ là Thiên tử. Đến đây vua sinh năm Giáp Tuất làm Thiên tử, quả nhiên ứng nghiệm”.
Ở Hà Nội còn từng có cả đền Cẩu Nhi thờ chú cho con này.

Sách Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) ngoài chuyện chú chó con có chữ Thiên tử trên còn nói đến truyền thuyết về cây gạo đầu làng Cổ Pháp bị sét đánh nứt đôi, bên trong có chữ đề:
Góc chùa cây cả trực trời
Lại có chữ bày Hưng Quốc chi niên.

Rồi Lý Khánh Văn nhân đó đoán:

Điềm này nghiệm đến sự trời
Nào ai tuổi Tuất ấy người làm vua
Lên đền một mối tay thu
Chữ Hưng Quốc ấy ắt là thiên nguyên.

Rồi khi Lý Công Uẩn lên ngôi:

Thùy y củng thủ cửu trùng
Cải nguyên Hưng Quốc đề phong trong ngoài
Hoa Lư hiểm địa hẹp hòi
Xa giá bèn dời về ở Thăng Long.

Như vậy sách Thiên Nam ngữ lục cho ta một thông tin rõ ràng: Hưng Quốc từng là tên nước ta thời kỳ đầu triều Lý, gắn liền với Lý Công Uẩn và việc dời đô ra Thăng Long.

Đồng tiền Đại Hưng bình bảo

Bài này muốn bàn về cách đọc một đồng tiền cổ rất nổi tiếng ở Việt Nam vì được cho là đồng tiền đầu tiên của nước ta sau khi dành được độc lập vào thời Đinh.

Vấn đề ở chỗ cách đọc của đồng tiền này.
Mặc dù theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, niên hiệu của Đinh Tiên Hoàng có chữ Hán viết là “Thái Bình”, nhưng Bernard J. Perma (Catalogue of Annam coins  968- 1955, Vietnam, 1963), thật có lý khi đọc hiệu của đồng tiền là “Đại Bình Hưng Bảo”. Bởi sự thật, các đồng tiền do vua Đinh đúc, cả hiện vật lẫn ảnh chụp, chữ Hán viết là “Đại Bình” chứ không phải là “Thái Bình”. Trong sách Tiền Cổ Việt Nam, GS Đỗ Văn Ninh đưa ra hai cách giải thích hiện tượng trên như sau:

-Đồng tiền bị gỉ làm mất nết chấm dưới chữ “thái”. Cách giải thích này khó được chấp nhận, vì chưa thấy đồng tiền nào của vua Đinh viết chữ Hán là “thái bình”; nếu có, chắc nhầm lẫn với một loại tiền khác..


-Cách giải thích thứ hai, dễ hiểu và có sức thuyết phục hơn là: chữ “đại” còn có một âm đọc là “thái”
.”

Cả hai cách giải thích đều không ổn. Ngay cùng với thời đó ở Hoa Lư và Hoàng thành Thăng Long có loại gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên”, cho thấy chữ đầu tiên trong tên đồng tiền  đọc là “Đại” chứ không phải “Thái“. Tên của đồng tiền này đã đánh đố rất nhiều nhà nghiên cứu tới nay chưa có lời giải.

Một số nhà nghiên cứu khác đưa ra ý kiến đọc hiệu đồng tiền là “Đại Hưng Bình Bảo“. Tuy rằng thời Đông Tấn – Nguyên Đế (Tư Mã Duệ) có niên hiệu Đại Hưng (318-321), song thời ấy ở Trung Quốc đang còn sử dụng hệ thống tiền Ngũ Thù, chưa dùng chữ “bảo” để chỉ khái niệm tiền tệ, do đó tiền này không thể do triều Tấn đúc“.

Những người chơi tiền cổ đều biết tên tiền cổ có 2 cách đọc chéo và đọc xuôi. Nếu đọc xuôi theo chiều kim đồng hồ thì tên đồng tiên trên phải là “Đại Hưng bình bảo”. Vấn đề là trong lịch sử không biết chữ “Đại Hưng” này ở vào giai đoạn sau nhà Đường (sau đồng tiền đầu tiên dùng từ “bảo” là “Khai Nguyên thông bảo”) thuộc về ai?

…ngày nay tiền “Đại Bình Hưng Bảo” – theo ông XiongBaoKang (Tổng Giám đốc Viện nghiên cứu tiền tệ và Bảo tàng Tiền tệ Quảng Tây – Trung Quốc) – được tìm thấy ở Hoa Nam (Trung Quốc) là đất của Bách Việt rất nhiều…

Thật khó hiểu nếu đồng tiền trên là của nhà Đinh vì nhà Đinh rất ngắn ngủi chỉ có 12 năm, vào lúc phía Bắc nhà Tống đã thống nhất Hoa Nam. Làm thế nào mà đồng tiền của nhà Đinh lại được tìm thấy rộng rãi ở Hoa Nam được?

Xin đưa ra một cách nhìn nhận khác về đồng tiền trên. Tên đồng tiền này phải đọc là “Đại Hưng bình bảo” chứ không phải “Thái Bình hưng bảo“. Đồng tiền này không phải của nhà Đinh mà là của Lưu Cung – Lưu Ẩn ở Lưỡng Quảng (Lưỡng Việt). Tên “Đại Hưng” là một bằng cớ rõ ràng về tên nước của Lưu Cung thời đó. Không phải Đại Hán mà là Đại Hưng, như tên Hưng Vương phủ của Quảng Châu. Việc đồng tiền này được tìm thấy rộng rãi ở Hoa Nam xác nhận điều này vì đây là vùng ảnh hưởng của nước Đại Việt/Đại Hưng thời đó.

Việc lấy tên nước đặt tên cho đồng tiền tuy ít gặp nhưng không phải không có. Người ta còn tìm thấy đồng tiền “Đại Việt thông bảo“. Đồng tiền này có cách viết chữ tương đồng với thời của đồng “Đại Hưng bình bảo“, nhưng lại bị nghị ngờ là tiền giả cho dù được phát hiện trong di tích Hoa Lư. Lý do được dẫn là thời đó chưa có quốc hiệu Đại Việt ở nước ta. Nhưng nếu nhìn rộng ra thì thấy ngay Đại Việt này là quốc hiệu của Lưu Cung. Gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” ở Hoa Lư cũng khẳng định danh xưng Đại Việt đã có từ trước. Không như đồng “Đại Hưng bình bảo“, đồng “Đại Việt thông bảo” khá hiếm thấy. Điều này cũng dễ hiểu vì Lưu Cung chỉ sau 1 năm lập quốc đã đổi quốc hiệu từ Đại Việt sang Đại Hưng.

Chữ “bình” trong “bình bảo” có thể hiểu là bình dân, bình thường, “bình bảo” có nghĩa tương tự như “thông bảo” vậy. Trong bộ tiền cổ Việt Nam cũng có một vài đồng tiền mang tên “bình bảo” như đồng “Thiệu Phong bình bảo” đời Trần.

Còn vấn đề chữ “Đinh” ở mặt sau đồng tiền nghĩa là gì thì cần suy xét thêm. “Đinh” ở đây chưa chắc là họ của vua, mà có thể là một số đếm vì Đinh là số thuộc thập can. Có thể là chỉ năm đúc tiền, hoặc một loại số thứ tự nào đó. Nhiều đồng tiền cổ chữ ở mặt sau cũng không dễ hiểu, ví dụ có đồng tiền “Thuận Thiên đại bảo” được cho là đồng tiền của Lý Thái Tổ, với mặt sau có chữ “Nguyệt“. Tới nay chưa ai giải thích được chữ Nguyệt này nghĩa là gì.

Đồng tiền được cho là đồng tiền đầu tiên của Việt Nam lại là một bằng chứng về nước Đại Hưng của Lưu Cung. Đã là Đại Hưng thì không hề có nước Đại Hán ở Lưỡng Quảng và tức là trận thủy chiến với quân Nam Hán của Ngô Quyền không thể xảy ra trên sông Bạch Đằng…

Chữ Nguyệt ở mặt sau đồng Thuận Thiên đại bảo có thể là từ chỉ hướng Tây. Mặt trời là biểu tượng phương Đông. Mặt trăng là biểu tượng của phương Tây.
Như vậy rất có thể tương tự như chữ Đinh trên đồng Đại Hưng bình bảo, chữ Nguyệt cho biết đồng Thuận Thiên đại bảo là tiền đúc của đất Tĩnh Hải thời nhà Đinh – Lý.