Tiên và Phật

Đạo Phật du nhập vào nước Nam từ bao giờ? Đạo Phật đã có mặt ở Việt Nam từ thời Hùng Vương là chắc chắn, nhưng Hùng Vương là thời kỳ kéo dài hơn 2000 năm trước Công nguyên. Vậy đạo Phật đến Việt Nam cụ thể vào lúc nào?
Trong tác phẩm Lịch sử Phật giáo Việt Nam – Từ khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế thiền sư Lê Mạnh Thát nhận định: “Phật giáo đã đặt nền móng tại Việt Nam từ thời Hùng Vương, Sư dạy đạo đầu tiên là Sư Phật Quang, Phật tử Việt Nam đầu tiên là Chử Đồng Tử”.
Cùng quan điểm này các tác giả Trịnh Minh Hiên và Đồng Hồng Hoàn trong cuốn Thành NêLê – Đồ Sơn thời Asoka đã nêu ra một số dẫn chứng xung quanh Chử Đồng Tử và sư Bần ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Đó là ngôi chùa Hang (Cốc Tự) ở Đồ Sơn với truyền tích: “Thời xưa vào cuối đời vua Hùng ở đây có một vị sư tên là sư Bần (Bần Tăng), người Ấn Độ, lập bàn thờ Phật và tu ở trong chùa Hang”. Gần chùa Hang (thôn Cốc Liễu, xã Minh Tân, Kiến Thụy) có ngôi miếu Bà Đa, thờ Chử Đồng Tử với truyền thuyết Chử Đồng Tử đi qua đây đã dùng phép cải tử hoàn sinh cứu sống con bà Đa. Từ đó các tác giả cho rằng Chử Đồng Tử đã gặp sư Phật Quang (hay sư Bần) ở Quỳnh Viên là khu vực Đồ Sơn, Hải Phòng, rồi sau đó trên đường đi đã cứu sống con bà Đa ở Kiến Thụy…
Muốn dựa vào truyền thuyết về Chử Đồng Tử để xác định thời điểm Phật Giáo có mặt ở Việt Nam thì trước hết cần định vị và định thời gian của nhân vật Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử không thể đi tu Phật mà là tu Tiên. Sư Phật Quang là sự gán ghép muộn màng sau này của đạo Phật vào truyền thuyết Chử Đồng Tử.
Lý do Chử Đồng Tử không tu Phật là:
–    Chử Đồng Tử là vị thần bất tử xếp hàng thứ hai sau Tản Viên Sơn Thánh và trước Đổng Thiên Vương. Nếu Đổng Thiên Vương là Thánh Gióng đánh giặc Ân, vào cỡ khoảng thế kỷ 11 trước Công nguyên thì Chử Đồng Tử phải có từ trước thời kỳ này. Còn nếu Đổng Thiên Vương là Huyền Thiên đại thánh (như ở đền Bộ Đầu, xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội) thì Chử Đồng Tử vẫn là nhân vật lịch sử có trước thời của Thái thượng Lão quân (Huyền Thiên Lão Tử). Trong khi đó đạo Phật mới ra đời từ Phật Thích Ca vào quãng giữa thế kỷ 6 trước Công nguyên, sau Lão Tử. Thời Chử Đồng Tử như vậy đã làm gì có đạo Phật mà tu.
–    Phép thuật mà Chử Đồng Tử học được nằm ở 2 bảo bối gậy và nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Gậy và nón là hình ảnh của vuông – tròn, âm – dương, là quan niệm cơ bản của Đạo giáo chứ không phải của đạo Phật. Đạo Phật nói tới thuyết luân hồi, không bàn tới cải tử hoàn sinh vì như vậy là phá vỡ luân hồi. Chử Đồng Tử đã “thọ giáo” một đạo sĩ chứ không phải sư Phật.
Núi Quỳnh Viên nơi Chử Đồng Tử đi tu có thể ở Đồ Sơn, tháp Nê Lê của vua A Dục có thể ở Đồ Sơn thật. Nhưng những điều đó không có nghĩa là Chử Đồng Tử tu Phật ở Đồ Sơn. Sự có mặt di tích và truyền thuyết của Chử Đồng Tử ở Hải Phòng có thể hiểu được vì Chử Đồng Tử là vị thần bất tử của hướng Đông, đã mở mang khu vực phía Đông theo truyền thuyết.
Một liên hệ khác để định vị công lao khai mở phía Đông của Chử Đồng Tử là chuyện về Quảng Bác Đại Vương ở Phú Xuyên (Hà Nội). Đây là vị thần được thờ làm thành hoàng ở nhiều làng quanh khu vực Phú Xuyên (tổng Thịnh Đức), nơi thờ chính của thần là đền Ba Sa ở Phú Yên, Phú Xuyên. Sự tích thần chép Quảng Bác Uyên Dung Đại Vương là con vua Hùng thứ tám và cung phi Tiên Dung Châu, đã lập nhiều chiến công đem lại bình yên cho đất nước.

P1110718Đền Ba Sa ở Phú Xuyên với hoành phi “Hùng triều bát đại vương”

Câu đối ở cổng đền Ba Sa:
Di tích Hùng triều, danh hiệu đại vương lưu vạn thế
Sắc phong khai quốc, anh linh hiển thánh ngự Ba Sa.
Âm Ba trong tên thánh Ba Sa được ghi bằng chữ Nôm.
Còn tại đình Giẽ Hạ (Phú Yên, Phú Xuyên) nơi thờ Quảng Bác Đại Vương làm thành hoàng làng có bức hoành phi đề Trạch tư Đông thổ 宅兹東土, nghĩa là Yên định vùng đất Đông.
Sự tích của Quảng Bác Đại Vương ở Phú Xuyên là một cách kể khác của chuyện Chử Đồng Tử. Câu đối về Chử Đồng Tử ở đền Đa Hòa (xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên) như sau:
淳孝格天沙渚幔帷成異遇
至誠通聖瓊林杖笠契真傳
Thuận hiếu cách thiên, Sa Chử mạn duy thành dị ngộ
Chí thành thông thánh, Quỳnh Lâm trượng lạp khế chân truyền.
Dịch:
Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ
Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền.
Chữ Sa 沙 và Chử 渚 đều nghĩa là bãi cát ven sông. Còn chữ Ba (3) trong tên Ba Sa và số Tám (Hùng triều bát đại vương) của chuyện Quảng Bác Đại Vương đều là những con số chỉ hướng Đông trong Hà Thư. Như vậy Ba Sa đồng nghĩa với Đông Chử hay Chử Đồng. Chử Đồng Tử đúng phải là Chử Đông Tử, nghĩa là vị thầy ở bãi Đông.
Chử Đồng Tử được tôn là Chử Đạo Tổ, rõ ràng là một vị tổ của Đạo giáo, chứ không phải đạo Phật. Nghĩa của tên Chử Đạo Tổ và Quảng Bác Đại Vương cũng rất gần nhau.
Bên cạnh đình Giẽ Hạ còn có đền thờ mẫu là bà Tiên Dung Châu, hoàn toàn trùng với tên Tiên Dung trong truyền thuyết về Chử Đồng Tử.
Quay lại với một số “dấu tích” cổ của đạo Phật ở Việt Nam. Một số tác giả căn cứ vào Ngọc phả Hùng vương kể chuyện vua Hùng thứ 7 là Lang Liêu lên núi Tam Đảo gặp Tiên ở chùa Địa Ngục mà kết luận: đạo Phật có mặt ở Việt Nam từ thời Lang Liêu (?!) Có điều Lang Liêu, vị vua Hùng thứ 7, là thời kỳ nước ta vừa mới đánh giặc Ân xong. Nhà Ân Thương trước thời Phật Thích Ca ra đời có tới nửa thiên niên kỷ, làm sao thời Lang Liêu đã có đạo Phật được.
Chuyện Lang Liêu lấy nàng Tiên ở núi Tam Đảo chỉ rõ đây là chuyện thần tiên của đạo Lão chứ không phải chuyện của đạo Phật. Tây Thiên quốc mẫu Lăng Thị Tiêu ở núi Tam Đảo là Tây Vương Mẫu hay Mẫu Cửu trùng (Cửu Thiên Huyền Nữ), là vị mẫu cùng Ngọc Hoàng thượng đế cai quản các vị thần tiên trên trời, hoàn toàn không phải là Phật hay Bồ Tát gì cả.
Một “Phật tích” khác là tấm bia ở Hải Phòng có nói tới Tháp Xá Lợi ở miền Bắc Việt. Xá Lợi tháp là tháp nào? Tấm bia Xá lợi tháp minh mới phát hiện ở Trí Quả, Thuận Thành, Bắc Ninh năm 2012 cho biết vào năm Nhân Thọ thứ nhất Tùy Văn Đế đã cho nhập xá lợi Phật vào Giao Châu tại chùa Thiền Chúng. Thiền Chúng phản thiết là Chiền, tức là chỉ một ngôi chùa ở Giao Châu mà thôi. Cổ Châu Phật bản hạnh ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) cho biết rõ:

Thời ấy có ông Lưu Chi
Tâu rằng nhà Tùy Cao Đế niên gian
Năm hòm xá lợi Bụt quan
Giữa huyện Siêu Loại là chiền Cổ Châu
Danh lam bảo tháp phù đồ
Cao dự nghìn trượng khỏe phò thánh cung.

Tùy Văn Đế năm 601 đã cho nhập xá lợi vào Giao Châu tại chùa Dâu. Tháp Hòa Phong ở chùa Dâu ngày nay được xây dựng lại trên nền cũ tháp Xá Lợi xưa.
Chùa Dâu ở Bắc Ninh gắn liền với sự tích về Phật Man Nương và Tứ pháp thời Sĩ Nhiếp. Sĩ Nhiếp ở vùng này được gọi là Tiên Sĩ Vương. Sĩ Nhiếp thực ra là người tu tiên theo đạo Lão. Hình tượng Tứ pháp (Vân Vũ Lôi Điện) là hình tượng thủy thần, hóa thân của Sĩ Nhiếp vì… Sĩ Nhiếp là Long độ đình hầu, tức thần Long đỗ của thành Thăng Long, là vua Mây họ Phạm ở Đằng Châu trong quan niệm dân gian.

P1110794Tam quan chùa Mui ở Thường Tín với bức tự “Đạo diễn huyền không”.

Sự đan xen giữa đạo Lão và đạo Phật trong tín ngưỡng dân gian Việt như vậy gặp ở nhiều sự tích, di tích. Ngay như ngôi chùa Mui (thôn An Duyên, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội) gọi là chùa nhưng thực ra vốn là một Đạo quán (Hưng Thánh quán) thờ Thái thượng Lão quân, tức là thờ Lão Tử. Nếu không phân tách ảnh hưởng muộn của đạo Phật trong các truyền thuyết của đạo Lão thì sẽ đi đến những kết luận lệch lạc về lịch sử Phật giáo ở Việt Nam. Đối với Việt Nam Tiên có trước, Phật là sau. Tín ngưỡng chính thống và đặc sản của người Việt là Đạo giáo chứ không phải Phật giáo.

Nhị bất tử Hậu Nghệ – Hằng Nga

Cổ sử Trung Hoa cho biết sau khi Hạ Khải mất con là Thái Khang lên nối ngôi. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy Thái Khang bỏ bê triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định giành ngôi.
Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Sau đó mang quân ra chặn bờ sông, phong toả lối về của Thái Khang. Thái Khang bị buộc phải lưu lạc đến hết đời.
Thần thoại Trung Hoa thì kể Hậu Nghệ có vợ là Hằng Nga, là những vị thần bất tử sống trên thượng giới. Một hôm, mười người con trai của Ngọc Hoàng biến thành mười mặt trời, làm cho mặt đất trở nên nóng bỏng và khô cằn. Hậu Nghệ, bằng tài bắn cung của mình, đã bắn hạ chín mặt trời, chỉ để lại một mặt trời. Ngọc Hoàng thấy các con trai của ông đã chết bèn trừng phạt Hậu Nghệ bằng cách đày Hậu Nghệ và Hằng Nga xuống hạ giới.
Thấy Hằng Nga rất đau khổ vì bị mất khả năng bất tử, Hậu Nghệ quyết định lên đường đi tìm thuốc trường sinh trong một cuộc hành trình dài và đầy gian khổ, nguy hiểm để hai người có thể trở lại cuộc sống bất tử. Hậu Nghệ đã gặp được Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu đồng ý cho Hậu Nghệ một viên thuốc để trở thành bất tử.
Hậu Nghệ mang viên thuốc về nhà và cất nó trong một cái hộp. Khi ông đi vắng, Hằng Nga tò mò mở chiếc hộp và, vô tình Hằng Nga đã nuốt chửng viên thuốc. Ngay lập tức Hằng Nga bay lên trời do thuốc quá mạnh. Hằng Nga cứ bay lên mãi cho đến khi đến Mặt Trăng.
Câu chuyện Hằng Nga – Hậu Nghệ trên đã chỉ rõ thế nào là thần bất tử trong quan niệm xưa. “Bất tử” không phải là do dân gian tôn sùng mà thành như cách giải thích ngày nay. Khả năng bất tử là khả năng đặc biệt mà chỉ một số ít các vị thần mới có. Hậu Nghệ đã phải vượt muôn ngàn gian khổ mới đến gặp và xin được thuốc bất tử của Tây Vương Mẫu về.
Khi so sánh câu chuyện của hai vị thần bất tử Hằng Nga – Hậu Nghệ với với các vị thần bất tử nước Nam thì chợt nhận ra đây cũng là chính chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Rõ nhất là liên hệ về ngôn ngữ: HậuChậuChử. Liên hệ này tương tự như trong những từ Hầu (đồng) – Chầu (đồng) – (ca) Trù đều chỉ hình thức xướng ca phục vụ nghi lễ cung đình (triều đình) xưa cả.
Còn có từ Chư hầu, chỉ rõ mối liên hệ Chử – Hậu, là chư hầu của nhà Hạ đã tiếm ngôi (lấy con gái vua mà không được phép).
Hậu Nghệ có công bắn mặt trời, diệt các loài quái vật nên được nhân dân tôn thờ là thần Tông Bố, tổng quản các loài ma quỷ trong thiên hạ. Chử Đồng Tử tu tiên, có được phép cải tử hoàn sinh đi cứu người, chữa bệnh rồi được tôn là Chử Đạo Tổ. Tông Bố thiết Tổ. Như vậy cách gọi Tông Bố Hậu Nghệ trùng cả họ và tên với Chử Đạo Tổ.
Hậu Nghệ là người đã làm gián đoạn nhà Hạ, đuổi Hạ Thái Khang lưu lạc nơi đất Lạc. 40 năm sau nhà Hạ phải tới Thiếu Khang mới lại trung hưng. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử cũng kể về vua Hùng tức giận, đem quân đến đánh vợ chồng Chử Đồng Tử – Tiên Dung, thể hiện một cuộc đụng độ đã xảy ra. Việc Chử Đồng Tử lấy Tiên Dung con gái vua Hùng mà không được vua cha đồng ý là chỉ việc Chử Đồng Tử – Hậu Nghệ đã chiếm ngôi của Thái Khang.
Như đã từng xác định, Chử Đồng Tử là vị Tứ bất tử xếp hàng thứ hai sau Tản Viên Sơn Thánh nhưng trước Đổng Thiên Vương. Nghĩa là Chử Đồng Tử ở vào quãng sau Đại Vũ nhà Hạ tới trước thời Chu của Lão Tử. Hậu Nghệ cũng là nhân vật lịch sử ở đúng thời kỳ này. Phép thần trượng lạp (gậy nón) của Chử Đồng Tử cho thấy đây là một nhân vật ở thời kỳ rất sớm trong lịch sử vì gậy nón là hình ảnh của Âm Dương, tức là khi quan niệm Dịch học vẫn còn khá đơn giản.
Hậu Nghệ đi tìm thuốc trường sinh gặp Tây Vương Mẫu cho thuốc tiên. Hậu Nghệ nghĩa là vị Hầu ở xứ Nghệ, cũng là nơi tu hành của Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử đi vào đất Quỳnh Lâm (Nghệ An) gặp lão Phật Quang và được gậy nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Thần tích ở đền Đa Hòa còn kể Chử Đồng Tử lấy thêm một người vợ nữa là Tây Cung công chúa. Vị công chúa này cũng có phép thuật, giúp Chử Đồng Tử chữa bệnh cho nhân dân. Tây Cung công chúa như vậy ở đây tương đồng với Tây Vương Mẫu trong chuyện Hậu Nghệ tìm thuốc bất tử.
Hằng Nga uống thuốc và bất ngờ bay lên tận cung trăng. Còn vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung thì một đêm cũng bay về trời ở đầm Nhất Dạ. Thì ra chị Hằng ở cung trăng lại chính là công chúa Tiên Dung.
Câu đối ở đền thờ Chử Đồng Tử tại Đa Hòa, (Khoái Châu, Hưng Yên) mô tả:
化境是何年自然為洲一夜成澤
奇緑曠千古人間夫婦天上神仙
Hóa cảnh thị hà niên, Tự Nhiên vi châu, nhất dạ thành trạch
Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên.
Dịch:
Cảnh hóa đó năm nào, đây bãi Tự Nhiên, một đêm thành đầm trạch
Kỳ duyên trùm thiên cổ, nhân gian chồng vợ, lên trời biến thần tiên.

IMG_7010Hoành phi ở trước chính điện đền Đa Hòa.

Một trong những công tích khác của Hậu Nghệ là đã diệt con mãng xà khổng lồ (con Tu Xà hay Ba Xà) ở hồ Động Đình. Đoạn kể này về Hậu Nghệ rất giống truyền thuyết Việt về Lạc Long Quân diệt ngư tinh. Hồ Động Đình tức là biển Đông. Ba Xà hay Tu Xà đều có nghĩa là con rắn ở phía Đông vì Ba (3) là số chỉ phương Đông trong Hà thư, Tu hay Từ là tính chất từ ái của phương Đông.
Thời Hậu Nghệ là thời Hạ, khi nhà Hạ còn đang ở vùng Động Đình – biển Đông nên chắc chắn vẫn còn được lưu giữ trong truyền thuyết Việt Nam, dưới câu chuyện của vị thần bất tử Chử Đạo Tổ. Những mẩu thần thoại Trung Hoa, càng kể về những sự tích lâu đời thì lại càng có liên hệ trực tiếp với khu vực nước Nam…

Ngọc Hoàng thượng đế

Người Việt cứ có chuyện gì là lại kêu “Trời”. Nhưng ông Trời là ai? Tại sao người Việt lại tin vào ông Trời đến vậy?
Trong Đạo Giáo Trung Hoa ông Trời là Ngọc Hoàng thượng đế, người cai quản Thiên đình. Trong Đạo Mẫu Tứ phủ ở Việt Nam vua cha của Thiên phủ cũng là Ngọc Hoàng thượng đế. Các sử gia với cái nhìn thiên kiến về tính xác thực của các thông tin trong tín ngưỡng và tôn giáo đều không muốn tìm xem Ngọc Hoàng thượng đế là nhân vật lịch sử nào.

Thực ra Ngọc Hoàng thượng đế là Hoàng Đế, người được coi là ông tổ của Hoa sử. Gọi là “Ngọc” vì đây đang là còn thời kỳ đồ đá. Gọi là “Hoàng” vì là màu của trung tâm trong Ngũ hành, tương ứng với vua. Ngọc Hoàng nghĩa là vị vua của thời tiền sử.

Ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng coi Hoàng Đế là vị vua đầu tiên của nước ta. Câu mở đầu của chính sử Đại Việt ghi rõ: “Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt…”.

Hoàng Đế của Trung Hoa lại là ông Trời của người Việt. Ở nước ta tới giờ vẫn còn những nơi riêng thờ Ngọc Hoàng như đền Đậu An ở làng An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Theo thần tích còn lưu giữ trong đền, vào năm “Thiên Định nhị niên” có Thiên tiên, Địa tiên mở cổng trời xuống hướng dẫn nhân dân khai phá vùng sình lầy, dạy cách săn bắn, hái lượm và trồng lúa nước. Ngoài ra còn có Ngũ lão tiên ông huy động dân làng khai hoang, diệt trừ thú dữ và dựng Thụy Ứng quán thờ trời để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu…

Đền Đậu An nằm trên mảnh đất hình đầu rồng, xung quanh có hồ nước trong xanh bao bọc. Do đó câu đối ở đền chép:
Thiên Định kỷ nguyên, Thụy Ứng Ngọc Hoàng lai giáng hạ
Địa linh thiên cổ, điện đài thượng đế ngự long đầu.

Dịch:
Thiên Định năm xưa, Thụy Ứng Ngọc Hoàng xuống hạ thế
Đất thiêng nghìn tuổi, điện đài thượng đế ngự đầu rồng.

Thap

Tháp đất nung và điện thờ Ngọc Hoàng ở đền Đậu An, Hưng Yên

Ngọc Hoàng thượng đế ở đền Đậu An còn có cả niên hiệu “Thiên Định” như một triều đại thật sự. Theo thông tin ở đây thì ngôi đền này đã được dựng từ năm 226 trước Công nguyên. Rõ ràng tục thờ Ngọc Hoàng là tín ngưỡng bản địa của người Việt bởi vì lúc đó nước ta còn chưa chịu ảnh hưởng của phương Bắc. Theo chính sử thì mãi tới năm 218 TCN thì nhà Tần lần đầu mới đánh chiếm Bách Việt. Trước đó Văn Lang, Âu Lạc là những quốc gia hoàn toàn độc lập, không liên quan gì tới phương Bắc.

Hoàng Đế trong Hoa sử có tên là Hiên Viên, là vua nước Hữu Hùng. Còn Thiên Nam ngữ lục thì chép:
Tự vua Viêm Đế sinh ra
Thánh nhân ngưu thủ họ là Thần Nông
Trời cho thay họ Hữu Hùng
Con cháu nối nghiệp cha ông thủ thành.

Họ Thần Nông được thay bằng họ Hữu Hùng. Đối chiếu hai dòng sử thì thấy rõ vua Hữu Hùng là Đế Minh trong truyền thuyết họ Hồng Bàng vì sử Việt bắt đầu chính bằng “Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông…”.

Huyền sử Trung Hoa cho biết sau trận đánh quyết liệt giữa Hiên Viên với Xuy Vưu ở Trác Lộc thì tất cả dân chúng các bộ lạc đều hoan nghênh Hữu Hùng Thị, tôn Hữu Hùng Thị lên ngôi Minh chủ, lấy hiệu là Hoàng Ðế.

Hoàng Đế được tôn là Minh chủ hay Minh Đế, tức là Đế Minh của truyền thuyết Việt. Minh nghĩa là sáng, là tỏ, tương ứng với chữ Hiển trong Hán văn. Chính vì vậy Hoàng Đế – Đế Minh được gọi là Hiển Vương, tam sao thất bản chép thành Hiên Viên.

Hoàng Đế là ông tổ của dân tộc Hoa Việt, là vị vua Hùng chính thức đầu tiên của nước họ Hùng (Hữu Hùng). Tên Hùng Hiển Vương trong Ngọc phả Hùng Vương được chép là của Lạc Long Quân. Đây là sự lẫn lộn thường thấy giữa 2 vị quốc tổ họ Hùng này khi chép theo 2 dòng sử Hoa và Việt.

Câu đối ở đền Hùng – Phú Thọ:
Thiên thư định phận chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà duy hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.

Dịch:
Sách trời định chốn chính thống dựng Minh đô, núi sông Bách Việt duy có tổ
Núi tỏa linh thiêng cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

Ngọc Hoàng – Đế Minh đã dựng Minh Đô tại nơi ba con sông Đà, Lô, Thao hội tụ ở Phong Châu – Phú Thọ, bắt đầu thời đại có quốc gia, có vua của người họ Hùng, của cộng đồng người Bách Việt. Là quốc tổ khai sinh họ Hùng nên Đế Minh mãi được tôn là ông Trời trong tâm thức của người Việt cũng như người Hoa.

Quốc Mẫu Tây Thiên

Tục thờ Tây Thiên Quốc mẫu rất phổ biến ở vùng núi Tam Đảo. Riêng tỉnh Vĩnh Phúc có tới trên 50 nơi khác nhau thờ Mẫu Tây Thiên. Sự tích vị Quốc mẫu này tóm tắt như sau:
Thời Hùng Vương ở đạo Sơn Tây, Đoan Hùng phủ, Tam Dương Động, Đông Lộ trang có gia đình sinh một người con gái đặt tên là Lăng Thị Tiêu. Lớn lên trở thành một cô gái xinh đẹp, giỏi giang hiền thục. Đời Hùng Vương thứ bảy là Lang Liêu lên nối ngôi. Có lần vua Hùng Chiêu Vương (Lang Liêu) đi cầu tiên phật ở núi Tam Đảo đã gặp người con gái này và đưa về triều làm Chính phi. Nàng đã hết lòng yêu quý Hùng Chiêu Vương và đem tài năng của mình ra thi thố, giúp chồng trị quốc.
Khi nước Văn Lang bị giặc nhà Thục đe dọa, đem quân vây hãm kinh thành. Lăng Thị Tiêu đã chiêu mộ binh sĩ kéo về Phong Châu đánh tan quân địch, giải cứu triều đình. Khi nàng mất, được các triều vua phong là Tây Thiên quốc mẫu.

Mối tình giữa Lang Liêu và vị nữ thần núi Tam Đảo đã được lưu truyền như một huyền thoại đẹp thời Hùng Vương.
Hiện tại ở vùng Tam Đảo còn có cả một hệ thống các điện thờ liên quan tới Quốc Mẫu Tây Thiên. Nơi Mẫu sinh và Mẫu hóa nằm ở xã Đại Đình. Ở Đại Đình còn có Đền Thỏng là Hữu thần cung của Mẫu. Gần đó là xã Tam Quan nơi có Tả thần cung và Trung thần cung ở thôn Quan Ngoại. Qua Tam quan thì đến Đại đình … Hệ thống địa danh chỉ “cổ tích” rất rõ.

Den Thong
Đền Thỏng ở di tích Tây Thiên

Câu đối ở đền Thỏng:
Thạch lộ phó Tây Thiên, linh địa tồn danh tiên giáng
Cao sơn đăng Phù Nghị, cổ đài ký lập mẫu nghi.

Dịch:
Đường đá tới Tây Thiên, đất thiêng còn danh tiên hạ thế
Núi cao lên Phù Nghị, đài xưa ghi lập mẫu oai nghiêm.

Chỗ khó giải thích của truyền thuyết Tây Thiên Quốc Mẫu là Mẫu Lăng Thị Tiêu đã giúp vua Hùng đánh Thục. Thông thường, đây phải là vào đời vua Hùng cuối cùng (thứ 18) thì mới có giặc Thục (Thục Phán). Nhưng trong truyền thuyết ở Tam Đảo thì Lăng Thị Tiêu lại lấy Lang Liêu là đời vua Hùng thứ bảy. Vậy giặc Thục đây là Thục nào?
Để nhận diện đúng chuyện Tây Thiên Quốc Mẫu cần so sánh với các truyền thuyết khác trong tín ngưỡng dân gian, trong thần thoại và huyền sử Trung Hoa.
So sánh với hệ thống Tứ phủ thì thấy Tây Thiên quốc mẫu chính là Mẫu cửu trùng hay Mẫu thượng thiên, thần chủ của Thiên phủ. Cửu là số 9, chỉ hướng Tây nên Mẫu cửu trùng tương đương với Mẫu Tây thiên.
Tư liệu của GS Ngô Đức Thịnh cũng cho biết Mẫu Tây Thiên khi giáng đồng thường với tư cách của Mẫu đệ nhất thượng thiên. Mẫu thượng thiên là Mẫu cửu trùng chứ không phải Mẫu Liễu Hạnh. Các cung thờ ở Tây Thiên đều đặt Mẫu Tây Thiên ở vị trí cao nhất trong điện (vị trí của Mẫu thượng thiên), hai bên là Mẫu Thoải và Mẫu Thượng ngàn. Vậy là đã rõ nguồn gốc của Mẫu thượng thiên, chính là vị nữ thần núi Tam Đảo (Tam Đảo sơn trụ quốc mẫu).
So sánh với huyền sử Việt thì nàng Lăng Thị Tiêu là Lang Tiên, hay Vua Tiên, tương ứng với con gái bà Vụ Tiên trong Truyền thuyết họ Hồng Bàng:
Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh, lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về sinh ra Lộc Tục.
Núi Ngũ Lĩnh ở đây là núi nào?
Ở Tây Thiên dân gian có câu:
Núi thờ cha Tản Viên
Núi thờ mẹ Tây Thiên
Đều hướng về Ngũ Lĩnh
Thờ núi Tổ linh thiêng.

Ngũ Lĩnh chính là núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ vua Hùng ngày nay ở Phú Thọ.
Tản Viên là thần chủ Nhạc phủ ở núi Tản. Lăng Thị Tiêu là mẫu chủ của Thiên phủ ở Tam Đảo. Ngũ Lĩnh nghĩa là núi nơi có vua (Ngũ là số 5, chỉ vua, không phải 5 ngọn núi) Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thiên Nam ngữ lục chép đoạn này về Đế Minh như sau:Đương thời giữa thủa Đế Minh
Chí khôi đại nghiệp ra danh cõi ngoài
Nhân nhàn xa giá đi chơi
Nam tuần xảy gặp một người thiếu niên
Xưng danh là ả Khương Tiên
Có tinh Cửu vĩ là em ngoan ngùy.
Như vậy con gái bà Vụ Tiên ở đây gọi là Khương Tiên. Tiên là số 1, chỉ hướng Nam (xưa). Khương là tính chất của phương Tây nên Khương Tiên đồng nghĩa với Tây Tiên = Tây Thiên Lăng Thị Tiêu.
Vì Đế Minh là Ngọc Hoàng thượng đế, cai quản thiên phủ nên Lăng Thị Tiêu – Khương Tiên là Mẫu thượng thiên trong tín ngưỡng Tứ phủ.
Lý do mà Lăng Thị Tiêu được tôn làm Quốc mẫu là vì đã giúp vua Hùng đánh Thục. Trận chiến Hùng – Thục này là một trận chiến khác hoàn toàn với 2 cuộc chiến Hùng Thục thời Bát Hải Động Đình (Lạc Long – Âu Cơ) và Thục Phán An Dương Vương. Khi đã xác định Quốc mẫu Tây thiên là Mẫu Cửu trùng thì cuộc chiến Hùng Thục này phải xảy ra vào thời Hoàng Đế (Ngọc Hoàng thượng đế).
Huyền sử Trung Hoa chép:
Trận đánh dữ dội quyết định sự thắng bại giữa Hiên Viên với Xuy Vưu xảy ra ở Trác Lộc. Sương mù dày đặc, quân Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây chặt, không nhận định được phương hướng đánh ra giải vây, nên thường bị Xuy Vưu đánh bại phải tháo lui. Sự thảm bại của Hữu Hùng Thị thấy rõ trước mắt.
Trong lúc nguy cấp như thế, đấng Cửu Thiên Huyền Nữ hiện ra dạy Hữu Hùng Thị chế ra xe hai bánh chỉ Nam, có bộ phận chỉ rõ hướng Nam, để phân định phương hướng và vị trí tiến quân, lại dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị củng cố binh mã, từ trong đánh ra bất ngờ, làm cho binh đội Xuy Vưu thảm bại, bắt sống được thủ lãnh Xuy Vưu đem giết chết.
Thế là yên giặc, tất cả dân chúng các bộ lạc đều hoan nghinh Hữu Hùng Thị, tôn Hữu Hùng Thị lên ngôi Minh chủ, lấy hiệu là Hoàng Ðế.
Sau đó, Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ cũng thường ứng hiện giúp vua Hoàng Ðế và những người hiền tài trong nước, như giúp Hoàng Hậu Nguyên Phi chế ra nghề nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem Thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc. Ngoài ra Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ truyền khoa Lục Nhâm Ðộn Giáp, và phép bói 64 quẻ Dịch mà đoán kiết hung.
Quốc Mẫu Tây Thiên chính là Cửu Thiên Huyền Nữ (Mẫu cửu trùng). “Giặc Thục” ở đây là bộ tộc phía Tây do Xuy Vưu lãnh đạo. Bộ tộc Hữu Hùng Thị của Hiên Viên như vậy đã được bộ tộc ở phía Nam (xưa) là Lang Tiên Thị (Lăng Thị Tiêu) giúp khi đánh bộ tộc phía Tây (Cửu Lê) của Xuy Vưu. Cửu Thiên Huyền Nữ còn là người đem lại nhiều sáng chế đến cho vua Hùng như Kim chỉ Nam, dịch học, chữ viết,… Với công lao to lớn thời lập quốc họ Hùng như vậy hiển nhiên Lăng Thị Tiêu được tôn làm Quốc mẫu và chiếm ngôi thượng thiên trong tín ngưỡng Tứ phủ.
Các khu vực là nơi Mẫu sinh và Mẫu hóa ở Tam Đảo ngày nay lại là các làng của người dân tộc Sán Dìu. Bản thân những người dân tộc này tham gia lễ hội Tây Thiên với vai trò chủ nhân văn hóa và coi bà Lăng Thị Tiêu như vị Mẫu thần của dân tộc mình. Đây không phải là “sự tích hợp văn hóa liên tộc người”. Rất có thể người Sán Dìu là một bộ phận trong bộ tộc Lang Tiên Thị xưa ở chính vùng núi Tam Đảo này.
So sánh với thần thoại Trung Hoa thì Tây Thiên Quốc Mẫu còn là bà Tây Vương Mẫu.
Thần thoại Trung Hoa cho biết Tây Vương Mẫu là Dao Trì Kim Mẫu, cai quản núi Tây Côn Lôn , cùng với chồng là Hạo Thiên Thiên Đế cai quản Thiên đình.
Dao Trì tức là Giao Chỉ, là chỗ trung tâm của thiên hạ thời Hùng. Núi Côn Lôn của Tây Vương Mẫu như vậy là núi Tam Đảo.
Tây Vương Mẫu còn được 3 con chim Thanh Điểu thay nhau mang thức ăn tới. Ba con chim này sống ở trên núi Tam Nguy, ở phía Tây của núi Côn Lôn. Núi Tam Nguy gồm ba ngọn, cao vút xuyên qua cả mây trời nên mới có tên như vậy.
Tam Nguy của Tây Vương Mẫu chính là 3 ngọn của núi Tam Đảo luôn khuất trong mây trắng.

Cong Tay Thien
Tây Thiên và Tam Đảo trong mây

Việc xác định Tây Thiên quốc mẫu là Tây Vương Mẫu cũng giải đáp nốt truyền thuyết về mối tình Lang Liêu với nữ thần Tam Đảo.
Lang Liêu hay Hùng Chiêu Vương ở đây không phải là vị Lang Liêu làm bánh chưng bánh dày, chế tác dịch học (Chu Văn Vương). Lang Liêu với nghĩa là vua người Liêu, cùng với tên Hùng Chiêu Vương, là chỉ một vị vua thời Tây Chu (khi nhà Chu còn đóng ở đất Liêu – Di Lão).
Đây là chuyện Chu Mục Vương, vị vua thứ 5 của nhà Chu đã cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn, tìm được cung điện ngọc của Hoàng Đế và gặp Tây Vương Mẫu. Núi Côn Lôn là núi Tam Đảo nên Chu Mục Vương hay vua người Liêu (Lang Liêu) đã gặp nàng tiên núi Tam Đảo ở đây.
Trong tín ngưỡng, văn hóa dân gian Việt Nam lại luôn gặp những truyền thuyết, huyền thoại của Trung Hoa. Ta chép của Tàu chăng? Không phải. Ông Trời luôn có mắt. Cái gì của người Việt thì sẽ trở về với người Việt.
Muốn gặp “Mẹ trời” đối với người Việt thật không khó. Núi Tam Đảo – Côn Lôn vẫn còn đó. Tục thờ Tây thiên Quốc mẫu vẫn còn đó. Thần tiên chẳng ở đâu xa. Cỗ xe 8 ngựa của Chu Mục Vương chỉ là hình tượng của trí tuệ và thành tâm mà thôi. Có tâm có trí thì sẽ gặp được Trời. Cái lý “con cóc” lên giời của người Việt là như vậy.

Tam phủ công đồng

Tam phủ công đồng là tín ngưỡng phổ biến của người Việt. Điện thờ Tam tòa thánh mẫu có thể gặp ở bất cứ đâu, trong các phủ, các đền, các đình, các chùa… Cùng với tín ngưỡng này là những tục lên đồng, hát chầu văn, đã thành những di sản văn hóa đặc sắc của người Việt. Có thể nói Tam phủ công đồng là Đạo thứ tư của người Việt, sánh cùng Tam giáo Nho Lão Phật. Một tín ngưỡng quan trọng như vậy nhưng tới nay vẫn không rõ nguồn gốc, mọi thứ vẫn còn nằm trong màn sương thần tích thần phả. Các nhà nghiên cứu cho rằng từ tục tôn thờ nữ thần hay từ “nguyên lý mẹ” người Việt đã nâng tín ngưỡng này lên thành Đạo Mẫu. Nhưng Tam phủ và nhất là Công đồng đâu phải chỉ có các nữ thần thánh mẫu. Nay xin xem xét từng “phủ” trong Tam phủ để tìm về cái gốc của tín ngưỡng này.
Trước hết rõ ràng nhất là Thoải phủ hay Thủy phủ. Người đứng đầu Thủy phủ không ai khác là vua cha Bát Hải Động Đình. Trong bài “Rồng bay biển Bát” đã xác định vua cha Bát Hải Động Đình ở đền Đồng Bằng là Lạc Long Quân ở đất Đào Động – Đào Hoa Trang bên bờ biển Đông.
Vị Mẫu cai quản Thoải phủ là Mẫu Thoải mà theo các thần tích là con vua Động Đình, lấy Kinh Dương Vương hay Kinh Xuyên. Mẫu Thoải là con gái Thần Long Động Đình, trong truyền thuyết Họ Hồng Bàng, tức là mẹ của đức Lạc Long Quân.
Đền Dầm thờ Mẫu Thoải ở thôn Xâm Dương – Ninh Sở (Thường Tín – Hà Nội) chép Mẫu Thoải là “nàng Tiên thứ ba đến chầu Thượng Đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc. Thiên triều nghị tội, giáng nàng xuống Thủy cung làm con gái Long Vương. Nàng được gả cho tướng quân Kinh Xuyên…”.
Xâm Dương đổi lại là Dương Xâm, phiên thiết là Dầm. Như vậy tên Xâm Dương chỉ là tên chữ của làng Dầm mà thôi.

Den Dam
Đền Dầm ở Xâm Dương

Đình làng Xâm Dương thờ một vị thần có mỹ hiệu Kiến Quốc Hùng Cơ vào thời Hùng Vương, có công giúp Sơn Tinh đánh Thục. Thần có 4 người con, đều sinh ra từ một bọc trứng. Người con đầu có tên Nhất Vĩnh Đông Hải, người con cuối là Tứ Vĩnh Ninh Giang…
Có thể thấy thần tích đình Xâm Dương cũng giống như thần tích của đền Đồng Bằng hay đền Lảnh Giang, đền Ninh Giang về sự xuất hiện của anh em Vĩnh Công từ một trứng đã giúp vua Hùng đánh Thục. Nhất Vĩnh Đông Hải là Vĩnh Công Bát Hải Động Đình. Tứ Vĩnh Ninh Giang, Ninh Giang là tên sông Tranh, nơi có đền thờ Quan đệ ngũ tuần Tranh…
Người mẹ của Vĩnh Công trong truyền thuyết đền Đồng Bằng hay đền Lảnh là nàng Quý. Thực ra nàng Quý nghĩa là nàng Ba (trong thứ tự Mạnh, Trọng, Quý). “Nàng tiên thứ Ba” chính là Mẫu Thoải, người cai quản phủ Tam (Thủy phủ) như thần tích đền Dầm đã chép. Thôn Xâm Dương có cả đền thờ Mẫu Thoải và thần tích về Vĩnh Công xuất thế, có thể chính là nơi Mẫu Thoải đã sinh ra Lạc Long Quân, vị vua của Động Đình sau này.
Câu đối ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên – Hà Nội) nơi thờ Quan lớn đệ Tam:
Tam phủ hiển anh linh do truyền Hồng lĩnh Bắc
Tứ dân triêm huệ trạch viễn chấn Phượng thành Đông.

Dịch:
Tam phủ rõ linh thiêng, còn truyền đất Hồng Bắc
Tứ dân ngấm ân đức, xa vang thành Phượng Đông.

Tam phủ ở đây là Thoải phủ của Quan lớn đệ tam và Mẫu Thoải. Tam hay số Ba (nàng Ba hay nàng Quý) là con số chỉ phương Đông của Hà Thư. Thoải phủ ở phương Đông vì Lạc Long Quân và Mẫu Thoải đều gắn với thủy phủ Bát Hải Động Đình, tức biển Đông.
Hồng Lĩnh Bắc” rõ ràng không phải vùng đất phía Bắc núi Hồng Lĩnh của Nghệ An. Hồng Lĩnh Bắc là đất Đào – Hoa Hạ của Lạc Long Quân mà thôi.
Phượng thành Đông” ở đây chỉ thành Thăng Long. Rất có thể “Phượng thành Đông” là chỉ Đông Đô của dòng tiên phượng Âu Cơ.
Lần tìm tiếp theo thì Nhạc phủ chắc chắn là do Sơn Tinh hay Tản Viên quốc chúa cai quản. Mẫu Thượng Ngàn cũng có liên quan trực tiếp tới Tản Viên. Nếu theo truyền thuyết vùng xứ Đoài thì bà Ma Thị Cao Sơn, mẹ nuôi của ba anh em Nguyễn Tuấn, là Bà chúa thượng ngàn. Ngay cái tên Ma Thị Cao Sơn đã có nghĩa là “Mẹ núi cao”. Bà mẹ nuôi của Tam vị thánh Tản này cũng được thờ là Mẫu Thượng Ngàn ở đền Đợi, nằm gần quần thể đền Đồng Bằng ở Thái Bình.
Theo một số truyền thuyết khác như ở đền Bắc Lệ thì Mẫu Thượng Ngàn là công chúa La Bình, con của Tản Viên Sơn Thánh. Dù là truyền thuyết nào thì rõ ràng Nhạc phủ do dòng Tản Viên Sơn Thánh cai quản.
Nhạc phủ có thể ở phía Nam (xưa) vì núi là quẻ Cấn, chỉ hướng Nam xưa. Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, người đã làm vua phương Nam trong truyền thuyết họ Hồng Bàng. Truyền thuyết đền Đồng Bằng cũng bắt đầu với địa danh “trấn Sơn Nam”, thật là đủ cả núi và nom.
Dòng phương Nam của Kinh Dương Vương đã kết hợp với dòng Thần Long Động Đình (Mẫu Thoải) ở phía Đông sinh ra Lạc Long Quân. Rất có thể chuyện Kinh Xuyên bị Thảo Mai dèm pha đuổi Mẫu Thoải ra khỏi nhà ám chỉ một cuộc phân ly nào đó giữa 2 dòng Nam và Đông này của người Việt thủa xưa.
Các vị thần của Thiên phủ khó xác định hơn vì Trời thì ở xa. Xa về thời gian. Thần chủ của Trời thì không ai ngoài Ngọc Hoàng thượng đế. Ngọc Hoàng thượng đế thì như đã biết là Hoàng Đế Hiên Viên của Hoa sử. Ngọc Hoàng không phải là vị thần của Đạo Lão đã chen chân vào tín ngưỡng Tam phủ, mà Ngọc Hoàng là vốn đã là thần chủ chính của Tam phủ.
Ở thôn Bằng Sở (Ninh Sở – Thường Tín – Hà Nội) có là đền thờ đức vua cha, tức Ngọc Hoàng thượng đế.

Ngoc Hoang dai dien

 Hoành phi Ngọc Hoàng đại điện ở Bằng Sở.

Còn vị Mẫu của Thiên phủ là Mẫu Cửu Trùng. Đền thờ Mẫu Cửu Trùng ở ngay cạnh đền Ngọc Hoàng ở Bằng Sở.
Câu đối ở đền Bằng Sở thờ Mẫu Cửu trùng:
Tứ phủ linh thanh, hộ quốc bảo dân thiên hạ mẫu
Cửu trùng trắc giáng, đằng vân giá vũ địa trung tiên.

Dịch:
Tứ phủ linh thiêng, giúp nước cứu dân mẫu nghi thiên hạ
Cửu trùng lên xuống, đi mây về gió vị tiên thế gian.

Mẫu Cửu Trùng (gọi tắt là Mẫu Cửu) cũng là Cửu Thiên Huyền Nữ trong truyền thuyết Trung Hoa, tức là người đã giúp đỡ Hiên Viên Hoàng Đế trong cuộc chiến với Xuy Vưu.
Cửu Thiên cũng giống như Bát Hải, không phải là chín trời tám biển. Cửu là số 9 chỉ hướng Tây trong Hà Thư. Cửu thiên nghĩa  là trời Tây. Cửu Thiên Huyền Nữ là bà Tây Vương Mẫu, vị chúa cai quản các tiên trên trời, vợ của Ngọc Hoàng thượng đế. Trong truyền thuyết Trung Hoa thì Tây Vương Mẫu là tiên chủ vườn Đào ở Diêu Trì. Nay có thể hiểu Tây Vương Mẫu hay Mẫu Cửu là bà Vụ Tiên ở đất Đào tại Giao Trì (Giao Chỉ?).
Bà Vụ Tiên theo Thiên Nam ngữ lục còn có tên là Khương Tiên:

Xưng danh là ả Khương Tiên
Có tinh Cửu vĩ là em ngoan ngùy.

Khương là tính chất của phương Tây trong Dịch lý. Khương Tiên – Tây Vương Mẫu – Cửu Thiên Huyền Nữ – Mẫu Cửu Trùng rõ ràng là một. Thiên phủ như vậy ở hướng Tây.

Den Mau Cuu

Đền Mẫu Cửu ở Bằng Sở

Còn “công đồng” nghĩa là gì? Công đồng không phải là cùng chung. “Công” ở đây nghĩa là quan, là công. “Công đồng” nghĩa là “tập thể” các quan của Tam phủ. Ban công đồng trong các đền được thờ như một triều đình có vua quan thực sự. Công đồng đọc tắt là “đồng”, trong các từ “lên đồng” hay “chầu đồng”. “Chầu đồng” nghĩa là triều phục các quan chứ không phải là “chầu nhi đồng” (?!) như vẫn giải thích.
Trên nền tảng Dịch học đã cho phép khớp nối các thần chủ trong hệ thống Tam phủ với các nhân vật của thần thoại Trung Hoa và truyền thuyết Việt. Điều này cũng chứng tỏ thêm cội nguồn của Trung Hoa chính là ở Việt Nam. Lịch sử người Hoa Việt thời quốc sơ chính là nguồn gốc làm nên tín ngưỡng Tam phủ dân gian ngày nay.
Truyền thuyết Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái:
Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.
Nay viết lại dưới ngôn ngữ của Tam phủ:
Đế Minh, tức Ngọc Hoàng thượng đế, cháu ba đời Thái Viêm Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên, tức Mẫu Cửu Trùng, rồi trở về, sinh ra Lộc Tục, tức Tản Viên Sơn Thánh. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Ngọc Hoàng thượng đế rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Tản Viên làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Mẫu Thoải là con gái Long Vương ở biển Đông, sinh ra Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước, tức vua cha Bát Hải Động Đình, …

Đoạn sử khởi đầu của dân tộc thật đã chép đầy đủ các thần chủ của Tam phủ. Nguồn gốc Tam phủ công đồng nay đã rõ ràng. Lịch sử dân tộc từ xa xưa vẫn còn đang sống trong đức tin của người Việt.

Lão Tử hóa … Việt kinh

Dinh Tho Ha
Đình Thổ Hà – xã Vân Hà – Việt Yên – Bắc Giang

Bên bờ sông Cầu, quê hương của những làn điệu quan họ, di sản văn hóa thế giới, có một ngôi đình làng cổ nổi tiếng. Đình Thổ Hà đã có trong danh sách xếp hạng di tích của Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thời Pháp. Đình này nổi bật bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc rất tinh xảo của xứ Kinh Bắc. Có điều khi xem đến vị thành hoàng được thờ ở đây thì mới thực sự là điều bất ngờ. Thành hoàng làng Thổ Hà tên là … Lão Tử, Thái Thượng Lão Quân. Trích thần tích chép từ văn bia Cung sao sự tích thánh tại  đình:
Đời vua Thục An Dương Vương phả lục chép rằng có một vị đại vương cấp bậc Thượng đẳng thần thuộc bộ Càn Hào. Sau khi Hùng Vương thứ 18 mất ngôi, vua An Dương Vương nối ngôi. Có một người từ Bắc quốc đến đạo Kinh Bắc, phủ Bắc Hà, huyện An Việt và ở nhờ chùa Đoan Minh Tự của trang Thổ Hà. Ngày đêm giảng kinh đọc sách, có sức màu nhiệm như thần, trong trang có nhiều con em theo học.
Một hôm Người bảo học trò rằng: ta sinh ra từ thủa Hồng Mông, trời đất mới mở mang, cho nên ta thông minh khác thường. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng giêng năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng.
Quanh vùng nơi ở của người không ai xảy ra tật bệnh, nên người trong trang thường bảo nhau rằng: đó là khí sinh thánh tổ, chẳng phải người thường, các nơi cũng đến xin làm thần tử. Từ đó danh vang thiên hạ, người đến theo học càng đông. Lúc bấy giờ trong nước có giặc Quỷ mũi đỏ, một vị quan thị hầu vua bị bệnh ngã nhào xuống đất và sau đó bệnh tật lan khắp mọi nơi, trong nước nhiều nơi mắc bệnh, người ốm người chết thiệt hại rất nhiều. Nhà vua vội truyền hịch đi các nơi: nếu ai trừ được giặc Quỷ vua sẽ gia phong tước lộc. Lão Tử liền vâng mệnh đến nơi có giặc Quỷ, người liền niệm chú rằng: “Đạo pháp bản vô đa, nam thần quán Bắc Hà, đô lai tam thất tự, tận diệt thế gian ma”. Đọc chú xong, Người lại thư phù vào gậy trúc và phóng đi bốn phương, các nơi đều yên ổn.
Quan địa phương tâu với triều đình, vua liền mời Lão Tử đến ban thưởng, mở tiệc khoản đãi và phong người là Đệ nhất nhân (người tài nhất). Lại cho ngài được hưởng thực ấp ở vùng An Việt huyện. Người bái tạ đức vua và trở về Thổ Hà trang. Về tới nơi Người liền cho xây dựng cung doanh trị sở. Khi xây xong Người cho mời các bô lão trong trang và tất cả học trò đến mở tiệc ăn mừng. Lúc sắp sửa ăn bỗng thấy đám mây năm sắc từ từ sa xuống đất, trong mây thấp thoáng có bóng người mặc áo đỏ, Lão Tử liền theo đám mây cưỡi rồng đỏ mà biến mất. Bấy giờ là năm Giáp Tý ngày 22 tháng 2 (đời vua An Dương Vương) Người đã hóa…
Mặc dù thần tích không hề nói Thái Thượng Lão Quân của làng Thổ Hà là Lão Tử nổi tiếng của Trung Hoa, nhưng tên của vị thành hoàng này hoàn toàn trùng với tên Lý Lão Đam – Lý Bá Dương. Lão Tử Trung Hoa lập công nghiệp rồi hóa thần ở Việt Nam, chuyện này phải giải thích sao đây?
Xem vào câu đối cổ trong đình Thổ Hà:
Đẳng Thích Già nhân tế quần sinh, phật pháp thiên cổ / thần tiên thiên cổ
Dữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh / Đạo Đức nhất kinh.
Dịch:
Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, phật pháp nghìn đời kiếp / thần tiên nghìn đời kiếp
Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một bộ kinh / Đạo Đức một bộ kinh.
Câu đối này dùng hình thức trình bày khá hiếm gặp. Trong một vế đối có đoạn được tách làm 2 một cách song song. Hình thức và nội dung này nêu bật quan niệm Tam giáo đồng nguyên: Đạo giáo của Lão Tử, Nho giáo của Khổng Tử và Phật giáo của Thích Ca sánh cùng nhau, song hành trong dân gian.
Một câu đối khác:
Huyền tham Thích điển công tỉ Vô Sơn, Đạo Đức nhất kinh truyền chí bảo
Quyết bản Khương công thuật khai Hoàng Thạch, thần tiên chung cổ hiển linh tung.
Dịch:
Huyền diệu vào tích Thích Ca, công đức như núi Vô Sơn, Đạo Đức kinh một bộ truyền báu vật.
Phù quyết gốc từ Khương Công, pháp thuật mở tảng Đá Vàng, thần tiên tự cổ xưa sáng dấu linh.
Câu đối nói tới sự hiện diện của Lão Tử trong phật điển. Đây là truyện “Lão Tử hóa hồ kinh”, kể rằng Lão Tử sau khi xuất quan ải đã đi sang Ấn Độ mở đầu phật giáo ở đó. Chuyện “Lão Tử hóa hồ” đã là đề tài tranh cãi của hai phái Đạo và Phật trong nhiều thời đại.
Vế sau ở câu đối trên còn nêu một điển tích khác, nói tới pháp thuật của Khương Thái Công Lã Vọng, người giúp Chu Vũ Vương nên nghiệp thiên tử ngàn năm. Khương Thái Công sau lại hóa hình là Hoàng Thạch Công, truyền sách binh pháp cho Trương Lương phò trợ Lưu Bang lập nhà Hiếu (Sử ký).
Qua những câu đối trên thì không còn nghi ngờ gì nữa: vị thành hoàng thờ ở Thổ Hà chính là Lão Tử, người mở đầu Đạo giáo, viết Đạo Đức kinh, cùng Khổng Tử dựng nên nền văn hóa tín ngưỡng Trung Hoa xưa. Thực ra đình Thổ Hà không chỉ là đình của làng mà đây là nơi từng được xuân thu quốc tế, tức là Thái Thượng Lão Quân ở đây là một vị thần mang tầm quốc gia của các triều đại Việt Nam xưa.
Theo Hoa sử thì Lão Tử sống muộn lắm cũng là vào đầu thời Đông Chu (thời Xuân Thu). Nhà Chu bị Tần Chiêu Tương Vương diệt vào năm 256 TCN. Còn nhà Thục của Việt Nam theo sử sách chép sớm lắm cũng chỉ bắt đầu từ năm 257 TCN. Từ thời Xuân Thu tới thời Thục An Dương Vương có cả vài trăm năm. Vậy làm thế nào Lão Tử của nhà Chu lại có thể giúp vua Thục ở nước Việt trừ yêu dẹp quỉ được?

Nam VietDong Chu

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.
Vế đầu câu đối trên cho biết Lão Tử, người mở đạo Giáo sống vào thời “Đông Chu” của Hoa sử. Còn vế dưới lại nói rõ “Nam Việt” là nơi “duy thử địa”, vùng đất duy nhất mà Lão Tử đã hóa thần tiên. Kết hợp hai vế đối này thì chỉ có cách hiểu hợp lý duy nhất là: nhà Chu của Hoa sử chính là nhà Thục của Nam Việt. Chỉ có vậy mới có thể giải thích vì sao Lão Tử Trung Hoa lại có mặt trong một triều đại ở Việt Nam.
Xem lại tiểu sử của Lão Tử được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên, nguyên văn như sau:
Lão tử giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử…
Thường được dịch là:
Lão Tử là người thôn Khúc Nhân, làng Lệ  huyện Khổ, nước Sở. Ngài họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy là Đam. Làm quản thủ thư viện nhà Chu. Khổng Tử đến Chu, hỏi Lão Tử về lễ…
Phần dịch trên đã không theo sát nguyên văn về quê hương của Lão Tử. Sử ký chép “Lão Tử người huyện Sở Khổ”, chứ không hề nói Lão Tử là người nước Sở. Đọc phần tiếp theo, Lão Tử “làm quản thủ thư viện nhà Chu”. Nhà Chu là thiên tử, là triều đại chính của thời Lão Tử nên trong đoạn văn không cần nêu “trong triều Chu” thì vẫn phải hiểu Lão Tử là người nước Chu, huyện Sở Khổ. Vì Lão Tử ở nước Chu nên Khổng Tử mới đến Chu tìm gặp.
Một sách khác là Lão Tử Minh chép về xuất xứ của Lão Tử, nguyên văn như sau:
Lão tử tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên.
Dịch:
Lão Tử tính Lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ. Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng này là một khu đất cao cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân tài đức.
Tương tự như Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử Minh cũng không nói Lão Tử người “Sở quốc” mà nói Lão Tử người “Sở Tương huyện”. Câu tiếp theo ở xuất xứ này lại một lần nữa nói tới nhà Chu. Rõ ràng phải hiểu Lão Tử là người nước Chu ở huyện Sở Tương.
Đoạn trên trong Lão Tử Minh còn có nói “Sở tự xưng vương”, thế mà “huyện Tương” lại “trở nên hoang vu”? Nước Sở xưng vương thì huyện Tương nước Sở phải thịnh vượng mới đúng chứ sao lại trở nên hoang vu?… Huyện Tương hoang vu bởi vì huyện này không nằm ở Sở, mà nằm ở Chu.
Chữ Sở trong Sở Khổ hay Sở Tương huyện có thể chỉ là từ chỉ phương hướng: Sở = Sủy = Thủy = nước là tượng của phương Bắc ngày nay. Như vậy lai lịch của Lão Tử theo Sử kýLão Tử Minh trùng với thần tích của đình Thổ Hà về việc có một nhà hiền triết đến từ phương Bắc. Mạnh dạn hơn nữa, có thể Sở Khổ hay Thủy Khổ phiên thiết cho chữ Thổ, chính là Thổ Hà, tên làng thờ Lão Tử ngày nay. Làng này có con sông Cầu chảy qua đúng như sách Lão Tử Minh chép.
Câu đối ở đình Thổ Hà:
Do Chu ngật kim, nhất kinh truyền đạo đức
Tại hà chi tứ, vạn cổ chấn anh linh.
Dịch:
Từ thời Chu tới nay, một bộ kinh truyền đạo đức
Cạnh sông Cầu bên bến, chục ngàn đời chấn linh thiêng.
Về hàng trạng của Lão Tử trong Lão Tử Minh chép:
Lão tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương.
Dịch:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.
Nhà Chu có vùng Tam Xuyên (ba sông) như trong sách dẫn trên. Tam Xuyên là đất Đông Chu, nơi Tần Thủy Hoàng sau khi diệt Chu đã lập quận Tam Xuyên. Nhưng: Tam Xuyên = Tam Giang. Tên này còn lưu trong tên thánh Tam Giang, tức Trương Hống – Trương Hát, hai vị thần bên dòng sông Như Nguyệt, con sông chảy qua làng Thổ Hà.
Thần tích ở đình Thổ Hà về Lão Tử:
Vua (Thục An Dương Vương) xây thành (Cổ Loa) có những u hồn và tà ma quấy nhiễu, cứ xây xong lại đổ. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo vua rằng: xin vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi Người sai Thanh giang sứ (tức thần Kim Quy) đến giúp, giết Bạch kê tinh trong núi Thất Diệu, lại đào được hài cốt Bạch kê đem đốt đi, từ đó yêu ma tan hết, lại đào thấy nhạc khí thời cổ (như chiêng trống đồng).
Có thể thấy truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa và cơn “địa chấn” lúc giao thời Tây – Đông Chu chỉ là một. Diễn biến việc này có thể như sau: Lão Tử sống vào cuối thời Tây Chu (Chu U Vương) sang tới đầu thời Đông Chu. Khi nhà Chu chuyển về phía Đông, tới vùng Tam Xuyên – Tam Giang, thì gặp trận động đất lớn. Thanh lang thành (Lạc Dương) bị rung chuyển. Lão Tử nhân đó nói là âm khí của thời Hạ Thương phát hại, nhằm răn khuyên thiên tử Chu. Truyền thuyết Việt chép thành vua Thục (vua Chủ) xây thành Cổ Loa bị đổ, phải nhờ Lão Tử phái Thanh Giang sứ giả (Thương sứ) tới giúp dẹp yêu quỉ thì thành mới xây được.

Cua vong

Cửa võng đình Thổ Hà

Câu đối ở cửa võng đình Thổ Hà:
Qui giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỉ
Long năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên.
Dịch:
Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỉ
Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên.
Thần tích, câu đối trong dân gian Việt chính là những “bộ kinh” còn truyền thiên thu về lịch sử Hoa Việt chói ngời. Nhà Chu từ lúc Khương Thái Công câu cá bên sông … Tô Lịch,  Chu Vũ Vương cùng … Thánh Gióng đánh giặc Ân, tới Lão Tử người … “huyện Thổ Hà” khai mở Đạo giáo, Chu Bình Vương dời đô về Cổ Loa… Tất cả đều còn lưu trong bia đá, bia gạch, bia gỗ, bia giấy, bia miệng … ở Việt Nam.

Văn nhân góp ý:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu, kinh đô phía đông nhà Chu gọi là Đông đô. Đông đô là tên gọi khác của Hà thành … vì thế … mới có …
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.