Đền Cuông ở xã Xuân Ái, Nghệ An dưới chân núi Mộ Dạ, là nơi An Dương Vương cầm sừng văn tê bảy tấc rẽ nước đi ra biển, kết thúc thời kỳ nhà Thục, hóa thần biển linh thiêng.
Nghi môn ngoài
萬古文明開故國 九重宮殿對高山 Vạn cổ văn minh khai cố quốc Cửu trùng cung điện đối cao sơn. Dịch nghĩa: Vạn cổ văn minh mở nước cũ Chín tầng cung điện đối non cao. Tác giả: Đặng Văn Thụy.
崑崙城人道思龍萬古民祠歐歌樂利 暮亱山地傳舞鳯億年帝統紀念欽崇 Côn Lôn thành nhân đạo Tư Long, vạn cổ dân từ, âu ca lạc lợi Mộ Dạ sơn địa truyền vũ phượng, ức niên đế thống kỷ niệm khâm sùng. Dịch nghĩa: Núi Mộ Dạ đất truyền phượng múa, muôn năm kỷ niệm tôn sùng dòng đế Thành Côn Lôn người ngỡ rồng bay, vạn cổ hát ca vui mừng đền dân. Tác giả: Cao Xuân Dục.
水去螺城通𧉻海 風臨夜嶺蓋陽𦥄 Thủy khứ Loa thành thông bạng hải Phong lâm Dạ lĩnh cái dương đài. Dịch nghĩa: Nước đến thành Loa qua biển bạng Gió về núi Dạ phủ đài cao. Tác giả: Đặng Văn Thụy.
人傑著靈聲仰聖赫英乎庙貌 乾坤逢泰運苛天保護之威儀 Nhân kiệt trứ linh thanh, ngưỡng thánh hách anh hồ miếu mạo Càn khôn phùng thái vận, hà thiên bảo hộ chi uy nghi. Dịch nghĩa: Người giỏi nổi tiếng thiêng, ngưỡng thánh anh tỏ thay miếu mạo Trời đất gặp vận lớn, mong trời bảo hộ thật uy nghi.
德大巍巍存越地 功成赫赫拓南天 Đức đại nguy nguy tồn Việt địa Công thành hách hách thác Nam thiên. Dịch nghĩa: Đức lớn nguy nga cùng đất Việt Công thành rạng rỡ mở trời Nam.
Nghi môn trong
天像地形半月築成僊化鶴 民和神福三辰不害罪維魚 Thiên tượng địa hình, bán nguyệt trúc thành tiên hóa hạc Dân hòa thần phúc, tam thời bất hại tội duy ngư. Dịch nghĩa: Tượng trời hình đất, nửa tháng xây nên, tiên hóa hạc Hòa dân phúc thần, nhiều khi tránh họa lúc hiểm nghèo. Tác giả: Cao Xuân Dục.
保國護民天地無私之雨露 除邪殺鬼日月悉照之春陽 Bảo quốc hộ dân, thiên địa vô tư chi vũ lộ Trừ tà sát quỷ, nhật nguyệt tất chiếu chi xuân dương. Dịch nghĩa: Giúp dân giữ nước, mưa móc đất trời là vô tư Diệt quỷ trừ tà, ánh xuân nhật nguyệt chiếu ngời rạng. Tác giả: Cao Xuân Dục.
堂上金龟微聖瑞 庭前雀彩献神威 Đường thượng kim quy vi thánh thụy Đình tiền tước thải hiến thần uy. Dịch nghĩa: Trên điện rùa vàng ngời điềm thánh Trước đình sắc công tỏ oai thần.
萬民奴隸人咸慕 千里江山國永存 Vạn dân nô lệ nhân hàm mộ Thiên lý giang sơn quốc vĩnh tồn. Dịch nghĩa: Vạn dân tùy phục, người đều nhớ Nghìn dặm non sông, nước mãi còn. Tác giả: Cao Xuân Khôi.
Bình phong cạnh nhà bia
螺城自古銘青史 鶴嶺而今雀夜山 Loa thành tự cổ minh thanh sử Hạc lĩnh nhi kim tước Dạ sơn. Dịch nghĩa: Thành Loa từ cổ đề trong sử sách Núi Hạc tới nay công trên Dạ sơn. Tác giả: Đồ Tương.
T
七寸文犀歸海岸 千秋夜嶺獨高𦥄 Thất thốn văn tê quy hải ngạn Thiên thu Dạ lĩnh độc cao đài. Dịch nghĩa: Bảy tấc sừng tê về bờ biển Nghìn thu núi Dạ dựng đài cao. Tác giả: Đồ Tương.
Tam quan mặt ngoài
分定天書北有古城南古廟 靈傳地勝山留文雀海文犀 Phân định thiên thư, Bắc hữu cổ thành Nam cổ miếu Linh truyền địa thắng, sơn lưu văn tước hải văn tê. Dịch nghĩa: Sách trời phân định, Bắc có thành cổ, Nam có miếu Đất lành truyền thiêng, núi lưu chim công, biển lưu tê. Tác giả: Đặng Văn Thụy.
天無淫雨烈風海瞻顯聖 地有崇山秀嶺亭集群賢 Thiên vô dâm vũ liệt phong, hải chiêm hiển thánh Địa hữu sùng sơn tú lĩnh, đình tập quần hiền. Dịch nghĩa: Trời không mưa to gió lớn, biển ngưỡng thánh tỏ Đất có núi đẹp non cao, đình tụ quần hiền. Tác giả: Cao Xuân Dục.
帝王五十年功在生靈名在史 聖神千萬古山為庙殿海為螢 Đế vương ngũ thập niên, công tại sinh linh danh tại sử Thánh thần thiên vạn cổ, sơn vi miếu điện hải vi huỳnh. Dịch nghĩa: Đế vương năm mươi năm, công tại sinh linh, danh tại sử Thánh thần nghìn vạn cổ, núi làm miếu điện, biển làm đèn. Tác giả: Cao Xuân Dục.
天之大道曰生行雲施雨 神之爲德其盛保國護民 Thiên chi đại đạo viết sinh, hành vân thí vũ Thần chi vi đức kỳ thịnh, bảo quốc hộ dân. Dịch nghĩa: Đại đạo của trời là sinh, làm mây gieo mưa Đức ban của thần rất thịnh, giữ nước giúp dân. Tác giả: Cao Xuân Khôi.
主君錫福弘軟人物安存 上等靈祠擁????? Chủ quân tích phúc hoằng nhuyễn nhân vật an tồn Thượng đẳng linh từ ung ? ? ? ? ?
Tam quan mặt trong
五彩竜城天子氣 一行虎步太平容 Ngũ thái long thành thiên tử khí Nhất hàng hổ bộ thái bình dung. Dịch nghĩa: Năm sắc thành rồng khí thiên tử Một hàng bộ hổ vẻ thái bình. Tác giả: Đồ Tương.
德及灵禽夜嶺當年儀瑞雀 威????山?處斬妖雞 Đức cập linh cầm, Dạ lĩnh đương niên nghi thụy tước Uy trấn? quỷ? mị?, Diệu? sơn thử? xứ trảm yêu kê. Dịch nghĩa: Đức tới chim thiêng, đỉnh Dạ năm nay còn công lành Oai trấn quỷ mị, núi Diệu chốn đó chém gà yêu.
泮水靈犀龍海月明登素魄 却書彩鳯雀山星耀見祥光 Phán thuỷ linh tê, long hải nguyệt minh đăng tố phách Khước thư thái phượng, Tước sơn tinh diệu kiến tường quang. Dịch nghĩa: Sừng tê thiêng rẽ nước, biển rồng trăng soi tỏ hồn sáng Phượng rực rỡ mang thư, núi Cuông sao chiếu thấy ánh lành.
四千年演轄幾桑滄龍堆壁聚 億萬禩驩州好風景鳯嶺松高 Tứ thiên niên Diễn hạt kỷ tang thương, long đôi bích tụ Ức vạn tự Hoan châu hảo phong cảnh, phượng lĩnh tùng cao. Dịch nghĩa: Bốn nghìn năm hạt Diễn bao cuộc bể dâu, gò rồng đá tụ Muôn vạn thờ châu Hoan đẹp vùng phong cảnh, núi phượng thông cao. Tác giả: Đặng Văn Thụy.
帝王統紀開全越 今古山河奠我驩 Đế vương thống kỷ khai toàn Việt Kim cổ sơn hà điện ngã Hoan. Dịch nghĩa: Kỷ thống đế vương mở toàn Việt Sông núi xưa nay vững đất Hoan.
Bái đường
休休焉保國护民聖澤留恩億年乘祀 洋洋乎在上在下神机感應歷代欽崇 Hưu hưu yên, bảo quốc hộ dân, thánh trạch lưu ân ức niên thừa tự Dương dương hồ tại thượng tại hạ, thần cơ cảm ứng lịch đại khâm sùng. Dịch nghĩa: Yên lành thay, giữ nước giúp dân, ơn thánh thấm lưu, muôn năm thờ nối Tràn trề đó, ở trên ở dưới, cơ thần cảm ứng, các đời kính tôn. Tác giả: Cao Xuân Dục.
Hậu cung
半幅江山留故國 八方風雨會中都 Bán bức giang sơn lưu cố quốc Bát phương phong vũ hội trung đô. Dịch nghĩa: Nửa bức non sông lưu nước cũ Tám phương mưa gió hội giữa đô. Tác giả: Đặng Văn Thụy.
區貉千秋開帝國 暮山萬古仰神祠 Âu Lạc thiên thu khai đế quốc Mộ sơn vạn cổ ngưỡng thần từ. Dịch nghĩa: Âu Lạc nghìn thu mở đế quốc Núi Mộ vạn năm ngưỡng đền thần. Tác giả: Đặng Văn Thụy.
神格思洋洋在上 王靈也赫赫厥聲 Thần cách tai dương dương tại thượng Vương linh dã hách hách quyết thanh. Dịch nghĩa: Vẻ thần đó dương dương ở trên Nét thiêng vua rờ rỡ tiếng vang.
一統輿圖開宇宙 千秋廟???? Nhất thống dư đồ khai vũ trụ Thiên thu miếu ? ? ? ?
Đánh Tây Âu bắt Dịch Hu Tống Rể Lạc Ấp diệt quốc Đông Chu.
Thiên hạ của nhà Thục khởi từ Thục chủ Âu Cơ, lập bởi Thục Phán Hùng Quốc Vương, chia đất nước làm 15 bộ, phân trăm anh em cùng bọc đồng bào ra trấn giữ trăm nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, quan lang thổ tù phụ đạo, phò trợ Thiên tử giữ một Thiên hạ an bình. Nước Văn Lang trải qua thời kỳ Tây Thục đô đóng ở đất Âu – Ai Lao, Đông Thục xây thành tại Lạc ấp. Huyền Thiên Lão Tử cưỡi trâu đề cao Đại Đạo. Vạn thế sư biểu Khổng Tử đúc kết Ngũ Kinh. Cửu đỉnh từ thời Kinh Dương Vương là bảo vật truyền quốc đặt ở thế miếu nhà Thục, tượng trưng cho quyền lực vô song của Thiên tử với Thiên hạ họ Hùng. 800 năm vương triều Thục truyền đến Chu Noãn Vương.
Bấy giờ gặp hội cường Tần Tằm ăn lá Bắc toan lần cành Nam.
Tần quốc do họ Triệu thế tập, vốn là một công hầu của vua Thục được phong ở vùng Tây Bắc là đất Xuyên Thục (Tứ Xuyên). Thời Triệu Cừ Lương nhờ có biến pháp của Thương Ưởng, Tần đã trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thời loạn các sứ quân.
Dưới thời Triệu Tứ, nước Tần bỏ tước Công mà xưng Vương. Huệ Văn Vương xua quân chiếm đất Ba Thục, tức đất gốc của Bá Thục Cơ Xương ở Quý Châu. Con của Triệu Tứ là Triệu Đảng nối ngôi cha, tự xưng là Vũ Vương, vào kinh đô Cảo của Tây Thục ở Vân Nam mà “hỏi thăm” Cửu đỉnh. Nhưng thời vận của nhà Tần chưa đến lúc, Triệu Đảng bị đỉnh rơi gãy chân, rồi chết sau mới có 4 năm tại vị.
Triệu Tắc lên tân chính thay anh trai, tiếp tục ý đồ vương nghiệp. Chiêu Tương Vương chiếm vùng đất Tây Âu của nhà Thục ở Vân Nam, bắt được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hậu Tông, tức vị vua dòng dõi cuối cùng từ Dịch Vương Lang Liêu là Chu Noãn Vương. Sử Việt gọi Chu Noãn Vương là Hùng Nghị Vương.
Nước Văn Lang còn lại phần đất phía Đông là Lạc Ấp ở Cổ Loa do Đông Chu Quân nắm giữ. Là con của Thục chủ Ai Lao (Tây Chu) nên Đông Chu Quân cũng được gọi là An Dương Vương.
Tần Chiêu Tương Vương Triệu Tắc tiếp tục lập mưu, cho cháu trai của mình là Trọng Thủy sang làm con tin ở Lạc Dương, lấy một công chúa của Đông Chu An Dương Vương là Mỵ Châu. Trọng Thủy sau đó về nước kế vị, là Tần Trang Tương Vương. Nhờ thông thạo đất Âu Lạc từ khi còn ở rể tại Lạc Ấp, Trang Tương Vương tiến quân chiếm nốt đất Đông Chu, đuổi Đông Chu Quân chạy ra biển, cầm sừng văn tê bảy tấc đi gặp thần Kim Quy bên bờ Đông Hải. Quý tộc của nhà Thục được Trang Tương Vương cho an trí ở thành Châu Sa, nay thuộc Quảng Ngãi.
Nhà Thục từ Âu Cơ – Thục Phán kết thúc. Nhưng vì dòng họ Triệu Tần vốn cũng là con cháu công hầu của nhà Thục, lại bắt đầu từ phía Tây, từ đất Xuyên Thục (Tứ Xuyên), chiếm Ba Thục (Quý Châu) rồi Tây Âu (Vân Nam) và Lạc Dương (Lạc Việt) nên Tần Vương cũng đã được gọi là Thục An Dương Vương. Tới khi đứa con của 2 dòng Thục giữa Trọng Thủy và Mỵ Châu là Triệu Chính lên ngôi, dẹp loạn các sứ quân, chấm dứt cục diện 9 chúa tranh vua, xưng là Tần Thủy Hoàng Đế, dời kinh đô về giữa đất 2 nhà Thục. Thiên hạ họ Hùng bước sang thời kỳ quốc gia thống nhất, lập chế độ quận huyện, quân chủ tập quyền.
Chiêu lăng tùng bách kim hà xứ Thục quốc sơn hà tự cố cung.
Nghi môn đền Thượng Cổ Loa
Tượng An Dương Vương ở đình Xuân Ái, Nghệ An
Đền Cuông, nơi thờ An Dương Vương về biển ở Diễn Châu, Nghệ An
Đền Vĩ, Cao Viên, Thanh Oai, Hà Nội thờ Vũ Chiêu Tâm, tướng chống Tần
Các ngọc giản có chữ Tín lễ Tần Vương chi chủ
Mặt trống đồng có chữ triện thời Tần
Đức Thánh Chèm Lý Thân và Bạch Tĩnh Công chúa, con gái Tần Thủy Hoàng
Tượng Mỵ Châu thờ trong đền tại Cổ Loa
Ban Tứ trụ triều đình An Dương Vương ở đền Thượng Cổ Loa
Nghi môn nội đền Thượng Cổ Loa
Đình làng Đình Vĩ, Gia Lâm, Hà Nội, thờ Quý Minh Trọng Thủy
Nội điện đình Hương Triện, Gia Bình, Bắc Ninh, quê ngoại của An Dương Vương
Rước kiệu trong lễ hội đình Chèm, Từ Liêm, Hà Nội
Kim Quy trong đình Thư Cưu, Đông Anh, Hà Nội
Tượng An Dương Vương bằng đồng trong đền Thượng Cổ Loa, bảo vật quốc gia
Trống đồng dạng Tần Thục
Những chiếc kiếm Thục trong bảo tàng Hoàng Long, Thanh Hóa
Khuyên bạo quân Huyền Thiên cầu Thất Diệu Cứu nhân thế Khổng Tử soạn Thư Kinh.
Từ khi Khương Thái Công câu cá bên bến Việt Trì, Thục Phán dời đô về Cảo kinh đất Âu, Thục triều trải qua mấy trăm năm, truyền đến đời Chu U Vương. U Vương bản tính quái dị, sủng ái người đẹp Bao Tự. Để mua tiếng cười của mỹ nhân, U Vương đã cho nổi lửa Ly Sơn, kinh động các nước chư hầu anh em mà làm trò vui. Đánh mất đạo trời, không bao lâu sau Cảo kinh bị Khuyển Nhung tấn công. U Vương phải bỏ kinh thành mà chạy trốn. Hùng Tạo Vương nối ngôi buộc phải dời kinh đô về đất Lạc. Từ đó, thế vận nhà Thục đã suy, chư hầu tự nổi lên xưng hùng xưng bá thiên hạ.
Huyền Thiên Trấn Vũ vốn là một vu sư, quê ở đất Kim Bảng (Hà Nam), làm quan thủ thư của nhà Thục ở Lạc Ấp. Trước cảnh U Vương bạo ngược, lại thêm khi dời đô vùng Tam Giang gặp cảnh động đất liên tục. Thành Lạc Dương cứ xây lại đổ. Huyền Thiên nhân đó bèn lập đàn trên núi Võ Đang ở Cổ Loa, tế cầu trời đất.
Trên núi Thất Diệu, sau khi đăng đàn tế lễ, Thục An Dương Vương đã đào được các chiêng trống, xương cốt cổ, vốn là di tích của cuộc chiến Hùng – Thục dưới thời Vũ Vương và Thánh Gióng diệt Trụ. Huyền Thiên Lão Tử dựa vào đó đã bày chuyện yêu quỷ Ma Lôi, Bạch Kê là hậu duệ của Hùng Duệ Vương phá hại, nhằm mục đích khuyên răn Thục U Vương.
Huyền Thiên Lão Tử còn giảng đạo ở Lạc Dương. Trước khi ra đi, ngài đã ghi những điểm cốt yếu trong học thuyết của mình trong cuốn Đạo Đức kinh và để lại cho quan lệnh doãn Kim Quy làm báu vật thấu suốt nhân gian. Học thuyết “móng rùa” của tiên nhân Huyền Thiên truyền lại cho Thục An Dương Vương, góp phần củng cố Thục triều kéo dài thêm hơn 400 năm nữa.
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo Giáo Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Nối tiếp tư tưởng Đại Đạo của Lão Tử, một triết gia khác đến từ nước Lào là tên là Trọng Ni. Ông đi bôn ba khắp các nước chư hầu để giảng về Lễ, nhưng không được trọng dụng. Cuối cùng ông quay về quê hương bên dòng sông Lam, mở trường thu nhận đệ tử, soạn kinh san định lại lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, âm nhạc của thời Văn Lang, viết bằng chữ Khoa đẩu. Điển chế lễ nhạc từ Cao Lỗ Vương, Kinh Dịch âm dương bánh chưng bánh dày từ Lang Liêu, lịch sử Xuân Thu chép đến đời Lỗ Ai Công thì dừng bút, phong dao của những bậc tiền hiền như Chu Công, Thiệu Công cùng với lời hay ý đẹp trong dân gian đã được Khổng Tử biên chép, tuyển soạn. Nền tảng của Nho Đạo được xây dựng, đúc kết tinh hoa văn hóa Hùng Thục từ quốc tổ Hùng Vương mà truyền cho vạn thế.
Sở bang lộc mộng địa chung linh, vạn niên tiên chủ Lỗ ấp lân thư thiên thụy biểu, thiên tải tố vương.
Tượng Lão Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang
Tượng Khổng Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang
Đình Võ Liệt ở Thanh Chương, Nghệ An, từng là nơi thờ Khổng Tử
Cửa võng đình Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang
Ngai vị Thiên Tôn ở đền Đa Giá, Ninh Bình
Hoành phi “Đại Thành miếu” đình Trung Cần, Nam Đàn, Nghệ An
Huyền Thiên Trấn Vũ, tranh thờ người Dao ở Yên Bái
Huyền Thiên Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An
Huyền Thiên Đại Thánh ở đền Huyền Kỳ, Quỳnh Lưu, Nghệ An
Múa nam nữ đồng tử trong lễ hội Thổ Hà, Bắc Giang
Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn và Chu Lăng Độ mạng trên tranh thờ của người Dao
Tượng Khổng Tử ở văn chỉ Minh Hương, Hội An
Văn Thánh miếu ở Hội An
Đình Thượng Lực Giá, Thiên Tôn, Ninh Bình
Đình Tri Lễ, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng.
Đình Thượng Nguyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng
Tam Thanh ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Diệu Thiện Quan Âm ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Trang Vương ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Tam Đa, Song Đồng Ngọc Nữ trong lễ hội Thổ Hà
Trâu xanh ở đình Giáp Nhị, Thịnh Liệt, Hà Nội
Huyền Thiên Trấn Vũ ở động Thiên Tôn, Ninh Bình
Ngũ môn đền Sái trên núi Võ Đang ở Đông Anh
Ngọc hư cung khuyết trong đền Huyền Thiên ở Hàng Khoai, Hà Nội
Trăm anh em phân bình thiên hạ Một Dịch kinh đúc kết trống đồng
Sau cuộc Phong thần ở núi Vệ Linh, Thái Công Khương Thượng trở về đất phong của mình là nước Tề, ở vùng ven Biển Hồ. Cơ Phát lên ngôi xưng Thiên tử và dời lại kinh đô về đất Cảo ở Ai Lao (Âu – Vân Nam). Đất Âu với Cảo kinh là vùng phía Tây Văn Lang. Đất Lạc trở thành vùng đất phía Đông của nước Văn Lang.
Các đại công thần lập quốc khác cùng đều được phân phong tương ứng theo công trạng. 2 đại thần lớn nhất lúc này là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích.
Chu Công Đán là một trong trăm người em của Hùng Quốc Vương Cơ Phát. Ông được phong ở đất Lào (Lỗ) nhưng không về nước mà ở lại triều đình. Võ Vương mất, con trai lên ngôi là Chu Thành Vương, thì Cơ Đán được giữ chức Thái bảo, còn gọi là Lỗ quốc Thái sư, tức thần Cao Lỗ.
Cao Lỗ dùng chiếc “móng rùa” Dịch lý mà chế thành trấn bảo của nước Văn Lang là trống đồng. Ông là người đã phát triển Dịch học từ thời Lang Liêu Văn Vương, đặt ra các lời hào cho 64 quẻ của Kinh Dịch. Cũng Chu Công là người đã lập nên khu vực Lạc thành ở Đông Ngàn Cổ Loa, làm nơi an trí đám ngoan dân dòng dõi nhà Ân tại đây.
Lỗ quốc lúc này bao gồm vùng đất hai bên bờ sông Mã, mà trung tâm của nó là vùng Thanh Hóa. Cao Lỗ được thờ ở đây dưới tên Đồng Cổ Sơn thần, nghĩa là vị thần tổ trống đồng (Sơn = tổ). Vùng đất trống đồng Đông Sơn chính là nước Lỗ của Chu Công.
Người anh em cùng bọc khác là Thiệu Công Thích, được phong ở đất Yên. Nước Yên nay ở quãng miền Trung Việt. Cũng như Chu Công Đán, Cơ Thích ở lại trong triều phụ giúp Chu Thành Vương, dẹp phản loạn. Ông làm đến chức Thái phó trong Thục triều. Nói về ông có điển tích cây “Cam đường bất phạt” lấy từ Kinh Thư thiên Thiệu Cáo, khi Thiệu Công dùng đạo trời khuyên vua hãy nhân từ mà tha cho dân đất Lạc (tức hậu duệ của Hùng Vương được an trí tại đây).
Thời Thành Vương nước Việt Thường, là con cháu nhà Hạ Trung hưng ở vùng cửa sông Dương Tử cử sứ giả qua ba lần thông dịch vào Cảo kinh cống Chim trĩ trắng, chính thức gia nhập vào thiên hạ của nhà Chu. Chu Công ban cho sứ giả Việt Thường cỗ xe chỉ Nam dẫn đường. Sứ giả Việt Thường đi dọc sông Mê Kông qua các nước Tề (Phù Nam), Lỗ (Lâm Ấp) rồi men theo bờ biển Đông mà về nước.
Người anh em khác trong bọc trăm trứng của Hùng Quốc Vương là Cơ Cao. Khi Hùng Quốc Vương phạt Đế Tân, Cơ Cao cầm búa nhỏ, Cơ Đán cầm búa lớn đi hộ vệ. Sau này Cơ Cao tiếp quản việc cai trị ở Lạc Ấp và có công ổn định được đám ngoan dân tại đây. Vì thế nên ông được phong là Tất Công (tất trong hoàn tất, lấy ý của thiên Tất Mệnh trong Kinh Thư). Cơ Cao là tổ của Phan tộc, đất phong ở Phù Nam. Ngày nay ông được thờ ở vùng Thị Cấm Xuân Canh tại Hà Nội với tên Phan Tây Nhạc.
Trăm anh em của cùng một mẹ Âu Cơ đã chia nhau nơi đầu núi góc biển, an định Thiên hạ, đồng tôn Hùng Quốc Vương là Thiên tử. Chế độ phong kiến thị tộc phân quyền chính thức được khởi đầu. Các dòng họ người Việt cha truyền con nối cũng bắt đầu từ đó.
Ngôi vị thiên tử nhà Chu truyền được mấy đời, tới Chu Mục Vương cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn tìm cung điện của Hoàng Đế và gặp được Tây Vương Mẫu. Đó là chuyện Lang Liêu cầu tiên ở núi Tam Đảo và kết duyên với nàng Lăng Thị Tiêu, thần núi ở Tây Thiên.
Nếp gấp phân phong, lễ nhạc của nước Văn Lang đã định hình văn hóa xã hội Việt, mãi đi vào chính sử nước nhà với tên Văn Lang – Âu Lạc của các vị vua Hùng, vua Thục.
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Tranh sứ tế lễ thời Hùng Vương ở Bảo tàng đền Hùng, Phú Thọ.
Cung thờ Cao Lỗ ở Cao Đức, Bắc Ninh.
Đền thờ Cao Lỗ trong cụm di tích Thành Cổ Loa
Đền Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa
Núi Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa
Mặt trống đồng Gia Phú, bảo vật quốc gia ở Lào Cai
Mặt trống đồng Pha Long, bảo vật quốc gia ở Lào Cai.
Đền Cao Lỗ ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Nội điện đình Nghi Tàm, Hà Nội thờ Lỗ quốc Thái sư
Đền Trần Đăng, Ứng Hòa thờ Cao Lỗ
Trống đồng
Đình Tri Cẩn thờ Cao Lỗ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Bình đồng với bài minh văn nhắc tới tên của 10 vị vua thời Tây Chu
Cự thạch Thạch Bàn trên đỉnh Phù Nghi, Tam Đảo
Đình Dữu Lâu, Việt Trì, nơi từng có phủ Lang Liêu
Đình Hòe Thị ở Xuân Phương, Hà Nội thờ Phan Tây Nhạc
Thi nấu cơm trong lễ hội làng Thị Cấm, Xuân Phương, Hà Nội tưởng nhớ Phan Tây Nhạc (ảnh Nguyễn Vinh Việt)
Sưu tầm đồ đồng Đông Sơn ở nhà nghệ nhân họ Thiệu tại Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Bến Việt Trì Thái Công câu cá Núi Vệ Linh Thánh Gióng phong thần.
Thục Vương Cơ Xương là người ở vùng đất Âu, đánh bại Lạc hầu Sùng Lãm, dời đô từ đất Âu về đất Lạc, dựng nước Âu Lạc, lập kinh thành Phong Châu. Sử Việt gọi Cơ Xương là Âu Cơ. Mặc dù Âu Cơ Xương đã chiếm được 2 vùng Tây và Bắc (Nam nay) của thiên hạ, nhưng đe dọa từ Hùng Duệ Vương Đế Tân vẫn không ngừng tăng lên.
Lo lắng trước vận nước khó khăn, một hôm Âu Cơ đi dạo ngoài thành Phong Châu, cạnh chùa Hoa Long ở bến Việt Trì. Chợt thấy một lão ông tuổi ngoài 80, cầm một cây cần trúc đứng trên bàn thạch bên bến sông Việt Trì, dáng vẻ ung dung, có cốt cách của thần tiên. Âu Cơ lấy làm lạ tiến đến hỏi chuyện, thì thấy quả đúng đây là người hiền tài hiếm có, có thể phò tá gây dựng vương nghiệp thiên thu. Cơ Xương bèn phong cho ông lão làm Thái Công, giao phó hết trọng trách trong nước cho Lã Vọng.
Một ngày đẹp trời Cơ Xương về bên đất Hiền Lương ở Hạ Hòa, Phú Thọ mà hóa về trời. Con trai Cơ Xương là Cơ Phát hay Thục Phán lên nối tiếp sự nghiệp, tôn phong cho cha mình là Văn Lang (Văn Vương). Lập đền thờ ở xã Hiền Lương (Hiền vương), ngàn năm hương hỏa không cùng.
Cơ Phát khi chưa kế vị có tên là Ninh Vương. Người Việt thờ ông là Hùng Linh Công ở vùng Việt Yên (Bắc Giang). Cũng từ tên gọi này mà vùng Bắc Ninh xưa được gọi là Vũ Ninh, chỉ Ninh Vương Cơ Phát. Khương Thái Công được sự cầu hiền của Văn Vương, dốc lòng phò trợ Cơ Phát, phát loa gọi khắp bốn phương tám hướng, chiêu hiền tuyển tướng, kết tập chư hầu, hẹn ngày phạt Trụ. Sứ giả đi đến làng Phù Đổng ở Vũ Ninh thì gặp được thiên thần giáng thế trong một cậu bé 3 tuổi làng Gióng, vươn vai phút chốc đã thành một đại tướng. Thái Công lấy Na Tra làm tướng tiên phong, gấp rút chuẩn bị quân đội đối phó với giặc Ân.
Lúc này Đế Tân sai Thạch Linh Thần tướng cùng các nữ tướng Ân là Ma Cô Tiên, Bạch Kê dẫn quân Bắc chinh (Nam nay). Thạch Linh kéo quân tới vùng núi Châu Sơn ở Vũ Ninh, đại chiến với Thánh Gióng dưới chân núi. Lửa cháy rực trời, khói bụi tung mù mịt. Na Tra nhổ tre đằng ngà quét sạch quân Ân. Thạch Linh Thần tướng tử trận ở vùng Yên Vệ.
Tiêu diệt được cánh quân chủ lực của Đế Tân, Thục Phán cùng Khương Thái Công giao hẹn chư hầu cùng phát binh đến cánh đồng Mục Dã, quyết một trận sống mái với Duệ Vương. Đế Tân thất thế, nổi lửa thiêu Lộc Đài rồi tự mình nhảy vào lửa tự vẫn.
Cơ Phát làm chủ được thiên hạ họ Hùng, xưng là Võ Vương. Sử Việt gọi là Hùng Quốc Vương, người con đã theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, đóng đô Phong Châu.
Hùng Quốc Vương lên ngôi Thiên tử, phân phong cho các họ tộc làm chư hầu bình phong phên dậu ở trăm nơi đầu núi góc biển, được quyền thế tập cha truyền con nối, đặt ra trăm họ, định ra lễ nhạc trăm quan. Thiên hạ họ Hùng chưa bao giờ lại rộng lớn như thế này, Đông giáp biển Thái Bình Dương, Tây qua Đại Thực, Bắc quá Hoàng Hà, Nam tới vịnh Thái Lan.
Để tưởng nhớ các tướng sĩ của cả 2 bên hy sinh trong cuộc chiến Hùng – Thục, Thái Công Thánh Gióng về lại đất Lạc, lập đàn tế ở núi Vệ Linh, xướng bảng phong thần cho những anh hùng liệt sĩ. Hùng Duệ Vương Đế Tân vốn là thiên tử của tiền triều nên được tôn làm vua Địa phủ, Trung Nguyên Xá tội, lập đền thờ trên núi Châu Sơn. Tiên phong Na Tra làm thần núi Sóc Sơn, hộ trì đất nước.
Nhớ xưa đương thủa triều Hùng Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa Trời thương Bách Việt sơn hà Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài Lên ba đương tuổi anh hài Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền Một phen khói lửa dẹp yên Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời…
Tượng Ma Bà (Ma Cô Tiên) ở Phùng Dị, Bắc NinhCô tướng Ân trong lễ hội Phù Đổng 2022Phường Ải Lao trong lễ hội Phù Đổng 2022Thạch Linh Thần tướng cưỡi voi ở Việt Yên, Bắc GiangTriệu Nguyên Sư (Triệu Công Minh – tướng của nhà Ân) trong tranh thờ người Dao ở Lào CaiVoi ngựa trong lễ hội Y Sơn, Bắc Giangthờ Hùng Linh CôngHoa tre trong lễ hội Y Sơn (Bắc Giang), nơi thờ Hùng Linh CôngNgai vị thờ Thái Công Khương Thượng ở nghè làng Kiều, Sầm Sơn, Thanh HóaTranh Lão tiên ông bên bến Việt Trì trong chùa Hoa Long, Phú ThọChính cung đền Sóc thờ Phù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Nữ Oa Bộ Thiên, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên VươngPhù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Vu Điền Quốc Vương ở đền Hạ Mã, Sóc SơnTrung Nguyên xá tội, tranh thờ dân tộc Dao ở Yên BáiCự thạch – tế đàn cổ ở Sóc SơnCon Phi liêm ở núi Châu Sơn, Bắc Ninh
Lễ dối trời Duệ Vương hết số Vì sinh linh Thục Chủ khởi binh
Lạc Long Quân chia 50 người con xuống khai phá miền ven biển Đông, vượt qua nhiều sông núi mà khai mở phương Nam xưa (phương Bắc nay). Long Quân truyền ngôi qua nhiều đời, đến Hùng Duệ Vương có tên là Đế Tân, đóng đô ở An Huy.
Duệ Vương là người có hùng tài đại lược, nhưng lại ham mê tửu sắc, bất kính với thiên địa, dâng lễ dối trời, sủng ái vu nữ Đát Kỷ. Trời và người cùng phẫn nộ, dẫn đến tai họa giáng xuống, vận nước cáo chung.
Bộ chủ Ai Lao – Ba Thục lúc này Tây Bá Hầu Cơ Xương, nổi lên là một người nhân nghĩa đại đức, thu phục nhân tâm. Thục chủ Cơ Xương tinh thông Dịch lý, hiểu lẽ trời đạo người. Bị Đế Tân chèn ép, Thục chủ buộc phải phát động binh đao. Nhưng để giữ lễ với Hùng Vương, Cơ Xương đầu tiên dẫn quân tiến đánh vùng đất Lạc của Sùng Hầu Hổ. Quân Thục từ Ai Lao kéo vào đất Hưng Hóa đến châu Quỳnh Nhai. Đất nước của Hùng Duệ Vương rúng động.
Người đứng đầu vùng đất Lạc khi đó là Bắc Bá Hầu Sùng Lãm, là dòng dõi quý tộc triều Hùng từ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân, nên cũng gọi là Lạc hầu Nguyễn Tuấn. Cuộc chiến giữa Ai Lao bộ chủ Cơ Xương và Lạc hầu Nguyễn Tuấn diễn ra rất ác liệt. Trong lần đầu Nguyễn Tuấn phục kích đánh bại được quân Thục ở Mộc Châu. Khải hoàn trở về, tấu cáo Đế Tân.
Vài năm sau, Bá Thục lại kêu gọi các chư hầu tập hợp được hơn 50 vạn quân. Cơ Xương chia quân thành 5 đạo, thủy bộ tịnh tiến, đánh chiếm đất Sùng. Với thế quân mạnh và nâng cao ngọn cờ nhân nghĩa, cuối cùng Sùng hầu Nguyễn Tuấn đã chịu thua, nhường lại đất Lạc cho Thục chủ.
Thục chủ Cơ Xương thu nhận được đất tổ Hùng Vương, đã cho dời kinh đô từ Ai Lao về Phong Châu, xây dựng thành Việt Trì, lên núi Thái Sơn Nghĩa Lĩnh lập điện Kính Thiên, đăng đàn tế cáo trời đất, lập cột đá thề trung thành với quốc tổ họ Hùng, cứu dân giúp nước.
Từ cổ đế vương ức triệu dân Quy thần tất tự điện tinh thần Thử truyền vị biện chân tướng ảo Hồi tưởng Sơn danh phảng phất chân.
Chân tượng Cao Sơn Đại vương trong Nhất thành khả cách chân kinh.Nha chương Phùng Nguyên, niên đại cuối thời nhà Ân Thương, bảo vật quốc gia ở Phú Thọ.Cúng Bàn Vương của người Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang.Hải Bá Lạc Long Quân, tranh thờ người Dao.Tượng đồng Hổ hai đuôi thời Thương.Tượng thờ Long khuyển Bàn Hồ của người Dao ở Chù Lìn, Lai Châu.Long tranh Hổ đấu, sách cúng người Dao ở Yên Bái.Tượng mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương, Phú Thọ.
Giai đoạn lịch sử tiếp theo Bách Việt triệu tổ cổ lục được ghi chép trong Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, lưu giữ ở nhà thờ họ Nguyễn tại tổng Xốm (Bình Đà). Cổ Lôi ngọc phả chép: Hùng Duệ Vương sinh được 12 người con trai, 6 con gái. Thời kỳ đầu vua thông minh chính trực, nhưng từ khi lấy con gái họ Lê thì đam mê tửu sắc, bị Thục Vương, Cao Thông và Nồi Hầu lừa cho uống rượu say. Lại bị con gái họ Lê là cô ruột Lê Phán sai khiến, nên đến nỗi giết hết cả các con trai, con gái, con rể. Rồi mang họa diệt thân, đến lúc chết vẫn còn say chưa tỉnh.
Đoạn kể này mô tả không khác gì vị vua cuối cùng của nhà Ân là Trụ Vương, một người có sức khỏe phi thường, nhưng sau vì ham mê Đát Kỷ, đã giết vợ, diệt con, cuối cùng mất nước trong tay Vũ Vương Cơ Phát. Cơ Phát là vị vua đầu của nhà Chu, khởi sự từ vùng đất phía Tây, nên cũng tương đương với Thục (Thục là hướng mặt trời lặn). Cơ Phát là Lê Phán trong Cổ Lôi ngọc phả. Ân Trụ Vương là vị vua Hùng đời cuối (theo dòng Lạc Long Quân), tức là Hùng Duệ Vương.
Việc vua Hùng say mê một bà phi gây ra loạn mất nước cũng được Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả kể đến qua chuyện bà vu nữ. Hùng Vương do nghe lời vu nữ, xúc phạm đến thiên uy, gây ra nạn dịch bệnh và binh đao trong cuộc chiến với giặc Ân. Có thể thấy bà vu nữ này và bà cô họ Lê trong Cổ Lôi ngọc phả là một. Đây là vị Ma Cô Tiên, phi nhân của vua Ân trong Truyện Giếng Việt ở núi Vũ Ninh.
Khi xác định được thời điểm của câu chuyện giữa Hùng Duệ Vương và Thục Lê Phán là cuộc chiến thay đổi triều đại từ Thương sang Chu trong Hoa sử thì những nhân vật liên quan trong Cổ Lôi ngọc phả cũng được sáng tỏ. Cổ Lôi ngọc phả kể giai đoạn này có 2 phe Hùng và Thục. Phe phía Hùng Vương có con trai của Lạc tướng Nguyễn Phục là Đông Hải đại vương, lấy công chúa Xích Vân. Tiếp đó là ba anh em Sơn Thánh Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh, trong đó Nguyễn Tuấn lấy công chúa Ngọc Hoa. Phía Lê Phán có hai tướng là Cao Thông và Nồi Hầu.
So sánh với chuyện Phong thần diễn nghĩa thì đây là 2 phe Xiển giáo và Triệt giáo. Anh em Sơn Thánh Nguyễn Tuấn, Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng thì đã biết là anh em của Sùng Hầu Hổ, Bắc bá hầu nhà Ân. Cao Sơn Quý Minh cũng là “quỷ núi” được nói đến trong chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa, hiện hình phá thành xây ở núi Thất Diệu. Cổ Lôi ngọc phả cũng kể đến việc Nguyễn Tuấn cho người đến phá việc xây thành Ốc do Lê Phán chủ công.
Đông Hải Đại vương tương ứng là Thân Công Báo, là quốc sư phía nhà Ân. Thân Công Báo khi phong thần có tước hiệu là Đông Hải phân thủy tướng quân. Thân Công Báo cầm đầu quân đội của nhà Ân nên trong huyền sử Việt được kể là Thạch Linh thần tướng.
Về phía Thục, Cao Thông hay Cao Lỗ là Chu Công Đán, người em của Chu Vũ Vương Cơ Phát. Chu Công được phong ở đất Lỗ, nên gọi là Cao Lỗ (thủ lĩnh nước Lỗ). Cao Thông thiết Công, là tên của Chu Công. Chu Công là người đã đặt ra lễ nhạc, viết các lời hào trong Kinh Dịch, được kể thành Cao Thông chế tác nỏ thần.
Vị Nồi Hầu theo Cổ Lôi ngọc phả là một thợ đúc đồng giỏi trong nước, được triệu về kinh đô là chức quan trông nom việc đúc các vật dụng bằng kim loại. So sánh tương ứng thì đây là Lã Vọng Khương Tử Nha, người từng được Trụ Vương triệu vào cung để làm chức quan quản lý việc xây dựng đền đài cung điện. “Pháp thuật” của Khương Tử Nha có lẽ chính là ở khả năng “luyện kim”, đúc đồng này. Và cũng chỉ có Khương Tử Nha thì mới tương đương để đối đầu với Thạch Linh thần tướng Thân Công Báo.
Dù xác định thế nào thì đây cũng vẫn là chuyện của 2 dòng lên rừng và xuống biển trong cuộc đối đầu Ân – Chu. Cổ Lôi ngọc phả vốn là ghi chép của dòng theo cha Lạc Long xuống biển nên khi những nhân vật của nhà Thục ở đây bị kể theo cách “dìm hàng”, khác ngược với lối kể thường thấy của Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả, tức là phả chép của dòng lên núi theo mẹ Âu Cơ.
Đặc biệt thú vị là thông tin của Cổ Lôi ngọc phả về Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử vốn là một chú bé nhà nghèo mò cua bắt ốc ở bãi Tự Nhiên, sau gặp được công chúa Tiên Dung, có tiền học tập đã trở thành một thầy lang có tiếng. Rồi sau đó được triệu về kinh đô Phong Châu làm Thái y trong hoàng cung. Chử Đồng Tử vừa mới lấy được công chúa Tiên Dung thì bị vua Hùng nghe lời dèm pha mà đuổi đi. Trong một đêm Chử Đồng Tử bị giết chết ở bãi Tự Nhiên… Còn công chúa Tiên Dung đi tu ở chùa Hương Tích.
Nếu xét trong bối cảnh nhà Chu thì vị Chử Đồng Tử của Cổ Lôi ngọc phả này chính là Lão Tử. Lão Tử vốn xuất thân là dân thường ở vùng Hà Nam (Phủ Lý – Kim Bảng), sau làm quan Thủ thư cho nhà Chu và cũng là vị thầy thuốc giỏi, chữa bệnh dịch (Xích Tị) cho người dân. Lão Tử cũng có quan hệ với một vị công chúa nhà Chu, được kể trong tích bà chúa Ba Diệu Thiện. Công chúa Diệu Thiện bị ép duyên, bỏ đi tu chính xác cũng ở chùa Hương Tích, trở thành Nam Hải Quan Âm. Trong tích Diệu Thiện, Lão Tử được kể là vị thầy thuốc Triệu Chấn đi theo công chúa. Lão Tử ở nước ta được tôn thờ với tên Huyền Thiên Trấn Vũ, do sự tích trừ yêu diệt quỷ ở núi Sái tại Cổ Loa.
Cuối thời nhà Thục là chuyện về nhà Triệu. Cổ Lôi ngọc phả kể: Nguyễn Thận là con trai Hùng Dực Công và bà Trần Thị Quý người làng Chân Định, sau lại lấy vợ kế là và Nguyễn Thị Sinh. Hùng Dực Công là em ruột Hùng Duệ Vương. Mẹ chết Nguyễn Thận về Chân Định, cùng Chử Đồng Tử nương tựa vào nhau, mò cua bắt ốc ở bãi Tự Nhiên. Nhâm Hiêu là một tướng Tần gặp Nguyễn Thận thì dẫn theo ra biên ải. Chị ruột của Nhâm Hiêu lấy viên Thái giám họ Triệu tên Cao, không có con, bèn đem Nguyễn Thận cho Triệu Cao nuôi, đển tên họ là Triệu Đà.
Chuyện về Triệu Đà Nguyễn Thận trong Cổ Lôi ngọc phả không khác gì chuyện về Triệu Quang Phục mới được biết đến gần đây qua thần tích ở Hạ Mạo (Lâm Thao, Phú Thọ). Quang Phục vốn là dòng dõi quý tộc nhà Chu, có cha là em của Hùng Duệ Vương được phong đất ở Quảng Tây, lấy họ Lê, gọi là Lê Hùng Ánh. Khi nhà Hùng bị diệt, Lê Hùng Ánh tự lập xưng là Hậu Hùng Vương. Hậu Hùng Vương cử con là chàng Út Ngọ cùng với Triệu Vũ Đế chống Tần. Như thế Hậu Hùng Vương tương ứng với Hùng Dực Công, Triệu Vũ Đế tương ứng với Triệu Cao, Út Ngọ Lôi Mao tương ứng Nguyễn Thận ở Cổ Lôi. Chú ý vị Út Ngọ Lôi Mao hay Triệu Quang Phục này là Triệu Đà, người xưng Đế nước Nam Việt. Còn vị Triệu Vũ Đế ở đền Đồng Xâm, Kiến Xương Thái Bình là Triệu Cao, tức là Cao Tổ Lưu Bang, hay Lý Bôn của sử Hoa Việt.
Còn một nhân vật nữa trong chuyện này là Nguyễn Công Trọng hay Trọng Thủy, liên quan đến nhà Tần. Thực ra chuyện Trọng Thủy làm con rể An Dương Vương là kể về cuộc chiến giữa Thục và Tần, hay việc nhà Tần thay thế nhà Chu. Vị vua Thục cuối cùng đóng đô ở Cổ Loa là Đông Chu Quân, đã bị quân Tần diệt. Trọng Thủy là Tần Trang Tương Vương hay Dị Nhân Doanh Tử Sở đã ở rể ở đất Triệu (Chu). Con của Trọng Thủy lên ngôi, thống nhất thiên hạ, xưng là Tần Thủy Hoàng Đế. Truyền thuyết Việt gọi là Triệu Lạc Linh.
Khảo luận so sánh giữa các tư liệu ở tổng Xốm Bình Đà về cổ sử Việt tạm dừng lại ở giai đoạn này. Lướt qua Bách Việt triệu tổ cổ lục và Cổ Lôi ngọc phả truyền thư đều thấy ăn khớp với những nhân vật và sự kiện chính của Hoa sử và huyền sử Việt. Điều này là hiển nhiên vì lịch sử vốn chỉ có 1. Dù là các kể theo dòng lên núi (Hùng Vương ngọc phả) hay xuống biển (như ở Bình Đà), hay trong sử Trung Hoa thì đều là một quá khứ của người Việt.
SáchLONG HƯNG TRIỆU VŨ ĐẾ, TƯ LIỆU VÀ LUẬN GIẢI. Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân, Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt
Triệu Đà là vị hiền quân, Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.
Trong các sách vở lịch sử ngày nay, vị hiền quân Triệu Đà đang phải chịu những nỗi “oan ức” khó giải về thân thế và sự nghiệp của ông. Nhưng có một sự thật không thể bác bỏ đó là vua Triệu được thờ một cách tôn kính ở rất nhiều ngôi đền lớn trên miền Bắc nước ta từ hàng trăm năm nay như một vị Đế vương khai cơ hiển hách của nước Nam người Việt.
Cuốn sách Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải đã tiếp cận vấn đề nhà Triệu từ những các di tích, di sản văn hóa ở khắp các vùng trên miền Bắc, kết hợp với những phát hiện khảo cổ mới trong những năm gần đây để đưa ra những luận giải có tính đột phá làm rõ thân thế, sự nghiệp không chỉ cho vua Triệu Đà, mà cả thời kỳ nhà Triệu nước Nam Việt.
Triệu Đà xuất thân áo vải, làm quan huyện ở Kiến Xương – Thái Bình, giương cờ khởi nghĩa kháng Tần ở núi Châu Sơn – Bắc Ninh, thấy rồng bay lên ở Long Biên mà thành nghiệp chiếm thành Cổ Loa rồi thống nhất thiên hạ, lên ngôi là Triệu Vũ Đế. Nối tiếp cơ nghiệp của ông là Triệu Quang Phục, chống giặc ở đầm Dạ Trạch, xưng Đế ở Phiên Ngung, lập nên tuyên ngôn Nam quốc sơn hà, đối lập với nhà Tây Hán. Nhà Triệu truyền 5 đời tới Vệ Dương Vương thì kết thúc ở cửa Đại Nha bên bờ biển Nam Định – Ninh Bình.
Lời bài ca trù tế thánh ở đền Đồng Xâm như tóm tắt công nghiệp nhà Triệu:
Nam Hải Kiến Xương cơ, hùng tranh Hán Bắc Phiên Ngu Chân Định đỉnh, đế thủy Viêm Nam.
Cuốn sách không chỉ là một khảo luận lịch sử độc đáo mà còn là tài liệu hướng dẫn giá trị về văn hóa tín ngưỡng đối với các vị vua nhà Triệu đã khai cơ mở nước Nam người Việt. Khảo cổ các lớp thành Cổ Loa, niên đại các đồ đồng Đông Sơn tìm thấy ở nước ta, con Rồng đá bên Giếng Việt miền Châu Sơn, tấm bia Xá lợi tháp minh ở Luy Lâu… là những bằng chứng vật chất rõ ràng của thời kỳ Nam Việt. Nguồn tư liệu thành văn rất phong phú về phả tích, sắc phong, hoành phi, câu đối, văn tế các vua Triệu được dịch và giới thiệu kỹ lưỡng tại mỗi đền miếu ở từng vùng văn hóa tín ngưỡng liên quan.
Không dừng lại ở khảo cứu các vị vua nhà Triệu, cuốn sách còn luận giải những giai đoạn lịch sử liên quan khác là thời kỳ Thục An Dương Vương và thời Tiền Lý Nam Đế bằng những tư liệu điền dã phong phú và nhận định tổng hợp sâu sắc. Long Hưng Triệu Vũ Đế là cuốn sách không thể thiếu với bất kỳ con dân nước Nam nào quan tâm đến quá khứ hào hùng mở nước trị dân của các bậc tiền nhân người Việt.
Sách in khổ 16×24 cm, dày 568 trang, gồm các phần chính:
Lời nói đầu
Những nỗi oan của vị vua mang tên Triệu Đà
Cổ Loa thành trên Lạc quốc
Chân Định Kiến Xương cơ
Vũ Ninh dấy nghĩa
Long Biên ngày kháng Tần
Nam quốc sơn hà
Đại Nha hải khẩu
Nam Việt Úy Đà diễn nghĩa
Di tích và lễ hội về nhà Triệu và các nhân vật cùng thời
Thống kê các di tích thờ Triệu Đà, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương
Thần tích xã Hương Triện ở Gia Bình, Bắc Ninh cung cấp những thông tin hết sức hiếm lạ về nguồn gốc của Thục An Dương Vương. Bản thần tích Hương Triện ngay tên gọi là Ngọc phả ghi chép cổ về Thục đế Thạc thần là dòng dõi vua Hùng nước Nam Việt. Thông tin này có thể tóm tắt như sau:
Vào thời vua Hùng thứ 17 là Nghị Vương, có vị Bộ chủ bộ Ai Lao, là dòng dõi của người con thứ 8 từ bọc trăm trứng, mang họ Hùng tên Bích. Chính thất phu nhân của ông sinh được 2 người con trai rồi mất sớm. Ông Bộ chủ lấy thêm một người vợ nữa, con của vị huyện lệnh họ Trần huyện Gia Định đạo Bắc Giang, là bà Thận Nương làm đệ nhị phu nhân. Thận Nương nằm mơ thấy rồng nhập mà mang thai, sinh được người con đặt tên là Thạc công.
Khi đó vua nước Thục có con gái là công chúa Hằng Nương, nghe tin Bộ chủ Ai Lao sinh được Thạc công có hùng tài dũng lược, nên đã dẫn quân đến bộ Ai Lao, xin Thạc công về làm con rể. Thạc công lấy công chúa nước Thục rồi kế ngôi của nhạc phụ, xưng là Thục An Dương Vương.
Tới thời vua Hùng thứ 18 là Duệ Vương do không có con trai nối dõi nên đã nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. An Dương Vương nhận thụ truyền lẫy nỏ thần từ Hùng Duệ Vương, dời về đóng đô ở Cổ Loa. Vua lại đi xem xét thế đất, thấy khu vực núi Đông Cứu có thế đất đẹp, lại là quê mẹ, nên đã lập hành cung ở đó, thường hay lui tới du lãm.
Lại nói bấy giờ có người phủ Cửu Chân, Nam Hải, họ Triệu tên Đà, phát động hùng binh kéo đến đánh Thục Vương để cướp nước. Vì Thục Vương có nỏ rùa lẫy thần nên Triệu Đà nhiều lần thất bại. Triệu Đà mới bày kế xin giảng hòa, hai nước coi nhau như anh em, rồi cử con trai là Trọng Thủy cầu hôn với con gái An Dương Vương là công chúa Mỵ Châu. An Dương Vương đồng ý.
Trọng Thủy gạt Mỵ Châu đánh tráo lẫy nỏ thần, rồi xin trở về Triệu. Trước khi về Trọng Thủy đưa cho Mỵ Châu chiếc áo lông ngỗng, dặn khi có sự biến thì rắc lông ngỗng làm dấu để tìm nhau. Trọng Thủy lấy được lẫy nỏ thần về Triệu thì Triệu Đà lập tức dẫn quân tấn công Cổ Loa. Nỏ thần vô dụng, An Dương Vương dẫn Mỵ Châu bỏ chạy. Khi gặp đường cùng bên sông, cầu khấn thần rùa hiện lên, nói: Giặc ở sau lưng nhà vua đó.
Mỵ Châu thề với trời rồi tự tiết xuống sông. An Dương Vương chạy ra đến cửa Nam Hải thì được thần rùa rẽ nước, cầm ngọc văn tê bảy tấc mà đi xuống biển, hóa sinh bất diệt.
Câu chuyện về An Dương Vương ở Hương Triện đọc qua có vẻ không có gì khác so với chuyện kể thông thường về Thục Vương. Tuy nhiên, thông tin đặc biệt ở đây chính là nguồn gốc cha mẹ của An Dương Vương được kể một cách rất rõ ràng. Cha là Bộ chủ Ai Lao, là dòng dõi họ Hùng. Mẹ là thứ phu nhân, người Gia Bình, Bắc Ninh. Hơn nữa, chi tiết khó giải là việc vua nước Thục dẫn quân tấn công Ai Lao lại chỉ để xin chàng rể cho con gái của mình và nhường ngôi cho Thạc công.
Sự kiện này vào thời Hùng Nghị Vương cũng được Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả kể:
Hùng Nghị Vương thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình. Vua sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin Trung Quốc không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ phương Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết.
Bấy giờ chúa phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng Vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị Vương. Hùng Nghị Vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục Vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị Vương, nói: “Quân Thục từ phía Tây đến, chỉ muốn bộ chủ [Ai Lao] truyền lại cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua”.
Hùng Nghị Vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bắt được bộ chủ phụ đạo [Ai Lao] đem về Thục, gả công chúa cho, rồi bắt nhường ngôi cho mình. Thục Vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị Vương, xin coi triều Nam là anh, triều Tây là em, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị Vương bằng lòng như thế. Từ đó triều Tây ngừng việc binh.
Thần tích xã Cao Mại ở Phú Thọ cũng cho biết, người dẫn quân cùng với Hùng Nghị Vương đi ứng cứu Ai Lao là Phò mã Lý Lang Công. Sự kiện vua Thục đánh Ai Lao rõ ràng không đơn giản chỉ là để xin con rể, mà là một sự tranh chấp lớn giữa Hùng và Thục. Sự thực của việc này là như thế nào?
Để kiến giải việc này phải lần theo từng dữ kiện dựa trên sử thuyết Hùng Việt. Trước hết, Ai Lao là đất Âu, vào cuối thời Hùng Vương (Thiên tử Chu) vùng đất này do Tây Chu Quân cai quản. Thục Vương là con của Bộ chủ Ai Lao tức là con của Tây Chu Quân, nhưng lại làm chủ vùng Bắc Việt, đóng đô ở Cổ Loa. Như thế Thục Vương trong chuyện này chính là Đông Chu Quân.
Lịch sử phân liệt Tây Chu Quân và Đông Chu Quân tóm tắt từ Sử ký Tư Mã Thiên như sau: Năm 440 TCN, Chu Khảo Vương Cơ Nguy sau khi lên ngôi đã phân phong cho em trai là Cơ Yết ở đất Vương Thành giữ chức Chu công để phụ giúp triều đình. Cơ Yết có hiệu là Tây Chu Hoàn công hoặc Tây Chu quân. Sau khi Cơ Yết mất, con là Cơ Táo nối ngôi, tức Tây Chu Uy công.
Năm Chu Hiển Vương thứ hai (367 TCN), Tây Chu Uy công mất, hai con là công tử Căn và công tử Triêu tranh đoạt ngôi vị với nhau. Hai nước chư hầu là Hàn và Triệu lập công tử Căn ở đất Củng, tức là Đông Chu Huệ công hoặc Đông Chu quân, Chu Hiển Vương không biết cư xử thế nào cũng không có thực lực để chống lại nên đành chấp nhận thực tế. Đó là nguồn gốc dẫn đến sự phân chia thành 2 nước Tây Chu và Đông Chu, sự chia rẽ này làm cho nhà Chu càng ngày càng thêm suy nhược. Thiên tử nhà Chu ở nhờ Tây Chu quân.
So sánh lịch sử này với chuyện Thục đế Thạc thần ở trên có thể thấy:
– Tây Chu Quân là Bộ chủ Ai Lao, dòng dõi họ Cơ của nhà Chu, được truyền thuyết Việt chép là họ Hùng. Vua Hùng Nghị Vương lúc này tương ứng với Chu Khảo Vương.
– Đông Chu Quân là con thứ của Tây Chu Uy Quân, do tranh chấp với người anh nên được chư hầu Hàn và Triệu giúp, lập riêng nước, xưng Đông Chu. Đông Chu Quân tương ứng với Thạc công, được vua Thục (Hàn Triệu) giúp mà xưng là An Dương Vương. Vua Hùng Duệ Vương lúc này là Chu Hiển Vương, buộc nhường vùng đất Đông Chu cho Thục Vương.
– Sự việc tiếp theo thì người diệt nhà Chu (Thục) là Tần Chiêu Tương Vương, nên tương ứng được truyền thuyết Việt gọi là Triệu Đà. Nhà Tần vốn mang họ Triệu theo đất phong ban đầu từ thời Chu Mục Vương.
– Người đã “ở rể” ở Cổ Loa (Trọng Thủy) như thế chính là Dị Nhân Doanh Tử Sở, sau là Tần Trang Tương Vương, bố của Tần Thủy Hoàng. Công chúa Mỵ Châu được Hoa sử chép là Triệu Cơ, trong đó Cơ chính là họ của các vua Chu.
Truyền thuyết về Thục Vương ở nước ta như thế có thể kể đến 4 giai đoạn với tình tiết khá tương đồng, đều cùng là đến từ vùng Ai Lao phía Tây, chiếm được vùng Bắc Việt mà xưng đế vương:
– Thục Vương I trong trận đánh với hàng chục vạn quân chia làm nhiều đạo tiến vào miền Bắc Việt, thắng lợi thì định đô ở Phong Châu. Đây là sự kiện Cơ Xương Chu Văn Vương đánh chiếm đất Sùng và dời về Phong kinh.
– Thục Vương II dời đô về xây thành Cổ Loa, với sự tích rùa vàng trừ Bạch Kê Tinh ở núi Thất Diệu. Đây là chuyện Chu Bình Vương dời đô từ Cảo kinh (Vân Nam) về Lạc Dương, khởi đầu thời kỳ Đông Chu.
– Thục Vương III là con Bộ chủ Ai Lao, được nhường ngôi ở miền Bắc Việt, rồi bị nhà Triệu lừa mà mất nước. Đây là sự kiện Đông Chu Quân kế nối Chu Noãn Vương rồi bị Tần Chiêu Tương Vương diệt, kết thúc 800 năm vương triều Chu trong lịch sử.
– Thục Vương IV cũng từ phía Tây đến, thống nhất thiên hạ các chư hầu thành một nước và là người đã mở rộng quy mô thành Cổ Loa 3 vòng thành rồi bị Triệu Vũ Đế – Lý Bôn lật đổ. Đây là nhà Tần với sự hiện diện của phò mã Lý Thân trấn giữ Hồ ở thành Cổ Loa và đạo sĩ Yên Kỳ Sinh gặp Tần Thủy Hoàng ở chân núi Yên Tử.
Chính bởi do có tới 4 sự kiện có chiều hướng rất giống nhau từ Tây chinh Đông, nên dẫn đến sự nhầm lẫn rất khó phân định trong các tư liệu sử Việt. Một sơ đồ sau khái quát lại thời kỳ này một cách mạch lạc.
Những Thục triều trong sử Việt.Nội điện An Dương Vương từ ở Hương Triện.
NGỌC PHẢ GHI CHÉP CỔ VỀ VỊ THẠC THẦN ĐẠI VƯƠNG LÀ DÒNG DÕI VUA HÙNG NƯỚC NAM VIỆT
Thần thuộc hàng Thượng đẳng Đế vương, bộ Nam Hải, bản chính Ngọc phả lưu tại bộ Lễ của Quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ là Tiền Hoàng đế của đất nước trời Nam tôn quý, dựng mở cơ đồ lớn, là thủy tổ của Việt Nam, khai sáng họ Việt Thường trải 18 đời thánh vương ngự trị. Mở vận ở trời Nam, núi xanh vạn dặm khai sáng nền thành đô cung điện. Tạo ra muôn vật, cứu giúp dân sinh. Thống lĩnh 15 bộ làm thế vững chãi cho đất nước.
Xét: Trước kia Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai, tên là Âu Nương, lập làm chính cung, mang thai trong ba năm, sinh một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai, đều anh hùng nổi tiếng ở đời, dũng lược hơn người. Khi trưởng thành vua mới phong tước hầu và lập thành các bộ. Bộ thứ nhất là Sơn Nam, bộ thứ hai là Sơn Tây, bộ thứ ba là Hải Dương, bộ thứ tư là Kinh Bắc, bộ thứ năm là Hoan Châu, bộ thứ sáu là Ái Châu, bộ thứ bảy là Bố Chính Châu, bộ thứ tám là Ai Lao, bộ thứ chính là Ô Châu, bộ thứ mười là Hưng Hóa, bộ thứ mười một là Cao Bằng, bộ thứ mười hai là Tuyên Quang, bộ thứ mười ba là Lạng Sơn, bộ thứ mười mười bốn là Quảng Tây, bộ thứ mười lăm là Quảng Đông,
Vua bảo Âu Nương rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa không hợp”. Nhân đó mà phân 50 người theo cha về miền biển làm thủy thần, 50 người con theo mẹ về miền núi làm sơn thần, cùng nhau trấn trị các đầu sông góc biển, chia nhau hưởng lộc trời, cha truyền con nối, phát huy đất nước thành Viêm Hồng, có vua trị nước được hơn ba ngàn năm, phù trì cơ đồ mãi mãi vững như bàn đá, hiển ứng linh thông ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương ngự trị Nam Việt muôn năm. Ở điện thánh núi Hùng lập cung lăng miếu điện. Con cháu dòng dõi, công thần lớn nhỏ hết lòng lo việc nước, đều được thờ thờ phụng trong dân, hương khói lâu dài cùng ngày tháng không mất đi vậy.
Con cháu vua nhà Hậu Trần có thơ rằng:
Thập bát hùng đồ thế hữu truyền
Hậu [chung] tốn vị Thục vương yên
Nga mao kí lộ do thiên đạo
Vật dĩ Châu Nương bất thị hiền.
Lại nói, trải truyền ngôi đến thời vua Hùng thứ mười bảy là Nghị Vương, ngự trị ở sông Bạch Hạc, Việt Trì, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đặt kinh đô ở thành Phong Châu. Nghị Vương là người đức rộng tài cao, có nhiều ý chí sáng suốt, giúp rập cho đời. Người đời sau đều khen đây là vị vua giỏi.
Đương lúc bấy giờ ở nước ta tương truyền rằng có ông Bộ chủ, vốn là dòng dõi Hùng Vương phân từ bọc trăm trứng, họ Hùng tên [Bích], làm Bộ chủ Ai Lao, cha truyền con nối trải mười bảy đời. Chính thất phu nhân của ông Bộ chủ trước khi qua đời, sinh được hai người con trai. Sau đó ông lại lấy người con gái trong một họ lớn ở huyện Gia Định, tên là Thận Nương, lập làm Đệ nhị phu nhân. Vợ chồng như đôi chim cưu hợp lứa, duyện lứa như đàn sắt quện với đàn cầm. Trải trong mấy năm, loan phương tình nồng, cực kỳ ân ái. Khi ấy phu nhân đã 23 tuổi.
Một hôm vợ chồng cùng pha trà uống nước ở lầu hoa gác Tây ngắm trăng hóng mát. Lúc ấy trời đã về khuya. Phu nhân dựa vào lan can bàng hoàng mơ thấy một con rồng vàng từ trời giáng xuống thẳng vào bụng mình. Phu nhân dùng hai tay ôm lấy, hét một tiếng rất to. Khi tỉnh dậy mới biết đây là giấc mộng kỳ lạ. Bèn kể lại cho ông Bộ chủ nghe. Ông bảo với phu nhân rằng:
“Giấc mộng ấy phải chăng là phúc? Nếu quả vậy nàng sẽ mang thai”.
Trải ba bốn tháng sau, phu nhân quả nhiên có mang trong mười bốn tháng. Vào ngày 15 tháng 10 năm Canh Thìn, hôm ấy trời đất tối tăm, gió mưa nổi lên dữ dội, cả một xứ có tiếng động ầm ầm, khí lành huy hoàng, hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Đến giờ Thìn, phu nhân sinh được một người con trai thần phong lẫm liệt, thể diện khôi kỳ, tai vương, nhan rồng, mắt phượng, tướng mặt hài hòa, hàm én mày ngài, hình dạng cân đối, cao lớn đĩnh đạc. Sau một trăm ngày ông Bộ chủ đặt tên cho con là Thạc công (ông Thạc).
Từ đó xuân sinh hạ trưởng, ngày tháng trôi đi, đến khi trưởng thành, vào năm 14 tuổi tính vốn thông minh, khí tượng ung dung, thiên tư cao mại, trí dũng hơn người. Đương thời có tiên sinh họ Ngô dạy học ở đất Ai Lao, Thạc công đến theo học ở thầy được trong mấy tháng. Hễ Thạc công đi lại đến đâu đều có một đám mây tựa như chiếc long che trên đỉnh đầu, cả chỗ đó trở nên mát mẻ. Tư chất thông minh kỳ dị, chỉ học trong một năm mà chư sử bách gia đều thuộc làu. Văn tài chỉ trong bảy bước đã làm xong một bài thơ. Võ nghệ tinh thông, tam lược lục thao cùng binh pháp của Thái công không chỗ nào không tinh nhạy. Thiên tư khí độ vượt hơn người bình thường. Đức rộng tài cao, khoan nhân đại lượng, bản tính anh hùng, lòng nhân nghĩa chính, lòng hiếu trung hòa.
Đương thời gian đó tiên sinh họ Ngô thường khen khí chất của Thạc công không phải là người bình thường, về sau nếu không làm vương ắt sẽ làm bá. Bạn bè không ai không kính phục.
Lại nói bấy giờ nước Nam ta có dịch khí hoành hành, nhân dân đều bị mắc bệnh không chừa một chỗ nào. Đương khi ấy Thạc công có một người dì tên là Hiếu thị, lấy con ông họ Nguyễn người đất trang Hương Triện huyện Gia Định phủ Thuận An đạo Bắc Giang (mẹ Thạc công và Hiếu thị vốn cùng là con ông huyện lệnh huyện Gia Định, cùng một cha mẹ). Do vậy khi ông nghe tin nhân dân địa phương của dì mắc bệnh, gia đình của dì cũng bị mắc bệnh nên xin cha mẹ trở về đất Hương Triện thăm dì.
Hôm ấy ông cử giá về đất Hương Triện, đến nửa đêm các họ trong đất Hương Triện (bấy giờ trong trang Hương Triện có các tộc Nguyễn, Đào, Đặng, Phạm, Đỗ, Hoàng, Bùi, Lê, Trần và Phan lập thành một trang) vốn đang có người bị mắc bệnh, cùng nhau mơ thấy ôn binh quỷ chúng đang báo tin chi nhau rằng: “ Dân chúng ở đất này có thiên tử đang trở về làm phúc thần của dân. Binh lính của ta nên gấp chóng rút khỏi đây ngay, không thể lưu cư ở đây”. Vừa nói chúng vừa tự rút hết khỏi nơi này. Nhân dân nghe thấy thế liền tỉnh giấc thì trời vừa sáng.
Mọi người cùng thấy bệnh tật trong trang ai nấy đều qua khỏi. Hôm ấy nhân dân bàn luận, ai cũng bảo mình gặp một giấc mơ như thế. Mọi người cho là kỳ lạ, thực rất linh nghiệm, cùng nhau ra một ngôi quán đợi đến hết ngày xem sự thể ra sao. Chỉ trong một lúc quả nhiên thấy quân của Thạc công cử xa giá đến đây, thăm hỏi người dì và nhân dân bị mắc bệnh. Nhân dân ngầm nghĩ trong giấc mộng đã báo, nay lại thấy quả nhiên như vậy, lập tức làm lễ bái tạ, kể về giấc mộng, tự nguyện xin làm thần tử, xin ông cho tên húy để lập một sinh từ thờ ông làm thần, cơ hồ có nơi trấn trị quỷ xâm lấn từ bên ngoài.
Ông nghe xong đồng ý, cho tự hiệu để dân phụng thờ. Sau đó ông nhàn tản ngắm nhìn địa thế dân cư trong trang để chỉ bảo nhân dân lập sinh từ. Ông thấy địa thế nơi đây có chân long tú mạch, một dải dân cư ở gấp khúc như hình rắn bò, bên cạnh có ao hồ bao bọc, bốn hướng có phong tinh chầu về, bảng bút song hành. Núi Tam Thai chầu phía trước. Sông Thiên Đức chảy vắt ngang. Bên ngoài có một dải sông nhỏ ôm ấp. Bên trong có thế nước lòng vòng, long châu 9 khúc.
Ông truyền nhân dân lập một sinh từ tại đầu địa giới dân cư, phía trước có đất kết cục tạo thành thế đầu rồng. Bên cạnh có giếng ẩn bút chầu phía sau. Tam Thai ứng phía trước. Bên phải bên trái lớp lớp chầu về, quanh co ở bên ngoài. Sinh từ nằm dựa Đông Bắc hướng Tây Nam, thu chính mạch rồng từ phương Tốn, tất cả đều chầu về, tạo thành quý cục.
Nhân dân xây dựng hoàn thành, ông mới lưu nghỉ tại sinh từ, mở yến tiệc trong hơn một tháng, khoản tiếp người dì và nhân dân địa phương cùng dự hưởng. Sau đó ông lại cử giá về đất Ai Lao trải trong mấy năm. Bấy giờ ông mới 22 tuổi.
Đương thời vua nước Thục sinh muộn được một người con gái tên là Hằng Nương công chúa, không có con trai kế vị, nghe phong thanh Bộ chủ Ai Lao sinh được thứ tử Thạc công, vốn là người anh tài lương tuấn, mới dẫn quân đến xin ông Bộ chủ cho Thạc công kết duyên với Hằng Nương công chúa, rồi nhường ngôi cho Thạc công. Ông Bộ chủ Ai Lao đồng ý.
Từ đó Thạc công trở về nước Thục, được vua nước Thục gả công chúa và nhường ngôi báu. Đến khi vua Thục băng hà, ông lên ngôi vua xưng là Thục An Dương Vương. Ông nối thừa quyền nhạc phụ, khiến thiên hạ thanh bình, nhân dân nước Thục sống yên vui. Người dân cày ruộng đào giếng, khắp nơi rộn rã tiếng đàn ca, nghỉ việc võ, sửa việc văn, chăm lo giáo hóa, bốn biển đón cảnh tượng thái bình.
Lại nói nước ta khi Nghị Vương ở ngôi được 162 năm thì Nghị Vương băng hà. Thái tử Duệ Vương lên ngôi kế vị. Đến lúc ấy nhà Hùng đã trải 18 đời với hơn 2000 năm hưởng nước, nối truyền ngôi báu đã lâu. Do lòng trời định như thế.
Khi Duệ Vương lên ngôi, lúc ấy thế nước cáo chung, cơ đồ mạt tạo. Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều nối nhau về nơi tiên cảnh, cùng 6 nàng công chúa chỉ còn lại 2 người. Một người gả cho Chử Đồng Tử, một người gả cho Tản Viên Sơn Thánh. Duệ Vương không có người lập hậu mới triệu Thạc công (tức Thục An Dương Vương), nguyên từ Bộ chủ Ai Lao cũng là miêu duệ nhà Hùng, đến kế vị. Nhân đó Duệ Vương trao nỏ rùa lẫy thần cho Thục Vương để quản lý thiên hạ, đó là đồ quý báu của cơ đồ họ Hùng.
Lại nói, Thục An Dương Vương (húy Thạc) từ lúc nhận ngôi báu cơ đồ họ Hùng, chỉ khoanh tay rủ áo mà nước được thịnh trị, bốn biển thanh bình, người dân vui tiếng đàn ca, trong ngục không còn tiếng người kêu oan trái, vua sáng thần mình. Đương lúc ấy có ông Cao Lỗ giữ chức Tổng chính, Vũ Công Lỗ giữ chức Nghị chính, Phan Công Bính giữ chức Tham nghị triều chính, Nguyễn Tuấn (người trang Hương Triện) giữ chức Ty chính bình vụ, đều là những trung nghĩa lương thần của Thục An Dương Vương. Cai trị hơn 60 năm, lấy đức giáo hóa dân làm gốc. Vua tự tuân theo phúc họ Hùng, dời đô đến thành Cổ Loa. Đương lúc ấy vua lấy đất Hương Triện là nơi cung sở thêm, nên cho được miễn trừ việc binh lương, vinh hiển dồi dào, thấm nhuần tước lộc, cùng nhau chung hưởng đức độ của vua, thực là thịnh vậy.
Lại nói bấy giờ có người phủ Cửu Chân, Nam Hải, họ Triệu tên Đà, phát động hùng binh kéo đến đánh Thục Vương để cướp nước. Nhưng vì Thục Vương có nỏ rùa lẫy thần là báu vật giữ cơ đồ họ Hùng nên trải bốn năm năm giữa Triệu Đà và Thục Vương rồng hổ tranh đấu nhiều phen. Hễ dương nỏ là quân của Triệu Đà đại bại Trong lúc trống mái chưa định, cò trai dằng co, không ngờ đạo trời lại khiến như thế. Tuy có nỏ rùa lẫy thần là báu vật nhưng do thế nước cáo chung nên cũng khó mà bảo vệ.
Lúc ấy Triệu Đà thấy Thục An Dương Vương có thần cơ dị thuật, lại trong nước có nhiều người tài giỏi nên dù đem binh cũng không địch nổi. Một hôm Triệu Đà bảo với các tướng sĩ rằng: “Thục Vương có thần tài dị thuật, nếu đánh thì quân ta khó thắng. Nay tiếp tục mang quân sang đánh quân Thục thì tất lại thu lấy thất bại. Chẳng bằng dùng mưu mà lấy được nước đó. Nay ta định dùng lễ cống xin làm nước anh em, giả làm kế cầu hòa để dò xét ý của Thục Vương ra sao. Ví như được lòng trời ta sẽ đánh một trận là thành đại nghiệp”.
Các tướng nghe xong tất cả đều đồng thuận. Nhân đó Triệu Đà sai bề tôi mang kễ đến Thục An Dương Vương xin cầu hòa. Thục Vương thấy sứ giả nhà Triệu mang lễ cống cầu hòa liền đồng ý. Từ đó kết làm nước anh em, giữ tình tín ái.
Bấy giờ có ông Cao Lỗ giữ chức Đại tướng cho Thục Vương, có thừa trí dũng, trung nghĩa vô song, nhưng bị quần thần nói dèm pha, khiến Thục Vương giáng chức, đày lên Thái Nguyên cho giữ chức huyện lệnh ở châu Bạch Thông. Cao Lỗ từ khi nhậm chức ở đây hổ báo trong địa phận sơn lâm bản châu nghe uy đức của ông, tất cả đều quy phục. Cao Lỗ do chứa hận trong lòng, phát thành chứng bệnh ung thư, hóa tại đất bản châu. Hổ thú rước về đất Đồng Than an táng, về sau lập đền tại sông Thiên Đầu, nhân dân thờ tự, có nhiều linh ứng.
Lại nói, sau đó mấy năm, Triệu Đà lại nghe tin Thục Vương có người con gái tên là Mỵ Châu công chúa. Triệu Đà mới xin cầu hôn cho con trai của mình là Trọng Thủy. Thục Vương cũng đồng ý gả cho Trọng Thủy. Đường thời các trung thần đều can gián, nhưng vua không nghe, lại bảo với quần thần rằng: “Ta có lấy thần của báu của trời thì sợ gì quân Triệu? Vả lại ta không phải là người bất nhẫn”.
Các nghĩa sĩ lương thần can ngăn không được đều từ quan trả chức xin về quê. Âu cũng là do lòng trời bỏ Thục mà theo về Triệu, khiến đức của vua tối tăm, còn lương sĩ quân thần thì đều xa lánh.
Lại nói Triệu Đà nghe tin quân thần của Thục Vương tự di phế nhau, ngầm nghĩ đến việc môi hở răng lạnh, lập tức mật báo cho con trai Trọng Thủy lấy chỗ thân ái mà do thám tình hình trong nước, tất được Trọng Thủy làm theo. Từ đó Trọng Thủy ra vào chỗ bệ hạ, Thục Vương lại rất tin yêu.
Một hôm nhân lúc rỗi, trong phủ vô sự, Trọng Thủy mới hỏi công chúa Mỵ Châu rằng: “Ngày xưa trong lúc hai cha ta hiềm khích giao tranh, cha nàng có dị thuật gì khiến cho cha ta luôn phải thất bại vậy?”.
Thế là công chúa Mỵ Châu liền chỉ vào nỏ rùa lẫy thần. Trọng Thủy hiểu rõ mới tạo một chiếc lẫy khác đem vào đánh tráo. Sau đó tâu với Thục Vương xin trở về thăm cha. Thục Vương đồng ý.
Trọng Thủy lại lấy nệm gấm lông ngỗng trao cho công chúa Mỵ Châu và dặn: “Hai nước có động tĩnh bất thường, nay ta xin về thăm thân phụ, không biết nhanh chậm thế nào. Nếu có binh cách xảy ra, thắng thua khôn lường nên có lông ngỗng cho nàng đánh dấu đường. Ta sẽ theo đó mà tìm đến sau”.
Công chúa Mỵ Châu nghe theo lời dặn. Khi Trọng Thủy về đến thành phủ mang lẫy nỏ báo cho thân phụ, Triệu Đà được lẫy nỏ liền phát động hùng binh tiến đánh Thục Vương, cho quân vậy thành. Thục Vương ngồi trên thành bảo Triệu Đà rằng: “Ta có nỏ thần, quân Triệu không sợ chăng?”.
Quân Triệu Đà ngày một mạnh, xông vào giáp công. Thục Vương dương nỏ bắn nhưng không hiệu nghiệm, biết là mất lẫy thần, bèn cưỡi ngựa cùng công chúa Mỵ Châu, cha con đều chạy.
Công chúa Mỵ Châu cưỡi ngựa chạy phía sau, cứ theo lời giao ước với Trọng Thủy mà rắc lông ngỗng đánh dấu đường. Kịp lúc quân của Triệu Đà theo lông ngỗng truy đuổi Thục Vương, đến khi cùng quẫn, Thục Vương mới ngầm cầu rùa thần đến cứu giúp (do trước đây Duệ Vương trao nỏ thần cho Thục Vương bảo rừng về sau hễ gặp nạn thì hô rùa thần đến cứu giúp). Thục Vương cầu khấn xong bỗng thấy sóng to nổi lên dữ dội. Rùa thần đột nhiên nổi trên sông quay lại bảo Thục Vương rằng: “Giặc ở phía sau nhà vua!”.
Thục Vương quay đầu nhìn phía sau thấy công chúa Mỵ Châu đang phóng ngựa rải lông ngỗng, vua mới bảo Mỵ Châu rằng: “Mỵ Nương con đã giết cha!”.
Mỵ Châu nghe xong, thề cùng trời đất, ngay lúc ấy (tức ngày mồng 2 tháng 12) nhảy xuống sông tự vẫn. Thục Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa Nam Hải thì đã thấy rùa thần rẽ nước thành đường. Thục Vương tay cầm ngọc tê dài 7 thước đi vào biển hóa sinh bất diệt.
Về sau nhân dân địa phương ở Nam Hải đều lập đền thờ cúng. Đến triêu Hậu Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, thần có công âm phù giúp nước, có nhiều linh ứng, nên được phong là Nam Hải Đại vương.
Lại nói, đương khi ấy có ông Nguyễn Tuấn giữ chức Ty chính, người trang Hương Triện, huyện Gia Định, vốn là bề tôi của Thục Vương, do can gián vua nhưng vua không nghe, mới từ chức trở về dưỡng nhàn ở quê. Nghe tin vua đã hóa, Triệu Đà lấy được nước, mới truyền nhân dân (tức trang Hương Triện) cứ tuân theo húy tự là Thạc Đại vương mà lập đền ở hội đồng cung sở để thờ cugs. Còn Nguyễn Tuấn vào đất Ái Châu xuất gia đầu Phật, xuống tóc ăn chay, mải miết dạo ngắm trời đất, không quay về quê quán. Về sau mất tại chùa Ngọc Xá, huyện Tống Sơn, nhân dân địa phương thờ cúng.
Lại nói cho đến thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tề, Lương cộng là 349 năm, trải đến nước Nam có các đời Đinh, Lê, Lý, Trần gồm 4 họ khai sáng cơ đồ, vị Thạc Đại vương thường âm phù giúp nước, che chở dân, anh linh hiển hiện, nên được các đời đế vương gia phong là Thượng đẳng phúc thần, hương hỏa thờ cúng không dứt.
Lại nói, trải đền thời bấy giờ có người họ Lê, tên húy là Lợi, người trang Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu đứng lên khởi nghĩa, tập hợp nghĩa binh, tiễu trừ họ Hồ, tiêu diệt người Minh, lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn (tức Thái tổ Cao Hoàng đế), đặt niên hiệu Thuận Thiên. Khi đang còn khởi nghĩa, vua đi qua ngôi đền của trang Hương Triện, vào đây cầu đảo vị âm thần phù giúp nước đánh giặc, sau khi bình xong giặc Minh, sẽ bao phong mỹ tự Thượng đẳng Phúc thần, thờ cúng lâu dài cùng đất nước trường tồn giữ làm lệ thường. Về sau đánh đuổi được giặc Minh, đất nước thanh bình, vua bèn gia phong mỹ tự, vạn đời là Phúc thần. Đức của thần thịnh vậy.
– Phong cho thần là Thạc thần Đại vương. Chuẩn cho dân của trang sở tại Hương Triện phụng thờ.
Lại nói, từ khi Lê Thái Tổ khai sáng cơ đồ trải truyền các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiển Tông, Chiêu Tông đến đại thần họ Mạc tiếm quyền (tức Mạc Đăng Dung, là huyền tôn của Mạc Đĩnh Chi), trải năm đời làm vua với hơn 60 năm. Đến vua Trang Tông cùng đại thần họ Nguyễn có mưu kế lớn, khôi phục nghĩa binh, tiễu trừ họ mạc. Từ đó nhà Lê làm đế, họ Nguyễn là vương, tiền Lê, hậu Lê thần đều có công âm phù giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ. Do vậy trải các đời đế vương đều được gia phong mỹ tự là Thượng đẳng Phúc thần, cùng đất nước dài lâu giữ làm lệ thường. Đức của thần thịnh vượng vậy (đền thờ chính của thần ở Cổ Loa, là nơi quốc tế, làm dân tạo lệ)
Lệ về ngày sinh, ngày hóa của thần cùng ngày tiệc, sắc phục, tên húy nhất thiết phải cấm, được ghi như sau:
– Ngày sinh của thần: 15 tháng 10, lấy làm lệ chính. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế, sửa lễ gồm cỗ chay, lợn, xôi, trầu, rượi. Ngày hôm sau (chính nhật) sửa lễ gồm bò, ca hát trong 3 ngày thì dừng.
– Ngày hóa của thần: mồng 2 tháng 12. Sửa lễ cỗ chay, lợn, xôi, trà, hoa quả, trầu cau.
– Ngày tiệc: 12 tháng 8. Làm lễ rước thần cáo tế. Sửa dùng lợn, bò cũng có thể được, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: mồng 7 tháng Giêng. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế cáo như ngày sinh của thần. Ngày hôm sau sửa lễ gồm bò, ca hát, đánh cờ, đấu vật trong 10 ngày thì dừng.
– Ngày tiệc: 12 tháng 9. Sửa lễ dùng lợn, xôi, rượu, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: 12 tháng 3. Làm lễ, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: mồng 10 tháng 11. Làm lễ tùy nghi.
– Tên húy của thánh phụ, thánh mẫu xem trong Ngọc phả này đều cấm dùng, cùng lệ về các ngày tiệc, thánh phụ thánh mẫu đều được phối thờ.
– Tên húy gồm chữ Thạc, nhất thiết cấm dùng, cùng hai chữ Nam, Hải phải tránh âm, sắc phục khi hành lễ, màu vàng, màu tía đều không được dùng. Lông ngỗng nuôi dưỡng cấm không được dùng.
Ngày mồng 10 thánh Giêng niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất (1572) Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính vâng mệnh soạn bản chính.
Ngày tốt tháng 2 niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737) Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh, bề tôi là Nguyễn Hiền phụng mệnh sao lại theo bản chính.
Người dịch TS. Nguyễn Hữu Mùi, Viện nghiên cứu Hán Nôm năm 2009.