Việt Thường Thị Lạc Long Quân sinh nhất bào bách noãn ngũ thập thuỷ thần Hải Vân Long Vương

Thần tích dịch theo bản khai làng Đào Xá, tổng Phương Giao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, ký hiệu TTTS 14824

Ghi chép cổ về vị Hải Vân Long Vương, là bộ thứ 19 trong 50 vị thủy thần từ một bầu trăm trứng do Lạc Long Quân họ Việt Thường sinh ra

Chi Cấn, quản các sông Thao, sông Bạn, sông Đà

Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Nam Thiên Đại bảo Tiền Hoàng Đế gây dựng cơ đồ, là thủy tổ Việt Nam, khai sáng họ Hùng cổ Việt Thường, 18 đời thánh vương ngự trị trời Nam, mở nước Việt cơ đồ họ Hùng. Nước biếc một dòng khởi vận thánh đế, minh vương. Núi xanh vạn dặm dựng nền cung điện đô thành. Mở vật giúp người, thống trị 15 bộ, thế lớn mạnh phục các phiên bang. Nối tiếp ngôi báu Viêm Hồng mà làm vua trị nước hơn 3 ngàn năm, mãi giữ cho dòng dõi vững như bàn đá. Hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh. Truyền trăm đời đế vương nước Nam. Thánh địa núi Hùng muôn năm còn ngự. Đất tổ trời Nam là gốc nước mãi bền muôn năm, vạn đời mãi mãi. Lập nên các lăng, điện, miếu, cung. Con cháu dòng dõi hoàng gia phân chia ở các đầu non, góc biển, tại quận Giao Chỉ các xứ phủ, huyện, xã dân, châu, trang, động, sách, đầm, hồ, sông, suối, vực, khe, núi sông các nơi cùng hương lửa phụng thờ. Vạn thế tích cũ lưu truyền. Người đời sau có thơ khen rằng:

Nam thiên triệu khởi tự Hùng đồ
Thánh tử thần tôn mãn quốc đô
Bách tử thiên tôn thiên hạ hữu
Nhất bào bách noãn thế gian vô
Nhị thiên dư tải sơn hà tại
Thập bát tương truyền nhật nguyệt phô
Kim cổ danh truyền Nam Bắc cộng
Nam thiên đế tổ thử Hùng đồ.

Dịch là:

Họ Hùng cơ nghiệp dựng trời Nam
Khắp chốn là dòng dõi thánh thần
Trăm trai ngàn cháu trong thiên hạ
Trăm trứng một bầu hiếm thế gian
Hai ngàn năm lẻ núi sông đó
Mười tám đời truyền với tháng năm
Xưa nay danh vọng Nam cùng Bắc
Họ Hùng chính đế tổ trời Nam.

Chi Cấn, bộ thủy thần

Lại nói, triều Kinh đời thứ hai là thời vua Lạc Long Quân ngự trị (Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm. Mẹ là con gái của vua Thủy đình tên là Thần Long. Ngài là con trai trưởng của Kinh Dương Vương, ở ngôi 269 năm, sống lâu 506 tuổi). Vua ra ngự núi Nghĩa Lĩnh, ở tại thành Phong Châu (thành Phong Châu tức là đất Việt Trì, sông Bạch Hạc vậy). Có người con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, thường ra chơi bãi Trường Sa. Long Quân đi ngự chơi, trông thấy hình dung đẹp đẽ, yêu lắm, lấy làm Hoàng phi.

Vua có tư chất phi thường, khí tượng ung dung, đức nhân quảng đại. Thiên hạ đều khen là vua hiền, nên đổi hiệu là Hùng Hiền Vương.

Bà Âu Cơ có mang 3 năm 30 ngày. Khi sắp sinh ở trên núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc rực rỡ. Đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai, đều là tư chất khác thường, anh hùng vượt đời. Đến khi lớn lên vua bèn lập hầu phong đất, chia nước thành 15 bộ (1. Sơn Tây; 2. Sơn Nam; 3. Hải Dương; 4. Kinh Bắc; 5. Ái Châu; 6. Hoan Châu; 7. Bố Chính; 8. Ô Châu; 9. Ai Lao; 10. Hưng Hóa; 11. Tuyên Quang; 12. Cao Bằng; 13. Lạng Sơn; 14. Quảng Tây; 15. Quảng Đông).

Khi đó Long Quân bảo bà Âu Cơ rằng:

–       Ta là rồng, mà phu nhân là tiên, loài giống khác nhau nên phải chia biệt.

50 người theo cha về biển làm Thủy tinh. 50 con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh. Các vương trấn giữ rõ ràng ở các sông núi, đều là thần thuộc.

Vua bèn đặt tướng là “lạc tướng”, con trai vua là “quan lang”, con gái vua là “mị nương”, quan phụ trách là “bồ chính”. Đang khi đó trên nhân luân chính trực, dưới giáo hóa sâu dày, bắt đầu thực hiện những điều tuyên bố này. Vua được rủ áo chắp tay, rờ rỡ chín tầng. Dân được đào giếng cày ruộng, vui vẻ bốn phương. Không có ai sống mà không yên lòng. Không có vật nào yếu mà không được nuôi dưỡng. Việc trị định thành công, vượt hơn đời vua trước. Phong tục thời thái cổ cũng không sánh bằng. Trị nước lâu dài, đời đời cha truyền con nối, đều xưng hiệu là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một dải, là thủy tổ của Bách Việt vậy.

Vua Hiền Vương ở ngôi 400 năm, rồi theo cha về biển, hóa sinh bất diệt làm Động Đình Thủy Tiên Long Quân Đế chủ. Con là Hùng Quốc Vương (Quốc Vương húy Lân ở ngôi 221 năm, sống 767 tuổi, sinh năm Canh Ngọ ngày 5 tháng 5 giờ Ngọ. Trăm vương cũng cùng sinh năm Canh Ngọ do sinh một bầu trăm trứng. Trăm con trai phân thành trăm vương. Quốc Vương là đầu trăm vương. Hiền Vương lập làm Hoàng thái tử để nối ngôi vị. Sau phân thành hai bộ. 50 người theo mẹ làm Sơn thần. 50 người theo cha làm Thủy quân. Quốc Vương ở ngôi cũng theo bộ bên cha, sau cũng về biển với cha làm Thủy Long Động Đình Quân. Vương hóa ngày 12 tháng 3), tuân nối cơ nghiệp. Quốc Vương bèn thực thi hóa đức, miễn giảm nông tang, quản dân không có lo lắng ưu tư, nước có của dự trữ dư giả, đất biển yên bình, người không dối trá, phong tục thuần phác đương khi được thấy. Hưng công nghiệp cai trị đời sau mà làm rạng rỡ nghiệp đời trước. Người đời đều khen là vua hiền.

Vua nghĩ tới việc các vị thánh trước đây cắt đất chia phong, bèn lập các hoàng đệ là Sơn tinh, Thủy tinh, cùng chia làm trăm nhánh, làm chủ cai trị các nơi để hưởng lộc, rồi lại đổi làm trăm họ, chia ra ở đầu non, góc biển, trấn giữ từng phương. Năm mươi vị trấn giữ các đầu núi đều gọi là Phiên thần Phụ đạo. Năm mươi vị trấn giữ các góc biển đều gọi là Thủy thượng Linh thần. Để tiện cho bảo hộ nhân dân, giữ gìn tông xã.

Thời khi Quốc Vương ngự trị, thiên hạ nhiều khi nước to ngập lụt. Nhân dân thường bị giặc nước xâm hại. Bởi vì Quốc Vương vốn là mệnh Thủy thần còn đang ngự trên trần thế nên nhiều khi nước lụt tiến đến Dương gian. Nhân dân rất khổ sở. Quốc Vương sai chia 50 vị hoàng đệ của Thủy bộ cho trị giữ các bờ sông, góc bể, quản lý các vùng đất đai, để chống đường nước xuyên vào các nơi có dân mà phá hại.

Lại nói, đạo Hưng Hóa, phủ Gia Hưng, phủ Yên Tây, cùng phủ Đà Giang, Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Lập, Văn Bàn, Thủy Vĩ, Thanh Hậu, Thuận Châu, Bản Châu, Phù Việt Châu, Mai Châu, Lai Châu, Luân Châu, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Sùng Lăng, Khiêm Châu cùng huyện Bất Bạt, Phúc Lộc và các hướng chân núi trên đất liền là những nơi bị thủy quan xuyên phá làm khổ sở. Hoặc phá thông đường nước chảy vào nơi dân cư, dâng thẳng lên chân núi để lấy gỗ lạt. Hoặc xuyên đục các đầm khe vực sâu. Hoặc theo bắt nhân dân, phụ nữ. Khi đó ở các phủ, huyện, châu, trang, động, sách của xứ Hưng Hóa bị nước hại nặng nề. Vương bèn khiến hoàng đệ là quan Hải Công ngự trên các xứ miền Hưng Hóa, chủ giữ các đường nước đầu sông mặt đất.

Đức Hùng Hải Công (tức sau gọi là Hải Vân Long Vương Động Đình Thủy Đế) vâng mệnh Quốc Vương đến nhậm xứ Hưng Hóa. Khi Hải Công đến nơi, ngay hôm đó nhân dân các phủ, huyện, châu, trang, động, sách tề tựu tại đó làm lễ mừng. Đức Hải Công sai các gia thần đưa hịch cho các đầu sông cửa nguồn, những nơi nước xoáy vào nơi dân ở, mỗi nơi một tờ hịch buông xuống dòng nước. Ông truyền hịch xuống các dòng nước xong hết thì đến ba ngày sau các nơi nước lớn ngập trời đều vỡ thành khe ngòi, ra khỏi các vùng đất có dân cư mà chảy xuống các lòng khe. Từ ấy nước lụt được yên. Nhân dân không phải lo lắng hoạn nạn, mùa màng được bội thu, đều thực là do nhờ vào đức lớn của Hải Công vậy.

Đến mùa xuân tháng Giêng, hoa cỏ rợp đất, cảnh sắc núi sông đâu đâu cũng thấm gió xuân. Đức Hải Công cùng bà Trang Hoa Phu nhân (Trang Hoa Công chúa là người quê ở Mai Châu, là con gái quan Lạc hầu, nhan sắc đẹp đẽ, tính nết trong sạch, rất có hiếu đễ, thái độ hiền hòa. Ngài lấy về rất sủng ái, lập làm Đệ nhị phu nhân) xuống thuyền rồng theo dòng nước cùng mấy trăm gia thần chơi xem phong cảnh sông núi, thăm thú nhân dân và hình thế thủy văn. Nếu chỗ nào mà bị giặc nước băng phá, mạch đất khuyết lở, thì quan Hải Công lại sức nhân dân địa phương bồi đắp đê để trả lại mạch đất. Ngài đi từ sông Hán, sông Nhị, sông Lô, sông Thao đến Tuyên Quang, lại quay thuyền về Hưng Hóa, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà. Hễ đi đến nơi đâu có dân địa phương, thấy phong cảnh hữu tình, dân tục thuần hậu thì bèn lập hành cung ở đấy. Ngài lại cho dừng thuyền, đóng quân du chơi tại đó.

Khi ấy thuyền của Ngài đia ra khỏi sông Bạn, về đến đất trang Thọ Xuyên. Hôm đó (ngày 10 tháng Giêng) nhân dân địa phương lập hành cung bái mừng. Ngài thấy nơi ấy non xanh nước biếc, nước sông Bạn thâm sâu chảy bao bọc bốn bề, nơi trong dân ở rất đẹp. Quan Hải Công cùng bà phu nhân đỗ thuyền ở bãi Thọ Xuyên, lên ở hành cung dạo chơi quãng hơn 10 ngày. Một dải sông sâu ở đất đó giao long, cá, giải, rắn hoa hơn trăm bầy đều đến hội chầu ở nơi vực sông đó (tức là vực sông Thọ Xuyên), hướng theo nơi Ngài ở, khắp bốn bề dân cư. Khi đó nhân dân đều sợ hãi không dám ra đường. Nhân dân đều làm lễ kêu với Ngài. Ngài bảo dân rằng:

–       Ta là chức Thủy quan, quyền giữ Động Đình. Do vậy thủy binh đến hội chầu theo mệnh của ta. Dân các ngươi đừng sợ hãi. Đã có chủ giữ, các thủy binh không dám phạm đến dân các ngươi đâu.

Ngài nói với dân xong lại mắng thủy binh rằng:

–       Thủy quốc, nhân gian khác nhau. Các loài thủy tộc không được lộ hình cho nhân gian thấy, đó là trọng trách vậy.

Ngài mắng xong, bỗng nhiên thủy binh chìm cả xuống đáy nước tự yên. Nhân dân cả mừng, làm lễ xin được làm hộ nhi hương. Ngài bèn đồng ý. Sau dân dựng đền thờ (các triều đình sau phong làm Hiển ứng Hộ quốc Tế thế Đại vương. Trang Thọ Xuyên phụng thờ).

Một hôm thuyền của Ngài lại đến động Dị Nậu (Động Dị Nậu đó có một vị quan lang ở ấy, vốn là con Lạc Long Quân trong trăm trứng, thuộc về bộ Sơn thần, là ông Hùng Huệ Vương. Sau triều đình phong làm Cao Sơn Hiển ứng Tế thế Đại Vương, Dị Nậu phụng thờ). Hùng Huệ Vương ở đất đó (cũng là em ruột của Hải quan Long Vương, theo Sơn bộ). Ngài Hải Công đến chơi với ông Huệ Công, dừng thuyền ở bến đó (tức bãi Dị Nậu, cũng là trên dòng Bạn Hà xưa).

Đến nửa đêm hôm ấy Ngài cùng ông Huệ Công ngồi trong thuyền uống rượu nói chuyện. Bà Trang Hoa phu nhân nằm ở trong màn ở bên trái thuyền, mơ màng ngủ đi, mộng thấy lại đi lên đến cung Thọ Xuyên. Phu nhân lội qua giữa dòng nước, chợt thấy có con rồng vàng nổi trên mặt nước mà đi qua trước mặt. Lại thấy 3 con rồng nổi lên mặt nước mà đi nối theo sau. Bà phu nhân cũng nổi lên rẽ nước mà đi, thẳng đến nguồn xã Đào Xá. Phu nhân bỗng thấy có một phiến đá lớn ở giữa dòng nước. Phu nhân bèn lên ngồi trên phiến đá đó. Con rồng đi trước phu nhân cũng lên trên hòn đá, biến ra quan Hải Công, cùng ngồi với phu nhân.

Ba rồng con theo sau thẳng đến trước mặt mà chầu. Sau là giao long, rắn giải ngoài ngàn con đều chầu quanh nơi phiến đá. Phu nhân trông thấy sợ, hét lên một tiếng rất to rồi tỉnh dậy.

Quan Hải Công nghe thấy tiếng kêu đó, hỏi rằng:

–       Cái gì mà hét to thế?

Bà Trang Hoa phu nhân nói rằng thấy giấc mộng như thế. Ông Huệ Công theo đó đoán rằng:

–       Mộng của phu nhân và của Hải Công là điềm sinh quý tử. Vả lại anh trai quyền quản thủy bộ, chức chưởng Thủy đình, ấy là dòng Long Quân vậy. Nên mộng điềm rồng ấy quả là không sai. Xin chớ nghi hoặc.

Quan Hải Công nói rằng:

–       Đệ công nói phải vậy.

Hôm đó (tức là ngày 26 tháng Giêng) thuyền rồng của quan Hải Công đi đến xã Đào Xá. Ngài thấy địa thế hương dân có kiểu đất hay, long đình đới ấn, đáy nước chứa châu, bên tả có chim phượng lại chầu, bên hữu có voi rùa. Đằng sau có tinh phong dẫn mạch, đằng trước có đầm sâu nước lớn. Ngài truyền dựng hành cung ngự ở đầu rồng.

Ngay hôm đó (ngày 27 tháng Giêng) nhân dân làm lễ bái mừng. Đến nửa đêm hôm ấy Ngài nằm ở chính sở chợt ngủ, thấy trên trời có năm sắc mây, dưới vực nước cồn sóng rợn. Lại có ba con rồng theo mây thẳng xuống giữa vực, mờ ảo biến thành ba người, mũ rồng rực rỡ, áo gấm huy hoàng. Quân ngựa thầy tớ hàng trăm, ầm ầm rẽ nước từ đầm vực mà lên trước sân chỗ Ngài ngồi. Đầu tiên, một người hai tay bưng cái mâm ngọc. Trên mâm có ba con cá chép, đặt trước mặt đức Hải Công. Ngài hỏi rằng:

–       Các quan ở đâu lại và có lễ gì vậy?

Ba người thưa rằng:

–       Chúng tôi vâng lệnh Thiên Đế, là ba quan Thủy phủ, chức quản quyền Thủy phủ. Nay vâng mệnh Động Đình Long Quân Thủy Đế phân thuộc theo ngài để định nơi bổ nhậm. Xin vào đầu thai làm con ngài. Động Đình Thủy Đế lại còn giao cho một bài thơ, xin dâng để Ngài xem.

Đức Hải Công đón lấy bài thơ, mở ra xem, có tám câu thơ rằng:

Tam vị Long quan phó hứa quân
Trang Hoa kim nhật định nhâm thần
Thọ Xuyên, Đào Xá giai đồng mạch
Bạn thủy, Thao hà nhậm lưỡng tân.
Tri thủy thanh sơn cung Thủy phủ
Thâm uyên bác trạch bạn giang thần
Linh long đĩnh xuất phù ư thế
Nhất phó Tam Long nhậm Hải Vân.

Diễn âm:

Long quan ba vị phó cho ngài
Bà vợ ngày nay hẳn có thai
Trang Thọ, sách Đào cùng một mạch
Nguồn Thao, sông Bạn quản hai nơi
Rừng xanh nước biếc làm lầu điện
Vực cả đầm sâu ấy Thủy đài
Nảy giống rồng thiêng ra giúp nước
Ba rồng đưa lại mặc quan ngài.

Ngài đọc xong rồi tỉnh dậy, biết là mộng. Ngài nghĩ thầm, nhớ tới lời dạy của đức Lạc Long Quân đã báo thư, giao cho ba Long quan thuộc về ta, đầu thai vào làm con, ra trị đời giúp vận nước hưng thịnh, để phù giúp tông xã được lâu dài. Hôm đó (ngày 28 tháng Giêng) quan Hải Công truyền cho nhân dân mổ trâu bò mà lễ tế đức Tiên Hoàng (tức là Lạc Long Quân). Đang khi làm lễ bỗng thấy trên trời có đám mây mờ mịt, dưới sông cồn dồn, bốn hướng gió lớn nổi lên, một vùng mưa lớn ì ầm. Ngài đang lúc làm lễ thì bỗng thấy ba con cá chép nhảy vào thuyền rồng. Ngài bèn nói rằng:

–       Con ta cho ta thấy đúng như lễ trong mộng vậy.

Lễ xong rồi thì gió mây tan hết, trời yên đất lặng. Lại thấy giữa dòng nước trước hành cung có năm sắc mây nổi trước mặt nước. Ngài bèn chèo thuyền rồng ra đến nơi đó xem, thấy một phiến đá trắng lớn ở giữa dòng nước. Trên mặt đá có ba quả trứng để đấy. Nơi đó bốn phía của phiến đá giao long, rắn hoa đều chầu hội. Ngài cầm ba quả trứng đem đặt vào trong thuyền, mang về hành cung đưa cho bà Trang Hoa phu nhân. Ngài bảo bà Trang Hoa rằng:

–       Ấy là con ta đó.

Bà Trang Hoa giơ tay cầm lấy. Ba quả trứng tự nhiên lay động, quay múa trước thềm. Được một lúc ba quả trứng vỡ ra thành nước dãi thấm khắp vào mình bà Trang phu nhân, đều là mùi thơm sực nức. Bà phu nhân từ ấy có thai, trong lòng buồn bực, tinh thần chuyển động, nói năng thất thường, lại muốn có bà đồng múa hát, tính muốn hương hoa ăn chay. Bấy giờ thuyền rồng của quan Hải Công trở về trị sở ở Hưng Hóa. Đức Hải Công thấy bà phu nhân ngày càng thêm sợ hãi, ăn nói thất thường, lại thích bà đồng, hoa nương.

Thời bấy giờ thuộc phủ Gia Hưng đất Việt Trì có bà Quế Hoa, họ Trần, tên là Văn. Mẹ là Đinh Thị Viện. Bà Quế Hoa vốn là dòng bà đồng có phép diệu thông huyền, có tài hay thuật lạ. Khi đó quan Hải Công nghe tiếng, sai sứ thần mời bà đồng Quế Hoa lại chầu, ngày đêm múa hát. Bà phu nhân từ khi có bà Quế thì tinh thần mới được yên lặng, tính khí yên vui. Bà phu nhân cùng bà Quế rất là yêu mến, ngày thường ca múa, mỗi bữa đều không thiếu, tình tuy là thầy trò, mà xem bằng tình sâu như chị em.

Đến năm Đinh Sửu ngày mùng 1 tháng Giêng, Quốc Vương ngự tại điện Hương Lâu, mơ màng như mộng. Bỗng thấy một sứ nhân, mình mặc áo đen, tâu rằng:

–       Tôi vâng mệnh đức Lạc Long Quân Động Đình Thủy Đế, xin mời Quốc Vương lại hỏi chuyện.

Vương bèn theo quan sứ vào đế đài, thấy Long Quân ngự ở chính tòa cung Thủy tinh. Hai bên tả hữu trăm quan ngồi hầu. Tướng lân, Long hầu hàng ngàn. Kình binh, ngư giáp hàng trăm đội. Quốc Vương vào chầu trên điện ở bên đầu hàng tả hữu. Đức Lạc Long Quân phán rằng:

–          Nhà ta là một trăm con trai, Quốc Vương là đầu. Lại chia làm hai bộ. 50 về núi, chia trị các nơi. 50 là xuống nước chia trị các nguồn sông bể. Nhà ngươi tóm trị cả. Nay Dương đình riêng phó cho nhà ngươi trị vị. Nay hoàng đệ Hải Công là vị thứ 19, nhậm trị Thao, Đà hai sông ở Hưng Hóa. Nay ở Thủy đình ta lại khiến ba vị Long hầu đến để thay trị hai dải Thao, Đà, phân ở các vực cửa nguồn đầu sông cửa khe, để trấn giặc nước. Một là Đạt Linh Long, hai là Mãn Linh Long, ba là Uyên Linh Long. Nay Thủy đình đã định ngày mùng 3 tháng Giêng lên quản nhậm ở hai sông. Còn Hải Công cho rời đổi về nhậm cửa sông Nhị hà, xứ Hải Dương. Còn ba vị Long hầu thì sông Thao, sông Đà khe nguồn hai phái hợp nhau, đầm vực cùng thông. Một ở Thọ Xuyên, địa hình rồng bay phượng múa, thủy thế vực nguồn chín khúc, cho ba Long hầu cùng đóng làm nơi chính. Còn ven sông Ngọc Tháp cho Đệ Tam Uyên Linh một mình trị nhậm. Đào Xá có kiểu đất rồng thiêng dâng nước, chim phượng ngậm châu, vực lớn đầm sâu, chiêng trống cờ hình, Đà Thao hợp phái, nghịch thuận cùng giao, cho Đạt, Mãn Long quan cùng phó nhậm để trấn giặc nước xâm nhập, ngự làm chính sở.

Vua phán xong rồi ba quan bái tạ Long đình. Long Quân lại giao phó cho Quốc Vương. Lại cho thủy quân hơn một nghìn viên theo ba Long quan cùng Quốc Vương mà đi. Quốc Vương nhận mệnh giao phó của Tiên Hoàng (tức là Lạc Long Quân), khấu tạ trở về. Bỗng tỉnh dậy, biết đó là mộng. Quốc Vương mời hoàng đệ Hải Công lại phán rằng:

–       Ta có mộng lạ.

Vương kể lại đầy đủ sự mộng cho Hải Công biết. Hải Công tâu rằng:

–       Trước đây đã có điềm trứng, từ đó bà Trang Hoa có thai. Nay nhà vua lại cũng có mộng như thế. Việc đã rõ vậy.

Hải Công từ tạ nhà vua, trở xe về nơi trị sở Hưng Hóa. Đến ngày mồng ba thì thấy mây mưa tối tăm, sấm sét ì ầm. Thấy có một đám mây tản che trên nóc nhà chính. Bà phu nhân bỗng thấy trong lòng chuyển động, réo như tiếng sấm. Phu nhân tinh thần hoảng hốt, hồn phách mê man, mơ màng như mộng. Quan Hải Công mời bà đồng Quế Hoa lại bảo rằng:

–       Nay phu nhân đến cữ đầy tháng mà chưa thấy bà Quế Hoa đến. Vì vậy mời lại để hầu múa.

Bà Quế Hoa vào hầu múa được một lúc, chợt thấy hơn trăm con rắn từ ngoài sông Thao đi thẳng vào chỗ cung, nằm chầu hai bên trái phải của phu nhân. Quan Hải Công biết là thủy binh đã đến, bèn lập đàn cầu đảo trời đất, làm lễ đức Lạc Long Quân Thủy Đế. Xong rồi đến đêm hôm ấy bỗng thấy hai người tướng mạo đường đường, đi thẳng vào sân đình bảo Ngài rằng:

–       Vâng lệnh Thủy quốc báo trước cho Ngài biết, ngày mai là lúc sinh ba vị Long quan, nên kíp sắm ba chiếc thuyền rồng, thả xuống ở sông Thao, để ở giữa sông, dừng thuyền ở trên mặt nước mà đợi long quan sinh ra.

Nói xong ra cửa mà biến đi. Đến ngày hôm sau Ngài cứ theo lời giang sứ bảo, dong xe đưa bà phu nhân. Khi đó phu nhân nằm mê man, đặt phu nhân xuống thuyền. Bà đồng Quế Hoa cùng hoa nương chầu theo múa hát vài trăm người, bơi ra đến giữa sông Thao thì neo nối ba thuyền ở đấy. Giữa trời mây mưa tối tăm, mặt nước sóng rờn vạn nhận. Giao long, rắn giải, cá lại chầu bốn mặt hàng trăm vạn. Trong thuyền thấy réo o o như tiếng sấm lớn.

Bấy giờ Quốc Vương cùng Hải Công và các quần thần đều ngự thuyền rồng ở tại Tam Tản (tức Vĩnh Lại, xứ Tam Giang) mà xem. Đương lúc ấy chợt thấy dưới đáy sông có ba tiếng sét lớn chuyển động trời đất. Bà phu nhân sinh ra một bọc có ba trứng, nở ra ba con rắn. Đột nhiên biến nên to lớn, dài hơn mười lăm trượng. Mặt rồng mình rắn, vây vảy năm vẻ, mũ hoa sặc sỡ. Rồi xuống sông rẽ nước mà đi. Mây theo mưa ruỗi, gió thổi sấm vang. Đi theo hai bên có giao long, rắn giải, cá lớn ngoài trăm ngàn dặm, nổi đầy mặt nước, đi theo hai bên bờ sông.

Bà đồng Quế Hoa cùng các hoa nương hầu hạ hai bên múa hát. Thuyền rồng theo sau. Ba ông Thủy quan thẳng đến ngự Quốc Vương, cúi đầu làm lễ. Quốc Vương lấy trong mộng mà đặt tên ba ông:

1. Đạt Công Long Vương.
2. Mãn Công Long Vương.
3. Uyên Công Long Vương.

Quốc Vương đặt tên xong rồi khiến đình thần sắm mười chiếc thuyền rồng đưa theo sau. Ba ông chia đường cứ giữa dòng sông mà lên. Một ông Quý Công, tức Uyên Công Long Vương, thẳng đến bờ sông Ngọc Tháp. Khoảnh ấy nhân dân địa phương cửa nhà tối tăm, mây mưa mờ mịt. Người đều sợ hãi náu núp. Đình thần bèn lên bờ sông dựng cờ giương lọng, truyền cho nhân dân làm lễ mừng. Thủy quan nằm trên án. Rắn hoa chầu hai bên. Nhân dân khiếp sợ không dám ngửa trông. Được một lúc lại xuống vo vo mà đi, trở về Đào Xá hội với hai ông. Đình thần bèn khiến dân Ngọc Tháp lập chính cung thờ phụng ông Quý Công.

Lại nói, còn hai ông thẳng đến Thượng Nông. Các quân binh rồng, rắn, cá, giải xuyên mở một đường nước thẳng vào đầm Đào Xá. Ông Quý Công tiếp theo đến hội đầm Đào Xá chỗ bàn đá. Rắn hoa, cá, giải, giao long nổi lên mặt nước chầu xung quanh (tức đá thần trước đền Đào Xá). Bấy giờ trời đất tối tăm, mưa gió ì ầm. Đình thần truyền làm lễ bái tạ (tức ngày mùng 3 tháng Giêng), thiết lập cung ở đấy.

Lại nói, đến trang Thọ Xuyên, Quốc Vương khiến đình thần cùng quan Hải Công đến đất ấy, lập cung đền phụng thờ. Đương lúc dân lập cung đền, ông Hải Công ngồi trước xem đấy. Bấy giờ mặt trời đã xế núi. Chợt thấy hai thuyền rồng đi từ đầm lớn thẳng đến bến Thọ Xuyên. Ba quan ở dưới thuyền đi lên, tướng mạo uy nghi, tinh thần lẫm liệt. Xe loan, kiệu phượng, binh sĩ hai hàng thẳng vào trước cung khấu đầu làm lễ. Đức Hải Công hỏi rằng:

–       Quý quan ở phương nào lại mà nhún mình quá lễ như vậy?

Ba quan tâu rằng:

–       Chúng tôi là con đức Hải quan vâng mệnh Thủy Đế Động Đình cho lên cai trị các xứ miền Dương đài để chống giặc nước xâm phá vào nơi để dân ở được yên, quốc mạch lâu dài. Nay chúng tôi phó nhậm đã yên các chốn, thân về lễ tạ ơn cha mẹ khó nhọc.

Đức Hải Công biết ba con mình là Long quan. Vậy báo ba quan rằng:

–          Dương đài, Thủy quốc đều một là mạch gốc từ nhà Hùng, dần chia ở các xứ, nhưng núi sông cũng là một con nhà cả. Nay trời đã cho xuống ở đời giúp dân, giúp nước, lại nhập đầu vào làm con ta. Thật là mừng lắm. Vả lại đức Tiên Hoàng (tức Lạc Long Quân Động Đình Thủy Đế) đã báo cho vua Quốc Vương giao cho ba quan lên Dương đình trị nhậm các xứ. Trước đây đã định, vậy nên truyền cho nhân dân (tức ở đất trang Thọ Xuyên) thiết lập cung đền để ba quan đến nhậm vị. Nay ba quan đã đến, cá nước một nhà gặp gỡ, cha con cùng hội họp tại đây. May lắm, may lắm. Mừng lắm, mừng lắm.

Ngay hôm đó (mồng mười tháng Giêng) truyềnnhân dân làm lễ bái tạ. Việc xong ba quan từ tạ quan Hải Công, xuống thuyền tự nhiên chìm biến.

Lại nói, khi ấy quan Hải Công cùng các đình thần truyền cho nhân dân lập cung đền các chốn đã xong (tức là ba nơi chính Thọ Xuyên, Ngọc Tháp, Đào Xá), chia các quan (tức là ba Long quan) đến nhậm. Các dân đều phụng thờ đấy. Việc xong lại khiến quan Hải Công (tức chính là Hải Vân Long Vương, con của Lạc Long Quân Động Đình Thủy Đế. Trong số 50 người của thủy bộ, Hải Công là ở thứ 19, sinh được các vị Long Đạt, Long Mãn, Long Uyên. Ba vị đều cũng là các long vương vậy. Còn Hải Công là thánh phụ, cũng đều là một dòng phái nhà họ Hùng) rời về xứ Hải Dương nhậm lỵ nguồn vực sông Nhị. Đức Hải Công vâng mệnh về phó nhậm sông Nhị.

Một hôm (ngày 10 tháng 2) bà Trang Hoa phu nhân dong thuyền dạo chơi ở đầu sông (tức là chỗ sông Nhị và sông Thao giáp nhau). Ngài ra tắm rửa ở đấy, thấy thuyền rồng nổi mặt nước. Lại nghe trong thuyền có tiếng người gọi rằng:

–       Ba con lên đón mẹ hôm nay về Thủy quốc.

Tự nhiên thấy bà phu nhân vội vã xuống thuyền, tự chìm hóa đi. Sau ở đất ấy dựng đền thờ (về sau đức Hải Công cùng bách thần hóa ở điện Nghĩa Lĩnh. Trăm vương đều cùng hóa ngày ấy).

Lại nói đến lúc bà đồng Quế Hoa vào chầu múa hát. Một hôm bà Quế Hoa đang ở trong đền múa chầu. Khi đó bà Quế Hoa cùng các trinh đồng năm sáu người theo hầu, ra chơi bến nước trước đền rửa mặt. Bỗng gieo xuống nước chìm đi. Hôm đó (tức ngày mùng 3 tháng Giêng, cùng ngày sinh nhật ba quan). Nhân dân hô hoán, lại khiến người lội xuống nước đều không thấy hình tích gì.

Được trăm ngày sau nhân dân đều sinh tật bệnh không yên. Khi ấy rắn đến có hàng trăm, nằm đầy trong đền, thường gặp người dân thì xua đuổi. Hôm đó (ngày mồng mười tháng hai) nhân dân địa phương lập đàn cầu đảo. Vào buổi chiều tà, bỗng thấy ở đầm lớn trước đền nước dồn sóng rợn, bão lớn tứ tung. Giao long, rắn, cá, giải nổi đầy mặt nước, tất cả đều quay chầu vào nơi tiền tế của đền. Chợt thấy nước rẽ nổi lên hai chiếc thuyền rồng, thẳng đến cung đền. Lại thấy ba quan lên đi trước, đi sau là kiệu phượng của bà Quế Hoa. Nam binh, nữ tốt ngoài nghìn người đường đường vào ngồi trong cung đền. Nhân dân được gọi đến. Ba vị quan cùng nói rằng:

–          Chúng ta cùng vâng mệnh Thủy đế, quyền cai Dương đình. Hoàng thiên đã định nhậm ở hình đất tứ linh Thọ Xuyên, ở phiến đá hình rùa lập làm chính cung. Còn địa hình Đào Xá có hai rồng quấn thủy, lập làm chính sở. Cảnh thiêng địa tạo mà thành tứ linh Long Ly Quy Phượng. Các Thủy quan đến nhậm để quản các linh vật, để bảo hộ phong tục nhân dân được thịnh vượng. Nay có bà Quế Hoa, có công với phu nhân trước, cũng có công lao với Thủy đình, được vào trong đền nhậm sở truy phối thờ cùng với chúng ta, nhưng lại chưa có nơi ở riêng. Bởi thế nên trách đến dân các người vậy.

Nói xong xuống thuyền tự chìm biến đi. Dân cả sợ. Ngày đó (ngày 15 tháng 2) lập nơi thờ bà Quế Hoa ở bên phải đền, rồi làm lễ tạ. Từ ấy dân làng được yên, nhân vật thịnh vượng. Thời thường khi nước cầu, dân cầu có nhiều khi linh ứng, biến hiện ra vào khôn lường. Cung thờ hương đèn không ngớt. Giữ nước giúp dân có nhiều ơn vậy.

Lại nói, triều Kinh 18 nhánh truyền đến vua Duệ Vương ở ngôi. Than ôi, vận nước đến lúc cáo chung, cơ đồ họ Hùng vào cuối. Duệ Vương tuy sinh nhiều hoàng tửu (20 hoàng tử), nhưng đều theo nhau về chốn tiên hương, không có người kế vị. Sau lại sinh hai con gái, một là Tiên Dung, hai là Ngọc Nương. Một gả cho Chử Đồng Tử, một gả cho Tản Viên Sơn Tinh.

Khi ấy Thục Vương nghe tin Duệ Vương không có người kế vị, muốn truyền ngôi cho con rể là đức Tản Viên, bèn đem quân sang nước Nam đánh Duệ Vương để lấy nước. Vua Duệ Vương khiến các quan đến các nơi thờ bách thần (bách thần là từ trăm trứng Hùng Vương vậy) cầu đảo âm giúp quân sĩ theo đức Tản Viên đánh giặc cho được thành công. Nếu ngày sau được thanh bình thì sẽ bao phong mỹ tự.

Một hôm quan sứ đến tế lễ ở đền Tam Công tại Đào Xá. Đương khi làm lễ chợt thấy có ba con rắn lớn dài hơn mười trượng, mũ hoa rực rỡ, theo cùng hàng ngàn rắn nhỏ, vảy giáp năm sắc, từ dưới nước lên đi thẳng vào đền. Sứ quan cùng dân đều khiếp sợ. Tự nhiên trời đất mù mịt, mưa gió nổi lên. Tế lễ xong tự nhiên mây tan gió tạnh, trời đất quang đãng. Các vật tự biến đi.

Sứ quan trở về tâu vua. Vua phán rằng:

–       Dẫu sơn thủy bách thần đều là dòng phái nhà Hùng từ Tiên Hoàng, nay nước có biến, không lẽ điềm nhiên mà không phù giúp. Tất phải có hiển ứng linh thiêng. Việc ấy quả nhiên là ta thắng vậy.

Lập tức hôm đó vua khiến Tản Viên Sơn Thánh đem mười vạn quân mạnh chia đường thủy bộ cùng tiến đến thẳng chỗ quân Thục, đánh lớn một trận. Mây gió hợp sức, trời đất tối tăm, ầm ầm bốn hướng. Quân Thục (tức là Ai Lao vậy) bị phá tan, bắt sống tướng Thục cùng hàng trăm quân, còn lại đuổi hết về nước. Giặc được dẹp yên, vua mở hội yến lớn, rồi bao phong mĩ tự cho bách thần, hưởng hương lửa không ngừng. Phong:

–          Đệ Nhất Long Vương Uyên tĩnh Quảng thánh Đại vương.

–          Đệ Nhị Long Vương Dực vận Đại vương.

–          Đệ Tam Long Vương Hải lâm sơn Đại vương.

Xã Đào Xá phụng thờ đấy.

Lại nói, cơ đồ họ Hùng đã hết, còn truyền lại các hậu duệ đời sau. Đến đời vua Nhân Tông nhà Lý có quan Chiêu thảo sứ nhà Tống là Quách Quỳ và Triệu Qua hợp cùng với nước Chiêm Thành và Chân Lạp đem quân mạnh sang lấn nước ta. Vua nhà Lý sai ông Lý Thường Kiệt đem quân đến chống giặc Tống.

Một hôm ông Lý Thường Kiệt tiến quân đi đến xã Đào Xá, định vào đóng quân ở đền Tam Công. Một đêm, khi đi tới cửa đền, chợt thấy hai ông Rắn nằm giữa cửa đền. Quân lính đi trước đến nơi thấy các ông rắn thì không dám vào. Trung quân của Lý Thường Kiệt tiến đến thấy vậy bèn bảo ông rắn rằng:

–          Nay ta vâng mệnh vua đem quân đi dẹp trừ giặc Tống. Bây giờ (tức ngày mùng 10 tháng 7) tiến quân đến đền. Nếu trời đất cho ta mệnh dẹp yên được giặc ấy, quan Xà tướng giữ cửa nên tránh đi cho quân ta vào đến trú ngụ.

Nói xong thì quan Xà lui vào trong đền biến mất. Ông Lý Kiệt đem quân vào đóng trong đền. Hôm đó (ngày 10 tháng 7) nhân dân làm lễ bái mừng. Ông Thường Kiệt hỏi nhân dân rằng:

–       Ở đây dân các người thờ vị thần nào?

Dân thưa rằng:

–       Thờ ba vị Thủy thần, vốn dòng dõi vua Hùng Lạc Quân, từ xưa đến nay dân đều phụng thờ nơi đây là đền chính.

Ông bèn làm lễ khấn:

–          Xin âm phù giúp nước dẹp giặc thành công. Đến ngày sau thanh bình xin tâu vua gia phong mỹ tự Thượng đẳng Phúc thần, hưởng cúng tế vạn đời.

Khấn xong đến khoảng nửa đêm ông Thường Kiệt nằm ở ngoài cung đền, chợt thấy một trận mưa gió từ Tây Bắc thẳng đến trước nơi cửa đền. Ông trông ra ngoài đầm thấy hai chiếc thuyền rồng và hơn trăm người hò reo bơi thuyền thẳng đến trước đền. Ông tưởng rằng quân nhà Tống lại đánh mình. Ông bèn sai đánh chiêng trống dàn quân ra chống cự. Hỏi là thuyền nào, thì nghe trong thuyền có tiếng người nói rằng:

–       Thủy quan đến nơi đền để cùng ông dẫn quân đánh dẹp giặc Tống. Xin đừng ngại.

Nói xong thấy ba tướng đường đường lên bờ đi thẳng vào đền. Quân sĩ đứng chầu hai bên thành hai hàng. Nhân dân đều trông thấy cả. Ông Thường bèn truyền lệnh quân sĩ cùng nhân dân mổ trâu bò, làm rượu ngon, cỗ sòng để dâng lễ mừng Thủy quan.

Lúc ấy ông Lý Thường Kiệt thưa rằng:

–          Nay nhà nước có giặc Tống sang lấn, gây sự binh đao. Tôi vâng mệnh nước nhà đem quân đi dẹp Tống. Hôm nay may gặp thấy được dung nhan ba vị Thủy quan. Xin thần ra sức giúp cho vận nước nhà, âm phù tôi cất quân đánh giặc được thành công, là trông ơn đức ba vị đó.

Ông Lý Kiệt nói xong, vị chính quan không nói gì. Vị hữu quan không nói gì. Chỉ có vị tả quan đọc bài thơ rằng:

Nam thiên dĩ định đế Nam quân
Đại đức giai do đức nhật tân
Thất quận sơn hà đô nhất thống
Tống binh bất miễn tán như vân.

Dịch là:

Trời Nam đã định vua nước Nam
Đức lớn đều do đức mới thêm
Non sông bảy quận cùng thống nhất
Tan sạch như mây ắt Tống quân.

Đọc xong hò reo ba tiếng, xuống thuyền theo dòng nước biến đi. Đến sáng ngày làm lễ tạ. Đến ngày 13 ông Lý Thường Kiệt lại làm lễ mật đảo, tiến quân thẳng về đến sông Như Nguyệt, đón đánh quân Tống. Ngày hôm đó lại gặp đại binh của quân nhà Tống đang theo dòng sông Nguyệt thủy bộ cùng tiến. Ông Lý Thường Kiệt đánh lớn cùng tướng Tống là Quách Quỳ tại cửa sông Như Nguyệt. Bỗng thấy một trận gió cuốn, trời đất tối tăm, dưới sông sóng rợn muôn trùng. Hơn nghìn con rắn nổi chật sông. Thuyền chiến của thủy đạo quân Tống lật đắm hết cả. Quân Tống khiếp sợ, chạy tan tác, chém hơn ngàn người. Quân nhà Tống đều nhảy xuống đầy sông, nước không chảy được.

Ông Thường Kiệt dẹp yên giặc rồi, ngày khải hoàn trở về làm biểu tâu vua. Vua thấy có nhiều linh ứng bèn phong thêm là Thượng đẳng Phúc thần. Xuân thu hai kỳ sai quan đến tế, cho dân làm nơi phụng thờ. Vua Lý Nhân Tôn phong thêm mỹ tự là:

–          Phong Đệ Nhất Long Vương Uyên tĩnh Quảng thánh Bác trạch Đại vương.

–          Phong Đệ Nhị Long Vương Dực vận Linh ứng Phổ đức Đại vương.

–          Phong Đệ Tam Long vương Hải lâm sơn Tế thế Đại vương.

Lại nói, đến thời nhà Trần vua Nghệ Tông ở ngôi, có kẻ gian thần là người Dương Nhật Lễ làm loạn cướp ngôi vua. Ông Cung Định Vương (húy là Ngung) tránh nạn chạy lên phủ Đà Giang. Tháng Chạp mùa đông vua cùng bà hoàng hậu và bà công chúa thứ hai là Phương Dung, mới mười 18 tuổi, nhan sắc dịu dàng tựa người khách cung trăng, hình dung nghiêm cẩn giống người vườn Lãng Uyển, không phải người thường chốn trần gian. Khoảng ấy vua cùng hoàng hậu và công chúa ngự xe dạo xem phong cảnh, nhân dân, ngắm địa thế non sông. Một hôm vua đi đến xã Đào Xá, nhân dân lập hành cung ở đó. Vua dừng xe ngự chơi ở đất đấy (hành cung chính ở đất phía Nam của trang). Ngày ấy (ngày 15 tháng Chạp) nhân dân làm lễ bái mừng. Vua thấy nhân dân thuần hậu, non nước phong cảnh hữu tình, ngày ngày nhà chơi nơi đồng ruộng, vui với phong cảnh. Vua ngự chơi ở đất đấy (tức trang phía Nam của xã Đào Xá) năm, sáu tháng. Đến mùa xuân ngày mồng ba tháng Giêng, dân địa phương có lệ làm lễ sinh thời Tam Công, mở hội làm vui, đánh cờ múa hát. Nhân dân đón vua Nghệ Tôn (tức là Cung Định Vương) cùng hoàng hậu và công chúa ngự xe vào đền xem ca hát.

Lúc ấy khi vua đang ngồi xem. Trời sắp tối, chợt thấy gió mưa kéo đến, trên mặt nước trước đền mây nổi năm sắc. Trong đầm sóng vỗ, giao long, cá giải, rắn hoa đến chầu cả trước nơi đền. Đương lúc vua xem hội, công chúa chầu bên cạnh. Bỗng thấy một gói khăn hồng tự trên không rơi vào trong lòng công chúa. Công chúa hoảng sợ, cầm khăn mở xem, thấy trong khăn có trăm miếng trầu cau vàng và một bức thư. Công chúa sợ hãi, tâu với vua. Vua sai thị thần mở thư ra xem. Trong thư rằng:

Long hầu Thuỷ quốc ký nhất thư vân.
Thục nữ tuy Dương đình vương nữ,
Quân tử giai Thuỷ quốc nam quân,
Nhất tâm thúc ước. Lưỡng quốc tương thân,
Hảo thuật dĩ xứng. Nguyện kết hôn nhân.

Dịch là:

Long hầu Thủy quốc gửi bức thư đây
Thục nữ tuy con gái vua Dương đình,
Quân tử cũng là con trai vua Thủy quốc.
Một lòng kết ước, hai nước cùng thân.
Tốt đôi đã xứng, xin kết hôn nhân.

Vua thấy thị thần đọc xong, cười mà bảo rằng:

–          Ta có ngọc Lam Điền, kén rể tài lương. Nay Thủy đế yêu thương, ta bằng lòng gả. Nhưng tuy Dương đình, Thủy quốc phong thủy không cùng, song lễ nghi cùng giống. Nay chỉ thấy trầu cau, thư đến, lại chưa biết mặt rể hiền. Ta mong được một lần gặp mặt.

Vua nói xong, chợt thấy đám mây trắng ở giữa đầm sâu nổi lên mặt nước, thẳng đến trước mặt vua. Âm u mù mịt một phút rồi tan. Bèn thấy một người con gái tuổi ngoài hai mươi, áo vóc khăn hồng rất là đẹp đẽ, đứng trước sân bên phải. Gái trinh trẻ tuổi hơn mười người, bưng một con trâu bạc ở trước. Bên trái có một tướng con trai, mũ rồng áo giáp rực rỡ, đứng sau hơn mười người trai gái, bưng một trâu vàng đến đặt đôi bên trước sân. Hai người tâu rằng:

–          Một gọi là là Sùng Chu tì tướng. Một gọi là Quế Hoa vu nữ. Nay vâng mệnh Tả Long quan Thủy quốc khiến chúng tôi hiến lễ hai con trâu để cầu hôn con gái vua.

Hai người dập đầu làm lễ trước vua, rồi biến đi. Vua thấy hai con trâu vàng, bạc để trước nơi vua ngự. Lòng vua nghĩ thầm rằng:

–       Duyên trời đã thế. Dương gian Thủy quốc khác gì. Cháu chúa con vua cũng xứng đáng. Là thiên tử không lẽ nói đùa mà không nhận sính lễ. Vua sai các đình thần làm lễ cầu đảo, ngầm chúc rằng:

–       Xin âm phù cho vận nước lại được thanh bình. Gian thần Nhật Lễ cướp ngôi. Vua phải lánh nạn. Nay muốn đem quân về phục quốc, đón vua về kinh đô, dẹp gian thần Nhật Lễ. Xin âm phù cho ngôi vua được vạn toàn. Đến khi giành lại ngôi vua ắt có gia phong, thưởng hậu và gả con gái cho.

Khấn xong vua bèn trở xe về cung (tức Đáo Xá Nam cung). Chợt thấy có sứ của ông Cung Tuyên Vương (tức em vua Nghệ Tông) cùng công chúa Thiên Ninh lại báo tin, xin rước vua về kinh để trừ Nhật Lễ, không nên bỏ nước cho người. Vua bèn xuống thuyền rồng cùng quân sĩ trở về. Vua đến bến sông, chợt thấy dưới nước có tiếng đọc trong trẻo rằng:

Người sang Dương đình
Người xuống dưới nước.
Đấy sang đây quý
Ta rước nhau đi.
Thiên binh Thủy quốc
Nghênh đế hồi quy.
Nhật Lễ tự tán
Đế vị thùy y.

Đọc xong thấy công chúa Phương Dung tự nhiên ngả mình xuống nước mà chìm đi. Bỗng nhiên mưa gió như bay. Thuyền đi vùn vụt. Lòng vua nghĩ thầm, việc đã định trước, không thay đổi được, đành yên lòng vậy.

Vua còn về Ái Châu (tức Thanh Hóa). Công chúa độ bảy tám tháng mà chưa trở về thành. Một hôm vua nằm ngủ bỗng thấy một người tướng mạo đường đường, cưỡi con ngựa trắng, đằng sau là công chúa Phương Dung đi kiệu phượng. Hai bên hầu hạ khoảng hơn nghìn quan lân, cá binh, thẳng đến trước vua, xuống ngựa khấu đầu làm lễ. Vua thấy Công chúa, hỏi rằng:

–       Người ấy là rể hiền ta chăng?

Bà thưa:

–          Vốn là Tả quan Thủy quốc, kết với con gái làm con rể vua. Nay xin vua quay về với việc nước, để chúng con âm phù giúp nước. Xin vua chớ vì lo lắng trong lòng mà bỏ cơ nghiệp to lớn của nước nhà.

Nói chưa xong, vua bèn tỉnh dậy mới biết là mộng, nghĩ thầm rằng là Thủy quan báo đến lúc trở về nước để âm phù giúp, không gặp hoạn nạn gì. Lúc ấy (tức ngày 12 tháng 11) vua bèn đem quân sĩ trở về kinh thành. Quần thần phù giá đón vua. Nhật Lễ nghe tin vua về, tự nhiên lòng hoảng sợ, rời bỏ ngai vị ra hàng chịu tội. Vua bèn phế giết Nhật Lễ, rồi lên ngôi Hoàng đế, cải hiệu đại xá, xưng làm Nghĩa Hoàng Thuần Hiếu Hoàng đế. Quần thần mở tiệc yến lớn. Từ ấy, vua tôi hợp đức, thiên hạ thái bình. Phong thêm mĩ tự cho bách thần.

Khi ấy (ngày 10 tháng 12) vua khiến sứ thần ban sắc chỉ về đền xã Đào Xá, lại truyền Nam trang là nơi vua từng ngự lập đền thờ bà vương nữ. Bèn gia phong là Phương Dung Vương nữ Công chúa. Đào Xá phụng thờ (tức là đền ngoại thôn bây giờ). Phong:

–          Đệ Nhị Long Vương Phụ mã Dực vận Phu quốc Hiển linh Đô thống Phổ đức Hoành vĩ Đại vương.

–          Đệ Nhất Long Vương Uyên tĩnh Quảng thánh Vệ hiển Uy linh Bác trạch Uyên trừng Bác đạt Đại vương.

–          Đệ Tam Long Vương Hải lâm sơn Tế thế Dụ trạch Đàm ân Đôn mẫn Linh uyên Đại vương.

Chính đền ở Đào Xá phụng thờ. Xã Đào Xá là nơi sở tại, xuân thu nhị kỳ ban thêm việc quốc tế. Còn như Thọ Xuyên, Ngọc Tháp đều có đền chính sở tại, còn di tích để bộ sau, cùng với hành cung hai bờ sông phụng thờ. Còn có sự tích riêng. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý nhiều khi linh ứng, hộ quốc cứu dân cho nên các đời đế vương truy phong Thượng đẳng Phúc thần, nghìn năm hương hỏa, hưởng phúc lâu dài, mãi cùng đất nước. Tốt thay, thịnh thay.

Còn như sinh hóa, hiển ứng cùng các ngày lệ, chữ húy, sắc mặc, vâng kê ở sau:

–          Ngày sinh thần ngày mồng 3 tháng Giêng. Lễ chính 5 mâm cỗ chay, bánh lênh lang, bỏng, chín cây hoa bông, một đôi trâu vàng, bạc làm bằng xôi, ngoài bọc giấy vàng, giấy bạc. Từ mồng 1 đến mùng 3 tuyển bà đồng, xin âm dương bên chỗ bà Quế Hoa ứng nhập, được thì dân cử người đến mời vào đền chầu múa bông, cùng hiến lễ xuân ngưu. Trứng 3 quả dùng sống đựng trong mâm rồng. Có nước 3 cỗ sòng. 2 bình rượu ngọt, 2 cần sậy. Mổ trâu, ca hát, đánh cờ các thứ.

–          Ngày 27, 28, 29 tháng Giêng là ngày khánh hạ đức Thánh phụ, Thánh mẫu và Tam vị Đại vương. Chính lệ lễ nghi cá chép con kho chín bày toàn thân, bày làm 3 cỗ, tiến thượng ban, trâu bàn 3 cỗ, bánh lênh lang 3 mâm. Cỗ sòng rượu ngọt, cần trúc. Trứng 3 quả dùng sống để trong mâm rồng tích thủy. Ca múa các thứ.

–          Tháng Bảy từ ngày mùng 10 đến ngày 15 là lệ hiển thần phù giúp vua nhà Lý đánh giặc Tống. Lễ vật như 28 tháng Giêng, duy không có cá chép, lại có bơi chải mở hội trong ba ngày. Xin âm dương được mới thôi.

–          Ngày 10 tháng 2 là chính lệ lập đền thờ thần hiệu bà Quế Hoa. Ba mâm cỗ chay, xôi rượu thịt lợn. Ca hát một đêm.

–          Ngày trùng ngũ mùng 5 tháng 5 là lệ Khánh hạ. Năm mâm cỗ chay. Thịt lợn, rượu, ca hát một đêm.

–          Ngày trùng cửu mùng 9 tháng 9 là ngày lệ Khánh hạ. Ba mâm cỗ chay, thịt trâu, thịt lợn, rượu, trứng gà. Ca hát một đêm.

–          Ngày 10 tháng 12 là lệ mừng vua nhà Trần phong sắc. Năm mâm cỗ chay, thịt gà, thịt lợn, xôi, rượu. Ca hát một đêm.

–          Ngày 15 tháng 12 là lệ đức Thánh mẫu hóa. Năm mâm cỗ chay, thịt lợn, rượu các thứ.

–          Ngày 12 tháng 3 là lệ mừng vua nhà Lý phong sắc và ngày đức Thánh phụ hóa. Cỗ chay, thịt lợn, rượu các thứ.

Chữ húy nhất thiết cấm là 10 chữ Hải, Vân, Hoa, Phương, Dung, Đạt, Mãn, Linh, Uyên, Quế. Sắc phục màu đen và tím nhất định cấm. 

Vào tháng Giêng từ ngày mùng 1 đến mùng 3 chọn bà đồng đến chầu múa, hoa bông, lại chọn những người con trai trong làng mà có còn đầy đủ cha mẹ cùng với bà đồng dâng hiến cỗ trâu vàng, trâu bạc cùng thịt lợn và mâm trứng. Các bánh mâm chay cùng với bánh lênh lang trong các tiết đều đặt ở trên ban trên của nơi chính sở, cùng với hai bên là ba mâm cỗ sòng. Cỗ trâu, thịt lợn, rượu ngọt, rượu cần đặt ở ban dưới hai bên khi làm lễ.

Ngày lệ mùng 10 tháng Bảy bơi thuyền đến ngày 15 thì dừng. Trong lễ tế này không có trâu vàng, trâu bạc cùng hoa bông. Chỉ có cỗ sòng, rượu ngọt, rượu cần, trứng gà như lễ vật trước. Lại có một lễ cơm gà đặt ở ngoài nơi thuyền rồng, cầu đảo Tam vị Đại vương cùng với ông Sùng Thống quản Thủy quân Thị vệ Đốc trấn Long quan Đại tướng quân. Trong lễ này dùng xôi gà cùng với ba đấu gạo sống đặt trên ban bảo hộ, khấn được âm dương thì hạ thuyền xuống để bơi.

Vào ngày lệ mùng 1 tháng Giêng cùng với lệ tháng Bảy trước đó phải dọn dẹp đường thủy từ Thượng Hạ Nông về cho đến đền làm lễ đón thánh vị tắm rửa ở gò đất giữa đầm lớn.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ 2 (1573) ngày 17 tháng 6, thần, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng chép.

Vâng sao bản chính bởi lý trưởng Hà Văn Thành.

Ngọc phả ba vị triều Hùng Duệ Vương là Chử Công Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa và Tây Cung Tiên nữ

Thần tích làng Đông Tảo Đông, tổng Yên Vĩnh, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên  theo bản khai 1938 số TTTS 12104

Chữ húy nhất thiết cấm là bảy chữ: Toại, Vân, Đồng, Tử, Tiên, Dung, Tây.

Ngọc phả ba vị triều Hùng Duệ Vương là Chử Công Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa và Tây Cung Tiên nữ.

Chi Khảm, bộ thứ hai Thượng đẳng

Xưa đất Việt ta dựng cơ đồ phương Nam phân chia theo sao Ngưu, sao Đẩu. Từ triều Hùng Kinh Dương Vương vâng mệnh vua cha phân phong là tông phái đế vương đất Việt ta. Đất tốt châu Hoan kiến lập kinh đô. Hình mạnh Nghĩa Lĩnh xây sửa miếu đền. Cha truyền con nối hơn hai ngàn năm, đều xưng tôn hiệu là Hùng Vương.

Lại nói, thời họ Hùng truyền 18 đời đến khi Duệ Vương ở ngôi, đóng đô tại Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên là Văn Lang, kinh đô tên là thành Phong Châu. Vương là người có tài cao chí lớn, tư chất thánh triết, kế thừa cơ đồ thịnh vượng của tổ tông 17 đời gây dựng, trong sửa văn đức, ngoài giữ biên phương, cố sức để hưng bình mà yên Trung Quốc. Khi ấy Vương có một Hoàng hậu. Hoàng hậu Dương Thị Diễm người Đức Quang ở châu Hoan. Có 6 quý phi, một trăm cung tần. Sinh hạ được 20 nam hoàng tử, 4 nữ công chúa. Nhưng mệnh trời thương thay, đều đem thân chốn Bồng Lãng, một ngày mà thành người thiên cổ. Hoàng hậu buồn rầu không thôi, ngày ngày rơi nước mắt lẫn máu. Nên khi ấy bèn cùng vài chục người thị nữ loan giá đi chu du giải buồn. Một hôm nghe nói ở huyện Tam Dương phủ Tam Đới có núi Tam Đảo thờ phụng đền Trụ Quốc Mẫu, rất là linh ứng, cầu gì tất được như ý nguyện mong muốn. Hoàng hậu bèn thân cùng các thị nữ đến hành hương cầu đảo. Tối đó Hoàng hậu nằm mơ thấy có một bà lão ôm một đứa trẻ tiên đem cho. Hoàng hậu trong mộng giơ tay nhận lấy, bỗng nhiên tỉnh lại. Sáng ngày ra làm lễ bái tạ rồi trở về. Từ đó cảm động mà có mang thai, đến kỳ sinh được một người con gái (ngày mùng 4 tháng giêng), mặt phấn má đào, sắc rạng mặt hồ, nhan sắc đầy đặn, hình dáng yểu điệu. Vương mở tiệc mừng lớn, nhân đó đặt tên là Tiên Dung, phong hiệu là Công chúa. Đến khi được 18 tuổi Công chúa không muốn lấy chồng, chỉ thích đi du chơi. Vương yêu mến nên không cấm. Cứ mỗi năm vào quãng tháng ba, tháng tư lại trang trí một chiếc thuyền mà đi chơi chốn sông biển. Một hôm thuyền đi đến bến Chử gia ở địa phận xã Đa Hòa.

Trước đó ở xã Đa Hòa có một gia đình họ Chử, tên là Toại Vân. Vợ chồng tích đức làm việc nhân, ba sinh hương lửa, một gối thật là phong lưu, đầy đủ sao. Một hôm bà mẹ nằm mơ thấy có một ông lão đầu bạc ban cho một đứa trẻ. Từ đó mà cảm động có mang. Mùa thu ngày 20 tháng 8 sinh hạ một người con trai, nhân đó đặt tên là Đồng Tử. Đồng Tử vốn tư chất thông minh, bản tính hiếu thành. Năm 13 tuổi bà mẹ bất hạnh mà bị bệnh qua đời. Nhà cửa lại gặp lửa cháy, tài vật đều mất hết, chỉ còn mỗi một chiếc khố vải. Cha con ra vào cùng mặc chiếc khố đó. Đến khi người cha lâm bệnh sắp mất, mới dặn lại Đồng Tử rằng:

  • Con người ta ở đời bần cùng hay phú quý đều không ngoài ý trời. Nhà ta trước giàu sau nghèo đều do trời vậy, không thể nài kéo. Cha nay bị bệnh, số khó tránh khỏi. Nếu vạn nhất như thế nào, hình hài của cha đã có nắm đất che không lộ ra, nên hãy để thân trần mà chôn, giữ lại mảnh khố cho con làm cách che thân.

Dặn xong thờ dải một tiếng rồi mất. Đồng Tử khóc lóc động trời, nhưng tình thế không thay đổi được, đành ôm thi hài mà khóc rằng:

  • Cha ơi! Cha ơi! Sinh con khó nhọc. Nay nhà nghèo thân hèn, không có gì để báo đáp. Con nay còn ở trên đời nếu lòng trời không phụ, tất sau sẽ có nhiều quần áo.  Cha lúc sống đã là người không có tấm áo quần, nay mất đi há lại thành quỷ lõa thể hay sao?

Bèn đem chiếc khố liệm cho cha mà đem chôn ở bãi đất nhạn bay phía Bắc. Từ đó không có quần áo che thân, thật là rất đói rét, bèn ngâm mình trong nước sông, thấy thuyền buôn đi qua thì đứng lên xin ăn. Lại thả cần câu để làm kế sinh nhai.

Hôm đó thuyền của Tiên Dung đi tới. Đồng Tử nghe tiếng chiêng chống, lại thấy giáo mác cờ xí rợp trời. Đồng Tử sợ hãi chạy lên trên bãi, tìm nơi ẩn náu. Ở tại xã Mạn Trù có một chỗ cao có 5-7 khóm lau sậy, bèn nấp vào trong đám lau sậy, lấy tay đào cát thành hố, nằm nấp vào đó, lấy cát phủ lên trên để che thân đi.

Phút chốc thuyền của Tiên Dung tiến đến bãi cát đầu thôn của xã Mạn Trù. Tháng tư trời nắng nóng. Tiên Dung cùng vài người thị nữ đi lên bãi Màn Trù, thấy có một nơi cao ráo, bèn lệnh cho thị nữ quây màn lại để tắm rửa. Nước tắm chảy xuống làm trôi cát. Đồng Tử hiện ra. Tiên Dung kinh hãi, lặng im hồi lâu. Đồng Tử cũng rất sợ, ý muốn tìm cách chạy thoát. Tiên Dung thấy Đồng Tử muốn chạy thoát bèn nắm lấy tay mà nói rằng:

  • Ta vốn không muốn lấy chồng. Nay lại gặp gỡ ở đây, cả hai đều ở trần, tất là trời đã sai khiến vậy. Khanh hãy mau cùng tắm rửa với ta.

Tiên Dung sai ban cho quần áo, dắt tay xuống thuyền, mở tiệc mừng lớn. Đồng Tử kể lại rõ sự việc chôn mình trên bãi cát. Tiên Dung than thở rồi kết làm vợ chồng.

Vua cha Duệ Vương nghe tin, than rằng:

  • Con gái Tiên Dung của ta mà muốn lấy rể Đông sàng thì trong ngoài triều trăm quan đông đúc, sao không kết làm rể Đông sàng, mà lại nửa đường tự theo kẻ bần cùng ăn xin, sao như chuyện nghe tiếng đức mà thăng cho Thuấn được? Lòng ta thật hổ thẹn.

Bèn không cho phép về cung. Tiên Dung cũng sợ không dám trở về, mới cùng với Đồng Tử quây màn mà ở bãi Mạn Trù. Từ đó mà có tên gọi là Màn Chầu. Được vài tháng lại dựng nhà ở xứ Quỳnh Viên, châu Hoan. Sau đó Đồng Từ từ biệt Tiên Dung đi chu du bốn biển. Trên đường gặp một ông lão tóc trắng, tuổi khoảng 8-9 mươi, đầu đội nón tròn, tay cầm gậy trúc, vừa đi vừa hát rằng:

Sơn chi cao hề! Thuỷ chi thâm

Trần trung thiển hữu thức kỳ âm

Thức kỳ âm hề, kết giai âm

Ký kết âm hề, tuy vạn lý diệc tầm.

Ký kết đắc nhi dữ chi du hề

Nguyện đối dữ sơn cao, thuỷ chi thâm.

Dịch là:

Núi cao chừ, nước sâu thăm thẳm

Cõi trần mấy ai hiểu âm này

Hiểu âm này chừ kết giai âm

Đã kết âm chừ dẫu vạn dặm cũng tìm

Đã kết được rồi thì cùng du chơi

Xin sánh cùng với núi cao nước sâu.

Đồng Tử nghe hát biết là tiên nhân đắc đạo, bèn đến chắp tay nói:

  • Vẻ tiên thân tục, may mắn được thấy. Nghìn năm hiếm có sự gặp gỡ này. Xin chớ cho là đường đột.

Ông lão đầu bạc cười mà nói rằng:

  • Ta vốn là tiên nhân trên trời. Nhà ngươi cũng không phải khách trần tục. Nay đã gặp gỡ là thầy trò có duyên. Hơn nữa người tục mà thành tiên đã là điều lạ. Huống chi không phải người tục mà thành tiên thì có khó gì. Nhà người có muốn theo học ta chăng?

Đồng Tử cảm tạ nói:

  • Tiên ông đã mở lòng như vậy, đệ tử rất vui mừng, sai lại không theo.

Tiên ông bèn dẫn Đồng Tử ra ngoài hải đảo, đem hết phép thuật thần tiên, phi thăng, biến hóa truyền thụ cho Đồng Tử. Đồng Tử nhất nhất đều hiểu thấu. Đến lúc giã từ trở về Tiên ông lại trao cho nón vẽ và gậy trúc cùng với một đạo thần chú, dặn rằng:

  • Một đầu gậy có thể cứu người, đầu dưới gậy có thể trừ kẻ ác. Sau này khi về dựng gậy trên mặt đất, lấy nón phủ lên trên, tự nhiên sẽ thành lâu đài, trăm thứ. Người chết có thể sống lại, người bệnh có thể khỏi, đều ở tại trong thần chú của cây gậy trúc này. Chớ có xem thường.

Đồng Tử lại bái tạ mà nhận lấy, chia tay quay về với Tiên Dung. Thế là đã được 3 năm. Đồng Tử mới đem phép thuật thần tiên truyền thụ lại cho Tiên Dung. Từ đó vợ chồng cùng thành tiên. Một hôm vợ chồng lại trở về huyện Đông An, đi chơi ở đất hai xã Đa Hòa, Mạn Trù.

Lại nói, trong trang xã Đông Miên, huyện Đông An có một người con gái gia đình nông dân. Bà mẹ từng nằm mơ thấy có một con chim xanh từ phương Tây bay đến, bay vào trong trướng, biến hóa thành một người con gái. Kế đó lại thấy một vị nữ nhân nói rằng:

  • Ta vốn là Tây Cung Vương Mẫu ở trên trời. Người con gái này là con gái của ta, nay đem đến gửi cho nhà ngươi ở tại trần gian trong 3 kỷ.

Thế là bà mang thai mà sinh là nương (ngày mùng 10 tháng 2). Nương  tính thích thanh tịnh, ăn chay và các đồ hương hoa. Năm 36 tuổi không có bệnh gì mà mất. Thế nhưng có lúc lại hiện về thăm nhà cửa ruộng vườn, có lúc du chơi trên cầu, đường cái. Có người gặp muốn hỏi thì bỗng nhiên biến mất. Mọi người đều lấy làm kinh lạ, cho rằng nương đã đắc đạo thành tiên.

Khi ấy Đồng Tử và Tiên Dung đi đến địa giới hai xã Ông Đình và Yên Vĩ, thấy nương đang du chơi nơi kính cổ. Tiên Dung thấy nương có dung nhan chim sa cá lặn, có tướng mạo hoa nhường nguyệt thẹn, bèn chỉ cho Đồng Tử nói:

  • Lang quân có muốn lấy cô nương này làm thứ thất không?

Đồng Tử mỉm cười. Tiên Dung biết được ý đó bèn tiến đến Tây Nương cười mà nói rằng:

  • Nàng là Tiên hay là người trần? Là phong nữ hay hoa kiều? Lang quân của ta thiên tư cao xa, tài mức thông minh. Nàng làm thiếp cho người đó chẳng phải tốt sao? Ta tuy là con gái vua nhưng không có lòng đố kỵ và kiêu căng. Nàng và ta làm chị em chẳng phải vui sao?

Tiên Dung dứt lời, Tây Nương đáp rằng:

  • Ta chẳng qua nương ẩn trong hình hài này mà thôi. Ta là tiên nữ Tây Cung, còn vợ chồng nàng cũng đã học thành tiên thuật vậy. Nay không hẹn mà gặp, là do trời hay do người đây?

Tiên Dung nói:

  • Mưu sự bởi người, thành sự do trời. Nay trong việc này là do người vậy.

Thế rồi cả hai cùng cười lớn, dắt tay nhau đi đến chỗ Chử Công ngồi, làm lễ kết thành vợ chồng. Đương lúc đó thấy trong ấp Ông Đình đem ra 6 thi thể người chết mang đi chôn. Chử Công bèn nói với Tiên Dung và Tây Nương rằng:

  • Ta có phép tiên có thể cải tử hoàn sinh. Nay thấy có người chết, ta muốn cứu. Các nàng có thuận theo không?

Tiên Dung cùng Tây Nương nói:

  • Cứu người là việc phúc lớn, sao lại không theo.

Dứt lời ba người cùng đến vào Ông Đình, quả nhiên cứu được 5-6 tử thi. Từ đó tiếng tăm khắp xa gần trong huyện Đông An đều truyền tới. Khi ấy xã Mạn Trù gặp bất hạnh, thiên tai hoành hành, bệnh dịch phát tác. Người bệnh trong làng bị 20-30 người. Người chết 5-6 người. Người chết không có người chôn. Người bệnh không có người nuôi. Bèn tìm Chử Đồng Tử cùng với Tiên Dung và Tây Nương ba người mời về trong làng. Đồng Tử nói một cách nặng nhọc rằng:

  • Xã Mạn Trù là nơi ta và Tiên Dung gặp nhau. Ta mải đi chơi thăm thú mà không để ý, khiến cho người dân mắc bệnh và mất như vậy thật là lỗi của ta vậy.

Bèn cùng với Tiên Dùng và Tây Nương đến xã Mạn Trù, theo phép mà tiên ông đã truyền thụ để cứu xã Mạn Trù, người chết được sống lại, người bệnh khỏi bệnh. Thế là nhân dân, nam nữ, già trẻ xã Mạn Trù ai nấy đều vui mừng, nhảy nhót, làm lễ xin được làm thần tử, xin được lập sinh từ để ngày sau lo hương khói. Đồng Tử bèn dựng gậy ở đất Mạn Trù, lấy nón đội lên trên, miệng ngâm thần chú. Tự nhiên biến thành một tòa nhà to lớn, lưu ở xã Mạn Trù để làm nơi ngày sau hưởng thần.

Việc xong, ba người lại đi. Phàm là trong huyện Đông An nơi nào ba người đến đều dựng gậy ở đất đó, lấy nón đội lên trên, tự nhiên trở thành lâu đài, thành thị, tài vật, hàng hóa. Từ đó gọi tên là bãi Tự Nhiên. Trong triều quan quân vui mừng mà đi đến tụ họp quá nửa.

Vua cha Duệ Vương nghi ngờ là làm phản, bèn lệnh dẫn quân đến đánh. Khi đó trời đã tối, quan quân do đó đóng ở bên bờ trái. Đồng Tử cùng với Tiên Dung than rằng:

  • Đạo làm con sao dám chống lại mệnh của cha.

Đến nửa đêm bỗng mưa to gió lớn đập lên nơi đất ở đó. Lâu đài, của cải cùng với Đồng Tử, Tiên Dung, Tây Nương đều cùng một lúc bay lên trời (ngày 11 tháng 11). Trời sáng, quan quân trở về thuật lại sự việc, tâu lên Duệ Vương. Vương mới biết họ đã đắc đạo thành tiên, bèn xa giá đến xem nơi đất đó, thấy bùn đất ngàn dặm, nhân đó gọi là đầm Nhất Dạ.

Đương khi đó thấy một người con gái cưỡi hạc trắng từ phương Tây đến, đứng ở trong đầm, tự xưng là Tây Cung Tiên nữ, vâng mệnh của Đồng Tử, Tiên Dung đến tạ quân vương. “Chúng thần xin nhận tội không trọn đạo làm con, xin vua cha thứ tội.” Tạ xong lại theo trong đầm mà bay lên không mà đi.

Vương cảm việc đó, bèn sắc phong là Nội Trạch Tiên Cung Tiên nữ, cho được cùng thờ hưởng với Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa. Lập đền thờ chính ở xã Đa Hòa. Ban chiếu truyền trong huyện Đông An, nơi nào ngày trước ba vị có lập cung đền và có đi qua trú ngụ, thì đến đền chính Đa Hòa nghênh đón thần hiệu về phụng thờ.

Khi ấy nhân dân xã Mạn Trù cũng đến Đa Hòa làm lễ nghênh thần hiệu của ba vị về miếu trước đây Chử Công đã dựng để phụng thờ. Từ đó hễ trong dân có việc cầu xin đều linh ứng. Nên nhân dân đều nghiêm túc phụng thờ thêm, bốn mùa tám tiết hương hoa đúng như nghi thức.

Phong Chử công Đồng Tử Chí thánh Linh thông Thượng đẳng thần.

Phong Tiên Dung Công chủ Thiên tiên Uyển diễm Thượng đẳng thần.

Phong Nội Trạch Tây Cung Tiên nữ Huyền diệu Thượng đẳng thần.

Lại nói, trải đến thời Tiền Lý Nam Đế cùng chống cự với các tướng Lương là Bá Tiên, Dương Sàn. Nam Đế không may nửa đường mà mất, trao lại quyền cho đại tướng Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục bèn dẫn quân trở về đầm Nhất Dạ cố thủ. Một hôm trai giới lập đàn cầu đảo trời đất bách thần. Trong một lúc thấy có một người nam cưỡi rồng

từ trên trời hạ xuống, tháo móng rồng trao cho, để chế ra đâu mâu, đặt trên nỏ, hướng vào đâu nơi đó khắc yên. Quang Phục bái nhận, lại hỏi tính danh. Người nam đó cười rằng:

  • Chử Đồng Tử chính thị là ta.

Rồi lại cưỡi rồng bay lên không mà đi. Quang Phục bèn sai chế tạo nỏ thần móng rồng, một trận đánh mà bại được giặc. Bèn lên ngôi tự lập làm Triệu Việt Vương. Mới truy tôn Chử Công là Hoàng đế. Tiên Dung Tây Nương là Tả Hữu Hoàng hậu. Lại cho phép dân các xã thờ ba vị đều tu sửa miếu điện mà phụng thờ. Xuân thu sai quan đến tế lễ. Từ đó trải Đinh, Lê, Trần, Lý cùng với hoàng gia ta khai sáng cơ đồ, thường có giúp nước cứu dân, cầu mưa tránh lũ đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự, để bốn mùa hương lửa, vạn đời là lệ thường. Tốt đẹp thay!

Vâng khai sinh hóa các lễ cùng với các chữ nhất thiết cấm là năm chữ Đồng, Tử, Tiên, Dung, Tây. Y phục hai màu vàng, tím cấm dùng khi làm lễ.

Ngày sinh thần của Chử Công là ngày 12 tháng 8, làm lễ trên hoa quả, dưới lễ tam sinh, ca hát 10 ngày.

Ngày sinh thần của Tiên Dung là mùng 4 tháng Giêng, lễ như tháng 8, ca hát 1 ngày.

Ngày sinh thần Tây Nương là mùng 10 tháng 2, lễ hát y như tháng Giêng.

Ngày hóa thần ba vị cùng ngày là 11 tháng 11, lễ dùng cỗ chay.

Năm Hồng Phúc thứ nhất, giữa xuân ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các điện Đại học sĩ, thần Nguyễn Bính vâng soạn.

Đình làng Đông Tảo Đông

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nhuế Đông, xã Lang Tài, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương
Chi Khảm, bộ Thượng đẳng
Chính bản bộ Lễ quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ mở vận ứng đồ hơn hai ngàn năm Hùng Vương dựng nước núi xanh vạn dặm lập nền đô thành cung điện, nước biếc một dòng mở đạo đế thánh vua sáng, mà cứu vật giúp người, cai quản 15 bộ, gọi là tổ ban đầu của Bách Việt vậy. Về sau họ Hùng có trăm thần sông núi thường hay xuất hiện, biến hóa thần kỳ, âm phù giúp nước giúp dân. Có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hoả ức niên phương.

Dịch nghĩa:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn năm đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.

Lại nói, cơ đồ họ Hùng tương truyền được 18 đời đến khi mạt tạo, ý trời muốn dứt, trải qua các triều đại Tây Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần mở mang cơ đồ, giữ quốc thống bền lâu vậy.
Xưa ở đất Việt có Trưng nữ vương. Vương họ Trưng tên Trắc, người huyện Mê Linh, Phong Châu, là con gái của Lạc tướng, lấy chồng là Thi Sách. Khi ấy có giặc Hán Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương, không người cứu giúp. Khi đó người cháu gái Hùng Vương tên là Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, là thánh thần trên đời, nổi oai hùng cất quân đến đánh. Đang khi ấy không có bậc nam nhi nào có đủ tài thao lược. Vương vì trả thù cho chồng mà cùng với em gái khởi binh. Nữ tướng dẫn quân, thần linh phát động. Thế rồi Trưng nữ bèn cầu đảo Tản Viên Sơn Thánh, lại lập đàn cầu đảo bách thần ở cửa sông Hát Môn (nay thuộc xứ Sơn Tây). Bèn chúc rằng:

  • Trời sinh con người là tông chủ của vạn vật trong đất trời, sinh linh có dòng dõi, cỏ cây có tương quan. Trải các đời đế vương trước đây là những bậc thiên tử thánh minh, triều đình có đạo yêu dân vì nước. Đức hóa chuyên năng. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có kẻ tộc ngoài là tên Tô Định, như loài dê chó quấy phá, lộng hành điên cuồng, bạo ngược nhân dân. Trời đất thần người đều căm phẫn. Thiếp hiềm chỉ là cháu của Hùng Vương trước đây, là một nữ nhân, nghĩ đến sinh linh, hoàng thiên rơi lệ. Ngày hôm nay đau lòng thương cảm mà trượng nghĩa trừ tàn bạo. Xin trăm vị chư tôn hội đàn chứng giám, giúp thêm sức cho Trưng nữ thiếp dẫn quân dẹp giặc, giữ nước cứu dân. Để thiếp khôi phục được cơ nghiệp trước đây của tổ tông, để các sinh linh được hưởng miếng cơm manh áo, đưa sinh linh khỏi chốn nước lửa, mà không phụ lòng của tiền nhân, thỏa sự linh thiêng đền miếu tiên hoàng, an ủi tổ phụ dưới nơi chín suối.

Chúc xong thấy xuất hiện ngàn hàng vạn đội âm binh. Ngay hôm đó Trưng nữ bèn truyền hịch đến các đạo, châu, huyện nước Nam, ai người có tài văn võ, anh hùng, có thể chống giặc thì ngay lập tức chiêu mộ tráng binh dẫn đến để chọn lựa người có kỳ tài mà phong chức vụ.
Hôm đó các đạo nghe thấy chiếu của Trưng nữ bèn đem các quân trong làng xóm dẫn đến ứng tuyển. Trưng nữ bèn phong những người có tài làm đại tướng. Còn binh sĩ xếp thành các đội. Ngày hôm đó Trưng nữ giao cho tướng lãnh quân đi trước dẹp đường. Còn mình thì dẫn quân đi sau ứng trợ.
Ngày hôm đó Trưng nữ sai các tướng đem quân tuần phòng các đường, dẫn quân xuất binh đường đường mà đi. Ngay hôm ấy Trưng nữ dẫn hai ngàn quân đi đánh với giặc Hán. Một buổi tiến đến đạo Kinh Bắc (xưa gọi là Vũ Ninh), phủ Thuận An (sau đổi là Thuận Thành), huyện Lương Tài (xưa là Thiện Tài). Trời đã về chiều, gặp quân Hán nên đóng quân thủy ở gần sông Thiên Đức. Trưng nữ bèn trú quân ở khu đất đầu trang Nhuế Đông, nơi có miếu thờ. Đến tối Trưng nữ bèn vào cầu đảo trong đền thần mong được âm phù dẹp giặc. Tối hôm đó tới giữa canh ba Trưng nữ bỗng nhiên nằm mộng thấy một bà lão tuổi khoảng 40, có phong tư yểu điệu, nhan sắc phi thường, mặt phượng mày ngài, má hồng môi phấn, vạn điểm như sóng thu, mười phần là sắc xuân, theo con đường trước miếu mà đến, tự xưng rằng:

  • Ta vốn là Hoàng Thái hậu triều Tống, tên là Càn Hải phu nhân. Do khi nhà Tống suy vong, giặc Nguyên xâm chiếm nên mẹ con ta ba vị hồng nương cùng xuống thuyền rồng lánh nạn ở ngoài hải đảo, vượt qua sông núi đên nơi cửa biển Am thì gặp sóng gió mà cùng hóa vậy (ngày hóa là 15 tháng 5). Thiên đình cảm động ban chiếu cho các trang khu, phường trại ở cạnh sông góc biển lập miếu mà thờ cúng để đề cao tích thiêng của phu nhân. Nay thấy nữ tướng dẫn quân dẹp giặc Hán đến trú quân và cầu đảo được âm phù nên ta xuất hiện, xin được theo quân đội dẹp giặc lập công.

Bà lão dứt lời thì biến mất (ngày thần hiện là mùng 9 tháng 2). Trong phút chốc Trưng nữ tỉnh lại, biết là linh thần xuất hiện giúp nước giúp dân. Rạng ngày Trưng nữ gọi nhân dân và phụ lão ở trang khu Nhuế Đông đến hỏi rõ việc này:

  • Ta muốn hỏi có phải hai khu trang ấp các người phụng thờ một vị Tống Hoàng Thái hậu, rất là linh hiển phải không?

Khi ấy nhân dân phụ lão trang khu Nhuế Đông đều sợ hãi mà làm lễ mừng, tâu rằng:

  • Đúng là trang khu chúng thần theo như trước đây khi mới lập trang khu có xin lĩnh lô hương ở cửa biển Am mang về dân lập miếu mà thờ cúng, thật sự rất linh nghiệm.

Trưng nữ nghe vậy bèn ban cho nhân dân phụ lão một nén vàng tím để tu sửa miếu điện, đợi khi yên bình sẽ gia phong Thượng đẳng thần. Hôm ấy Trưng nữ vương bèn dẫn quân về phía Tây, hội quân cùng các tướng. Tướng nam dẫn quân nam. Tướng nữ dẫn quân nữ, cùng với em là Nhị cùng các tướng chia thành các đạo tiến thẳng đến đồn Tô Định đánh một trận đại phá, bắt được Tô Định ở xứ Lãng Bạc mà chém đi. Quân Hán thua to, chém được chính tướng và tì tướng cùng binh sĩ vài ngàn đầu, thu được khí giới. Xây dựng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục toàn bộ đất đai nước Nam.
Hôm ấy các tướng đón Trưng nữ khải hoàn, lên ngôi xưng là Trưng nữ vương. Bèn mở tiệc mừng lớn, phong thêm cho các tướng sĩ cấp bậc tương ứng. Vương bèn nói với quần thần các tướng rằng:

  • Giặc Hán dẹp yên được cũng là do có thần âm phù trợ giúp.

Bèn sai sứ sắc phong cho bách thần các mỹ tự. Sắc phong thần hiệu nguyên tên phong là Đại Càn Nam Hải linh ứng tôn thần. Tặng phong là Nga hằng Uyển mị Chí đức Đoan trang Hoàng Thái hậu Thượng đẳng thần.
Từ đó về sau có nhiều sự linh ứng nên có nhiều các đời đế vương thường đều có phong thêm mỹ tự, cho phép cửa biển Am là nơi hộ nhi. Thường nước cầu dân khấn, anh linh không phai. Sắc vâng ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Đến thời Trần Anh Tông đi chơi ở núi Yên Tử, đến cửa biển thì gặp nạn sóng gió, mà được một vị tôn thần cứu thoát. Đến ngày về Đế bèn phong thêm mỹ tự là Huệ hoà Gia hành Đoan trang Thục diệu Phu nhân Thượng đẳng thần. Lại ngâm một câu thơ:
Hương hoả thiên thu âm tục Tống
Phong ba nhất trận mặc phù trần.

Nghĩa là:
Hương lửa ngàn thu âm nối Tống
Sóng gió một trận thầm giúp Trần.

Lại nói, sắc chỉ ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Thời sau khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn dẹp trừ giặc Minh, cùng bè đảng Mộc Thạnh, Liễu Thăng, đến khi có được thiên hạ thì vua Thái Tổ bèn phong thêm mỹ tự là Ý đức Thuần hoà Anh linh Phù tộ Phu nhân Thượng đẳng thần. Sắc chỉ ban cho trang Nhuế Đông khu Đặng Thượng và khu Thiên Lộc cùng tu sửa miếu điện để phụng thờ, cùng với nước nhà hưởng phúc, mãi là thức lệ. Vâng thay!
Ngày tiệc thần hiện vào ngày mồng 9 tháng 2. Lễ chính lệ dùng trên có mâm chay và phẩm quả, dưới tùy xếp cỗ, ca hát ba ngày.
Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 5 giữa xuân ngày tốt Đệ tam giáp Tiến sĩ trí sĩ Thượng thư bộ Lễ Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn [Bính] vâng soạn bản chính. Nội các bộ Lại tuân theo bản chính cũ vâng sao.
Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 13 ngày mồng 1 tháng 3 lý trưởng xã Nhuế Đông vâng sao nguyên như bản chính.

Ngọc phả Tiền Lý Nam Đế, Đức Vua bà cùng con gái Đàn Bang

Thần tích thôn Đại Phúc, xã Đạo Đức, huyện Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, có đối chiếu với ngọc phả của làng Kim Thanh, Tiến Thắng, Mê Linh, Hà Nội. 

Ngọc phả ghi chép về ba vị bản thuộc thành hoàng (bản thuộc nghĩa là nước ta, thành hoàng nghĩa là ? ?  thành hoàng), sau đổi là Quốc vương [Thiên tử Tiền Lý Nam Đế], Đức Vua Bà cùng con gái Đàn Bang

Chi Càn, bộ đế vương thứ nhất. Chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa đất Việt định vị Càn Khôn, một phương Ly Khảm phân giới hạn tại Sách trời, là ứng hướng các sao Dực, sao Chẩn. Ban đầu xưng là nước Lạc, tôn núi Tản sông Lô là sơn hà. Từ triều Hùng đổi vận, thánh tổ dựng cơ đồ tương truyền 18 đời hơn 2000 năm thịnh trị, đời đời cha truyền con nối đều xưng là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một dải, chính là tổ đất Việt ta vậy.

Đến nhà họ Hùng truyền 18 đời mới nhường ngôi báu cho Thục An Dương Vương. Dương Vương được nước trong 50 năm thì có người Chân Định họ Triệu tên Đà cất quân đến xâm chiếm. Nhà Thục mất. Triệu Đà được nước, cha truyền con nối 5 đời làm vua. Từ đó đất Việt ta thuộc vào Hán cùng Tấn, Tống, Tề, Lương. [Đến Lương Võ Đế cho] Tiêu Tư làm Thái thú đất Việt ta. Tư là kẻ tham tàn bạo ngược, nặng hình pháp. Sinh dân đất Việt ta rơi vào cảnh lầm than chưa từng có vậy. May thay, lòng người không muốn cảnh loạn, ý trời cũng cho thay đổi nên thanh bình. Sông núi nước Nam vua Nam ở, chính đúng là như vậy.

Trước đó có một nhà họ Lý, vốn là người Bắc Hán di cư đến Việt ta ở đất Long Biên, Thái Bình, được 4 đời tới Lý Công Quang sống ở bến Thái Bình, lấy việc chèo thuyền đưa người qua sông làm nghề nghiệp. Gặp ai cũng chở mà không đòi hỏi lấy tiền. Địa phương nơi đó đều gọi là người có lòng tốt bụng vậy.

Sau này có một thuyền khách buôn phương Bắc đi qua đây, chẳng may gặp gió lớn nổi lên, của cải đều mất cả. Ông xuất tâm cứu giúp, dẫn về nhà nuôi dưỡng. Trong số các khách phương Bắc có một người tên là Lý Sinh, tinh thông địa lý, xem được một thế cục ở núi Ất Lý tại Long Biên, có thể phát 2 đời làm vua Nam Việt, sau khi mất còn là phúc thần vạn đời. Thấy Công Quang cũng mang họ Lý, lại có lòng tốt nên tìm cho một huyệt để chôn táng trên đỉnh núi Ất Lý, dựa Đinh hướng Quý. Chôn xong thì người khách trở về nước phương Bắc.

Sau Công Quang sinh được Công Đạt. Công Đạt có vợ tên là Lã Thị Hương, gia thế vốn giàu mạnh. Vợ chồng đều rất trung hậu, nửa điểm không có ý hại người, chút lợi cũng không động lòng riêng. Một tối Lã Thị nằm mộng thấy tự nhiên bay lên trên trời, muốn xuống mà không được, rồi lại có một con rồng vàng, mà cưỡi để hạ xuống, nhổ một chiếc râu rồng mang về nhà. Bỗng nhiên tỉnh lại. Từ đó cảm mà có mang thai.

Mùa xuân năm sau đó ngày 11 tháng giêng sinh hạ được một người con trai, phong thái chỉnh tề, khí chất khôi ngô, vượt hơn người thường rất nhiều. Đang lúc sinh có khí lành bao phủ, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày thì người cha đặt tên là Lý Công Bôn. Quả nhiên Hoàng thiên không phụ, đất lành hưng vượng, sông biển đúc thiêng, núi sông nuôi dưỡng. Ông khi sinh đã có tính linh, tròn tuổi đã biết nói, 5 tuổi đã hiểu âm luật. Đến năm 7 tuổi thì chẳng may cha bị bệnh mất. Ông tuy còn nhỏ nhưng lanh lợi, đối với cha mẹ thì hiếu kính, với họ hàng làng xóm thì ôn hòa, ai cũng đều khen ngợi. 

Đến năm 16 tuổi ông làm quan cho nhà Lương. Năm 21 tuổi trở về nuôi dưỡng mẹ. Khi ấy Tiêu Tư có một người mưu sĩ tên là Chu Năng, thạo việc xem thiên văn, thường nói với Tiêu Tư là:

– Nước Nam có một người lạ, nhưng người này không được thọ lâu.

Tiêu Tư cười rằng:

– Lạ mà không thọ thì lạ làm gì.

Một hôm Tiêu Tư ở trong nhà, mơ màng như mộng, thấy có một thiếu niên tự xưng là Ất Lý bản thuộc, tay cầm song kiếm đuổi Tiêu Tư mắng rằng:

– Đất của ngươi là nước phương Bắc. Hãy trả lại nước Nam nơi đây của ta.

Tiêu Tư trong mộng chạy dài cho tới lúc thoát. Bỗng nhiên bàng hoàng tỉnh dậy, biết là nằm mộng. Bèn gọi Chu Năng đến giải giấc mộng đó. Chu Năng nói:

– Thần đã xem sao trên trời và báo với chúa công, nhưng chúa công không chú ý. Nay chúa công đã mộng thấy như vậy, tất là trời cho điềm báo trước. Sự thể như vậy, thần xin được đi vi hành thăm dò tình hình mà định kế.

Tiêu Tư đồng ý như thế. Thế là Chu Năng chọn một người tùy tùng xem hướng mây mà đi. Hai tháng sau đi đến Long Biên, quả nhiên thấy một ngọn núi có tên là Ất Lý. Chu Năng xem xét nơi đó thấy địa linh tất sinh nhân kiệt. Ngẩng mặt lên xem mây trên trời bỗng thấy hoa mắt, hôn mê, trong lòng đau đớn, nôn ra máu, ngã ra mà chết. Đó chính là sơn thần muốn giúp Lý Bôn nên đã đánh chết Chu Năng. Câu chữ để đời là:

Nam quốc sơn hà khai thái vận

Thiên tâm giáng phúc thái bình quân.

Dịch là:

Núi sông nước Nam mở vận lớn

Lòng trời giáng phúc vua thái bình.

Chu Năng bị sơn thần đánh chết, còn người tùy tùng chạy về nói với Tiêu Tư. Tiêu Tư bèn dẫn thủ hạ hai trăm người thẳng đến Long Biên, bắt hết già trẻ, nam nữ. Hôm ấy mẹ con Công Bôn cùng họ hàng hơn 20 người may mắn thoát được, chạy ra bên ngoài. Anh Bắc em Tây, ẩn trốn nơi đất khách. Mẹ con Công Bôn không biết phải chạy về nơi nào, cứ liên tục chạy qua mấy ngày, trong người mệt mỏi bèn vào nghỉ nơi miếu ở bên đường, rồi ngủ thiếp đi. Bỗng nhiên nằm mộng thấy một người thân mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng, tự xưng là sử giả nhà trời, quỳ xuống mà đọc rằng:

Quân kim nghi tẩu Sơn Tây đạo

Tam Đới Châu Diên Táo Tuyến hương

Tiền đắc quang huân đồng tán trợ

Hậu ư thử xứ ức niên hương.

Dịch là:

Nay vua nên đến Sơn Tây đạo

Phủ Tam Đái, Táo Tuyến, Chu Diên

Trước được ánh quang cùng trợ giúp

Sau đó là nơi thờ vạn niên.

Công Bôn tỉnh lại, nhớ lại bài thơ thần báo mộng rõ ràng. Sơn Tây, Tam Đái thì đã từng nghe, nhưng Táo Tuyến, Chu Diên thì không biết là nơi nào. Nhưng nghĩ rằng đã có sự hiển báo, tất sẽ có âm phù. Bèn dẫn mẹ là Lã thị tìm đường mà đi. Không đến mấy ngày quả nhiên đến được trang Táo Tuyến, huyện Chu Diên, phủ Tam Đái, đạo Sơn Tây.

Đang khi đó trang Táo Tuyến có ông Triệu Quang Hành trụ trì chùa ở làng đó. Ông Quang Hành tuổi đã gần 60, sống cùng với một người cháu tên là Quang Phục. Đêm hôm ấy [Quang Phục nằm mộng thấy Long thần của chùa đến bảo trụ trì phải quét dọn cửa chùa sạch sẽ vì ngày mai sẽ có mẹ con của quốc vương đến. Quang Phục chợt tỉnh dậy thì trời đã rạng sáng, bèn đem việc trong mộng nói cho người bác nghe. Ông Quang Hành bèn sai đồ đệ quét dọn sạch sẽ. Đến giờ Ngọ quả nhiên có mẹ con Công Bôn đến xin nghỉ nhờ.]

Ông Quang Hành thấy Công Bôn là người có tướng lạ, bèn mời mẹ con ông cùng về ở, bố trí riêng một phòng, cho Quang Phục đến phục vụ. Khi ấy Công Bôn 23 tuổi. Quang Phục 11 tuổi. Thật là đã có vua tất có thần tử. Quân thần hợp nhau như cá nước có duyên. Lúc xem võ bị, lúc đọc binh phù, có hùng tài mưu văn lược võ, có chí lớn như Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông. Ngày đêm tính kế, làm việc vì đất nước, chiêu dụ các hào kiệt dẹp loạn cứu dân.

Khi ấy ở bên kia bờ sông đối diện Táo Tuyến có một làng, tên là Đông Lỗ, thấy Công Bôn có lòng như Thôi Đới, nên cứ mỗi tháng hai lần lại đem rượu thịt đến dâng, cùng nói rằng kẻ nước Bắc tàn nhẫn, quý ông có chí dẹp trừ, thần dân đều xin được làm thủ hạ.

Từ đó ông thường đến Đông Lỗ, xem xét địa thế, thấy cùng với trang Táo Tuyến đều không phải đất dụng võ, bèn rút về Long Biên cùng hội quân với anh họ là Lý Phật Tử, gửi hịch đi các nơi phủ huyện kêu gọi hào kiệt đồng tâm dựng nước, vì nghĩa dẹp tàn. Sau này nếu yên định được sẽ cùng hưởng phúc thanh bình. Khi ấy các chi binh mã đến ứng mộ cộng được hơn ba vạn người. Bèn lấy Triệu Quang Phục làm Tả tướng, Lý Phật Tử làm Hữu tướng. Trong vòng ba bốn năm đuổi được Tiêu Tư về Bắc, dẹp sạch bụi trần bốn phương, khôi phục núi sông nước Nam. Công Bôn bèn lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đóng đô ở Long Biên, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.

Khi đó nội cung của Đế có 1 Hoàng hậu, 6 quý phi, 70 cung tần. Một hôm Đế xa giá đi tuần du ở Nam Hải gặp một người con gái tuổi khoảng ngoài 20, hình dung nhan sắc tựa như Hằng Nga trên trời. Đế tự nghĩ đây là tiên giáng, là phong nữ hay là kiều hoa, sao ở chốn này lại có người như vậy.  Bèn gọi lại trước mặt mà hỏi. Người con gái ấy đáp rằng:

– Thiếp vốn là người Nam Hải, nhà ở chốn này. Khi thiếp lên 3 tuổi, cha mẹ đều mất, nên không biết tên họ như thế nào. Đến năm 10 tuổi trước đây có một ông lão đầu bạc từ biển đến nói rằng thiếp khi ngoài 20 tuổi sẽ gặp được đấng quân vương. Nay thiếp đã tròn 22 tuổi, gặp được thiên nhan, tất là lão ông đầu bạc chính là bậc chân tiên vậy.

Đế nghe vậy vô cùng thích thú bèn cùng về triều, nhân nàng là người Nam Hải nên đặt tên là Nam Hải nương, lập làm Đệ nhất cung phu, tình yêu quý ngày càng thêm sâu sắc.

Khi ấy Đế ở ngôi được 3 năm, chỉ có Hoàng hậu sinh được hai người con gái, không có con trai. Một hôm Đế cùng với Hoàng hậu và các quý phi, cung tần hơn 20 người đi vãng du các danh lam thắng cảnh, cầu đảo mà vẫn chưa được linh nghiệm. Bèn ở trong cung, ngày đêm thắp hương đến các chư Phật trên trời giáng cho điều lành, cùng bách thần sơn thủy sớm ứng cho điềm tốt, sinh được người kế nối.

Đến đúng đêm Trung thu tháng 8 Đế cùng với Hoàng hậu, quý phi, cung tầm ngắm trăng. Đế bỗng nhiên thấy tâm thần mỏi mệt, bèn dựa án mà nằm, mơ màng thiếp đi, thấy mình cùng với cung phi Nam Hải nương cùng đến một nơi có đền đài nguy nga, quan hầu vô số, nghênh đón Đế cùng cung phi Nam Hải vào ngồi trên lầu cao. Trước mặt có một cuốn sách đỏ, bèn mở ra xem, thấy đều là chuyện các đời đế vương, lời lẽ tươi đẹp. Ở cuối chương có bốn câu rằng:

Thất niên chủ tể tác Nam giang

Thiên sổ an bài nữ hữu tam

Hoàng hậu quý phi giai nhất tuế

Cung phi Đông Lỗ dữ Đàn Bang.

Dịch là:

Bảy năm làm chủ ở Nam giang

Số trời an định nữ ba nàng

Hoàng hậu, quý phi cùng năm mất

Cung phi Đông Lỗ với Đàn Bang.

Đế lật lại muốn xem kỹ thì bỗng nhiên tỉnh giấc. Nghĩ lại bài thơ trong mộng không khỏi lấy làm lạ. Khi ấy có vị quý phi thứ ba là người động Hoa Lư, phủ Trường An, châu Ái, tên là Hoàng Thị Chung, gả cho Đế từ khi 21 tuổi, đến nay đã được 27 tuổi. Đêm hôm đó nằm mộng thấy một ông lão dắt đến một con rồng và nói rằng:

– Con rồng này là con rồng cái. Nương tới giờ vẫn chưa sinh nở nên ta ban cho con rồng cái này, tất sẽ sinh được.

Quý phi tỉnh lại đem việc trong mộng tâu lên. Đế nghe vậy nói rằng:

– Rồng cũng có rồng cái sao? Quả nhiên rồng cái là điềm sinh con gái. Cứ như mộng này tất sẽ sinh ra con gái.

Từ đó thấy quý phi mang thai, đến kỳ quả nhiên sinh hạ được một người con gái. Đế nhân giấc mộng của quý phi bèn đặt tên là Rồng Nương, như là ý trời vậy, mệnh Mão. Rồng Nương sinh được 5 tháng thì mẹ đẻ Hoàng Thị bị bệnh mà mất. Còn Hoàng hậu cùng với 5 vị quý phi cùng trong một năm đều qua đời. Đế đem người con Rồng Nương giao cho cung phi Nam Hải phu nhân tìm nhũ mẫu để nuôi. Nam Hải nương mười phần yêu thương như con mình sinh ra vậy.

Khi Rồng Nương được hơn 2 tuổi, Lương Võ Đế lại sai Bá Tiên, Dương Sàn cất quân đến đánh. Đế đánh trận gặp bất lợi nên lùi về ở động Khuất Liêu, rồi bị mắc bệnh đau dạ dày, phong khí nhập vào trong tâm can, không thể làm gì được. Mệnh Đế chỉ còn trong ngày đêm, nhìn quanh chỉ thấy cung phi Nam Hải nương ôm con gái Rồng Nương cùng với mấy người Đông Lỗ, huyện Chu Diên, phủ Tam Đái đứng hầu. Đế lấy trong túi riêng 40 lạng vàng, đem chia đều thành hai phần. Một phần cho cung phi Nam Hải, một phần ban cho người ở Đông Lỗ, rồi dặn rằng:

– Trẫm nay bị bệnh rất nặng, vạn phần sẽ mất. Duy chỉ muốn người con gái út Rồng Nương cùng với cung phi Nam Hải giao phó lại nhờ các ngươi. Sau khi Trẫm mất, các ngươi hãy dẫn trở về quê của các ngươi để nuôi dưỡng.

Lại nhân đó nói với Nam Hải nương rằng:

– Ta bất hạnh không có con trai, chỉ được ba người con gái. Hai người đã đều có nơi chốn, chỉ còn lại người con út cho nàng làm mẹ. Sau khi chôn cất ta xong mẹ con nàng hãy về ở Đông Lỗ.

Nói xong thì Đế băng hà vậy (khi đó là mùng 8 tháng 10). Nam Hải nương khóc lóc động trời, nhưng sự thể không thay đổi được. Bèn cùng với Lý Phật Tử, Triệu Quang Phục làm lễ chôn cất. Sự xong Lý Phật Tử vào động Dã Năng, Triệu Quang Phục về đầm Nhất Dạ. Nam Hải nương theo lời di chúc đem con gái út Rồng Nương cùng người Đông Lỗ trở về Đông Lỗ. Người Đông Lỗ đó kể lại rõ ràng việc Đế cho vàng và di chúc lại với phụ lão nhân dân. Vị Nam Hải là cung phi của Đức vua ông Lý Nam Đế. Rồng Nương là con gái út của Đức vua ông. Nhân dân nghe lời không khỏi cảm động, bèn lập một ngôi miếu nhỏ, viết thần hiệu Đức Vua Ông Lý Nam Đế để phụng thờ. Từ đó nhân dân tôn gọi Nam Hải là Đức Vua bà, gọi Rồng Nương là Đức Vua con, hiệu là Ả Toát, mà không gọi tên.

Từ đó cung phi Nam Hải cùng với Rồng Nương sống ở Đông Lỗ, khuyến khích nghề cấy trồng dệt vải, tạo điều tiện lợi, trừ dẹp điều hại, thật là có nhiều công lao với dân vậy. Đến khi Rồng Nương lên 14 tuổi thì xuất gia ở trong chùa Đông Lỗ thờ Phật, cải tên là Đàn Bang.

Khi ấy Triệu Quang Phục trở về ở Dạ Trạch, có được móng rồng để trên mũ đâu mâu, hướng vào đầu thì khắc chế được nơi đó, là điềm trời ứng vậy, bèn tự lập là Triệu Việt Vương. Bèn lệnh các tô thuê và phục dịch của Đông Lỗ làm bổng lộc cho cung phi Nam Hải nương cùng với Ả Toát Rồng Nương Đàn Bang. Đến khi Nam Hải nương 50 tuổi, Rồng Nương 27 tuổi thì đều không bệnh mà mất. Nhân dân Đông Lỗ dâng tấu lên Triệu Việt Vương. Vương dùng lễ hậu sai cùng đón về quê Đế ở Thái Bình, chôn cùng với Đế một nơi. Chôn cất xong nhân dân Đông Lỗ trở về, nhớ đến công đức bèn viết thần hiệu Đức vua bà Lý Nam Đế cung phi Nam Hải phu nhân, Đức vua con Lý Nam Đế con gái út tên Ả Toát Rồng Nương Đàn Bang tôn thần, mà lập các miếu để phụng thờ.

Thời Việt Vương có truy tặng mỹ tự Ngọc bệ hạ. Hậu Lý Nam Đế cũng truy tôn mỹ tự Chí Di [Quốc vương Thiên Tử Ất] Lý Nam Đế v.v. Thời Tùy Văn Đế cho Lưu Phương làm Thái thú đất Việt ta. Lưu Phương đến đất Việt tới đền Đông Lỗ, giáng Đế xuống là Nam Giang Đại vương, nhưng vẫn cho Đông Lỗ phụng thờ.

Nhân dân vâng ghi:

Vâng chép sinh hóa các tiệc cùng với các chữ húy nhất thiết cấm là năm chữ Bôn, Nam, Hải, Rồng, Nương.

Ngày sinh của Đế là 11 tháng Giêng, dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát.

Ngày hóa là mùng 8 tháng 10, dùng cỗ trâu, xôi, rượu.

Ngày sinh của vị Nam Hải không rõ. Ngày hóa là 20 tháng 3, dùng gà, lợn, xôi, rượu.

Ngày sinh của Đức Vua con là mùng 10 tháng 8. Ngày hóa là 20 tháng 2.

Hoàng triều niên hiệu Hồng Phúc năm thứ 9 ngày tốt tháng cuối xuân, Hàn lâm viện Đông các Học sĩ, thần là Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2, ngày tốt tháng đầu thu, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần là Nguyễn Hiền tuân theo bản chính mà vâng chép.

Một trang ngọc phả thôn Đại Phúc.

Thần tích bà Vương Chiêu Quân ở Diêm Tỉnh, Thụy Dũng, Thái Bình

Lễ bộ Thượng thư Quản giám tri điện triều Lê vâng sao ghi chép phụ cổ truyền

Cung Khảm, thần tích hạng phụ

Hoàng đế bệ hạ phụng ban sắc văn và thần hiệu. Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Gia từ Hoàng Thái hậu Tiên huy Thái trưởng Chiêu Quân Công chúa Đại vương.

Sắc văn: Tôn nghiêm chỉ thuận, anh dục sơn xuyên, tú chung hà hải, cao phối thiên, hậu phối địa, hộ quốc tý dân, hách quyết thanh, trạc quyết linh, dực bảo trung hưng, thánh hoá đạt văn, khoan hoà nhân thứ, đặc đạt tiềm mặc, hoằng thâm phổ hợp, trừng trạm cảm ứng, tối linh từ đức, phu liệt thánh nữ, đằng vân giá vũ, hiển ứng huân hao. Tặng truy Hoàng Thái hậu. Cho phép khu Hạ, trang Bát Đồn, quận Hạ Hồng, trấn Nam Định, phụ lão nhận một đạo sắc văn trở về phụng thờ, cùng trợ giúp bảo vệ nhân dân ta. Vâng thay!

Xưa từ khi trời Nam mở vận, chia ngang theo sao Dực Chẩn, ban đầu phong thẳng hướng sao Đẩu Ngưu. Vốn từ cháu ba đời của họ Thần Nông là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần phương Nam ở núi Ngũ Lĩnh mà lấy được Tiên Vụ Nữ, mà sinh ra Kinh Dương. Dương có thánh trí thần tài, vượt trội hơn thánh Đế Nghi. Đế Minh muốn truyền ngôi báu cho để trị vạn bang. Kinh Dương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi, còn phong vương ở phương Nam, gọi là họ Hồng Bàng. Kinh Dương vâng mệnh vua cha dẫn tướng phát oai, lấy người con gái của Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, có điềm bách nam, sinh một bầu trăm trứng, phân thành trăm họ, đặt ra trăm tên, phong làm trăm vương, trấn giữ một phương, là thủy tổ của Bách Việt vậy.

Người con trưởng là Quốc Vương nối trị, 18 đời sau đó đều gọi là Hùng Vương. Đến khi Thục Vương tên Phán lên ngự trị được 50 năm thì bị họ Triệu thôn tính. Triệu Vũ Đế là đại tướng của Tần, gặp lúc Tần giao tranh mà tự giữ ở phương Nam. Nhà Hán sai Lục Giả mang ấn thư đến phong cho ở phương Nam, quyền quản Bách Việt. Sau này bởi Lữ Gia không tuân theo mà Ai Vương khó giữ nước. Nhân đó lại thuộc về Bắc vậy. Nhà Hán bèn lập thủ lệnh các quận huyện, hoặc có lúc chính sự tốt, cũng như lúc gây thế sự tham tàn đều có vậy. Đến thời Nguyên Đế mới cùng hợp lại với Trung Quốc.

Vương Thức vốn là người ở một làng có tiếng của khu Đồn Hạ nước Nam. Khi còn nhỏ đi du học, tỏ rõ có nhiều chỗ hơn người. Đến khi trưởng thành thi đỗ khoa Mậu Tài, làm Thái thú Kim Thành. Sau về làm Thái thú Lâm Ấp. Ở đó lấy vợ tên là Phạm Thị Dụ, gặp được mộng rắn, đến ngày 12 tháng 3 thì sinh được một người con gái quý. Hôm ấy hương thơm bay ngào ngạt, trong trướng rạng rỡ, xuất hiện 4 vị tướng lạ, 3 con rồng bay quanh nhà. Ngày hôm đó ở trên trời trong nội thành vang lên ba tiếng động lớn, làm rung chuyển núi sông cây cỏ. Trên điện có vạn thú đến chầu. Dưới chân núi sóng nước nổi dồn dập. Trăm thú, kình nghê, lân ngư, vạn vật theo mưa gió mà tới chầu cống. Người người thấy điềm lạ dị thường đó lấy làm vui mừng. Thái thú Vương Thứ nhân đó mà đặt tên là Vương Tường.

Ngày ngày thường ở yên một nơi trong phòng, tự học xem sách, không chờ người chỉ dạy mà tiêu đàn thành thạo, âm luật tinh thông, binh thư, cung trượng không gì là không biết. Đến năm mới 14 tuổi đã có phong tư đẹp đẽ, sắc nước hương trời, không ai sánh nổi.

Khi ấy vua Hán vào ngày mùng 1 tháng 8 nằm mộng thấy một Lão tiên đến mang cho một nữ tử, nói rằng:

–          Người này đúng là giúp nước cứu dân, trung trinh chỉ một, ở tại đất Nam, trong nhà Thái thú.

Dứt lời thì bay lên không trong khoảnh khắc không có ai thấy nữa. Đế tỉnh lại cho là sự rất lạ, ngẫm lại tưởng đến người con gái đó có một nốt ruồi ở bên má trái. Đến rạng ngày cho hội quần thần đến phán rằng:

–          Đêm qua Trẫm nằm mộng thấy một ông lão đem đến một người con gái, nói rằng người này ở tại nhà Thái thú đất Nam. Người này giúp nước cứu dân, trung trinh chỉ một. Đình thần hãy cử họa sĩ đến đất Nam xem xét tình hình mà vẽ lại người đó. Có tin tốt tâu về sẽ có thưởng.

Khi đó triều đình cử Diên Thọ phụng mệnh. Diên Thọ đi để vẽ tranh, khi đến Thái thú Lâm Ấp thấy Vương Tường đẹp tuyệt như tranh vẽ mà run lòng mất mật. Vì thế Thái hậu tự vẽ để mang về tâu với vua Hán. Vua Hán xem nhận ra nốt ruồi lạ thấy đúng người con gái đó, lập tức viết chiếu thư cử mang đến gọi Vương Thức về cửa ngọc, sai quan mang đồ sính lễ đến. Vương Tường tâu với cha cho mua thêm ao ruộng, đất đai, ban ơn cho các phụ lão nhân dân các nơi. Rồi được thưởng tước vị, đón về kinh thành.

Vua Hán vì thế mà rất vui mừng, đến khi mở mạng che mặt thấy mày loan như trăng mới mọc, mắt nhẹ nhàng như sóng mùa thu, tóc sáng như gương soi, da trắng mịn màng, sắc sáng như mặt hồ nước, vẻ đào có dung mạo chi sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Đem so với hoa thì hoa hết lời, đem so với ngọc thì ngọc sinh hương, cùng là vẻ toàn mỹ vậy. Vua rất yêu quý, được sủng hạnh trong cung không ai bằng.

Lại nói, khi ấy Diên Thọ đã vâng chỉ làm thợ vẽ, thấy sắc đẹp của Thái hậu nên muốn lấy, có ý gian không vẽ mà bàn chuyện nghĩa lý. Thái hậu không theo. Thái hậu tự vẽ bức chân dung đó. Khi Thái hậu đi rồi, Diên Thọ đem tiến bức vẽ cho vua Hồ. Vua Hồ rất khen ngợi, giữ Diên Thọ ở lại kinh đô nước đó, rồi viết một bức tâm thư gửi cho vua Hán xin cưới Công chúa giống như trong bức tranh. Nếu không lấy được tất sẽ gây chiến tranh để chiếm lấy. Vua Hán bất đắc dĩ than rằng:

–          Tưởng được ước nguyện dài trăm năm mà lại thành cách biệt. Nếu qua được tình cảnh trước mắt này thì sẽ tích lực tăng uy, ngày sau sẽ phá vua Hồ.

Thái hậu bèn vượt biên ải sang triều đình nước Hồ. Nhân dân ai cũng thương xót cho là trời xui khiến vậy. Trên đường đi khi tới núi Cửu Cô, có bầy tiên 9 người đang tắm ở bên bờ biển, thấy thuyền rồng của Thái hậu đến gần liền hỏi:

–          Chúng ta với nàng cùng là nữ, sao nương lại gặp phận duyên như thế?

Thái hậu nói:

–          Em tuân theo mệnh trời giáng làm người trần. Vua Hán lệnh gọi đi cống vua Hồ. Ngưỡng mong các chị hãy cứu giúp kẻ phàm dân này.

Bầy tiên phán rằng:

–          Nay chúng em vâng chiếu chỉ của trời đi du chơi bên bờ biển. Nay đã thấy có lời này tất phải cứu giúp.

Bầy tiên tìm trong tay áo lấy ra 3 viên thuốc, bảo hãy nuốt lấy. Chín tiên nữ lại tặng cho một chiếc áo bàn lửa, nhìn xa như hình kim nhọn chích Hồ. Người người thấy đều sợ hãi. Khi đến kinh thành Hồ, vua Hồ ra đón. Khi đó Thái hậu chưa mặc áo lửa. Vua Hồ rất yêu thích, thấy thế rất sủng ái. Đến khi Thái hậu mặc chiếc áo bàn lửa, vua Hồ bàng hoàng sợ hãi. Vua Hồ nghe lời liền yêu thích tiếng nói đó, sao có thể cùng ở được. Nên 16 năm không dám động vào thân thể. Khi ấy Thái hậu xin được dựng một cây cầu ở sông Hắc thủy. Cầu xây xong Thái hậu xin vua Hồ cầu đảo núi sông thần kỳ. Vua Hồ đều theo mà lập lễ, cầu trời đất, bách linh thần. Bỗng nhiên thấy một áng mây trắng phủ như cung điện nguy ngà, khói sương lấp lánh, rồng mây bốn bức, mờ mịt lâu đài nước Trúc, núi sông một bầu, thấy đó cảnh thú vị Bồng Lai. Trời đất tối tăm, nước sông kêu ầm ầm như sấm chớp nổi lên. Giao long, cá, ba ba trùng trùng liền như sóng vạn phái. Côn kình lớp lớp như sóng cuộn ngàn tầng. Lại có rồng vàng dài hơn một trượng, cuốn thân chờ đợi.

Thái hậu cầu chúc trời đất bách thần mà thấy trăm hoa giấu mặt, hương bay khí lạ, rồi nhảy xuống sông cưỡi rồng mà đi. Đó là ngày 13 tháng 12. Vua Hồ không biết sao đành dẫn quân về.

Lại nói, Thái hậu tên húy là Vương Tường, tên chữ là Chiêu Quân. Nhà Hán phong mỹ tự. Nước ta niên hiệu thời Vĩnh Hữu phong là Hiển linh Trợ thuận Thiên huy Thái trưởng Công chúa, cho 72 đền miếu phụng thờ. Nay còn di chỉ ở trang Bát Đồn, dựa Nhâm hướng Bính.

Thánh phụ chức vốn là Thái thú, tên húy là Vương Thức, tức chữ là Tử Bình.

Thánh mẫu theo phẩm trật là Nhị phẩm phu nhân, tên húy là Phạm Thị Dụ, hiệu là Đức Lộc.

Ngày sinh là 12 tháng 3. Ngày hóa là 13 tháng 12.

Lễ dùng bánh trôi, chay bàn, xôi ngon, gà quý, rượu ngọt, tiền vàng, ca hát, vui chơi.

Năm Chiêu Thống thứ nhất triều Lê vâng sao.

Đền thờ bà Vương Chiêu Quân ở Diêm Tỉnh.

Ngọc phả triều Lý (Thần tích Phù Lập, thôn Trung, tổng Thụ Phúc, Tiên Du, Bắc Ninh)

Quản giám tri điện bộ Lễ triều Lê vâng sao ngọc phả cổ truyền

Hoàng đế Bệ hạ khâm phụng sắc văn thần hiệu:

Sắc phong Đại đô Thành hoàng Đại vương Lý Nam Đế Đê Vũ Linh ứng Đại vương tôn Thượng thượng đẳng Phúc thần.

Sắc phong Nhàn uyển Phong tư Trinh thục Quý Minh Công chúa.

Sắc văn:

Hùng chấn uy linh, tôn nghiêm chính thuận,

Anh dục sơn xuyên, tú chung hà hải,

Cao phối thiên, hậu phối địa,

Hách quyết linh, trạc quyết thanh.

Phổ thông linh tế, cao minh bác học,

Hiển đức lượng công, quảng duyên lưu khánh.

Phổ hoá thí nhân, khuông quốc khang dân.

Tặng Thượng thượng đẳng Phúc thần. Cho phép phường Hạ, trang Thụ Triền, huyện Tiên Du, quận Từ Sơn, đạo Bắc Ninh phụ lão phụng lĩnh hai đạo sắc văn mang về phụng thờ. Cơ thần tương trợ, bảo vệ lê dân. Vâng thay!

Xưa có người quê ở Thái Bình. Đất này bằng phẳng, sông nước đẹp đẽ. Rạng rỡ ngàn năm trong tín sử. Vạn đời rờ rỡ linh thiêng, quy mô to lớn rành rẽ, công nhiều nghiệp lớn. Vận nước lâu bền. Kế lớn tốt lành vậy!

Từ cháu ba đời của Lý Cầm sinh ra Lý Quế Hòe, vợ là Võ Thị Hương. Vợ chồng tích thiện hành nhân, ngày đêm hương khói thờ Thượng đế. Một nhà phong lưu, ba sinh hưởng lửa đủ đầy, dư giả vậy. Vào năm Quý Hợi tháng 2 ngày mùng 8 bà họ Võ nằm mộng thấy ánh sáng đầy nhà. Chốc lát có một con rắn hoa trắng cuốn khúc trườn tới, bỗng hóa thành một đóa hoa sen. Bà họ Võ cầm lấy thì tỉnh giấc, bèn kể lại cho ông Lý Quế Hòa. Từ đó uyên ương chung gối mà có mang. Mang thai được một năm, đến ngày mùng 9 tháng 2 năm Giáp Tý điềm lành ứng hiện, hương thơm khí bay đầy nhà, trong trướng rực rỡ. Bà họ Võ sinh được một bầu. Từ sáng sớm mây trời mù mịt, đến giờ Ngọ thì sinh ra, mưa trời ngừng tạnh quang đãng. Bèn đặt tên con là Vũ.

Khi sinh ra diện mạo phi thường, hình dung quý phái. Đến khi lên 5 thiên tư thông minh khác lạ, phẩm chất hơn người. Hàng ngày thường ở yên một nơi tự học xem sách, không đợi người giúp dạy. Lại giỏi đánh đàn, tinh thông âm luật. Đến khi 15 tuổi đi thi đậu Hiếu liêm, được cử làm quan cho nhà Lương là quan lệnh Long Xuyên (đổi tên là Lý Bôn Long), rồi được đề bạt chức Hiệu úy. Gặp lúc nhà Lương có loạn, bèn từ quan về rồi khởi binh đuổi các thủ lệnh, phá giặc Lâm Ấp bên ngoài. Liền xưng Đế, lập nước hiệu Vạn Xuân, đặt niên hiệu Thiên Đức, đóng đô ở Long Biên.

Ba năm sau, nhà Lương dẹp được loạn. Nhà Lương sai Tư mã Trần Bá Tiên đến xâm chiếm. Đế dẫn quân chống cự, thua ở Tô Lịch, sau lại thua ở Gia Ninh. Đế cùng với các tướng trong họ tộc dẫn quân vào Tân Xương, ở Liêu Trung, thu dưỡng quân binh, sửa sang khí giới giáo giáp. Tháng 8 lại dẫn quân ra đóng đồn ở hồ Điền Triệt, làm nhiều chiến thuyền lớn đóng chật mặt hồ. Quân Lương sợ hãi.

Một đêm nước sông chảy mạnh vào trong hồ. Quân Lương theo đó đánh trống reo hò mà vào. Đế cùng với các tướng cùng họ tộc rút lui về giữ trong động Khuất Liêu, giao lại quyền cho tướng Triệu Quang Phục chống cự với quân Lương của Bá Tiên. Đế ngày mùng 5 tháng 5, bỗng thấy một áng mây xanh, ba tiếng hiệu lệnh vang trên trời. Trong thành đất trời chuyển động, núi sông, cây cỏ vạn vật đều khiếp sợ. Mây lành năm sắc rực rỡ. Ba ngàn thế giới, vạn vật trăm thú kình nghê, cá rắn theo mưa gió đến hội chầu. Vương thấy nước nhà có điềm lạ, bèn chiếu lệnh cho quan văn võ áo mũ chỉnh tề, chay tịnh, đều tề tựu ở điện Kính Thiên vâng chờ lệnh, chầu bái Hoàng Đế, Thượng Đế, Tứ phủ vạn linh.

Hôm đó là ngày Giáp Thìn, một đám mây vàng bay từ phía Tây tới, dừng lại ở đầm rồng của điện Kính Thiên. Tự nhiên có 4 tướng hiện ra, cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, thân mang áo hoàng bào gấm vóc, hông đeo đai ngọc, chân đi giày sắt, miệng cười hào quang tỏa lửa, mây bay ngập mắt, tay cầm một lệnh bài: Ngọc Hoàng Thượng đế sắc hạ xuống Nam Miên. Vương về triều sẽ tự nhiên mà bay lên.

Đến ngày 15 tháng 10 Lý Nam Đế bỗng nhiên thân thể mệt mỏi, dưah vào lan can, mơ màng mà hóa đi. Tên thờ là Đê Vũ Đại vương.

Lại nói, Công chúa Quý Minh là người làng Bồng Lai, có cha là Võ Bá Khánh, lấy vợ là Nguyễn Thị Dung. Đến ngày 15 tháng 3 sinh được một người con gái, nhan sắc tươi đẹp, hình tuy là nữ nhưng lại tương tự như nam. Ai cũng nói là có mặt đẹp như hoa đào, sắc xinh như ánh nước, thực là dung nhan chim sa cá lặn, lại có tướng mạo hoa nhường trăng thẹn, mày loan như trăng mới mọc, mắt trong như sóng thu, rang soi trắng trẻo mềm mại như hoa đang nở, ngọc sinh hương. Nên đặt tên là Minh. Hình dáng đều xem toàn mỹ vậy.

Đến năm lên 18 tuổi đi chơi ở Long Biên. Lý Nam Đế lúc đó đi chơi trong thành, gặp Quý Minh ở thành Long Biên, lấy làm thích thú, bèn đón về đô thành, làm sính lễ lớn mang đến ông Võ Bá Khánh. Mở tiệc trong quân cho tướng sĩ vui vẻ. Tự lập làm Đệ tam cung Công chúa. Sau khi về giữ ở động Khuất Liêu, đến tháng 5 Đệ tam cung Công chúa bị bệnh. Đến ngày 12 tháng 8 thì hóa.

Đế rất đau xót, bèn sai đem hài cốt chôn cất ở vùng đất trong động. Đến khi Hậu Lý Nam Đế truy tặng tổ tiên, đề cao công đức, tu lập đền miếu, phong thêm cho bách thần đã hóa của triều trước,  lệnh bộ Lễ viết sắc phong thần, ban cho tiền để dựng miếu, giao cho bộ Lễ mang sắc phong tới 372 đền truy tặng:

– Lý Nam Đế là Đê Vũ Linh ứng Đại vương Thượng thượng đẳng Phúc thần.

 Nhàn uyển Phong tư Trinh thục Quý Minh Công chúa.

Bộ Lễ vâng mang sắc phong qua phường Hạ, trang Thụ Triền thuộc đạo Bắc Ninh. Phụ lão tới hầu vâng lĩnh hai đạo sắc văn mang về phụng thờ. Phụ lão trang Thụ Triền tề tựu đón thỉnh thầy phong thủy có tiếng, tìm xem thiên văn địa lý, gặp thấy được ở ngay trong trang có một nơi có thế cục quý, dựa Càn Tốn, hướng kiêm Mão Dậu, lại còn trước có ấn đường làm án, nước chảy chầu phía trước, núi ngang hình chữ nhất, sau có rồng cuốn ôm gối, hai dòng nước hợp như cổ áo, là đất phát nhiều con trai mạnh khỏe, văn nhân tuấn tú. Bèn giao phường Hạ phụng thờ, muôn năm càng thêm tăng ngưỡng, trải các đời càng thêm kính thờ, ghi cúng ghi thờ để cho sống lâu, mạnh khỏe, phù trì cho phường Hạ được hưng vượng vậy.

Phả chép về một vị Đại vương thời Triệu Vũ Đế (Thần tích làng Ninh Sơn, tổng Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông)

Phả chép về một vị Đại vương thời Triệu Vũ Đế

Chi Cấn, bộ Trung đẳng.

Đất Việt xưa trời Nam khởi vận, núi sông chia cương vực theo sao Dực Chẩn, xe sách cuốn nối, các vùng đất An Nam đẹp tựa đuôi chim, phân cách thẳng hướng sao Đẩu Ngưu. Nam tới Minh đô Giao Chỉ, xếp vào hàng thư lễ. Sách Ngũ đế đức thời vua Nghiêu chép rằng Việt Thường Thị dâng một con rùa thần ngàn tuổi, lưng có chữ khoa đẩu, ghi lại từ khi khai mở đến nay. Vua Nghiêu sai chép làm lịch rùa. Sách Thượng thư Đại truyện chép thời Chu Thành Vương Việt Thường Thị vào cống chim trĩ trắng, một con trĩ đen, một cặp ngà voi. Quốc thống đến nay bền lâu vậy. Tuy vậy đến nay kể cũng đã xa xôi, Ngoại kỷ, Bản kỷ, Tiền biên, Hậu tục cho tới gần thời bây giờ mà tính đã vài ngàn năm. Quốc thống có lúc chia lúc hợp, chính trị có lúc được lúc mất. Phong tục thuần hậu hay ngang ngạnh khó mà luận được.

Lúc quốc sơ họ là Hồng Bàng, ban đầu nhận mệnh vua là Kinh Dương, là hậu duệ họ Thần Nông. Ban sơ Đế Minh phong vua là Kinh Dương Vương trị phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy tiên nữ Động Đình, sinh ra Lạc Long Quân, kế nối quốc thống Kinh Dương, có điềm sinh trăm trai, thực là thủy tổ của Bách Việt. Như khi khởi đầu của trời đất nếu đã có người nuốt trứng dẫm vết mà sinh ra Thương Chu, tất có thuyết sinh trăm trứng. Trưởng tử của Lạc Long lấy tên là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, dựng nước Văn Lang, bèn chia thành 15 bộ để thống trị, định ra tên quan để nhận chức, thường xăm hình lên thân mình để tránh các loài thủy tộc, dịch tiếng nhiều lần để thông hiếu với Trung châu. Truyền rằng bách thần sông núi thường có thể xuất thế, khó biết rõ ở nơi nào. Như thế mà truyền 18 đời, trải 2600 năm, tất phong tục trở nên đôn hậu, cũng có thể nghĩ đến vậy.

Sau này vua ỷ mình có sức thần mà không tu sửa việc võ nên mất. Lại truyền tới Thục An Dương Vương thắng được Văn Lang, do không tu đức để yên dân chúng, khinh suất tin vào con rể nên cuối cùng đã bại. An Dương có trí dũng nên Triệu Vũ không địch lại nổi. Tuy nhiên, Thục vì một nữ nhân mà có uy chiếm Văn Lang, lại cũng vì một nữ nhân mà bị họ Triệu thôn tính. Truyền rằng Vua bắt đầu thế nào thì kết thúc cũng như vậy, là lẽ đó vậy. Thục đế vong.

Trải tới thời đầu Tây Hán, ở trang Thụy Hương, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây người trong trang có một nhà họ Lý tên Phụng, lấy vợ là Đào Thị Thanh. Gia cảnh túng quẫn, nhưng tấm lòng vẫn đều có đức dày. Khi ấy vợ chồng cùng đến phủ Ninh Sơn ở trang Ninh Sơn ở lại đó, lấy việc kiếm củi làm nghề sinh nhai hàng ngày, dần dân trở nên giàu có. Tuổi đã gần 50 mà còn chưa có con trai. Một hôm nghe nói ở Ninh Sơn có một ngôi đền rất thiêng, thường có báo ứng, vợ chồng ông bèn sắm sửa lễ nghi vào trong đền làm lễ cầu khấn. Đêm đó Thái bà nằm mộng bỗng thấy có một người cao lớn đường đường, thân khoác áo hồng, đứng trước án mà nói:

– Gia đình khanh có đức dày. Trời đã định cho ta đầu nhập làm con, xuất thế giúp nước. Ngày sau sẽ được nhờ, xin chớ lo lắng.

Nói xong liền biến mất. Bỗng thấy một ánh sao hào quang rơi thẳng xuống miệng, bèn nuốt lấy. Bà sợ hãi tỉnh dậy, kể lại cho ông nghe. Ông nói rằng đó tất là điềm lành. Đến sáng ngày vợ chồng ông làm lễ tạ. Từ đò trở về cố hương ở Từ Liêm ở. Lại thấy bà Đào Thị có mang thai. 

Đến năm Giáp Tý tháng Giêng ngày mùng 9 sinh hạ được một người con trai, thiên tư cao lớn, thể mạo khôi kỳ, cao tới 2 trượng. Ông biết đó là thiên tướng giáng sinh, thần linh xuất thế bèn đặt tên là Trọng. Khi ông lên 7 tuổi học lực tinh thông, đọc hiểu binh thư, tài về võ lược. Mỗi khi ra nơi can trường thì có cái dũng vạn người không đương. Đến khi tuổi 20 cha mẹ đều mất. Sau 3 năm chịu tang ông bèn vào Tần làm quan, làm đến chức Tư lệ Hiệu úy, dẫn quân đánh giặc Hung Nô ở Lâm Thao. Quân Hung Nô thua to bỏ chạy. 

Đến khi Triệu Vũ Đế họ Triệu tên Đà, người Hán đất Chân Định, khi Tần loạn chiếm cứ Lĩnh Biểu, mưu lấy Âu Lạc. Xe mui vàng, cờ cắm trái tự xưng đế một phương, cũng là bậc có khí lược anh hùng. Thế rồi Triệu Đà gọi ông Lý Trọng cho tướng cầm quân phương Nam, dẫn quân đánh Thục. Ông Trọng nhận mệnh. Tức thì ông Trọng đem quân thủy bộ năm nghìn quân tiến đến huyện Ninh Sơn, phủ Quốc Oai, đạo Sơn tây (Ninh Sơn sau đổi thành An Sơn), đóng quân tập trung ở trang Ninh Sơn. Ông đến bái yết đền thần, cho gọi phụ lão trang Ninh Sơn đến nói: 

– Cha mẹ ta vốn ngày trước nghèo nàn, đến ở trang này, lấy nghề hái củi sinh sống. Cho nên ta chính là thần của bản trang giáng sinh xuất thế. Vì vậy ta đến đóng ở đây để xem tình trạng thế nào, không phải là quân lạ xâm phạm, xin đừng sợ.

Khi đó phụ lão nghe vậy rất vui mừng, đều làm lễ bái hạ, xin làm gia thần. Ngay hôm đó ông bèn truyền binh sĩ cùng nhân dân lập nên một đồn để sau này chống quân Thục. Rồi ông tìm người trong trang khỏe mạnh, được 50 người làm gia thần thủ túc. Ngày hôm sau thấy có sứ giả mang thư lệnh đến, gọi ông dẫn quân đánh đạo Bắc của giặc Thục. Ông bèn hôm đó giết mổ làm cỗ trâu, tế cáo trời đất sông núi bách thần, rồi cất quân tiến đến đạo Kinh Bắc, thành Cổ Loa, hội bàn kế tấn công. Ngày hôm đó cùng quân Thục đánh một trận lớn. Quân Thục thua to, chém được chính tướng cùng với các tì tướng và quân sĩ vài ngàn đầu. Giặc thua chạy không biết đi đâu. Từ đó họ Triệu là Đế, thần dân được yên bình. Lập nước quy mô. Ông mới than rằng:

– Sinh mệnh của hàng vạn người đều dựa vào đây, mà ta sở dĩ phá giặc Thục là do trời đã giúp ta vậy.

Ông bèn nói với gia thần trang Ninh Sơn rằng:

– Sau này ta trăm tuổi để cho việc thờ tế có 10 nén vàng, ngày sau hãy mua thêm đất đai cho việc thờ cúng.

Khi ấy đang trời mùa xuân vào ngày đầu thượng tuần tháng Hai thấy có sứ giả của Triệu đem thư tới, trong đó nói rằng khi giặc Thục đã thua chạy, hôm đó đã dâng tấu lên Triệu Vương, vua ban chiếu gọi ông về phụng mệnh. Vua mở tiệc mừng lớn, gia phong tướng sĩ các cấp, bèn cho ông nhận thực ấp ở huyện Ninh Sơn. 

Ông bái tạ, phản hồi về nơi ở tại Ninh Sơn (sau thuộc phủ Ứng Thiên thành Thăng Long). Ngay hôm đó ông truyền cho phụ lão và nhân dân trong trang tu sửa đền miếu, làm cho nghiêm trang. Ông bày tiệc mời phụ lão nhân dân Ninh Sơn đến. Đang lúc yến tiệc bỗng thấy trời đất nổi lên một đám mây vàng lớn, hình như dải lụa đỏ từ trên trời rơi thẳng xuống trước miếu. Lại thấy ông theo mây mà đi, tức hóa vậy. Khi đó là ngày mùng 10 tháng 8 giờ Ngọ. Nhân dân kinh sợ bèn làm lễ dâng biểu tấu lên triều đình. Vua sai quay về làm lễ tế, lại cho trang Ninh Sơn làm nơi hộ nhi để phụng thờ.

Đến khi Cao Biền đánh Nam Chiếu có hiển linh phù trợ. Biền cho tu sửa miếu đền để thờ. Từ đó trở thành thường lệ.

Đến thời Tống niên hiệu Thái Bình sai Hầu Nhân Bảo dẫn 20 vạn quân, thủy bộ cùng tiến, chia đạo xâm chiếm nước Nam. Khi ấy Lê Đại Hành tự dẫn đại quân mười vạn chống cự, tiến đến huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên thì gặp đạo quân thủy tiến đến. Đế bèn đóng quân ở bên bến sông. Đêm đó cần khấn ở đền thần để thần âm phù dẹp giặc Hầu, sẽ phong thêm là Trung đẳng phúc thần. Rồi vua xuất chiến, quân Nguyên quả nhiên thua, tướng Nhân Bảo cùng quân tùy tùng đều giết ngay. Lại bắt được đại tướng Biện Phụng Huân, dẫn về kinh, khải hoàn. Sau đó khi đãi tướng sĩ nhân đó nói rằng:

–  Giặc Nguyên dẹp sạch cũng có thần trợ giúp vậy.

Bèn phong thêm cho bách thần. Phong Lý Trọng Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương võ Bảo cảnh Hiển ứng Anh linh Hùng kiệt Đại vương. Màu áo hồng đỏ khi làm lễ đều cấm.

Lại nói, từ đó về sau có nhiều linh ứng, nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự. Thời Trần Thái Tông giặc Nguyên đến xâm phạm, kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh cầu đảo bách thần ở các đền. Qua một đêm Đại vương đã có hiển ứng, âm phù. Đến khi dẹp được giặc Mã Nhi, Thái Tông bèn bao phong mỹ tự là Linh ứng Anh triết Hiển hữu.

Đến khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, rồi có được thiên hạ, Thái Tổ bèn phong thêm là Phổ tế Anh linh. Sắc chỉ ban cho trang Ninh Sơn tu sửa đền miếu để thờ phing. Tốt thay! Lành thay!

Vâng khai sinh hóa các lễ và các húy tự nhất thiết cấm là Phụng, Thanh, Trọng. Đồng ý cho trang Ninh Sơn phụng thờ.

Ngày sinh thần là mùng 9 tháng Giêng. Lễ chính dùng trên là cỗ chay, dưới là cỗ trâu, xôi, rượu, bánh dày, ca hát, đấu vật các trò, ba ngày thì ngừng.

Ngày hóa là mùng 10 tháng 8. Lễ chính dùng trên là cỗ chay, dưới là trâu đen, xôi, rượu, bánh dày.

Niên hiệu Thành Thái năm thứ 10 tháng 3 nhuận ngày 19 xã Ninh Sơn vâng sao chính bản từ chính thể có niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất của Hàn lâm bộ Lễ Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính đã vâng soạn, niên hiệu Vĩnh Hữu thứ 6 Quản giám Bách linh Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền chính bản cũ.

Xã Ninh Sơn vâng sao chính bản sự tích.

Lý trưởng Nguyễn Huy.

Ngọc phả ghi chép Tiền Lý Nam Đế và Linh Nhân Hoàng Thái Hậu

Thần tích xã Hữu Lộc, tổng Cự Lâm, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình, dịch từ bản chép tay năm Tự Đức thứ 13 hiện lưu lại miếu Hữu Lộc, có đối chiếu với bản thần tích số hiệu AE.a5/61 của Viện nghiên cứu Hán Nôm.

Chi Càn, bộ Thượng đẳng. Bản chính bộ Lễ quốc triều.

Xưa đất Việt ta, họ Hùng mở mang cơ nghiệp, các bậc thánh tổ dựng cơ đồ, truyền nối 18 đời, thịnh trị được hơn 2000 năm. Cha truyền con nối đều xưng là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một mối. Đó là tổ của Bách Việt vậy. Truyền đến Tuyền Vương không có người nối dõi, bèn nhường nước cho Thục An Dương Vương. Dương Vương giữ nước được 50 năm thì đến Triệu Đà lấy nước, từ đó nội thuộc nhà Hán. 

Trải qua các triều đại Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, đến khi nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm Thái thú đất Việt ta. Tư vốn là người tham tàn bạo ngược, thi hành chính sách hà khắc. Đất Việt ta ai ai cũng chịu cảnh lầm than, không chốn cậy nhờ. Nhưng may thay lòng người u uất, ý trời tất sẽ dẹp yên! 

Bấy giờ có người ở Long Hưng, Thái Bình họ Lý tên Bí, tổ tiên vốn là người phương Bắc. Cuối thời Tây Hán phải khổ sở việc chinh chiến, phu dịch mới lánh sang đất Nam sinh sống,  trở thành người Nam, đến đời ông cũng được 7 đời (Xét tích xưa, cha của ông là Lý Công Chước, mẹ là Trương Thị Hằng. Mẹ ông mộng thấy cưỡi rồng bay lên trời ôm được Thái dương Tinh quân mà hạ xuống thì bỗng nhiên tỉnh giấc, biết là gặp giấc mộng Bồng Từ mà thôi. Thế rồi bà có mang, mà đến khi sinh ông vào ngày 12 tháng 7 giữa mùa thu năm Nhâm Thân. Đương lúc sinh ra, hào quang đầy phòng, khí lành bao phủ xung quanh. Khi ấy mọi người đều hô rằng: Hương thơm là từ hài nhi đó). Ông bẩm sinh minh mẫn chẳng học mà cũng biết. Trên tỏ thiên văn, dưới tường địa lý, tất cả đều tinh thông. Năm ông vừa 16 tuổi, cha mẹ đều lần lượt qua đời. 

Năm 19 tuổi, ông ra làm quan nhà Lương làm chức Thái bộc xạ. Đến khi nhà Lương gặp loạn, ông trở về Thái Bình chiêu hiền nạp sĩ, dấy đại quân khởi nghĩa. Ông xem xét thấy nơi nào đất Việt ta có đất đai trù phú, dân cư trọng yếu vững chắc, ông đều lập đồn doanh để làm nơi phòng ngự. Một hôm ông dẫn quân đi qua khu An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam. Ông thấy địa thế nước chạy uốn quanh co như rồng uốn khúc, bên cạnh có một dòng sông nhỏ chảy vòng quanh, sơn thủy hữu tình. Vả lại nơi đây nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu. Đúng là nơi đất để lập đồn doanh. Ông cao hứng ngâm một bài thơ:

Thành thị lâu đài xinh tựa ngọc

Núi sông, hoa cỏ ngát màu xanh

Thừa khí đúc thành, tuy mạch nhỏ

Nơi đây thực chốn dựng cung thành.

Hôm ấy ông lập tức sai quân lính cùng nhân dân xây dựng một đồn doanh ở phía bờ ngạn sông nhỏ bên cạnh khu dân cư, tọa Quý hướng Đinh, phân kim kiêm hướng Bính Tý, Bính Ngọ. Mọi việc hoàn tất, từ đó ông Đông chinh Tây chiến, thường thường qua lại đóng quân ở nơi này.

Lại nói, bấy giờ ở khu Tây Để có người con gái nhà họ Đỗ tên là Khương Nương (Xét tích xưa, cha của Khương Nương là Đỗ Công Cẩn, mẹ là Bùi Thị Hoan, vốn là người khu Tây Để, gia thế lấy nghề y sinh sống. Ông Đỗ đã ngoài 50 tuổi mà chưa có con. Vợ chồng ông đi lễ cầu đảo đến chùa núi Phật Tích, mộng thấy có một người trao cho một chiếc gương vuông, đến khi trở về thấy cảm động trong người mà có thai. Đến kỳ sinh nở vào ngày mùng 10 tháng 11 mùa Đông năm Đinh Sửu, bà sinh hạ được một người con gái, má phấn môi hồng, mắt phượng mày ngài. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết đặt tên cho con là Khương Nương). 

Năm 16 tuổi tròn, Khương Nương nhan sắc tuyệt trần, cho dù tiên nữ chốn Bồng Doanh hay người đẹp nơi Lãng Uyển cũng chẳng thể vượt qua. Vả lại ngay từ nhỏ nàng đã theo học tinh thông kinh sử. Người đương thời gọi là bậc nữ trung mà còn hơn cả nam giới. Tuy nhiên chốn thiềm cung còn đóng, lá ngọc đương phong, mối lương duyên chưa hẹn cùng ai. 

Bấy giờ Lý công nghe biết nàng tài sắc vẹn toàn bèn nói với Đỗ Công xin được đính ước kết duyên trăm năm cùng với Khương Nương. Đỗ Công mừng lắm liền đồng ý. Thế rồi chọn ngày ngày lành tháng tốt định lễ sánh đôi duyên hòa hợp cùng nhau. Từ đấy ông lập làm Đệ nhất cung phi, cho nàng ở lại khu Tây Để để phụng sự cha mẹ nàng. 

Xong việc, mổ trâu bò khao thưởng quân sĩ. Ông chọn đinh phu trai tráng trong khu Tây Để được 36 người để làm người hầu cận thân tín. Hôm ấy liền đem quân thẳng tiến, trên thuyền thì chiêng trống sấm vang lừng ngàn dặm, trên đường tinh kỳ hai bên như ảnh bóng long xà lay động, tiến thẳng đến thành Tiêu Tư đánh lớn một trận, Tiêu Tư đại bại, bỏ thành tháo chạy. Lý công chiếm giữ được thành ấy nhưng chưa được bao lâu quân Lâm Ấp lại vào cướp bóc. Ông lại sai Đại tướng Phong Tu đại phá quân Lâm Ấp. 

Thiên hạ thái bình, giặc cướp được dẹp yên. Ông lên ngôi Hoàng đế, tự lập là Tiền Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt quốc đô là thành Long Biên. Năm ấy, cũng sách phong cho Khương Nương làm Hoàng hậu, lấy khu Tây Để làm nơi nghỉ ngơi cho Hoàng hậu. Dân được ban cho miễn tô thuế, binh phu. Từ đấy trang thôn Tây Để đều được nhận phúc lành, tất thảy đều được vinh hiển giàu có vậy.

Lại nói, từ khi Khương Nương vào triều đã được 4 năm. Một hôm Đỗ công bỗng bị bệnh cảm ngoài rồi Đỗ công mất. Vua cho Hoàng hậu và một viên Đại tướng đưa Hoàng hậu về khu Tây Để làm lễ an táng. Từ khi Đỗ công mất, phu nhân của ông vì đau buồn trước cái chết của chồng mà lâm bệnh nặng, thuốc thang chữa trị mà chẳng thuyên giảm, cầu thần cũng chẳng công hiệu. Phu nhân cũng qua đời, Hoàng hậu bèn làm lễ mai táng, viết biểu tấu với vua xin cho phép ở lại quê nhà chịu tang cha mẹ. Vua chấp thuận và ban cho vô số vàng bạc, lụa là gấm vóc. Từ đấy, Hoàng hậu ở khu Tây Để chuộng làm việc nhân nghĩa, phát chẩn cứu bần. Phàm trong nhân dân từ người già yếu cho đến người cô quả Hoàng hậu đều đem của cải trong nhà ra cứu giúp. Tất thảy nhân dân đều ca ngợi ân đức, đội ơn như trời biển, thân yêu như cha mẹ vậy.

Lại nói, bấy giờ Lý Nam đế ở ngôi đã được 7 năm. Nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên đem quân xâm chiếm nước Nam để rửa mối nhục. Khi đó vua đóng quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tiến lại gần, đã hơn năm mà chưa phân thắng bại. Bấy giờ vào tháng 6 mùa hè, nước sông dâng lên đổ vào đầy hồ. Bá Tiên thừa cơ chỉnh đốn thuyền bè theo dòng nước mà thẳng tiến vào hồ Triệt. Quân của vua bị thua. Vua bèn trao quyền lại cho Đại tướng Triệu Quang Phục, còn mình lui vào giữ động Khuất Liễu rồi qua đời (bấy giờ là ngày 15 tháng 7). Khi đó trời đất bỗng nhiên tối tăm. Qua 3 ngày thì trời quang mây tạnh. Tại nơi này đã thấy mối đắp thành gò lớn. 

Lúc này Khương Nương Hoàng hậu đang ở khu Tây Để, khóc lóc ầm trời, không ai ngăn nổi, lập tức truyền cho nhân dân xây dựng một đền ở bên bờ sông nơi cung doanh theo phương hướng cũ, viết thần vị của vua là: Tiền Lý Nam Đế Hoàng đế, để phụng thờ.

Công việc xong xuôi Khương Nương bèn ban cho nhân dân 10 hốt vàng để nhân dân mua nhiều ao ruộng làm vốn công. Lúc đó Khương Nương bảo với nhân dân rằng: 

  • Ta với nhân dân đã thành tình nghĩa lâu rồi, chẳng phải một ngày mà nên há lại quên sao? Ví như ta về sau trăm tuổi thì nhân dân viết tên thần vị của ta để phụng thờ với Tiên đế, cùng được phối hưởng. Nhân dân nên tuân theo lệnh của ta không được thay đổi. 

Lúc đó nhân dân đều lạy tạ nhận lệnh. Việc xong Khương Nương và 6 người hầu gái cùng vào động Khuất Liễu thăm viếng lăng mộ của Tiên đế. Trên đường đi mới vào đến trong động, bỗng nhiên thấy trời đất mờ mịt, sấm chớp ầm vang. Trong một khoảnh khắc mây đen tan biến thì Khương Nương đã không còn thấy đâu nữa rồi. Chỉ thấy bên cạnh lăng mộ của Tiên đế lại nổi lên một gò đất (bấy giờ là ngày 16 tháng 2). 

Lúc đó mấy người thị nữ theo Nương đến đấy nhìn thấy sự tình như vậy tất cả đều kinh hãi. Khi trở về nói với nhân dân thì nhân dân đều nói ngày 16 tháng đó, nhân dân đều nhìn thấy có một vầng sáng lớn giống như dải lụa từ phương Nam bay ngang thẳng đến trước miếu rồi biến mất. Đến lúc này, khi nghe tin Hoàng hậu đã hóa thì nhân dân đều lấy làm kinh sợ. Hôm đó nhân dân làm lễ viết tên thần: Khương Nương Hoàng hậu, để phụng thờ cùng một nơi với Lý Nam Đế. 

Lại nói, từ khi Lý Nam Đế đã băng hà, Quang Phục đem quân về giữ đầm Dạ Trạch, lập đàn cầu đảo trời đất. Sau 3 ngày thấy một ông lão cưỡi rồng vàng từ trên trời bay thẳng xuống, tuốt móng rồng trao cho Quang Phục. Quang Phục đem làm lẫy nỏ, gọi là Nỏ thần móng rồng. Phàm có những khi nhanh hay chậm, mọi lúc đem hướng vào thì đều không có ai chống lại được. Vì thế mà bình định được giặc Lương. Quang Phục tự lập làm Triệu Việt Vương. 

Bấy giờ có con của anh trai Tiền Lý Nam Đế (tức là con của Đào Lang Vương) tên là Lý Phật Tử cùng con trai là Nhã Lang khởi binh ý đồ muốn khôi phục nhà Lý. Nhưng vì Triệu Việt Vương có nỏ thần móng rồng, nên khi giao chiến quân của Lý Phật Tử đều thua cả. Một ngày Phật Tử cùng với các tướng sĩ bàn âm mưu cầu hôn con gái của Triệu Việt Vương là Bạo Nương, xin cho Nhã Lang kết duyên vợ chồng. Việt Vương đồng ý, quần thần đều can ngăn nhưng vua không nghe. Thế là Lý Phật Tử sai con trai Nhã Lang nhập vào hàng quân để làm con tin. Từ đấy, Triệu Việt Vương rất tin yêu Nhã Lang. Trải qua thời gian 1 năm, một ngày Nhã Lang cùng Bạo Nương ngồi uống trà. Nhân đó Lang mới hỏi Cảo Nương rằng: 

  • Xưa kia 2 nước cùng là kẻ thù giao chiến không ngừng. Nay đã nên duyên Tần – Tấn thì việc chiến tranh cũng có thể đã dứt rồi. Nhưng xưa kia Hoàng phụ có thuật lạ gì mà khiến cho phụ thân ta nhiều lần thua bại? 

Bạo Nương chẳng để ý đem nỏ thần móng rồng cho Nhã Lang xem. Nhã Lang trộm nhìn biết được như vậy. Một ngày khác hoán đổi lẫy nỏ, lấy trộm móng rồng cất giấu một nơi. Xong việc Nhã Lang xin vua cho về thăm cha. Vua cho về. Nhã Lang vội vàng phi ngựa chạy về đem tâu với cha mình. Lý Phật Tử biết vậy đem quân tới đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương đã mất nỏ thần, đành bỏ thành mà chạy thẳng đến của biển Đại Áp mà mất. Tàn quân còn lại đều được dẹp yên. 

Phật Tử lên ngôi tự lập làm Hậu Lý Nam Đế. Ông bèn luận công ban thưởng các cấp bậc. Thế rồi tặng phong sắc chỉ, mỹ tự cho bách thần. Bèn tôn phong cho Tiền Lý Nam đế sắc chỉ là Thượng đẳng Tôn thần, lại tôn phong cho Khương Nương làm Linh Nhân Hoàng Thái hậu. Truyền cho các địa phương sở tại, trang khu có đồn doanh được thiết lập của Lý Nam Đế trước đây, nhanh chóng trở về kinh thành nghênh đón sắc phong mang về nhân dân để phụng thờ. Bấy giờ khu Tây Để nghe được chiếu chỉ, các bậc phụ lão tới kinh thành làm lễ rước sắc về, nhân dân sửa sang miếu điện để phụng thờ. Từ đấy về sau, nhân dân, đất nước cầu đảo đều có nhiều linh ứng.

Khi nước Nam trải qua các triều đại có Đinh, Lê, Lý, Trần 4 nhà khai sáng nghiệp lớn, đều thường giúp nước cứu dân. Đến cuối nhà Trần, họ Hồ tranh ngôi, giặc Minh làm loạn. Bấy giờ có người ở động Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu, họ Lê tên Lợi khởi nghĩa Lam Sơn với ba ngàn quân mạnh đã tiễu trừ được họ Hồ và dẹp yên giặc Minh. Liền lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn, đó là Lê Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên.

Truyền ngôi đến Chiêu Tông thì quyền thần họ Mạc chiếm ngôi. Bấy giờ có Đại thần là Nguyễn Thái úy dẫn quân đánh dẹp. Một ngày quan Thái úy dẫn quân qua nơi miếu khu Tây Để làm lễ cầu đảo, cầu âm phù đánh giặc giúp nước dẹp giặc, nếu sau này đất nước được thanh bình sẽ cùng nhau được hưởng phúc lành. Làm lễ xong đem quân tiễu trừ giặc Mạc. Đến khi thiên hạ thái bình Thái úy cùng Chiêu Tông trở về chính cung, lên ngôi Hoàng đế. Thế rồi ban thưởng công lao ba quân, gia phong tướng sĩ các cấp theo thứ bậc, cho đến việc truy phong bách thần giúp nước. Quan Thái úy dâng biểu tâu ngày trước đã cầu đảo ở nơi miếu khu Tây Để. Vua nghe biết bèn gia phong sắc chỉ, lệnh cho quan Thái úy rước sắc về khu Tây Để làm lễ tế tự. Thái úy phụng mệnh nghênh sắc về khu Tây Để, cho mổ trâu, làm lễ tế tự. Việc xong, truyền cho nhân dân sửa sang cung đền để giữ hương khói ngàn năm, cùng hưởng phúc lành với đất nước kéo dài mãi mãi là lệ thức vậy. Tốt thay!

Tôn phong Tiền Lý Nam đế Hoàng đế Thượng đẳng Tôn thần.

Phong cho Linh Nhân Hoàng Thái hậu triều Lý.

Ban cho khu Tây Để, trang An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam phụng thờ.

Theo các tiết Khánh hạ, ngày hóa, ngày sinh và tên húy tên tự: hai chữ Bí, Khương cùng tên Thánh phụ, Thánh mẫu xem trong tích trên, tất thảy đều phải tránh âm. Đền chính ở động Khuất Liễu.

– Ngày 12 tháng 7, ngày sinh của Hoàng đế. Lễ dùng trâu bò, ca hát.

– Ngày 15 tháng 7, ngày hóa của Hoàng đế. Lễ dùng lợn đen, xôi, rượu.

– Ngày mùng 10 tháng 11, ngày sinh của Hoàng hậu. Lễ dùng tế trên mâm chay oản, quả, mâm dưới dùng lợn đen, xôi, rượu.

– Ngày 16 tháng 2, ngày hóa của Hoàng hậu. Lễ dùng y như lệ trước trong ngày sinh của thần.

– Ngày Khánh hạ mùng 2 tháng Giêng, ngày mùng 2 tháng 12. Làm lễ tùy theo.

Phàm trong thiên hạ các trang, khu phụng thờ Lý Nam Đế tổng cộng có 87 nơi, mà khu Tây Để là thứ 28 trong đó.

Ngày tốt tháng đầu thu năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng mệnh soạn.

Ngày tốt tháng giữa mùa hè năm Hoàng triều Vĩnh Hựu thứ 4 (1738), Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền lại tuân theo bản chính triều cũ phụng mệnh sao chép.

Hoàng triều Tự Đức năm thứ 13 (1860) ngày tốt tháng cuối mùa ?, dân gốc của xã lại tuân theo đúng như bản chính mà vâng chép.

Thần tích làng Cổ Trai, tổng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình

Triều Tiền Lý đánh giặc Lương Lý Nam Hoàng Đế cùng Hậu Lý Linh Lang Đại vương

Quan Thượng thư Bộ Lễ thiên triều vâng soạn 

Ghi chép ngọc phả cổ. Chi Càn.
Nước Nam Việt xưa Sơn Nguyên Thánh Tổ trời Nam nhận cơ đồ, cổ gọi là Việt Thường Thị, Kinh Dương Vương thừa mệnh vua cha đến trị trậm Nam Bang, đất thắng châu Lạc xây dựng kinh đô, hình mạnh Nghĩa Lĩnh trùng tu cung cư miếu điện. Đời đời cha truyền con nối hơn hai ngàn năm đều lấy Hùng Vương làm tôn hiệu.
Lại nói, thời trị 18 triều Hùng truyền đến Duệ Vương. Vương thọ 160 năm, không có người kế hậu, bèn nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. Vương có nước được 50 năm, thì có người Chân Nam Định họ Triệu tên Đà cất quân đến đánh, nên nhà Thục mất. Triệu Đà đươc nước, cha truyền con theo đều xưng gọi là bậc chủ anh hùng.
Từ đó đất Việt ta thuộc về nhà Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, tổng cộng 349 năm. Thời vua Lương lấy Tiêu Tư làm thái thú đất Việt. Tiêu Tư là người nặng hình pháp, chính trị ngược ngạo, hại dân. Nhân dân đất Việt thật là chưa có lúc nào khổ như lúc này.
Lại nói, thời ấy tương truyền rằng có người động Thái Bình quận Long Biên họ Lý tên Tấn. Ông là người xử thế văn thơ, khoan hòa hiếu đễ, kế đời theo nghiệp văn thơ, công đức rộng, tài kiêm văn võ, anh hùng vô địch. Ông lấy bà Đào Thị Lan làm vợ, mộng thấy có rồng vàng đến quấn quanh thân mà có mang. Mang thai được 12 tháng 15 ngày đến năm Kỷ Sửu ngày 12 tháng Giêng giờ Thân bỗng thấy mây lành rạng rỡ, khí lành bay khắp nơi, hương thơm ngào ngạt. Thái bà họ Đào sinh được một người con trai, vẻ rồng mắt phượng, 5 gò chầu về, tay dài quá gối, sau lưng có 28 vì tinh tú. Trên bụng có lời viết rằng: Lý Bí Lý Nam Hoàng Đế.
Đến khi lên 5 tuổi đã hiểu âm luật, nên bèn đặt tên là ông Lý Bí. Đến 7 tuổi người cha bèn cho vào học với Trần Giản tiên sinh. Học được 18 năm thì quán triệt văn chương, trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Có thể sánh cùng cung tường Khổng Mạnh, thao lược bốn khóa ba truyện không nhường Tôn Ngô.
Khi ông 16 tuổi thì thân dài 8 thước, sức chống vạn người, cao lớn đường đường, thần oai võ lược. Bỗng nhiên nổi chí tang bồng, tỏ tâm với việc cung tên. Ông Bí bèn triệu tập nghĩa binh. Anh hùng bốn biển đều lên tiếng. Ông Bí có kinh luân hơn người, anh tài đức độ, tự có khí tượng của bậc đế vương.
Khi ấy, những người tài cao, chí lớn ở bốn biển nghe tiếng đều tự đến xin làm con cháu nước nhà. Ông có được hơn ba vạn người. Ông Bí bèn truyền cho 300 danh tướng làm cỗ thái lao, lập đàn cầu đảo trời đất bách thần. Ông bèn khấn rằng:
–    Thần là người Nam sao có thể điềm nhiên khi nay có người nước lạ xưng là tướng Lương, tên là Tiêu Tư, tàn ác nhân đân, giết hại vật. Sinh dân than oán cảnh chính trị bạo ngược, bất nhân. Nay thần cùng với quân binh dẹp giặc. Nguyện xin được đại đức của trời đất âm phù cho vậy.
Khấn xong ông bèn xưng là Tiền Lý Nam Đế, cất quân mạnh hơn ba vạn người. Vua bèn truyền các danh tướng nổi danh cương mạnh đi xem địa thế hình cương Nam Bang, tìm đất tốt để thiết lập hành cung, đồn sở. Một hôm vua dẫn quân đến khu Cổ Trai, trang Vĩnh Duyên, tổng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, phủ Tân Hưng, thấy vùng đất có đầu mạch từ trong làng chạy ra, hình đất có thế cục quý, rồng chạy uốn lượn, nước chảy quanh co. Trái phải có rồng hổ chầu về, phong tinh dẫn mạch, nhất nhất quay đầu. Vua bèn truyền binh sĩ và nhân dân thiết lập một nơi hành cung để ở, dựa Quý hướng Đinh. Việc xong vua bèn đem quân mạnh 5 vạn chia thành thủy bộ, cùng tiến đến đất Vạn Xuân, đánh trận lớn. Tổng cộng 12 trận. Quân Lương thua to, bỏ chạy. Vua đuổi theo chém được không kể xiết, đều rơi xuống sông Nhĩ. Nhánh sông nước không chảy được. Còn lại dư đảng đều bắt sống hết, không còn một tên. Vua bèn tự lập là Tiền Lý Nam Đế Hoàng đế.
Từ đó quốc gia vô sự, thiên hạ thanh bình, trong triều không có việc lớn, vạn dân được no đủ, mừng vui. Bốn biển thấy cảnh tượng thái hòa. Khi ấy, vua loan giá đi chơi phong cảnh trời Nam, không nơi nào không đến. Lúc thì đàn reo sáo múa, thi thư đối xướng với đất trời. Nhạc phượng ca loan, âm sắc như chốn Bồng Lai. Cỏ ba lá dẫn lối, bầu ngọc gió trăng, thuyền câu là dấu tiên, soi hình cảnh hội khói sương, xa mây vạn hình là bước chân. Nam là thánh, Bắc là thần, ra vào phong cảnh trời Nam, trở về nửa túi càn khôn.
Một hôm (tức ngày 12 tháng 2 mùa Xuân năm Bính Thìn) vua trở về hành cung nơi cũ (tức là trang Vĩnh Duyên, đất qua phía Bắc sông). Vua ngồi ở hành cung. Bỗng thấy trời đất u ám, giữa ngày mà như đêm. Từ trong thân vua thấy rồng vàng xuất hiện, bay thẳng lên trời. Vua không bệnh mà mất. Nhân dân viết tên húy mỹ tự phụng thờ, muôn năm hương lửa vạn đời không ngừng.

Thánh từ ngọc phả đền Bắc (Văn Lãng, Trực Tuấn, Trực Ninh, Nam Định)

Ngọc phả Hoàng đế Triệu Việt Vương (phụ Hùng triều Quý Minh Đại vương)

Thuộc chi Càn, bộ thứ nhất, Thượng đẳng thần

Bản chính của bộ Lễ quốc triều

Xưa nước Việt bang Nam ta kể từ Thánh Tổ Đại bảo Tiền Hoàng đế triều Hùng khởi tạo cơ đồ to lớn, trải xem chỗ tiện lợi của thế sông núi mà xây dựng thành đô ở thắng địa Phong Châu, trùng tu đền miếu nơi đất cường Nghĩa Lĩnh. Đời đời cha truyền con nối đều xưng là Hùng. Ngọc lụa xe sách, núi sông một dải thống nhất. Đó là tổ của Nam Việt vậy.

Trải qua 18 đời truyền tới vua Duệ Vương. Vua là người có hùng tài đại lược, tư chất thánh triết. Nối tổ tông gây dựng 17 đời cơ đồ  thịnh trị. Trong sửa sang văn đức, ngoài phòng bị biên cương, dốc chí hưng bình để yên ổn đất nước. Chăm lo lấy đức dậy dân. Trên đời ai cũng khen là bậc hiền quân vậy.

Thời ấy nước ta có một gia đình ở đạo Sơn Tây, phủ Gia Ninh, huyện Gia Hưng, động Lăng Sương, họ Nguyễn tên Khiết, vợ là Cao Thị Đức. Gia thế vốn hùng mạnh có tiếng, nhưng tuổi đã ngoài 50 mà vẫn chưa từng có con. Vợ chồng lấy làm phiền muộn không vui.

Nhân gặp tiết trời xuân hòa khí, nơi nơi hoa nở đầy vườn. Người người đua nhau thưởng ngoạn. Ông bèn cùng anh ruột là Cao Hành (ông Hành tuổi cũng cao mà chưa có con). Hai ông dẫn gia nhân 10 người mang theo một bình rượu, một cây đàn cùng đi chơi lên núi Tản. Lên đến sườn núi gặp một ông lão mày râu bạc trắng, đầu đội mũ bách tinh, tay cầm gậy trúc, theo sau vài người hầu mang theo một bình rượu cùng một chiếc la bàn, vừa đi vừa ngâm thơ. Hai ông thấy cho là Tiên ông trên Bồng Lai hoặc là thần linh ở núi Tản hiện lên. Hai ông vội vàng đến trước mặt quỳ lạy và thưa rằng:

  • Nhà chúng thần đức bạc, anh em đều đã cao tuổi mà nối dõi tông đường còn muộn. May mà gặp được Tiên ông ở đây, giám xin mở rộng lòng thương, làm phước cho lũ thần thỏa lòng mong mỏi. Thực là ơn Tiên ông vạn lần vậy.

Ông lão nghe xong cười nói rằng:

  • Ta vốn chẳng phải Tiên, cũng chẳng phải Thánh. Vốn là nhân lúc rảnh rỗi dạo gót chốn đời. Nay các ngươi gặp ta cũng là có phúc, không phải thường tình. Ta đã xem thấy ở sườn núi kia có ngôi đất lành bên trái, bên phải có rồng chầu nước tụ, huyệt ở hướng Nhâm Bính, có thể phát rất nhanh. Nếu táng mộ vào đấy chẳng quá vài năm sẽ sinh ba người con quý. Ta sẽ cho các ngươi hưởng phúc này. Vậy kíp về thu thập hài cốt tiên nhân, ngày mai vào giờ Dần mang đến đây, ta sẽ táng cho.

Hai ông mừng lắm, lạy tạ rồi trở về nhà, vội rước hài cốt thân mẫu cùng lễ vật, rạng ngày hôm sau mang lên sườn núi, đã thấy ông lão ngồi ở chỗ đó từ lâu. Hai ông làm lễ bái yết. Ông lão chiếu la bàn, điểm huyệt ngay chỗ đã gặp ông hôm qua. Táng xong, hai ông định gặp để lễ tạ thì không thấy ông lão đâu nữa.

Từ đó hai ông trở lại quê nhà. Chẳng bao lâu ông Hành sinh được một người con trai là Sơn Thánh. Ông Khiết cũng sinh được hai người con trai (vào ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Dần), thể diện khác thường, hình dung dĩnh ngộ. Ông Khiết mừng lắm, bèn đặt tên người con trưởng là Sùng Công, người con thứ là Hiển Công.

Đến khi trưởng thành năm 12 tuổi thì hai cha mẹ đều mất cả. Lúc ấy hai ông cùng với ông Tùng đều nhờ vào vị thần nữ Cao Sơn họ Ma làm con nuôi. Đến khi bà họ Ma mất, giao phó địa phần núi non ruộng đất cho ba ông. Ông Tùng phân định từ núi Nộn sang bên trái giao cho ông Sùng, phong làm Tả kiên thần. Từ núi Nhạc về bên phải giao cho ông Hiển, phong làm Hữu kiên thần (Xét ông Tùng với ông Sùng và ông Hiển là anh em chú bác, có dáng như trong 50 người con cùng một bọc theo mẹ lên núi mà lại thác sinh vào thời này. Ông Tùng nhờ vào bà họ Ma làm con nuôi, sau được Thái Bạch Tinh Quân cho gậy thần, Long Đình Đế cho sách ước. Từ đó đã đưa lại phúc đức cho thế gian, đền đáp được ơn sâu của mẹ nuôi. Bà họ Ma cho con là chí hiếu, nên đã lập chúc thư, giao cả núi sông đồng ruộng cho ông Tùng. Đến khi bà họ Ma mất, ông Tùng giao cho hai em. Từ đó uy danh vang dội. Người đương thời tôn ông là Tản Viên Sơn Thánh vậy). Từ đó uy danh cả ba ông lừng lẫy sang cả Bắc quốc.

Lại nói, lúc đó  vua Duệ Vương sinh được hai mươi ngươi con trai, các hoàng tử đều xa chơi nơi Bồng Đảo. Chỉ còn hai công chúa, người lớn là Công chúa Tiên Dung đã kết duyên với Chử Đồng Tử. Công chúa thứ hai là Mỵ Nương, vườn xuân khóa kín, nhụy ngọc chưa mở, túc khế lương duyên còn chưa định đoạt.

Vua bèn dựng lầu bên bờ sông Bạch Hạc, đất Việt Trì đề ba chữ “Lầu kén rể”, ban chiếu truyền cho thần dân thiên hạ, ai là người thông minh tài trí, đức độ anh hùng, Trẫm có thể nhường ngôi báu thì sẽ hứa gả công chúa Mỵ Nương cho.

Ngày ấy dưới sông thuyền bè đua bơi, trước lầu ngựa xe rầm rập. Ngọn bút mưa thành rồng bay rắn lượn. Sao trên trời chừng như rơi xuống mặt sông. Trận võ khép vòng vây mà hổ báo kinh hồn. Chớp giật sấm ran lừng góc biển. Một phen tụ tập cả nước anh hùng bốn bể. Song đều là những tay bậc thường thường, không phải toàn tài, không đáng xứng tên. Thơ đào yêu còn chưa có được tiếng đàn ngân lên thích hợp. Người thời ấy có bài thơ vịnh rằng:

Một trường cả nước đều rung động

Bốn bể anh hùng mở mắt trông

Chưa biết vườn xuân ai mở khóa

Chờ xem ai đó đấng anh hùng.

Ba ngày sau, Sơn Thánh nghe tin ấy, bèn cùng với hai em vào cung ứng tuyển. Vua Duệ Vương thấy Sơn Thánh có nhiều tài lạ chước giỏi, bèn gả công cháu Mỵ Nương cho Sơn Thánh.

Sơn Thánh rước Công chúa về sơn động yên vui. Để hai em (tức là ông Sùng và ông Hiển) ở lại giúp vua. Vua thấy hai em Sơn Thánh tướng mạo đường đường, lại có tài năng, bèn phong cho ông Sùng chức Tả đô đài Đại phu, ông Hiển chức Hữu đô đài Đại phu. Ban cho phụ chính trong triều. Hai ông bái tạ nhận mệnh, nhận chức ở triều. Qua được vài năm, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự, dân chúng no đủ, bốn bề yên lặng. Hai ông dâng biểu xin đi chu du thiên hạ, trải xem sông núi. Vua đồng ý.

Hai ông bái tạ, xa giá đi dạo dãy núi Hoành Sơn, sông ngòi ngoạn thưởng điều thú vị của ngư ông. Có lúc tản bộ vào sườn núi, hứng gió mát ở nơi khoáng dã. Có lúc đi thăm bến nước, đón trăng trong ở giữa dòng sông. Một hôm hai ông đi đến đạo Sơn Nam, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Xối Đông. Hai ông thấy thế đất hữu tình, bèn lập hành cung ở đó. Xong việc, lại cử giá đi chu du.

Khi ấy ông Hiển đi qua xã Quần Lãng, kết hôn với con gái họ Trần. Rồi cùng họ nhà vợ và gia thần lập riêng một trại gọi là trại Nam Lãng. Việc xong rồi, ông trở về xã Quần Lãng. Hôm đó phụ lão thấy ông đi qua bèn làm lễ bái tạ.

Lúc đó ông thấy đất Quần Lãng có sông núi diễu quanh, rồng hổ bao bọc, cả một dải đất như hình rồng uốn lượn, phong cảnh khôi kỳ. Ông mới truyền cho gia thần và nhân dân thiết lập một tòa du cung để làm nơi thưởng ngoạn ở đó. Nhân dân vâng mệnh, thiết lập xong (Thời ấy ông đi đến nơi nào thấy có thắng cảnh đều thiết lập hành cung. Về sau khi ông hóa nhân dân phụng thờ, cộng được 372 nơi, có sự tích riêng), ông ở lại đất Sơn Nam qua được thời gian 1 năm.

Lúc đó Thục chúa xa nghe Duệ Vương đã thượng thọ mà không có con nối dõi, bèn dẫn trăm vạn hùng binh, tám ngàn ngựa khỏe, năm trăm thuyền chiến, chia thành 5 đường đồng loạt đến xâm chiếm để cướp lấy nước. Một đạo theo đường Thập Châu, Hoàng Tùng tiến vào. Một đạo theo đường châu Tụ Long, châu Bảo Lạc tiến vào. Một đạo theo đường châu Quỳnh Nhai, Tuyên Quang tiến vào. Một đạo theo đường Ái Châu, Sơn Nam tiến lên. Một đạo quân thủy từ cửa biển Hội Thống ở Hoan Châu mà tiến. Dựng cờ lớn ở Mộc Châu.

Thư ở biên giới cấp báo về triều, một ngày tới 5 lần. Vua Duệ Vương nghe tình hình nguy cấp, bèn triệu con rể là Sơn Thánh cùng các tướng lại bàn kế chống giặc (Ngày ấy ông Hiển đang ở đất Sơn Nam, vâng chiếu triệu về kinh nghị luận mưu kế). Sơn Thánh tâu rằng:

  • Thần xin thay nhọc Thánh thượng, tự chọn tướng tài. Quân Thục chẳng qua một ngày bình được.

Vua nghe xong phong cho Sơn Thánh chức Ngũ đạo Đại tướng quân, lĩnh ấn Nguyên soái, kiêm Trưởng thủy bộ tam quân, cho được tùy tài tổ chức. Khi đó ông Hiển cố sức xin được lĩnh trách nhiệm ở mặt Ái Châu và Sơn Nam. Sơn Thánh đồng ý, phong làm Hữu tướng quân.

Cũng ngày ấy Sơn Thánh cùng các tướng bái tạ nhận lệnh, đều cất quân chia đường mà tiến. Khi ấy ông Hiển tiến binh qua đất Quần Lãng, chọn lấy người khỏe mạnh được 16 người để làm gia thần thủ hạ. Xong rồi ông mang đại quân đánh  một trận được toàn thắng. Trong khi đó còn các nơi khác Sơn Thánh cùng các tướng hiệp lực đại chiến một trận. Quân Thục thua to, tan vỡ. Vua Thục chạy về nước. Dư đảng đều dẹp được.

Ông Hiển lập tức khải hoàn bái tạ bệ kiến. Ngày đó vua luận công lao để phong thưởng, phong cho ông Hiển làm Đại bảo Minh quốc công, thực ấp vạn hộ. Ông cố từ, không nhận, làm biểu tấu lên triều đình, xin đi khắp nơi để xem sông núi là đủ vinh dự nhất vậy.

Vua biết ông Hiển đối với nước có công lớn, nên phong làm Quý Minh Đại vương, sắc phong sinh thần, được đi chu du thiên hạ, chọn lập sinh từ ở các xứ, để làm nơi vạn năm hưởng hương hỏa phụng thờ. Ông làm lễ bái tạ, rồi loan giá đi chơi khắp thiên hạ. Phàm là những cung doanh khi trước dựng ở nơi nào thì ông đều lập sinh từ ở đó.

Một hôm ông đi về xã Quần Lãng. Ông mở cuộc vui chung, triệu tập phụ lão nhân dân đến mời uống rượu. Ông bèn bảo rằng:

  • Ta vẫn có một hành cung ở địa giới đất này. Thảng hoặc sau này ta trăm tuổi, dân chúng hãy sửa sang cung sở, viết thần hiệu của ta là Quý Minh Đại vương để phụng thờ.

Nhân dân đều bái tạ lĩnh mệnh. Ông Hiển ở đất Sơn Nam thường qua chơi nơi cung sở xã Quần Lãng, giáo hóa nhân dân, tăng lợi trừ hại. Lấy nhân nghĩa lễ trí dậy bảo cho dân tục. Từ đó nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu, đều là nhờ đức của ông Hiển vậy.

Lại nói, vua Duệ Vương không có con nối dõi bèn mời con rể là Sơn Thánh lại để nhường ngôi báu. Sơn Thánh cố từ không nhận, tâu rằng:

  • Cơ đồ 18 đời Hùng, lòng trời đã định. Nay có Thục chúa, tuy là bộ chủ Ai Lao, nhưng cũng là dòng bên ngoại họ Hùng, nên nhường nước cho Thục chúa là hơn. Thần có phép tiên biến hóa, xin cùng Bệ hạ thoát khỏi chốn trần ai, bay lên làn mây, chẳng cũng vui lòng lắm sao?

Vì vậy Duệ Vương mới mời Thục chúa lại nhường ngôi cho. Đoạn vua cùng với Sơn Thánh đang giữa ban ngày bay lên trời. Lúc đó ông Hiển đang ở đất Sơn Nam, nghe tin Duệ Vương đã hóa, bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

  • Cơ đồ họ Hùng đã thuộc về tay người khác rồi.

Than xong, ông mang theo gia thần vài người trở về gia quán (tức động Lăng Sương). Đến nơi, ông Hiển lên núi Tản Lĩnh. Vừa tới đỉnh núi bỗng nhiên thấy trời đất mù mịt, mưa gió lớn nổi lên. Ông đã hóa vậy (hôm đó là ngày 12 tháng 9). Khoảnh khắc mây tan mưa tạnh, trời đất quang đãng. Thấy mối đùn lên thành một gò đất cao.

Sự dứt, các gia thần trở về kể sự việc ấy cho mọi người nghe. Ngày ấy xã Quần Lãng được tin, nhân dân tuân theo lời dặn của ông, tức thì sửa sang hành cung thành đền miếu, viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau có nhiều anh linh hiển ứng, phần nhiều có công âm phù hộ quốc. Cho nên nối đời đế vương đều bao phong mỹ tự và sắc chỉ, vạn cổ hưởng thờ, cùng với trời đất tồn tại mãi mãi. Đẹp đẽ thay!

Phong là Tản Viên Sơn Đệ tam vị Hữu đô đài Quý Minh Đại vương (Đại vương húy là Hiển, tự là Tuấn).

Cho phép đạo Sơn Nam, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Quần Lãng phụng thờ (đền chính ở động Lăng Sương).

Ngày sinh thần mùng 10 tháng Giêng (lễ nghi dùng cỗ chay, trà quả, xôi lợn, cỗ trâu, bánh dày, ca hát, đấu vật một ngày).

Ngày thần hóa vào 12 tháng 9 (lễ dùng như ngày sinh thần).

Kiêng kỵ tên húy ba chữ Hiển, Quý Minh nhất thiết cấm, cùng chữ Tuấn đều phải tránh âm.

Lại nói, vua Thục lấy được nước, tức là Thục An Dương Vương, ở ngôi 50 năm. Rồi Triệu Vũ Đế lấy được nước, nước ta thuộc nhà Tây Hán. Trải qua Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Tề, Lương. Đến nhà Lương sai Dương Tư sang làm Thứ sử. Tư là người dùng hình nặng, phép dữ, chính ngược hại dân.

Thời đó nước Việt ta khắp nơi lầm than, chưa có thời nào cực khổ như vậy. Khi đó ở đạo Sơn Tây, phủ Tam Đới, huyện Chu Diên, có một nhà họ Triệu, tên là Túc, vợ là Lý Thị Đàm. Trước kia tiên tổ vốn làm quan ở triều nhà Triệu. Đến khi nội thuộc qua sáu triều đại bèn về ẩn dật chốn làng quê, lấy nghề lương y, nho học để mưu sinh. Đến đời ông Túc vợ chồng đều hiền lành chất phát, làm phúc cứu người, càng tăng thêm lòng phúc hậu, gắng sức tu nhân. Phàm là những việc cứu nghèo tạo phúc, đều cố hết sức mình mà làm vậy. Người địa phương đều khen ngợi là một nhà kẻ sĩ có lòng tốt. Lúc đó ông tuổi đã 40 mà điềm lộng chương còn chậm, giấc mộng kỳ lân chưa thấy báo ứng.

Một hôm bà họ Lý ngồi tựa lan can thiếp đi như ngủ, mơ màng trong mộng, thấy một ông quan áo mũ chỉnh tề, hai tay ôm một đứa bé trao cho bà nói rằng:

  • Nhà họ Triệu phúc hậu, trời đã chiếu cố, cho nên Hoàng Thiên sai ta mang đứa bé này cho vào nhà ngươi làm con. Mai sau sẽ dựng nước diệt giặc, tiếng tăm khắp thiên hạ. Chỉ hiềm phúc quả chưa tròn nên chưa lâu dài lắm.

Đang trong mộng bà ôm lấy đứa bé mừng rỡ, bỗng nhiên bừng tỉnh, mới biết là chiêm bao. Bèn kể lại chuyện với ông Túc. Ông nói:

  • Nếu quả là như trong giấc mộng của bà thì tất nhiên là điềm lành.

Từ đó vợ chồng uyên ương chung gối, loan phượng sánh vai, vui tiếng chuông ngân trống dục, hứng vị vần thơ cung đàn. Ít lâu sau quả thấy phu nhân có mang, đầy mười một tháng, vào năm Giáp Dần, ngày mùng 6 tháng 3 sinh hạ được một người con trai. Lúc giờ sinh khí lành bay man mác, gió đưa hương ngào ngạt. Thấy được một con trai thuần phong tuấn tú, ứng vào lời nói của thần tướng. Mặt mũi khôi ngô y như đứa bé đã nhận được trong mộng. Ông Túc cả mừng, nghĩ thầm, đứa con sau này ắt hưng phục nghiệp nhà nên mới đặt tên là Quang Phục.

Ngày qua tháng lại được 12 tuổi đã tỏ ra thiên tư minh mẫn, tính bẩm anh thông. Cho đến năm 15 tuổi thì oai phong cường tráng, trí dũng kiêm tài, thao lược tinh thông, văn chương quán triệt. Thật là bậc tuấn kiệt trong đời vậy.

Triệu Quang Phục trước mắt nhìn thấy quan thứ sử nhà Lương là Dương Tư tàn bạo với dân, hình phạt hà khắc. Ông đau lòng vì dân chúng lầm than, bèn lui tới với những người có mưu trí, triệu tập dân ly tán, tìm dõi người hào kiệt trong thiên hạ. Chẳng bao lâu số quân ứng nghĩa đã được vài ngàn người. Song lúc đó những bậc nam nhi thao lược, tướng tá anh tài chưa quy về một mối, chưa biết ai là người quân trưởng, còn phải đợi thời cơ mới phát động được.

Một hôm ông nghe ở đất Thái Bình thuộc xứ Long Biên có người tên là Lý Bôn dấy binh ở châu Cửu Đức, cũng có chí chống quân Lương. Ngay hôm đó ông mang binh mã, mưu lược đi tìm gặp ông Bôn. Ông Bôn thấy ông tướng mạo đường đường, phong tư lẫm liệt, kỹ năng thao lược, văn võ kiêm toàn. Ông Bôn mừng lắm, nghĩ thầm:

  • Chắc là trời khiến người này đến giúp vận nước đây.

Tức thì cho làm chức Điều xuyết binh nhung, dẫn quân tiên phong cùng với ông đại chiến với quân Dương Tư một trận. Quân Tư thua to, bỏ thành chạy về nước Bắc. Sau đó không lâu quân Lâm Ấp lại vào cướp bóc. Ông Bôn bèn lập đàn phong ông Phục làm Tả tướng quân, Phạm Tu làm Hữu tướng quân. Khiến mang quân đánh phá, Lâm Ấp.

Ông Bôn lên ngôi Hoàng đế, ấy là vua Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở thành Long Biên, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt trăm quan, định đô ấp, phong thưởng cho công thần cao thấp khác nhau. Ông Phục được phong làm Quốc tể Long Lĩnh hầu, lĩnh ấn Đại tướng quân, tại triều phụ chính. Vua tôi hợp đức, đất nước thanh bình. Trải qua 6 năm ông Phục có nhiều công với nước. Vua rất yêu kính, thăng thưởng nhiều lần, các quần thần không ai bì kịp.

Lại nói, thời vua Lý Nam Đế ở ngôi trải qua 7 năm. Vua nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên đem quân xâm lược phía Nam để phục thù trận thua ngày trước. Khi quân Lương đến, vua đóng quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tiến. Bỗng một sớm lũ lớn tràn về. Quân của Bá Tiên ùa theo dòng nước mà tiến. Quân của vua tan vỡ. Vua mới ủy quyền cho Đại tướng Triệu Quang Phục giữ nước. Vua ẩn vào động Khất Liêu, rồi mất.

Từ đó ông Phục tìm khắp thiên hạ nơi nào có chỗ hiểm trở thì thiết lập đồn doanh để chống quân Lương. Một hôm ông về đến đạo Sơn Nam Thượng, phủ Khoái Châu, huyện Đông An, bãi Tự Nhiên. Ông bèn lập doanh trại ở đầm Nhất Dạ (Đầm ấy trước kia là nhà của Chử Đồng Tử, tự nhiên thành bãi. Đến khi Chử Công hóa, một đêm thành đầm, nên có tên ấy), cùng với quân Lương chống cự. Sau quân Lương sai tướng Dương Sàn dẫn quân đến tiếp viện rất đông. Qua nhiều trận giao chiến quân ông bị thiệt hại.

Ngày ấy ông lại đi tìm mọi nơi trong thiên hạ, nơi nào dân giàu có, lại có địa hình hiểm trở để xây dựng những doanh trại làm nơi phòng bị. Một hôm ông xa giá đi qua đạo Sơn Nam Hạ, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Quần Lãng, thấy có sông ngòi quanh co, có thể lập được đồn. Ông bèn dừng quân ở đó, nhân làm lễ cầu khấn ở đền thờ Quý Minh Đại vương, xin được âm phù hộ quốc. Khấn xong đêm ấy ông nằm mộng thấy một người đầu đội mũ bách tinh, mình mặc áo hồng bào, tay cầm thẻ bài vàng, bảo rằng:

  • Hoàng Thiên đã định cho họ Triệu làm vua, hưởng nước ngoài 20 năm. Nay khanh nên trở về đầm Dạ Trạch, lập đàn kỳ đảo. Thiên đình sẽ sai Chử Công mang móng rồng xuống giao cho khanh. Tất sẽ bình được giặc Lương vậy.

Nói xong thì biến mất. Khi tỉnh dậy, sáng ngày ông làm lễ bái tạ. Đoạn rồi truyền quân cùng nhân dân xây dựng một đồn ở bên sông để phòng ngự. Việc xong, ông lại trở về cung sở (tức đầm Nhất Dạ). Nhớ lại sự việc trong mộng bèn trai giới thanh khiết, lập đàn kỳ đảo. Sau thấy một người cưỡi rồng vàng ở trên trời xuống bảo rằng:

  • Nơi đất linh thiêng này chốn ta đã thoát trần trước đây.

Nói rồi trút một cái móng rồng đưa cho, dặn đem để lên chỏm mũ đầu mâu, khi ra trận hướng về phía địch thì sẽ được toàn thắng. Nói xong cưỡi rồng bay lên. Từ đó ông được móng rồng, đánh bại quân Lương, chém được tướng Dương Sàn. Quân Lương chạy về Bắc. Ông bèn thống nhất thiên hạ, tự lập làm vua, hiệu là Triệu Việt Vương, đóng đô ở thành Long Biên.

Lại nói, ông Phục từ khi gặp Quý Minh Đại vương ở trong mộng, khi ở Dạ Trạch lại thường mộng thấy một người áo mũ chỉnh tề, y như người đã gặp trong mộng Quần Lãng, thường cùng vua (tức ông Phục) đối thoại, bảo ông rằng:

  • Ta cùng Ngài tuy âm dương hai ngả, song ngày sau hưởng lộc cùng một địa phương.

Nhân tặng vua một bài thơ rằng:

Âm dương hai cõi đã chẳng nề

May được tương phùng giữa thú quê

Ngày sau cùng hẹn về Quần Lãng

Là nơi thờ hưởng muôn nghìn thu .

Đến khi vua lên ngôi nhớ lại lời thơ này, nghĩ thầm:

  • Có lẽ sau này ta là phúc thần ở Quần Lãng chăng?

Bèn sai sứ giả sắm sửa lễ vật, về tận đất Quần Lãng để bày tế tại đền thờ Quý Minh Đại vương. Tế xong lại ban cho nhân dân vàng ròng 5 hốt, giao cho nhân dân mở rộng ruộng vườn làm của công. Lệnh cho các khoản binh dịch đóng góp, tô thuế đều được miễn cả. Từ đó đất Quần Lãng trở nên trù phú, địa ấp phong nhiêu, đều nhờ công đức của vua vậy.

Lại nói, vua ở ngôi 21 năm. Trong khi đó có người con anh vua Tiền Lý Nam Đế tên là Phật Tử mang quân từ động Dã Năng đến (Phật Tử là con của Thiên Bảo. Vua Nam Đế đánh quân Lương rồi mất. Thiên Bảo mang chúng quân chạy vào động Dã Năng, tự xưng là Lang Vương. Sau đến Phật Tử lên, đến đánh). Lúc đó vua nghĩ Phật Tử là cháu con chú con bác của Nam Đế nên không nỡ tuyệt. Bèn chia nước làm hai để cùng trị. Cắt bãi Quân Thần (Thuộc huyện Từ Liêm, xã Thượng Cát, Hạ Cát. Từ Thượng Cát về phía Tây nhường cho Phật Tử. Từ xã Hạ Cát về phía Đông thuộc vua).

Vua bèn rời đô sang Ngọc Ninh. Phật Tử đóng đô ở Ô Diên, cùng chia phân để trị. Được hơn 1 năm, một hôm Phật Tử cùng con trai là Nhã Lang bàn mưu kế rằng:

  • Ta xem Việt Vương quân thắng nước mạnh, phần nhiều là có thuật lạ. Hắn có con gái là Cảo Nương cùng lứa tuổi với con. Chi bằng ta đưa thư cầu hôn con gái vua, sai con ở rể, xem ý ra sao. Sau ta thừa cơ bất ngờ dẫn quân đến đánh, chắc không phải khó nhọc mà thống nhất thiên hạ vậy.

Bàn rồi sai sứ giả đem thư cầu hôn sự với Vua. Vua bèn thu nạp. Phật Tử chọn ngày lành đem đồ sính lễ và Nhã Lang đến. Vua bèn lưu Nhã Lang tại nước nhà. Vương rất hài lòng, khen Nhã Lang là con rể tốt. Tình vợ chồng của hai con ngày càng mật thiết. Nhã Lang dụ được Cảo Nương lấy trộm được móng rồng, trở về trình với Phật Tử. Phật Tử tức thì đem quân đến đánh. Vua dở móng rồng thấy bị mất, bèn lên ngựa chạy thẳng đến cửa biển Đại Nha, Vua quay lại thấy quân Lý đuổi gấp. Vua thấy tình thế khó thoát bèn nhảy xuống biển mà hóa. Sau ngày hóa rất có anh linh. Nhân dân địa phương (tức cửa Đại Nha, nay thuộc xã Lục Bộ) lập đền thờ phụng, lấy đó làm đền chính.

Từ ngày Vương hóa, nhân dân xã Quần Lãng sinh ra tật dịch, súc sản bất an. Nhân dân lo lắng, xem xét lập đàn kỳ đảo. Đêm hôm ấy mộng thấy Triệu Việt Vương cùng với Quý Minh Đại vương hội du ở nơi đền. Triệu Vương gọi nhân dân, bảo rằng:

  • Nay ta đã hóa. Ta phụng mệnh Thiên đình là Chúa tể nơi đây. Dân chúng hãy viết thần hiệu là Triệu Việt Vương Hoàng Đế để phụng thờ.

Nói đoạn, nhân dân bỗng nghe một tiếng trống đồng lảnh tai, phút chốc tỉnh giấc. Sáng ngày nhân dân tụ họp ở nhà hội quán, nghe nói lại mộng triệu, thấy có lý, lấy làm sợ hãi. Tức thì trùng tu cung điện, viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau nhân dân khang thái, súc sản bình an. Hai vị Đại vương có nhiều linh ứng.

Lại nói, Phật Tử được nước, xưng là vua Hậu Lý. Chưa bao lâu sau nội thuộc nhà Tùy. Đến đời Đường sai Cao Biền làm quan đô hộ nước ta. Lúc đó có giặc Nam Chiếu khởi binh ở cửa bể Nam Hải. Biền phải thân chinh đi đánh. Một hôm Biền tiến quân qua xã Quần Lãng, bèn vào làm lễ kỳ đảo ở đền thờ hai vị Đại vương, khấn rằng:

  • Nhờ được âm phù hộ quốc, chờ ngày thanh bình sẽ có gia phong sắc chỉ để biểu lộ sự anh linh.

Khấn xong cất quân tiến thẳng, đánh một trận lớn, bình được giặc Nam Chiếu. Biền hồi binh khải hoàn, nhớ lại khi ở đạo Sơn Nam xã Quần Lãng hai vị Đại vương quả nhiên có công hộ quốc. Bèn tặng phong sắc chỉ, sai quan mang sắc về bày tế. Lại ban cho nhân dân ngân tiền 60 quan, truyền cho nhân dân mở rộng cung điện để phụng thờ.

Từ đấy về sau rất có anh linh, khấn tạnh, cầu mưa đều có linh nghiệm. Cho nên nối đời đế vương gia phong sắc chỉ và mỹ tự, vạn đời tế lễ, muôn năm hương khói. Sự tồn tại cùng với trời đất lâu dài, công đức ngày càng to lớn vậy. Đẹp đẽ thay!

Nhất tôn phong Hoàng đế Triệu Việt Vương,

Nhất phong Tản Viên Sơn Đệ tam vị Hữu kiên thần Đô đài Đại phu Quý Minh Đại vương.

Chuẩn y cho đạo Sơn Nam phủ Thiên Trường huyện Tây Chân xã Quần Lãng phụng thờ.

Những điều lệ thần sinh, hóa, lễ khánh hạ, cũng  những chữ kiêng kỵ vâng kê như sau:

Ngày sinh thần vào mùng 6 tháng 3 (lễ vật dâng: trên cỗ chay, dưới xôi, lợn. Ngày chính tế dùng trâu, đánh cờ, hát xướng một ngày).

Ngày hóa thần là 14 tháng 8 (lễ vật dùng như ngày sinh thần).

Lễ Khánh hạ ngày 10 tháng 4 (Lễ vật dùng: trên tiến cỗ chay, dưới dùng xôi, lợn, rượu. Ngày chính dùng trâu, ca hát năm ngày thì dừng).

Kiêng kỵ chữ húy hai chữ: Túc, Phục đều cấm.

Triều vua Vĩnh Hựu năm thứ 2 tháng Giêng ngày lành chức Quản giám Bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền, tuân y bản cũ của triều trước sao chép.