Thần tích làng Thượng Lát, xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

Chép theo bản khai Thần tích thần sắc số 4419

Đời vua Tiền Lý Nam Đế có bà thánh mẫu tên hiệu là Từ Nhan, người làng Vân Mẫu, huyện Quế Dương, quận Vũ Ninh. Khi bà 18 tuổi sắc đẹp hơn người, nết na thuần thục. Đêm hôm rằm tháng Một năm Canh Thìn nằm chiêm bao tắm ở sông Lục Đầu, thấy thần long quấn vào mình mà có thai. Được 14 tháng đến mùng 6 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ lên chùa lễ Phật trở về đến giữa đường là xứ Cửa Cữu, sinh ra 1 cái bọc 5 con, 4 con trai 1 con gái, đem về nuôi dạy. Mặt mũi khôi ngô, xem giáng có đủ tài văn võ. Con trai đặt tên là: Hống, Hát, Lẫy và Lừng. Con gái gọi là Đậu nương. Đến rằm tháng 4 năm Kỷ Hợi  ngày 15 tháng Tư đức thánh mẫu cõi trần lánh bước. Đêm hôm ấy có ông thần gọi bảo rằng: 

  • Đưa mẫu thân đem ra táng ở bên gò lớn chỗ đồng chiêm gần cạnh làng, tức phương Nam có giếng, đấy là ngôi đất tốt!

Anh em nghe lời thần, sau được quả nhiên.

Anh em đức thánh Tam Giang sinh ra ở làng Vân Mẫu, khi còn bé chơi cùng lũ trẻ hay bầy ra nhiều chước lạ lùng. Sau theo học ông Lữ tiên sinh tập đọc binh thư, lầu thông văn võ. Nhân khi hỏi mẹ rằng sao có mẹ mà không thấy cha?

Mẹ thuật chuyện Thần long khi trước, ấy là giống Thủy thần, dòng dõi họ Trương mọi lẽ. Từ đấy các ông xin theo họ Trương. Trong mười mấy năm nhà tuy bần bách nhưng đọc sách hầu mẹ không hề lỗi đạo. Tới khi mẹ chết, an táng xong rồi thương khóc mà than rằng:

  • Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Con muốn hầu mẹ mà mẹ sớm mất.

Đêm thường ra thăm mả mẹ, trở về đến xứ Bãi Cả thấy quỷ sứ đón đường. Hai ông cùng chúng quỷ vật nhau mấy khắc. Quỷ thua cả, biết hai ông có tài lược hơn người, đều cùng la bái mà thưa rằng:

  • Chúng tôi đây là chúa quỷ cai Xích y quỷ bộ và Bạch y quỷ bộ. Thấy hai ông là vực anh tài, xin có 2 bức tiên bào dâng 2 ông để làm bảo bối. Xin theo hầu để làm đệ tử.

Hai ông nhận lấy tiên bào rồi cám ơn chúng quỷ. Từ đấy hiếu nghĩa thờ mẹ trọn ven 3 năm, chẳng ngày nào sơ suất. Mãn tang rồi tuổi đã 20, gặp khi trong nước có loạn là nhà Lương Đại Đồng bên Tầu sai danh tướng là Trần Bá Tiên và Dương Phiêu đem quân sang đánh nước Nam ta, làm nhiễu muôn dân, đau lòng trăm họ.

Đức Tiền Lý Nam Đế cùng 3 viên đại tướng là: ông Triệu Túc làm chức Thái phó, người Tinh Thiều và Phạm Tu làm văn võ tướng đem binh ra đánh. Nhưng quân Lương thế mạnh chống không nổi, mấy ủy quyền cho ông Triệu Quang Phục là con quan Thái phó làm Tả tướng quân, cầm lấy quân của cha là Triệu Túc đứng lại mà đánh, để người Lý Thiên bảo và Lý Phật Tử đem vua chạy vào động Khuất Liêu, tạm an quân sĩ.

Trần Bá Tiên đang khi cường thịnh, Triệu chống không nổi, phải đem quân về Dạ Trạch (là Khoái Châu tỉnh Hưng Yên ngày nay). Quân Lương đuổi theo vây bọc xung quanh, định làm cho Triệu tận lương vô kế, không phải đánh mà chết.

Quân Triệu tình thế đã nguy, ngày thì phải tắt khói lửa, đêm thì đem quân đánh trộm, cho người đi trao truyền hịch bá cáo muôn dân, ai là người có tài ra giúp nước thưởng công không nhỏ.

Khi ấy các ông anh em đức thánh Tam Giang nghe thấy nhà vua có lệnh chiêu tài, anh em bàn nhau tính kế lập thân, mộ quân để đi giúp nước. Khi đi đến huyện Kim Hoa (tức là Kim Anh) vào làng Tiên Tạo, phủ Đa Phúc. Ông Triệu Quang Phục nghe biết tin sai người đến đón mà phong cho ông Cả làm quan Thượng tướng quân. Ông Hai làm Phó tướng quân. Ông Ba, ông Tư đều làm tùy tướng cả. Hội đồng trù toán binh cơ, trẩy đi đánh giặc.

Khi ấy tháng Tư trời mưa to. Đường xá lầy lội, cây cối rậm rạp. Người và ngựa không đi được. Hai ông dâng thư lên cùng Triệu Quang Phục rằng:

  • Chúng tôi xin tận lực lấy gỗ đục làm thuyền, chia binh lập trận, 4 mặt cùng đánh thì quân giặc phải tan. 

Ông Triệu Quang Phục y lời.

Các ông truyền lệnh mưu cơ, khởi quân tiến chặn, xung đột tung hoành. Quân binh  đại bại chạy về nước Tầu.

Dẹp giặc xong rồi, khải hoàn tấu điệp, khao thưởng quân sĩ. Ông Triệu Quang Phục kéo quân về đóng đô ở thành Long Biên. Bấy giờ mới xưng là Triệu Việt Vương. Phong cho ông Cả thực ấp Kinh Bắc (là Bắc Ninh), ông Hai thực ấp Đông Ngàn (là làng Tam Lư). 

Dân Tiên Tạo, dân Tam Lư đến bái yết mà xưng tụng rằng:

  • Chư ông sống làm tướng mạnh, thác làm thần thiêng. Dân chúng tôi được nhờ ơn công đức, của nhà bình yên, không biết lấy gì đền báo. Vậy xin chốn quân đóng đồn lập lên đền thờ, mai sau ức niên hương hỏa. 

Chư ông y lời, rồi cho dân Tiên Tạo 50 nén vàng, dân Tam Lư 30 nén vàng, đem về nuôi kẻ già, cứu kẻ nghèo, mua ruộng để làm hương hỏa.

Khi nước ta bình rồi thì đức Tiền Lý Nam Đế và ông Lý Thiên Bảo đã thác ở động Khuất Liêu rồi. Còn ông  Lý Phật Tử chạy vào Giã Năng động ở nước Ai Lao xưng làm Đào Lang Vương. Biết tin nước nhà đã bình rồi, kéo quân Xiêm, quân Lào về đánh. Có tin báo rằng: 

  • Ông Lý Phật Tử là con cháu nhà Lý, đem hơn 60 vạn quân Xiêm Lào về đánh nước.

Ông Triệu Việt Vương sai quan Trương tả hữu tướng quân đem quân ra đánh. Lý Phật Tử địch không nổi phải chạy lui về Ô Diên, rồi đưa thư xin cầu hòa để cho ở yên một xứ. Vua Triệu nghĩa rằng:

  • Ông Phật Tử là con cháu nhà Tiền Lý có lẽ nào ta quên được cái ơn đức Tiên quân.

Nhận lời hòa mà nhượng đất cho ở một xứ. Hai ông Trương tướng quân can ngăn rằng:

  • Việc ấy không nên.

Vua Triệu không nghe, chia cõi Quân Thần ở Thượng Cát xã, Hạ Cát xã, thuộc huyện Từ Liêm bên Đông về nhà Triệu, Tây về nhà Lý. Thế là nhất quốc lưỡng vương.

Từ đấy ông Lý Phật Tử lại xưng là Hậu Lý Nam Đế. Sau ông dụng tình bất trắc, mượn kế cầu thân cho con trai là Nhã Lang vào làm rể, lấy con gái ông Triệu Việt Vương là Cảo Nương. Hai ông Trương tướng quân lại hết lòng can gián mà nói rằng:

  • Sự tích Trọng Thủy, Mỵ Châu gần đó chưa lâu. Ngài chắng nhớ  ru? Nếu chẳng nghĩ trước thì về sau hối sao cho kịp?

Vua không nghe cứ lấy những sự ấy là hay, và như thế lại càng yên nước. Hai ông can mà không nổi, bảo nhau nạp chức từ quan vào rừng Phù Long ở, thuộc tỉnh Sơn Tây, huyện Phúc Thọ, Phù Long xã (trước gọi là Phù Long sơn trang), mười mấy năm trời canh nông vi nghiệp.

Ông Triệu Việt Vương đã trúng kế ông Phật Tử cho con vào làm rể, ăn ở hầu hạ, cha tin con, vợ yêu chồng, vui vẻ đêm ngày, một nhà sum họp. Lý Nhã Lang nhân khi nhàn hỏi vợ rằng:

  • Sự đánh giặc quan hệ là tướng giỏi, Trần Bá Tiên và Dương Phiêu là tướng đại tài của nhà Lương, không phải người hèn mà sao đánh đuổi được? Thế tướng nào đánh trận ấy hay là có bảo bối chi!

Cảo Nương đáp rằng:

  • Khi đánh được giặc Lương ấy là có anh em ông Trương tả hữu tướng quân, văn võ toàn tài và có long trảo đâu mâu ấy là bảo bối.

Lại hỏi rằng:

  • Những viên tướng ấy ở đâu mà từ khi tôi về đây không thấy bao giờ, mà long trảo đâu mâu tôi cũng chưa từng trông thấy bao giờ.

Vợ thuật chuyện 2 viên tướng ấy từ khi can vua không nghe, sau 2 viên tướng ấy từ chức đi đâu không biết. Còn long trảo đâu mâu thì đưa cho chồng xem.

Nhã Lang được xem rồi, lưu tâm nhận lấy hình dáng long trảo, đợi khi nhà vắng, lấy miếng xương khác thay vào, lấy long trảo dấu đi, rồi xin về vấn an, tâu vua Triệu rằng:

  • Ơn trời từ khi 2 nước hòa hảo cho chúng tôi cũng được sum vầy cùng nhau nay đã lâu ngày. Chúng tôi tấm lòng thần hôn chạnh nhớ. Xin vương phụ lượng xét cho tôi về vấn an cho phải đạo.

Vua Triệu y lời. Nhã Lang bái biệt, chỉ gót vó câu, chẳng bao lâu về đến Ô Diên thành, vào tâu vua Lý:

  • Các chuyện bên Triệu trước kia sự chinh chiến, binh cơ bách chiến bách thắng là vì có anh em Trương tướng quân văn võ toàn tài, và long trảo đâu mâu thần cho để làm bảo bối, cho nên đánh đâu được đấy. Từ khi Lý Triệu hòa hảo lại 2 nhà thông gia cùng nhau, 2 viên tướng ấy can ngăn mà vua Triệu không nghe. Sau 2 viên ấy nạp chức từ quan, rồi đi đâu không biết, mà long trảo lấy được đây.

Vua Lý nghe nói đầu đuôi, thương nghị văn bõ đè quân sang đánh Triệu ngay.

Quan canh vào báo có giặc kéo đến đánh thành, quân đông như kiến, tình thế nguy cấp. Vua cười mà nói rằng: 

  • Có sợ gì giặc. Đã có bảo bối thần cho, giặc nào địch nổi.

Vội vàng vào lấy đâu mâu đội lên, giục quân ra đánh. Đâu mâu không thấy công hiệu, giặc càng đánh sấn vào thành. Thế chống không lại, vội vàng bế con gái là Cảo Nương lên ngựa lui ra cửa Nam, chạy xuống Đại Nha hải khẩu. Giặc đuổi đến sau lưng, không chạy đi đâu được nữa. Ngửa mặt lên kêu trời: Cùng đường mất rồi! Gieo mình xuống bể tự tận.

Có câu than rằng:

Lòng trung báo đáp tiền quân
Ngờ đâu Phật Tử bội ân thấy này
Họ Trương can gián đêm ngày
Chẳng nghe lời phải, tớ thầy bèn xa.
Tin con mắc kế gian tà
Đâu mâu long trảo lại ra tay người
Giang sơn phó giả mặc trời
Đại Nha hải khẩu thảnh thơi suối vàng.

Ông Lý Phật Tử đã diệt được Triệu rồi, biết anh em Trương tướng quân là bực có tài, muốn mua chuộc lòng người cho yên thiên hạ, sai người đi tìm đón 2 vị Trương tướng quân ra làm quan giúp mình. Phái nhân khi đi tìm thấy ở đâu mời bằng được. Đi đến rừng Phù Lang thấy các ông ở đây, vào thưa rằng:

  • Tôi tuân lệnh vua Lý cho đến mời 2 ông về làm quan giúp nhà Lý.

Hai ông đáp rằng:

  • Chúng tôi trước đã làm tôi nhà Triệu, vì lòng chung đem lời can gián mà vua chẳng nghe. Chúng tôi có tài năng gì mà ra làm quan với nhà Lý nữa.

Phái nhân về tâu vua Lý:

  • Tôi tìm thấy 2 ông ở rừng Phù Lang. Mời thế nào các ông cũng không chịu ra.

Vua lại sai đi lại nói rằng mời 2 ông về cho làm chức Thứ sử. Phái nhân vâng lệnh ra đi vào rừng Phù Lang, cũng thưa như lời vua Lý dặn. 

Hai ông nghe nói nổi giận lôi đình, thét mắng om xòm, bảo rằng:

  • Trung thần bất sự nhị quân, có lẽ nào thờ người điên đảo hại chúa. Lập tức ra mau.

Phái nhân phải cút ngay về tâu vua Lý. Vua Lý tức giận hạ lệnh rằng:

  • Ai bắt được anh em họ Trương đem nộp, sẽ thưởng nghìn vàng, lại phong cho quyền tước nữa.

Các ông nghe thấy tin vua Lý hạ lệnh bắt, anh em bàn nhau rằng:

  • Đã thế ta khởi quân đánh, báo thù cho Triệu.

Ông Cả can rằng:

  • Chẳng qua là ngôi trời đã định cho nên vua Triệu không nghe lời anh em ta can gián mà phải mắc kế gian mưu. Thôi! Nay anh em ta có khởi quân đánh chăng nữa, chỉ là tàn dân hại vật! Chứ vua Triệu không sống lại được nữa. Ta nên thoái thác cho yên trăm họ. Hoặc là lánh đi nơi khác, hoặc là uống thuốc độc mà chết cho toàn lấy chữ Trung là hơn.

Cả nhà nghe nói xin cùng sống thác một ngày có nhau. Bảo nhau cùng xuống thuyền giả làm thuyền buôn xuôi về quê tảo mộ. Khi chèo thuyền vào đến sông Vũ Bình, Ngã ba Xà, thấy chốn ấy giang sơn tú khí, phong thủy hữu tình, chèo thuyền ra giữa sông đánh đắm thuyền mà tự vẫn cả nhà (tức sông Nguyệt Đức thuộc Phương La xã, Yên Phong huyện tỉnh Bắc Giang). Thuyền  ông Hai trôi xuống Ngã ba Nhãn, thấy phong cảnh chung linh, cũng đánh đắm thuyền cùng cả nhà tự vẫn, là ngày mồng mười tháng 4 chết cả (tức là Phượng Nhãn xã, Phượng Nhãn huyện, Bắc Giang tỉnh).

Khi xuống thuyền con 2 cô cháu đem nhau đi ra rừng chơi, không kịp đi theo phải ở lại Phù Long, là bà Mỹ Đạm, cháu là Trương Kiều là con thứ 4 ông Cả mới có 2 tuổi.

Ông Lý Phật Tử sau nghe tin rằng anh em họ Trương đã tự vẫn cả rồi, nghĩ hối lại mà cảm tình là một nhà trung nghĩa như thế mà là không được gặp. Sau lại có người tâu rằng: 

  • Dòng dõi họ Trương còn 1 người tên gọi Trương Kiều, khi trước cha chú đi thì còn bé không kịp đi theo phải ở lại Phù Long.

Ông Lý Phật Tử cả mừng sai người đi đón ông Kiều về cho làm quan Thứ sử. Người đến đón cũng nói như lời vua Lý. Ông Kiều nghe nói cảm động tấm lòng cha chú là một nhà hiếu nghĩa, lại không chịu nhận chức Thứ sử, rồi chạy trốn đi theo cha chú cho tròn hiếu đạo.

Khi đi thơ thẩn đến Vũ Bình giang, ngã ba Xà, tự nhiên động lòng ai oán. Hỏi dò la nhân dân ở đấy kể chuyện rằng:

  • Chốn sông nay những năm trước có anh em quan Trương tả hữu tướng quân vì đánh đắm thuyền tự vẫn cả nhà ở đấy.

Ông Kiều nghe nói căm gan nổi giận, khóc mà than rằng:

Trời cao soi xét lòng trung,
Sắt son vì nước , thủy chung một nhà 
Sống mà thẹn mấy sơn hà
Cũng xin theo xuống mẹ cha sông này.

Than xong gieo mình xuống sông mà chết, là ngày mồng 2 tháng 2. Nay có đền thờ ở làng Mai Thượng huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang, gọi là Đức thánh Hậu. Bà cô thì giả làm nhà chùa về làng Vân Mẫu tảo mộ, ở lại 1 tháng, nhớ đến trung nghĩa cả nhà, lại ra gò Con Cá ở giữa đầm chiêm tự vẫn. Đấy gọi là Cây Sồng, địa phận làng Chu Mẫu, hiện có miếu thờ ở gần Cổng Muối.

Ông Phật Tử vẫn tìm dòng dõi họ Trương là 1 nhà trung nghĩa, sau nghe không còn ai nữa, thương tiếc hối lại bởi vì mình vội nóng quá, hạ lệnh bắt anh em nhà ông cảm khái mà đi tự vẫn cả nhà, ái tình phong ông Cả là: Vũ Lâm Lang Quả nghị Linh ứng Thượng tướng quân. Phong cho ông Hai là: Đại thụ tướng quân. Truyền cho xã Bảo Vệ, xã Phù Long ở huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây phải lập đền thờ, ức niên hương hỏa (trước gọi là Phù Long sơn trang).

Trước khi đánh đắm thuyền tự vẫn có bưng 1 bộ Táo quân để lên bờ sông rồi thuyền mới đánh đắm. Thấy rồng rắn cá nhảy lên ầm ầm. Bệ Táo quân cũng cảm tình mà nhảy xuống. Hiện đền làng Phương La có thờ 1 tòa tượng Táo quân.

Chư công sinh vi tướng trung nghĩa vị thần, tử vị thần khí phách vị tán, vị Việt Nam âm phù bảo hộ. Kim thỉnh kế kỳ sự cấp lệnh tặng phong mà luận.

Đến đời nhà Hậu Ngô ông Văn Xương xưng là Nam Tấn Vương đánh giặc Lý Huy ở núi Côn Luân đưa quân vào đóng ở rừng Phù Long, đêm nằm thấy 2 ông cùng đến trước mặt mà thưa rằng:

  • Chúng tôi xin giúp vua để đánh giặc.

Vua giật mình mà hỏi rằng:

  • Các người la ai, trẫm chưa từng được biết.

2 ông thưa rằng:

  • Chúng tôi ở Phù Long trang, tên tôi là Trương Hống, em tôi là Trương Hát. Trước khi làm quan theo phù đức Triệu Việt Vương. Sau khi nhà Lý dùng mưu gian diệt Triệu rồi nhà Lý có gọi anh em tôi ra làm quan. Chúng tôi nghĩ rằng, trung thất bất sự nhị quân, có lẽ nào thờ người điên đảo hại chúa. Cho nên chúng tôi cả nhà cùng xuống thuyền đánh đắm mà tự vẫn cả cho toàn trung nghĩa. Thượng đế thương chúng tôi là 1 nhà trung nghĩa, phong cho tôi làm Than Hà Long Vương, phong cho em tôi làm Chi Mạn Nguyên đầu Tuần đô Phó sứ. Cai quản cả sông Vũ Bình giang và sông Lạng Bình giang. Đức tiên chúa khi trước phá được nhà Nam Hán bắt được người Hoàng Thao ở sông Bạch Đằng cũng là có anh em chúng tôi hết lòng âm trợ. Tuy đạo âm dương bị cách biệt, nhưng đạo vua tôi coi như là một.

Vua tỉnh ra mấy biết là mình chiêm bao, truyền lấy trầu rượu mà làm lễ khấn rằng:

  • Xin hết lòng âm trợ dẹp được xong rồi sai lập miếu thờ, ức niên hương hỏa.

Hôm sau ông Nam Tấn đem quân đi đánh vây ở núi Côn Luân, ai ai đều trông thấy giặc đóng ở trên đỉnh núi cao chót vót. Đêm hôm ấy thấy 2 ông hội quân ở rừng Phù Long để đi đánh giặc. Ông anh đem quân sang Vũ Bình giang vào Phú Lương giang (tức Thái Nguyên). Ông em đem quân sang Nam Bình giang, kéo đến Côn Luân  trợ chiến.

Đức Nam Tấn Vương biết truyền các quan tả hữu rằng:

  • Trận này đánh giặc quyết tam, có thần linh âm phù ta đó.

Dẹp giặc yên rồi sai sứ đi truyền các làng ở 2 bên bờ sông Vũ Bình giang và Phú Lương giang phải lập đền thờ cả. Phong cho ông anh Đại Đương giang Hộ quốc Thần vương. Truyền tổng Vân Mẫu làm đền thờ bà thánh mẫu, phong đức thánh mẫu là Thượng đẳng Phúc thần.

Đời Lê Đại Hành năm thứ 2 bên Tầu nhà Tống sai người hầu Nhân Bảo đem quân sang đánh nước ta, đã vào đến sông Đại Than rồi. Vua cùng quan võ là Phạm Cự Lưỡng đem 20 vạn quân đi đánh. Khi đến làng Tam Lư huyện Đông Ngàn trời đã tối phải tạm đóng quân ở đấy. Vua truyền sửa lễ cầu thần âm trợ. Thấy đến canh ba trong cung có tiếng ngâm thơ rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhất trận phong vận tận tảo trừ.

Vua thấy thần ngâm thơ ứng trợ sáng hôm sau kéo quân lên Đồ Lỗ lập trận. Đến đêm hôm ấy vua nằm lại thấy 2 ông thần đứng ở bờ sông vái mà thưa rằng:

  • Chúng tôi là Tam Giang thần thấy quân Tầu sang phá hại nước Nam ta. Chúng tôi giúp vua đánh giặc cứu lấy nước Nam ta khỏi vòng tai nạn.

Vua tỉnh dậy truyền sửa lễ tam sinh và voi, ngựa vàng mã, quần áo làm lễ rồi hóa đi. Quả nhiên trận ấy ông Lê Đại Hành thắng trận bắt được không biết bao nhiêu quân giặc.

Vua lại truyền 2 bên sông Nguyệt Đức, sông Nam Bình phải lập  miếu thờ. Lại phong cho ông anh là Khước địch Đại vương, phong cho ông em là Uy địch Đại vương.

Đến đời ông Lý Nhân Tôn lại phong cho ông anh là Sảng bang Khước địch Đại vương Thượng đẳng thần. Ông em là Hiển thắng Uy địch Đại vương Thượng đẳng thần.

Lại có câu rằng, một nhà trung nghĩa sao khéo bảo nhau cùng tuẫn tiết cả, thực là chưa có hai.

Gia phong cho ông thứ 3 là Lân Nhĩ Đại vương, ông thứ 4 là Lã Sậu Đại vương, bà em gái là Lương Mỹ Đạm Tam Giang Công chúa. Người cháu tên là Trương Kiều phong là Thác Sơn Bình Đảng Phúc thần.

Đời nhà Lý Nhân Tôn bên Tầu sai quân sang đánh nước ta. Đức Nhân Tôn sai ông Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh giặc đến làng Phương La sửa lễ cầu thần trợ chiến, bỗng nghe tiếng ở trên không ngâm thơ rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phậm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Tiếng ngâm như sấm sét, quân nhà Tống nhe thấy tự nhiên hồn xiêu phách lạc, chạy cả về Tầu.

Ông Lý Thường Kiệt làm sớ tấu vua có âm phù mọi nhẽ. Vua lại truyền hai bên bờ sông Vũ Bình và Nam Bình lập miếu thờ.

Đời vua Trần Nhân Tôn niên hiệu Trùng Hưng thứ 1 có bài thơ cho rằng:

Bá Di sinh bất thần Chu, Ninh nhự sơn trung chi khuyết
Chư Cát tử năng tẩu Ngụy, Lãng ngâm thiên thượng chi chương.

Đến năm Trùng Hưng thứ 4 bên Tầu lại sai Nguyên Khương đem quân sang đánh nước ta. Vua sai ông Trần Quốc Tuấn đem quân đi đánh giặc, vào làng Tiên Tạo có đền thờ, sửa lễ khấn rằng:

  • Xin chư linh giúp công đánh giặc.

Quả nhiên sau bình được giặc Ô Mã nhi, ông Quốc Tuấn làm sớ tâu rằng:

  • Thần làng Tiên Tạo âm phù đánh giặc.

Vua Nhân Tôn gia phong ông cả là Tam Giang Khước địch Linh ứng Đại vương Thượng đẳng thần.

Năm ấy lại phong ông Cả là Khước địch Đại vương, gia phong Khương hựu Thượng đẳng phúc thần. Ông Hai là Uy địch Đại vương, gia phong Dũng cảm phúc thần,

Đến năm Hưng Long thứ 21 lại gia phong ông Cả Trợ thuận nhị tự, ông Hai là Hiển thắng nhị tự.

Đời nhà Hậu Lê thứ 1 trong nước có loạn, vua truyền cầu đảo các bách linh âm phù thảo mạc. Trận ấy đại thắng giặc tan rồi vua truyền 2 ông Nhĩ Quận công và ông Trịnh Ngô Dụng cứ ngày kỳ tháng 4 phải đến đền làm lễ và làm 1 bài văn rằng:

Lĩnh Nam danh tướng giang Bắc phúc thần
Trương trung liệt cự tiễu hung chi kiếm
Khước địch chi thi vạn lý sơn hà
Khoát tinh trung thiêu nhật nguyệt.
Tuy linh dị ư hộ quốc công, an dân chi lạc, ức niên hương hỏa, ngật như căng địa thái băng, sùng luân ký trước ư giản bàn, hiển hiện nghi kê ư sách điểm. Khâm tai.

Đời Hậu Lê niên hiệu Cảnh Hưng và Chiêu Thống gia phong ông Cả ông Hai là Thượng đẳng Phúc thần. Ông Bà ông Tư là Trung đẳng Phúc thần.

Đời nhà Nguyễn niên hiệu Tự Đức năm thứ 26 có giặc gọi là Đại Trận, vua sai ông Tôn Thất Thuyết đem quân đi đánh giặc, đóng quân ở làng Phù Cầu, huyện An Phong có đền thờ đức thánh Tam Giang. Ông Tôn truyền sửa lễ cầu âm trợ.

Giặc đóng ở làng Đông Lỗ huyện Hiệp Hòa, quả nhiên đánh trận ấy giặc tan. Ông Tôn khải hoàn tấu điệp xin để gia phong, việc đó sau vô hiệu (ông Tôn ngộ loạn).

Có 1 bài văn tả ở đình làng Phù Cầu rằng:

Xuân giang nhất dạ chúc siêu hoa
Chiến lũy thần từ nhân bất sá
Tháp khởi canh thâm tư mạo trợ
Đinh y lộ trác trọng kim qua
Lâu đài vạn cổ duyên do họa
Hồng nhạn tam binh trận phả ca
Dân thiết tư am hoàn dị sử
Quan sơn mạc yếm khứ lai xa.

Bức biểu ấy còn tại đền Cả xã Phù Cầu.

Ngọc phả cổ chép về Chuyển Hùng Thạch Đại tướng quân là Sơn thần thời Hùng Vương Việt Thường Thị, giúp nước dẹp giặc Man

Thần tích xã Thượng Lát, Việt Yên, Bắc Giang.

Xưa  nguyên Thánh tổ Hùng Vương Sơn Tiền Hoàng đế của ngôi báu trời Nam dựng tạo cơ đồ Việt Nam, là thủy tổ khai sáng Cổ Việt Thường. Họ Hùng 18 đời thánh vương ngự trị trời Nam, khai mở cơ đồ nước Việt. Nước biếc một dòng, mở vận thánh đế trời Nam. Núi xanh vạn dặm, lập nền cung điện đô thành. Mở vật giúp người, thống quản 15 bộ, thế lớn trùm phiên bang. Nối ngôi báu lớn, là vua Viêm Hồng trị nước hơn 3000 năm, mãi giữ nền tông miếu, hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh. Truyền trăm đời đế vương nước Nam, ngự muôn năm thánh điện núi Hùng, đất tổ trời Nam là nền đất nước. Hoàng gia mãi tỏ, muôn năm còn lưu vạn đời. Mới lập cung điện, dòng dõi hoàng gia, con cháu tông phái, công thần lớn nhỏ hưởng phúc lộc ở các xứ phủ, huyện, xã dân, trang động, các tòa hương lửa sánh với trời đất không phai vậy. Về sau có thơ rằng:

Sơ khai Nam Việt tự Hùng Vương
Vạn cổ trường lưu lập kỷ cương
Nhất thống tương truyền thập bát thế
Nhị thiên dư tải ức niên hương,
? công kỷ tích thiên niên ?
Khẩu tụng phong truyền bách thế phương,
Đạo đối càn khôn giai bất lão 
Hậu đồng nhật nguyệt tịnh dương dương.

Dịch là:

Nước Nam mới mở từ Hùng Vương
Muôn thuở lâu dài dựng kỷ cương
Mười tám đời truyền gương chính trị
Hai ngàn năm lẻ vạn năm hương
Công đầu ghi tích ngàn thu đó
Bia miệng người truyền khắp mọi phương
Đạo sánh đất trời không thể mất
Mãi cùng nhật nguyệt tỏ ánh dương.

Lại nói triều Kinh truyền 18 đời đến Tạo Vương ở ngôi, đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, đặt tên nước là Văn Lang, tên kinh đô là thành Phong Châu. Tạo Vương lấy đức giáo hóa nhân dân, miễn giảm việc binh đao, noi gương tiên tổ mà trị vì, năm tháng nhàn du thời thái bình thịnh trị, là một bậc vua tốt đương thời vậy.

Nước Việt ta khi đó có một gia đình trưởng giả họ Nguyễn tên Hòa, lấy vợ là bà Cao Thị Huyền, người ở tại trang Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, xứ Bắc Kinh. Trang này (tức trang Tiên Lát) là nơi đất thiêng, có một ngọn núi đá cao chót vót, rừng tùng xum xuê. Có rồng đá, voi đá, rùa đá, chim đá, cờ đá đều cùng hướng chầu về khu trang ấp.

Lại nói, khi đó nơi ông Nguyễn ở trong khu dân cư có một miếng ao ở bên rìa trang ấp. Trong ao có một con đường nhỏ ở khu trước ao, không vuông mà thành một tấm dài. Sắc nước trong xanh. Ở giữa có một bàn đá lớn. Thật là một nơi tốt đẹp.

Khi ông Nguyễn tuổi đã cao, ngoài 60, vợ ông tuổi cũng quá 50. Vợ chồng cùng nhau tạo phúc, làm nhiều việc thiện nhưng phòng lan chưa thấy hoa nở, cành quế chưa từng đơm bông. Ông Nguyễn nghĩ đến việc hương lửa tông đường sau này lấy ai lo liệu, sớm tối thường lấy rượu làm vui cho khuây khỏa. Một hôm ông đi dạo chơi ở khu bàn đá, bỗng thấy có một con rắn hoa trắng dài hơn 10 trượng đang bò quanh trên nơi bàn đá. Rắn thấy ông bỗng nhiên bò xuống nước mà biến mất. Ông Nguyễn sau đó lòng tuy sợ hãi nhưng vẫn quyến luyến nơi đó nên thường ra đó ngồi chơi.

Một hôm ông Nguyễn đi chơi lên núi trên khu vách đá cao. Khi ấy, đất trang Tiên Lát có một khu núi đá, chia làm 3 ngọn. Ngọn cao nhất tên là núi Phượng Hoàng. Núi này là một ngọn núi có đá dựng, thông mọc um tùm. Ngọn núi thứ hai là núi Yên Ngự. Ngọn núi thứ ba là núi Kim Quy, đều có đá dựng, thông mọc ở đó. Lui bước lên núi đá, ngắm cảnh đỉnh đá, rừng thông trải năm tháng, một bầu rượu trắng tiêu giải đầu óc. Hôm đó ông đứng nhìn trên ngọn đá, rót rượu ngồi chơi trong đỉnh rừng thông. Đến khi say rượu, nằm ở trên đá, bỗng nhiên mơ màng như mộng, thấy một ông lão râu tóc bạc trắng, quần áo chỉnh tề, đường đường đi đến nơi bàn đá ông đang nằm. Ông Nguyễn hỏi:

  • Lão ông ở đâu đến đây? Có gì xin được dạy bảo.

Lão ông nói:

  • Tôi vốn là thần núi Nhạc phủ, thấy ông là người phúc hậu đến chơi ở đây. Vả lại thiên đình có việc định nên đến báo cho ông biết. Ngày mai có Chuyển Hùng giáng thế, đầu nhập vào mẹ đá thụ thai. Sau 3 năm 3 tháng thì tất sẽ đến định kỳ. Trời khai sinh thần tướng để báo phúc dày cho nhà ông đó.

Nói xong, ông Nguyễn lại hỏi:

  • Đá ở đâu mà sinh ra được?

Lão ông ngâm rằng:

Công khả tri hề công khả tri
Công chi gia xứ thạch trung trì
Địa linh thạch mẫu toàn sinh thánh
Hộ quốc trừ Man báo đắc tri.

Dịch là:

Ông có biết không, có biết không
Giữa ao phiến đá nơi nhà ông
Đất thiêng mẹ đá rồi sinh thánh
Giúp nước trừ Man, báo cho ông.

Ông nghe lời ngâm bỗng nhiên tự tỉnh dậy, mới biết đó là nằm mơ. Ông nghĩ tới việc thần đã báo tin, trong lòng thấy yên tâm. Ông bèn đứng dậy trở về nhà. Lại đến đêm đó, thấy mưa gió nổi lên ở nơi ngoài ao. Nghe thấy tiếng người kêu rất thiêng, tiếng đàn hát cười nói véo von.

Ông Nguyễn đi ra bên bờ ao, chống gậy quan sát, thấy nơi bàn đá giữa ao nổi mây năm sắc, khí lành rạng rỡ. Trên không bốn phía vang tiếng hát các tiên tử, tiếng sáo trúc nhã nhặn ngàn đội ở trong đường mây. Trăm sao cùng phát ánh sáng rực rỡ cả một vùng. Tỏa màu đào hồng thắm tía, cẩm tú huy hoàng, xanh vàng rực rỡ. Khắp nơi tràn mùi hương thơm ngào ngạt. Ông đợi ở chỗ đó đến sáng để xem thế nào.

Đến sáng sớm, tức ngày mùng 10 tháng Giêng, nơi bàn đá có ánh mây mù bao phủ, trời đất mù mịt. Bỗng có một tiếng sấm rền như long trời lở đất. Mây mù tự tan, trời đất trong sáng. Nơi bàn đá bỗng tự nhiên vỡ ra, chia thành 3 mảnh. Lại thấy một có một người con trai có tướng mạo đường đường, phong tư lẫm liệt, thân hình to lớn, mặt như mặt trời mới mọc, mắt tựa sao trời chiếu sáng, ánh như sao Bắc Đẩu, tiếng vang như tiếng sấm rền đất, vang động trên cung trời dưới thủy phủ. Quả là sự thần kỳ, không phải như người thường trên đời vậy.

Ông Nguyễn đến thẳng chỗ bàn đá, bàng hoàng ôm lấy người con trai mang trở về nhà, tự mình chăm sóc nuôi nấng. Được quãng 7 tháng, mỗi ngày một lớn. Tính vốn trong sạch, thích ăn chay tịnh, không ăn thịt trâu lợn. Đến khi 7 tuổi đã cao lớn đường đường, thân cao 10 thước, sức có thể nhấc đỉnh, thế mạnh bạt núi. Đi như gió thổi mây bay, sấm hô mây chạy. Nhân dần đều sợ phục. Hổ báo về chầu. Ông Nguyễn bèn đặt tên là Thạc tướng công.

Tướng công tuổi đã qua 7 năm mà miệng không nói năng. Ông từ lúc 5 tuổi mỗi tháng 2 lần sóc vọng đều lên ngọn núi đá, ngồi ở trên bàn đá. Mây rồng 5 sắc, trăm thú đến chầu. Nhân dân thường sợ phục, thấy vậy đều kinh phục, gọi là thánh Nhạc phủ giáng trần.

Khi ấy Tạo Vương chỉ lấy đức hiền hòa trị dân, lại theo thói tửu sắc, vui chơi trai gái, không phòng bị chốn biên cương, nên từ đó sinh ra nạn giặc lớn. Lại nói, khi ấy có tù trưởng châu Thạch Lâm ở Cao Bằng tên là thần tướng Lục Đinh, nhờ sự trợ giúp của nước phương Bắc đem quân ngoài 50 vạn cùng với thần tướng Lục Đinh Thạch Lâm đến đánh Tạo Vương để chiếm lấy đất nước. Danh tướng trăm viên, voi ngựa nhiều không kể xiết. Thuyền bộ cùng tiến. Từ đất Cao Bằng đến Tuyên Quang, Hưng Hóa khắp nơi đều là đồn doanh của giặc. Nhân dân lầm than, binh lửa khắp trời.

Thư gửi từ biên thùy báo gấp, một ngày 5 lần. Vua vô cùng lo lắng. Liền cho triệu tập đại hội quần thần, thiếp lập đàn chay cầu đảo trời đất. Qua ba ngày bỗng thấy trời đất u ám, sấm sét ầm ì, mưa gió mù mịt, vang vang tới nơi tế đàn. Khắp chốn tối tăm như ban đêm. Chốc lát mây mù tan đi, bên trong đàn rạng rỡ, thấy có một lá cờ trắng dựng ở trên tế đàn. Trên lá cờ có viết một bài thơ rằng:

Huy khâm Thượng đế báo thần quân
Dục tảo bình Man tán tự vân
Tầm đáo Bắc Hà Yên Việt địa
Chuyển Hùng Thạch tướng tại Tiên nhân.

Dịch là:

Vâng mệnh Thượng đế báo nhà vua
Giặc Man muốn phá tan như mưa
Bắc Hà tìm đến đất Yên Việt
Chuyển Hùng Thạch tướng người Tiên xưa.

Vua cùng với quần thần đều thấy Hoàng thiên giáng phúc. Ngay hôm đó, mùng 10 tháng Tám, vua sai một viên quan triều đình cùng với 10 xá nhân đem tấm cờ lệnh của Hoàng thiên đến tìm ở huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà xứ Bắc Kinh. Một ngày 12 tháng Tám đi đến trang Tiên Lát. Khi đó Thạch tướng còn nằm ở trên giường. Ông Nguyễn bỗng nghe rằng vua cử xá nhân đến tìm mộ người dẹp giặc. Ông Nguyễn bèn đi ra đường xem, thấy một cây cờ lệnh, quả nhiên có ghi tên của Thạch công. Ông Nguyễn vội vào nhà, lấy tay vỗ lên người tướng công mà nói:

  • Thiên tướng vốn là mẹ đá thụ thai mà sinh. Nghĩa nuôi dưỡng ân sâu, cũng là con của nhà ta. Ngày nay đất nước có giặc lớn, vua sai sứ giả tìm đến. Sao không giúp nước báo ơn sâu, còn nằm ngủ vậy?

Tướng công nghe ông Nguyễn nói vậy mới trở người, mở miệng bất ngờ nói:

  • Xin hãy gọi sứ giả tới.

Ông nói với sứ giả:

  • Xin mau chóng trở về báo với vua làm một con voi đá cao mười trượng, đem đến đây cùng với cây cờ của Thiên Đế. Giặc Man tất sẽ được dẹp yên.

Sứ giả bái tạ rồi trở về báo lên vua. Vua nghe vậy rất vui mừng, bèn sai thợ đá làm một con voi đá cao hơn 10 trường. Vua lại tự thân ngự đến cùng trăm quan thị tòng theo giá, đem voi đá và cờ lệnh đến. Ngày hôm đó là mùng 3 tháng Tám nhân dân dựng một cung đình, vua ngự ở đó. Tới nay hiện vẫn còn tên gọi là “xứ Đình Ngự”. Nhân dân làm lễ bái mừng.

Khi đó, vua triệu Chuyển Hùng Thạch tướng đến để trao cho voi đá và cờ. Thạch tướng đường đường đi ra đến trước mặt vua, thân cao mười thước, mặt như mặt trời hồng mới mọc. Vua vui mừng đứng dậy. Trăm quan quỳ bái. Vua mới phán rằng:

  • Thiên tướng giúp nước trừ giặc, về sau công đức phải báo đáp như thế nào cho xứng?

Thạch tướng đáp:

  • Chức mệnh trên Thiên đình là quyền quản Nhạc phủ, được sai giáng trần giúp vua trừ giặc Man, tất là theo ý Thiên đình, đâu dám để vua phải báo ơn. Chỉ có mẹ đá thụ thai ở chốn ao, đã có dấu ấn ngón tay, xin được lưu làm nơi cúng tế, lập miếu phụng thờ. Lại có cha nuôi là ông Nguyễn, xin được vua báo đáp cho.

Nơi mẹ đá thụ thai sinh thánh ở bên chỗ dân cư hiện còn dấu ấn ngón tay của thánh.

Nói xong, Thạch tướng lên voi, tay cầm lá cờ, theo sau là quân sĩ đi dẹp giặc. Chẳng bao lâu tiến thẳng đến Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa. Các nơi giặc đóng quân thấy vậy đều tự bỏ chạy. Gió thổi mưa rơi, trời đất mù mịt. Tướng giặc kinh hồn đều thua chạy. Nghìn quân vạn ngựa truy đuổi, chém không kể xiết, đuổi bắt được thần tướng Lục Đinh, chém thành ba đoạn. Một trận dẹp yên toàn bộ giặc.

Thạch tướng cưỡi voi, tiếng rống như sấm, trở về thẳng nơi sinh ở trang Tiên Lát. Ông để lại voi ở bên trang, tới nay còn miếu đá ở đất trang Tiên Lát. Thạch tướng lên thẳng đỉnh đá núi Phượng Hoàng trên ngọn cao, bay lên trời mà đi, hóa sinh bất diệt. Ngày hôm đó là 12 tháng Chín. Nơi ngọn núi đá gió thổi thông reo, mây mù mờ mịt, trăm thú kêu chạy, là đại hội rồng mây ở trên đỉnh núi ngọn đá. Nhân dân đều kinh sợ.

Trong khoảnh khắc trời quang mây tạnh. Nhân dân, quân sĩ đều lên trên đỉnh đá xem, không thấy ai. Chỉ thấy còn áo mũ cởi ra để lại trên đá ở đỉnh núi. Nhân dân bèn làm biểu tâu lên vua. Vua nghe vậy bèn dẫn trăm quan trở về nơi hóa, tức Tiên Lát, làm lễ lập đền thờ ở nơi đỉnh núi đã hóa mà thờ phụng. Cho Tiên Lát làm làng nghĩa hương, xuân thu hai kỳ làm lễ quốc tế. Vua còn cấp ban cho ruộng đất để làm hương lửa phụng thờ. Lại phong cho mỹ tự, ban thêm áo mũ, vạn năm hưởng huyết thực, hương lửa vô cùng, cùng với đất nước vui yên, mãi là thức lệ. Thịnh thay!

Phong làm Chuyển Hùng Thạch tướng Đại vương. Trang Tiên Lát là nơi hộ nhi phụng thờ. Còn như những nơi Thạch tướng từ nhà tiến đi dẹp giặc, nhân dân đều làm lễ lập hành cung, cộng 41 nơi phụng thờ.

Lại nói, từ sau khi Thạch tướng hóa, vua cho vợ chồng ông Nguyễn về thành Phong Châu để hưởng sự chăm sóc của quốc gia. Qua 3 năm ngày mùng 10 tháng Mười một vợ chồng đều hóa. Vua truyền trăm quan làm lễ chôn cất ở nơi đất bên của Đông của thành nội.

Lại nói, qua thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương trải 949 năm đến khi bốn họ nước Nam là Đinh, Lê, Lý, Trần mở lập cơ đồ, thường có giúp nước giúp dân có nhiều linh thiêng, nên các đời đế vương có truy phong mỹ tự, hương lửa không ngừng.

Lại nói, đến Lý Thánh Tông đi dẹp giặc, quân sĩ đi qua đền Tiên Lát của thần, thì voi ngựa đều gầm thét lên. Voi ngựa tự phục xuống, không thể đi được. Vua nhìn thấy ngôi đền ấy bèn cầu đảo tế rằng:

  • Xin hãy âm phù cho nước nhà, cầu cho voi được thông hành. Sau này dẹp yên được giặc, Trẫm sẽ phong thêm mỹ tự, hương lửa không ngừng.

Cầu đảo xong thì voi ngựa đi lại bình thường. Vua Lý dẹp giặc được yên bình, bèn truy phong hai chữ Hiển ứng Linh thông, hương lửa không ngừng, cùng hưởng với quốc gia. Thịnh thay!

Người đời sau có thơ khen rằng:

Phẩm thị thiên thần bất thị nhân
Khâm thiên nhi giáng trợ hiền quân
Công đức tỷ đồng thiên địa đại
Nhật tân nhi kiến hựu nhật tân.

Dịch là:

Vốn thiên thần chẳng phải người phàm
Vua hiền, xuống giúp mệnh trời ban
Công đức sáng ngang trời với đất
Ngày mới lại theo ngày mới sang.

Các ngày sinh hóa cùng các ngày tiết khánh hạ và các chữ húy, màu áo phục được khai như sau:

– Ngày sinh là mùng 10 tháng Giêng. Khi làm lễ ngày hôm trước quét dọn từ trên đền thượng về tới khu dân cư. Một mâm cỗ chay, lợn đen tuyền, người phục vụ phải là gia đình vợ chồng đầy đủ, cùng với cỗ trâu nếu có thể, rượu ngọt, xôi các thứ. Làm lễ tế, ca hát ba ngày.

– Ngày hóa là 12 tháng Chín. Cỗ chay ba mâm. Thịt lợn, bánh dày, xôi, rượu các thứ. Trước một ngày thì tắm tượng ở ao nơi sinh.

– Lễ khánh hạ ngày 12 tháng Tám. Cỗ chay một mâm. Trước một ngày nghênh đón phải quét dọn bốn đường về. Xôi, gà, rượu, cơm, ca hát, đấu cờ ba ngày.

– Ngày hóa Thánh phụ, Thánh mẫu là mùng 10 tháng Mười một. Lợn, gà, xôi, rượu, cơm.

– Ngày mùng 10 tháng Năm và ngày 20 tháng Mười một là ngày khánh hạ.

– Ngày khánh hạ mở sắc là ngày 15 tháng Hai.

Nguyên tấm bia này là do tăng Tuệ Không hòa thượng ở chùa Tứ Ân Quan Âm núi Bổ Đà khắc mộc bản, nhân nhớ đến tích thánh, lại nghe nói ghi chép về thần đã bị mất, bèn cử người đi cầu tìm trong sách vở của nhà nước, trải qua gần một năm thì tìm được ghi chép ở xã Bình Đắng tỉnh Sơn Tây, có nhà đại quan của triều trước là chưởng quản điển tịch bách thần, đem về xem xét, thấy đúng như tích truyền miệng để lại, bèn cung kính vẽ tượng ngọc khắc vào bia để truyền đời lâu dài./. 

ĐÌNH MẬT NINH – DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT QUỐC GIA

1. THÔNG TIN CHUNG

Tên gọi: Đình Mật Ninh 

Tên khác: Đình Cả (gọi theo tên thôn Đình Cả, nơi di tích tọa lạc)

Địa chỉ cụ thể: thôn Đình Cả, phường Quảng Minh (nay thuộc tổ dân phố Đình Cả, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh)

Vị trí địa lý và không gian cảnh quan:

Mô tả vị trí: Đình Mật Ninh nằm ở trung tâm làng Mật Ninh cổ (nay gồm 3 tổ dân phố: Đình Cả, Đông Long và Kẻ)

Yếu tố phong thủy: Đình tạo lạc tại khuôn viên đẹp, thoáng đãng, quay về hướng Nam, phía trước là hồ nước rộng, nhìn xa xa là núi Kẻ như một án tiền tạo điểm nhấn cho bức tranh thiên nhiên nơi đây. Câu đối ở cột biểu nghi môn của đình:

Chung Sơn hướng hậu dâng khang Mật
Đức thủy bao tiền địa trạch Ninh.

Dịch nghĩa:

Núi Chung Sơn cao giữ phía sau, dân Mật yên vui đông đúc
Sông Nguyệt Đức uốn vòng phía trước, đất Ninh thấm nhuần ơn sâu.

Câu đối ở mặt trong bức bình phong ngoài đình:

Cao sơn long hội, địa linh sinh vượng khí
Tú thủy loan hồi, nhân kiệt xuất anh khoa.

Nghĩa là:

Núi cao rồng hội, đất thiêng sinh khí vượng
Sông đẹp loan về, người tài xuất khoa danh. 

Niên đại khởi dựng và các lần trùng tu:

Chưa có tư liệu xác định chính xác về năm khởi dựng xây dựng đình Mật Ninh, nhưng căn cứ vào tấm bia “Hành huệ lưu phúc chi bia” niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) và dòng chữ Hán: “Đề hình giám sát ngự sử Chu Danh Tể công đức thiết lâm trung đình nhị trụ” (Quan Đề hình giám sát ngự sử là Chung Danh Tể công đức hai cột cái bằng gỗ lim ở giữa đình) có thể xác định niên đại đình được xây dựng vào thế kỷ XVIII vì Chu Danh Tể là người làng Mật Ninh, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bính Thìn (1676) niên hiệu Vĩnh Trị đời vua Lê Hy Tông.

Qua thời gian, ngôi đình được quan tâm tu bổ, tôn tạo nhiều lần, gần đây là vào các năm 1996, 2016 với việc nâng cột đình, đắp đao đình, xây bình phong, tạc voi đá, đỉnh hương… Tuy qua nhiều lần tu sửa nhưng ngôi đình vẫn giữ được dáng vẻ ban đầu.

2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ

Nhân vật được thờ: 

Đình Mật Ninh thờ đức thánh Cao Sơn Đại vương, một vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, có công giúp dân đánh giặc, dẹp loạn, đem lại sự bình yên cho đất nước.

Sự kiện lịch sử, văn hóa gắn liền với di tích:

Các tư liệu ở đình Mật Ninh chép rằng: 

Đời vua Hùng Vương thứ 18 có gia đình ông Nguyễn Hành và vợ là bà Đầu Thị Loan quê ở động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây; hai người ăn ở nhân đức nhưng hiềm một nỗi tuổi đã cao mà chưa có con. Họ đi nhiều nơi cầu khấn trời đất, thần Phật để mong có được mụn con; một đêm họ nằm mộng thấy Thượng đế sai sứ giả đến báo cho biết sẽ có một vị thần giáng sinh xuống làm con của họ. Sau đó người vợ có mang rồi sinh ra một người con trai tướng mạo phi phàm đặt tên là Cao Sơn. Vì là thần giáng sinh nên từ nhỏ Cao Sơn đã thông minh, trí dũng hơn người; đến khi trưởng thành đã là người tinh thông võ nghệ, am tường binh thư.

Bấy giờ đất nước có giặc Thục kéo sang xâm lược, thế lực rất lớn; vua Hùng Duệ Vương sai sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài giỏi, hiền đức ra giúp nước. Lúc ấy, Cao Sơn biết tin đã xin phép cha mẹ để về triều ứng tuyển và được trọng dụng, vua cho ông làm phó tướng phụ tá cho Tản Viên Sơn Thánh, được Tản Viên phong làm Tiền đạo Thượng tướng quân, lệnh mang quân đi đánh giặc ở miền Đông Bắc. 

Khi Cao Sơn tướng quân đi đến vùng Kinh Bắc thì trời vừa xẩm tối, ông bèn cho quân dừng lại đóng trại nghỉ ngơi, sau đó thiết lập đồn lũy. Người dân địa phương đã hết lòng giúp đỡ, lại nhờ có thần nhân âm phù trợ giúp nên công việc chẳng mấy chốc đã hoàn thành. Cao Sơn đã chỉ huy quân lính đánh bại quân Thục. Dẹp xong giặc, Cao Sơn trở lại nơi đóng đồn lũy cũ để cảm tạ, báo đáp dân làng sau đó mới trở lại triều đình. Ghi công của ông, vua Hùng đã ban thưởng lớn, lại cho ông thực ấp ở Ái Châu (Thanh Hóa). Về sau Cao Sơn “hóa”, triều đình đã phong sắc làm Thượng đẳng phúc thần, lệnh cho dân các thôn làng trước kia đã từng trợ giúp Cao Sơn tướng quân đánh giặc phải lập đền thờ phụng mãi mãi, trải các triều đại đều gia phong mỹ tự cho ông.

3. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT

Bố cục mặt bằng tổng thể và các hạng mục chính:

Mô tả bố cục: Đình bố cục chữ Công, gồm nghi môn, tòa đại đình, tòa ống muống 2 gian và 01 hậu cung gian ở phía sau. Phía trước là nhà đại đình, hai bên sân đình có tả vu và hữu vu. Nếu đi từ ngoài vào qua Nghi môn cổng chính theo đường nhất chính đạo qua sân đình rồi đến Đại đình, tiếp đó là tòa ống muống. nối Đại đình với hậu cung.

Mô tả từng hạng mục: Tòa đại đình có 3 gian 2 chái, 4 mái bên ngoài là mai mặt chính và 2 mặt mái lợp mũi hài. Nghệ thuật chạm khắc ở ngôi đại đình mang dấu ấn nghệ thuật thời Hậu Lê và Nguyễn

Tòa ống muống nối Đại đình với hậu cung, tòa ống này có 02 gian kết cấu kiểu con chồng đấu kê, vì nóc giáp hậu cung kết cấu kiểu ván mê. 

Tòa hậu cung gồm 01 gian 2 chái 4 mái, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc xây gạch, 4 góc đao tạo hình cong vút mềm mại.

Nghệ thuật trang trí, điêu khắc: 

Chạm khắc: Nghệ thuật trang trí tại đình Mật Ninh chủ yếu là đắp vữa và điêu khắc gỗ; trong tòa đại đình bờ nóc đắp nổi đề tài lưỡng long chầu nhật, đầu kìm; con xô có tạo hình nghê chầu, đầu đao cong hình đầu phượng, bên dưới đắp nổi ly chầu; các gian hồi trước Đại đình trang trí gạch hình hoa chanh. 

Trên các cấu kiện kiến trúc của đình hiện còn bảo lưu được nhiều mảng chạm khắc tinh xảo với kỹ thuật chạm lộng, chạm kênh bong, chạm nổi kết hợp với nhau tinh tế và điêu luyện cùng nhiều đề tài trang trí phong phú và độc đáo mang phong cách thời Lê và Nguyễn.

Nổi bật là nghệ thuật chạm khắc gỗ tại đình, rất đa dạng, thấy rõ ở vì nóc, vì nách với các mảng chạm tứ linh, hoa lá cách điệu, rồng ổ, đao mác, vân mây… Phần cửa võng được sơn thếp, chạm khắc lưỡng long chầu nguyệt, hoa cúc, tứ linh… mang nét nghệ thuật thời Lê – Nguyễn, chắc khỏe, cổ kính.

Tòa ống muống cũng chạm khắc các đề tài tương tự nhưng đa dạng hơn với các tích rồng hý thủy, cá chép, hoa sen, sóng nước… Tòa hậu cung bờ nóc đắp lưỡng long chầu nhật, bờ nóc đắp đầu kìm, nghê chầu, các đầu đao đều trang trí đề tài tứ linh, các cửa sổ trang trí gạch hoa chanh.

Kiến trúc: Đình Mật Ninh là một tổng thể kiến trúc cổ mang nét kiến trúc truyền thống đặc trưng thời Hậu Lê thế kỷ XVIII, qua thời gian đình được trùng tu nhiều lần vì vậy hiện nay có một số bộ phận kiến trúc mang phong cách triều Nguyễn. Sự kết hợp giữa kiến trúc thời Hậu Lê – Nguyễn tạo sự độc đáo, có tính chất tiếp dẫn qua các thời kỳ với hệ thống mảng đắp, mảng đục chạm tinh xảo, thể hiện tài nghệ của người thợ dân gian, yếu tố thẩm mỹ các giai đoạn lịch sử  nhưng vẫn đồng nhất, tạo sự uy nghiêm nhưng gần gũi, là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân bao đời nay, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tri ân những bậc anh hùng có công lao với đất nước với nhân dân.

4. GIÁ TRỊ HIỆN VẬT

Bài trí thờ tự: Hậu cung là trung tâm thờ tự của ngôi đình, chính giữa có 01 án thờ gỗ có 02 cột chống đỡ ở phía trước, trên là khám thờ bưng kín bằng 04 cánh cửa, bên trong đặt ngai thờ đức thánh Cao Sơn đại vương. Bên ngoài bày giá đài, đài, đèn nến, bát hương; hai bên là ban thờ hậu, ban bên trái thờ ông Hoàng Nhuận, ban bên phải thờ hai ông Chu Khắc Minh và Chu Danh Tể. 

Hoành phi trước hậu cung: “Như tại” (Như vẫn còn). Câu đối hai bên cột của hậu cung:

Cung miếu nhất phiên hoa đống vũ
Chưng thường vạn tự tập y quan.

Dịch nghĩa:

Cung miếu một toà cột mái đẹp
Xuân thu vạn tế áo mũ về.

Hai bên gian tiền tế có bộ ngựa trắng, ngựa đỏ kích thước lớn, hạc chầu, cây hương đá, trống, chiêng… Đặc biệt là có 2 cỗ kiệu cổ, trong đó có một cỗ kiệu bát cống lớn sơn son thiếp vàng, chạm khắc tinh xảo rất đẹp và 1 cỗ kiệu song hành. Đồ thờ tự cổ còn có hương án, bát hương, bát bửu, chấp kích, quán tẩy, giá văn, ngai thờ, sập thờ … 

Di sản Hán Nôm quan trọng: 

Trong đại đình Mật Ninh hiện còn lưu giữ nhiều hoành phi, câu đối cổ sơn son thếp vàng, nội dung ca ngợi công đức của đức thánh Cao Sơn đại vương cũng như cảnh đẹp của vùng đất Mật Ninh. Thí dụ như bức hoành phi ở tiền tế: “Trạc quyết linh” (Rực rỡ linh thiêng), hoành phi ở trung cung: “Ngưỡng chỉ” (Nơi kính ngưỡng), 

Hệ thống câu đối trong đình còn khá phong phú, ca ngợi cảnh sắc đất Mật Ninh và công lao, sự linh thiêng của thần Cao Sơn. Câu đối trong tiền tế:

Quốc vượng hùng kỳ, văn đức chiếu minh đồng nhật nguyệt
Dân khang hỷ lạc, võ công uy liệt định sơn hà.

Nghĩa là:

Nước thịnh mạnh mẽ, đức văn chiếu sáng cùng nhật nguyệt
Dân khỏe vui vẻ, công võ oai trùm định núi sông.

Câu đối ở cột hai bên tiền tế:

Đình vũ trùng tu, hương hỏa huy hoàng Mật Ninh địa
Hùng anh tất tập, hiển linh hách diệc Quảng Minh thiên.

Dịch nghĩa:

Mái đình trùng tu, hương lửa ngời ngời đất Ninh Mật
Anh hùng tất đến, linh thiêng rờ rỡ trời Quảng Minh.

Câu đối ở gian giữa:

Thần công quốc tích lưu thiên cổ
Dân thịnh bang bình vạn thế ca.

Nghĩa là:

Công của thần lớn lao, được lưu truyền từ ngàn xưa
Dân thịnh vượng, nước bình yên, muôn đời ca tụng.

Ngoài ra, ở bình phong bên ngoài, trụ biểu và một số khu vực trong di tích cũng có câu đối ca tụng thần, ca tụng đất Mật Ninh. Câu đối ở mặt ngoài bức bình phong bên ngoài:

Sinh vi tướng phù dân bình thiên hạ
Tử vi thần linh ngự trị tại đình trung.

Nghĩa là:

Sinh làm tướng giúp dân yên thiên hạ
Chết làm thần thiêng ngự trị tại trong đình.

Câu đối ở cột giữa nghi môn:

Linh nhạc giáng thần, Bắc địa sơn hà chung tú khí
Như Nguyệt thanh phong, Nam thiên thảo mộc cộng phu vinh.

Nghĩa là:

Núi thiêng giáng thần, đất Bắc non sông đúc khí đẹp
Như Nguyệt gió mát, trời Nam cây cỏ góp vinh hoa.

Tại đình còn lưu giữ được 02 tấm bia đá, một tấm bia mặt trước đề Hành huệ lưu phúc chi bi, mặt sau đề Hậu thần bi ký. Bia làm năm Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) nói về việc bầu hậu, thờ phụng ông Hoàng Nhuận ở bên trái ban thờ chính trong đình. Tấm bia có trang trí rồng chầu ở trán bia, xung quanh hình chim thú rất đẹp. Bia số 2 niên đại 1941 ghi việc một người phụ nữ họ Nguyễn hiến ruộng, gửi giỗ vào  đình. 

Đình còn có 1 cây hương đặt ở gian tiền tế trước hương án. Cây hương cổ chỉ còn lại phần đế, phía trên là cây hương mới làm lại có chữ đề: Cao Sơn Thượng đẳng thần.

5. LỄ HỘI VÀ PHONG TỤC VĂN HÓA

Lễ hội chính: 

Lễ hội làng Mật Ninh là một trong những lễ hội đặc sắc trong vùng. Hội lệ được tổ chức chính vào ngày 09 tháng Giêng âm lịch. Trong hội có nghi thức rước kiệu từ đình Mật Ninh lên nghè Cả, chùa Mang ở núi Kẻ sau đó vòng về đình Mang ở phía Đông Nam của làng rồi mới rước kiệu trở lại đình.

Theo lệ cũ, xưa kia làng Mật Ninh có 8 giáp, mỗi giáp một họ là giáp Chu, giáp Hoàng, giáp Nguyễn, giáp Phan Hữu, giáp Phan Văn, giáp Chu Thế, giáp Chu Đình và giáp Hàng Thôn (thuộc xóm Đình Mang). Khi chuẩn bị vào hội, các giáp họp bàn bầu ra ông Cai đám và 10 ông trương tuần theo lệ “thôn lần xã lượt”. Giáp phải lo cho Cai đám, Trương tuần ấy gọi là giáp Dương cai. Ông Cai đám của giáp Dương cai là người phải có trách nhiệm tổ chức lễ hội cùng với các Lý dịch trong làng. Người được cử làm Trương tuần phải là người không có “bụi bám” tức là không tang trở, vợ chồng, cha mẹ, con cái song toàn,… Làng Mật Ninh không có Thủ từ nên ông Cai cũng là người thay chân ông Từ, hàng ngày có trách nhiệm đèn hương ở đình, đến và chỉ có ông mới là người được đưa lễ từ ngoài vào trong Thánh cung mỗi khi tế lễ, hội hè.

Để tổ chức hội lễ, làng Mật Ninh mời các quan viên của hội Tư văn họp và bầu ra một ban tế. Ông Chủ tế do ban tế bầu ra. Tiêu chuẩn của Chủ tế cũng phải không bụi bám, biết Hán ngữ, biết tế và trưởng mạo trong ngoài phải oai phong. 

Trước tế lễ, giáp Dương cai cho mọi người dâng cây đu, tổ chức ăn đám chơi đu ngày tết. Giáp phải lo sắm sửa đầy đủ lễ vật, như: lợn đen, tổ tôm điểm sẩm, đèn nhang, hương hoa, … cho đến việc chuẩn bị lợn thờ, xôi, thịt làm hội và chuẩn bị tổ chức các trò chơi. Chiều ngày mồng 8, dân làng cho lắp kiệu ra sân đình, lau chùi sạch sẽ, đóng sẵn ở cửa đình, sau đó cho bày các đồ nghi trượng, bát bửu, gươm trường, siêu dao, chùy, côn, phủ việt, lệnh bài uy nghi trước kiệu. Lại cho đặt tàn, lọng, quạt và hai bên kiệu thánh. Giữa đôi bên bát bửu đặt nhang án để rước nhị hương ở đó chờ ngày mồng 9 rước đi. Trong đêm mồng 8, từ tối đến 00 giờ đêm có tổ chức hát Ca trù vào đám..

Sáng ngày 09 tháng Giêng, dân 8 giáp và dân làng tề tựu ở cửa đình để tổ chức cuộc rước. Làng chọn lấy trung nam tuổi từ 18 trở lên đến 30 cho vào đội rước. Các trung nam đi rước phải có vóc dáng đẹp, khỏe mạnh. Tất cả đều mặc áo nâu đỏ, quần trắng, chân quấn xà cạp, lung thắt bao đỏ bỏ mũi bên trái, trái, đầu chít khăn đỏ. Mỗi người cầm một đồ nghi trượng hoặc khiêng chiêng, trống, hương án, kiệu, tàn, lọng,…

Mật Ninh cũng có tục rước nước. Lệ quy định 5 năm hoặc 10 năm thì rước nước một lần. Rước nước cũng như rước thờ Thánh hoàng nhưng đến núi Kẻ phải đi thẳng qua Ninh Sơn rồi qua đoạn Cống Dống ở bờ sông Cầu. Ở đó đoàn rước hạ kiệu, chở các quan viên đem choé lên thuyền, bơi thuyền ra giữa sông múc nước cho vào choé đem về thờ ở đình. Sau cuộc rước kiệu về đình, làng tổ chức tế lễ. Lễ vật dâng tế có lợn đen, hương hoa, nước, rượu và trầu cau.

Phần hội xưa có nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, đánh đu, nhảy phỗng, bắt vịt, tổ tôm điếm, tam cúc điếm… Diễn xướng dân gian có tuồng, chèo, hát ca trù… Trong hội làng còn có làm cỗ hương ẩm, các trai tráng từ 18 tuổi trở lên đều được ra đình ăn cỗ…

Hội làng Mật Ninh ngày nay vẫn duy trì theo lệ cũ, năm nào được mùa thì mở hội to nhưng theo định kỳ 3 đến 5 năm một lần. Hội ngày nay vẫn duy trì lễ rước nhưng không còn lễ rước nước vào các năm chẵn. Phần hội cũng có nhiều thay đổi, ngoài các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: chơi đu, đấu vật, chọi gà,… còn tổ chức hát quan họ dưới thuyền, và giao lưu câu lạc bộ thơ ca làng Mật Ninh thu hút được đông đảo người dân tham gia và hưởng ứng. Đời sống kinh tế của nhân dân khá giả hơn nên việc ăn cỗ ở đình không câu nệ như xưa nữa mà chỉ duy trì hình thức tôn trọng các cụ cao tuổi, vì thế mà tình làng nghĩa xóm ở Mật Ninh vẫn được bền chặt.

6. KẾT LUẬN

Văn bản công nhận di tích: Đình Mật Ninh đã được xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 188 QĐ/BT của Bộ Văn hóa thông tin ngày 13 tháng 02 năm 1995.

Đình Cả Mật Ninh

Hoành phi và bình phong tiền tế

Kiệu bát cống

Hoành phi Ngưỡng chỉ

Các bức chạm kiến trúc ngoài tiền tế.

Nóc trước hậu cung với hoành phi Như tại

Bát bửu

Ngai thờ hậu thần Hoàng Nhuận

Chấp kích

Ngai thờ Cao Sơn Đại vương

Bia năm Vĩnh Thọ thứ 2 (1659)

ĐÌNH HỮU NGHI – DI TÍCH NGHỆ THUẬT QUỐC GIA

1. THÔNG TIN CHUNG

Tên gọi: Đình Hữu Nghi

Tên khác: Đình Hữu Lân (tên gọi từ thời Hậu Lê trở về trước) 

Địa chỉ cụ thể: Tổ dân phố Hữu Nghi, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh

Vị trí địa lý và không gian cảnh quan:

Mô tả vị trí:  Đình nằm kề bên dòng sông Nguyệt Đức (sông Cầu), phía Bắc đường làng và hồ ao tổ dân phố Hữu Nghi, phía Đông, phía Tây, phía Nam giáp khu dân cư tổ dân phố Hữu Nghi. Thời xưa Hữu Nghi gọi là Hữu Lân, thuộc tổng Quang Biểu, huyện Việt Yên, phủ Bắc Hà.

Yếu tố phong thủy: đình Hữu Nghi nhìn theo hướng Nam – ra sông Cầu thơ mộng. Địa điểm đình nằm ở rìa trước làng Hữu Nghi, xung quanh 3 phía giáp với nhà dân, đằng sau còn có ngôi chùa cổ kính, đằng trước là hồ ao trong mát.

Niên đại khởi dựng và các lần trùng tu:

Thông qua kết quả khảo sát về hiện trạng di tích các tài liệu hiện vật ở đây, quan trọng nhất là hệ thống bia đá (hậu thần), có thể xác định đình Hữu Nghị là công trình tín ngưỡng văn hoá được xây dựng từ thời hậu Lê (thế kỷ XVIII). Hiện tại ở đây còn hai tấm bia cổ ghi niên hiệu Vĩnh Thịnh (từ năm 1706 đến 1719) đời vua Lê Dụ Tông.

Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử quê hương và đất nước, đình làng Hữu Nghi đã trùng tu sửa chữa nhiều lần vào triều Nguyễn. Qua nội dung các tấm bia đá và hiện trạng công trình đã cho ta thấy điều đó; hiện nay đình vẫn còn vững chắc, được nhân dân địa phương quan tâm bảo vệ chu đáo.

2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ

Nhân vật được thờ: 

Đình Hữu Nghi là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu của dân thôn thờ phụng thành hoàng là đức thánh Tam Giang. Đây là một trong số hơn 300 làng thờ đức thánh Tam Giang dọc hai bờ sông Cầu (Nguyệt Đức) từ Ngã Ba Xà đến Lục Đầu Giang.

Sự kiện lịch sử, văn hóa gắn liền với di tích:

Sự tích về đức thánh Tam Giang được ghi lại trong bản khai của chức dịch địa phương vào năm 1938 như sau: 

Thánh mẫu là người họ Trương, người ở làng Vân Mẫu, huyện Quế Dương, sau là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Năm 18 tuổi nhan sắc xinh đẹp; đến năm 22 tuổi bà nằm mộng thấy thần nhân giao cảm, từ đó mang thai 13 tháng rồi sinh được một bọc 4 người con trai, 1 người con gái, đặt tên thứ tự là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và Trương Thị Đạm Nương.

​Khi lớn lên anh em họ Trương tài lực hơn người, sau ra giúp vua Triệu Đà đánh giặc có công. Vua phong cho là Đại tướng quân. Khi nhà Triệu mất nước, Ngài về ở ẩn tại núi Vũ Ninh, đến khi nhà Lý làm vua có triệu Ngài ra làm quan, nhưng Ngài không ra, mấy anh em xuống một chiếc thuyền, giả làm thuyền buôn, đi đến Ngã Ba sông Nguyệt Đức, một đàng đi về Sóc Sơn, một đàng về Tam Kỳ, Ngài đã đục thuyền để tự thác, tức là ngày mùng 8 tháng tư. 

Đến đời vua Triệu Quang Phục làm vua, nhà Lương bên Tàu có sai tướng Dương Sàn đem quân sang xâm lấn nước ta. Nhà vua đem quân ra chống cự không được. Ngài âm phù, đánh tan được quân Tàu, đuổi được quân Dương Sàn về. Vua Triệu Quang Phục phong cho Ngài là Tam Giang thượng đẳng thần.

Sau đến đời vua Lê Đại Hành, vua Tống Thái Tổ bên Tàu sai tướng Nhân Bảo, Tồn Phúc sang xâm lấn nước ta, vua Lê phải đem quân ra đất Phù Lan chống giữ. Vua có mộng thấy hai người thần đến tâu rằng: 

– Hai anh em chúng tôi là họ Trương, trước có giúp vua Triệu bình giặc Lương, nay xin giúp nhà vua đánh giặc để yên nước Nam.

Đến nửa đêm quả thấy khí trời mờ ám, mưa to gió lớn và văng vẳng trên không có tiếng ngâm thơ, rồi quân nhà Tống vỡ tan. Dẹp giặc yên, vua Lê phong thưởng cho Ngài là Khước địch Đại tướng, sai các làng ở bên bờ sông Nguyệt Đức phụng thờ.

3. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT

Bố cục mặt bằng tổng thể và các hạng mục chính:

Mô tả bố cục: Đình có bố cục kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm tòa tiền đình 03 gian, 02 chái và tòa hậu cung  02 gian.

Mô tả từng hạng mục:

Đình Hữu Nghị là công trình kiến trúc nghệ thuật cổ kính, trải qua nhiều lần tu bổ đến nay công trình kiến trúc này vẫn giữ được giá trị cơ bản của mình. Mái đình thấp là đặc điểm kiến trúc của các ngôi đình thời hậu Lê, nhưng nó được tạo dáng thanh thoát nhẹ nhàng bởi các đầu đao cong mái lượn. Chính giữa bờ nóc đình có đắp lưỡng long chầu nguyệt.  Sân đình hẹp bởi đằng trước là đường làng và hồ ao, hai bên là ngõ xóm.

Toàn bộ cấu trúc khung mái toà đại đình tuy không đồ sộ như một số đình khác nhưng kiểu dáng kiến trúc ở đây đẹp phù hợp với khung cảnh thiên nhiên. Các cấu kiện kiến trúc đều bằng gỗ lim chắc khỏe nay đã nhuốm màu thời gian. Tòa hậu cung hình chuôi vồ nối với đại đình, được kiến trúc xây dựng sau (thời Nguyễn), theo lối thượng con chồng rường, hạ xà nách.

Kết cấu chiếu ngang, liên kết các vì kèo của đình Hữu Nghị là hệ thống xà dọc, xà thượng và xà hạ. Không thấy các vết rãnh trên thân xà, chứng tỏ rằng nguyên thuỷ đình cũng không có ván nong. Hệ thống bảy ở đình là các đầu kẻ tràng chạy suốt từ trên các đầu xuống đỡ mái tàu, đây là thành phần kiến trúc quan trọng tạo nên giá trị nghệ thuật cho ngôi đình này.

Bốn đầu dao đại đình đều được xây cột gạch đỡ bên dưới vừa để tạo dáng kiến trúc vừa cho thêm phần chắc chắn. Ba mặt còn lại của đại đình được xây dựng tường gạch, mặt ngoài để trơn không trát và trang trí gì ngoài các ô lỗ song gạch nhỏ để thông thoáng khí. Hai đầu hồi toà đại đình được đắp vát mặt hộ phủ trông dữ tợn, che lấp phần cấu trúc gỗ bên trong khỏi bị mưa nắng hắt vào. Kết cấu bên trong tòa đại đình theo kiểu truyền thống thời hậu Lê kẻ tràng cánh ác, thượng như chính đình, bao gồm 5 gian hai dĩ. Cấu trúc gỗ phần mái được phân bố trên 44 cột lớn nhỏ, các góc đình được kết cấu bằng 4 cột con ngoài tạo thành hình tứ diện. Các cột này nối với nhau 4 cột ngoài cao hơn qua một hệ kẻ tràng chạy suốt lên tận trên. Kết cấu chiều dọc từ góc đình vào gian cạnh là hệ thống xà cộc, con chồng kẻ đấu vững chắc.

​Toàn hoành dui làm bằng gỗ lim bào trơn đóng bén vuông thành sắc cạnh. Các kẻ tràng đều một đầu trên cho qua cột cái chừng 40cm để gánh đỡ đầu cẩu thực sự chịu lực chứ không như đầu dơ. Đó là đặc điểm kiến trúc ở công trình di tích này. Đầu dưới của các kẻ tràng lao thẳng tận hiên đỡ tàu mái. Riêng gian giữa ở phía trong thì không phải kẻ tràng mà là các cột con nối xuống tường chạy dọc vào hậu cung chuôi vồ.

Bên trong tòa hậu cung được kết cấu hai gian, theo lối thượng con chồng, hạ xà nách. Bệ thờ xây gạch trát kín không đắp vẽ gì. Bên trên đặt ngai thờ thánh nhưng không có bài vị. Phần hậu cung chuôi vồ khắc với đình các nơi là nó không nối liền với toà đại đình mà nó là hai gian nhà có tường hồi gắn áp vào tường hậu gian giữa toà đại đình, được kiến trúc xây dựng sau (thời Nguyễn).

Nghệ thuật trang trí, điêu khắc: 

Chạm khắc gỗ: 

Nghệ thuật chạm khắc ở đây chủ yếu tập trung ở các mảng thuộc gian giữa toà đại đình, đề tài chủ yếu là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng), tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai) xen lẫn các hình hoa lá cách điệu, rồng hóa trúc, phương múa… đây là đề tài thường gặp ở các ngôi đình có niên đại tương đương.

Cửa võng là thành phần chạm khắc nghệ thuật thuộc loại hình di tích kiến trúc- nghệ thuật, nối liền hai cột bên trong gian giữa với nhau làm rực rỡ hơn lên không gian trong đình. Tầng trên là hình lưỡng long chầu vào nhau, hàng thứ hai chia thành 5 ô: ô giữa hình chữ nhật khắc ở trong 3 chữ Hán “Tối linh từ” sơn son thếp vàng rực rỡ, các ô kia hình vuông bên trong chạm hình phượng múa và hoa lá cách điệu. Hai hàng bên dưới cũng phân thành các ô hình học phát triển theo chiều ngang của đình, bên trong chạm lộng các hình tứ linh và hoa lá cách điệu. Hai bên diềm cửa võng chạm khắc đôi rồng hoá rực đăng tự thế lao xuống, cùng với phần râu chấn bên trên tạo thành hình lưỡng mãng ôm che các ô trang trí bên trên cửa võng. Dọc theo diềm hai bên cửa võng có hai ô dài chạy thẳng từ trên xuống cách chân cột 0,7cm, tạo thành đôi câu đối chữ Hán thếp vàng, nền sơn son rực rỡ nội dung ca ngợi đức thánh được thờ ở trong đình Đầu dưới hai câu đối có hai ô vuông như bên trên, ở trong chạm hai con ly liễn rất sinh động.

​Cửa hậu cung đình có 4 cột gỗ tạo thành 3 ô cửa, hai cửa cạnh khung tranh, cánh ác kín không chạm trổ, ở giữa là cửa hình vuông để thông vào hậu cung (cửa cấm) có 4 cánh ghép lại, không phải để đi lại, mà là để thánh cung nhìn ra ngoài đại đình.

So với các di tích khác, hệ thống chạm khắc gỗ của đình Hữu Nghi giữ lại không nhiều nhưng phần nào vẫn tạo cho di tích sự cổ kính, có giá trị nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc.

Đắp vữa, ghép mảnh: Với các đề tài lưỡng long chầu nguyệt trên mái đình, tứ linh, hoa văn… phong cách nghệ thuật thời Nguyễn thể hiện ở các cấu kiện bên ngoài như mái đình, cột trụ cổng đình.

4. GIÁ TRỊ HIỆN VẬT

Bài trí thờ tự: Nơi quan trọng và linh thiêng nhất của đình là gian hậu cung. Tại đình Hữu Nghi hiện nay, trong hậu cung bài trí đơn giản, chính giữa có một ngai thờ cổ sơn son thiếp vàng đặt ở vị trí cao nhất; bên dưới có bát hương, lọ hoa. Hệ thống kèo cột ở đây không có chạm khắc, sơn thiếp, không có hoành phi, câu đối. 

Bên ngoài, tại tiền tế có một án thờ bày bát hương, chân nến, lọ hoa, mâm bồng và hệ thống nghi trượng gồm bát bửu, chấp kích, tán lọng, hai bên có đôi ngựa gỗ to như ngựa thật: một ngựa sơn màu đỏ mận, một ngựa sơn màu trắng, cạnh đó đặt chiêng, trống, kiệu bát cống… Nhìn chung trải qua thời gian với nhiều biến động, những hiện vật cổ tại đình Hữu Nghi không còn nhiều, việc bày biện hiện nay đơn giản, phần lớn là đồ thờ tự mới. 

Di sản Hán Nôm quan trọng: 

Đình Hữu Nghi không còn giữ được các tài liệu cổ như sắc phong, thần phả, văn tế… Tra cứu hồ sơ lưu trữ tại Viện thông tin khoa học xã hội, vào năm 1938 theo bản kê khai thần tích, thần sắc của làng thì vào thời điểm đó tại đình có 04 đạo sắc phong đời vua Thiệu Trị (năm 1846), 03 đạo sắc phong đời vua Tự Đức (các năm 1850 và 1879), 01 đạo sắc đời vua Đồng Khánh (năm 1887), 01 đạo sắc đời vua Duy Tân (năm 1909), 01 đạo sắc đời vua Khải Định (năm 1924).

Về hoành phi, câu đối cổ tại đình còn giữ được ít câu đối, như trên có bộ cửa võng gỗ cổ trước tiền tế có bức hoành phi “Tối linh từ” (Linh thiêng nhất), hai bên có câu đối:

Giang gian chiến hạm trung huynh đệ
Thiên thượng ngâm thi tiệt Bắc Nam.

Dịch là:

Giữa sông thuyền đắm, tỏ lòng trung hai anh em
Trên trời ngâm thơ, phân rạch rõ Nam Bắc.

Một câu khác có nội dung như sau:

Phúc dân khả bái tam công tước
Thọ thánh năng hô vạn tuế thanh.

Dịch là:

Phúc dân có thể bái tước Tam công
Chúc thánh có thể hô tiếng Vạn tuế.

Về bia đá, tại đình Hữu Nghi còn giữ được 02 tấm bia đá cổ, dạng bia tứ diện (04 mặt), một bia là “Lưu trạch bi văn, vĩnh thùy phụng sự” ghi công đức và lập hậu thần vào niên hiệu Vĩnh Thịnh của vua Lê Dụ Tông năm Nhâm Thìn (1712) và một bia “Hậu thần bi ký” là bia lập hậu thần vào thời nhà Nguyễn niên hiệu Tự Đức năm Quý Dậu (1873) ngày 12 tháng Giêng.

5. LỄ HỘI VÀ PHONG TỤC VĂN HÓA

Lễ hội chính: 

Hằng năm, hội lệ đình Hữu Nghi được tổ chức vào ngày mồng 07 tháng Giêng âm lịch, đây là lễ hội truyền thống của đình. Trong ngày lễ hội có phần nghi thức rước và tế thành hoàng được tổ chức long trọng với các nghi lễ tế Thánh, dâng hương, rước kiệu.

Về phần hội, sau phần lễ sẽ  là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ với những trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thu hút đông đảo người dân tham gia  như cờ người, đánh đu, đấu vật, chọi gà, hát quan họ, hát nhà tơ trước cửa đình… 

Theo lệ xưa, vào ngày 12 tháng 8 âm lịch tại đình còn tổ chức vào đám kỳ phúc, lễ vật không thể thiếu dâng lên cúng thánh là rượu hoàng tửu và chuối; những năm được mùa có thêm thịt lợn dâng cúng. Vì làng Hữu Nghi có giao hiếu với làng Cao Lôi nên vào lễ kỳ phúc, người dân Cao Lôi cử đại diện mang lễ vật đến cúng Thành hoàng làng Hữu Nghi, ngược lại khi làng Cao Lôi làm lễ hội, dân làng Hữu Nghi cũng cử đại diện mang đồ lễ đến cúng tế. 

Ngoài các hoạt động lễ hội nói trên, xưa kia làng Hữu Nghi còn kết chạ với làng quan họ Hữu Chấp (Bắc Ninh) nên vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội tháng Giêng cho hết tháng 4 âm lịch, những lúc nông nhàn, Quan họ của làng sẽ đi hát ở các nơi trong vùng như hát ở Quang Biểu, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ (Bắc Giang) và Hữu Chấp (Bắc Ninh).

6. KẾT LUẬN

Văn bản công nhận di tích:

Với những giá trị về mặt nghệ thuật, đình Hữu Nghi đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích nghệ thuật cấp Quốc gia theo quyết định số 1568/QĐBT, ngày 20 tháng 4 năm 1995. 

Bia Lưu trạch bi văn Vĩnh thùy phụng sự năm Vĩnh Thịnh (1712)Bia Hậu thần bi ký niên hiệu Tự Đức (1873)

Đình Hữu Nghi

Cửa võng và câu đối đình Hữu Nghi.

ĐỀN LÀNG VÂN – DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT QUỐC GIA

1. THÔNG TIN CHUNG

Tên gọi: Đền làng Vân 

Tên khác: Đền chính làng Yên Viên

Địa chỉ cụ thể: Tổ dân phố Yên Viên, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh

Vị trí địa lý và không gian cảnh quan:

Mô tả vị trí: Đền có vị trí cạnh dòng sông Cầu theo hướng Tây nhìn ra bến đò Vân sang làng Đại Lâm.

Yếu tố phong thủy: Làng Vân Hà có tên chữ là Yên Viên, chạy dài hơn 1km dọc theo bờ Bắc sông Cầu, đối diện với làng Đại Lâm ở bên kia sông. Vì ba mặt giáp sông nên muốn vào làng Vân phải qua ba bến đò ngang ở phía Đông sang Quả Cảm, phía Tây sang Đại Lâm, phía Nam qua làng Thổ Hà. Còn một con đường bộ ở phía Bắc của làng đi men dãy núi Tiên Lát và thường chỉ thuận tiện vào khô.

Có câu ca dao ở vùng này:

Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
Nghĩ rằng đá nát thì thôi
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng.

Niên đại khởi dựng và các lần trùng tu:

Đền Vân được xây dựng từ lâu đời, được được tu bổ tôn tạo vào thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVII- XVIII), thời Nguyễn (thế kỷ XIX – XX) và những năm gần đây. Trải qua thời gian ngôi đền đã được tu sửa hiện nay vẫn bảo lưu được kiến trúc cổ.

Thượng lương của đền hiện nay có khắc dòng chữ: Tuế thứ Bính Thân mạnh thu thất nguyệt cốc nhật lương thời thụ trụ thượng lương. Nghĩa là: Năm Bính Thân đầu thu tháng 7 ngày lành giờ tốt dựng cột thượng lương. Chữ khắc là thể chữ thời Lê. Năm Bính Thân dựng đền như vậy có thể đoán định là năm 1776 dưới niên hiệu Cảnh Hưng của vua Lê Hiển Tông.

2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ

Nhân vật được thờ: 

Đức thánh Tam Giang Khước địch Đại vương (Trương Hống) và thánh mẫu Phùng Thị Từ Nhan.

Sự kiện lịch sử, văn hóa gắn liền với di tích:

Đền Vân gắn với tín ngưỡng thờ đức thánh Tam Giang là danh tướng của Triệu Việt Vương, đã có nhiều công lao trong việc dẹp giặc giữ nước, trung nghĩa hy sinh, hóa thủy thần phù trợ các đời Ngô, Lý, Trần, Hậu Lê đuổi giặc yên dân. Đền là trung tâm tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa của nhân dân, đồng thời ca ngợi truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn vinh người có công với  quê hương đất nước.

Theo thần tích làng Thượng Lát (xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, Bắc Giang xưa), đời Tiề Lý Nam Đế có bà Từ Nhan người làng Vân Mẫu, huyện Quế Dương, quận Vũ Ninh nằm chiêm bao tắm ở sông Lục Đầu, thấy thần long quấn vào mình mà có thai. Được 14 tháng đến mồng 6 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ sinh 5 con, 4 con trai 1 con gái, đặt tên là: Hống, Hát, Lẫy và Lừng và Đậu nương. Đến rằm tháng 4 năm Kỷ Hợi  ngày 15 tháng Tư đức thánh mẫu cõi trần lánh bước.

Anh em đức thánh Tam Giang theo học ông Lữ tiên sinh tập đọc binh thư, lầu thông văn võ. Khi tuổi đã 20, gặp khi trong nước có loạn là nhà Lương Đại Đồng bên Tầu sai danh tướng là Trần Bá Tiên và Dương Phiêu đem quân sang đánh nước Nam ta, làm nhiễu muôn dân, đau lòng trăm họ. Triệu Việt Vương nhận ủy quyền của Lý Nam Đế, lui quân về Dạ Trạch chống cự với Trần Bá Tiên. anh em đức thánh Tam Giang nghe thấy nhà vua có lệnh chiêu tài, anh em bàn nhau tính kế lập thân, mộ quân để đi giúp nước. Ông Triệu Quang Phục phong cho ông Cả làm quan Thượng tướng quân, ông Hai làm Phó tướng quân, ông Ba, ông Tư đều làm tùy tướng.

Dẹp giặc xong rồi, ông Triệu Quang Phục kéo quân về đóng đô ở thành Long Biên, xưng là Triệu Việt Vương, phong cho ông Cả thực ấp Kinh Bắc (là Bắc Ninh), ông Hai thực ấp Đông Ngàn (là làng Tam Lư). 

Khi Lý Phật Tử, là dòng dõi Tiền Lý Nam Đế đem quân đánh Triệu Việt Vương. Hai ông cầm quân ra đánh, đuổi Lý Phật Tử lui về Ô Diên. Lý Phật Tử cầu hòa với Triệu Việt Vương, cầu thân cho con trai là Nhã Lang lấy con gái vua Triệu là Cảo Nương. Hai vị Trương tướng quân ra sức can ngăn, nhưng vua không nghe. Các ông bèn nạp chức từ quan, về rừng Phù Long (thuộc tỉnh Sơn Tây, huyện Phúc Thọ, xã Phù Long) mà ở.

Lý Phật Tử bày kế cho Nhã Lang ở rể, lấy trộm bảo bối mũ long trảo đâu mâu của Triệu Việt Vương, rồi kéo quân đến đánh. Triệu Việt Vương cùng đường ở Đại Nha hải khẩu. Lý Phật Tử lên ngôi xưng là Hậu Lý Nam Đế.

Lý Phật Tử biết anh em Trương tướng quân là bực có tài, muốn mua chuộc lòng người cho yên thiên hạ, sai người đi tìm đón 2 vị Trương tướng quân ra làm quan giúp mình, nhưng hai anh em kiên quyết từ chối. 

Cả nhà hai ông cùng xuống thuyền giả làm thuyền buôn xuôi về quê tảo mộ. Khi chèo thuyền vào đến sông Vũ Bình, Ngã ba Xà, thấy chốn ấy giang sơn tú khí, phong thủy hữu tình, chèo thuyền ra giữa sông đánh đắm thuyền mà tự vẫn cả nhà (tức sông Nguyệt Đức thuộc Phương La xã, Yên Phong huyện tỉnh Bắc Giang). Thuyền  ông Hai trôi xuống ngã ba Nhãn(tức là Phượng Nhãn xã, Phượng Nhãn huyện, Bắc Giang tỉnh), thấy phong cảnh chung linh, cũng đánh đắm thuyền cùng cả nhà tự vẫn, là ngày mồng 10 tháng 4.

Lý Phật Tử thương tiếc hối lại phong ông Cả là: Vũ Lâm Lang Quả nghị Linh ứng Thượng tướng quân. Phong cho ông Hai là: Đại thụ tướng quân

Đến đời nhà Hậu Ngô ông Văn Xương xưng là Nam Tấn Vương đánh giặc Lý Huy ở núi Côn Luân đưa quân vào đóng ở rừng Phù Long, được 2 ông âm phù dẹp giặc. Dẹp giặc yên rồi sai sứ đi truyền các làng ở 2 bên bờ sông Vũ Bình và Phú Lương phải lập đền thờ cả. Phong cho ông anh Đại Đương giang Hộ quốc Thần vương. Truyền tổng Vân Mẫu làm đền thờ bà thánh mẫu, phong là Thượng đẳng Phúc thần.

Đời Lê Đại Hành năm thứ 2 bên Tầu nhà Tống sai người hầu Nhân Bảo đem quân sang đánh nước ta, đã vào đến sông Đại Than rồi. Vua cùng quan võ là Phạm Cự Lưỡng đem 20 vạn quân đi đánh. Khi đến làng Tam Lư huyện Đông Ngàn trời đã tối phải tạm đóng quân ở đấy. Vua truyền sửa lễ cầu thần âm trợ. Thấy đến canh ba trong cung có tiếng ngâm thơ Nam quốc sơn hà. Quả nhiên trận ấy ông Lê Đại Hành thắng trận bắt được không biết bao nhiêu quân giặc. Vua lại truyền 2 bên sông Nguyệt Đức, sông Nam Bình phải lập  miếu thờ. Lại phong cho ông anh là Khước địch Đại vương, phong cho ông em là Uy địch Đại vương.

Đến đời ông Lý Nhân Tôn lại phong cho ông anh là Sảng bang Khước địch Đại vương Thượng đẳng thần. Ông em là Hiển thắng Uy địch đại vương Thượng đẳng thần. Gia phong cho ông thứ 3 là Lân Nhĩ Đại vương, ông thứ 4 là Lã Sậu Đại vương, bà em gái là Lương Mỹ Đạm Tam Giang Công chúa. Người cháu tên là Trương Kiều phong là Thác Sơn Bình Đảng Phúc thần.

Đời nhà Lý Nhân Tôn bên Tầu sai quân sang đánh nước ta. Đức Nhân Tôn sai ông Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh giặc đến làng Phương La sửa lễ cầu thần trợ chiến, bỗng nghe tiếng ở trên không ngâm thơ rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Tiếng ngâm như sấm sét, quân nhà Tống nhe thấy tự nhiên hồn xiêu phách lạc, chạy cả về Tầu.

Ông Lý Thường Kiệt làm sớ tấu vua có âm phù mọi nhẽ. Vua lại truyền hai bên bờ sông Vũ Bình và Nam Bình lập miếu thờ.

Đời Trần Nhân Tôn phong ông Cả là Khước địch Đại vương, gia phong Khương hựu Thượng đẳng phúc thần. Ông Hai là Uy địch Đại vương, gia phong Dũng cảm Phúc thần. Đến năm Hưng Long thứ 21 lại gia phong ông Cả hai chữ Trợ thuận, ông Hai hai chữ Hiển thắng.

3. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT

Bố cục mặt bằng tổng thể và các hạng mục chính:

Đền Chính làng Vân có bố cục kiến trúc kiểu “tiền nhất, hậu công” gồm các hạng mục 7 gian tiền tế, 5 gian trung đường, dải ống muống, 5 gian hậu cung, 1 gian chui vồ và các hạng mục phụ trợ khác. Phía trước đền là bãi vật cầu nước. Cạnh đó là một ngôi miếu nhỏ thờ mẫu.

Nghệ thuật trang trí, điêu khắc: 

Đặc sắc nổi bật nhất của đền Vân chính là kiến trúc nghệ thuật điêu khắc, trạm trổ tinh xảo thể hiện toàn bộ trên hạng mục công trình. Đó là trên mái với các đầu đao cong vút trạm hoa văn, mái ngói cổ kính với 4 góc đao cong. Chính giữa bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu mặt trời,  bờ dải có nghê sóc vờn nhau. Đầu hồi là rồng phượng bay. Bên trong các kết cấu  kiến trúc kẻ, bảy, con chồng đấu kê, vì kèo truyền thống kẻ tràng, cánh ác. Các cấu kiện kiến trúc bằng gỗ lim chạm khắc tinh xảo đủ đề tài dân gian truyền tải ước vọng của người xưa.

Nghệ thuật tạo hình, chạm khắc trang trí ở đền Vân giàu tính dân gian; có nhiều hoạ tiết cách điệu, đặc tả chi tiết trên các cấu kiện, thớ gỗ làm cho ngôi đền trở lên cổ kính. Đặc biệt các mảng chạm khắc được tập trung ở gian giữa tòa tiền đường. Đó là các đề tài tứ linh, tứ quý xen lẫn, hình hoa lá cách điệu, rồng hóa trúc, hình phượng múa… với đường nét mềm mại, tinh tế mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê  trung hưng (thế kỷ XVI).

4. GIÁ TRỊ HIỆN VẬT

Bài trí thờ tự: 

Khi bước vào gian tiền tế, sẽ thấy ngay bức hoành phi lớn sơn son thếp vàng đề chữ: Mỹ tục khả phong, niên đại Tự Đức thứ 18 (1863), cho biết làng Vân là làng có truyền thống tốt, được triều đình công nhận.

Chính điện tiền tế có đôi câu đối:

Khước Lý bất thần cao tiết, Phù Lan sơn phong thượng phiến thạch
Phụ Lê hiển thánh linh thanh, Như Nguyệt giang không trung nhất thi.

Nghĩa là:

Từ Lý không làm thần tiết nghĩa cao, trên ngọn Phù Lan nêu tấm đá
Giúp Lê hiển thánh tỏ linh thiêng, giữa sông Như Nguyệt vọng bài thơ. 

Câu đối này có dòng lạc khoản đề: Long phi Đinh Hợi niên thu chi mạnh. Bản tổng chánh tổng kiêm huyện hội viên Nguyễn Thiều cung tiến. Nghĩa là câu đối được làm vào tháng đầu thu (tháng 7 âm lịch) năm Đinh Hợi thời Nguyễn, do chánh tổng kiêm huyện hội viên là Nguyễn Thiều cung tiến. 

Trước gian trung cung là hương án và bức cửa võng cổ, thếp vàng, chạm trổ tinh xảo. Bên trên treo bức hoành phi lớn sơn son thếp vàng đề Vạn cổ anh linh dòng lạc khoản Kỷ Tỵ niên trọng đông trùng tu, nghĩa là được trùng tu vào giữa mùa đông (tháng 11 âm lịch) năm Kỷ Tỵ.

Hai bên hương án cũng có 2 bức cửa võng nhỏ hơn, chạm rồng chầu, phượng, hoa lá. Cạnh cửa võng nhỏ là đôi câu đối:

Thiên thượng ngâm thi, Gia Cát tử do tẩu Ngụy
Sơn trung thải quyết, Bá Di sinh bất thần Chu.

Nghĩa là:

Trên trời ngâm thơ, Gia Cát chết còn đuổi Ngụy
Trong núi hái rau, Bá Di sống chẳng thần Chu.

Qua 2 cửa võng nhỏ theo dải ống muống dẫn vào tới tượng 2 vị quân hầu đang đứng ở hai bên cửa vào hậu cung. Cạnh tượng 2 vị quân hầu có câu đối:

Kỳ đỉnh minh công thiên cổ tại
Miếu đình truy tự ức niên trường.

Nghĩa là:

Cờ đỉnh ghi công ngàn đời đó
Miếu đình truy thờ mãi muôn năm.

Trong hậu cung có dựng cung khám thờ lớn bằng gỗ, dạng như một ngôi miếu nhỏ. Quanh khám có chạm rồng chầu, phượng, lân, trúc… đều được thếp vàng. Giáp mái phía trên khám là mảng chạm gỗ rồng chầu, phượng và bức hoành phi lớn đề: Thanh miếu anh linh. Trong khám là bức tượng thánh Tam Giang kích thước như người thật ở tư thế ngồi. Bên trong khám có vẽ tranh trên bức vách sau tượng.

Phía trước khám là tượng gỗ 2 vị quan hầu đang đứng, phong thái rất đẹp, đội mũ đinh tự (thời Lê). Trên bàn án đặt quả cầu gỗ lớn, là quả cầu dùng trong lễ hội vật cầu nước của làng Vân. Phía trước khám có đôi câu đối:

Bắc giang hiển tiết liên huynh đệ
Nam quốc bao phong lịch đế vương.

Nghĩa là:

Sông Bắc tỏ tiết anh em cả
Nước Nam phong tặng đế vương nhiều.

Hai bên cột trong của khám có đôi câu đối:

Thoái lỗ nhất thi, Nam đế sơn hà ngưng tuấn liệt
Khước trưng lưỡng mệnh, Bắc thiên cương tỉnh hiển cao phong.

Nghĩa là:

Đuổi giặc một bài thơ, núi sông vua Nam ngưng vẻ rạng
Từ chối mời hai mệnh, đất đai trời Bắc tỏ khí cao.

Đồ thờ: Đền Chính còn lưu giữ được nhiều hiện vật cổ như 3 bộ cửa võng, kiệu bát cống, hương án, bát bửu, chấp kích cổ, các bát hương gốm Thổ Hà tinh xảo. 1 đôi ngựa hồng bạch gỗ ở hai bên nhà tiền tế. 1 bức tranh gỗ sơn son thếp vàng đề năm Tự Đức Bính Dần (1866) treo trên cửa hậu cung. Phía trên trần gian tiền tế có tranh vẽ màu hình Long phún thủy. Khám thờ gỗ sơn thếp vàng ở hậu cung. Quả cầu vật gỗ, 2 chiếc mũ thờ gỗ chạm rồng, sơn thếp vàng để trên ban hậu cung. Một chiếc chuông đồng nhỏ.

Di sản Hán Nôm quan trọng: 

Ngoài những câu đối ở trong đền đã giới thiệu thì ở nghi môn ngoài của đền có lưu các câu đối sau:

Thắng cảnh huy hoàng tân thế kỷ
Phong quang đại lộ cựu danh lam.

Câu 2:
Sơn đức hải ân thùy ấm dụ
Ngọc nha châu khỏa thụ căn thâm.

Câu 3:
Kình thiên ngật lập đạo lý cương thường trụ
Động địa kinh khai nhân luân nghiêm kính môn.

Câu 4:
Đại địa giai xuân, tích thiện chi dân dư khánh
Duy thiên giáng phúc, khắc xương quyết hậu đa tường.

Câu 5:
Chính khí lưu nhạc quang, dĩ hậu tường vân tập
Đạo thông đối càn khôn, vu kim Đức thủy lai.

Tại đền Vân hiện đang cất giữ được 9 bản sắc phong cổ, tuy chưa rõ niên đại. Ban khánh tiết ở làng cũng đã phiên âm bộ văn tế cổ để hành lễ theo các tiết. Trong đó có các bài tế các ngày Sóc, ngày sinh hóa của thánh Tam Giang, ngày kỵ của Thánh mẫu…

5. LỄ HỘI VÀ PHONG TỤC VĂN HÓA

Lễ hội chính: 

Hằng năm, hội lệ đền Vân được nhân dân địa phương tổ chức vào ngày 18 tháng 4 âm lịch để tưởng nhớ tới công trạng của Thành Hoàng làng. Trong ngày lễ hội, phần nghi thức tế Thành hoàng được tổ chức trang trọng. Phần hội được tổ chức với nhiều trò chơi dân gian: đấu vật, chọi gà, chơi đu, hát quan họ. Đặc biệt đền Vân còn là nơi diễn ra lễ hội vật cầu nước một lễ hội dân gian cổ truyền độc đáo của xứ Kinh Bắc, lễ hội diễn ra 4 năm một lần. Ý nghĩa là lễ hội dân gian thể hiện tín ngưỡng thờ Trời (trời tròn), cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, lễ hội mừng các chiến công và sự linh thiêng phù trợ của đức thánh Tam Giang.

Lễ hội Vật cầu nước làng Vân đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật quốc gia Quyết định số 63/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022.

Lễ hội diễn ra trên một sân lớn được đổ đầy bùn và nước. Quả cầu được làm bằng gỗ mít nặng khoảng 20 kg. Quy định đội thi đấu có 16 thanh niên khoẻ mạnh tham gia lễ hội vật gọi là quân cầu và được tuyển chọn theo quy định. Các quân cầu phải giữ mình trong sạch, ăn chay, kiêng yêu đương trong thời gian diễn ra lễ hội. Luật chơi chia làm hai giáp, giáp trên, giáp dưới (mỗi giáp chia 8 quân cầu) sẽ thi đấu tranh cướp quả cầu. Mục đích đẩy quả cầu vào hố  cầu của đối phương, trận đấu diễn ra sôi nổi, quyết liệt đối phương đẩy được nhiều quả cầu vào hố của đối phương sẽ thắng trận. 

 Lễ hội Vật cầu nước tuyển chọn quân cầu là những thanh niên trai tráng được tinh tuyển từ 5 xóm, chưa vợ, khỏe mạnh, không có vận áo xám, không bệnh tật, không có can phạm, can án. Các quân cầu sẽ phải giữ mình chay tịnh, kiêng chuyện yêu đương trong một khoảng thời gian theo quy định của dân làng trước khi hội Vật cầu được tổ chức. 

Nhà có áo xám không được vào đền, phụ nữ chỉ được vào  tòa tiền đường, ban khánh tiết khi ra đền mặc quần áo phải giặt riêng không giặt chung với phụ nữ, khi vào toà hậu cung chỉ được trưởng và phó ban khánh tiết được vào. 

Làng Vân còn có kết nghĩa với làng Đống Gạo (Nguyễn Xá, Yên Phong) hơn 300 năm, liên quan đến việc khi làng Vân rước sắc về làng gặp trời mưa đã trú nhờ làng Đống Gạo và sau đó làng Vân góp công đức trong việc xây chùa ở làng Đống Gạo.

6. KẾT LUẬN

Văn bản công nhận di tích: Năm 1990, cùng với chùa Diên Phúc, đền Vân được Bộ Văn hóa – Thông tin ra Quyết định xếp hạng  kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (Quyết định số 34/VHQĐ, ngày 9 tháng 1 năm 1990).

Đền Chính làng Vân.

Tiền tế đền chính làng Vân.

Tranh trần Long phún thủy.

Tranh gỗ.

Hậu cung đền chính làng Vân.

Dải ống muống đền Vân.

TỪ CHỈ LÀNG THỔ HÀ –  DI TÍCH VĂN HÓA KIẾN TRÚC QUỐC GIA

1. THÔNG TIN CHUNG

Tên gọi: Từ chỉ Thổ Hà 

Tên khác: Từ chỉ làng Thổ Hà

Địa chỉ cụ thể: Làng Thổ Hà, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh

Vị trí địa lý và không gian cảnh quan:

Mô tả vị trí: Nằm ở cuối làng Thổ Hà trên một khu đất có diện tích 170m2 bên bờ Bắc của sông Cầu.

Yếu tố phong thủy: Hướng Tây – Nam. Theo bia thời Tự Đức thứ 9 (1856) Từ chỉ phía trước có án núi Chè, phía sau có gối núi Đồ sơn, có sông Như Nguyệt làm minh đường.

Niên đại khởi dựng và các lần trùng tu:

Thủa ban đầu từ chỉ được xây dựng cạnh chùa Đoan Minh. Từ chỉ hiện nay được khởi công xây dựng vào năm Tự Đức thứ 8 (1855), xây xong vào năm sau đó (1856).

2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ

Nhân vật được thờ: 

Từ chỉ Thổ Hà thờ đức thánh Khổng Tử và và các vị tiên hiền.

Sự kiện lịch sử, văn hóa gắn liền với di tích:

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, là vị tiên thánh Nho gia được thờ ở các văn miếu quốc gia và các địa phương nước ta. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Khổng Tử sinh ở ấp Trâu, hương Xương Bình nước Lỗ vào thời Xuân Thu. Tiên tổ là người nước Tống. Khổng Tử sinh năm Lỗ Tương Công thứ 22.

Khổng Tử từng được vua Lỗ cho một cỗ xe, hai con ngựa, một tiểu đồng đi theo đến nhà Chu hỏi về Lễ. Trong chuyến đi này Khổng Tử còn gặp Lão Tử. Lúc từ biệt lên đường, Lão Tử có nói tiễn chân với Khổng Tử rằng:

– Kẻ thông minh, suy xét sâu xa thì gần với cái chết, vì thích bàn về người khác. Kẻ biện bác rộng, tài năng quảng đại thì nguy hại đến thân, vì nêu cái xấu của người. Kẻ làm con, kẻ làm tôi không biết dựa vào đâu để giữ mình.

Từ sau chuyến đi gặp Lão Tử ở Chu trở về, học trò của Khổng Tử ngày càng đông. Cuộc gặp gỡ này có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và sự nghiệp của Khổng Tử.

Khổng Tử là người đã san định, truyền bá Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc) và viết kinh Xuân Thu, dạy học trò, truyền cho hậu thế, là nền tảng cho Nho đạo. Khổng Tử được tôn là Người thầy của muôn đời (Vạn thế sư biểu) và được phong là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương.

Đình Thổ Hà là nơi thờ Lão Tử. Chùa Đoan Minh là nơi Lão Tử dạy học và chữa bệnh. Trước đây Từ chỉ Thổ Hà nằm trong khuôn viên của chùa Đoan Minh. Như thế có thể đoán định, Thổ Hà chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ lịch sử giữa 2 triết gia cổ đại lớn của phương Đông là Khổng Tử và Lão Tử.

Sơn môn Bổ Đà (dòng tu khởi dựng chùa Bổ Đà và chùa Đoan Minh) khi xây dựng chùa đã tôn thờ cả Khổng Tử và Lão Tử, làm nên hình thức Tam Giáo đồng nguyên (Nho – Lão – Phật) đặc biệt từ vùng đất này. 

Câu đối cổ trong đình Thổ Hà:

Đẳng Thích Già nhân tế quần sinh, Phật pháp thiên cổ / Thần tiên thiên cổ
Dữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh / Đạo Đức nhất kinh.

Nghĩa là:

Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, Phật pháp nghìn đời kiếp / Thần tiên nghìn đời kiếp
Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một bộ kinh / Đạo Đức một bộ kinh.

3. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT

Bố cục mặt bằng tổng thể và các hạng mục chính:

Bình đồ kiến trúc Từ chỉ  hiện nay kiểu chữ nhị, gồm toà tiền tế 5 gian xây bình đầu bít đốc và toà  hậu cung 3 gian. Nguyên vật liệu đều bằng gỗ lim, nền lát gạch, lợp ngói mũi hài. Kết cấu kiểu con chồng, kẻ rường.

Nghệ thuật trang trí, điêu khắc: 

Các cấu kiện kiến trúc chạm khắc hoa lá, hình gờ nổi, nghệ thuật chạm khắc chủ yếu mang phong cách thời Nguyễn (Thế kỉ XIX). Đề tài, họa tiết hoa lá, phong cách nghệ thuật (thời Lê, Nguyễn).

4. GIÁ TRỊ HIỆN VẬT

Bài trí thờ tự: 

Phía trước gian tiền tề treo một bức hoành phi lớn đề: Đại Thành Chí Thánh, là tên thánh của Khổng Tử. Bức hoành phi sơn đen, chữ vàng, trang trí đơn giản, có đề lạc khoản là Giáp Thìn niên trọng thu

Gian chính của tiền tế có đôi câu đối sơn đen, thiếp vàng:

Bách thế y quan trường tế mỹ
Thiên niên sơn thủy vĩnh triều tông.

Nghĩa là:

Trăm đời áo mũ còn hướng đẹp
Nghìn năm sông núi mãi chầu tôn.

 Phía sau gian chính của tiền tế có câu đối sơn son thiếp vàng, tạo hình thân cây trúc, đề:

Thánh nhân thế giới thiên niên trọng
Hiền triết sơn hà vạn cổ tôn.

Nghĩa là:

Thánh nhân thế giới ngàn năm trọng
Hiền triết núi sông vạn đời tôn.

Chính giữa hậu cung là nơi đặt tượng đồng thờ Khổng Tử, kích thước bằng người thật, trong tư thế ngồi, được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Việc thờ Khổng Tử bằng tượng là rất hiếm thấy ở một văn chỉ tại địa phương. Điều này cho thấy Từ chỉ Thổ Hà mang tính chất của một ngôi đền thờ Khổng Tử hơn là văn chỉ thông thường.

Phía ngoài hậu cung là bức hoành phi sơn đen, thiếp vàng lớn đề Thái hòa nguyên khí. Nghĩa là: Nguyên khí của Thái hòa. Bên dưới là bức cửa võng thiếp vàng, chạm kênh bong hình rồng phượng lộng lẫy.

Bên trái của hậu cung là ban thờ ghi chữ “Hiền” bằng sành ghép. Phía trên có treo bức hoành phi sơn đen, thiếp vàng lớn đề: Siêu thiên cổ. Nghĩa là: Vượt quá ngàn đời.

Bên phải của hậu cung là ban thờ ghi chữ “Triết” bằng sành ghép. Phía trên có treo bức hoành phi sơn đen, thiếp vàng lớn đề: Quán bách vương. Nghĩa là: Cầm đầu trăm vua.

Đồ thờ tự cổ còn có các hương án, bát hương gốm Thổ Hà cổ tinh xảo.

Di sản Hán Nôm quan trọng: 

Ngoài các câu đối đã dẫn ở trên tại Từ chỉ Thổ Hà còn có một số câu đối khác. Như câu đối ở 2 bên các ban Hiền – Triết ghi:

Cổ nhân ngôn hành thiện đắc thiện
Hiền triết viết tu thân vinh thân.

Nghĩa là:

Người xưa nói làm thiện sẽ gặp thiện
Hiền triết rằng tu thân thì vinh thân.

Ở các cột bên ngoài Từ chỉ có một số câu đối khác ca ngợi Nho đạo:

Đạo mạch trường tồn đồng thiên địa
Văn phong thượng tại giáo nhân gia.

Nghĩa là:

Mạch đạo mãi còn cùng trời đất
Dòng văn trùm đó dạy nhân dân.

Và câu:

Học vấn giáo truyền thùy vạn thế
Văn chương khai sáng hóa quần sinh.

Nghĩa là:

Học vấn dạy truyền trùm vạn thế
Văn chương khai mở giúp chúng sinh.

Hiện tại Từ chỉ Thổ Hà còn lưu giữ 8 bia đá, trong đó có 7 tấm bia thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII – XVIII) và 1 tấm bia thời Nguyễn:

  1. Văn thuộc giáp tự miếu bi” tạo năm Vĩnh Trị thứ 5 (1680) về việc hưng công xây dựng lại văn chỉ để thờ các bậc tiên hiền. Bia 1 mặt, trán bia chạm rồng chầu mặt trời, diềm hoa lá.
  2. Tiên hiền tự miếu bi” tạo năm Vĩnh Trị thứ 5 (1680) về việc góp tiền mua đá xây miếu thờ tiên hiền và kê học tê, chức vụ các tiên hiền được thờ của xã Thổ Hà.
  3. Văn thuộc giáp tái Thánh hiền tu tự miếu bi” tạo năm Chính Hòa thứ 25 (1704) về  việc trùng tu miếu vũ phụng sự thánh hiền và kê họ tên những tiên hiền của xã. Bia vuông 4 mặt, 3 mặt có chữ.
  4. Tư văn giáp” tạo năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) khắc tên các vị khoa mục, chức sắc. Bia 4 mặt.
  5. Tôn sùng thánh hiền đại đạo. Thủy tạo từ vũ thạch vi” tạo năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) ghi việc xã Thổ Hà xây từ chỉ.
  6. Tạo từ vũ bi” tạo năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767) ghi họ tên, chức tước của những người góp công góp của vào việc xây dựng văn chỉ.
  7. Thủy tạo từ vũ thạch bi. Tôn trọng thánh hiền đại đạo” tạo năm Cảnh Hưng thứ 37 (1776) để tỏ lòng tôn sư trọng đạo và chấn hưng phong giáo trong làng đã hưng công dựng văn chỉ thờ phụng tiên hiền.

Một bia “Long phi Bính Thìn” tạo năm Tự Đức thứ 9 (1856) nói về việc dời từ chỉ từ chùa Đoan Minh về vị trí hiện nay vào năm Ất Mão (1855), xây 3 gian chính điện. 

5. LỄ HỘI VÀ PHONG TỤC VĂN HÓA

Lễ hội chính: Từ chỉ là một trung tâm sinh hoạt văn hóa, giáo dục truyền thống hiếu học của nhân dân địa phương. Hàng năm có tổ chức tế lễ dâng hương tại Từ chỉ vào các ngày 15 tháng Giêng và ngày 20 tháng Tám âm lịch để tưởng nhớ ơn đức Khổng tử và các vị tiên hiền nho sinh.

6. KẾT LUẬN

Văn bản công nhận di tích: Từ chỉ Thổ Hà được xếp hạng di tích nghệ thuật cấp quốc gia loại hình di tích văn hóa kiến trúc theo Quyết định số 295-QĐ/BT của Bộ Văn hóa – Thông tin ngày 12 tháng 2 năm 1995.

Chính điện tiền tế Từ chỉ Thổ Hà.

Đội trống chiêng làm lễ ở Từ chỉ trong ngày lễ hội Thổ Hà.

Chính gian hậu cung.

Bia “Văn thuộc giáp tự miếu bi” tạo năm Vĩnh Trị thứ 5 (1680).

Ban thờ “Hiền” ở Từ chỉ Thổ Hà.

Ban thờ “Triết” ở Từ chỉ Thổ Hà

Câu đối ngoài ở tiền tế.

Bia “Tạo từ vũ bi” tạo năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767).

Bia “Văn thuộc giáp tái Thánh hiền tu tự miếu bi” tạo năm Chính Hòa thứ 25 (1704).

Thần tích Nại Tử xã – nơi Thi Sách tử trận

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nại Tử xã, tổng Phương Quan, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên

Xã Nại Tử vâng sao ngọc phả

Ngọc phả thời Bắc thuộc Đông Hán, do Thượng thư bộ Lễ triều Lê, quản giám tri điện, vâng sao ngọc bảo cổ truyền.

Hoàng đế bệ hạ vâng ban sắc văn, thần hiệu.

Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Quốc vương Thiên Tử Đại vương.

Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Ả Lữ [Lã] Nàng Đê Đại vương, Hoàng hậu Trưng đế Thánh nữ Phúc thần.

Sắc văn: Dực vận An dân Anh nghị Quả đoạn Chính trực Tuyệt hựu Hiển ứng Tông hưu Chi hoà Tuy hành Ý đức Tề hoà Trinh tĩnh Túy mỹ Diệu vận Kỳ nhẫn Đông Hán Đại vương Lĩnh châu Phúc thần.

Cho phép xã Nại Tử quận Tam Đới xứ Sơn Tây phụng thờ, để thần cùng bảo vệ cho dân ta. Vâng thay!

Xưa vào thời Quang Vũ triều Đông Hán có một người con gái Lạc tướng đất Mê Linh – Phong Châu. Lạc tướng tên là Trưng Nghĩa Dũng, tên chữ là Phúc Bố, vợ là bà Hồng Thị Đào. Vợ chồng đúng là những người tích thiện làm điều nhân đức, hương lửa tam sinh, một nhà thật là phong lưu có thừa vậy. Năm Lạc tướng 42 tuổi, bà phu nhân 43 tuổi mà vẫn chưa sinh con nuôi dưỡng. Vào ngày 12 tháng Giêng ông Trưng nói với phu nhân họ Hoàng rằng:

  • Không có sự giàu có bốn biển nào mà không đến lúc nghèo. Không có tuổi thọ như núi cao nào mà không đến lúc chết. Chỉ có là chưa có được con nối dõi thì thường buồn bã. Chi bằng hãy chia phát tài sản để cầu phúc, cầu cho được có con.   

Phu nhân vâng theo lời đó bèn phát chẩn cho người nghèo, sắm sửa lễ bái, khấn với sông núi thần kỳ, lập đàn bố thí. Đến ngày mồng 9 tháng Tư vợ chồng đi lên chùa Hương Tích trên núi lễ bái, rồi ngủ lại trong chùa. Nằm mộng thấy có thần nhân đến nói rằng:

  • Gia đình các người có lòng thành. Trời đã soi mệnh, cho viết vào sổ hồng, sau giáng bậc anh hùng quốc chủ, giúp nước an dân. Không phải người phàm ở trần gian vậy.

Vợ chồng nghe lời bỗng tỉnh dậy, trong lòng rất lấy làm vui mừng. Bái tạ rồi trở về nhà của ông Trưng. Từ đó bà có mang. Đến ngày mồng 9 tháng Tư vào giờ Tý ông Trưng thấy ánh sáng chiếu đầy nhà, tự nhiên mơ màng mà thiếp đi, nhìn xa thấy có một ông lão. Ông lão thân mặc áo vải vạn màu, đầu đội mũ hoa, lưng thắt đai vàng, chân đi giày, tay dẫn một người con gái, tự xưng là nữ Kim Tiên, đứng ở một bên giường, nói rằng:

  • Ta sịnh ra vào thời Hoàng Đế, du chơi nơi chốn không già, nhàn nhã ở đường suối bàn vậy. Nay vâng sắc lệnh Ngọc Hoàng đem nữ Kim Tiên cho nhà ngươi.

Ông Trưng nói: – Vâng.

Ông lão bay lên không mà đi. Ông Trưng cười lớn ở trong mộng, bỗng tỉnh lại thì bà vợ họ Hoàng đang thai đang chuyển động. Đến mùng 10 giờ Sửu sinh được một người con gái, phong tư tuấn chỉnh, cốt cách dị thường. Hình dáng tuy là nhi nữ nhưng tướng mạo lại như con trai. Mọi người đâu vui mừng, cho là điều lạ. Nhân theo trong mộng đã đứng ở một bên nên đặt tên húy là Trắc, tục gọi là Ả Lã (Lữ). Đến khi trưởng thành gọi là Nàng Đê. Mày cong trăng non, mắt tựa như làn thu thủy. Khi vừa tròn 16 tuổi vườn hồng đầy lá mà chưa có mối lương duyên.

Lúc đó có người Chu Diên, cũng con của Lạc tướng (cha tên Huề [Dương] Thái Bình, mẹ là Hồ Thị Nhữ), tên là Dương Thi Sách. Tuổi đã 29, sinh ngày 10 tháng 6. Nghe nói Ả Lã Nàng Đê có nhan sắc kiều diễm mà tư chất kiên trinh, bèn thưa với Lạc tướng. Lạc tướng nói rằng:

  •  Ta và Lạc tướng Phong Châu trước đã có nguyện ước. Nay con lại nghe danh nàng Ả, đó phải chăng là duyên trời định vậy.

Bèn đến hỏi cưới, đón về, tức ngày mồng mười tháng Mười một. Đất Chu Diên hai họ đều cùng vui mừng.

Bấy giờ có người phương Bắc là Tô Định giữ chức Thái thú Giao Chỉ, là người cai trị bạo ngược hà khắc, tạp dịch nặng nề, khiến người phương Nam lầm than oán thán. Tô Định lại ham mê tửu sắc vô độ.  Nghe nói có con gái của Lạc tướng đất Mê Linh là nàng Trưng là người có sắc đẹp phi thường. Hắn liền đem quân đến đóng ở bên sông, rồi xông vào Mê Linh hỏi Trưng công. Trưng công cứ thực mà báo lại, nói rằng:

  • Một người con gái há lại gả cho hai chồng?

Tô Định từ tạ rồi lập tức dẫn binh mã tiến thẳng đến Chu Diên, tới nhà Dương Thi để hỏi. Thi Sách tuy là xuất thân văn học song cũng nổi tiếng võ lược, bèn kháng cự lại. Đôi bên mắng rồi đánh nhau. Khi đó Tô Định lập mưu, dùng khí giới trước mà Dương Sách thì tay không. Thi Sách tuy có chí dũng song sao có thể lấy sức bọ ngựa để đánh lại với cỗ xe vạn thặng được. Đến Tử Khê thì Dương công đường cùng mà hóa (tức ngày 11 tháng 12).

Dương Công đã chết. Tô Định tìm giết hết họ tộc Dương. Trưng nữ vương chạy về đất Mê Linh, bàn bạc tình trạng của tên Thái thú. Lạc tướng Trưng công liền chiêu mộ binh sĩ tinh nhuệ làm quân tiên phong. Trưng nữ vương vì căm ghét Tô Định là kẻ tham tàn bạo ngược giết chồng mình nên đã dấy quân đuổi Tô Định. Đánh chiếm được 65 thành ở vùng Lĩnh Nam, tự lập là Vương, tôn phong cho chồng là Quốc vương Thiên tử Đông Hán Đại vương, còn mình thì tự xưng là Quốc [Vương] Thiên Tử, lấy tên Ả Lã Nàng Đê làm tên thụy. 

Nhà Đông Hán lệnh cho Mã Viện đến xâm chiếm, cùng với Vương đánh nhau ở Lãng Bạc. Đánh nhau với Mã Viện từ đầu đến cuối là hơn 150 hiệp. Vương biết tình thế không thể chống đỡ được, nên rút về giữ ở Tử Khê, đóng ở miếu thờ Dương công. Đến đêm nghe tiếng thần ngâm rằng:

  • Nam quốc sơn hà, vốn bãi bể thành nương dâu.

Trưng Vương cùng với em là Nhị đem quân rút về cửa khẩu sông Hát nên quân tướng đều đang lộn xộn. Chị em cùng tử chiến, trở nên rất linh thiêng ở cửa sông Hát. Từ Phong Châu đến cửa khẩu sông Hát cộng 72 ngôi đền thờ phụng.

Phường Nại Tử ở Tử Khê nguyên là nơi ông Dương Thi Sách thua trận, chạy đến bãi Thường Nghiêm trong địa phận Nại Tử thì ngã chết. Trưng nữ phục quốc lên ngôi, cho phép phường Nại Tử làm làng hộ nhị, cho miễn tô thuế, phu dịch. Phường Nại Tử ở Tử Khê dâng tấu lên triều đình xin quan cho mỹ tự để thờ. Quan trong triều phong cho ông Dương là Quốc Vương Thiên Tử, ở vào thời Đông Hán nên xưng là Đông Hán Đại vương. Sau lại dâng tấu xin mĩ tự tên thờ. Triều đình không dám đặt tên hiệu mới, nên xưng là Quốc Vương Thiên Tử Ả Lã Nàng Đê Lĩnh Nam Đại vương (yên định được 65 thành ở Lĩnh Nam nên xưng là Lĩnh Nam vương). Sau này trang phường nghe tin Trưng Vương tử trận, khóc như tang người thân, nhận ngày sinh hóa (sinh ngày mồng 9 và 10 tháng Tư, hóa ngày 11 tháng Sáu) mà làm nghi lễ tế tang, phụng thờ.

Kể rằng khi vua [Lê] Thánh Tông còn nhỏ ở chùa Long Khánh, thường được Trưng Vương hiển ứng giúp vận, ngăn hoạn trừ tai. Nên đến đời Hồng Đức tặng là Ý đức Tông hoà Trinh tĩnh Túy mỹ Cung phi Hoàng hậu Lĩnh châu Đại vương. Lệnh các nơi trang phường phụng thờ, không được thay đổi. Ngôi miếu thiêng ở trên song muôn năm được kính ngưỡng, tôn sùng. Vạn đời truyền tụng, hàng năm tiến lễ. Năm năm hương lửa, đời đời nối mãi. Tốt thay, lành thay! Mãi mãi không ngừng.

Tên húy thụy theo như trong tích này. Cùng các ngày khánh hạ tùy dùng, trên là mâm chay, dưới là đồ mặn nấu chín kỹ.

Cúng húy ông Sách – Thiên Tử Đại vương. Dùng lễ áo mã màu xanh thêu gấm.

Cúng húy bà Trắc – Lĩnh châu Đại vương (tức Vua Bà). Lễ mã dùng áo bào sắc ánh vàng.

Lý trưởng Lê Văn Quán thừa sao.

Minh văn trên chiếc chuông cổ thời Trần phát hiện tại Hưng Yên

Năm 2015 một chiếc chuông đồng cổ lớn đã phát hiện ở làng Nhân Vũ (Nguyễn Trãi, Ân Thi, Hưng Yên). Chuông cao hơn 1m, đường kính miệng 60cm. Trọng lượng chuông khoảng 200kg. Phần thân chuông chia là 4 mặt. 4 mặt phía trên có hình Phật ngồi tòa sen và minh văn. Phía dưới là ô vuông chạm hình các muông thú (rồng, voi, trâu, rùa) ẩn trong mây sóng nước. Phần chỉ dọc của 4 mặt chia thành đường, có khắc chữ. Quai chuông hình rồng hai đầu (Bồ lao). Đỉnh quai có hình búp sen (đặc điểm tương tự thấy trên các chuông cổ thời Trần khác). Miệng chuông loe có chạm khắc hình cánh sen.

Đây là một chiếc chuông lớn có 4 mặt đúc đầy chữ và 4 vành, mỗi vành gồm 3 cột cũng có chữ khắc. Tuy nhiên phần nửa trên của chuông đã bị phong hóa bào mòn nên mất gần hết chữ. Chỉ còn đọc được nửa dưới mỗi mặt. Tổng số những chữ còn có thể đọc được là trên 600 chữ.

Bài minh văn phần thân chuông bắt đầu bằng mô tả con đường làng nhỏ qua cầu có ngôi chùa… Chuông đồng là sắc giới nghiêm trang, mở âm thanh tịnh. Chuông là khí đánh vang, Phật thường hiện. Phật là vô tướng, đâu cần phải nhìn thấy, chạm vào mới cảm nhận được sự hiển linh của Phật. Do đó người Việt chốn thiền (sư?) đã mở đàn việt quyên góp các thí chủ để đúc chuông. Năm Nhâm Dần tháng đầu đông (tháng 10) ngày mùng 1 đúc chuông lớn. Quang cảnh chùa ở nơi hương thôn từ cổ xưa, có nhiều người tín Phật, khung cảnh yên tĩnh, là nơi cúng tế các việc sinh tử. Có tiếng ca hát, mênh mông nguy nga. Có đài cửa phẩm liên hoa rậm rạp. Phảng phất hình sông nước, gò đồi. Chùa mới như một Kỳ viên ngàn thôn. Có chuông là pháp khí. Dựng lầu trống, lầu chuông. Người thợ nhân cũng là người làng xóm gần đó mà làm bài minh ghi lại việc nhân nghĩa.

Bài minh rằng:

… chuông là sự hiển hiện của Phật, Phật lấy chuông làm thịnh

… âm kình phát ra quần long sinh gió

… treo ở lầu cao, tiếng kêu vang vang.

Phần chữ nhỏ ở cuối bài ghi lại đàn việt quyên góp và những người đã đóng góp đất đai, tiền để xây chùa.

Người viết bài minh là Lê Tịnh, hiệu Ba Lãng.

Phần chữ trên viền chỉ dọc chuông được khắc sau khi đúc chuông, nội dung ghi những người đã tiến thí (đóng góp) ruộng, tiền để xây dựng các công trình trong và quanh chùa. Các công trình này là để bổ sung tượng, đồ dùng cho tòa Tam bảo trong chùa, để làm con đường và cây cầu nổi đi vào chùa. Thời điểm khắc chữ ở phần viền chỉ là vào tháng 11 năm Nhâm Dần (tức là sau khi đúc chuông 1 tháng). 

Đặc biệt trên phần chữ ở viền chuông có nói đến các địa danh hành chính của người tiến thí cho chùa là ở lộ Khoái Châu xã Đãn Chàng và xã Dược thuộc động Yên Viên. Xã Đãn Chàng có thể nay là xã Đan Chàng, một xã cùng tổng Nhân Vũ với nơi phát hiện ra chiếc chuông thời Nguyễn. Còn xã Dược thuộc động Yên Viên gần đó có thể là nằm trong tổng Yên Canh thời Nguyễn với các khu vực cận kề thuộc xã Mão Cầu.

Đơn vị hành chính “lộ” ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, phổ biến ở thời Trần và chấm dứt vào đầu thời Lê. Sau khi thống nhất đất nước, Lý Thái Tổ đã chia Đại Việt thành 24 lộ, thay thế cho 10 đạo thời Đinh – Lê. Nhà Trần tiếp tục duy trì đơn vị hành chính lộ, nhưng giảm số lượng xuống còn 12. Khi nhà Minh xâm chiếm nước ta đã áp dụng chế độ phân giới hành chính theo phủ, không còn đơn vị “lộ” nữa. Đến vua Lê Thái Tổ đã chia cả nước ban đầu thành các đạo.

Với địa danh “lộ Khoái Châu” được khắc trên chuông thì có thể xác định chắc chắn rằng đây là chiếc chuông thuộc về thời nhà Trần. Chuông được đúc vào năm Nhâm Dần, thì trong giai đoạn này có các năm sau:

  • Năm 1302 thời Trần Anh Tông
  • Năm 1362 thời Trần Dụ Tông

Rất khó xác quyết chiếc chuông này ở vào thời Trần Anh Tông hay Trần Dụ Tông. Nhưng với mối liên hệ của vùng đất này với Huyền Trân công chúa (em vua Trần Anh Tông) và loạn lạc thời kỳ cuối triều Trần Dụ Tông thì có thể nhận định rằng chuông được đúc vào năm Nhâm Dần 1302.

Nếu so sánh chiếc chuông Nhân Vũ với các chuông thời Trần đã biết là chuông chùa Bình Lâm (Hà Giang), chuông Vân Bản (Hải Phòng) và chuông chùa Rối (Hà Tĩnh) thì chuông Nhân Vũ có nhiều điểm nổi bật hơn. Đó là chuông còn nguyên vẹn, có chạm khắc không chỉ hoa văn mà còn hình Phật tọa thiền và các muông thú trong mây nước độc đáo. Về minh văn thì số chữ đúc và khắc trên chuông Nhân Vũ vượt xa số chữ tương ứng trên các chuông kia. Do đó chiếc chuông này xứng đáng được công nhận là Bảo vật quốc gia, như đã công nhận đối với những chiếc chuông thời Trần cùng thời.

Chuông thời Trần phát hiện ở Ân Thi, Hưng Yên.
Quai chuông hình bồ lao có núm búp sen.
Phật trên tòa sen.
Minh viết: Chung chi Phật hiển, Phật dĩ chung long…
Người viết bài minh: Ba Lãng Lê? Tịnh? thư.
Hình trâu trên mây nước
Dòng chữ: Tại Khoái Châu lộ…
Voi trên mây nước.

Càn Hải thánh tế văn

Do Phương hạ tiến sĩ Hồng lư tự khanh Đỗ đại nhân nghĩ. Phiên đọc từ bản chép tay của đền Quốc mẫu ở Ninh Cường, xã Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định.

Cung duy Thượng thánh:

Đoan trang tĩnh nhất,
Chính trực thông minh.

Càn khôn dựng tú,
Hà hải dục tinh.

Vấn kỳ tích tắc tiêu phòng quế dịch,
Văn kỳ phong tắc ngọc diệp kim hành.

Anh hoa chi ngoại chất phi phàm, đốc sinh Dương Thị,
Yểu điệu chi phương tư bất cải, nội trợ Tống kinh.

Gia hệ Cao Tào, khuê khổn nhi mẫu nghi thiên hạ,
Nữ trung Nghiêu Thuấn, miếu đường nhi tử dục lê manh.

Triêm ân nhi huyền quản gia gia, sơn tiêu ngu hổ,
Cảm hoá nhi âu ca xứ xứ, hải thiếp ba kình.

Ta thế sự chi mỹ thường, thiên hôi Tống hoả,
Mục sơn hà chi phi cựu, địa tận Nguyên binh.

Tam bách tải cương thường, trách long nhậm đại,
Thập bát truyền mệnh trẫm, quốc trọng thân khinh.

Phong lôi nhất trận Nhai sơn, dực Tống hà liên phu phát,
Xã tắc trùng an kim đỉnh, cừu Nguyên khẳng cộng chiên tinh.

Tuyết thuỷ độc chiêm Dao Trì, can minh thiết thạch,
Tùng bách bất suy hàn tuế, nghĩa quán nhật tinh.

Uông uông bạch lãng quảng sa, nan tiêu khí phách,
Hách hách thanh thiên bạch nhật, cao biểu chân hình.

Nhi sơn linh tráng kỳ nghĩa liệt,
Nhi hải nhược lẫm kỳ anh linh.

Giang ba vĩnh ấn đan tâm, hoàng phi đế tử
Sơn nguyệt trường minh tố tiết, địa nghĩa thiên kinh.

Khôn duy thử nhật sanh phù, dương dương chính khí,
Càn hải giả phiên linh hiển, lẫm lẫm anh thanh.

Sinh tiền dực Tống nhất thân, thánh đức hàm phu thiên Bắc quốc,
Hiển hậu phù Trần nhất mộng, thần uy trực chấn địa Nam minh,

Tế thế an bang, lịch đại chi cổn ba bưu bính,
Khang nhân phụ vật, ức niên chi miếu mạo tranh vanh.

Tư tắc cương phùng khư tiết, ngưỡng vọng phương hình:

Nghiễm nhã y quan, lẫm long nhan nhi bái khể,
Khanh thương lễ nhạc, thân nghĩ khổn dĩ tiền trình.

Cúc tửu tam tuần, phủ phục nhi hiến phân sơ á,
Tùng hương kỷ triện, cúc cung nhi lễ thượng bái nghinh.

Tại miếu tại cung, ung túc nhi đương tư đại tế,
Chương văn chương vật, tôn sùng nhi giám thử vi thành.

Tại thượng tại tả hữu, thần chi cách tư tỷ nhĩ Đồng Nhân xương sí,
Nhi gia nhi hương quốc, thần chi thính chi uyển nhiên Đại Hữu hoà bình.

Thuỵ khí doanh đình, đào lý địch gia sướng mậu,
Dư hương mãn thất, chi lan tạ dân phu vinh.

Cộng nhạc xuân đài, dung dữ vạn niên hồ khảo,
Khả phong tỷ ốc, di du bách phúc lai thành.

Tích tự thiêm trù, bách thế nhi hồng viên an tập,
Giáng tường tiêu dị, tứ thời chi lộc trật phong hanh.

Thần tích thôn Thượng xã Xối Đông, phần nhà Trần

Trích dịch từ bản thần tích lưu tại đền Tây thôn Thượng xã Trung Đông, Trực Ninh, Nam Định.

… Lại nói, từ đó về sau, trải qua Nhân Tông, Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông. Đến Huệ Tông không có con trai kế tự bèn nhường ngôi cho con gái thứ là tên là Công chúa Phật Kim. Phật Kim sau liền cải hiệu là Chiêu Hoàng. Chẳng bao lâu Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Thái Tông. Đang khi đó nước Việt ra ở thôn Thượng Lỗi xã Đông Mặc huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam có một nhà họ Trần tên là Phác, lấy bà Cao Thị Mỹ thôn Hạ xã Xối Đông huyện Tây Chân làm vợ. Gia thế Trần công vốn làm quan lớn ở triều Lý. Tới ông Phác thì gia cảnh bần bách, không có kế sinh nhai. Vợ chồng bèn gói ghém gia tài trở về quê vợ cùng xin phụ lão cho được ở lại đó để dạy dỗ con trẻ. Nhân dân vui mừng đều đồng ý nhận, tạo một học đường mời ông về ở đó, dạy dỗ sĩ tử. Qua vài năm trong quận huyện nghe tiếng, cũng đều gửi con đến nhập học. Từ đó gia đình ông trở nên đầy đủ hơn.  Một hôm vợ chồng nói với nhau rằng:

  • Ta tuổi đã ngoài ba mươi mà điềm khăn nỏ còn chưa thấy ở cửa huyền. Chi bằng nay hãy tạo phúc gây công, biết đâu ngày nào đó sẽ được trùm ơn, cũng là để thỏa nguyện bình sinh vậy. Sách nói rằng “tích thiện sẽ gặp được thiện, cầu nhân từ sẽ được đắc lòng nhân”. Sao cứ phải khư khư giữ lấy tài vật cho được vậy.

Thế là bèn phát tán hết gia sản để giúp đỡ người nghèo, chu cấp cho người thiếu, đem tài đem lực để ban phát thập phương, xây dựng một ngôi chùa ở trong dân, tô vẽ tượng Phật. Ngày ngày tiến cúng hương hoa. Thời thời tụng niệm chân kinh. Hễ là cần giúp người độ vật đều cố hết sức mà làm. Khi đó trời nóng bức, bà Cao Thị đi ra tắm gội ở bến sông trở về. Đến đêm hôm đó mộng thấy một thần tướng khoác áo bào màu hồng, đeo thắt lưng châu ngọc, thân cưỡi giao long, hai tay ôm một đứa nhỏ đẹp đẽ, đường đường tiến đến trước mặt nàng. Đang trong mộng bà rất kinh sợ, hô gấp Trần công cùng đến xúm bái. Người đó đưa đứa trẻ cho bà Cao Thị nói rằng:

  • Nhà họ Trần phúc hậu, trời đã biết đến. Ta vâng thiên mệnh đem con của Long cung đến thác nhập làm con nhà họ Trần để sau giúp nước triều Trần. Cẩn thận, cẩn thận. Chớ lộ, chớ lộ.

Khi đó bà ôm được đứa trẻ, chưa kịp làm lễ bái yết, trong lòng rất vui mừng thì đột nhiên tỉnh giấc, mới biết là điềm lành, kể lại cho Trần công biết. Tối hôm đó Trần công cũng nằm mộng thấy có một người tặng cho một bài thơ rằng:

Trời định thủy thần cho họ Trần
Vạn cổ núi sông để tiếng thơm
Phúc dày biết tạo, Trời ban phúc
Thấm ơn hưởng lộc tới muôn năm. 

Đến khi ông nghe bà nói, liên tưởng đến giấc mộng, cho rằng đây tất là điềm mộng lành. Từ đó vợ chồng uyên ương chung gối, loan phượng thành bầy. Chẳng bao lâu sau quả nhiên thấy phu nhân có mang thai. Đến kỳ mãn nguyệt sinh hạ một người con trai (khi đó là mùng 2 tháng Mười hai), diện mạo đẹp đẽ, quả giống như hình đứa trẻ trong mộng. Nhân sinh ở nơi chùa nên đặt tên là ông Phạm. Ngày qua tháng lại trải đã ba năm đã biết đi biết nói. Ăn như gió, đi như mưa. Thường thường ra bến sông rẽ nước mà đi xuống. Qua 7 ngày mới trở về dương thế. Người người thấy đều sợ hãi, gọi là thủy thần xuất thế. Đến năm 12 tuổi không học mà tự biết. Phàm trên từ thiên văn, dưới tới địa lý, không có việc gì là không biết, không có thứ gì là không hiểu, lại thạo cung nỏ, giỏi đọc xem hết binh thư. Bạn bè ai cũng sợ phục. Từ đó tiếng vang xa gần đều biết tới tên.

Khi tên tuổi vang đến triều đình, Thái Tông liền sai sứ thần về thôn Hạ xã Xối Đông gọi Trần công vào triều. Công vâng mệnh vào chầu, dẫn theo người con là ông Phạm cùng vào bái yết Đế. Thái Tông thấy ông Phạm có thể mạo khác thường, thực đúng là bậc tuất kiệt. Vua hỏi về tài năng, ông Phạm ứng đối làm Vua rất hài lòng. Ngay hôm đó Vua bái ông Phạm làm Ngự sử Trung thừa. Nhân vì ông Phác là người có tài, lại là người cùng tông phái nhà Trần nên bái ông Phác là Phủ doãn phủ Thiên Trường. Tất cả binh lương, tô thuế đều cho thuộc quản (ông Phác sau hóa được phong là Từ nhân Tập phúc Dao huống Đại vương, hưởng cúng ở thôn Hạ xã Xối Đông, do có bản chép riêng cho này này nên không chép chung vào bản này).

Lại nói, khi đó thôn Thượng xã Xối Đông có một nhà thi thư xử thế, hiếu đễ truyền gia họ Bùi tên Chấn, vợ là người thôn Trung cùng xã tên Nguyễn Thị Ngoạn. Vợ chầm đẹp duyên cầm sắt, uyên ương cùng hợp, lại thường có lòng tạo phúc, cố gắng làm điều nhân, không hề có tới nửa điểm mưa hại người, một hào tư lợi cũng không có lòng tham. Người người ở địa phương đều gọi là một gia đình tốt đẹp. Một bữa vợ chồng ông nhàn rỗi ngồi chơi uống rượu vui vẻ. Khi rượu đã thấm, phu nhân dựa lan can mơ màng thiếp đi, thấy có hai con gấu mờ mờ ảo ảo nhảy múa trước sân, phút chốc hóa thành hai con chim yến trắng. Phu nhân nắm bắt được hai con bạch yến thì bỗng tỉnh lại. Từ đó trong thân có mang. Mang thai được 10 tháng sinh hạ một bầu, nở ra hai người con trai (ngày mùng 10 tháng Mười hai), đều là vẻ rồng hàm én, mắt phượng mày ngài, khác xa với người thường. Cha mẹ rất vui mừng đặt tên người con lớn là ông Khiết, người con thứ là ông Tuyết. Xuân sinh hạ trưởng, đã được 6 năm. Cha mẹ gửi nhập học với Hoa Đường tiên sinh. Học được mấy năm văn võ kiêm toàn, thông minh xuất chúng.

Đến năm 15 tuổi cha mẹ thay nhau mất. Hai ông làm lễ chôn cất cha mẹ, hương khói phụng sự như nghi thức. Khi ấy gia tài đều đã hết, sáng vay tối nợ, bữa đực bữa cái, bốn bức gió lùa, vườn không cọng cỏ. Lúc đó anh em nghe tiếng vợ chồng Trần công (tức ông Phác) tích đức làm việc thiện bèn cùng nhau đến thôn Hạ xin nương tựa làm con nuôi của Trần công. Trần công thấy hai người anh em đều là những nam nhi tốt, rất là yêu mến, tình tuy là con nuôi mà thân như con đẻ. Từ đó hai ông (tức là chỉ ông Khiết, ông Tuyết) tìm được nơi nương tựa, không lo đói khát, dốc lòng chăm học. Được mấy năm thì sử sách trăm nhà không chỗ nào không từng xem. Khi ấy Trần công đã 49 tuổi, bỗng nhiên không bệnh mà mất. Vua cho ông Phạm trở về chôn cất cha. Lúc ấy phu nhân Cao Thị lại do thương tâm mà thành bệnh rồi mất. Ông Phạm cùng với ông Khiết, ông Tuyết làm lễ chôn cất. Đến sau ba năm đạo hiếu đã tròn ông Phạm lại trở về triều nhận chức, để hai người em ở lại gìn giữ gia đường.

Lại nói, khi Thái Tông lên ngôi được 33 năm thì nhường ngôi lại cho Thánh Tông. Thánh Tông khi mới lên ngôi hạ chiếu cầu người hiền, lệnh các châu huyện cử những người hiếu liêm, hiền lương, chính trực, có tài văn võ thì lên kinh thành để ứng tuyển. Lúc đó ông Phạm tiến cử hai người em với Vua. Vua thấy hai người có diện mạo khác thường, trong lòng rất mừng nói:

  • Trời vì triều ta mà đã sinh người hiền phụ giúp, sao lại gặp được muộn vậy. 

Ngay hôm đó bái ông Khiết là Tả bộc xạ, ông Tuyết là Hữu bộc xạ. Nhân việc ông Phạm tiến cử người hiền liền bái ông Phạm là Tấu thư Bác sĩ. Từ đó va ông ở trong triều giữ chức, thiên hạ thanh bình. Đến khi Thánh Tông truyền ngôi cho Nhân Tông, lấy niên hiệu Trùng Hưng. Khi đó Thái tử nước Nguyên là Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng đại tướng Hô Mã Nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn quân mạnh ba mươi vạn đến xâm chiếm nước ta nhằm cướp lấy nước. Quân thanh chấn động, tiến đến bờ biển. Nhân Tông tập hợp trăm quan định kế đánh dẹp. Khi ấy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn kiên quyết xin đánh. Trần Phạm, Trương Long, Bùi Khiết, Bùi Tuyết cũng ra sức xin đánh. Vua bèn bái Hưng Đạo Đại vương là Đại Nguyên soái kiêm Chưởng thủy bộ hai quân, nhận năm vạn quân mạnh trấn giữ ở đồn giữa. Lại bái Trần Phạm làm Tả tướng, Trương Long là Hữu tướng, ông Khiết, ông Tuyết làm Điệu bái binh lương cho các lộ. Các ông vâng mệnh nhận quân chia đạo tiến thẳng. Khi đó Hưng Đạo Vương dẫn quân về trang Vạn Kiếp, xây dựng đồn doanh ở trên đất trang Vạn Kiếp. Ông Phạm trấn cứ ở sông Bạch Đằng nối đến sông Lục Đầu, cùng với Hưng Đạo Vương cùng nghênh giặc.

Còn ông Khiết, ông Tuyết cùng Trương Long nhân quân trở về đạo Sơn Nam xây dựng đồn doanh để làm nơi giữ phòng. Khi ấy ba ông nhân quân về xã Xối Đông chia ra lập thành ba đồn. Lúc đó ông Khiết lập một đồn ở thôn Thượng, gọi là đồn Thượng. Ông Tuyết lập một đồn ở thôn Trung, gọi là đồn Trung. Trương Long lập một đồn ở thôn Hạ, gọi là đồn Hạ (sau đổi thôn Hạ thành thôn Phú Gia). Nếu có lập mưu thì các ông tất đều cùng làm với nhau. Trải qua sáu tháng không phân thắng bại. Sau Trương Long được thủy thần Tam Lang dạy, có thể đi dưới đáy nước, đục phá thuyền giặc. Thuyền bè của giặc mất quá nửa. Khi ấy Hưng Đạo Vương cùng với ông Phạm và các quân liên tiếp giao chiến. Quân Nguyên thạo đánh đường thủy nên các ông bèn lên đánh trên bờ. Bỗng có thần Bạch Mã đến giúp. Quân sĩ Nguyên đều chạy tán loạn. Các ông thừa thắng đuổi dài, chém hơn hai trăm đầu tì tướng giặc, vài ngàn quân lính, bắn sống Hô Mã nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn về doanh trại. Trấn Nam Vương Thoát Hoan chạy về nước. Hưng Đạo Vương cùng với ông dẫn Bá Linh ra xử tội, chặt làm 3 đoạn thả xuống cửa sông. Quân Nguyên gửi thư xin hòa. Hưng Đạo Vương truyền đem Mã Nhi về nước Bắc, đền gần cửa sông thì giả bị lật thuyền. Mã Nhi bị chết. Từ đó quân Nguyên không dám xâm phạm đất ta. Lúc ấy Nhân Tông luận công ban thưởng các cấp khác nhau, bèn phong Hưng Đạo Vương kiêm Thượng đẳng thần, thực ấp vạn hộ. Phong ông Phạm làm Khuông quốc hầu Chương tấu Phạm Đại vương. Phong ông Khiết là Dực vận hầu Khiết ốc Đại vương. Cho hai ông về xã Xối Đông lập sinh từ để ngày sau có chỗ hương hỏa hưởng thờ (còn ông Tuyết, Trương Long cũng phong Đại vương, được ghi rõ ở bản riêng).

Khi đó ông Phạm, ông Khiết vâng mệnh trở về xã Xối Đông (do ông Phạm lập đồn ở ba nơi, nên đến sau khi hóa ba thôn đều phụng thờ). Khi hai ông đến thôn Thượng truyền xây dựng một nơi sinh từ ở trong đất gần dân. Nhân dân vâng mệnh, xây dựng hoàn thành. Khi ấy ông Phạm dân biểu tâu xin được đi du chơi thiên hạ, trải xem sông núi. Vua đồng ý. Ông bèn đi xe dạo chơi. Một hôm ông đến núi Kim Nhan ở Hoan Châu, bèn lên núi ngắm cảnh. Đến nơi lưng núi bỗng thấy trời đất mù mịt, hổ thét gào. Rồi không thấy ông đâu nữa (tức ông Trần Phạm). Chỉ có ở chỗ ông ngồi thấy mối mới xây thành một gò đất lớn (khi ấy là 15 tháng Tám).

Lúc đó gia thần quân lính thấy vậy, quay về báo với nhân dân. Do người thôn Thượng xã Xối Đông theo ông Phạm thấy ông Phạm đã hóa bèn quay trở về báo với ông Khiết. Khi đó ông Khiết đang đi xe nhàn chơi. Ông Khiết lại dừng ở đất thôn Thượng, dạy đạo cho nhân dân. Ông bèn dâng biểu tâu lên Vua. Vua nghe tin, rất thương xót công thần có công lớn với nước bèn tặng phong sắc chỉ là Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương. Cho ông Khiết đón sắc về thôn Thượng phụng thờ. Thế là ông Khiết truyền nhân dân thôn Thượng sửa sang chốn cũ đồn doanh để làm đền thờ mà phụng thờ. Ông Khiết ở lại nơi đất thôn Thượng, lấy nhân nghĩa lễ trí tín để giảng dạy cho nhân dân. Trong vài tháng dân trở nên thuần hậu, phong tục tốt đẹp, đất đai trù phú, đều là nhờ công đức của ông vậy.

Lại nói, ông sống ở đất đó qua 6 tháng. Một hôm ông bỗng nhiên bị bệnh liệt, cầu thần không có hiệu quả, uống thuốc không thuyên giảm. Ông mất ở trong nhà (khi đó là mùng 10 tháng Hai). Nhân dân bèn làm lễ chôn cất ở chỗ bên sông. Chôn cất xong, nhân dân dâng biểu tâu lên triều đình. Vua nhớ công lao lớn của ông với nước nhà liền phong thêm sắc chỉ là Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương, lệnh sứ thần đón sắc về nơi hóa, truyền nhân dân viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau các chư vị Đại vương của thôn Thượng có linh thiêng âm phù giúp nước, dẹp nạn trừ tai, cầu mưa cầu tạnh có nhiều linh ứng nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự, sắc chỉ, vạn cổ hưởng thờ, muôn năm hương hỏa mãi không dứt. Tốt thay!

Phong Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương.
Phong Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương.
Cho phép xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam phụng thờ.

Ngày sinh thần các chư vị đại vương cùng với các tiết khánh hạ và chữ húy phải cấm vâng khai như sau.

Linh Lang Đại vương sinh thần ngày 15 tháng Giêng. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi. Vào ngày chính có cỗ trai, bánh dày, ca hát, đấu vật mười ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Mười hai. Lễ dùng dâng chính mâm chay, trà quả, dưới là thịt lợn một màu, xôi, rượu.

Phạm công sinh thần ngày mùng 2 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Tám. Lễ dùng trên dâng oản quả, mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, rượu.

Khiết công sinh thần ngày mùng 10 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì dừng. Hóa thần ngày mùng 10 tháng Hai. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì ngừng.

Đại khánh hạ là ngày 15 tháng Mười một. Lễ dùng cỗ trâu, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng.

Mỗi năm hai kỳ xuân thu cứ hai tháng cuối mùa làm lễ bày tế. Làm lễ vật tùy nghi.

Các chữ húy Lang 郎, Phạm 梵, Khiết 潔, Hiển 顯 là bốn chữ nhất thiết cấm.
Chữ húy của các thánh phụ là Khiết 潔, Chấn 振, Phác 樸.
Các chữ húy tên không được gọi, viết văn không được dùng, chữ đọc đều phải tránh âm.

Mỹ tự có chữ Linh, chữ Quý, chữ Minh, chữ Chương, chữ Tấu, chữ Ốc. Các mỹ tự tên không được gọi , đọc đều phải tránh âm.