Ông Ngâu, bà Ngâu và đàn chim quạ

Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu
Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông.

(Chinh phụ ngâm)

Câu chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ bị thiên đình chia cách, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày Thất tịch (mùng 7 tháng Bảy) nhờ đàn chim quạ bắc cầu trên sông Ngân Hà tưởng rằng là truyện thần thoại Trung Quốc, nhưng mấy ai biết rằng ông Ngâu, bà Ngâu chính là hai vị Sơn Tinh, Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt.

Làng Ngâu (nay là thôn Yên Ngưu, xã Đại Thanh, Hà Nội)  có 2 ngôi miếu cổ có từ thời Lý thờ Ngưu Lang và Chức Nữ. Đó là miếu Mục Đồng thờ đức Tổ Nam Dương, tức ông Ngâu, và miếu Diệu Linh thờ Hương Từ Thanh Vân Thần Nữ, còn gọi là Tổ Mẫu Ngâu. Theo truyền thuyết, miếu Diệu Linh được hoàng hậu của vua Lý Thần Tông là Lệ Thiên tôn tạo và đặt tên chùa Hưng Quốc để thờ Phật. Ngày nay chùa Ngâu vẫn có lối thờ Tam phủ và có tượng Tổ Mẫu Ngâu cầm cành trúc trên tay (Trúc = Chức nữ?). Còn miếu Mục Đồng có tượng Thánh Tổ Yên Ngưu (Ngưu Lang) tay cầm gậy và đang ngồi trên con trâu vàng.

Vị Thánh Tổ Nam Dương cầm gậy thần và cưỡi trâu thì là Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn với cây gậy đầu sinh đầu tử. Nam Thiên Thánh Tổ cũng là Kinh Dương Vương, người đã vâng mệnh vua cha Đế Minh làm vua ở phương Nam. Bà mẫu trồng dâu dệt vải tương ứng như bà Tang Ma bên bãi Trường Sa Động Đình là Mẫu Thần Long, vị mẫu của Thủy phủ (Mẫu Thoải). Thì ra mối tình Ngưu Lang – Chức Nữ chính là sự kiện Kinh Dương Vương gặp mẫu Thần Long Động Đình trong sử Việt. Đây cũng là chuyện giữa Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh) và Thủy Tinh (Mẫu Thoải), dẫn đến mâu thuẫn mà hàng năm vào mùa mưa Ngâu tháng 7 lại dâng nước lên gây lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng.

Chùa Yên Ngưu (Miếu Diệu Linh xưa) có lối thờ Tam Phủ là Thiên, Địa, Thoải nhưng khác với lối thờ của các đền phủ khác. Cung Vua cha Động Đình thay thế cho cung Chúa Sơn Trang. Cung thứ 2 thờ chính giữa Quan lớn Đệ Nhất Tôn Ông. Cùng với Tổ Mẫu Ngâu được thờ ở đây thì lối thờ này rõ ràng nhấn mạnh vào dòng Thủy phủ, trong đó Vua cha Thủy phủ ở đây là Động Đình Đế Quân, Tổ Mẫu Ngâu là Thần Long Động Đình, Quan lớn Đệ Nhất là Lạc Long Quân theo Truyện họ Hồng Bàng.

Miếu Mục Đồng ngoài thờ chính là Tổ Yên Ngưu còn có thờ Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương. Điều này cho thấy, đối lập với miếu Diệu Linh (chùa Yên Ngưu), miếu Mục Đồng nhấn mạnh việc thờ dòng lên núi (Nhạc phủ). Đặc biệt nhất là miếu Mục Đồng lại thờ 10 vị quan lớn của Thủy phủ nhưng dưới tên gọi là 10 vị Kim ô (quạ vàng). Kim ô là hình ảnh con quạ ba chân, biểu tượng của mặt trời, như gặp trên các bức lụa hay tranh tường từ thời Hán. Đàn quạ bắc cầu Ô Thước thì ra chính là 10 vị quan lớn, được biết là những người con của Kinh Dương Vương và mẫu Thần Long. Kim ô hay mặt trời là cách gọi từ góc độ của dòng lên núi (nằm trong miếu Mục Đồng – nơi thờ dòng lên núi) đối với các vị quan lớn Thủy phủ.

Hình Kim ô – quạ vàng ba chân trong mặt trời trên bức lụa ở mộ Mã Vương Đôi thời Hán (ảnh internet)

Theo Sơn hải kinh: ở ngoài Đông Nam Hải, giữa sông Cam Thủy, có một quốc gia gọi là Hy Hòa. Ở nước Hy Hòa có nàng Hy Hòa là vợ của Đế Tuấn, sinh ra mười con trai là mười con kim ô, tức Mặt Trời. Hàng ngày, Hy Hòa tắm cho Mặt Trời ở Cam Uyên. Có truyền thuyết khác kể rằng mười con Kim ô đậu trên cây Phù Tang.

Như vậy nàng Hy Hòa chính là Động Đình Thánh Mẫu hay Đông Quang Thánh Mẫu (Nhật), tức Mẫu Thần Long. Bà lấy Kinh Dương Vương Tản Viên. Sơn hải kinh ghi bà lấy Đế Tuấn là đúng vị Sơn Tinh Nguyễn Tuấn. Hy Hòa là tên gọi theo vị tổ phương Đông là Phục Hy hay theo vị quan Hy Trọng được Đế Nghiêu cử đến phương Đông quan sát mặt trời, xây dựng lịch pháp. Cây dâu Phù Tang cũng chỉ rõ đây là hướng Đông và liên quan đến việc trồng dâu dệt vải của Chức Nữ. Phù Tang và Cam Lâm còn được nhắc tới trong tên gọi của vị thần phương Đông (Đông Vương Công) là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế.

Các vị quan lớn của Thủy phủ là những vị thủ lĩnh được Lạc Long Quân (vua Hạ) phân chia trấn trị các phương. Điều này được hình tượng hóa thành 10 mặt trời chiếu sáng khi đó. Truyền thuyết kể thời Đế Nghiêu, mười mặt trời chiếu nắng cháy bỏng. Đế Nghiêu sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời. Chỉ còn lại 1 mặt trời (Kim ô) sợ quá lẩn trốn mất. Truyền thuyết này diễn tả lại sự kiện lịch sử là Hậu Nghệ – một chư hầu ở phương Bắc xưa của chính dòng Đế Nghiêu – đã đánh diệt các thủ lĩnh của nhà Hạ ở 9 phương, chỉ còn lại 1 phương, sau này trở thành nhà Hạ Trung hưng.

Còn trong thần tích Việt thì đây là câu chuyện ông Nhăng mà lấy bà Nhăng, sinh ra con rắn thằn lằn cụt đuôi. Ông Nhăng bà Nhăng là ông Ngâu, bà Ngâu. Con rắn cụt là vị thủ lĩnh còn lại của nhà Hạ đã bị Chử Đồng Tử – Hậu Nghệ chặn, đuổi lên phương Nam xưa, thể hiện trong chuyện Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh bị đi đày ở Kỳ Cùng (Lạng Sơn).

Như vậy, câu chuyện lễ Thất tịch là lịch sử khởi dựng nước Xích Quỷ (Thủy quốc) được kể từ góc độ của dòng lên núi (Nhạc phủ). Ngưu Lang Sơn Thánh lấy Mẫu Ngâu Thần Long trồng dâu dệt vải bên bãi sông Động Đình, sinh ra 10 con Kim ô, là các thủ lĩnh nhà Hạ, đứng đầu là Hạ Khải Lạc Long Quân. Lạc Long Quân khởi (khải) lập quốc là nhà Hạ, phân cho những người anh em trấn ở các phương, là những vị tôn quan. Hạ Khải mất, một chư hầu của chính dòng Đế Nghiêu là Hậu Nghệ Chử Đồng Tử đã đoạt ngôi chủ thiên hạ (trong hình ảnh công chúa Tiên Dung), dẹp các tôn thất nhà Hạ (các Kim ô) ở 9 phương. Duy nhất còn lại một con Kim ô (con rắn cụt đuôi) chạy lên miền Nam xưa (Bắc nay), rồi sau đó trung hưng lại cơ nghiệp nhà Hạ.

Dòng lên núi của cha Tiên Tản Viên Sơn Thánh (Ngưu Lang) kết hợp với dòng xuống biển của mẹ Rồng Thần Long (Chức Nữ) mà làm nên dòng giống Việt, lưu truyền ngàn đời. Chính sự vận động đối lập lên rừng – xuống biển của 2 dòng người mới đem lại sự phát triển của xã hội người Việt vào thời lập quốc.

Thánh Tổ Yên Ngưu cầm gậy cưỡi trâu (ảnh Nguyễn Huân)
Tổ Mẫu Ngâu (ảnh Nguyễn Huân)
Các vị Quan lớn – Kim ô ở miếu Mục Đồng (ảnh Nhật Minh)

Các vị thần trong bộ tranh thờ người Dao ở Mộc Châu

Người Dao ở vùng Mộc Châu – Sơn La dùng một bộ tranh thờ gồm 3 bức tranh lớn vẽ các vị thần và 2 bức nhỏ vẽ chân dung thần. Bộ tranh này được gọi là Hành say, dùng trong các nghi lễ thờ cúng, tín ngưỡng của người Dao tại đây.

Bức tranh đầu tiên có hình một vị thần cưỡi ngựa là bức Thái Úy. Theo các nhà nghiên cứu thì Thái Úy là ông Đại Vũ, người khởi đầu nhà Hạ bởi trên một số tranh Thái Úy khác có thể hiện hình một cậu bé theo tích Đại Vũ sinh ra Khải trong quá trình trị thủy. Thái Úy cưỡi ngựa, cầm kiếm và ấn lệnh, làm chủ miền rừng núi. Phía dưới là các vị quan lại cưỡi ngựa. Tương ứng trong lịch sử người Việt thì Đại Vũ là Tản Viên Sơn Thánh hay Kinh Dương Vương, người khởi đầu dòng lên núi. Trong Tứ phủ người Dao thì Thái Úy ứng với Dương gian, là phủ nơi con người sinh sống.

Bức tranh đối diện thể một vị thần mặt đỏ cưỡi rồng, gọi là Hải Bá. Hiện tại các nhà nghiên cứu cho rằng thần cưỡi rồng là Hiên Viên Hoàng Đế đã cưỡi rồng mà về trời. Tuy nhiên như vậy không hợp lý vì Hiên Viên không phải là “Hải Bá”, thần của miền biển. Đúng hơn thì Rồng biểu trưng cho Thủy phủ. Người cưỡi rồng phải là vị thần chủ của Thủy phủ, tức là Thủy Tinh Bát Hải Động Đình hay Lạc Long Quân. Thần chủ của Thủy phủ ở trên tranh còn cầm tù và, khá giống với hình tượng Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt. Phía dưới bức Hải Bá là hình ảnh các thầy tào và cảnh Thượng đao sơn trong lễ cấp sắc của người Dao.

Bức tranh ở chính giữa được gọi là Tổng đàn hay Tổ tiên. Bức tranh này thể hiện có 9 tầng từ trên trời xuống đất. Trên cùng là Tam Thanh cung thờ 3 vị Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn (ở giữa), Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn (bên phải) và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (bên trái). Ba vị Tam Thanh được Đạo giáo thờ như những người đã sáng tạo ra vũ trụ.

Ở tầng thứ hai là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người cai quản Thiên đình. Hai bên là các vị Thiên Vương, có ánh hào quang. Tầng thứ ba là Tây Vương Mẫu, vị thần cai quản các tiên thánh trên núi Côn Lôn. So với sử Việt thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị vua Hùng đầu tiên, tức Đế Minh. Tây Vương Mẫu là Tây Thiên Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo hay là bà Vụ Tiên trong Truyện họ Hồng Bàng.

Ở tầng thứ tư là Bắc Đẩu Tinh Quân. Hai bên là các vị nguyên soái, như Đặng Nguyên Soái mặt đen như thiên lôi ở bên trái, Triệu Nguyên Soái mặt đen ở bên phải. Ở tầng thứ năm là Nam Tào và các vị phụ thần hai bên. Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vị thần nắm sổ sinh và sổ tử của Thiên đình. So với sử Việt thì đây là hai vị Hùng Vương Thánh Tổ được thờ ở đền Hùng, là Viễn Sơn Thánh Vương (Đế Nghi) và Ất Sơn Thánh Vương (Lộc Tục).

Tầng thứ sáu, bảy và tám là các quan Tam Nguyên. Tầng thứ sáu vẽ Thượng Nguyên Thiên Quan có hình nhật nguyệt ở 2 bên, tiết Thượng Nguyên Tứ Phúc vào rằm tháng Giêng. Tầng thứ bảy là Trung Nguyên Địa Quan, tiết Trung Nguyên Xá Tội vào rằm tháng Bảy. Tầng thứ tám là Hạ Nguyên Thủy Quan, tiết Hạ Nguyên Giải Ách vào rằm tháng Mười.

Ở tầng cuối cùng (thứ chín) vẽ hình Thổ Địa thần nơi miếu thổ thần và các loài vật sống trên mặt đất như hổ báo, trâu voi, rắn rết. Thần Thổ Địa cai quản vùng đất đai và những sinh vật sinh sống ở đó.

Trong bộ tranh này thì bức Tổng đàn ở giữa thể hiện cảnh theo trục đứng gồm Thiên phủ – Địa phủ, nơi các thần linh ngự trị. Còn hai bên là Thủy phủ và Dương gian, nơi con người sinh sống. Tổng hợp 3 bức tranh có đủ Tứ phủ theo tín ngưỡng của người Dao.

Hai bức vẽ nhỏ là chân dung (mặt nạ) của hai vị thần chủ cai quản con người, cũng là hai vị thủy tổ của người Việt: Thái Úy – Kinh Dương VươngHải Bá – Lạc Long Quân. Thái Úy Kinh Dương Vương thể hiện như một vị quan mặt trắng, hiền từ như mặt trăng mùa thu (Chu). Hải Bá Lạc Long Quân thể hiện mặt đỏ như mặt trời mùa hè (Hạ).

Hải Bá Lạc Long Quân
Thái Úy Kinh Dương Vương

Có thể thấy tín ngưỡng thờ của người Dao tương đồng với tín ngưỡng của người Việt về các vị thần, về cách chia Tứ phủ. Cũng như người Việt, các vị thần được thờ của người Dao là “Tổ tiên”, tức là những vị vua, quan đã có công lao gây dựng nên dân tộc, nên đất nước ở thời cổ sử. Đó là ba vị Hùng Vương Thánh Tổ như thờ ở đền Hùng và hai vị thủy tổ Sơn Tinh, Thủy Tinh của 2 dòng lên núi và xuống biển.

Cô Tấm và ông Bụt

Nguyên phi Ỷ Lan được biết là rất coi trọng đạo Phật, cho xây nhiều chùa chiền mà các di tích khảo cổ và tín ngưỡng vẫn còn để lại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, thực sự là dòng phái Phật giáo nào đã giúp cho Nguyên phi Ỷ Lan trở thành một Thần phi, một Hoàng hậu nhiếp chính rồi Hoàng Thái hậu? Lần theo sự tích của Nguyên phi Ỷ Lan kết hợp với các di tích còn lại có thể cung cấp thêm những nhìn nhận mới về Phật giáo và văn hóa đầu thời Lý.

Cầu duyên trên quê hương Thổ Lỗi – Sủi

Trong thần tích trong bản khai thần tích thần sắc của làng Thục Cầu (Đồng Xá, Văn Lâm, Hưng Yên) thì tên của Nguyên phi Ỷ Lan được chép như sau:

Thái hậu quê ở làng Cổ Lỗi, huyện Siêu Loại, xã Dương Xá. Cha là ông họ Lê tên Quyết. Mẹ là Võ Thị Tĩnh Nương. Gia đình lấy nghề trồng dâu làm nghiệp. Lại nằm mộng điềm lạ nuốt sao Thái âm mà sinh được một người con gái, tức là Thái hậu vậy. Đặt tên là Yến, còn gọi là Cám (Cảm), còn có hiệu là Khiết nương.

Tên vua Lý Thánh Tông phong cho Nguyên phi là Ỷ Lan thực ra là tên chữ, vận dụng phép phiên thiết từ tên thời con gái của bà vì Ỷ Lan đọc thiết âm là Án = Yến. Tương tự, tên làng Thổ Lỗi vốn cũng là tên phiên thiết của âm Nôm là Sủi vì âm Th- xưa đọc như S-. Dẫn chứng khác là làng này có lúc được ghi là Thượng Lỗi, có cùng âm phiên thiết như Thổ Lỗi. 

Điểm bổ sung là sau Lý Thánh Tông cho đổi tên Thổ Lỗi thành Siêu Loại, thực ra vẫn là giữ âm phiên thiết của chữ Sủi. Tức là:

  • Thổ Lỗi hay Thượng Lỗi thiết Thổi – Sủi
  • Siêu Loại thiết Soại – Sủi.

Thần tích Thục Cầu cho biết khi Khiết nương bị em lừa lấy hết cá thì người đã giúp Khiết nương là vị lão tăng chùa Linh Nhân có tên là Đại Điên. Tức là trong nếu so với truyện cổ tích Tấm Cám thì ông Bụt hiện lên chính là sư Đại Điên.

Tiếp đó khi cá bống bị giết cũng chính vị tăng này (Đại Điên) đã bảo Khiết nương thu xương cá chôn ở góc giường và sau trăm ngày được một đôi hài đẹp. Khiết nương mang đôi hài ra phơi trước sân thì bị một con “chim thần” tha mất một chiếc hài đem thả vào cung nhà vua. Nhà vua cho đó là điềm sinh Hoàng tử kế vị và ngay sau đó đã về chùa Linh Nhân ở huyện Siêu Loại lập đàn cầu nguyện, vì thế mà gặp được Khiết nương đang hái dâu, đưa về lập làm Thần phi.

Có thể thấy rõ ràng rằng đây là một sự sắp đặt của vị tăng Đại Điên, từ việc làm ra đôi hài, mang hài bỏ vào cung đình rồi đánh tiếng để cho nhà vua về cầu nguyện tại chính chùa của mình (chùa Linh Nhân). Ngôi chùa Linh Nhân này nay là chùa Linh Nhân Tư Phúc ở Dương Xá, Gia Lâm. Linh Nhân cũng là tên thờ của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Còn có chùa Phú Thị (chùa Sủi) có lễ hội Bông Sòng, trả lại trong sạch cho nội thị Nguyễn Bông, người đã “tham vấn” sư Đại Điên ở chùa Linh Nhân. Có thể chùa Sủi là quê hương của Nguyễn Bông (Nguyễn Bông có thể là người cùng quê với Nguyên phi Ỷ Lan).

Quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan ở Dương Xá thuộc tổng Dương Quan, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh xưa. Xã Dương Xá có mấy thôn: Đanh, Đá, Trung. Những cái tên Đanh, Đá gợi nhắc tới Bà Đanh, Bà Đá trong tục thờ Tứ pháp.

Đặc biệt là trong cùng tổng Dương Quang, ở phía bên kia sông Thiên Đức đối diện với Dương Xá là làng Đề Trụ. Làng này tới nay còn đền thờ Thiên Đế Đế Thích. Đây là một liên hệ cho thấy khả năng vị tăng Đại Điên ở chùa Linh Nhân là một vị sư tu theo đạo thờ Thiên Đế, bởi Đế Thích mới là vị thần có thể cầu duyên và cầu tự, chứ không phải Phật Thích Ca.

Sự tích Ông hàng Dầu đã thấy mây lành che trên đầu Khiết nương và khuyên nàng đi xem vua ở Dương Xá chắc hẳn cũng có ý nghĩa. Dầu là thứ để thắp sáng (Quang) nên rất có thể tương ứng với cái tên Dương Quang của tổng này. Cái tên Dương Quang cũng nhắc tới liên hệ với Thạch Quang Phật trong tín ngưỡng Tứ pháp.

Cầu tự nơi kinh thành Thăng Long

Lý Thánh Tông rước Khiết nương về Thăng Long, cho ở cung Ỷ Lan, phong là Thần phi. Dấu vết của cung Ỷ Lan nay là chùa Kim Cổ, vốn là Đồng Thiên quán, tương truyền là nơi Nguyên phi Ỷ Lan thờ “đạo Giáo”. Tuy nhiên, Nguyên phi Ỷ Lan là người tôn sùng “đạo Phật”, sao lại đi lập Đạo quán ở ngay nơi ở của mình? Cái tên “Đồng Thiên” của quán này cho thấy khả năng nơi đây thờ Thiên Đế của “đạo Phật”, chứ không phải thờ thần của đạo Giáo.

Nguyên phi Ỷ Lan vốn được sự giúp đỡ của “ông Bụt” Đại Điên mà trở thành cung phi, sau đó lại cũng nhờ ông Bụt này mà sinh được Hoàng tử. Nên quán nơi cung điện của bà phải là thờ “Bụt” mới đúng.

Chuyện Nguyên phi Ỷ Lan cầu tự được con trai liên quan trực tiếp đến tăng Đại Điên. Thần tích Thục Cầu kể rằng sau khi vào cung, Thần phi Ỷ Lan (thần tích khác chép là tiểu nhân là Nguyễn Bông) vẫn thường về chùa Linh Nhân cúng dường. Tăng Đại Điên đã “tư vấn” cho Nguyễn Bông nhìn trộm Thần phi để đầu thai làm Thái tử. Dấu vết nơi Nguyễn Bông đầu thai là chùa Thánh Chúa ở Dịch Vọng, Hà Nội.

Điều lạ là tăng Đại Điên lúc này không còn ở huyện Siêu Loại nữa mà đã về vùng Dịch Vọng ở tại chùa Duệ Tú. Thần tích Duệ Tú cho biết ông là người quê ở tại vùng này, có tên là Lê Toàn Nghĩa. Khi tu hành đã trở thành một vị lương y và thiền sư có nhiều công lao. Rõ ràng rằng tăng Đại Điên ở Thổ Lỗi đã “chuyển chùa” cùng với Thần phi về kinh đô. Và vị Đại Điên đã có công lớn trong việc giúp Thần phi Ỷ Lan “sinh con theo ý muốn”, sinh được Thái tử Càn Đức, nhờ vậy Ỷ Lan trở thành Nguyên phi nhiếp chính thời Lý Thánh Tông. Chú ý rằng sư Đại Điên cũng mang họ Lê như Khiết nương Lê Thị Yến.

Một lần nữa có thể thấy là tăng Đại Điên không phải dùng “Phật pháp” thiền môn mà là một Pháp sư có khả năng giúp đầu thai và chữa bệnh. Câu chuyện đầu thai của Nguyễn Bông có điểm giống với cách Khâu Đà La bước qua người Man Nương mà sinh ra Tứ pháp trong sự tích chùa Dâu thời trước.

Cũng chính nơi chùa Duệ Tú này nay còn mộ của tăng Đại Điên, bởi trong chuyện Thánh Láng Từ Đạo Hạnh đã báo thù cha và giết chết Đại Điên ở nơi đây. Đại Điên đầu thai thành đứa bé là Giác Hoàng, biết rất nhiều chuyện của cung đình, nên đã được vua đưa về kinh sư cho ở trong chùa Báo Thiên để đầu thai lại vào hoàng thất. Sau đó Giác Hoàng bị Từ Đạo Hạnh ngăn cản mà chết. Tại chùa Duệ Tú Đại Điên được tôn là Thánh tổ Lê Nghĩa hiệu Giác Hoàng Đại Điên Thiền sư.

Câu chuyện Đại Điên đầu thai thành Giác Hoàng cũng như việc tranh đấu với Từ Đạo Hạnh càng chứng tỏ lối tu của Đại Điên là lối tu theo Thiên Đế. Ngay việc Giác Hoàng được đưa về chùa Báo Thiên cũng cho biết điều này, bởi chùa Báo Thiên vốn là ngôi chùa thờ Thiên Đế, thường được dùng để cầu mưa, như việc rước Pháp Vân từ chùa Dâu về đây cầu mưa. 

Theo Việt điện u linh, khi Từ Đạo Hạnh chuẩn bị viên tịch có nói với các đệ tử: Ta chưa hết nhân duyên với đời, lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian, khi nào chết lại về làm chủ “Tam thập tam thiên”. Vị thần chủ của “Tam thập tam thiên”, cõi trời 33, là Vua trời Đế Thích (Thiên Đế). Từ Đạo Hạnh như vậy chính là hóa thân của Đế Thích.

Hoằng quang đạo pháp ở các chùa

Nguyên phi Ỷ Lan khi nắm được quyền triều chính đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa mà dấu vết của chúng còn lại cho tới ngày nay. Điều đặc biệt là khi xem kỹ những ngôi chùa này, ta lại thấy có nhiều dấu vết và liên hệ đáng ngạc nhiên đến tục thờ Vua trời Đế Thích và Tứ pháp. 

Điển hình ở tại quê hương Văn Lâm của bà có chùa Hương Lãng là chùa cổ từ thời Lý với những bậc đá hình con sấu và chim phượng cùng với bệ sư tử đá lớn nhất thời Lý còn thấy được. Trong khuôn viên chùa còn xây am thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Rất ngạc nhiên là chùa Hương Lãng còn có tên là Pháp Lôi tự, tức là chùa thờ Pháp Lôi trong hệ thống Tứ pháp. Chùa Hương Lãng được gọi là chùa Ông Sấm, nhưng ông Sấm ở đây không phải chỉ bệ sư tư đá còn trong chùa, bởi bệ đá hình như vậy còn gặp ở những nơi khác và không đâu gọi sư tử là ông Sấm cả. Ông Sấm thực sự là tượng Pháp Lôi, có lẽ đã từng có đặt trên bệ sư tử này vào thời Lý.

Ngôi chùa lớn nổi tiếng khác là chùa Dạm ở Quế Võ, Bắc Ninh. Chùa Dạm còn gọi là chùa Bà Tấm, có đền thờ Hoàng thái hậu Ỷ Lan. Các làng xung quanh đó như Môn Tự, Tự Thôn, Sơn Nam đều thờ bà. Tương truyền nơi đây là nơi Hoàng Thái hậu đã về tu hành vào cuối đời. Chùa Dạm có nền khảo cổ 3 cấp thời Lý và đặc biệt là còn một chiếc cột đá chạm rồng lớn còn nguyên vẹn. Nhiều nhà nghiên cứu đã từng cho rằng cột đá rồng chùa Dạm là ngẫu tượng của Linga. Nói cách khác, nơi đây là nơi thờ “đạo Phật” theo hướng tương tự như đạo Bà la môn ở miền Trung.

Chùa Dạm sau này từng được sư Không Lộ trụ trì theo sách Lịch triều hiến chương loại chí. Không Lộ cũng là một vị pháp sư cùng với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải kết nghĩa, đi học đạo ở phương Tây, nhưng chưa đến đất Phật mà dừng ở nước Kim Xỉ. Đạo học của Tam vị Thánh Tổ triều Lý này như vậy thực ra không phải đạo Phật chính tông, mà là Ấn Độ giáo, tôn thờ Tam vị nhất thể trong hình ngẫu tượng Linga như ở miền Trung Việt Nam.

Các hiện vật khảo cổ các chùa thời Lý cho thấy nghệ thuật tạo hình thời kỳ này mang đậm nét của “văn hóa Chăm” với những vũ công được thể hiện theo phong phồn thực. Hay như tượng Nhạc công thiên thần đầu người minh chim tìm thấy ở chùa Phật Tích. Rồi những bức tượng, phù điêu bằng đá sa phiến thạch được sử dụng làm tượng thờ và trang trí đền chùa, rất đặc trưng. Thực ra đây không phải là “văn hóa Chăm”, mà là văn hóa của đạo Bà la môn (Ấn Độ giáo) đã trở nên thịnh hành ngay từ đầu thời Lý.

Ngay tại đền Ghênh ở Như Quỳnh (Văn Lâm, Hưng Yên) đã tìm thấy hiện vật chính thời Lý là một “Kính Thiên đài” với bệ chạm sư tử ở dưới.  Đài Kính Thiên thì rõ ràng là thờ Thiên, tức Vua trời Đế Thích.

Tại chùa Phật Tích, dấu vết truyền đạo Bà la môn xưa là những phiến đá lớn xếp hình trên đỉnh núi Tiên Du, gọi là Bàn cờ đá, là “Phật tích” của vị tăng Bà la môn là Khâu Đà La (theo bia ở chùa tổ Mãn Xá). Núi Tiên Du là nơi Khâu Đà La tu hành cùng với Man Nương mà sinh Tứ pháp. Hiện nay tại đây có chùa Linh Quang ở thôn Vĩnh Phú bên sườn núi phía Nam sau chùa Phật Tích, là nơi Khâu Đà La tu hành, nay còn tượng thờ.

Nhưng kỳ lạ hơn nữa là ngay cạnh chùa Linh Quang chính là đền Bà Tấm thờ Nguyên phi Ỷ Lan. Nhân dân ở đây tương truyền đây là mộ của bà. Trong nền chùa và đền này đã phát hiện rất nhiều hiện vật thời Lý, gồm cả những viên gạch có chữ “Lý gia đệ Tam đế Chương Thánh Gia Khánh lập tạo”, “Lý gia đệ tứ Long Thụy Thái Bình lập tạo”. Tại sao Bà Tấm lại chọn nơi xuất xứ của vị Bà la môn Khâu Đà La làm nơi xây chùa đền và gửi hồn xác của mình?

Khâu Đà La là hiện thân của Vua trời Đế Thích cùng Tứ đại Thiên Vương là Phong Điều Vũ Thuận hay Vân Vũ Lôi Điện trong tín ngưỡng Tứ pháp của vùng đất Siêu Loại – Thuận Thành xưa. Nguyên phi Ỷ Lan cũng như nhà Lý bát đế có quê hương gốc ở vùng đất này nên việc thờ Thiên Đế trở thành tôn giáo chính của hoàng gia nhà Lý là việc dễ hiểu.

Thiền uyển tập anh chép câu hỏi của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan  đối với Quốc sư Thông Biện: Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu có lần đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?.

Phật nào? Tổ nào? Câu hỏi nghi vấn của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cho thấy sự nghi ngờ của bà đối với “đạo Phật” của các dòng thiền lúc này. “Tổ đến đất nước này” thì rõ ràng là chỉ Khâu Đà La.

Như vậy, vào đầu thời Lý với vai trò của Pháp sư Đại Điên chuyên về cầu duyên, cầu tự, đầu thai, giúp Nguyên phi Ỷ Lan ở vùng Siêu Loại, nối tiếp là 3 vị Thánh Tổ đi học đạo ở Miến Điện về cũng đầu thai (Từ Đạo Hạnh), rồi hàng long diệt hổ (Đại pháp sư Không Lộ và Giác Hải) có thể thấy Ấn Độ giáo lúc này đã trở thành một chính giáo của triều đình, có ảnh hưởng sâu sắc đến nền chính trị của nhà Lý cũng như văn hóa nghệ thuật đương thời. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên” thời Lý có lẽ phải là Lão giáo – Phật giáo – Ấn Độ giáo mới đúng, bởi Nho học không phải là tôn giáo. Chính nét Ấn Độ giáo này mới làm nên một văn hóa tín ngưỡng tôn giáo riêng của nhà Lý ở phương Nam, khác biệt với những dòng thiền của Trung Hoa khi đó.

Bài tham luận trình bày tại buổi sinh hoạt tháng 6/2025 của CLB Di sản và Văn hóa Á Đông tại chùa Sủi – Phú Thị.

Một vài hình ảnh minh họa

Thần tích của thôn Tự Thôn ở Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh ghi trong sách Hà Bắc nghìn năm văn hiến.

Kiệu thờ Ông hàng Dầu tại đền Bà Tấm, Phú Thị, Gia Lâm.

Ban thờ Khâu Đà La ở chùa Linh Quang, cạnh đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan ở thôn Vĩnh Phúc, Phật Tích.

Tượng Thiên Đế Đế Thích ở đền làng Đề Trụ, xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội.

Tượng Giác Hoàng Đại Điên ở chùa Duệ Tú.

Tên chùa Hương Lãng, nơi có các bậc sấu đá và bệ sư tử thời Lý: Pháp Lôi tự.

Kính? Thiên đài – di vật thời Lý ở đền Ghênh, Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên.

Rắn thần trong văn hóa Việt

Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, Rồng là loài vật huyền thoại, biểu tượng cho phần tinh thần, chỉ thấy đầu, không thấy đuôi, khó nắm bắt được. Còn Rắn lại là loài vật có thật, chỉ phần thân xác to lớn, mạnh mẽ, có thể nhận biết được. Những gì hiện hiển là Rắn, còn những gì u linh là Rồng. Lúc sinh ra là Rắn, lúc hóa đi thành Rồng. Quan hầu là Rắn, vua chúa là Rồng. 

Xem huyền sử Việt nhiều người cho đó chỉ là những chuyện “trâu ma, rắn thần”, đầy màu sắc thần thoại. Nhưng nếu đọc kỹ hơn, tìm hiểu sâu hơn trong những di sản văn hóa tín ngưỡng của cha ông người Việt để lại, chúng ta sẽ thấy chính những câu chuyện rắn thần đó mới phản ánh lịch sử thật sự của người Việt một cách rất sâu sắc, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan rất phong phú và lâu đời trong văn hóa Việt.

Những vị thủy thần từ thời Lạc Long Quân dựng nước

Dân gian người Việt thờ rất nhiều vị thủy thần trong hình thể loài rắn làm thành hoàng làng. Điển hình nhất là vị Linh Lang Đại vương với hàng trăm nơi thờ ở khắp vùng đồng bằng sông Hồng. Thần tích đình làng Tây Hồ, ở phường Tây Hồ, Hà Nội kể: Uy Linh Lang là thủy thần là con trưởng của Lạc Long Quân theo cha xuống biển trấn trị khai thác sông biển lãnh đạo muôn dân xây dựng cuộc sống phồn thịnh… Thời Lý thần nhân hóa thành Thái tử Hoàng Lang con vua Lý Thái Tông giúp vua đánh giặc Chiêm Thành. Sau đó Thái tử bị bệnh đậu mùa rồi hóa thành con rắn khổng lồ trườn xuống hồ Tây. Vị thần trấn Tây của kinh thành Thăng Long xưa chính là thần rắn xuất thế, có nguồn gốc từ thời vua cha Lạc Long Quân dựng nước ven theo dòng sông Cái ra tới biển.

Các thành hoàng là thần rắn thời Hùng Vương thường được kể sinh ra từ cùng một bọc trứng, nở thành 2, 3 hay 5 con rắn, lớn lên thành tài, bảo hộ cho cuộc sống của nhân dân, phù trợ quốc gia chống giặc ngoại xâm. Như ở đầu sông Cái bên ghềnh Ngọc Tháp, tại TX. Phú Thọ có sự tích về vị thần Linh Uyên Đại vương kể rằng: Bà Thái phi của vua sông Thao một hôm bỏ lốt rắn đi lên rừng chơi, chợt làm rơi một bọc trứng 5 quả ở đấy. Làng ấy có một ông già nhặt lấy 5 quả trứng đem về… Được 3 ngày, nở ra 5 con rắn… Một hôm ông già vô ý lấy con dao phát bờ khoắng một cái, đứt đuôi một con. 5 con rắn quấn quít lấy cái đuôi khóc mà nói rằng:  Chúng ta là giống rồng, trời định cho ta, mỗi người làm vua một phương… Thế là các con rắn chia nhau ra đi làm vua ở các nơi trên sông Thao, sông Lô.

Sự tích rắn thần cụt đuôi còn gặp ở nhiều nơi. Như ở làng Yên Phú (Thanh Trì, Hà Nội) kể về 2 vị thủy thần xuất thế là Trung Vũ và Đài Liệu. Hai vị đã có công cầu mưa cứu hạn, được nhân dân trong vùng Thanh Trì hết sức kính phục. Sự tích truyền khẩu ở Yên Phú còn kể, khi đê ở Giầy Kẻ bị sạt vỡ, 2 vị đã hóa thân thành 2 ông rắn nằm ngăn nước để dân đắp, hộ được đê. Lúc hộ đê một ông bị đứt một tí đuôi, nên có hèm là Cụt.

Chuyện kể tương tự về thần rắn hộ đê gặp ở thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam. Thần phả kể rằng, vào đời vua Lý Thái Tổ có hai ông bà vớt được hai quả trứng trắng ngoài sông bèn đem về, 100 ngày sau nở ra 2 con rắn trắng, một con dưới bụng có chữ Câu Mang anh, một con có chữ Câu Mang em… Một năm trời làm dịch bệnh, hai ông Câu Mang làm mưa to gió lớn tẩy trừ dịch bệnh cho dân rồi làm ra một cái giếng sâu và đi mất… Cũng năm đó lũ to làm đê vỡ, hai ngài Bạch Xà từ giếng ra, đầu gối bên này, đuôi chạm bên kia nằm chắn khúc đê vỡ để ngăn dòng nước chảy, sau hai ngài lại ra sông đi mất. Quan sở tại tâu lên triều đình, nhà vua phong cho hai ngài là Nhị vị Thủy tề Long vương.

Những vị rắn thần được kể là những nhân vật lịch sử có thật nhờ có công hộ quốc cứu dân mà được tôn làm Long Vương. Như ở suối cá thần Cẩm Lương, Thanh Hóa có đền thờ chàng rắn của người Mường được phong là Tứ phủ Long Vương. Ở xã Thạch Trị huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh có Miếu Ao, thờ Ông Cả Long vương. Sự tích ở miếu ghi: Đức Vương và Thánh Nữ thấy sao băng mà sinh được 3 quả trứng nối liền nhau thành 1 con Hoàng Xà, sau bị Đức Vương chẳng may xắn thành 3 khúc, trở thành 3 anh em.

Trong những câu chuyện trên, vị Đức Vương, hay Ông lão thực ra là vua Kinh Dương Vương trong sử Việt. Thánh Nữ, bà Thái phi, bà mẹ là bà Thần Long. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Đế Quân mà sinh ra Lạc Long Quân. Những người con rắn nở ra từ một bọc trứng ấy là những người anh em với Lạc Long Quân của thủy phủ. Do đó, các vị thủy thần thời này đều là những nhân thần thật sự, có công dựng nước cùng với vua Lạc Long Quân dọc dòng sông Hồng

Rắn thần trong Đạo mẫu Tứ phủ

Sự tích ở đền Đồng Bằng (xã An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình) kể rằng: Nàng Quý đi tắm ở sông Đào, cảm động với giao long mà có  thai, sinh được một bọc, nở ra 3 con Hoàng xà. 3 con rắn sau hóa thành 3 chàng trai giúp vua Hùng đánh giặc. Con Hoàng xà lớn trở thành Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình, tức là vị đức Vua cha Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Người đứng đầu Thủy phủ thì không ai khác chính là vua cha Lạc Long Quân trong sử Việt.  

Trong thần điện Tứ phủ còn thờ những con rắn thực sự. Nhị vị Xà thần có tên gọi là Thanh Xà Tướng quân và Bạch Xà Tướng quân, chịu trách nhiệm canh gác đền phủ, trấn giữ đường âm, đường sông nước, trừ ma diệt quỷ. Tuy nhiên, việc thờ rắn làm thần khác với việc thờ thành hoàng là thủy thần trong lốt rắn. Những vị Quan Xà không có sự tích riêng, không có đền thờ riêng, không được sắc phong thờ là thành hoàng ở bất cứ nơi nào. 

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ còn có một hình tượng rắn thần đặc biệt khác, danh xưng Tam Đầu Cửu Vĩ. Đó là một thần rắn ba đầu chín đuôi, là thú cưỡi của một số vị Quan như Quan Lớn Đệ Tam, Quan Hoàng Cả… Khác với Thanh Xà và Bạch Xà, Tam đầu Cửu vĩ Long Vương là vị thần có được thờ cúng là thành hoàng ở một số nơi, như ở đình Nam Dư Hạ ở quận Hoàng Mai, Hà Nội. Tam Đầu Cửu Vĩ là hình tượng hóa của hệ thống sông ngòi cổ ở miền Bắc Việt, nơi 3 sông Đà Lô Thao hội tụ ở ngã ba Bạch Hạc rồi chia thành nhiều nhánh mà đổ ra biển. Rất lạ là trong Sơn Hải kinh, cuốn sách cổ của Trung Hoa từ thời trước Công nguyên cũng có nói đến một loài rắn chín đầu gọi là Tương Liễu thị, là bề tôi của thần nước Cung Công. Hình Tương Liễu thị chín đầu phối hợp với chim Kỳ Đồ ba đầu được thể hiện trên bức họa Ngoại quốc đồ thời Lê Trung Hưng, hiện lưu tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam.

Lột xác rắn mà thành Tiên

Vương Sung, một nhà triết học Trung Hoa thời đầu Công nguyên nói: “Ve lột vỏ, rắn thay da, rùa bỏ mai, hươu rụng sừng, da vỏ tiêu hết, chỉ giữ lại xương cốt mới có thể thoát xác tái sinh”. Vì thế thân hình rắn ở thời này thể hiện cho các vị tu tiên đắc đạo. Trên các bức bích họa thời Hán, cặp thần tiên tối cổ Nữ Oa – Phục Hy được thể hiện dưới dạng hình người thân rắn, cuộn đuôi vào nhau. Tại khu mộ cổ khổng lồ Nghi Vệ ở Bắc Ninh được khai quật từ thời Pháp đã phát hiện có một chiếc gương thể hiện cặp thần tiên thân rắn. Hình tượng người rắn tương tự còn gặp trên những tấm lụa phủ liệm quan tài cùng thời kỳ.

Hình tiên thân rắn còn gặp trên bức chạm ở một ngôi đình nổi tiếng xứ Đoài Hà Tây xưa là đình Tây Đằng. Bên mé hữu của đình trên xà ngang có bức chạm 2 vị tiên cầm hoa sen với thân rắn dài, có vảy. Hai vị tiên này đứng chầu vào giữa, là nơi có 2 vị tiên khác, một đang ôm rắn và một đang ôm cá.

Trong Tiên đạo, rắn còn kết hợp với rùa tạo thành linh vật Huyền vũ, một trong tứ linh, trấn phương Bắc. Linh vật Huyền vũ thường được thể hiện trên các gương đồng từ thời Đông Hán. Cặp Rắn – Rùa là biểu tượng của Âm – Dương kết hợp trong Đạo giáo, gặp trong những nơi thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ như ở đền Quan Thánh (trấn Bắc của Thăng Long Hà Nội), hay ở đền Sái (Cổ Loa). Tượng thần Huyền Thiên được thể hiện tay cầm kiếm có Rắn quấn quanh và chống lên lưng Rùa. 

Rắn Naga giác ngộ và bảo hộ Phật đạo

Rắn thần trong Phật giáo được gọi là Rắn Naga, là vị Mãng xà vương đã che chở cho Đức Phật khi tu dưới gốc bồ đề trong mưa bão. Tượng Phật của người Khơ me thường được thể hiện ngồi trên thân rắn và được rắn thần 9 đầu che chở. Ở miền Bắc hình tượng này chuyển biến thành tượng Thích Ca sơ sinh có 9 con rồng đến phun nước tắm.

Ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, Bắc Ninh đã phát hiện một bức tượng rắn bằng đá rất lạ, thể hiện hình ảnh ông Rắn đang tự cắn xé thân thể. Đây có thể là một biểu tượng trong Phật giáo, lấy từ điển tích rắn độc khi đã giác ngộ thì căm ghét thân hình xấu xa của mình, từ bỏ thân rắn mà được đắc lên cõi trời Đao Lợi hoặc thành A La Hán, tôn giả… 

Vua rắn Vương Kinh tử ở Giếng Việt

Ấn tượng về “Rắn thần” trong Lĩnh Nam chích quái là Truyện Giếng Việt. Giếng Việt ở miền Châu Sơn (Bắc Ninh), Thánh Dóng đánh thắng giặc Ân ở chân núi này. Vua Ân chết thành vua Địa phủ, có đền thờ trên núi. Đến cuối thời Tần, có người là Thôi Vĩ chạy lạc vào núi, rơi xuống hang sâu, gặp một con rắn trắng mình dài trăm trượng, mào vàng, miệng đỏ, râu đỏ, vảy trắng, trên trán có dòng chữ vàng đề “Vương Kinh Tử”. Thôi Vĩ dùng thuốc ngải chữa bệnh bướu cổ cho rắn, nên được rắn dẫn khỏi hang…. Ở Châu Sơn tới nay vẫn còn một bức tượng đá cổ, kích thước cao bằng người thật, thể hiện con vật thân như thân rồng rắn nhưng có mỏ và cánh như chim phượng, là dấu vết cổ xưa của một ngôi đền thời Tần Hán tại đây.

Câu chuyện về rắn thần từ thuở Lạc Thị Hồng Bàng qua thời Ân Thương tới thời Tần Hán, với những di vật bằng đá còn sống động nơi núi Châu Sơn, là minh chứng cho tín ngưỡng thờ Rắn thần không phải là mê tín dị đoan, mà chính là hình thức rất độc đáo lưu giữ lịch sử huy hoàng và lâu đời của người Việt. Trong tâm linh Việt, rắn thần là những người con đã theo cha Lạc Long Quân đi khai phá miền sông nước biển Đông, là tổ tiên của 50 họ người Việt. Sự thật về quá khứ người Việt vẫn còn ẩn mình trong hang tối như rắn thần Kinh Vương Tử nơi Giếng Việt xưa.

Bài đăng trên Tạp chí Năng lượng mới, số Xuân Ất Tỵ 2025.

Các vị thủy thần ở Hà Tĩnh

Hà Tĩnh là vùng dải núi Trường Sơn chạy ven biển từ cửa Hội đến Đèo Ngang. Vùng hữu ngạn sông Lam lẽ ra phải có nhiều nơi thờ Thủy phủ như ở phía tả ngạn thuộc Nghệ An nhưng nay lại không thấy có di tích nào thờ Thủy thần. Thay vào đó là lưu vực sông Nghèn đổ ra biển ở núi Nam Giới lại là nơi phổ biến tín ngưỡng thờ Tam Lang Long vương, là 3 vị thần rắn hiển linh thời vua Lê. Dày đặc nhất của việc thờ Tam Lang Long Vương là ở huyện Thạch Hà, với những di tích thờ riêng rẽ từng vị Ông Cả, Ông Hai, Ông Ba Long vương, hay thờ tập trung ở các đền lớn tại Thạch Trị như Miếu Ao, Miếu Ngu, đền Sắc Thạch Lạc.

Tín ngưỡng Tam Lang Long vương ở Hà Tĩnh còn phân bố ở một số nơi trên miền núi như ở đền Thái Yên của huyện Đức Thọ, đền Voi ngựa của huyện Can Lộc. Có chỗ như ở đền Ích Hậu huyện Lộc Hà sự tích có chút thay đổi, thay là 3 chàng Rắn là 3 chàng Vịt nở ra từ trứng. Tín ngưỡng Tam Lang Long vương còn thấy ở tận phía Nam của tỉnh vùng La Sơn (Cẩm Xuyên).

Vị thủy thần quan trọng thứ hai ở Hà Tĩnh là thần Cao Các với tên gọi khác nhau ở một số nơi như Cao Các Trà Sơn, Cao Các Mạc Sơn, Cao Sơn Cao Các. Thần Cao Các được thờ cả ở vùng ven biển (Thạch Hà) cũng như vùng núi (Can Lộc). Lối thờ tương tự như bên Nghệ An, nhưng sự tích thường không rõ ràng.

Trong số các thần Thủy phủ thì ở Thạch Hà còn thấy rải rác thờ Hà Bá Thủy quan. Ở vạn chài Lạc Thủy cũng của huyện Thạch Hà có thờ thêm Long Vương, với tên gọi cũng như sự tích không rõ ràng.

Trong số các Hải thần ở Hà Tĩnh duy nhất gặp làng Cương Gián của huyện Nghi Xuân thờ Đông Hải Đại vương Nguyễn Phục, tương tự như bên Nghệ An. Còn lại những nơi khác thường là thờ Đại Càn Nam Hải hoặc Sát Hải Hoàng Tá Thốn.

Tín ngưỡng thờ Linh Lang và Thủy Tinh không thấy có ở Hà Tĩnh. Ở Hà Tĩnh không có di tích thờ Chử Đồng Tử như lại có ngọn núi Nam Giới tại Thạch Hà tương truyền là đất Quỳnh Lâm, nơi Chử Đồng Tử gặp Tiên học đạo. Trên đỉnh núi có bàn cờ tiên như chứng tích cho sự kiện này.

Các vị thủy thần xứ Nghệ

Tín ngưỡng thờ thủy thần gắn với sông biển, nên phân bố và đối tượng tín ngưỡng tất nhiên có mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện thủy văn của một vùng nhất định. Nghệ An là tỉnh có diện tích khá lớn, phía Đông là biển, phía Tây là dải Bắc Trường Sơn, nơi cư trú của các nhóm người dân tộc. Do đó trước hết tín ngưỡng thờ thủy thần sẽ tập trung ở vùng đồng bằng và trung du ven biển và ven các con sông. Vùng miền núi tuy không phải không có tín ngưỡng thờ thủy thần, nhưng do đặc điểm văn hóa dân tộc, ở đây không có những di tích tín ngưỡng như ở người Kinh.

Nghệ An được ngăn cách với Thanh Hóa bằng dãy núi chạy từ Quỳ Châu (Tây Nghệ An) ra tận biển, phần núi lớn giáp biển ở Quỳnh Lưu là hệ thống núi Xước. Do đó vùng đất xứ Nghệ hoàn toàn cách biệt với lưu vực của sông Mã và sông Hồng. Điều này lý giải sự vắng mặt của các thủy thần sông Hồng ở Nghệ An như Linh Lang, Bạch Hạc Tam Giang hay Chử Đồng Tử.

Bản thân tỉnh Nghệ An được chia thành 2 lưu vực bởi dải núi cắt ngang, kết thúc ở núi Mộ Dạ phân tách giữa Diễn Châu và Nghi Lộc. Các vùng thờ thủy thần ở xứ Nghệ do đó cũng chia thành 2 khu vực. Một là khu vực phía Bắc gồm các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu ở ven biển và Tân Kỳ, Đô Lương ở trung du. Khu vực phía Bắc tỉnh chủ yếu là đồi núi, với các con suối, dòng sông nhỏ và ngắn. Trong khi đó ở phía Nam của tỉnh là tả ngạn của sông Lam, dòng sông bắt nguồn từ bên Lào chảy qua các tỉnh miền núi của Nghệ An như Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, qua Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên rồi đổ ra biển ở vùng huyện Nghi Lộc.

Với đặc điểm đồi núi ven biển nhiều, vị thần phổ biến nhất thờ ở Nghệ An là vị “sơn thủy thần” Cao Sơn Cao Các. Vị thần này gặp ở cả phía Bắc và phía Nam của tỉnh, cả ở ven biển lẫn ở vùng rừng núi. Ở Nghệ An không còn gặp thần Quý Minh như ở Thanh Hóa nữa, thay vào đó có tới 166 nơi thờ Cao Sơn Cao Các. Riêng ở đền Tân Long xã Quỳnh Châu, Quỳnh Lưu thờ Cao Sơn Cao Các với tên Cao Sơn Cao Các Quý Minh Sơn thánh, cho thấy thực chất Cao Sơn Cao Các là tên thờ khác của vị thượng đẳng thần Quý Minh của vùng Bắc Bộ.

Ở vùng phía Bắc Nghệ An (Diễn Châu, Quỳnh Lưu) khá phổ biến sự tích thờ Rắn thần, với tên gọi Thánh Lành Thánh Cụt. Thậm chí thần rắn ở đây còn được phong tên hiệu là Càn Bí Đế vương Võ Sơn Long xà. Trong khi đó ở vùng phía Nam của tỉnh dọc sông Lam lại phổ biến hơn bộ các thủy quan trấn phương là Ngũ phương Ngũ đế hay Thủy phủ Ngũ vị Hoàng tử, thường phối với các thần khác trong Thủy phủ Công đồng.

Rất hiếm các vị Hải thần được thờ ở Nghệ An, có vẻ như thần Cao Sơn Cao Các đã chiếm vị trí này ở các vùng ven biển. Cá biệt có thần Long Hà Tây Hải Đại vương ở miếu Tây xã Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Lưu và thần Đông Hải Đại vương ở Phúc Thọ, Nghi Lộc. Những “hậu thân” của Hải thần như Đoàn Thượng, Phạm Tử Nghi, Nguyễn Phục không thấy xuất hiện ở Nghệ An. Duy có thấy trường hợp của Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn xuất hiện với đặc trưng của Hải thần. Ngoài ra, đáng kể ở Nghệ An là sự phổ biến của tín ngưỡng thờ Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ vị Hồng Nương, một dạng thần thuộc hệ văn hóa phương Nam.

Nổi bật ở Nghệ An là tín ngưỡng thờ Tam phủ, tức là Thủy phủ Công đồng. Các di tích lớn nhất nằm trên dòng sông Lam là đình Thanh Liệt xã Hưng Long của huyện Hưng Nguyên. Ở đây thờ 3 vị Thủy phủ chính thần rất rõ rệt là:

  • Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế
  • Thủy quốc Động Đình quân
  • Hà Bá Thủy phủ Động Đình quân

Đền Vạn chài Nghĩa Sơn xã Hưng Lam, Hưng Nguyên thì thay vào chỗ “Thủy quốc Động Đình quân” lại là thần Liễu Nghị, cho thấy thực chất 3 vị Thủy phủ này là:

  • Long Đỗ Động Đình Đế quân
  • Kinh Dương Vương
  • Lạc Long Quân

Đây là 3 vị vua đầu của dòng Động Đình xuống biển của người Việt. Sự xuất hiện của dòng Thủy phủ Động Đình ở Nghệ An cho thấy mối liên hệ giữa 2 vùng Nam – Bắc, Lạc – Hồng, Bắc Bộ – Trung Bộ thời lập quốc cách nay trên 4.000 năm.

Ở một số nơi tại Nghệ An có thờ vị thủy thần là Đức ông sông nước, thường cùng với Hà Bá Thủy quan. Có chỗ như nghè Giáp Tam xã Quỳnh Lập, Quỳnh Lưu cho biết Đức ông sông nước là Long vương. Như vậy có thể nhận định Đức ông sông nước là Kinh Dương Vương (Liễu Nghị) trong chính sử họ Hồng Bàng.

Duy nhất ở đền Cờn ngoài thờ Đại Càn Nam Hải có tượng thờ Bát Hải Long vương. Có lẽ đây là sự ảnh hưởng của tục thờ Bát Hải của miền Bắc. Còn Lạc Long Quân – Bát Hải Động Đình ở Nghệ An đã nằm trong bộ Thủy phủ Công đồng là Hà Bá Thủy phủ Động Đình quân. Tín ngưỡng Thủy phủ công đồng ở Nghệ An còn giữ đậm nét không chỉ trong các di tích mà còn trong các tư liệu sắc phong và văn cúng tại đậy.

Cuối cùng là về Thủy Tinh Thánh mẫu, thường được thờ cùng trong bộ Thủy phủ Công đồng trên dòng sông Lam, nhất là khi tại đây thờ thần Liễu Nghị (Thủy phủ Đại đức Long cung). Rải rác có những đền thờ Mẫu Thoải, tức là một dạng muộn hơn của Thủy Tinh Thánh mẫu khi đã đi vào trong Đạo Mẫu Tứ phủ.

Các vị thủy thần xứ Thanh

Dòng sông chính chảy qua Thanh Hóa là sông Mã với 2 nhánh, một chính nhánh chảy từ Quan Hóa, Bá Thước qua Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc. Một nhánh ngắn hơn là sông Chu bắt nguồn từ hồ Cửa Đạt ở Thường Xuân, chảy tới Ngã ba Đầu gần núi Đọ, Hoằng Hóa thì hợp với nhánh chính của sông Mã, rồi đổ ra biển tại Sầm Sơn. Lưu vực sông Mã là nơi tập trung chính các di tích tín ngưỡng thờ Thủy thần của xứ Thanh.

Bên cạnh đó, còn 2 khu vực thờ thủy thần nữa ở xứ Thanh với quy mô nhỏ hơn. Một là vùng núi đá vôi ven biển ở Nga Sơn, Bỉm Sơn. Hai là vùng phía Nam sông Yến thuộc Tĩnh Gia (nay là Nghi Sơn).

Chính dòng thủy thần Linh Lang Đại vương gặp rải rác ở 8 nơi dọc theo sông Mã và vùng Nga Sơn. Đáng kể là ở đình Bồng Thôn và đình Bồng Hạ xã Vĩnh Minh, Vĩnh Lộc có sự tích là hoàng tử Linh Lang thời Lý. Ở làng Vĩnh Ngọc, xã Đông Lĩnh, TP. Thanh Hóa có thần tích Linh Lang thời Lý được chép chung với Trung Thành Đại vương trong bộ nhất bào ngũ tử thời Hùng Vương.

Nhóm “sơn thủy thần” Quý Minh ở Thanh Hóa cũng chỉ gặp ở vùng sông Mã và Nga Sơn với số lượng khá nhiều. Đặc biệt ở vùng này bắt đầu xuất hiện tín ngưỡng thờ thần Cao Các, dường như nối tiếp cách thờ Cao Các Quý Minh từ vùng cửa Thần Phù (Ninh Bình). Thống kê trong Thanh Hóa chư thần lục có 10 nơi thờ Quý Minh và có tới hơn 40 nơi thờ thần Cao Các ở xứ Thanh.

Tín ngưỡng thờ các vị Thủy thần cùng bọc ở Thanh Hóa không nhiều, có 8 di tích dọc theo hệ thống sông Mã và sông Chu và 2 di tích ở vùng Tĩnh Gia. Trong số đó ngoài thờ Bạch Hạc Trung Thành Đại vương, còn thường là thờ hai anh em thần rắn ông Dài ông Cụt, nhất là ở vùng thượng nguồn sông Mã, trong khu vực người Mường. Cá biệt ở đình Đệ Nhị, xã Thiệu Tiến, Thiệu Hóa có thờ Câu Mang Đại vương.

Khác với các vị thủy thần cùng bọc, ở ven biển xứ Thanh rất phổ biến thờ các Hải thần. Tuy nhiên ở đây thường gắn sự tích vào các nhân thần thời sau như có tới hơn 70 nơi thờ Đông Hải Nguyễn Phục ở cả 3 vùng của xứ Thanh. Có khoảng 9 nơi thờ Đông Hải Đoàn Thượng ở 2 khu ven biển là Nga Sơn và Tĩnh Gia. Rải rác ở vùng núi phía Bắc của tỉnh có thờ Nam Hải Long vương, Đông Hải Long vương.

Trong bộ Thủy phủ công đồng tập trung nhất vẫn là ở vùng sông Chu – sông Mã. Phổ biến ở đây là các “Long thần” như Long Cung Thủy thần, Thủy quan Long vương, Long Uyên tôn thần, Long Uyên Đĩnh tú, Đậu uyên Long vương (chữ Uyên chỉ nơi nước sâu, thường là thủy thần các vực), Tỉnh tuyền Long vương (thần giếng).

Nhiều làng chài dọc sông Mã của thành phố Thanh Hóa, gọi là Thủy Cơ, có tính ngưỡng thờ Thủy phủ Công đồng gồm Hà Bá, Thủy quan Long vương, Thủy quan tôn thần, Thủy tộc tôn thần. Ở khu vực Hoằng Hóa có nơi thờ thần thuồng luồng là Ngu giang tôn thần. Ở Tiên Bạn, Thọ Xuân lại có thờ thần Quảng Tế Long Đỗ hiển linh giúp Lê Lợi. Khu vực sông Yến, Tĩnh Gia có vài nơi thờ Hà Bá và Thủy quan.

Các vị Thủy phủ Hải thần ở Thanh Hóa nổi bật là Bát Hải Long vương ở vùng núi phía Bắc, mà đền Bát Hải ở TX. Bỉm Sơn là được biết đến nhiều nhất. Trong sâu đất liền ở Xuân Phổ, Thọ Xuân lại có tục thờ Đại Hải Long vương, gắn với trò Xuân Phả nổi tiếng ở đây. Ở Hoằng Hóa có thờ thần Hải Giác Long vương, với sự tích về một tấm gỗ thiêng trên biển. Không thấy ở phía Nam của tỉnh có thờ Thủy phủ Hải thần.

Trong dòng Lạc thị ở xứ Thanh có vài nơi thờ những người con của Lạc Long Quân đi khai phá miền biển. Được biết nhiều là ở Hổ Bái tại xã Yên Bái, Yên Định, là người con thứ 11 theo cha xuống biển. Ở An Hóa, Hậu Lộc có thờ Giải Uyên là con vua Mạc Long (Lạc Long). Ở Ngọc Hộ, Hoằng Hóa thờ Minh Quang Linh Ứng con vua Lạc Long.

Thủy Tinh Thánh mẫu được thấy thờ ở phía Bắc của tỉnh, như đền Bông thờ Mẫu Thoải trong cụm di tích Hàn Sơn tại Hà Trung. Thủy Tinh Tiên Dung Phu nhân ở Bãi Nại, Nga Sơn. Còn lại rải rác có thờ Thủy Tinh Công chúa nhưng lại là sự tích vào thời Trần hay những thời sau.

Phân bố các di tích thờ Linh Lang và Quý Minh ở Thanh Hóa
Phân bố các nơi thờ Thủy thần cùng bọc và Tứ Hải Long hầu ở Thanh Hóa.
Phân bố các di tích thờ Thủy phủ công đồng, Thủy Tinh thánh mẫu và dòng Lạc Thị ở Thanh Hóa.

Tứ Hải Thái Bình, tín ngưỡng thờ Hải thần ở Thái Bình

Thái Bình là tỉnh có cửa chính của sông Hồng đổ ra biển nên trong tín ngưỡng thờ thủy thần ở đây đặc biệt xuất hiện một hệ thống các vị thần biển mà nơi khác không có. Tuy nhiên, điều khác lạ nữa là các thần biển ở Thái Bình không phải chỉ có 1 vị, mà lại có đủ cả bốn phương tứ hải. Bản chất các vị Hải thần này ra sao, sẽ được làm sáng tỏ qua phân tích hệ thống các di tích thờ thủy thần ở Thái Bình.

Các vị hải thần được nói đến ở Thái Bình là những vị thủy thần, tức là những vị thần có nguồn gốc từ thời Hùng Vương, liên quan đến việc trị thủy, có thể là hiển linh qua các thời. Tên gọi “thủy thượng linh thần” hay “thủy tinh” dùng trong Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả để chỉ những người con của Lạc Long Quân đã được chia trị các vùng đầu sông góc biển. Phân biệt với các vị sơn thần là dòng theo mẹ Âu Cơ trị nhậm các nơi núi rừng, đồi gò.

Nếu từ “Sơn” được dùng chỉ các vị tổ thời Hùng Vương ở miền rừng núi thì từ “Hải” là để chỉ các vị thủ lĩnh cai quản vùng sông nước. Hải không chỉ có nghĩa là biển, mà là vùng ven sông nước nói chung. Do đó không chỉ có Đông Hải, Nam Hải, mà còn có Bắc Hải, Tây Hải, cho dù về mặt địa lý ở phía Bắc và Tây nước ta không hề có biển.

Phải chú ý là tên gọi các hải thần rất dễ lẫn với các nhân thần, tức là những nhân vật lịch sử ở thời kỳ gần hơn, đã từng cai quản hay có công nghiệp ở vùng ven biển Đông. Phổ biến nhất là Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng, một vị tướng nổi lên cuối thời Lý chống lại nhà Trần ở miền duyên hải. Cũng là tên Đông Hải Đại vương còn có vị tướng thời Lê là Nguyễn Phục, từng phụ trách việc quân lương, đã trung nghĩa tử tiết chịu tội để bảo vệ cho đoàn quân khỏi mưa bão trên biển Đông.

Nam Hải còn vốn là tên để chỉ khu vực miền Bắc nước ta thời kỳ trước Công nguyên, nên những vị quân chủ của nước ta khi đó khi hóa được tôn thần là Nam Hải Đại vương. Đó là vua An Dương Vương, người khi cùng đường chạy ra biển theo thần Kim Quy mà hóa. Đó cũng có thể là Triệu Vũ Đế, người đã khởi nghĩa chống Tần từ đất Thái Bình, nên được tôn là Nam Hải Đại vương hay Nam Hải Tạo lực.

Còn có Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ Vị Hồng Nương, tuy là thủy thần nhưng theo một mạch tín ngưỡng khác với thủy thần họ Hùng. Tên gọi Đại Càn Quốc gia Nam Hải cho thấy Nam Hải ở đây là chỉ “quốc gia”, chứ không phải là chỉ miền biển.

Cũng là thời Hùng Vương với tên gọi là Nam Hải, nhưng lại không phải là thủy thần. Đó là Quan Âm Diệu Thiện, con gái vua Hùng đã đi tu đắc đạo ở vùng đất Nam Hải. Quan Âm Nam Hải là vị sơn thần điển hình bởi đây chính là bà chúa Ba, tức bà chúa Thượng Ngàn.

Các di tích thờ Hải thần ở Thái Bình có thể được chia thành ba tuyến như sau.

Cụm di tích ven sông Luộc

Sông Luộc là dòng sông không đổ trực tiếp ra biển mà có dòng chảy ngang nối giữa sông Hồng và sông Thái Bình. Sông Luộc chảy qua địa phận hai huyện Hưng Hà và Quỳnh Phụ, với số các di tích thờ Hải thần tương ứng là 6 di tích ở Hưng Hà và 7 di tích ở Quỳnh Phụ. Có thể thấy đây là còn số khá khiêm tốn khi so với những cụm di tích ở phía Nam Thái Bình.

Trong số các Hải thần vùng sông Luộc chiếm lượng di tích nhiều nhất là thần Đông Hải. Sự tích vị thần này thường là không được biết rõ. Duy nhất ở xã Phú Sơn, huyện Hưng Hà có sự tích vị Đông Hải Đà La Đại vương hiển linh vào thời Lý đánh giặc Hồ Tôn Tinh.

Một số di tích khác ở vùng sông Luộc thờ Nam Hải, hiếm hơn có thần Tây Hải, nhưng cũng tương tự, đều không rõ sự tích. Thần Bắc Hải không thấy xuất hiện trong các di tích tín ngưỡng ở khu vực này.

Cụm di tích ven sông Diêm Hộ

Diêm Hộ là một sông nhỏ, bắt nguồn từ phía Nam huyện Quỳnh Phụ nhưng lưu vực của nó chủ yếu nằm ở huyện Đông Hưng và Thái Thụy. Thế nhưng điều lạ là lưu vực sông nhỏ Diêm Hộ lại là nơi có số lượng các vị Hải thần nhiều nhất. Huyện Đông Hưng có khoảng 14 di tích. Huyện Thái Thụy có khoảng 16 di tích. Số liệu này cho thấy mức độ dày đặc các di tích thờ Hải thần ở ven sông Diêm Hộ. Đơn cử như ở 1 xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, là tổng Trừng Hoài xưa, có tới 8 di tích thờ Hải thần. Trong đó 1 làng xưa chia thành vài thôn, mỗi thôn thờ 1 hoặc 2 vị ngay trong cùng 1 làng, với đầy đủ bộ 4 vị Đông Hải, Nam Hải, Tây Hải và Bắc Hải.

Với số lượng và mức độ phong phú đủ Tứ Hải thần như vậy thì có thể nhận định rằng vùng sông Diêm Hộ là nguồn gốc phát sinh của tín ngưỡng thờ Hải thần ở Thái Bình. Cũng ở khu vực này, các thần đã được thờ với sự tích tương đối rõ ràng hơn, mà cụ thể có thể thấy qua một số di tích.

Nam Hải Đại vương ở đình đền An Cố, Thái Thụy là vị thần có sự tích khá đầy đủ, cho biết ngài mang họ Phạm, là một vị tướng thời Hùng Duệ Vương. Khi ngài cai quản đã dẹp yên nạn hồng thủy, trừ thiên tai dịch bệnh cho nhân dân trong vùng. Ngài dạy bảo thần dân làm ăn thịnh vượng. Khi đất nước có giặc Thục xâm phậm, ngài cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn, Quý Minh đánh tan quân Thục. Có thể thấy sự tích về Nam Hải Đại vương ở An Cố không khác gì sự tích về Trung Thành Phổ Tế Đại vương của vùng sông Hồng. Vị thủy thần họ Đào này từng nắm chức vụ là Thổ Lệnh Thống quốc Lạc Long hầu Nam long Trưởng lệnh, tức là cùng hướng Nam trong bộ nhất bào ngũ tử.

Sự tích về Tứ Hải thần rất bất ngờ được biết qua di tích đình Lưu ở xã Đông Phương, huyện Đông Hưng. Theo thần tích của làng cho biết: dưới thời An Dương Vương, vua Thục mắc mưu quân Triệu Đà nên để đất nước rơi và tay giặc. Khi đó Vũ Cao Lỗ tướng công và một số trung thần con vua đã cùng ông Đồng phó tướng luyện binh. Được tin vua Thục thua trận rẽ nước xuống Trấn Thuỷ Phủ, hai ông chỉ còn biết kêu trời lạy đất cho quân sỹ trở về. Hai ông cho lui tới địa đầu vùng an lạc và cho quân nghỉ ở thôn An Vĩnh, nằm nghỉ trong miếu hai ông mộng thấy Thục An Dương Vương than vãn và phán rằng: Thượng đế đã phán xét chuẩn cho được trở lại Long Cung và truyền phong làm Nam Hải trấn trị hoành hợp các cửa sông để xoá đi cho tội lỗi đã qua vì trước đây hiếu thảo phụng sự Động Đình Đại đã có công. Ngoài ra hiện thân đã nhận việc là phối hợp với Đông Tây Bắc Hải các vị Long Vương đi cứu giúp dân cấy trồng được sinh lợi. Nói xong hai ông không thấy bóng dáng Thục An Dương Vương mà thấy một vị quan ở cổ miếu An Lạc xuất hiện. Tay trung thần cầm đao chiến của Thượng đế trao cho 2 ông, 2 ông đọc tờ chiếu, đọc xong trông lên cũng không thấy vị thần quan đâu. Hai ông liền ra sân lạy tạ Hoàng Thiên và quyết tâm thực hiện lời chiếu. Tiếp từ đó về sau các cửa sông, bờ biển nếu có gió bão, thuỷ tai dẫn đến đê điều bị phá huỷ, các vị thần đã luôn giúp dân trấn trị và hoành hợp thu được kết quả khả quan rất lớn. Do vậy các nơi đã lập đền miếu thờ tự – các vua trần gian hạ phối đều nam cấp duệ, hiện theo cửa sông thuộc phương nào là phong sắc với hàm vị: Đông – Tây –Nam – Bắc Hải Vĩnh trấn Đại Vương (sao từ bản gốc ở xã An Lạc trên đề Đình Lưu xã Đông Phương – Huyện Đông Hưng- cùng phụng sự).

Từ thần tích trên ta thu lượm được một số thông tin quý giá:

  • Thục An Dương Vương khi thua mất nước đã xuống Thủy phủ rồi được phong là thần Nam Hải, trấn trị các cửa sông. Thần tích gốc lấy từ xã An Lạc (nay là xã Đông Vinh cùng huyện Đông Hưng)
  • An Dương Vương hiển linh “phối hợp với Đông Tây Bắc Hải các vị Long Vương đi cứu giúp dân cấy trồng được sinh lợi”. Đây là thông tin rất then chốt cho biết các vị Hải thần là các Long vương hiển linh làm phúc thần cùng với An Dương Vương.
  • Các vua đời sau theo cửa sông thuộc phương nào là phong sắc với hàm vị: Đông – Tây – Nam – Bắc Hải Vĩnh trấn Đại Vương.

Như vậy Nam Hải An Dương Vương lại có liên quan đến Thủy phủ Động Đình và Tứ Hải Long Vương.

Một chút manh mối khác về Tây Hải Đại vương là ở đình Bái (Long Bối) xã Đông Hợp, huyện Đông Hưng kể rằng Tây Hải Đại vương là vị thần có công hộ đê thời Hồng Đức, phối thờ ở đây cùng với Đông Hải Nguyễn Phục và Nam Hải An Dương Vương. Sự tích tương tự về Tây Hải Đại vương hiển linh thời Lê còn gặp ở khu vực phía Nam Thái Bình trên lưu vực sông Trà Lý. Còn đối với thần Bắc Hải, là vị thần ít gặp thì không rõ sự tích, chỉ biết là phúc thần.

Sông Diêm Hộ cũng là nơi phát tích của sự tích vua cha Bát Hải Động Đình. Theo thần tích thôn Đào Động (nơi có đền Đồng Bằng thờ vua cha Bát Hải) thì Quý Nương sinh một bọc trứng, nở ra 3 con rắn. Con rắn thứ nhất ở cửa sông trang Đào Động. Con rắn thứ hai chạy về cửa sông trang Thanh Do. Con rắn thứ ba chạy về nằm ở trang Hoa Diêm. Ba địa điểm xuất thế của các vị thủy quan Động Đình này là Đào Động – Thanh Do – Hoa Diêm, đều nằm dọc theo sông Diêm Hộ. Ba con hoàng xà sau hóa thành ba vị tướng quân, giúp vua Hùng đánh Thục và xây dựng làng xóm quê hương miền Đào Động.

Cũng ở Đào Động còn thờ và có thần tích 5 vị hoàng tử con vua Bát Hải Động Đình là 5 vị thủy quan đã giúp vua Hùng đánh Thục rồi 5 vị được cử đi quản trị các cửa biển. Giống như thần Nam Hải ở An Cố, đây cùng là những người anh em sinh cùng bọc dưới thời Lạc Long Quân (vua cha Bát Hải), làm thủy thần trấn trị ngũ phương. Tức cũng là Ngũ vị tôn quan trong Công đồng Thoải phủ.

Sông Diêm Hộ ngày nay là dòng sông nhỏ, nhưng với sự phát tích dày đặc của các vị Hải thần ở đây thì rất có thể trong quá khứ nơi đây đã từng là cửa chính của sông Hồng đổ ra biển Đông. Có như vậy thì đây mới có thể tập trung nhiều nơi thờ Hải thần theo lối cổ như vậy.

Cụm giữa sông Trà Lý và sông Hồng

Khu vực thờ Hải thần ở phía Nam Thái Bình không bám theo 2 dòng sông lớn ở đây là sông Hồng và sông Trà Lý, mà phân bố ở khoảng giữa lưu vực hai con sông này. Có thể thủy văn thời cổ sử khác so với vị trí hiện tại của sông Hồng và sông Trà Lý.

Về số lượng di tích thờ Hải thần có huyện Vũ Thư với 3 di tích, TP. Thái Bình có 2 di tích. Huyện Kiến Xương có 12 di tích, huyện Tiền Hải có 7 di tích. Tuy số lượng di tích không hẳn nhiều như lưu vực sông Diêm Hộ nhưng các di tích ở đây thường là phối thờ 2, 3 vị Hải thần. Thường gặp là thần Đông Hải hoặc Nam Hải phối thờ với Tây Hải. Thần Bắc Hải không gặp ở khu vực phía Nam này.

Điển hình ở khu vực này là đền Vua Rộc tại xã Vũ An, huyện Kiến Xương, là một trong Chân Định tứ linh từ. Đền thờ 2 vị thần Đông Hải và Tây Hải Đại vương. Cho dù có sách cho rằng thần Đông Hải này là Đoàn Thượng thời Lý – Trần, nhưng ngay câu đối trong đền nói:

不記何年跡扥南交雙顯聖
相傳此地名髙真定四靈神
Bất ký hà niên, tích thác Nam Giao song hiển thánh
Tương truyền thử địa, danh cao Chân Định tứ linh thần.
Dịch:
Không biết tự năm nào, dấu thác Nam Giao hai hiển thánh
Lưu truyền nơi đất nọ, danh cao Chân Định bốn linh thần.

Câu đối cho biết đây là 2 vị cổ thần đã hiển thánh từ thời Nam Giao – Hùng Vương. Lạ nữa là câu đối khác trong đền đề:

瑞應金龜神爪依依留井上
威揚木馬健蹄隠隠仰橋邊
Thụy ứng Kim Quy, thần trảo y y lưu tỉnh thượng
Uy dương mộc mã, kiện đề ẩn ẩn ngưỡng kiều biên.
Dịch:
Linh ứng Rùa Vàng, móng thần y nhiên nơi giếng cũ
Oai dương Ngựa Gỗ, vó hùng thấp thoáng chốn cầu biên.

Không rõ tích thần trảo Kim Quy và dấu chân ngựa gỗ ở đây là nói tới sự tích nào. Rất có thể chỉ mối liên hệ tới vị Nam Hải An Dương Vương như ở huyện Đông Hưng đã kể trên.

Dù thế nào thì đền Vua Rộc chắc chắn là đền thờ các vị Hải thần. Điều này rõ ngay từ cái tên Rộc. Một số tác giả cho biết chữ Lạc có thể phục nguyên âm là Rộc, chỉ ruộng lúa. Tới nay người Mường vẫn gọi ruộng là rộc. Vua Rộc như vậy có thể là Vua Lạc hay Lạc Vương, phù hợp với thời Nam Giao mở nước.

Một sự tích lý giải khác cho đền vua Rộc lại có thể tìm thấy trong các đi tích thờ Hải thần trong cùng khu vực, là các di tích thuộc xã Bình Thanh cùng huyện Kiến Xương. Đây là tổng Đa Cốc xưa. Đình Đa Cốc thờ các vị Đông Hải Đại vương, Tây Hải Đại vương, Cao Sơn Quý Minh, Trưởng Thái Giám. Trong đó sự tích kể rằng Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng là con trai thứ 4 của Lạc Long Quân xuất thế, đã được người em cùng bọc của mình là Tây Hải Đại vương hiển linh phù giúp. Tây Hải Đại vương là con trai thứ năm của Lạc Long Quân. Đáng chú ý là Đa Cốc nằm ở gần sông Hồng nên sự tích có yếu tố của dòng Lạc Long như ở các tỉnh Hà Nam, Hưng Yên.

Như vậy sự tích ở Đa Cốc hoàn toàn tương đồng với đền Vua Rộc từ việc thờ 2 vị Đông Hải và Tây Hải, họ Lạc (Rộc), hiển linh ở thời Lý-Trần. Nói cách khác đây vẫn là các vị Hải thần dòng Lạc Long như ở khu vực sông Diêm Hộ nói trên.

Một số nơi ở Kiến Xương thờ thần Tây Hải với ghi nhận là vào thời Hùng Vương như ở đình Cao Mại Nhân (xã Quang Trung), đình Thượng Hiền (thôn Phú Cốc xã Nam Bình).

Một cụm di tích đáng chú ý khác của Kiến Xương là 3 làng Quân Bác, Bác Trạch, Phương Trạch thuộc tổng Nam Huân xưa, nay thuộc xã Vân Trường và Phương Công của huyện. Nơi đây có sự tích về 3 vị Hải Linh thần là Nam Hải Linh quan, Đông Hải Linh quan, Tây Hải Linh quan với truyền thuyết kỳ vĩ: thân các ngài cao vạn trượng, đầu to trăm thước, lấy sông làm nhà, lấy biển làm vườn, hít thở ngàn dặm, phun nước vạn thùng, tựa có 800 ngôi sao phù giúp sáng rực. Thần quẫy đuôi thành dông bão, đứng hàng đầu trong các vị thủy thần… 

Đặc điểm riêng nữa của vùng phía Nam Thái Bình là bên cạnh thờ Tứ Hải Long vương, nơi đây còn thờ những vị hải thần chung khác như Thủy Hải, Đại Hải, Long Vương, đặc biệt là ở huyện Tiền Hải và khu vực gần với sông Hồng. Những vị hải thần này là những vị cũng từng gặp ở vùng sông Hồng phía tỉnh Hà Nam và Hưng Yên. Một số nơi ở Tiền Hải và TP. Thái Bình còn thờ thủy thần Quảng Lợi Bạch Mã, tức là thần Long Đỗ như ở vùng Thăng Long.

Tóm lại, qua việc phân tích các di tích thờ Hải thần ở Thái Bình có thể thấy nơi đây, nhất là vùng sông Diêm Hộ, là nơi phát sinh ra tín ngưỡng này. Bốn vị Đông Hải, Tây Hải, Nam Hải, Bắc Hải là những vị Long hầu thời Hùng Vương, trấn nhậm các vùng cửa sông góc biển, tham gia vào cuộc chiến đánh Thục lập quốc ban đầu của Lạc Long Quân (Bát Hải Động Đình). Đây cũng là bộ Ngũ vị tôn quan của Công đồng Thoải phủ. Trong tín ngưỡng hải thần, các vị được thờ dưới hình thức là các thủy thần hiển linh tạo phúc cho dân. Dấu vết của Tứ Hải Long vương như được nói đến trong các sách đạo Giáo thời Tần Hán không ngờ lại chính là từ vùng cửa sông Hồng đổ ra biển tại Thái Bình.

Những vị thủy thần ở Hà Nam

Trong công cuộc trị thủy ở đồng bằng sông Hồng thì vùng đất Hà Nam từ thời Hùng Vương là một địa bàn quan trọng của người Việt cổ, nơi tập trung những người con theo cha Lạc Long Quân đi khai phá đồng bằng, chế ngự thiên tai. Những vị tiền nhân này đã trở thành những vị “thủy thượng linh thần” trong văn hóa Việt.

Hà Nam là nơi có lượng di tích dày đặc thờ các vị thủy thần gồm:

  1. Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế: đây là vị Động Đình Đế Quân, cha của Động Đình Long Nữ, tức là ông ngoại của Lạc Long Quân. Ở Thăng Long ông được biết đến là thần chính khí Long Đỗ. Ở Hà Nam nơi thờ Long Vương Thủy phủ gặp ở huyện Bình Lục như ở đình Cổ Viễn hay ở thôn Khương Thị xã An Nội.
  2. Bát Hải Long Vương: Bát Hải hay Bột Hải đều có nghĩa là biển Đông. Bát Hải Long Vương hay Bột Hải Đại vương thường là để chỉ Kinh Dương Vương, người đứng đầu trong công cuộc trị thủy với tài đi dưới Thủy phủ và nhờ những sáng tạo trọng gậy thần sách ước mà làm nên kỳ tích khơi thông dòng chảy sông Đà thời Nghiêu Thuấn. Ở Hà Nam, đình Cổ Viễn (Bình Lục) cũng là nơi thời Bát Hải Long Vương. Ngoài ra còn một số di tích khác như đình Vạn Nghệ xã Văn Lý (Lý Nhân) cũng thờ vị này.
  3. Thủy Tinh Công chúa: tức Xích Lân Long Nữ Động Đình Thánh mẫu, hay Mẫu Thoải. Thủy Tinh Công chúa đặc biệt được thờ rất nhiều ở Hà Nam, ít nhất là ở hơn 30 làng xã từ Bình Lục, Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng đến Thanh Liêm. Sự tích chính là tiên nữ giáng trần, được Liễu Nghị cứu giúp. Liễu Nghị cũng là một vị thủy thần (Long Vương) bởi ông cũng chính là Kinh Dương Vương, người đã kết duyên với Long Nữ Động Đình.
  4. Hà Bá Thủy quan: là một vị thủy thần khá “đặc sản” của vùng Hà Nam, nơi mà đã thống kê được có ít nhất 20 làng xã thờ Hà Bá. Sự tích chủ yếu đây là con trai của Lạc Long Quân, giúp đánh giặc Thục. Thực chất, Hà Bá không phải ai khác chính là Lạc Long Quân, người đã làm nên cuộc chiến giành vương vị với dòng Thục lên núi mà lập ra “thủy quốc” mang tên Hoa Hạ.
  5. Linh Lang Đại vương: Có tới hơn 60 di tích ở Hà Nam thờ Linh Lang xuất thế ở các thời kỳ khác nhau, từ thời Hùng Vương đánh Thục, thời Lý đánh giặc Vĩnh Trinh và Hồng Châu, hay giặc Tống, thời Trần đánh giặc Nguyên. Thậm chí Linh Lang cứu công chúa ở Lệ Mật cũng là một dạng “hóa thân” của vị thần này. Linh Lang Đại vương chính là con của Kinh Dương Vương, tức Lạc Long Quân, làm vua Thủy phủ, hóa sinh bất diệt nơi Động Đình.
  6. Quý Minh Đại vương: Vị Hữu kiên thần của Tản Viên Sơn Thánh với vai trò phụ trách Thủy quân của nhà Hùng dẹp giặc Thục ở châu Ái, hoặc có lúc sự tích là con của Lạc Long Quân đi từ cửa biển Thần Phù lên hóa ở bến Long Đỗ. Ở Hà Nam có hơn 40 làng xã thờ Quý Minh, chưa kể một số nơi thờ thần Cao Các, cũng là một dị bản của Quý Minh Đại vương.
  7. Trung Thành Thổ Lệnh Trưởng: “Sinh Bạch Hạc, thác Ba Lương”, một dải sông Hồng từ ngã ba Việt Trì ra đến biển thờ vị Thủy tào phán quan Trung Hoa quốc tể này. Cùng với Phú Xuyên (Thường Tín) thì Hà Nam là nơi có nhiều di tích thờ Thổ Lệnh nhất, thống kê sơ bộ ít nhất có hơn 25 làng xã, tập trung ở huyện Duy Tiên và Kim Bảng. Nổi tiếng bởi sự tích nhất bào ngũ tử trong nhà họ Đào, Trung Thành Thổ Lệnh thực ra là vị Quan lớn Đệ Tam được thờ lừng danh ở Lảnh giang linh từ. Đây là vị Long hầu đứng đầu dưới trướng Lạc Long Quân.
  8. Câu Mang Đại vương: Câu Mang là tên của Mộc thần của phương Đông, nhưng ở Hà Nam, Nam Định lại là vị thủy thần được thờ phổ biến, với sự tích các anh em sinh cùng một bọc, phù Hùng dẹp Thục, tức là cùng là anh em trong bộ Ngũ vị tôn quan Thoải phủ, anh em thời Lạc Long Quân. Ở Hà Nam ít nhất có hơn 30 làng xã thờ thần Câu Mang, mà được biết nhiều như ở đình Văn Xá (Bình Lục).
  9. Chử Đồng Tử: tuy là “con rể hờ” của dòng Lạc Long, nhưng Chử Đồng Tử cũng là thủy thần do nguồn gốc xuất xứ đánh cá ven sông Hồng. Hữu ngạn sông Hồng như ở Hà Nam không có nhiều di tích thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa, nhưng các nơi thờ ở đây thường có sự tích khác lạ so với sự tích vùng Khoái Châu. Ví dụ, như ở đền Yên Từ (Mộc Hoàn, Duy Tiên) thờ mẹ của Tiên Dung Công chúa, tức đây là nơi quê ngoại của Công chúa.

Nhân mùa mưa lũ sau bão, xin nhắc lại công lao, danh tính của các vị tiền nhân trị thủy sông Hồng, đem lại cuộc sống bình yên cho người Việt vào thời hơn 4000 năm trước.

Đình Cao Cái thờ Quý Minh Đại vương

Công đồng Thủy phủ

Gương đồng dạng trùng liệt thần thú thời Tam Quốc tìm thấy ở di chỉ Óc Eo – Ba Thê.

Thoải phủ hay Thủy phủ trong địa lý văn hóa Việt ứng với hướng Đông, nơi có biển Đông (Động Đình) và đồng bằng sông Hồng (sông Đào). Cội nguồn của đạo Mẫu Tam Tứ phủ xuất phát từ khu vực này nên Thoải phủ đóng vai trò rất quan trọng trong thần điện của Tứ phủ. Xin điểm lại những vị thần chính được ghi chép và thờ phụng trong Động Đình Thoải phủ.

Các vị thần của Thủy phủ được kể đến từ những hướng ghi chép khác nhau. Huyền sử Việt như trong Truyện họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam chích quái được lấy làm căn cứ chính. Truyền thuyết Trung Hoa về các vị thần thời cổ, đặc biệt là trong Đạo giáo, là một góc nhìn khác. Tín ngưỡng thờ cúng các vị thủy thần ở miền Bắc Việt và miền Trung (Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng là những sắp xếp khác của 2 vùng đất cổ Hồng và Lạc từ thời lập quốc Hùng Vương. Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, do Nguyễn tộc ở khu vực Thanh Oai lưu truyền lại là một cách kể, cách sắp xếp khác nữa. Nhưng tất cả đều là hình bóng của một giai đoạn lịch sử của người Việt đã theo cha Lạc Long Quân đi khai phá miền duyên hải.  

Động Đình Đế Quân

Khởi đầu của Thủy phủ Động Đình là từ Động Đình Đế Quân, người cha của mẫu Thần Long, được nhắc đến trong Truyện họ Hồng Bàng. Trong các di tích vị này được thờ với tên là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, như ở làng An Nội, thôn Khương Thị, tổng Cổ Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, hay ở đền Thanh Liệt và đền Nghĩa Sơn bên dòng sông Lam của huyện Hưng Nguyên, Nghệ An.

Ở khu vực kinh đô rồng của Thủy quốc Động Đình tại trên đất Thăng Long, Động Đình Đế Quân chính là thần Long Đỗ được  kể đã từng hiển linh trước Cao Biền trong Truyện thần chính khí Long Đỗ. Đền thờ thần là đền Bạch Mã, trấn Đông của thành Thăng Long. Chú ý là đền Bạch Mã thờ cả 2 vị thần là thần Long Đỗ và thần Tô Lịch (Bạch Mã), nên thần Long Đỗ không phải là thần Bạch Mã. Một nơi khác thờ 2 vị thần này là ở vạn Liên Ngạc ven sông Hồng trên vùng Từ Liêm, thờ Thủy phủ Chí tôn Long Vương và thần Tô Lịch. 

Cổ Lôi ngọc phả của Nguyễn tộc ở Bình Đà cũng cho biết cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch vùng Nghi Tàm, là cha của bà Đỗ Thị Ngoan, tức là mẫu Thần Long trong trong Truyện họ Hồng Bàng.

Trong truyền thuyết Trung Hoa thì Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế là Đông Vương Công hay Đông Hoa Đế quân, vị thần chủ các nam tu trong Đạo giáo. Trên gương đồng thời Đông Hán – Tam quốc thường có đúc hình Tây Vương Mẫu và Đông Vương Quân như hai vị thần chủ các vị thần tiên ở 2 hướng Đông Tây, cho các nam – nữ đạo nhân.

Thần Long Động Đình

Vị mẫu của Thoải phủ là bà Xích Lân Long Nữ, là con gái của Long Vương Động Đình, vợ của Kinh Dương Vương trong Truyện họ Hồng Bàng. Bà là người sinh ra Lạc Long Quân. Mẫu Thần Long đặc biệt có nhiều tên gọi trong các sự tích khác nhau như là Động Đình thánh mẫu Phan Cù Nương trong sự tích ở La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là bà Trang Hoa trong sự tích ở Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là Quý Nương sinh Hoàng xà trong sự tích ở Đào Động, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Bà cũng là Đông Cuông Thánh mẫu ở Tuyên Quang, người sinh ra Linh Uyên Đại vương ở đền Ngọc Tháp, Lâm Thao, Phú Thọ. Bà là bà Diệu Đế trong sự tích Uy Linh Lang ở hồ Dâm Đàm. 

Trong sự tích về Tản Viên Sơn Thánh thì bà là con rắn Thủy Tinh, con của Động Đình Long Vương, đã được Sơn Thánh cứu sống bên bãi Trường Sa. Trong dòng sử Cổ Lôi ngọc phả thì đây là con gái của Long Đỗ Hải vương, tức là bà Đỗ Thị Ngoan, người được tôn là Sa Bà giáo chủ. Trong truyền thuyết Trung Hoa bà là Đồ Sơn Thị, người đã kết duyên cùng với vua Đại Vũ khi trị thủy.

Kinh Dương Vương

Một trong những vị vua của Thủy phủ chính là Kinh Dương Vương, được kể đến là vị Liễu Nghị. Di tích về Liễu Nghị cùng với Xích Lân Long Nữ còn dọc theo sông Hồng như ở Thanh Miện, Hải Dương, hay ở vùng Hà Nam, thậm chí còn vào tới Nghệ An như tại đền Nghĩa Sơn, Hưng Nguyên. Trong Hoa sử thì Kinh Dương Vương là vua Đại Vũ trị thủy ở Long Môn.

Với tư cách là cha của các vị Long hầu, Kinh Dương Vương được kể là Hùng Hải ở sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay ông Đào Bột trong sự tích về Thổ Lệnh Trưởng Trung Thành Đại vương. Ở Nghệ An, có sự tích Kinh Dương Vương gặp Thần Long tại cửa biển Hội Thống. Ở vùng này Kinh Dương Vương được thờ là Mạch Sơn Trấn quốc, hay đơn giản là Mạc Sơn trong tên thần Cao Các Mạc Sơn.

Trong Cổ Lôi ngọc phả thì Kinh Dương Vương được gọi là cụ Nguyễn Minh Khiết, người đã ruồng bỏ bà Đỗ Thị Ngoan. Cụ Nguyễn Minh Khiết có 2 anh em nữa là Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Đây là bộ ba Tam vị Tản Viên, được Cổ Lôi ngọc phả gọi thành Tam phủ Công đồng.

Cụ Nguyễn Long Cảnh tuy không phải đứng trong Thủy phủ Động Đình nhưng là người có liên quan mật thiết tới Thủy phủ vì đã theo giúp cháu đánh giặc. Trong tín ngưỡng Việt thì vị này được thờ là Lãng Nhạc Quý Minh, Hữu kiên thần của Tản Viên Sơn Thánh, người từng đi từ cửa Thần Phù lên đến bến Long Đỗ và hóa ở đó. Đền thờ Quý Minh ở Thăng Long là ở phường Đông Hà, huyện Thọ Xương dưới thời Lê là ngôi đền tham gia vào lễ tế Xuân ngưu.

Lạc Long Quân

Vua cha Bát Hải Động Đình, người đứng đầu thủy cung thì không ai khác là cha Lạc Long Quân mà người Việt coi là quốc tổ. Trong Tứ phủ Lạc Long Quân được gọi là vua cha Bát Hải Động Đình, xuất thế nơi biển Động Đình, đánh giặc Thục ở phía Tây, dựng nên nước Đào – Hoa – Hạ. Đền thờ chính là đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ, Thái Bình. Trong Hoa sử thì đây là Hạ Khải, người mở đầu Hoa Hạ.

Ở vùng hồ Tây, Lạc Long Quân là thủy thần hồ Dâm Đàm, người đã cùng Lục bộ thủy phủ dâng nước diệt Cửu vĩ Hồ. Ở đây Lạc Long Quân được thờ với tên là Linh Lang hay Uy Linh Lang, cũng là vị thần rất phổ biến ở ven các dòng sông trên đồng bằng Bắc Bộ.

Trong Cổ Lôi ngọc phả Lạc Long Quân được gọi là Kinh Dương Vương Nguyễn Quảng, mà dẫn chứng cụ thể là bức giá tượng Lạc Long Quân ở đình Nội Bình Đà được ngọc phả này gọi là Kinh Dương Vương. 

Trong quan hệ với Động Đình Đế Quân (Long Đỗ) và Bột Hải Vương (Kinh Dương Vương) thì Lạc Long Quân được thờ là Hà Bá Thủy quan. Tục thờ Hà Bá Thủy quan gặp phổ biến ở Hà Nam như ở làng Hàn Mặc – tổng Cổ Viễn, làng An Cước, làng An Thái – tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, làng An Mông, tổng Đọi sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Hà Bá Thủy quan còn gặp ở trong các đền thờ Thủy phủ ven sông Lam ở Nghệ An như đền Thanh Liệt, đền Nghĩa Sơn ở huyện Hưng Nguyên.

Ngũ vị tôn quan

Riêng Thoải phủ với vai trò lập quốc như vậy nên có thêm hàng các vị quan lớn, hợp thành ban Công đồng trong thần điện. Đây là những vị quan tướng đã theo vua cha Bát Hải làm cuộc “kháng chiến” đánh Thục và lập nên quốc gia lịch sử chính thức đầu tiên của người Việt là Hoa Hạ.

Trong số 5 vị thì đáng kể nhất là Quan lớn đệ Tam và Quan lớn đệ Ngũ. Quan đệ Tam là Trưởng Lệnh hay Thổ Lệnh (Thủ Lệnh), đứng đầu quan chức của Thoải phủ. Nơi hiển danh của ông là Lảnh giang hay Yên Lệnh (nơi yên nghỉ của Trưởng Lệnh). 

Quan lớn đệ Ngũ còn gọi là Quan tuần Tranh, có lẽ là người “thi hành công vụ” chính (nay ta gọi là hành pháp). Nơi hiển danh chính là ở sông Tranh (Hải Dương). Quan đệ Ngũ còn được gọi là Thạch Khanh trong sự tích các vị thần Tam Giang của ngã ba Bạch Hạc. Vị này nổi tiếng còn bởi nỗi oan khuất, bị đày lên sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn.

Sự tích các vị thủy quan sinh cùng một bọc, lớn lên được cử trấn nhậm các phương đầu sông góc biển có khá nhiều. Như đó là 5 vị Long Vương trong sự tích La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay Tam Công Long Vương trong sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay 5 vị Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Tế, Quảng Hóa, Quảng Xuyên ở vùng Ứng Hòa. Cũng là Tam Lang Long Vương thờ phổ biến ở vùng Hà Tĩnh.

5 vị tôn quan trấn trị 5 phương, được truyền thuyết Trung Hoa gọi là Ngũ đế Thiên hoàng hay Ngũ phương Yết đế. Hình tượng 5 vị này được thể hiện trên những chiếc gương dạng thức trùng liệt thần thú, gặp phổ biến dưới thời Tam quốc.

Cổ Lôi ngọc phả kể 8 người anh em họ Đỗ đi tu trở thành Bát bộ Kim cương, cũng chính là các vị tôn quan của Thoải phủ. Trong sự tích hồ Dâm Đàm thì đây là Lục bộ Thủy phủ của Lạc Long Quân hay Đoài hồ Thất Giáp theo Uy Linh Lang như ở đình Nhật Tân. Phía bên đường Thụy Khuê, là ven sông Tô Lịch trước đây thì các vị Lạc Long hầu là hai vị Cống Lễ và Cá Lễ ở đền Dực Thánh và đền Vệ Quốc.

Tuy không thuộc giai đoạn lập quốc vùng sông nước Động Đình, nhưng lại có liên quan đến thời kỳ này là những vị thần của dòng Lạc Long ở giai đoạn cuối của Kinh triều. Sử Việt gọi là Sùng Lãm (phân biệt khác với Lạc Long Quân ở giai đoạn đầu Kinh triều). Ở vị trí này thì Sùng Lãm là Tản Viên Nguyễn Tuấn. Cổ Lôi ngọc phả gọi là Hùng Lãm, là Pháp Lôi trong Tứ pháp. Trong Hoa sử đó là vị Bắc bá hầu của nhà Ân Thương, được biết dưới tên Sùng Hầu Hổ, đã chống lại cuộc tấn công của Tây bá hầu Cơ Xương, mà sử Việt gọi là giặc Thục. Những người anh em của Tản Viên Nguyễn Tuấn là Cao Sơn và Quý Minh, cũng là trong bộ Tứ pháp của Cổ Lôi ngọc phả. Phân biệt các vị Cao Sơn, Quý Minh họ Sùng ở đời Hùng Vương thứ 18 (đời cuối) với các vị Cao Sơn, Quý Minh trong bộ Tam vị Tản Viên thời lập quốc Kinh triều.

Câu ca dao xưa về dòng dõi Tiên Rồng xuất phát từ cái nôi Đào Hoa Hạ ở vùng Động Đình Thủy phủ:
Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
Tiết trời thu lạnh lành lanh
Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông
Bống bồng bông, bống bồng bông
Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên.