Thần tích thôn Mễ Đậu, xã Mỹ Xá, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên

Ngọc phả xưa ghi lại sự tích một vị Đại vương Nam Giao học tổ thời Hán Chiêu Đế

Chi Cấn, Bộ Thượng đẳng. Chính bản lưu của Bộ Lễ triều ta.

(Bản dịch từ cuốn Thần tích tỉnh Hưng Yên, tập 3 của Bảo tàng Hưng Yên và Viện nghiên cứu Hán Nôm).

Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ, trời Nam lên ngôi báu, kế nối nghiệp lớn hơn hai ngàn năm. Các ngài xây dựng đất nước núi xanh vạn dặm sáng nền móng kinh thành cung điện, nước biếc một dòng mở ra đạo trị nước của các bậc vua hiền, khơi vật cứu người, thống nhất 15 bộ, là Tổ của Bách Việt vậy.

Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hỏa, ức niên phương.

Tạm dịch:

Nước Việt mở đầu từ Kinh Dương
Thống nhất non sông mười tám vua
Mười tám đời truyền lưu thiên cổ
Ngàn năm hương hỏa, ngàn năm thơm.

Bấy giờ cơ nghiệp họ Hùng suy yếu, ý trời đã định đến hồi cáo chung. Tới thời Đông Hán, các vua đều ngự ở trong triều. Nghe nói ở trong vùng đất Long Biên nước ta có một ông họ Đặng, tên húy là Tứ, người huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô. Tổ tiên đời trước nhận phong, đời đời thừa phúc ấm mà lấy một người trong quận tên Tạ Thị Cẩn, truyền đời thi thư lễ nhạc, một nhà trâm anh, quả là môn đăng hộ đối. Ông họ Đặng từ nhỏ đã tinh thông y thuật, lại có lòng làm việc thiện, thường hay phát chẩn cứu tế. Ông năm nay đã gần 50 tuổi, bà họ Tạ cũng đã hơn 40 tuổi mà chưa có điềm lành con cái.

Sau bà họ Tạ mơ thấy xà tinh nhập mà có mang. Ngày 8 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ sinh hạ một người con trai, trời sinh thông minh, hình dáng khác người, bèn đặt tên là Tiếp. Ba tuổi đã thông hiểu lễ nghĩa thông thường, lại có lòng kính trên nhường dưới, không học mà biết được âm luật. Bảy tuổi bắt đầu học hành, các sách xem qua một lần là nhớ, không cần phải ghi lại. Năm 13 tuổi biết hết các sách của muôn nhà, lại biết võ nghệ. Các sĩ tử đương thời đều thán phục, khen là thần đồng. Năm 18 tuổi cha mẹ đều qua đời. Ông Tiếp bèn chọn ngày lành làm lễ an táng ở gia đường, hương hỏa thờ phụng theo nghi lễ ba năm. Sau khi chịu tang xong bèn có lòng dạy dỗ muôn dân. Nghe Giao Châu còn chưa được cương thường, đạo nghĩa soi sáng, ông bèn tìm đến để giúp dân hiểu lễ nghĩa. Các vùng đất phương Nam nhờ công lao của ông mà được mở mang. Người dân ở đây suy tôn ông là Châu trưởng.

Bấy giờ Hán Chiêu Đế sai Chu Chương là Thái thú Giao Châu. Chương nghe ông giáo hóa phục nhân, bèn tâu với vua. Vua rất mừng, phong cho ông là Liệt Hầu công. Ông nhận mệnh đi du ngoạn khắp huyện ấp xem dân tình sống ra sao. Một ngày ông đến trại Lũng Triền, trang Thanh Tương, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc (xưa gọi là quận Vũ Ninh), thấy dân chúng chưa được học hành nhiều. Lại thấy một cuộc đất non nước hữu tình, rồng hổ ôm ấp mà giếng nước rất thuận tiện. Nghĩ đây là vùng đất thắng cảnh. Ông lập tức truyền cho binh sĩ cùng người dân đắp thành ở vùng đất này (gọi là thành Luy Lâu), dựng trường học dạy chữ viết. Bấy giờ truyền một liễn đối rằng:

Học y Luy Lâu tầm tiên tích
Danh thượng hòa phong đính Phật kinh.

Tạm dịch:

Học theo Luy Lâu tìm dấu tiên
Danh hướng Hòa Phong chữa kinh Phật.

Trải qua được một năm, người dân rất ái mộ. Bấy giờ có người đứng đầu của 7 quận là Hữu Trị, Nhai Châu, Đam Nhĩ, Thương Ngô, Quảng Tín, Phiên Ngu, Mê Linh làm loạn làm hại người dân. Vua nghe vậy hỏi đình thần trù tính mưu lược. Bấy giờ Thái thú châu ta là Sầm Bành tiến cử ông đức lớn phục nhân, ắt có thể dẹp yên được. Vua đồng ý ban cho ông là Thái thú Giao Châu, sai đi bình giặc. Sau đó ông nhận mệnh tuyển được người dân, gia thần, sĩ tử hơn 500 người. Đưa hịch đi khắp các quận huyện tới giúp đến vài nghìn người. Ông cho quân chia đồn đóng tại quận Cửu Châu ra lệnh chỉ cố thủ mà không được ra khiêu chiến. Cho sử giả đưa hịch đến chỉ cho biết những điều tín nghĩa, lại nói rõ họa phúc. Giặc nghe hiểu ra liền cởi giáp quy hàng. Nhờ thế 7 quận được yên ổn. Việc xong, ông liền quay về châu phủ (tức vùng đất Long Biên). Từ đó ông là Thái thú hình phạt nghiêm minh. Nhân dân đều yên ổn làm ăn. Sau ông lại quay về trại Lũng Triền, ban ơn cho người dân ở vùng này. Mọi người cảm tạ và xin được dựng trường học, lập một ban để ngày sau thờ phụng. Ông bèn đồng ý, ban cho 15 hốt vàng để ngày sau tu sửa đền thờ, mua ruộng ao lấy hoa màu để lo việc cúng tế.

Một ngày, ông quay về châu phủ sai gia thần chuẩn bị lễ vật cống cho vua Hán. Bấy giờ ông đã 70 tuổi, đang ngồi trong phủ đường ở kinh thành Thăng Long, chợt thấy một luồng sáng đỏ, mây lành vần vũ bốn phía. Có một áng mây lớn từ trên trời giáng xuống phủ đường. Ông chợt thấy thân thể nhẹ bỗng mà bay ra khỏi phủ đường đến địa phận trang Tam Nha thì không thấy đâu nữa (lúc ấy là ngày mùng 1 tháng 8). Một lát sai khí lành mới tan, trời đất tạnh ráo. Đám côn trùng ùn lên thành một ngôi mộ lớn. Người dân đều rất kinh hãi, bèn làm biểu dâng tấu lên vua Hán. Vua nghe vậy sai sứ ban sắc phong là Thượng đẳng thần. Đọc tế văn, dựng miếu thờ ở đây cùng đất nước chung hưởng sự yên ổn vĩnh hằng.

Kính cẩn thay!

Phong là Sĩ Tiếp Tế thế Hộ quốc Đại vương. Các màu vàng, đỏ khi làm lễ đều cấm. Lại chuẩn cho trại Lũng Triền, trang Thanh Tương dựng đền thờ đề chữ rằng: Nam Giao Học Tổ từ (nghĩa: Đền Nam Giao Học Tổ) để phụng thờ. Đến đời Bình Đế nghe tên tuổi, sự tích ở Hán có công bèn sai sứ ban sắc phong cho vị là Khải mưu Tá tích Quang hoa Mạc thắng Đại vương.

Đến niên hiệu Thái Bình vua Tống sai Hầu Nhân Bảo đem 20 vạn binh chia hai đường thủy bộ cùng tiến, xâm phạm nước Nam. Bấy giờ Lê Đại Hành sai 10 vạn tinh binh cự chiến, tiến đến huyện Siệu Loại cho binh chia đường đến. Vua bèn đóng quân ở trại Lũng Triền, trang Thanh Tương. Đêm hôm ấy vào trong đền thờ cầu khấn thần âm phù giúp vua đánh giặc, bình giặc xong sẽ ban sắc gia phong Thượng đẳng. Vua thấy chữ đề: Nam Giao Học Tổ từ, vua bèn cho gọi các vị phụ lão trong thôn đến hỏi cho rõ. Mọi người tâu rõ sự việc quả là trong trại có thờ phụng thần hiệu như vậy. Ngày hôm sau vua đem binh đánh giặc Tống là Hầu Nhân Bảo thu được đại thắng, bắt được đại tướng, khải hoàn về kinh thành. Các tướng sĩ đều tâu rằng:

  • Giặc Tống sớm bình được đều nhờ công thần ngầm giúp

Bèn gia phong cho trăm thần.

Phong cho một vị Thiện tiếp Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương vũ Dực thánh Bảo cảnh Hiển ứng Hậu đức Chí nhân Phu cảm Hiển ứng Triệu mưu Tá tích Thiện văn Bác tế Phổ thi Từ ý Hậu ân Hoằng mô Viễn lược Cương nghị Đốc thực Thùy hưu Quả đoán Hùng nghị Phúc diễn Thông minh Duệ trí Hùng lược Dũng quyết Anh uy Linh cảm Diệu thông Hùng kiệt Đại vương.

Lại nói, từ đó về sau đều hiển hiện sự linh ứng, cho nên các đời đế vương đều có gia phong mỹ tự cho Đại vương. Đến đời Trần Thái Tông có giặc Nguyên sang xâm phạm, kinh thành bị bao vậy. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh cầu khấn trăm thần ở các đền thờ. Đại vương lại hiển ứng ngầm giúp bình được giặc Mã Nhi. Thái Tôn ban phong cho Đại vương là Linh ứng Anh triết Hiển hựu Trợ thuận.

Đến thời Lê Thái Tổ khởi nghĩa bình giặc Minh, chém được Liễu Thăng, thiên hạ thái bình. Thái Tổ bèn gia phong mỹ tự cho Đại vương là Phổ tế Cương nghị Anh linh. Sắc chỉ ban cho trại Lũng Triền, trang Thanh Miếu tu sửa miếu điện để thờ phụng.

Vâng mệnh khai ngày sinh, ngày hóa, các lễ tịch cùng tên húy tự. Bốn chữ Tứ, Cẩn, Sĩ, Tiếp cấm khi làm lễ. Lại chuẩn cho trại Lũng Triền trang Thanh Tương thờ phụng.

Ngày thần sinh: ngày mùng 8 tháng Giêng. Chính lệ lễ dùng trên có một bàn chay dưới có lợn đen, xôi, rượu, bánh chưng, bánh giầy, có ca hát.

Ngày thần hóa: ngày mùng 1 tháng 8. Chính lệ lễ dùng trên có một bàn chay, dưới có lợn đen, xôi, rượu, bánh chưng, bánh giầy, cấm không được ca hát.

Vào các ngày lệ như tế xuân, tế thu, kỳ phúc ngày 15 tháng 8. Chính lệ lễ dùng tùy theo năm.

Ngày tốt tháng Giêng niên hiệu Hồng Phúc năm đầu (1572) Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng mệnh soạn.

Ngày tốt tháng 8 Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ 6 (1740) Nội các bộ Lại tuân theo bản chính vâng mệnh viết.

Ngày 15 tháng 2 năm Duy Tân thứ 10 (1916) các vị kỳ lý trong thôn chép lại theo bản chính.

Những câu đối hay ở đền Độc Bộ, Ý Yên, Nam Định thờ Triệu Việt Vương Hoàng Đế

Câu 1

邾山正統皇風遠
鵶海安濤帝德深

Châu Sơn chính thống hoàng phong viễn
Nha Hải an đào đế đức thâm.

Dịch nghĩa:

Núi Châu chính thống dòng vua mãi
Yên sóng biển Nha đức đế sâu.

Câu 2

獨木破梁兵南國同胞皆赤子
頹波障海口浮沙托植囿青春

Độc mộc phá Lương binh, Nam quốc đồng bào giai xích tử
Đồi ba chướng hải khẩu, Phù Sa thác thực hữu thanh xuân.

Dịch nghĩa:

Độc mộc phá quân Lương, nòi giống nước Nam cùng máu đỏ
Sóng dồn che cửa bể, Phù Sa hoa cỏ hóa xuân xanh.

Câu 3

朱鳶鍾秀氣帝烈凜千秋梁寇掃除安殿內
慕澤顯神機王勳留萬古龍爪威儀聖蹟傳

Chu Diên chung tú khí, đế liệt lẫm thiên thu, Lương khấu tảo trừ an điện nội
Mộ Trạch hiển thần cơ, vương huân lưu vạn cổ, long trảo uy nghi thánh tích truyền.

Dịch nghĩa:

Đầm Mộ Trạch rạng tỏ danh thần, tên vua vạn thế sáng soi, nghiêm vuốt rồng truyền lưu tích thánh
Đất Chu Diên đúc nên hào khí, oai đế ngàn thu oanh liệt, trừ quân Lương đất nước yên bình.

Câu 4

夜澤雄飛百戰山河餘宇宙
海門龍遠億年祠廟鎮波濤

Dạ trạch hùng phi, bách chiến sơn hà dư vũ trụ
Hải môn long viễn, ức niên từ miếu trấn ba đào.

Dịch nghĩa:

Dạ Trạch hùng bay, trăm trận núi sông còn vũ trụ 
Rồng xa cửa biển, muôn năm đền miếu chặn sóng đào. 

Câu 5

天子威儀天子庙
帝王凜烈帝王祠

Thiên tử uy nghi Thiên tử miếu
Đế vương lẫm liệt Đế vương từ.

Dịch nghĩa:

Miếu Thiên tử Thiên tử uy nghi 
Đền Đế vương Đế vương lẫm liệt.

Câu 6

弌胞破出双神將
同日飛升二大王

Nhất bào phá xuất song thần tướng
Đồng nhật phi thăng nhị đại vương.

Dịch nghĩa:

Một bầu phá nở hai thần tướng
Cùng buổi bay lên lưỡng đại vương.

Câu 7

独木破梁兵名謄北國
龍編居帝位威振南天

Độc mộc phá Lương binh, danh đằng Bắc quốc
Long Biên cư đế vị, uy chấn Nam thiên.

Câu 8

天上瓊飛三花曾記南塘夢
人間玉牒小月猶傳北直謠

Thiên thượng Quỳnh phi, tam hoa tằng ký Nam Đường mộng
Nhân gian ngọc điệp, tiểu nguyệt do truyền Bắc Trực dao.

Dịch nghĩa:

Quỳnh phi thượng giới, ba đóa còn ghi mộng Nam Đường
Lá ngọc nhân gian, trăng nhỏ bởi truyền chuyện Bắc Trực.

Câu 9

黑虎梦醒符聖瑞
黃龍脱爪顯神机

Hắc hổ mộng tỉnh phù thánh thuỵ
Hoàng long thoát trảo hiển thần cơ.

Dịch nghĩa:

Hổ đen tỉnh mộng phù điềm thánh
Rồng vàng tháo vuốt tỏ cơ thần.

Câu 10

龍矛脱爪僊童去
鴉海翻濤佛子來

Long mâu thoát trảo tiên đồng khứ
Nha hải phiên đào Phật Tử lai.

Dịch nghĩa:

Giáo rồng tháo móng tiên đồng đi
Dậy sóng biển Nha Phật Tử đến.

Câu 11

龍編若果凶神爪
鴉海何能鎮惡濤

Long Biên nhược quả hung thần trảo
Nha Hải hà năng trấn ác đào.

Dịch nghĩa:

Long Biên quả nếu không thần trảo
Nha hải sao còn trấn sóng hung.

Câu 12

前面三江龍水拜
後垂二嶺虎瑰朝

Tiền diện tam giang long thuỷ bái
Hậu thuỳ nhị lĩnh Hổ Khôi triêu.

Dịch nghĩa:

Trước mặt ba sông dòng nước bái
Sau trùm hai núi Hổ Khôi chầu.

Câu 13

帝位卄餘年帝德留傳千古重
聖恩多潤澤聖威長在萬秋興

Đế vị chấp dư niên, đế đức lưu truyền thiên cổ trọng
Thánh ân đa nhuận trạch, thánh uy trường tại vạn thu hưng.

Dịch nghĩa:

Ngôi đế hơn hai mươi năm, đức đế truyền lưu ngàn xưa trọng
Ơn thánh nhiều lần thấm đẫm, oai thánh mãi còn vạn thu vang.

Câu 14

天定其書南國山河南國帝
地留其跡大鴉風水大鴉神

Thiên định kỳ thư, Nam quốc sơn hà Nam quốc đế
Địa lưu kỳ tích, Đại Nha phong thuỷ Đại Nha thần.

Dịch nghĩa:

Trời định sách đó, núi sông nước Nam, vua nước Nam
Đất lưu tích đó, gió nước Đại Nha, thần Đại Nha.

Câu 15

祠廟巍峨鴉海樓臺新宇宙
南天正統龍編城郭舊江山

Từ miếu nguy nga, Nha Hải lâu đài tân vũ trụ
Nam thiên chính thống, Long Biên thành quách cựu giang sơn.

Dịch nghĩa:

Đền miếu nguy nga, lâu đài Nha Hải vũ trụ mới
Trời Nam chính thống, thành quách Long Biên núi sông xưa.

Câu 16

神龍蜜献擊賊大勝梁兵回帝位
獨木長期進攻消耗力量鎮龍城

Thần long mật hiến kích tặc, đại thắng Lương binh hồi đế vị
Độc mộc trường kỳ tiến công, tiêu hao lực lượng trấn Long thành.

Dịch nghĩa:

Rồng thần mật hiến cách đánh giặc, đại thắng quân Lương lên ngôi đế
Độc mộc trường kỳ tiến công, tiêu hao lực lượng trấn thành Long.

Rồng hiện Nhất Dạ Trạch

Thần tích làng Nhuế Dương ở Khoái Châu, Hưng Yên kể về quá trình khởi nghĩa của Triệu Quang Phục: Ngả Việt ta tại Long Biên có người Thái Bình, họ Lý tên là ông Bôn, theo trời thuận người thừa thời thế mà khởi nghĩa. Nhưng đang khi đó chưa có nam nhi nào có tài thao lược. Ông Bôn tích trữ binh lương, thần phong chưa động. Tin thay! có Thiếu Khang dẹp loạn tất có Thần Mĩ dẹp loạn cùng. Rồng lên ở trên đầm không có ý với mây mà mây tự nhiên bay đến.

Đương khi ấy ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một nhà họ Triệu tên Túc. Tổ tiên nhà đó vốn họ Việt, giúp Triệu Võ Đế (tức Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Ba bốn đời đều làm quan lớn cho triều Triệu Vũ Đế.  Đến ông Túc cũng là bậc nho y có tiếng trên đời, lấy vợ là Trưng Thị Đàm.

Triệu Quang Phục có tổ tiên đã theo Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Họ Triệu nhiều đời làm quan lớn, cho đến ông Triệu Túc. Triệu Túc theo như Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lại là Thái phó của Lý Bôn, tức là một vị tướng quan trong trong cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế.

Cũng Thần tích Nhuế Dương kể, khi Triệu Việt Vương mất lại thấy Tạp bộ Đại phu ở xã Đại Lan bản huyện cũng tự đến tận nơi cung sở chính, lập làm đền miếu, vâng chép thần hiệu Triệu Việt để phụng thờ.

Đại Lan nay là xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên, nơi có đền thờ Triệu Vũ Đế ở Long Hưng điện. Tập sử ký Xuân Lan (thần tích Xuân Quan) cho biết: Triệu Việt Vương, tên húy là Quang Phục, sinh ở làng Lan Cứu (nay là xã Xuân Lan), là hậu duệ của Cổ Tiên Thánh Đế (tức Triệu Đà).

Như vậy, Triệu Quang Phục là dòng dõi Triệu Vũ Đế, sinh ở Xuân Quan. Cho dù các thần tích khác như thần tích Nhuế Dương cho biết Triệu Quang Phục quê ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây, nhưng rất có thể Xuân Quan là một trong những nơi Triệu Quang Phục đã lớn lên thủa ban đầu.

So sánh với Thần tích Hạ Mạo (TT. Phú Thọ) khi mà Hậu Hùng Vương đã cử người con Út đến giúp Triệu Đà chống Tần thì Hậu Hùng Vương sẽ là Triệu Túc, Lý Bôn là Triệu Đà, còn Út Ngọ Lôi Mao là Triệu Quang Phục.

Theo các thần tích việc Lý Bôn được Triệu Quang Phục như rồng gặp mây, như minh chúa gặp tướng tài (vua Hạ Thiếu Khang được bề tôi là Thần Mi giúp diệt loạn Hậu Nghệ, trung hưng nhà Hạ). Triệu Quang Phục là Tả tướng của Lý Bôn, được phong thực ấp ở đạo Sơn Nam.

Thần tích Nhuế Dương chép: Quang Phục vâng mệnh bái tạ, đi đến nhận việc ở Sơn Nam, ngắm xem đất đai có hình thắng hiểm trở để  lập cung doanh mà ở. Một hôm đi đến nơi đất đầu xã Nhuế Dương, xứ Nhất Dạ Trạch, huyện Đông An Khoái Lộ. Bốn bề đất Nhuế Dương, trước có sông lớn, ba mặt đầm nước, núi không cao mà đất bãi như gìn giữ. Nước có sâu mà nguồn giếng êm chảy. Trái phải xung quanh có rồng hổ ôm chầu, thật đúng là nơi đất hiểm yếu. Ngay hôm đó bèn truyền quân xây dựng cung doanh vài mươi gian. Chính cung dựa Càn hướng Tốn. Quang Phục ở đó.

Đến khi giặc Lương quay trở lại, tấn công nước Vạn Xuân. Lý Nam Đế vào động Khuất Lão, giao quyền quản lý Long Biên lại cho Tả tướng Triệu Quang Phục. Quang Phục tự thấy Long Biên bốn mặt có giặc, bèn rút hết quân về nơi chốn cũ ở Nhuế Dương, trong đầm Nhất Dạ huyện Đông An mà ở, cùng với quân Lương cự chiến, qua một năm mà không phân thắng thua.

Như vậy, Nhuế Dương chính là nơi Triệu Quang Phục đã đóng đồn quân chính trong trận chiến đầm Nhất Dạ. Gần Nhuế Dương, cùng tổng Phù Khê của huyện Khoái Châu xưa có làng Bùi Xá, cũng là nơi thờ Triệu Quang Phục. Thần tích Bùi Xá rất đặc biệt, khi cung cấp nhiều chi tiết mới lạ về cuộc khởi nghĩa đầm Dạ Trạch:

Còn Quang Phục ở huyện Đông An, thấy trong huyện có đầm Nhất Dạ tại đất xã Vĩnh Hưng (tức xã An Vĩnh). Đầm này chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ lác mọc rậm rạp. Bốn bề bùn lầy sình trũng. Bên trong có một chỗ nhỏ có thể ở. Quang Phục bèn lập đồn lớn ở trong đầm.

Thường khi dẫn quân đánh quân Lương thì thấy có một lão ông, râu tóc dài khỏe, thân thể kỳ dị, cao hơn 9 thước, cầm một cái dùi sắt, theo khói sương trong đầm mà lên, tiếng như chuông lớn, hình như sắt trắng, đánh quân Lương thua to.

Sự việc xong ông lão lại cùng với Quang Phục đi dạo, nói cười vui vẻ như anh em cùng một bọc đến chơi vậy. Phàm khi Quang Phục có việc bị quân Lương tập kích thì đều đến báo trước thời gian. Nếu Quang Phục gạn hỏi họ tên, duyên cớ thì đều không báo sự thực.

Một hôm Quang Phục đi đến cung sở ở xã Bùi Xá. Nhân dân đang làm lễ đón mừng thì bỗng thấy lão ông từ bên ngoài đi đến. Quang Phục bèn mời vào trong ngồi. Lão ông nói rằng:

–   Tôi vốn là thanh khí chốn bèo nước, là dòng dõi một bầu trăm trứng họ Hùng trước đây, cũng là phúc thần của Bùi Xá. Tôi là Đông Hải Đại vương, là người con thứ 10 trong số 50 người con về biển, họ Hùng tên Chiểu, ở giữ biển Đông nên gọi là Đông Hải Đại vương. Sau lại kiểm giữ đầm Nhất Dạ ở Sơn Nam, làm thần ở Bùi Xá trong đầm Dạ Trạch.

Trong đầm Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã được thần đầm là Đông Hải Đại vương, một vị thủy thần dòng dõi Lạc Long Quân xuống biển giúp và báo tin cho.

Quang Phục theo đó mà chọn ngày trai giới, lập đàn dâng lễ cáo tế trời đất, cầu đảo bách thần. Ba ngày đèn hương không dứt. Bỗng thấy trời đất mù mịt, mây gió nổi lên. Có một vị thần tướng cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, đứng trên đàn. Ông Phục đại bái ở trước. Thần tướng mới nói rằng:

– Ta là Quý Minh Đương Lai,  cho khanh một vật để làm nỏ thần báu vật trời ban. Cho dù có giặc mạnh cũng không phải lo lắng vậy.

Thì ra người trao móng rồng cho Triệu Quang Phục không phải là Chử Đồng Tử mà là Quý Minh Đại vương, vị Hữu kiên thần Tản Viên Sơn Thánh. Quý Minh Đại vương còn có tên là Lãng Nhạc, là vị thủy thần trong Tam vị Tản Viên.

Thần tích Bùi Xá có bài thơ nói về chuyện này:

Sơn thuỷ tòng lai tương biệt thú
Như hà sơn thuỷ đắc đồng nguyên
Giả lệnh tại đương thì giả
Cảm vấn chư công đắc minh.

Dịch nghĩa:

Sông núi theo đi mà chia biệt
Tại sao sông núi lại cùng nguồn?
Nếu là thủ lĩnh đương thời đó
Dám hỏi các ngài rõ không?

Bài thơ ám chỉ việc 50 người con theo cha xuống biển là Thủy thần, 50 người con theo mẹ làm Sơn thần thời Lạc Long – Âu Cơ. Cùng nhau chia biệt nhưng đều là con cùng một bầu cha mẹ, cùng một nguồn.

So vào việc Triệu Quang Phục nhận được móng rồng từ các vị thủy thần Đông Hải Đại vương và Quý Minh Đại vương thì có thể ở đây ám chỉ Triệu Quang Phục là dòng theo mẹ lên núi. Một dẫn chứng khác là đền thờ Triệu Quang Phục ở xã An Vĩ (Khoái Châu) còn có tên là đền Vua Rừng.

Triệu Quang Phục là dòng Tiên theo mẹ lên núi cũng tương ứng với thần tích Hạ Mạo cho biết vua Triệu là dòng dõi họ Hùng, có biểu tượng là lông chim phượng hoàng (Lôi mao), tức là dòng Tiên (chim phượng).

Dòng dõi Tiên họ Triệu đã được sự giúp đỡ phò trợ của dòng Rồng xuống biển mà có được báu vật đâu mâu làm lẫy nỏ thần, dẹp tan giặc loạn. Ở Bùi Xá còn thường kể câu chuyên là cây gạo trước đình khi nở hoa thì ở làng đối diện thế nào cũng có nhà cháy. Cây gạo chính là hình tượng của Rồng như trong chuyện bảy cây gạo ở Nhật Chiêu bên hồ Tây. Hoa gạo nở cũng là lúc móng rồng phát huy uy lực, hướng vào đâu là tan giặc ở đó.

Câu đối ở đình Phù Sa (Yên Mô, Ninh Bình):

兜鍪聖武興南李
獨木神兵走北梁

Đâu mâu thánh vũ hưng Nam Lý
Độc mộc thần binh tẩu Bắc Lương.

Dịch nghĩa:

Đâu mâu võ thánh dấy Nam Lý
Độc mộc binh thần đuổi Bắc Lương.

Ở đây chiếc móng rồng làm đâu mâu tương đương với việc dùng thuyền độc mộc để đánh quân Lương. Phải chăng khả năng dùng thuyền nhẹ chính là năng lực của “rồng”, của dòng tộc người xuống biển, đã giúp Triệu Quang Phục chiến thắng giặc Lương trên mặt nước đầm Dạ Trạch?

Sau khi có được móng rồng bảo bối, giặc được dẹp tan, Triệu Quang Phục lên ngôi tự xưng vương là Triệu Việt Vương. Vương lại về thành Long Biên ở. Trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, dốc lòng hưng bình để yên Trung Quốc. Cảnh tượng thái bình ở đời rạng rỡ. Bèn xa giá đi chu du khắp thiên hạ. Núi Nhân dạo bộ, biết sông hỏi bến. Núi sông tụ Thần Phù, Yên Tử, Cao Đê, mặt trời hồng, mây trắng, trăng gió cuốn Hoa Quật, Long Biên. Trên dưới núi xanh nước biếc. Phàm đến nơi nào thấy sơn thủy hữu tình đều lập hành cung, cho miễn binh dao để ngày sau làm nơi hộ nhi (Thần tích Nhuế Dương).

Đoạn này nói đến quá trình cai quản đất nước của vua Triệu. Thiên hạ thái bình cũng nhờ có móng rồng vậy, tức là có được sự giúp đỡ của dòng Rồng Lạc xuống biển. Vua Triệu đi khắp nơi, xây dựng nhiều hành cung, nay là các di tích để lại ở nước ta. Số di tích thờ Triệu Việt Vương còn lại cho đến ngày nay được thống kê lên tới hơn 100 nơi trải từ Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hà Nội, Bắc Ninh tới tận Thanh Hóa, Vĩnh Phúc.

Sau đó chính sử thường kể là chuyện Lý Phật Tử, dòng dõi Lý Nam Đế, cùng con trai là Nhã Lang đem quân đến đánh vua Triệu. Triệu Việt Vương nghĩ đến tình xưa với Lý Nam Đế (Triệu Võ Đế) nên đã chia đất nước làm hai, cùng trị với Lý Phật Tử. Nơi cắt giới được gọi là bãi Quân Thần.

Tuy nhiên, Thần tích Bùi Xá lại kể bãi Quân Thần lại là do Lý Phật Tử chia nước với Nhã Lang: Phật Tử lên ngôi tự lập là Hậu Lý Nam Đế. Nam Đế nghĩ đến chữ nghĩa cha con, quân thần bèn cắt giới từ Thượng Cát, huyện Từ Liêm về phía Tây cho Nhã Lang ở. Từ Thượng Cát về phía Đông Nam Việt ở, gọi là Quân Thần.

Với cách kể như vậy thì Nhã Lang là dòng dõi của Triệu Quang Phục mới đúng. Họ Lý là Quân (Đế), họ Triệu làm Thần (Vương) (Thần tích Bùi Xá). Hậu Lý Nam Đế chiếm được thiên hạ mà xưng đế. Hậu duệ của họ Triệu là Nhã Lang lùi về phía Tây Bắc Việt, chiếm giữ xưng vương. Bãi Quân Thần ở Thượng Cát (Từ Liêm) là ranh giới chia đôi vùng Bắc Việt thành 2 phần. Phần Đông do Hậu Lý Đế nắm giữ. Phần Tây do Nam Triệu Vương nắm giữ. Nam Triệu sau này gọi thành Nam Chiếu, là con cháu Triệu Vũ Đế như Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái, hay Tập sử ký Xuân Lan kể.

Khu vực vùng đầm lầy tả ngạn sông Hồng là nơi khởi đầu cuộc khởi nghĩa của Triệu Việt Vương. Triệu Quang Phục dòng dõi vua Hùng mẹ Tiên lên núi, trước là theo Triệu Vũ Đế Lý Bôn chiếm thành Long Biên, sau rút về đóng quân giữa đầm Dạ Trạch ở Nhuế Dương, rồi gặp các vị thủy thần cưỡi rồng tháo móng, chế thành vũ khí, tạo ra thuyền độc mộc, dẹp được giặc. Triệu Quang Phục xưng Vương, đi khắp nơi xây dựng đất nước. Con cháu họ Lý là Hậu Lý Nam Đế dẫn quân đến đánh. Triệu Việt Vương tử tiết ở cửa biển Đại Nha. Con cháu vua Triệu rút về phía Tây Bắc Việt, cắt giới Quân Thần ở Từ Liêm, xưng là Nam Triệu, sau là Nam Chiếu.

Thần tích về Triệu Việt Vương ở làng Nhuế Dương, tổng Phù Khê, huyện Khoái Châu, Hưng Yên

Ngọc phả chép về vua Việt ta là Triệu Việt Vương

Chi Càn, thứ nhất, bộ quốc tế

Xưa ngả Việt ta trời Nam mở vận, núi sông phân ngang theo sao Dực Chẩn. Nước Bắc ban đầu phong thẳng hướng phân theo sao Đẩu Ngưu. Từ triều Hùng Kinh Dương Vương thừa mệnh phân phong của vua cha là dòng dõi đế vương nước Việt ta, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng. Ngọc lụa xe sách, núi sông thống nhất, chính là tổ của ngả Việt ta vậy. Đến khi nhà Hùng được 18 đời mới giao lại vận nước cho Thục An Dương Vương. Dương Vương trị nước được 50 năm lại có người Chân Định nước Bắc họ Triệu tên Đà dẫn quân đến đánh nên nhà Thục mất. Triệu Đà được nước truyền 5 đời hơn trăm năm.

Từ đó ngả Việt ta thuộc về Hán, Ngô, Đường, Tống, Tấn, Tề, Lương. Đến thời Lương Võ Đế cho Tiêu Tư làm thái thú ngả Việt ta. Tư là người hình pháp khắc nghiệt, sai dịch nặng nề. Triệu dân tang thương, người người đồ thán. May sao trời có lòng, nước Nam có vua Nam ở. Ngả Việt ta tại Long Biên có người Thái Bình, họ Lý tên là ông Bôn, theo trời thuận người thừa thời thế mà khởi nghĩa. Nhưng đang khi đó chưa có nam nhi nào có tài thao lược. Ông Bôn tích trữ binh lương, thần phong chưa động.

Tin thay! có Thiếu Khang dẹp loạn tất có Thần Mi dẹp loạn cùng. Rồng lên ở trên đầm không có ý với mây mà mây tự nhiên bay đến. Đương khi ấy ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một nhà họ Triệu tên Túc. Tổ tiên nhà đó vốn họ Việt, giúp Triệu Võ Đế (tức Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Ba bốn đời đều làm quan lớn cho triều Triệu Vũ Đế.  Đến ông Túc cũng là bậc nho y có tiếng trên đời, lấy vợ là Trưng Thị Đàm. Gia thế tuy giàu mạnh nhưng vợ chồng đều là những người trung hậu, nửa điểm hại người đều không có ý, một hào tư lợi cũng không có lòng. Địa phương nơi đó đều nói là nhà tích thiện tất có nhiều điều may mắn.

Một tối trời quang đãng, thái bà nằm ở phòng hoa, mơ màng thiếp đi. Bỗng thấy một ông lão dắt lên trên trời, ôm được một con rồng vàng. Đến lúc trở về nhìn trời lại thấy sao Thái dương rơi vào người Thái bà. Bỗng nhiên tỉnh lại. Đem giấc mộng kể với ông Triệu. Ông nói:

  • Ta xem gia phả các đời của nhà ta có tổ tiên tìm được một nơi đất quý, trước là phát 4 đời công khanh, hơn ba trăm năm lại phát đế vương từ nơi đất đó. Nay nàng nằm mộng như vậy tất con rồng đó là điềm đế vương, lại rơi vào thân, tất sẽ sinh được người con đế vương.

Thế là Thái bà có mang. Từ khi mới mang thai cho đến lúc mãn nguyệt ở nơi Thái bà nằm thường trên mình có vầng ánh sáng đỏ chiếu rọi. Đến năm Giáp Dần ngày 10 tháng 3 thì sinh hạ được một người con trai. Đang lúc sinh khí lành bốc lên, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày, ông Triệu đặt tên là Quang Phục.

Quang Phục khi 15 tuổi đã có khí tiết lớn, thường than rằng:

  • Là con người trên phải như Hán Tổ, Đường Tông, dưới phải như Tống Dương, Đường Tiết mà lập công nêu danh, chiêu tập nhân dân, tạo nên đức lớn, để lưu danh thơm cho hậu thế. Chứ không thể để lại tiếng xấu trăm năm mà làm uổng phí kiếp sinh ra trong trời đất.

Đến tuổi 20 cha mẹ đều mất, ông bèn làm lễ chôn cất. Trong lúc chịu tang đã âm thầm nuôi chí lạ, trữ lương luyện binh, chiêu nạp chúng bạn, dốc lòng đãi sĩ, hết sức cầu hiền, tập hợp chúng nhân được hơn vạn người. Ông thường nói rằng:

  • Người Bắc Tiêu Tư xâm chiếm nước ta, nếu không đuổi được về Bắc thì chết vì hận vậy.

Sau nghe ông Lý Bôn khởi binh ở Long Biên, anh hùng thiên hạ phần nhiều đến quy phục, ông bèn dẫn chúng quân đến theo. Ông Bôn thấy người này có văn võ dồi dào, có tài an dân ngự chúng, bèn vui mừng nói:

  • Chúng ta đều là ngang sức ngang tài, chỉ tiếc là gặp nhau hơi muộn.

Bèn ngay hôm đó bái làm Tả tướng, cùng với người anh cùng họ là Lý Phật Tư truyền hịch đi các hào kiệt ở các chư phủ huyện, cùng các quan phụ đạo, đồng lòng mở nước, vì nghĩa dẹp hung tàn. Nếu sau này yên định được đất nước sẽ cùng hưởng điều tốt lành. Khi ấy người đến ứng mộ ở các chi quân mã cộng được 20 vạn người. Bèn chia thành các đạo tiến thẳng đến cùng với Tiêu Tư giao chiến một trận, thế mạnh như chẻ tre, oai lớn như đốt củi khô nỏ. Tiêu Tư thua to, chạy về nước Lương.

Ông Bôn lên ngôi, tự xưng là Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở Long Biên, quốc hiệu Vạn Xuân, mở tiệc mừng lớn, rồi phong cho các tướng sĩ các cấp. Bèn phong Lý Phật Tử là chủ bộ Sơn Tây, thực ấp ở Sơn Tây. Triệu Quang Phục là chủ bộ Sơn Nam, thực ấp là Sơn Nam.

Quang Phục vâng mệnh bái tạ, đi đến nhận việc ở Sơn Nam, ngắm xem đất đai có hình thắng hiểm trở để  lập cung doanh mà ở. Một hôm đi đến nơi đất đầu xã Nhuế Dương, xứ Nhất Dạ Trạch, huyện Đông An Khoái Lộ. Bốn bề đất Nhuế Dương, trước có sông lớn, ba mặt đầm nước, núi không cao mà đất bãi như gìn giữ. Nước có sâu mà nguồn giếng êm chảy. Trái phải xung quanh có rồng hổ ôm chầu, thật đúng là nơi đất hiểm yếu. Ngay hôm đó bèn truyền quân xây dựng cung doanh vài mươi gian. Chính cung dựa Càn hướng Tốn. Quang Phục ở đó. Ngày sau gọi phụ lão nhân dân Nhuế Dương đến, khuyến khích nông tang, nam học hành, nữ may dệt, thêm điều tiện lợi, trừ bớt điều hại. Nhân dân Nhuế Dương đều yêu mến, hân hoan.

Được vài năm Đế lại triệu hồi về cùng với họ Lý. Khi đó Quang Phục cùng với Đế Bắc đuổi Tiêu Tư, Nam dẹp Lâm Ấp, đặt nên cảnh thái bình như cuốn sách trâu trắng. Trời tự có số mệnh. Lý Đế ở ngôi được khoảng 10 năm, Lương Võ Đế lại sai Bá Tiên, Dương Sàn dẫn 20 vạn quân sang đánh để rửa mối hận trước đây. Khi ấy Lý Đế đóng quân ở hồ Điển Triệt. Quân Lương không dám tiến gần. Một hôm nước hồ dâng cao chảy vào giữa hồ. Bá Tiên đốc quân theo dòng nước mà tiến. Quân của Đế thua, Đế bèn ủy phó cho Tả tướng Triệu Quang Phục giữ nước, còn mình vào động Khuất Liêu, sau đó ít lâu bị bệnh lam chướng mà mất.

Quang Phục tự thấy Long Biên bốn mặt có giặc, bèn rút hết quân về nơi chốn cũ ở Nhuế Dương, trong đầm Nhất Dạ huyện Đông An mà ở, cùng với quân Lương cự chiến, qua một năm mà không phân thắng thua.

Một hôm Quang Phục lập đàn cầu đảo trời đất bách thần. Được một lúc thì thấy có một ông lão, râu tóc xanh tốt, cưỡi rồng từ trên trời hạ xuống, tháo móng rồng giao cho Quang Phục và dặn:

  • Quốc gia hưng vong là ở số trời. Nay ta cho khanh vật này dùng làm đâu mâu, đặt vào trong lẫy nỏ. Cứ hướng vào đâu là giặc tất phải cúi rạp dẹp ra.

Dặn xong, ông Phục bái hỏi họ tên. Người đó cười nói:

  • Ta chính là Chử Đồng Tử đây.

Rồi lại cưỡi rồng bay lên không mà đi. Quang Phục làm lễ bái tạ, rồi lệnh tạo lẫy nỏ đâu mâu, gọi là thần nỏ vuốt rồng. Một trận đánh đã chém được tướng Lương là Dương Sàn. Quân Lương thua to, chạy về nước Bắc. Quang Phục cho đó là điềm trời bèn lên ngôi, tự lập là Triệu Việt Vương.

Ở cung Nhuế Dương mở tiệc mừng lớn khao hưởng tướng sĩ. Cùng với nhân dân Nhuế Dương ăn uống, lại miễn cho Nhuế Dương binh dong, tô thuế để làm dân thang mộc. Lại cho tiền bạc để mua thêm ruộng vườn để ngày sau giữ hương lửa vậy. Sau Vương sai người cùng quận là Nhã Lang đang là Tạp bộ Đại phu giữ đầm Nhất Dạ, Đông An.

Vương lại về thành Long Biên ở. Trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, dốc lòng hưng bình để yên Trung Quốc. Cảnh tượng thái bình ở đời rạng rỡ. Bèn xa giá đi chu du khắp thiên hạ. Núi Nhân dạo bộ, biết sông hỏi bến. Núi sông tụ Thần Phù, Yên Tử, Cao Đê, mặt trời hồng, mây trắng, trăng gió cuốn Hoa Quật, Long Biên. Trên dưới núi xanh nước biếc. Phàm đến nơi nào thấy sơn thủy hữu tình đều lập hành cung, cho miễn binh dao để ngày sau làm nơi hộ nhi.

Một ngày nọ lại trở về Nhuế Dương thăm xem cung điện. Khi ấy người ở Nhuế Dương tranh nhau mang trâu rượu đón tiếp, làm lễ mừng lớn. Vương ở lại Nhuế Dương mấy chục ngày rồi lại trở về ở thành Long Biên.

Lại nói, khi ấy tướng cùng tộc với Tiền Lý Nam Đế là Lý Phật Tử thấy Triệu Quang Phục xưng vương, bèn vào động Dã Năng ở 15 năm. Đến khi ấy dẫn quân đến đánh Triệu Việt Vương. Mỗi khi ra trận, Việt Vương lại dùng nỏ thần. Quân Phật Tử đều sợ hãi mà chạy. Trong tướng sĩ của Phật Tử có người hiểu biết nói với Phật Tử rằng:

  • Thần xem Triệu Việt Vương tất nỏ thần có lẫy có thuật lạ. Nếu không lo việc này thì quân ta càng đánh càng thua. Chi bằng hãy treo giáp ngừng quân để dùng mưu mà lấy. Thần nghe nói con gái Triệu Việt Vương là Gạo nương cùng với con của minh công là Nhã Lang xấp xỉ cùng tuổi. Nay có kế này Ngài có thể sai sứ cầu hòa và câu hôn sự. Việt Vương mà đồng ý thì tất sẽ cho Nhã Lang vào Triệu ở rể, rồi tùy ý mà hành động, tất thiên hạ có thể dựng lại về nhà họ Lý vậy.

Phật Tử vui mừng bèn viết thư rồi chọn hậu lễ thỉnh hòa và cầu hôn. Triệu Vương nghĩ Phật Tử là dòng tộc Tiền Nam Đế, không nỡ tận tuyệt, bèn đồng ý. Phật Tử lại đưa sinh lễ xin cho Nhã Lang vào làm con tin. Từ đó Việt Vương chia nước làm hai mà cùng trị. Chỗ phân cắt giới là bãi Quân Thần ở Thượng Cát, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây. Từ Thượng Cát về phía Tây Phật Tử trị. Từ Thượng Cát về Nam Việt Vương trị. Vương sau lại yêu mến Nhã Lang, gọi là rể hiền, tin tưởng cho ra vào mà không nghi ngờ gì.

Một hôm Việt Vương nằm ở gác Đông, bỗng mơ màng như mộng, thấy Chử Công Đồng Tử tiến lại. Việt Vương trong mộng chay ra ngoài sân nghênh đón. Thấy Đồng Tử vén tay áo lên lấy ra một bức thư giao cho Việt Vương. Vương bèn mở ra xem, chỉ thấy trong có 6 chữ là:

  • Việc thời Thục An Dương Vương.

Vương định nghênh bái đón tiếp thì bỗng nhiên tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Vương tưởng trong mơ là thấy lại mộng cũ gặp ông Chử Đồng Tử, cho nên không để ý. Đến khi Vương ở ngôi được khoảng 23 năm. Con trai của Phật Tử là Nhã Lang ngầm dụ Gạo nương rằng:

  • Xưa kia hai cha của chúng ta từng là thù địch, nay lại kết giao Tấn Tần, theo đó mà tránh được nỗi khổ của chiến tranh. Ngày ấy  khi cha nàng cùng với cha ta giao chiến, cha nàng có phép thần gì mà có thể thường đẩy lùi được quân của cha ta vậy

Gạo nương bèn lấy nỏ thần vuốt rồng ra cho xem. Nhã Lang bèn tráo đổi lấy cắp đâu mâu vuốt rồng. Nhân đó nói với Gạo nương rằng:

  • Tuy tình vợ chồng không thể mất nhưng nghĩa cha con cũng không thể xa rời. Ta muốn về thăm thân, chưa biến ngày nào cùng nàng gặp lại.

Nàng nói:

  • Vạn nhất mà hai nước thất hỏa, khi đó chồng Bắc vợ Nam làm sao mà gặp lại?

Nhã Lang nói:

  • Nếu có như vậy nàng hãy giấu lông ngỗng trong người, chạy đến đâu thì rắc lông ngỗng ở đường. Ta nhận được dấu đó sẽ đến gặp lại.

Thế rồi Nhã Lang giấu vuốt rồng trở bề báo với Phật Tử. Phật Tử vui mừng, bèn cất quân đến đánh Việt Vương. Vương vẫn chơi cờ vây mà cười rằng:

  • Phật Tử không sợ nở thần của ta sao Không nghĩ đến nghĩa hôn nhân hay sao?

Phật Tử nói:

  • Phật há lại sợ thần hay sao?

Bèn dẫn quân bức đến. Việt Vương mang nỏ ra mới biết là đã mất vuốt rồng, thế cùng lực tận, không biết làm thế nào. Bèn đặt Gạo nương lên ngựa, sau cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha ở xã Lục Bộ, huyện Giao Tủy. Còn Phật Tử cứ theo lông ngỗng mà truy sát đến. Trước là cửa biển, sau là quân truy kích. Việt Vương đang lúc quẫn bách thì thấy Chử Công Đồng Tử cưỡi hạc bay đến trước Việt Vương hô to:

  • Vương không nhớ ta đã ứng trong mộng cho 6 chữ sao? Nữ tử sau ngựa chính là giặc đó.

Việt Vương tự biết, than rằng:

  • Hối không kịp rồi.

Bèn rút gươm chém Gạo nương. Vương tự mình nhảy xuống cửa biển Đại Nha mà mất (khi đó là ngày 12 tháng 8). Vương từ khi mất thường có nhiều linh ứng. Nơi mà Vương hóa xã Lục Bộ lập đền ở trên cửa biển để thờ phụng. Còn xã Nhuế Dương, huyện Đông An từ khi Vương mất nhân dân đều mang bệnh tật không yên, thường mơ thấy một người thân mặc áo xanh tay cầm cờ vàng nói rằng:

  • Ta là thiên sứ xuống báo cho dân các ngươi xây dựng cung miếu để thờ Triệu Việt Vương.

Người dân không biết như thế nào. Lại thấy Phật Tử lên ngôi tự lập là Hậu Lý Nam Đế. Con trai Nhã Lang đến nơi dân truyền rằng Việt Vương đã hóa. Dân phải lập miếu phụng thờ. Lại thấy Tạp bộ Đại phu ở xã Đại Lan bản huyện cũng tự đến tận nơi cung sở chính, lập làm đền miếu, vâng chép thần hiệu Triệu Việt để phụng thờ. Từ đó bệnh tật đều yên hết. Cảm tất thông, cầu tất ứng. Nên nhân dân phụng thờ nghiêm cẩn.

Lại nói khi Hậu Lý Nam Đế ở ngôi được 20 nằm thì hàng Tùy mà mất. Trải qua Mai Hắc Đế, Phùng Bố Cái, Khúc Tiên Chủ, Khúc Trung Chủ, Khúc Hậu Chủ, Dương Chính Công, Tiền Ngô Vương, Hậu Ngô Vương, Mười hai sứ quân cùng nhau tranh giành, cát cứ các nơi. Sinh dân do đó thật lầm than. Lại có người ở Hoa Lư động, châu Đại Hoàng họ Đinh tên Bộ Lĩnh khởi binh dẹp trừ 12 sứ quân. Khi dẫn quân đánh Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu Đinh Bộ Lĩnh tự đến xã Nhuế Dương  cầu ở nơi đền miếu Việt Vương. Việt Vương cũng có hiển ứng âm phù. Khi dẹp được 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tự lập là Đinh Tiên Hoàng đế, bèn truy phong Việt Vương Hoàng đế, ban cho mĩ tự sắc chỉ về Nhuế Dương, trùng tu miếu điện để thờ phụng. Xuân thu sai quan đến tế. Bốn mùa hương lửa cùng quốc gia hưởng yên. Thịnh sao!

Truy tôn Triệu Việt Vương Khai quốc Dực vận Quảng tế Thần võ Nguyên công Chí  Thánh Triệu Hoàng đế. Cho xã Nhuế Dương phụng thờ.

Lại nói, từ đó về sau trải đời Lý 8 nhánh, Trần 12 vua cùng với Hoàng gia ta khai sáng hồng đồ thường có hộ quốc cứu dân, cầu mưa cầu nắng, đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều đế vương gia phong mĩ tự để làm vạn năm hương lửa vô cùng. Tốt thay, đẹp thay!

Vâng khai sinh hóa các lễ cùng với các chữ húy hai chữ Quang Phục, màu áo vàng nhất thiết cấm khi làm lễ không được mặc.

Sinh thần ngày mồng 10 tháng 3 (lễ dùng trên mâm chay, dưới cỗ trâu, xôi, rượu, ca hát ba ngày).

Ngày hóa thần 12 tháng 8 (lễ dùng trên chay bàn bánh chè oản hương hoa. Dưới cỗ trâu xôi rượu, đấu vật ba ngày).

Ngày khánh hạ là mồng 10 tháng Giêng (lễ dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát một ngày).

Xuân thu hai kỳ lệ được ban cho tiền đồng 60 quan, sai quan đến tế, làm lễ tam sinh, ca hát một ngày.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất tháng đầu xuân ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các đại học, thần, Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ nhất tháng giữa thu nguyệt ngày tốt, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền tuân theo chính bản vâng sao.

Bát phẩm thư lại, thần, Hoàng Công Độ vâng chép.

Thần tích làng Bùi Xá, tổng Phù Khê, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên

Phả lục công thần thời Tiền Lý Nam Đế họ Triệu tên Phục, sau là Triệu Việt Đại Vương.

Xưa nước Việt ta mở cơ đồ Nam phục, phân giới theo sao Ngưu Đẩu. Triều Hùng mở vận, thánh tổ ứng đồ. Nước biếc một dòng, khởi vận thánh đế minh vương. Núi xanh vạn dặm, dựng nền cung điện thành đô. 18 đời truyền hơn hai ngàn năm thịnh trị. Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng. Ngọc lụa, núi sông vạn dặm thống nhất, chính là tổ của Bách Việt vậy. Truyền đến đời Duệ Vương không có người kế tự, bèn nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. Dương Vương có nước trị được 50 năm. Có người Chân Định họ Triệu tên Đà dẫn quân đến xâm chiếm. Nhà Thục mất. Triệu Đà chiếm được nước, cha truyền con nối 5 đời làm vua.

Từ đó nước Việt ta thuộc về Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương. Khi ấy nước Việt ta có ông Lý Bôn, có tài văn võ của bậc đế vương, có chí dẹp loạn khôi phục non sông, thừa vận theo trời thuận người mà khởi dưỡng chí lớn, chọn tìm tướng tài. Tin thay! đã có vua tất sẽ có bề tôi. Rồng lên ở đầm không có ý với mây mà mây tự đến.

Đương khi đó tại huyện Châu Diên phủ Tam Đới đạo Sơn Tây có một người xử thế theo kinh sách, lo liệu việc nhà bằng hiếu đễ. Người đó họ Triệu tên Túc, cùng với bà Lê Thị Minh kết duyên cầm sắt, xướng hợp uyên ương, ba sinh hương lửa, một mối phong quang êm đềm, dư giả vậy. Gia thế vốn giàu có. Vợ chồng cùng là những người trung hậu, giúp nghèo cứu yếu, tích đức làm việc nhân, nửa điểm hại người cũng không làm, một ý tham lợi nhỏ cũng không theo. Phàm là việc giúp người tạo phúc, đều cố hết sức lực để làm. Nhân dân địa phương ai ai cũng nói là gia đình tích thiện tất sẽ có nhiều may mắn.

Khi ấy vợ chồng ông đều đã ngoài 40 tuổi mà chưa thấy có sinh nở nên cùng nhau đến đền thiêng trên núi Tam Đảo để cầu đảo. Đêm đó ông nằm mơ thấy ánh sáng tràn đầy nhà, chốc lát có rồng vàng trườn tới. Ông bắt được một con rồng vàng. Đến khi tỉnh lại mới biết là một giấc mộng Hoàng Lương bên gối. Rạng ngày ông làm lễ bái tạ, trở về nhà.

Từ đó bà Lê Thị thấy trong người có mang. Mang thai được 12 tháng đến mùa hè năm Mậu Thìn ngày 1 tháng 5 giờ Thân thì sinh hạ một người con trai, thân hình đẹp đẽ chỉnh tề, khí chất khôi ngô kỳ lạ. Trong lúc sinh khí lành tụ thành hình, hương thơm bay ngào ngạt, cuốn bám đầy phòng. Sương mù rạng rỡ ở nơi nằm. Người cha rất vui mừng cho đó là trời ban cho, bèn đặt tên là Quang Phục.

Ngày qua tháng lại, đến khi trưởng thành thì tìm thầy đi học. Học được vài năm thì đã hiểu thấu văn chương, trí tuệ hơn người, tinh thông võ bị, tài năng cái thế, cùng với lục giáp, thần phù không gì là không tinh thông. Đang khi còn đi học, thầy dạy thường nói rằng:

–   Gia đình người này đúng là có được điều phúc lớn, sinh được một người con trai tốt như vậy. Ngày sau sẽ là người trải trời rải đất, bày lập thời đại kinh kỷ, là người quý của nước Nam vậy.

Đến năm Ngài 12 tuổi thì sách vở của trăm nhà không gì là không nắm được. Mỗi khi bàn luận cùng với bạn bè cùng trang lứa, bằng hữu đều sợ phục. Ngài thường than rằng:

–   Làm người phải như các bậc thánh hiền thời cổ, sáng lập công danh, không thì cũng là chốn sa trường da ngựa bọc thây, mới đúng là bậc đại trượng phu. Đâu thể chỉ yên phận với việc nghiên bút được.

Từ đó không quan tâm đến sản nghiệp mà nuôi chí lớn. Thường hận là nước Nam phải phụ thuộc vào người ngoài, không tự quản thủ (khi ấy Lương sai Tiêu Tư là thái thú ở Việt ta). Bèn ngày đêm tích trữ binh lương, âm thầm nuôi chí lạ, chỉ còn tìm thánh quân đợi thời mà phát động. Một hôm ngài Quang Phục nghe có ông Lý Bôn ở đất Quảng Đông Long Biên, có chí lớn lao, anh hùng trí dũng, có khí tượng lớn của bậc đế vương, chiêu tập binh mã khôi phục đất đai. Ngài bèn chọn ngày dẫn quân tìm đến bái yết. Ông Lý thấy người này văn võ toàn tài, bèn nói:

– Ta cùng ngươi khó phân tài cao thấp, nhưng có được tướng tài không khi nào là muộn cả.

Ngày hôm đó bèn bái Quang Phục là Đại tướng quân, chọn ngày lập đàn cầu đảo trời đất, bách thần, đãi hưởng quân sĩ, rồi chia quân thành các đạo cùng tiến thẳng đến quân Lương. Đánh một trận lớn. Quân Lương thua to. Tiêu Tư chạy về nước Lương. Ông Lý lên ngôi, tự lập là Tiền Lý Nam Đế. Phong Triệu Quang Phục làm Đại tướng quân. Quân thần hợp đức, thiên hạ thái bình. Vạn dân no đủ vui ca. Bốn biển thấy cảnh tượng thái hòa. Nhà Lý làm Đế, họ Triệu làm bề tôi.

Được quãng 8-9 năm, nhà Lương lại cử Tiêu Tư làm tiên phong, Bá Tiên làm Đại tướng, dẫn quân 20 vạn đến đánh để rửa mối hận trước đây. Nam Đế bèn cùng với Quang Phục cự chiến, mấy trận không phân thắng thua. Nam Đế bèn cho Quang Phục dẫn một đại quân trở về giữ huyện Đông An, phủ Khoái Châu. Còn Nam Đế giữ vùng Dã Năng. Quân Lương lại tiến đánh. Nam Đế lại chạy về động Khuất Liêu, bị phát bệnh lam chướng mà mất.

Còn Quang Phục ở huyện Đông An, thấy trong huyện có đầm Nhất Dạ tại đất xã Vĩnh Hưng (tức xã An Vĩnh). Đầm này chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ lác mọc rậm rạp. Bốn bề bùn lầy sình trũng. Bên trong có một chỗ nhỏ có thể ở. Quang Phục bèn lập đồn lớn ở trong đầm.

Ngài lại đi khắp nơi trong huyện (tức huyện Đông An) tìm nơi đất nào có hình thế tiện lợi để lập cung mà ở. Một hôm đi đến xã Bùi Xá tổng Đại Quan, thấy hình rồng rắn bao bọc, núi sông quanh co, bèn lập một ở nơi đó để năm tháng có thể nhàn du thưởng ngoạn.

Việc xong lại đóng đồn quân ở đầm Dạ Trạch, thường cùng tướng Lương là Trần Bá Tiên cự chiến vài chục trận. Quân Lương đều thua. Thường khi dẫn quân đánh quân Lương thì thấy có một lão ông, râu tóc dài khỏe, thân thể kỳ dị, cao hơn 9 thước, cầm một cái dùi sắt, theo khói sương trong đầm mà lên, tiếng như chuông lớn, hình như sắt trắng, đánh quân Lương thua to.

Sự việc xong ông lão lại cùng với Quang Phục đi dạo, nói cười vui vẻ như anh em cùng một bọc đến chơi vậy. Phàm khi Quang Phục có việc bị quân Lương tập kích thì đều đến báo trước thời gian. Nếu Quang Phục gạn hỏi họ tên, duyên cớ thì đều không báo sự thực. Một hôm Quang Phục đi đến cung sở ở xã Bùi Xá. Nhân dân đang làm lễ đón mừng thì bỗng thấy lão ông từ bên ngoài đi đến. Quang Phục bèn mời vào trong ngồi. Lão ông nói rằng:

–   Tôi vốn là thanh khí chốn bèo nước, là dòng dõi một bầu trăm trứng họ Hùng trước đây, cũng là phúc thần của Bùi Xá (xem tích Lạc Long Quân lấy tiên nữ Âu Cơ, sinh hạ một bầu trăm trứng, nở ra điềm trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt đời. Đến khi trưởng thành Vua bèn phong hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ. 50 người con theo cha về biển làm thủy thần. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần). Tôi là Đông Hải Đại vương, là người con thứ 10 trong số 50 người con về biển, họ Hùng tên Chiểu, ở giữ biển Đông nên gọi là Đông Hải Đại vương. Sau lại kiểm giữ đầm Nhất Dạ ở Sơn Nam, làm thần ở Bùi Xá trong đầm Dạ Trạch. Sau này cùng ngài được cùng hưởng trong dân nên mới đến báo tin. Nay là lúc nghiệp làm vương tất sẽ thành. Ngài nên chọn ngày trai giới cầu đảo với Trời. Tất Hoàng thiên sẽ cho Quý Minh Đại vương là Hữu kiên thần của Tản Viên Sơn Thánh, cưỡi rồng đến để cho ngài móng rồng làm đồ quý thiên ban, tất nghiệp vương có thể thành. Còn quân Lương không thể vây được. Nếu được như vậy thì cùng phụng thờ vị Quý Minh Đương Lai, có việc lành dữ như thế nào thì tôi cùng với Quý Minh tất báo cho, lại càng tăng thêm điều tốt. Từ nay, tôi có việc trên thiên đình, không thể cùng nhau gặp mặt như ngày trước.

Nói xong, ông lão bay lên không mà đi. Ngài Quang mới biết đó là thủy thần cùng mình đi dạo, nay đến giảng dạy cho. Bèn gọi nhân dân Bùi Xá đến hỏi. Dân đều nói trước đây quả có phụng thờ Đông Hải Đại vương. Nguyên là vì dân nghèo không thể sửa chữa được đền miếu nên trải qua thời gian đã bị hỏng nặng. Ông Phục nghe lời bèn khấn rằng:

–   Nếu quả đúng như lời, thần xin sửa chữa đền miếu để cùng phụng thờ.

Bèn chọn ngày trai giới, lập đàn dâng lễ cáo tế trời đất, cầu đảo bách thần. Ba ngày đèn hương không dứt. Bỗng thấy trời đất mù mịt, mây gió nổi lên. Có một vị thần tướng cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, đứng trên đàn. Ông Phục đại bái ở trước. Thần tướng mới nói rằng:

– Ta là Quý Minh Đương Lai (Xét xưa cha của ông Quý họ Nguyễn, mẹ họ Tạ, nằm mộng thấy hai con hổ nhập vào, có thai mà sinh một bọc hai con trai. Người anh tên Sùng công, là Cao Sơn Đại vương. Người em tên Hiển công, là Quý Minh Đại vương. Tản Viên Sơn cùng là ba người anh em, là con chú con bác. Sau gọi là Tả hữu lưỡng kiên thần), cho khanh một vật để làm nỏ thần báu vật trời ban. Cho dù có giặc mạnh cũng không phải lo lắng vậy.

Bèn tháo móng rồng mà trao cho ông Phục. Ông làm lễ bái tạ. Quý Minh cưỡi rồng biến mất. Ông Quang Phục rất mừng, bèn lệnh cho chế tạo nỏ thần vuốt rồng, tự lập là Triệu Việt Đại vương, hướng nỏ vào đâu thì quân Lương đều tự khắc dạt ra, không dám đến gần.

Do cảm đức lớn của đức Đông Hải, Quý Minh và từ lời không thể đổi của đức Đông Hải nên Ngài cho trùng tu miếu điện ở xã Bùi Xá, viết thần hiệu hai vị Đông Hải, Quý Minh để phụng thờ (thời cổ người còn thuần phác, theo sự việc thật mà đến, nên có chữ Đương Lai, có lẽ là theo nghĩa thứ hai là đến), để sau này khi ngài trăm tuổi làm nơi hương lửa hưởng thần. Cho phép Bùi Xá dùng tô thuế, phục dịch, mua thêm ruộng công để làm dân thang mộc, cùng phụng thờ hai vị Đông Hải, Quý Minh. Bốn mùa tám tiết hương lửa theo như nghi thức. Người đời sau có thơ rằng:

Sơn thuỷ tòng lai tương biệt thú

Như hà sơn thuỷ đắc đồng nguyên

Giả lệnh tại đương thì giả

Cảm vấn chư công đắc minh.

Dịch nghĩa:

Sông núi theo đi mà chia biệt

Tại sao sông núi lại cùng nguồn?

Nếu là thủ lĩnh đương thời đó

Dám hỏi các ngài rõ không?

Vua từ đó lấy làm đắc chí, mới đi chu du thiên hạ, xem sông hỏi bến, tản bộ núi rừng. Lúc thì thổi sáo đánh đàn, thơ sách đối với trời đất, phượng hát loan ca, thanh sắc Bồng Lai, chủ trương ba lá vượt bồng, năm hồ trăng gió, dấu tiên tại đình thuyền câu, hai gương cảnh tượng xe mây nếp cũ. Nước xanh, núi đẹp đều tụ lại với đất trời. Thánh ở Tây, thần ở Bắc, ra vào chốn phong cảnh trời Nam. Theo dấu tiên ông mà đi khắp quê nhà nước cũ. Núi sông Thần Phù, Yên Tử, Cao Đê, mặt trời hồng, đám mây trắng, gió trăng cuốn Hoa Quật, Long Biên. Trên dưới non xanh nước biếc. Ở ngôi được khoảng 10 năm, thiên hạ thái bình, xem thấy lũ cướp đều lánh xa, bọn giặc đều yên. Không người nào không thỏa lòng sinh. Không vật nào không yên mà không dưỡng. Công thành, trị định. Việc cơ yếu thành hòa hợp, hưng khởi mà trị. Cũng đều do có nỏ rồng trời ban xếp đặt vậy.

Vua từ khi có được báu vật của trời đâm ra thêm kiêu ngạo, lại đam mê yến tiệc, không lo việc quốc chính. Thiên tai báo nguy cũng là điềm báo trước. Thiên mệnh đến mức trọng thì không thể dùng trí lực mà tranh giành được. Người em của Tiền Lý Nam Đế là Lý Phật Tử với con trai tên Nhã Lang có tấm lòng đế vương, kiêm tài văn võ, tích trữ quân lương để khôi phục họ Lý, trí mưu đều lớn, dũng lược hơn người, dẫn quân đến đánh Triệu Việt Vương, mấy trận đều bị thua.

Nhã Lang trong lòng biết vua Triệu có báu vật trời ban, tuy có trí dũng cũng không thể vây được, bèn nói với cha rằng:

–  Thần xem nước Triệu tất có cơ thần, thuật lạ. Nay nếu hết sức mà công đánh tất sẽ hao tướng mất quân, cũng không thể thành công được. Chi bằng hãy dùng mưu mà lấy. Thần sẽ cầu hôn với con gai vua Triệu là Quả Nương, rồi thần vào ở rể làm con tin, tất sẽ biết được thực hư vậy.

Phật Tử đồng ý, bèn mang lễ cống đến giảng hòa với vua Triệu, nói:

–  Xưa Vương cũng là danh thần của Nam Đế ta. Nay Vương có con gái Quả Nương cùng với Nhã Lang đồng tuổi. Dám xin cầu để kết nghĩa Tấn Tần, mà tăng thêm tình thân vậy.

Triệu Vương đồng ý. Khi ấy có các đình thần ra sức can gián, nhưng cuối cùng Vương không nghe, nói:

–  Ta có nghĩa với Tiền Lý Đế, lại có thần nỏ vuốt rồng, ai làm gì được?

Một hôm Vương nằm ở Bùi Xá miếu sở phụng thờ hai vị Đông Hải, Quý Minh, bỗng mơ thấy hai vị đến ban cho Vương một bài thơ. Vương trong mộng mở ra xem, thấy trong có 4 câu thơ:

Nhị thập niên gian tắc du vương

Thiên hạ dĩ định khả tri tường

Nam bang hồi Lý gia Phật tử

Long trảo hoàn quy tại Nhã Lang.

Dịch nghĩa:

Hai mươi năm đó đã xưng Vương

Thiên hạ định rồi, biết rõ ràng

Nước Nam về tay Lý Phật Tử

Móng rồng quay trả ở Nhã Lang.

Khi ấy Vua ở ngôi đã được 20 năm. Một hôm Nhã Lang tráo đổi, lấy trộm vuốt rồng, rồi quay về báo với Phật Tử. Phật Tử bèn dẫn quân đến đánh. Triệu Vương thua chạy. Phật Tử lên ngôi tự lập là Hậu Lý Nam Đế. Nam Đế nghĩ đến chữ nghĩa cha con, quân thần bèn cắt giới từ Thượng Cát, huyện Từ Liêm về phía Tây cho Nhã Lang ở. Từ Thượng Cát về phía Đông Nam Việt ở, gọi là Quân Thần.

Sau khi Vương mất ở nơi yên nghỉ cuối cùng thì nhân dân xã Bùi Xá cảm ơn đức bèn viết thần hiệu mà lập miếu thờ phụng, giữ được hương lửa vạn đại vô cùng. Từ đó về sau trải Đinh, Lê, Lý, Trần bốn họ khai sáng cơ đồ, thường có việc hộ quốc bảo dân nên có nhiều đế vương gia phong mỹ tự để muôn năm cùng an hưởng với nước nhà. Tốt thay!

Xã Bùi Xá phụng thờ.

Tiệc lớn cùng với các chữ húy Đông, Hải, Quý, Minh, Quang, Phục cùng màu đỏ và tía là húy kỵ.

Chính lệ sự thần ngày 1 tháng 5.

Ngày 2 tháng 2 là tiệc lớn mở sắc.

Năm Hồng Phúc thứ nhất ngày tốt tháng giữa xuân, niên hiệu vua Lê Anh Tôn.

Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ nhất ngày tốt đầu xuân niên hiệu vua Lê Ý Tông.

Chánh hội Hoàng Văn Tiệp, Thư ký Lê Văn Chấn, Lý Trưởng Lê Văn Trong ký.

Sử thuyết Hùng Việt, chặng đường hơn 16 năm

Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới.

Văn nhân Nguyễn Quang Nhật.

Năm 2007 tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật, lần đầu tiên hoàn thành bộ Sử thuyết họ Hùng trên blog của mình. Sử thuyết họ Hùng hình thành theo tư tưởng của cố Giáo sư Lương Kim Định về đóng góp của người Việt đối với nền văn hóa lịch sử phương Đông, nhưng Sử thuyết họ Hùng đã tiến một bước dài hơn, nhận định sâu sắc và đột phá hơn. Đặc biệt Sử thuyết họ Hùng đã đặt ra vấn đề về “vụ án” tráo sử tầm cỡ thế giới giữa Hán sử và cổ sử Việt.

Bộ Sử thuyết họ Hùng đưa ra một cách nhìn hoàn toàn khác về quá khứ của người Việt, từ thời hồng hoang cho tới thời Lý thế kỷ 11. Hơn 4000 năm lịch sử của người Việt bị đánh tráo đã dần lộ ra. Lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt sao có thể dùng vải thưa che khuất được.

Cùng với Sử thuyết họ Hùng là tác phẩm Dịch học họ Hùng của cùng tác giả Nguyễn Quang Nhật. Dịch học là nền tảng văn hóa xã hội của trời Đông, là ánh sáng soi đường cho người Việt đi lên trong quá khứ, và nay lại là chìa khóa mở ra những cánh cửa tìm về nguồn cội. Một sử quan bất ngờ và đột phá, một phương pháp nghiên cứu sử độc đáo, sâu sắc, đó là điểm bắt đầu của Sử thuyết Hùng Việt.

Thế nhưng, Sử thuyết họ Hùng ban đầu được công chúng tiếp nhận với một sự ngờ vực đáng kể, có thể do nó quá đột phá, nhưng cũng có thể do nó còn đang cần thêm nhiều chứng thực hơn nữa. Mặt khác, những năm đó là thời kỳ nở rộ của “bách gia chư tử” đối với vấn đề nguồn gốc người Việt. Những trường phái cổ sử khác nhau đã hình thành với không ít những người theo đuổi. Do đó, số người hiểu được Sử thuyết họ Hùng khi đó rất ít. Số người từ hiểu và có thể đi đến hành động lại càng ít hơn. Một trong số những người đó là Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu.

Được sự gợi ý của Sử thuyết họ Hùng, với điều kiện tiếp xúc thực tế ở Việt Nam, tác giả Bách Việt trùng cửu đã thử tìm những minh chứng cho Sử thuyết qua nguồn tư liệu lịch sử ít ai dám dùng. Đó là các hoành phi, câu đối, các truyền thuyết, các thần tích, lễ hội vốn rất đặc sắc, phong phú ở Việt Nam. Những phát hiện bất ngờ nhưng lại chính xác đã được chiêm nghiệm ra. Mỗi cánh cửa hé mở thì sự thật lại càng sáng tỏ hơn.

Những suy nghĩ, khám phá của mình đã được tác giả Bách Việt trùng cửu chia sẻ từng bài trên blog cá nhân. Tới năm 2015, những bài viết tản mạn đã được tập hợp trong 18 chương sách “Bước ra từ huyền thoại, lịch sử nước Nam qua truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian”. Lịch sử của quốc gia, của dân tộc không thuộc về riêng ai. Các sử gia chép sử, các nhà văn hóa mô tả sử,…

Đồng thời, Bách Việt trùng cửu cũng đã biên tập lại các bài viết trên blog của tác giả Văn Nhân thành 2 tập sách là Sử thuyết Hùng Việt và Dịch học Hùng Việt. Cùng với đó là cuốn Văn minh Hùng Việt, gồm những bài viết của cả 2 tác giả về những vấn đề văn hóa, dân tộc, hiện vật khảo cổ, thư tịch từ góc nhìn của Sử thuyết Hùng Việt. Bộ 4 cuốn sách trên đã trở thành “kinh điển” của Sử thuyết Hùng Việt, cho dù không hề có cuốn nào trong số đó được xuất bản một cách chính thức.

Số bản in “Tứ kinh Hùng Việt” cho tới giờ ước đạt 2000 bộ, đã chuyển đến tay bạn đọc gần xa. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, những hình thức truyền thông khác đã được áp dụng. Năm 2016 trang Hùng Việt sử quán được lập dưới dạng một trang trên Facebook. Trang Hùng Việt sử quán cũng như 2 blog của 2 tác giả Văn nhân và Bách Việt trùng cửu hoạt động theo nguyên tắc không vụ danh, không vụ lợi, sẵn sàng tranh luận khoa học nhưng tôn trọng các ý kiến góp ý, tôn trọng bạn đọc. Trên con đường tìm về nguồn cội, mọi manh mối, dấu vết đều là đáng quý.

Nhờ những hoạt động nghiên cứu và chia sẻ tích cực này mà trang đã nhận được sự ủng hộ của khá đông đảo bạn đọc. Sau hơn 1 năm, lượng người theo dõi trang đã đạt hơn 1 vạn, nhưng con số này hầu như duy trì cho tới nay. Nó cho thấy sự kén chọn bạn đọc đối với nội dung của Sử thuyết Hùng Việt.

Một cây làm chẳng nên non… Sử Việt bao la, sức một người chỉ như giọt nước trong biển lớn. Năm 2017 Nhóm Đền miếu Việt được thành lập trên nền tảng Facebook để làm nơi chia sẻ giữa nhiều người cùng mối quan tâm đến tổ tiên, đến quá khứ, đến tín ngưỡng của người Việt. Đồng sáng lập nhóm đã có thêm tác giả thứ ba là Nguyễn Đức Tố Huân. Trên cơ sở điền dã di tích thực tế ở khắp các vùng miền đất nước, nhóm Đền miếu Việt trở thành một nơi chia sẻ tư liệu hình ảnh và kiến thức rất phong phú về các đình đền miếu mạo, lý giải các sự tích, tín ngưỡng thờ cúng của người Việt.

Sử thuyết Hùng Việt lúc này đã đi vào văn hóa, được kiểm chứng qua các di tích, và cùng đồng thời được làm sâu sắc hơn, chi tiết hơn. Từng mảnh ghép của bức tranh lịch sử dân tộc dần dần được xếp đặt vào đúng chỗ. Quá khứ người đã ngày càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.

Hoạt động của nhóm Đền miếu Việt đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi của nhiều người. Tới nay nhóm đã có trên 17 ngàn thành viên. Những vấn đề, những mối quan tâm khác nhau cùng được chia sẻ, trao đổi qua nhóm. Đó là tiền đề cho những cuốn sách được xuất bản một cách chính thức.

Cuốn sách đầu tiên của Nhóm Đền miếu Việt là cuốn “Châu trưởng Đặng Thiện Quang và di tích đình làng Lý Đỏ” do nhà xuất bản Dân trí xuất bản năm 2019. Tuy là một cuốn sách nhỏ, về 1 di tích cụ thể nhưng đây là lần đầu tiên luận điểm nhìn nhận cơ bản của Sử thuyết Hùng Việt về một giai đoạn lịch sử cụ thể được xuất bản một cách chính thức.

Những thành viên nòng cốt của nhóm Đền miếu Việt lúc này đã mở rộng, đặc biệt có sự tham gia của sư thầy Thích Tâm Hiệp, một người tu hành chính thức. Qua kinh nghiệm xuất bản đầu tiên, nhóm đã quyết định “đi lại từ đầu”, bắt đầu từ những vị vua Hùng đầu tiên của thời dựng nước.

Với niềm kính ngưỡng tiên tổ, biết ơn công đức của tiền nhân, cuốn “Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo” của 3 tác giả Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân đã ra đời năm 2020. Lần xuất bản đầu được nhà sách Đông Tây ủng hộ phát hành, với số lượng khá khiêm tốn là 500 bản. Tuy nhiên, cuốn sách đã nhanh chóng được tái bản thêm 500 bản nữa, rồi lại được tái biên phát hành vào năm 2022 với số bản in lên tới 5000 bản. Lần in này có lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Thọ Lạc, Ban văn hóa trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

“Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo” là một công trình khảo cứu giá trị và độc đáo vì bên cạnh việc giới thiệu các tư liệu ngọc phả gốc về Hùng Vương, cuốn sách còn đưa ra phân kỳ toàn bộ thời đại Hùng Vương với 18 triều đại, liên kết với những di tích đền miếu còn tới nay. Sử thuyết Hùng Việt đã được giới thiệu trong cuốn sách này một cách tương đối tổng quát, có cơ sở và được xuất bản chính thức.

Cùng với việc xuất bản, nhóm Nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt đã tổ chức và tham gia một loạt các hoạt động truyền thông về cuốn sách. Đó là buổi ra mắt sách tại nhà sách Đông Tây. Là cuộc nói chuyện với hàng trăm độc giả ở Quảng Trị. Hay chia sẻ với Hội đồng Lưu tộc trong cuộc hội ngộ ở Việt Trì…

Nối tiếp thành công bất ngờ của cuốn “Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả sưu khảo”, Nhóm đã biên soạn và xuất bản cuốn khảo cứu thứ hai là “Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn”. Cuốn sách đề cập đến nhân vật nổi tiếng trong cổ sử Việt là Kinh Dương Vương, với đầy đủ những sự tích, di tích và nhận diện thời kỳ đẻ đất đẻ nước này.

Việc xuất bản chính thức các nội dung cụ thể vận dụng Sử thuyết Hùng Việt không chỉ hướng tới đông đảo bạn đọc hơn, mà còn thu hút được sự chú ý của các cơ quan báo chí. Nhóm Đền miếu Việt đã góp hàng chục bài báo có chất lượng về văn hóa và lịch sử cho báo in là báo Lao động cuối tuần và báo số là Tạp chí Công dân & Khuyến học.

Song song với các sách in, Hùng Việt sử quán còn biên soạn lại các nội dung thành từng tập sách nhỏ và cho công bố ở dạng ebook, phát hành miễn phí cho bạn đọc. Đó là các cuốn ebook Hùng Vương truyền sử diễn nghĩaViệt điện tứ linh và gần đây nhất là cuốn Lịch sử Hùng Vương tân biên và vịnh sử. Hình thức ebook giúp việc phát hành và truyền tải nội dung đến bạn đọc được nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Đã qua hơn 16 năm kể từ khi Sử thuyết Hùng Việt ra đời, những gì làm được tới nay đã đủ chứng tỏ sức sống và tính đúng đắn, khoa học của Sử thuyết. Sử thuyết Hùng Việt không còn là những biên khảo lịch sử trên giấy nữa, mà đã đi giải quyết nhiều vấn đề thực tế về văn hóa, khảo cổ, dân tộc học… bởi Sử thuyết vốn sinh ra từ thực tế, vì cái chân thực của lịch sử, của quá khứ tổ tiên người Việt.

Trước mắt còn rất nhiều việc phải làm bởi sử Việt mênh mông, lớp bụi mờ còn dày đặc. Kết quả đạt được tuy có nhưng chưa phải là lúc thành toàn. Sự trợ giúp, ủng hộ, tham gia chung tay góp sức của bất kỳ ai đều là đáng quý, đáng trân trọng. Cái đáng quý nhất là mỗi người Việt sẽ có được nhận thức đúng về quá khứ vẻ vang của tổ tiên mình mà tự tin hướng tới tương lai.

Hồn sông núi nước Nam còn mãi
Để hôm nay ta lại là ta
Xé mây trời sáng bao la
Anh linh tiên tổ, Hùng ca đời đời.

Rằm tháng 6 năm Quý Mão 2023
Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách ebook LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG Tân biên & Vịnh sử

Lời nói đầu

Lịch sử các vua Hùng dựng nước luôn là câu hỏi nhức nhối đối với bất kỳ người Việt nào muốn tìm về nguồn cội của mình. Hàng ngàn năm lịch sử với 18 triều đại Hùng Vương đâu phải là một chớp mắt. Vậy thời đại Hùng Vương thực sự đã diễn ra như thế nào? Chắc chắn, trên bước đường chập chững lúc mới nên hình nước non đã xảy ra bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thách thức. Những bước tiến nào mà xã hội người Việt đã trải qua trong suốt hàng ngàn năm đó? Cha ông người Việt đã làm gì để đã vượt qua những thách thức đó?

Cuốn sách tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương thành một mạch xuyên suốt từ khi mở trời mở đất cho đến vị vua Hùng cuối cùng qua những sự kiện, những mốc phát triển chính. Cuốn sách không tham vọng khảo chứng lịch sử, mà là chia sẻ sự nhìn nhận có được qua việc tìm hiểu quá khứ từ những dữ kiện và góc nhìn khác nhau. Đó là việc đối chiếu các nguồn tư liệu thành văn của Hoa sử và Việt sử. Là những thông tin chắt lọc từ những sự tích thờ cúng, lễ hội cho những anh hùng, những nhân vật trong suốt chiều dài sử Việt. Là sự suy ngẫm trước những hiện vật khảo cổ biết nói đã được phát hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực trời Đông. Là góc nhìn địa văn hóa, sử văn hóa từ những dấu vết ngôn ngữ, triết học cổ.

Trên bìa những cuốn lịch sử Hùng Vương xưa (ngọc phả Hùng Vương) được soạn bởi các bậc hàn lâm học sĩ đương thời có đề đôi câu đối:

Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục mệnh thi.

Tức là:

Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử
Thấy rành như vẽ mới làm thơ.

Xem kỹ những gì đã biết về các vua Hùng, thấy sự việc rõ rành thì tất có cái hứng để làm thơ, để ca ngợi công đức tiền nhân, để cảm sự nỗ lực của người Việt dựng nên nền tảng văn hóa xã hội ngàn đời cho con cháu. Sau phần biên diễn lịch sử là những bài thơ vịnh sử xuất phát từ những cảm hứng này.

18 vương triều Hùng bất diệt. 3000 năm xã hội Việt phát triển qua 4 giai đoạn từ thấp đến cao. Không gian lịch sử bao trùm khắp trời Đông. Những vị anh hùng đã hóa thần trong sử Việt. Đó là những gì cuốn sách muốn gửi gắm đến các bạn đọc ngày hôm nay.

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Sách phát hành online bởi Hùng Việt sử quán.

Bất kỳ sự sao chép, in ấn nào từ tác phẩm với mục đích thương mại đều phải được phép của tác giả.

Link tải sách:

https://drive.google.com/file/d/1OmKTZHLxNdEhZaEcLS7Rfqu1pop4tpAx/view?usp=sharing

Mã QR

Liên hệ để nhận mật khẩu theo:

    Facebook: https://www.facebook.com/hungvietsuquan

    Email: bachviet18@yahoo.com, 

    Phone, Zalo: 0559551003.

Mục lục

Lời nói đầu 

LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG
    Thời thần thoại
    Tam Sơn Hùng Vương Thánh Tổ
    Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương
    Động Đình Lạc Long Quân
    Chử Đạo Tổ
    Long Khuyển Bàn Hồ
    Âu Cơ và Sùng Lãm
    Trị bình kiến phu
    Đông Chu phong vũ
    An Dương Vương
    Tần Việt nhân duyên
    Vạn Xuân Triệu Vũ Đế
    Triệu Việt Vương
    Hậu Lý Nam Đế
    Trưng Lữ Vương
    Vương Mãn
MẤY BÀI THƠ SỬ
    Thấy rành như vẽ mới làm thơ
    Ngày giỗ Tổ
    Sơn Tinh
    Tản Viên
    Sơn Tinh – Hạ Vũ
    Bốn ngàn năm
    Nhớ Hằng Nga
    Hiếu với trời đất
    An Dương Vương
    Phù Đổng Thiên Vương
    Phong thần
    Nước Việt Thường
    Lão Tử Cổ Loa
    Cổ Loa thành
    Ai oán Mỵ Châu
    Lý Bôn
    Chuyện Nam Việt
    Từ Nam Việt đến Đại Việt
    Trưng Triệu
    Đất nước tôi

Lưu hầu Trương Lương ở… chùa Hà

Khu vực chùa Hà ở Dịch Vọng (Hà Nội) thờ vị Đại Vương là Triệu Chí Thành, Đô thống Nguyên soái của Triệu Việt Vương. Sự tích đầy đủ của vị Đại vương này được chép trong thần tích hai giáp Thọ Tháp và Bối Hà dưới đây.

Điều lạ trong thần tích Bối Hà là không hề nói gì tới Lý Bôn (Lý Nam Đế), cho dù lại kể việc Triệu Việt Vương vào hồ Điển Triệt, rồi động Khuất Liêu chống giặc. Sau đó Triệu Việt Vương lên ngôi thiên tử, xưng Đế. Có thể thấy, Triệu Việt Vương trong thần tích này chính là Triệu Vũ Đế – Lý Bôn – Lưu Bang, chứ không phải Triệu Quang Phục.

Đại vương Chí Thành nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Ngài ngày ngày thường ở riêng một chỗ, tự xem sách, không cần người chỉ dạy, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Đến khi trưởng thành ngài tài đủ văn võ, phẩm chất hơn người, anh hùng vượt đời xưa, tính tình lương thiện, khoan hòa trung chính, giỏi bày mưu lược, nuôi dưỡng hùng tài.

Đoạn kể này không khác gì nói về Trương Lương, mưu sĩ số 1 của Lưu Bang. Trương Lương từng lập mưu ám sát Tần Thủy Hoàng khi đi Đông du, nên rất có thể Trương Lương đã từng đến vùng đất Bắc Việt nước ta ngày nay, vốn là nơi Tần Thủy Hoàng ra biển Đông gặp đạo sĩ Yên Kỳ Sinh tìm phương thuốc trường sinh.

Điểm đáng chú ý khác là Đại vương Chí Thành rất giỏi âm luật và đàn sáo. Tiếng sáo của Trương Lương cũng đã đi vào sử sách khi nó được dùng để phá tan quân Sở của Hạng Vũ bên sông Ô Giang.

Khi Triệu Việt Vương chống quân Lương gặp khó khăn, Đại vương Chí Thành đã lập đàn cầu khấn trời phật, và được Lão Phật giáng thế, ban cho tỉ phù làm bảo bối. Còn Trương Lương cũng nối tiếng với câu chuyện học được Thái công binh pháp của Khương Tử Nha. Đoạn trích Phật giáng trong thần tích Bối Hà cũng được chép trong Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả. Vị “Phật” ở đây không ai khác chính là Thái Công Lã Vọng của vua Hùng Văn Lang.

Đại vương Chí Thành còn là người đã dùng chiếc móng rồng mà Chử Đồng Tử trao cho Triệu Việt Vương làm ra nỏ thần, phá tan quân Lương ở sông Bình Giang, chém tướng Dương Sằn ở núi Phù Long. Tương tự như đã kể ở trên, Trương Lương là người đã thổi tiêu làm tan rã quân Sở, giết được Hạng Vũ bên bờ Ô Giang.

Sau khi Triệu Việt Vương lên ngôi Thiên tử, Đại vương Chí Thành mộng thấy Thiên tướng xuống triệu hồi về Thượng Đế, rồi hóa ở Thạch Bàn Long Đầu. Còn Trương Lương là đại công thần được Lưu Bang phong là Lưu hầu, nhưng cuối cùng xin được học phép tu tiên, không màng danh lợi mà mất.

Thạch Bàn là nơi Lã Vọng câu cá, Văn Vương cầu hiền, cũng là nơi Trương Lương trở về tìm gặp thầy của mình là Hoàng Thạch Công sau khi thành nghiệp, tức là khi quay về tu theo tiên đạo.

Có thể thấy 2 sự tích về Đại vương Triệu Chí Thành ở Bối Hà và Lưu hầu Trương Lương hoàn toàn khớp nhau, nhất là một khi xác định Triệu Việt Vương là Lý Bôn – Lưu Bang.

Chữ Hà ở đây nghĩa là nhờ ơn. Bối Hà là nhờ ơn quý báu của bậc Tiên Phật danh sĩ đại công thần Trương Lương, một trong Hán sơ tam kiệt.

Thần tích giáp Thọ Tháp và Bối Hà, Dịch Vọng: https://bahviet18.com/2023/07/18/giap-tho-thap-giap-boi-ha-xa-dich-vong-trung-phung-sao-than-tich/

Giáp Thọ Tháp, giáp Bối Hà xã Dịch Vọng trung phụng sao thần tích

Ngọc phả triều Triệu Việt Vương

Do bộ Lễ triều Lê Thượng thư Quản giám tri điện vâng sao sự tích cổ truyền,

Hoàng đế Bệ hạ khâm phụng sắc chỉ cho thần hiệu.

Xưa Đại vương là người ở trang Thái Bình, Chu Diên. Đất này bằng phẳng, nước trong đẹp, có một nhà họ Triệu tên là Xương, lấy vợ là Lý Thị Thích. Vợ chồng chuyên tâm làm phúc, ngày ngày thắp hương khấn cầu Thượng Đế, ba kiếp hương đèn, một đời phong lưu, để rồi có dư phúc đức. 

Vào đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, bà Lý nằm mộng thấy hào quang đầy nhà, chợt có một con rắn hoa màu trắng cuộn bò tới, lờ mờ hóa thành bông sen trắng. Bà Lý cầm lấy. Thế rồi có mang. Mang thai độ một năm, ngày 10 tháng 1 năm Quý Hợi thì thai nhi vận chuyển. Đến ngày 11 thì hương thơm khắp nhà, ánh sáng chiếu soi trong màn trướng. Giờ Ngọ ngày 11 thì sinh hạ được một nam nhi, tướng mạo phi thường, hình dung đẹp lạ. Mọi người đều vui mừng, biết là trời đất cảm cách lòng trung thành mới đặt tên cho ngài là Triệu Chí Thành. 

Ngài ngày ngày thường ở riêng một chỗ, tự xem sách, không cần người chỉ dạy, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Đến khi trưởng thành ngài tài đủ văn võ, phẩm chất hơn người, anh hùng vượt đời xưa, tính tình lương thiện, khoan hòa trung chính, giỏi bày mưu lược, nuôi dưỡng hùng tài.

Bấy giờ, Triệu Vương đánh quân Lương Trần Bá Tiên mà chưa phân thắng bại. Triệu Chí Thành Đại vương huy động được ba ngàn quân đến theo Triệu Việt Vương dẹp giặc. Việt Vương phong cho làm Đô thống Nguyên soái, cấp cho 8 nghìn quân, đóng quân ở sông Tô Lịch, cự chiến với Trần Bá Tiên ở Gia Ninh. Bị thất bại, bèn cùng với Triệu Việt Vương vào động Tân Xương, đóng đồn quân ở Điển Triệt.

Vào ngày mồng 10 tháng 8 lại dẫn quân đánh ở Thí Mô. Quân Lương thua. Đuổi theo chém vô số. Quân Lương kinh sợ. Đến ngày 21 tháng 11 cùng với Bá Tiên đánh ở động Khuất Liêu. Triệu Việt Vương và Đại vương thua trận, nên rút về giữ Dạ Trạch để chống cự với quân Lương. 

Triệu Việt Vương lo sợ quân Lương đang rất mạnh. Ngày 5 tháng 5 Triệu Việt Vương lệnh cho Đại vương sắm lễ lập đàn, bái yết với trời đất, thần linh, cầu Phật cầu tiên, truyền hịch đi các châu huyện, nơi nào có tăng ni đạo sĩ thì đến đó đều cấp phát áo mũ, lệnh giảng chân kinh, thuyết pháp tu hành, mở rộng đạo nguyên, tiến cúng hương hoa, ngày đêm thơm phức.

Đại vương Chí Thành kính cẩn dâng sớ lên Thượng giới. Quả là chốn Cửu tiêu tuy xa, hương khói vẫn thấu tới mây từ, một tấm lòng thành mà cảm cách thông tới trời đất. Do trọng việc quỷ thần mà có thể một lần được thấy thưởng công. Cầu gì tất ứng, ước nguyện là được như ý. Bỗng thấy một ông lão râu tóc bạc trắng, cao hơn 7 thước, ngồi ở ngã ba đường, cười nói nhảy múa. Người dân thấy vậy đều lấy làm lạ, nên vào tâu lên Việt Vương.

Vương cung kín đón vào trong đàn, lệnh cho Nguyên soái bày tiệc mừng. Việt Vương thân hỏi rằng:

– Nay có đại tướng Lương là Trần Bá Tiên, Dương Sằn đến xâm chiếm, thắng thua thế nào, xin Lão ông chỉ giáo cho.

Lão ônng nói:

–   Ta là thần ở miền Tây Vực, sống lâu trong biển Giác, chu du trên thuyền Bát Nhã, không nhiễm lòng trần, tẩy rửa con đường Niết Bàn. Nay do thành tâm mà cảm cách, kinh kệ truyền thanh âm, khiến ta cảm ứng mà đến giúp vậy.

Việt Vương mừng thầm, người chuyên tâm thanh tịnh, ý trời tất sẽ thông. Lát sau, Lão ông bốc thẻ gieo quẻ, nói với Việt Vương rằng:

– Nay Hoàng đế thành tâm cầu đảo, trời ắt ứng cho. Ngày sau Chử Đồng Tử sẽ cho chiếc móng rồng. Chử Đồng Tử là con rể quý của vua Hùng. Còn nay lão có một vật quý của trời, dùng chế làm ấn tín, nên mài dũa để làm quốc bảo.

Nói xong Lão ông cưỡi mây mà đi. Vương mới biết đó là Phật, bèn bái vọng theo. Ngay hôm đó sai quan kính cẩn làm lễ chay bái tạ.

Đến ngày 18 tháng 6 Việt Vương cho lập Vọng Tiên đàn ở đầm Dạ Trạch, sai trăm quan văn võ đứng chầu nghiêm trang. Triệu Vương bái yết, cầu khấn:

– Xin Trời cho thần tiên giáng hạ để trước may được gặp mặt, sau là thỏa ước ba sinh vậy.

Đọc chúc xong liền bái tạ. Tụng niệm suốt ba ngày vẫn không thấy dấu tiên. Việt Vương bồi hồi, không biết làm thế nào. Vào giờ Ngọ ngày 21 chợt thấy mây trời ảm đạm, nước sông ù ù như nổi sấm vang. Giao long, cá, ba ba nổi hàng đàn trên muôn sóng. Côn, ngạc, kình nghê xếp cuồn cuộn trên sóng ngàn tầng. Điện vũ nguy nga, yên hà lấp lánh. Rồng mây bốn bề mờ ảo, ẩn hiện Phật quốc lâu đài. Non nước một bầu, như thấy Bồng Lai tiên cảnh. Phong quang tươi thắm, trăm hoa đua hương. Nhấp nhô những đỉnh non nhỏ, tựa rồng trắng giáng khí. Bỗng thấy một áng mây vàng rực rỡ từ phía Tây bay lại tụ ở trên đàn. Việt Vương bái yết. Lại thấy rồng thành năm sắc, Chử Đồng Tử cưỡi trên lưng rồng vàng, tháo móng rồng trao cho Việt Vương, mà nói:

– Dùng nó làm lẫy nỏ, thì không còn lo giặc nữa.

Rồi tự nhiên bay lên mà đi. Việt Vương mới biết là Chử Đồng Tử ban cho móng rồng, đúng như lời báo của Lão ông, sự việc quả không sai, bèn vọng bái.

Triệu Việt Vương từ khi có được ứng điềm móng rồng tới ngày 12 tháng 7 sai Đại vương Chí Thành chế nỏ, lấy móng rồng làm lẫy. Đến ngày mồng 3 tháng 9 đánh một trận ở sông Bình Giang. Quân Lương thua. Lại đánh trận ở bãi Quân Thần (nay là Thượng Hạ Cát). Quân Lương thua to.

Khi ấy nhà Lương có loạn Hầu Cảnh. Vua Lương triệu Trần Bá Tiên về nước, để lại Dương Sằn chống cự cùng với Triệu Vương. Việt Vương sai Đại vương Triệu Chí Thành tấn công Dương Sằn ở núi Phù Long mà phá được, chém và bắt được rất đông quân giặc. Chém được Dương Sằn ngay trên xe.

Đại vương quay trở về, đi qua trang ấp nào, phụ lão đều thắp hương bái yết, nghênh giá. Đại vương ban tặng 300 quan tiền để mua ruộng làm ruộng thờ. Lệnh lập hành cung để sau này có chỗ hưởng thần. Cả thảy có hơn 15 cung.

Vào ngày mồng 10 tháng 10 Đại vương đến khu đất giữa trang Dịch Vọng, thấy phụ lão nhân dân đều thắp hương bái mừng đón như vậy. Trên đường Chí Thành đi qua, giữa trang thấy có một thế đất núi bằng nước đẹp, liền ở lại mấy ngày. Ban cho phụ lão 500 quan tiền để dựng hành cung. Phụ lão tranh nhau mổ trâu khao hưởng quân sĩ. Đại vương đều từ chối.

Ngày 12 tháng 10 Ngài dẫn quân về thành Long Biên để tấu sớ. Triệu Việt Vương mở tiệc lớn mừng. Triều thần trăm quan đều đến chầu. Việt Vương lên ngôi Thiên tử, đóng đô Long Biên. Triệu Vương lên ngôi, thực thi đức hóa, khuyến khích cấy trồng, làm cho nhân dân không lo thiếu thốn, nước nhà có của cải tích lũy.  Khắp nơi thái bình, dân không dối trá. Tục luật được làm đơn giản, thuần phác. Xét cốt lõi việc chế trị đương thời rạng hơn đời trước. Đương thế gọi là vị vua hiền vậy.

Việt Vương phong Chí Thành ở thành Ô Diên (nay là Hạ Mỗ). Trong ngày 6 tháng 8, Đại vương  đêm mộng thấy một người mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng, tự xưng là Thiên tướng, quỳ ở trước sân, nói rằng:

– Ngọc Hoàng Thượng Đế sắc chỉ triệu hồi ngài về chầu Thượng Đế.

Nói xong thì biến mất. Đại vương tỉnh dậy, gọi Phạm phu nhân, cùng các con tụ họp để lo chuẩn bị. Ngày hôm đó bỗng bị đau đầu, 3 ngày thân thể không yên. Triệu Việt Vương tự thân đến thăm, cầm tay Đại vương nói rằng:

– Trẫm nhờ ơn Ngài mà dẹp được giặc, yên ổn được nước. Nay Ngài bị bệnh đến như vậy, e khó qua khỏi.  Ngài có ý nguyện gì cho về sau này, Trẫm cũng sẽ  theo đó mà báo đáp được nhiều nhất có thể vậy.

Đại vương nói:

– Thần không có ý nguyện gì ngoài việc xin Bệ hạ đưa thần đến nơi đất đầu rồng bàn đá. Lá cờ dùng khi thần từng đánh giặc cũng đem đến. Thần tung cờ lên trên trời. Nếu cờ bay rơi ở đâu thì xin Bệ hạ cho địa phương nơi đó miễn tô thuế, các phục dịch, để cho việc thờ phụng thần được hưởng muôn năm không ngừng vậy.

Đế đều đồng ý. Tới ngày 12 Đại vương tung cờ lên trên trời rồi hóa. Đế than tiếc mãi không thôi, thật là thương xót. Bèn sai bề tôi một mặt xem cờ dừng ở địa phương nào thì dân địa phương đó lập tức đến kinh thành đón nghênh thần sắc về lập miếu phụng thờ. Mặt khác, lập miếu ở ngay chính nơi đầu rồng bàn đá, bao phong là Đại vương. 

Sứ thần theo cờ bay đến khu giữa Dịch Vọng, miếu Thọ Tháp thì cờ dừng ở tại đất đó. Nhân dân phụ lão lên kinh thành phụng nghênh thần hiệu. Triệu Vương cho miễn tô thuế và tạp dịch, ban cho tiền để lập miếu. Phụ lão vâng lĩnh tiền 38 quan, đón thần vị Đại vương. Mặt khác, bèn đón thỉnh thầy phong thủy nổi danh để tìm một khu có đủ thiên văn địa lý, lại đúng ở trong nơi hành cung trước đây. Khi hỏi kỹ phụ lão trả lời rằng:

– Đây đúng là chỗ hành cung cũ của Đại vương.

Phong thủy bèn lập hướng Càn Tốn kiêm dựa Nhâm Bính, hướng trước Cấn Khôn. Trước mặt có Sao vàng làm án. Sau có Mình rồng bao lót. Hai dòng nước hợp lại. Đất phát nhiều nam cường tráng, văn nhân tuấn tú. Khu vực xung quanh đó phụng thờ hàng năm hương hỏa, đời đời truyền thừa.

Đại vương khi sinh thời võ công hiển hách, tiếng tăm lẫu lừng, giúp bang lập quốc. Sau khi hóa các trang ấp địa phương có điển thờ phụng tôn nghiêm. Bảo hộ dân sinh. Lễ ấy, thờ ấy là mãi, là yên. Đẹp thay! Tốt thay! Mãi mãi không dừng!

Chánh hội Nguyễn Xuân Quyết,

Lý trưởng Đào Văn Hanh.

Ngọc phả chép về Triệu Việt Vương Hoàng Đế ở Độc Bộ – Kiên Lao

Dịch từ bản khai thần tích làng Độc Bộ, tổng Thanh Khê, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định và làng Kiên Lao, tổng Kiên Lao, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Ngọc phả chép về Triệu Việt Vương Hoàng Đế (Chi Càn, Bộ thứ nhất, Thượng đẳng thần)

Phụ cùng với Hiếu túc Anh nghị Đại vương và Vĩ tích Hồng hy Đại vương (Chi Cấn, Bộ thứ hai, Trung đẳng thần)

Chính bản của bộ Lễ quốc triều

Xưa đất Việt ta trời Nam mở đất phân ngang núi sông theo sao Dực, sao Chẩn. Nước Bắc được phong thẳng hướng sao Đẩu, sao Ngưu làm chốn chia phân. Từ triều Hùng mở vận hơn hai ngàn năm, Dương Vương nắm quyền đến cuối được 50 năm, Triệu Đà có nước, năm đời làm vua. Từ đó đất Việt ta nội thuộc Tây Hán. Trải qua Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Tề, Lương tổng cộng hơn ba trăm năm.

Đến thời Lương sai Tiêu Tư làm thái thú đất Việt ta. Tư là người tham lam, bạo ngược, xâm chiếm Trung Nguyên, sưu dịch nặng, cướp  bóc nhiều. Dân chúng chịu cảnh khổ cực ưu phiền kéo dài. May mà lòng người ghét loạn, ý trời cho bình an. Khi ấy có người đất Long Hưng, Thái Bình, họ Lý tên Bôn, khởi nghĩa lớn ở châu Thái Bình. Nhưng đang khi đó chưa có được người nào là nam nhi có tài thao lược để kết làm bạn cùng hưng vong. Cho nên gió thần khởi nghĩa còn chưa phát động. Tin thay! Đã có quân tất sẽ có thần. Rồng gầm bên suối không có ý tới mây, mà mây lại vì thế mà kéo đến.

Chính ở đất Việt ta tại huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một người ở địa phương họ Triệu tên Túc, vợ là Lý Thị Đàm. Ông Triệu nhà vốn thường làm việc thiện đức, phát chẩn cứu người nghèo, ba đời hương khói đều là bậc phong lưu lâu dài, có dư giả vậy. Một hôm phu nhân nằm nghỉ ở hiên nhà phía Tây, mơ màng nằm mộng. Bỗng thấy thân cưỡi rồng vàng bay thẳng lên trời. Hoàng thiên ban cho một Tiên đồng. Đến khi trở về tới nửa đường thì gặp một người đầu đội mũ sao, tay cầm quả đào, cưỡi con lân đỏ theo phương Nam mà đến, chỉ phu nhân nói rằng:

  • Gia đình nhà ngươi có được phúc tốt sao, lấy được một tiên đồng về. Ngày sau sẽ giữ nước yên dân, lưu tiếng ngàn năm. Đáng tiếc là phúc này chưa vẹn. Người con này không thành được lâu dài.

Phu nhân nghe lời, bỗng nhiên tỉnh giấc, kể với ông Triệu. Ông rất mừng nói:

  • Phúc của nhà ta chính là điều này.

Từ đó lo chia tài sản tạo phúc, chu cấp cho khách khứa, giúp xây dựng hưng công. Qua khoảng một năm phu nhân quả nhiên có mang. Đến kỳ mãn nguyệt vào năm Giáp Dân mùa xuân ngày mồng 6 tháng Giêng sinh được một người con trai, diện mạo khác thường, quả đúng như hình tiên đồng đã thấy. Ông Triệu rất mừng, cho rằng người con này tất sẽ khôi phục làm rạng rỡ nghiệp nhà, bèn đặt tên là Quang Phục.

Năm thứ hai phu nhân lại sinh được một người con gái, mày chia lá liễu, má rạng hoa đào, đúng là bậc nữ sắc khuynh thành. Ông Triệu bèn đặt tên là Đào nương. Đến khi trưởng thành thường theo anh trai Quang Phục cùng đi học ở chỗ Dương Đường tiên sinh. Học được mấy năm thì Quang Phục đã đọc hết kinh sử, biết rộng chuyện xưa nay. Đào nương thì cầm kỳ thi họa, không gì là không biết, cũng là bậc kỳ lạ trong giới nữ.

Lại nói, khi đó ở xã Kiên Lao, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, đạo Sơn Nam, có một nhà họ Nguyễn tên Bình, cũng là bậc hiểu biết thơ sách, lấy hiếu thảo đối xử trong nhà, nhưng không may gặp cảnh gian truân. Bố mẹ (tức là bố mẹ của ông Nguyễn Bình) mất sớm. Ông bèn gói ghém gia tài, một mình một cảnh đi khắp núi sông. Khi đi đến xã Châu Diên, ông (Nguyễn Bình) thấy nhân dân còn sơ dã, phong tục thuần hậu. Ông bèn dừng ở lại ở nơi quán trọ trong xã, xin ăn ở nhờ mọi người, học đọc sách vở. Được quãng một tháng tầm nhìn cao xa thì có thừa mà bút giấy thì lại thiếu.

Một hôm, ông Triệu (tức ông Triệu Túc) đi dạo chơi, thấy Nguyễn Bình có văn chương ứng đối, hiểu biết sâu rộng. Ông bèn đến hỏi tên tuổi, quê quán. Ông Nguyễn kể lại tình cảnh cô độc, nghèo nàn nơi quán trọ. Ông Triệu liền cho về nhà để nuôi dưỡng, cho cùng với Quang Phục lên lớp cùng học. Từ đó Nguyễn Bình có chỗ để không lo cảnh đói rét, ra sức học tập. Vài tháng sau đã tiến bộ mọi mặt. Ông Triệu thấy vậy thì rất yêu mến, bèn cho lấy Đào nương làm vợ. Thế là ngày lành tháng tốt đã định lễ, duyên lứa đẹp đẽ. Ông Nguyễn dẫn Đào nương cùng trở về quê gốc ở xã Kiên Lao. Sự việc tiếp theo thế nào xin xem đoạn dưới phân giải.

Lại nói, khi Quang Phục khoảng 15 tuổi, đặc biệt đã có chí lớn. Ông (ông Phục) thường nói với các bạn bè rằng:

  • Làm người có mắt mũi râu tóc, được trời cho sinh ra trên đời, phải như các bậc thánh hiền thời xưa trước mà lập nên công nghiệp lớn, không thì lúc ở sa trường phải da ngựa bọc thây sao cho đúng khí tiết của bậc đại trượng phu. Sao có thể yên vui mãi với việc nghiên bút được?

Thế là kết thành một đảng hơn vài trăm người, nuôi hoài chí lớn. Năm đó cả cha mẹ của ông (ông Phục) đều mất. Ông làm lễ chôn cất. Sau ba năm chịu tang xong thì Quang Phục đã vào tuổi 18. Nghe tiếng ông Lý Bôn có đại lược hùng tài, võ ngang văn dọc, thật là có khí tượng lớn của bậc đế vương. Ông bèn đem theo binh thư tìm đến.

Ông Lý thấy người này văn võ kiêm toàn, thông minh hơn người, rất vui mừng nói:

  • Ông Trời đã vì ta mà sinh ra người hiền giúp sức, gặp được đâu đã muộn.

Ngay hôm đó bèn lập đàn bái Quang Phục làm Tả tướng, Phạm Tu làm Hữu tướng, lĩnh binh tiến đánh Tiêu Tư. Tư bỏ thành mà chạy. Ít lâu sau có Lâm Ấp vào cướp bóc, lại dẹp yên được.

Ông Lý lên ngôi Hoàng đế, là Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở thành Long Biên, xếp đặt trăm quan, yên định đô ấp, dựng nước hiệu là Vạn Xuân (ý muốn truyền nước cho tới vạn năm vậy). Thế rồi gia phong cho các công thần, tướng tá thêm các cấp, bèn bái Quang Phục là Tiết chế sứ đạo Sơn Nam. Ông Phục vâng mệnh đến quản lý ở Sơn Nam, lấy nhân nghĩa, lễ nhường nhịn mà giáo huấn cho nhân dân. Qua vài năm ở trong đạo được đầy đủ, ngày nào cũng cẩn thận trung chính. Tiếng vang đến triều, Nam Đế thường có thưởng thêm cho.

Lại nói, ông Nguyễn Bình dẫn Đào nương trở về sống ở quê tại xã Kiên Lao. Ông chuyên tâm lấy việc dạy học làm nghề. Được mấy năm, vợ chồng hòa hợp, cầm sắt sánh duyên. Một ngày, Đào nương nằm mơ thấy hai con gấu thoáng thoáng mờ mờ nhảy múa ở trước sân. Từ đó thấy chuyển dạ mà có mang. Vào năm Giáp Thân mùa xuân ngày mồng 10 tháng 2 sinh được một bọc, nở ra được hai người con trai, đều có dáng vẻ tuấn tú, khí phách hiên ngang, khác xa người thường lắm lắm. Ông Nguyễn rất mừng khi thấy phúc lại thêm phúc, bèn đặt tên người con trưởng là ông Phúc, người con thứ là ông Lộc.

Ngày qua tháng lại đã trải qua 7 năm. Thương thay, người xưa nói không sai, bất hạnh không bao giờ đến một mình. Ông Nguyễn bỗng nhiên bị bệnh mà mất. Đào nương đau thương đến mức quên ăn quên ngủ, phát thành bệnh nặng, thuốc uống không đỡ, cầu thần không nghiệm. Nương rồi cũng mất ở mộ chính. Từ đó anh em ông Phúc tuổi nhỏ đã mồ côi, nghèo túng, thiếu thốn đồ dùng hàng ngày, thường khóc than rằng:

  • Xưa nói con của lương y thì chết vì bệnh tật, mà ngay chúng ta rút cục lại khốn khổ vì bệnh nghèo túng vậy.

Một hôm anh em nghe là có bác ruột (tức ông Quang Phục) đến nhận trị Sơn Nam. Anh em dắt nhau cùng tới nơi phủ đường quỳ bái, xưng họ tên. Quang Phục biết chuyện rất đau lòng, cho hai người ở cùng với mình, dạy cho học văn. Đến năm hai ông (ông Phúc, ông Lộc) lên 10 tuổi, văn chương hiểu rộng, trí có thể cầm đầu đám đông, tinh thông võ bị, tài năng hơn người. Ông Phục rất yêu mến.

Khi Nam Đế ở ngôi được khoảng 7 năm, nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên làm thứ sử đất Việt, Dương Sàn làm Tư mã, cất quân sang xâm lấn phương Nam. Đế cho gọi Quang Phục về triều định kế đánh dẹp. Ông Phục vâng mệnh cùng với hai người cháu (ông Phúc, ông Lộc) quay về triều. Hôm ấy, Đế bái Quang Phục là Đại tướng quân, cùng với Đế đóng đồn quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tới gần. Một sớm nước hồ đột ngột dâng cao, chảy vào giữa hồ. Bá Tiên dẫn quân theo dòng nước tiến vào. Quân Đế thua to, Đế để quyền lại cho Đại tướng Triệu Quang Phục giữ nước. Còn Đế tự mình vào động Khuất Liêu mà mất.

Từ đó Quang Phục dẫn hai vạn quân, lấy đầm Nhất Dạ (Dạ Trạch thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu, là nơi trước đây triều Hùng ông Chử Đồng Tử cùng với công chúa Phương Dung bay lên trời), bèn xưng là Dạ Trạch Vương. Trải qua 4 năm, ông (ông Phục) vì quân Lương không rút nên bèn lập đàn tràng cầu đảo trời đất. Sau thấy có thần nhân cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, tháo móng rồng giao cho, lệnh để ở trên mũ đâu mâu, hướng vào đâu thì giặc đều tan vỡ hết. Khi ấy Bá Tiên trở về nước, giao lại cho tướng Dương Sàn chống cự, cùng với Quang Phục giao chiến một trận. Ông Phục đánh bại hết quân Lương, chém được tướng Dương Sàn. Quân Lương thua to, phải chạy về Bắc.

Ông Phục vào ở trong thành Long Biên, tự xưng là Triệu Việt Vương. Bèn ban cho hai người cháu (ông Phúc, ông Lộc) quan tước. Phong cho ông Phúc là Tả đô đài, ông Lộc là Hữu đô đài. Khi ấy hai ông tự xin được về quê  bái yết gia tiên. Vương đồng ý. Hai ông bái tạ trước Vương, rồi cùng đi xe trở về quê quán xã Kiên Lao. Nhân dân sợ hãi, đều làm lễ bái hạ. Hôm ấy hai ông truyền mổ trâu làm lễ tế gia đường tổ tiên, mở tiệc mừng lớn. Việc xong hai ông ban cho nhân dân mười nén vàng, truyền nhân dân lập một nơi hành cung cạnh dân để làm nơi hai ông đi về có nơi trú ngụ. Nhân dân vâng mệnh xây dựng (cung này ở tại khu vực đất cao trong dân, hình đất có chính cục dựa Quý hướng Đinh, phân châm Bính Tý, Bính Ngọ, bên phải có một dòng suối nhỏ chảy bao xung quanh bên ngoài).

Việc xong hai ông lại quay xe về triều nhận chức. Vua tôi cùng hợp đức, chính sự được cải thiện nâng cao. Không lâu sau, có người con của anh Nam Đế tên Lý Phật Tử (Phật Tử là con của Thiên Bảo. Khi Tiền Lý Nam Đế lánh nạn quân Lương mà mất, anh là Thiên Bảo dẫn đầu chúng đảng vào động Dã Năng ở, xưng là Đào Lang Vương. Đến khi Đào Lang mất, Phật Tử nhận thủ lĩnh quân chúng) từ động Dã Năng dẫn quân đến đánh. Tất cả 5 lần liên tiếp quân Phật Tử đều thua. Vương nghĩ Phật Tử là con cháu của Tiền Lý Nam Đế nên không nỡ tuyệt đường, mới chia nước thành 2 cùng trị, lấy cát giới là bãi Quân Thần. Phật Tử ở nước phía Tây, dời đô về thành Ô Diên. Việt Vương ở nước phía Đông, đóng đô ở thành Vũ Ninh.

Khi ấy Vương có một người con gái tên là Cảo Nương, tuổi độ 16, nhan sắc tuyệt trần. Vương rất yêu quý. Lúc đó Phật Tử lập kế cầu hôn giảng hòa. Vương đồng ý. Ông Phúc, ông Lộc nhiều lần can gián, nhưng Vương không nghe. Thế là Phật Tử sai con trai là Nhã Lang vào trong quân ở rể. Vương rất tin tưởng, gọi Nhã Lang là rể hiền. Từ đó Nhã Lang cùng với Cảo Nương tình cảm tốt đẹp. Một hôm Nhã Lương ngầm dụ Cảo Nương lấy mũ đâu mâu móng rồng mà đen giấu đổi móng rồng đi. Ngày hôm sau Nhã Lang lấy cớ về thăm nhà, báo lại cho cha (Lý Phật Tử), cất quân đến đánh Vương. Vương lấy mũ đâu mâu móng rồng ra cùng giao chiến, không có tác dụng. Vương mới biết là móng rồng đã mất. Bèn lên ngựa chạy dài về đến cửa biển Đại Nha. Khi ấy quân Lý tiến đến rất gấp. Vương biết khó thoát được mới than rằng:

  • Ta đã cùng rồi.

Vương nhảy xuống cửa biển mà hóa (lúc đó là ngày 14 tháng 8).

Ông Phúc, ông Lộc bèn quay về xã Kiên Lao, mổ trâu dê  làm lễ tế Triệu Việt Vương, truyền nhân dân viết thần hiệu là: Triệu Việt Vương Hoàng đế, để phụng thờ. Khi ấy hai ông nói với nhân dân rằng:

  • Chúng ta cùng với nhân dân đã thành nghĩa cũ, không phải ngày một mà quên được. Bởi chúng ta có nơi hành cung để phụng thờ vua ta, ví như chúng ta sau này trăm tuổi, nhân dân hãy tuân theo mệnh chúng ta, chớ có thay đổi.

Khi ấy nhân dân bái tạ nhận mệnh. Hai ông lại truyền binh sĩ cùng nhân dân thiết lập một cung hội đồng ở trong dân, ở trên đó. Lại răn nhân dân rằng:

  • Cứ mỗi năm ngày 10 tháng 2 là ngày sinh nhật hai anh em ta, phải nghi lễ vâng đón tên thần của chúng ta, cùng hai người chúng ta về cung hội đồng, ca hát vui vẻ. Đấy là tất cả việc cho hai anh em ta.

Nhân dân vâng mệnh xây dựng. Việc xong, hai ông ở lại nơi đó, dạy dân cày cấy. Dân được lợi nhiều.

Lại nói từ đó Phật Tử chiếm được nước, chính là Hậu Lý Nam Đế. Khi ấy Nam Đế biết rõ hai ông Phúc Lộc là những anh hùng trùm thế, muốn mời ra giúp việc triều chính. Bèn sai sứ thần về xã Kiên Lao dụ các ông phụ giúp vương thất. Gạ gẫm mấy lần, hai ông không theo. Một hôm hai ông tự nói rằng:

  • Trung thần không thờ hai vua, sao có thể cam chịu nhục mà phụ người được. Kinh Thi rằng: Minh triết (Sáng suốt). Kinh Dịch rằng: Kiến cơ (Xem chính). Không đi tất sẽ như người Kỷ giữ ở chợ vậy.

Dứt lời, hai anh em dẫn vài gia thần đến thẳng Ái Châu, tới xã Nam Trịnh, huyện Yên Định, phủ Thiệu Thiên. Hai ông thấy địa thế có sông núi hữu tình. Nhân xã đó có một ngôi chùa, là một danh lam rất cổ, trải qua năm tháng đã xuống cấp. Hai ông mới nói với người trong làng cho ở tại chùa đó. Người làng đồng ý. Từ đó hai ông đổi tên, một là ông Túc, một là ông Tục.

Hai ông ở lại trong chùa, thành tâm hương khói tiến cúng. Qua vài năm, quyên góp mười phương trùng tu lại chùa. Công đức xong, hai ông lại chu du bốn biển, ngắm thưởng danh sơn, thắng cảnh. Một hôm đi tới núi Tam Điệp, hai ông bỗng nhiên bị cảm phong hàn, cùng một lúc đều mất (lúc đó là ngày 12 tháng 11). Trong một chốc, mối đùn thành gò lớn (tới nay gọi là xứ Gò Đôi). Từ ấy nhân dân qua lại buôn bán có cúng tiến nhiều vàng bạc, cầu đảo có nhiều linh ứng.

Lại nói từ sau khi hai ông đã hóa ở xã Kiên Lao nhân dân đều mắc tật dịch, súc vật ốm chết. Nhân dân làm lễ cầu đảo ở nơi miếu Triệu Việt Vương để xua đuổi tai ương. Tối đó nhân dân đều nằm trong miếu, mơ thấy Triệu Việt Vương ngồi nghiêm trên điện. Trăm quan văn võ ngồi đầy các bên. Lại thấy hai ông đường đường cùng các quân hầu, cờ xí voi ngựa đều như lúc còn sống, tiến thẳng đến trước miếu, bái yết rồi ngồi vào. Nhân dân vô cùng sợ hãi, làm lễ kính bái. Thấy hai ông nói rằng:

  • Chúng ta cùng vâng mệnh trời nắm quyền ở dân, vì dân ta mà là phúc thần. Thế mà nay chúng ta còn chưa có miếu thờ riêng. Vậy có phải là rất vô lễ hay không? Không nhận mệnh của chúng ta thì đừng có lời cầu xin gì nữa.

Lời nói còn chưa hết, nhân dân bỗng nghe một tiếng trống đồng vang lên đập vào trong tai, đột nhiên tỉnh lại, mới biết sự việc này. Tất cả đều sợ hãi. Mới nhớ lại những lời ngày trước hai ông đã dặn, lập tức lập miếu ở bên cạnh đền Triệu Việt Vương, viết thần hiệu của hai vị. Một là Túc công Đại vương, một là Tích công Đại vương, cùng phụng thờ. Từ đó tật dịch đều yên ổn. Người vật đều mạnh khỏe.

Trải tới thời Đường Cao Biền làm An Nam đô hộ. Khi đó có giặc Nam Chiếu khởi binh ở ven biển, quấy nhiễu đất Sơn Nam. Cao Biền dẫn quân đến đánh. Một hôm, thuyền quân theo sông Tiểu Hoàng xuôi tới xã Kiên Lao, huyện Giao Thủy. Lúc ấy mặt trời đã khuất sau núi. Ông (Cao Biền) thấy trên bờ có hai người, thân cưỡi ngựa ô, tay cầm thương vàng, tiến thẳng đến miếu bên bờ sông thì mất bóng. Theo sau thấy sóng đào hung dũng, gió bụi dương oai. Ông lấy làm lạ bèn dừng thuyền lên bờ, gọi nhân dân đến hỏi tên thần. Nhân dân kể lại sự tích. Nghe xong ông liền truyền binh sĩ cùng nhân dân làm lễ tế. Ông thân khấn rằng:

  • Nếu như có linh thiêng xin nhận lễ hưởng của tôi và âm phù cho xã tắc, dẹp giặc yên loạn. Đến sau này khi thanh bình sẽ tặng phong sắc chỉ để tỏ rõ linh thiêng.

Khấn xong, ông nằm ở trong miếu. Đến cuối canh ba nằm mơ thấy hai người đến nhanh bái chào, xưng tên họ, tự xin theo quân diệt giặc. Ông tỉnh lại biết là thần mộng, cho ghi vào sách vàng để xem nghiệm về sau. Sáng ngày lại làm lễ tế ở đền Triệu Việt Vương. Sự việc xong cất quân thẳng tiến, đầu thuyền chiêng trống vang như tiếng sấm sét vạn dăm, trên đường cờ xí hai bên bờ như hình rồng rắn. Quân của Vương như thế có thuận trời, thế mạnh như chẻ tre, oai chấn động như bẻ củi khô gỗ mục.

Đến khi dẹp được Nam Chiếu, ông Biền cho quân khải hoàn, gia phong tướng sĩ. Nhân nhớ lại sự việc ở Kiên Lao, tặng phong sắc chỉ cho Triệu Việt Vương Hoàng đế Thượng đẳng thần, tặng phong Túc công vi Hiếu túc Anh nghị Đại vương, Tích công vi Vĩ tích Hồng hy Đại vương. Cho xã Kiên Lao nghênh đón sắc về dân, tu sửa miếu điện để phụng thờ.

Từ đó về sau cầu mưa cầu gió đều có nhiều linh ứng. Trải bốn họ Đinh, Lê, Lý Trần sáng lập cơ đồ, ba vị Đại vương đều có nhiều công âm phù xã tắc, nên các đời đế vương có gia phong sắc chỉ, hương khói không ngừng.

Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn

Quản giám bách thần lễ điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền y chính bản vâng chép.

Hoàng triều năm Vĩnh Hữu thứ hai ngày tốt giữa thu.