Người Dao ở vùng Mộc Châu – Sơn La dùng một bộ tranh thờ gồm 3 bức tranh lớn vẽ các vị thần và 2 bức nhỏ vẽ chân dung thần. Bộ tranh này được gọi là Hành say, dùng trong các nghi lễ thờ cúng, tín ngưỡng của người Dao tại đây.
Bức tranh đầu tiên có hình một vị thần cưỡi ngựa là bức Thái Úy. Theo các nhà nghiên cứu thì Thái Úy là ông Đại Vũ, người khởi đầu nhà Hạ bởi trên một số tranh Thái Úy khác có thể hiện hình một cậu bé theo tích Đại Vũ sinh ra Khải trong quá trình trị thủy. Thái Úy cưỡi ngựa, cầm kiếm và ấn lệnh, làm chủ miền rừng núi. Phía dưới là các vị quan lại cưỡi ngựa. Tương ứng trong lịch sử người Việt thì Đại Vũ là Tản Viên Sơn Thánh hay Kinh Dương Vương, người khởi đầu dòng lên núi. Trong Tứ phủ người Dao thì Thái Úy ứng với Dương gian, là phủ nơi con người sinh sống.
Bức tranh đối diện thể một vị thần mặt đỏ cưỡi rồng, gọi là Hải Bá. Hiện tại các nhà nghiên cứu cho rằng thần cưỡi rồng là Hiên Viên Hoàng Đế đã cưỡi rồng mà về trời. Tuy nhiên như vậy không hợp lý vì Hiên Viên không phải là “Hải Bá”, thần của miền biển. Đúng hơn thì Rồng biểu trưng cho Thủy phủ. Người cưỡi rồng phải là vị thần chủ của Thủy phủ, tức là Thủy Tinh Bát Hải Động Đình hay Lạc Long Quân. Thần chủ của Thủy phủ ở trên tranh còn cầm tù và, khá giống với hình tượng Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt. Phía dưới bức Hải Bá là hình ảnh các thầy tào và cảnh Thượng đao sơn trong lễ cấp sắc của người Dao.
Bức tranh ở chính giữa được gọi là Tổng đàn hay Tổ tiên. Bức tranh này thể hiện có 9 tầng từ trên trời xuống đất. Trên cùng là Tam Thanh cung thờ 3 vị Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn (ở giữa), Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn (bên phải) và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (bên trái). Ba vị Tam Thanh được Đạo giáo thờ như những người đã sáng tạo ra vũ trụ.
Ở tầng thứ hai là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người cai quản Thiên đình. Hai bên là các vị Thiên Vương, có ánh hào quang. Tầng thứ ba là Tây Vương Mẫu, vị thần cai quản các tiên thánh trên núi Côn Lôn. So với sử Việt thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị vua Hùng đầu tiên, tức Đế Minh. Tây Vương Mẫu là Tây Thiên Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo hay là bà Vụ Tiên trong Truyện họ Hồng Bàng.
Ở tầng thứ tư là Bắc Đẩu Tinh Quân. Hai bên là các vị nguyên soái, như Đặng Nguyên Soái mặt đen như thiên lôi ở bên trái, Triệu Nguyên Soái mặt đen ở bên phải. Ở tầng thứ năm là Nam Tào và các vị phụ thần hai bên. Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vị thần nắm sổ sinh và sổ tử của Thiên đình. So với sử Việt thì đây là hai vị Hùng Vương Thánh Tổ được thờ ở đền Hùng, là Viễn Sơn Thánh Vương (Đế Nghi) và Ất SơnThánh Vương (Lộc Tục).
Tầng thứ sáu, bảy và tám là các quan Tam Nguyên. Tầng thứ sáu vẽ Thượng Nguyên Thiên Quan có hình nhật nguyệt ở 2 bên, tiết Thượng Nguyên Tứ Phúc vào rằm tháng Giêng. Tầng thứ bảy là Trung Nguyên Địa Quan, tiết Trung Nguyên Xá Tội vào rằm tháng Bảy. Tầng thứ tám là Hạ Nguyên Thủy Quan, tiết Hạ Nguyên Giải Ách vào rằm tháng Mười.
Ở tầng cuối cùng (thứ chín) vẽ hình Thổ Địa thần nơi miếu thổ thần và các loài vật sống trên mặt đất như hổ báo, trâu voi, rắn rết. Thần Thổ Địa cai quản vùng đất đai và những sinh vật sinh sống ở đó.
Trong bộ tranh này thì bức Tổng đàn ở giữa thể hiện cảnh theo trục đứng gồm Thiên phủ – Địa phủ, nơi các thần linh ngự trị. Còn hai bên là Thủy phủ và Dương gian, nơi con người sinh sống. Tổng hợp 3 bức tranh có đủ Tứ phủ theo tín ngưỡng của người Dao.
Hai bức vẽ nhỏ là chân dung (mặt nạ) của hai vị thần chủ cai quản con người, cũng là hai vị thủy tổ của người Việt: Thái Úy – Kinh Dương Vương và Hải Bá – Lạc Long Quân. Thái Úy Kinh Dương Vương thể hiện như một vị quan mặt trắng, hiền từ như mặt trăng mùa thu (Chu). Hải Bá Lạc Long Quân thể hiện mặt đỏ như mặt trời mùa hè (Hạ).
Hải Bá Lạc Long QuânThái Úy Kinh Dương Vương
Có thể thấy tín ngưỡng thờ của người Dao tương đồng với tín ngưỡng của người Việt về các vị thần, về cách chia Tứ phủ. Cũng như người Việt, các vị thần được thờ của người Dao là “Tổ tiên”, tức là những vị vua, quan đã có công lao gây dựng nên dân tộc, nên đất nước ở thời cổ sử. Đó là ba vị Hùng Vương Thánh Tổ như thờ ở đền Hùng và hai vị thủy tổ Sơn Tinh, Thủy Tinh của 2 dòng lên núi và xuống biển.
Vị thủy thần hồ Dâm Đàm là Linh Lang Đại vương, được thờ ở hàng trăm nơi trên khắp các vùng đồng bằng sông Hồng. Sự tích về Linh Lang chung quy có 3 thời, đều về một vị hoàng tử đã có công đánh giặc và gắn liền với địa danh ở hồ Tây. Một là Linh Lang thời Hùng Vương đánh giặc Thục. Hai là Linh Lang thời Lý đánh giặc Vĩnh Trinh. Ba là Linh Lang thời Trần đánh giặc Nguyên Mông.
Một số nơi như ở đình Tây Hồ hay đền Thủ Lệ chép cả 3 sự tích của Linh Lang Đại vương ở 3 thời, gọi là Linh Lang thần hóa lục, và coi đó là 3 lần xuất thế của thần. Thần tích về Uy Linh Lang ở Yên Phụ hay Nhật Tân thì ghi rõ: Vương vốn là chính phái họ Hồng Bàng, là thứ tông của Bách Việt. Đại vương là giống giao long, là trưởng của Xích Giáp, hiệu là Uy Linh Lang, cùng với 6 người được nhận phong ở đó là Bạch Giáp, Hoàng Giáp, Hắc Giáp, Thanh Giáp, Chu Giáp, Tử Giáp.
7 vị thủy thần hồ Dâm Đàm được thờ đầy đủ tại điện Nhật Chiêu, tức đình Nhật Tân ngày nay, là nơi bọc trứng của bà Diệu Đế Lạc phi nở thành 7 con rồng mà bay lên trời trên bãi sông Hồng. Cái tên Nhật Chiêu xuất phát từ sự tích này, do khi bọc trứng bị bỏ bên bãi sông, đến đêm có ánh sáng chiếu rọi và nghe tiếng vang vào tới tận kinh thành. Lễ hội đình Nhật Tân là một trong những lễ hội lớn nhất Thăng Long, với đoàn rước giá kiệu cùng múa rồng kéo dài từ đình làng qua cung Nhật Chiêu rồi ra đến bờ sông Hồng.
Linh Lang cùng với những người em cùng bọc là thủy thần hồ Dâm Đàm còn được thờ ở một loạt các di tích quanh hồ Tây như Nghi Tàm, Quảng Bá, Yên Phụ, Tây Hồ, Tứ Liên… Câu đối ở đình Quảng Bá nhắc lại sự tích Linh Lang và 6 giáp Tây hồ.
Bách noãn dựng nhất bào, dục tú chung anh long chủng hóa Đoài hồ linh thất giáp, phong công tuấn đức phượng sơn tề.
Nghĩa là:
Một bầu chứa trăm trứng, dưỡng đẹp đúc anh hóa chủng rồng Bảy giáp thiêng Tây hồ, công dày đức hậu sánh non phượng.
Vậy Linh Lang Đại vương là ai trong sử Việt?
Lĩnh Nam chích quái, Truyện Hồ Tinh kể: “Long Quân ra lệnh cho Lục bộ thủy phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy…”. Như vậy, Linh Lang cùng 6 giáp Tây hồ chính là Long Quân cùng Lục bộ thủy phủ trong truyện Hồ Tinh.
Sách Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ chép: Miếu Lạc Long nằm ở cách cửa Bắc của kinh thành chính hướng bên ngoài 1 dặm, thuộc vùng ven bờ hồ Trúc Bạch tại thôn Yên Ninh, huyện Vĩnh Thuận… Nay miếu ở trên hồ Trúc Bạch chính là kinh đô xưa của Long Quân vậy. Kinh đô Rồng của cha Lạc Long Quân nằm ở đất Thăng Long, bên bờ hồ Trúc Bạch, xưa là hồ Dâm Đàm (hồ Tây). Đây chính là lý do vì sao hồ Tây là rốn rồng Long Đỗ của lưu vực sông Hồng.
Ngôi miếu Lạc Long bên hồ trước đây thời Pháp mở đường đã chuyển về đầu dốc Hàng Than. Nay ngôi đền này gọi là đền Đức Vua. Trên cổng đền có chữ đề “Bát Hải vọng từ”. Đức Vua cha Bát Hải của Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ của người Việt là cha rồng Lạc Long Quân.
Cũng tại phía Bắc hồ Trúc Bạch có đền An Trì, vốn là đền thờ Uy Linh Lang của phường Yên Phụ, là bằng chứng nữa cho thấy Linh Lang chính là Lạc Long Quân. Chữ Linh tương đương với chữ Lung, tức Long. Chữ Lang vốn là từ chỉ vua của người Việt. Linh Lang do đó nghĩa tương đương là Long Quân.
Linh Lang còn là từ chỉ chung các vị thủy thần thời kỳ Lạc Long Quân vì Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết những người con theo Lạc Long Quân xuống biển được gọi là các “Thủy thượng Linh thần”.
Ở vùng Bắc Ninh đặc biệt có tín ngưỡng thờ 3 vị Việt Nam Lạc Thị xuất hiện dưới dạng 3 con rồng trên trán có chữ Lạc Vương. Khi đối chiếu trên thực tế thì đó là Kinh Dương Vương (như ở lăng Kinh Dương Vương tại Á Lữ), Lạc Long Quân (như ở làng đúc đồng Đại Bái) và Hùng Vương (như ở đền Bình Ngô). Tương tự như cách thờ 3 vị Hùng Vương Thánh Tổ ở Phú Thọ là Đột Ngột Cao Sơn, Viễn Sơn, Ất Sơn, trong dòng xuống biển 3 vị tổ được thờ là 3 vị Việt Nam Lạc Thị.
Các vị thủy thần thời kỳ Lạc Thị (thời lập quốc họ Hùng) không chỉ có Lạc Long Quân. Khi đối chiếu sự tích, di tích và tên thờ ở các nơi thì có thể nhận ra các vị thủy thần đã làm nên Công đồng của Thủy phủ trong tín ngưỡng người Việt. Nhận diện một số nhân vật của Thủy phủ như sau:
Thần Chính khí Long Đỗ là Động Đình Đế Quân, ông ngoại của Lạc Long Quân.
Long cung Liễu Nghị là Kinh Dương Vương, cũng là Tản Viên Sơn Thánh của vùng núi Ba Vì.
Mẫu Thoải là Thần Long Động Đình, mẹ của Lạc Long Quân. Cũng là bà Đỗ Quý Thị Hương Vân Cái Bồ Tát trong dòng ngọc phả Cổ Lôi của tổng Xốm Bình Đà.
Vua cha Bát Hải Động Đình là Lạc Long Quân.
Ngũ vị Tôn quan là những người anh em sinh cùng bọc với Long Quân (lục bộ thủy phủ hay Đoài hồ Thất giáp).
Lãng Nhạc Quý Minh là người chú của Lạc Long Quân, em của Tản Viên Sơn Thánh – Kinh Dương Vương.
Diễn biến lịch sử cơ bản của thời kỳ này có thể kể như sau. Kinh Dương Vương lên ngôi ở vùng Ngũ hành cung Tản Viên tại Ba Vì (Sơn Tây) đã lấy Thần Long, con của Động Đình Đế Quân ở miền sông biển. Kinh Dương Vương tiếp ngôi của Thánh tổ Đế Nghi theo lối truyền hiền nên khi ông mất định trả lại ngôi vị cho chính dòng Đế Nghi là Đế Lai. Tuy nhiên, con của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân đã không nhường, dựa vào những người anh em Thủy phủ bên ngoại của mình đã đánh đuổi Đế Lai, giành lấy ngôi vị thiên hạ (trong hình ảnh bà Âu Cơ). Các thần tích kể thành chuyện các vị thủy thần giúp vua Hùng (Lạc Long Quân) đánh Thục.
4.000 năm trước Lạc Long Quân giành được ngôi chủ thiên hạ, lập Thủy quốc Động Đình, lấy khu vực hồ Dâm Đàm bên bờ sông Hồng làm kinh đô. Long Quân phân phong cho những người anh em công thần lập quốc phụ trách ngũ phương nơi đầu sông góc biển, trở thành các vị Long hầu của Thủy quốc. Từ đây, lịch sử Việt bắt đầu chế độ cha truyền con nối (Lạc Long Quân kế nối Kinh Dương Vương), gọi vua là Cha, của dòng Lạc thị.
Giai đoạn này bắt đầu từ Kinh Dương Vương nên được gọi là Kinh triều. Kinh triều truyền nhiều đời cha con kế nối nhau làm vua, cho tới thời Hùng Duệ Vương là đời cuối cùng của Kinh triều. Trong gần 1.000 năm của Kinh triều Lạc Thị nhân dân an cư lạc nghiệp, mở mang bờ cõi ven các con sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, thậm chí phát triển sang cả lên vùng phía Bắc, vượt sông Hoàng Hà, hình thành các nhóm tộc người như người Kinh – Mường, Tày – Thái – Choang, Mông – Dao…
Câu đối ở đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải Động Đình cùng các vị Tôn quan Thoải phủ:
Tứ thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích Thập bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh.
Nghĩa là:
Bốn nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ Mười tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.
Đây cũng là những nội dung chính của cuốn sách Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị do Nhóm Nghiên cứu Di sản Văn hóa Đền miếu Việt xuất bản năm 2025. Cuốn sách đã phân tích, đối sánh giai đoạn lịch sử Kinh triều Lạc Thị từ các góc độ thời gian, không gian, tín ngưỡng, nhân vật và dân tộc, khái quát thành các sơ đồ lịch sử rõ ràng và súc tích, cũng đồng thời cung cấp các văn bản Hán Nôm từ các di tích còn lưu lại tới ngày nay. Cuốn sách không chỉ là tập hợp những tư liệu di sản văn hóa mà còn mang lại một cách nhìn mới, minh định rõ ràng về thời đại của vua cha Lạc Long Quân cùng những người con xuống biến khai mở ra nền văn minh sông Hồng từ 4.000 năm lịch sử.
Thái Bình là tỉnh có cửa chính của sông Hồng đổ ra biển nên trong tín ngưỡng thờ thủy thần ở đây đặc biệt xuất hiện một hệ thống các vị thần biển mà nơi khác không có. Tuy nhiên, điều khác lạ nữa là các thần biển ở Thái Bình không phải chỉ có 1 vị, mà lại có đủ cả bốn phương tứ hải. Bản chất các vị Hải thần này ra sao, sẽ được làm sáng tỏ qua phân tích hệ thống các di tích thờ thủy thần ở Thái Bình.
Các vị hải thần được nói đến ở Thái Bình là những vị thủy thần, tức là những vị thần có nguồn gốc từ thời Hùng Vương, liên quan đến việc trị thủy, có thể là hiển linh qua các thời. Tên gọi “thủy thượng linh thần” hay “thủy tinh” dùng trong Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả để chỉ những người con của Lạc Long Quân đã được chia trị các vùng đầu sông góc biển. Phân biệt với các vị sơn thần là dòng theo mẹ Âu Cơ trị nhậm các nơi núi rừng, đồi gò.
Nếu từ “Sơn” được dùng chỉ các vị tổ thời Hùng Vương ở miền rừng núi thì từ “Hải” là để chỉ các vị thủ lĩnh cai quản vùng sông nước. Hải không chỉ có nghĩa là biển, mà là vùng ven sông nước nói chung. Do đó không chỉ có Đông Hải, Nam Hải, mà còn có Bắc Hải, Tây Hải, cho dù về mặt địa lý ở phía Bắc và Tây nước ta không hề có biển.
Phải chú ý là tên gọi các hải thần rất dễ lẫn với các nhân thần, tức là những nhân vật lịch sử ở thời kỳ gần hơn, đã từng cai quản hay có công nghiệp ở vùng ven biển Đông. Phổ biến nhất là Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng, một vị tướng nổi lên cuối thời Lý chống lại nhà Trần ở miền duyên hải. Cũng là tên Đông Hải Đại vương còn có vị tướng thời Lê là Nguyễn Phục, từng phụ trách việc quân lương, đã trung nghĩa tử tiết chịu tội để bảo vệ cho đoàn quân khỏi mưa bão trên biển Đông.
Nam Hải còn vốn là tên để chỉ khu vực miền Bắc nước ta thời kỳ trước Công nguyên, nên những vị quân chủ của nước ta khi đó khi hóa được tôn thần là Nam Hải Đại vương. Đó là vua An Dương Vương, người khi cùng đường chạy ra biển theo thần Kim Quy mà hóa. Đó cũng có thể là Triệu Vũ Đế, người đã khởi nghĩa chống Tần từ đất Thái Bình, nên được tôn là Nam Hải Đại vương hay Nam Hải Tạo lực.
Còn có Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ Vị Hồng Nương, tuy là thủy thần nhưng theo một mạch tín ngưỡng khác với thủy thần họ Hùng. Tên gọi Đại Càn Quốc gia Nam Hải cho thấy Nam Hải ở đây là chỉ “quốc gia”, chứ không phải là chỉ miền biển.
Cũng là thời Hùng Vương với tên gọi là Nam Hải, nhưng lại không phải là thủy thần. Đó là Quan Âm Diệu Thiện, con gái vua Hùng đã đi tu đắc đạo ở vùng đất Nam Hải. Quan Âm Nam Hải là vị sơn thần điển hình bởi đây chính là bà chúa Ba, tức bà chúa Thượng Ngàn.
Các di tích thờ Hải thần ở Thái Bình có thể được chia thành ba tuyến như sau.
Cụm di tích ven sông Luộc
Sông Luộc là dòng sông không đổ trực tiếp ra biển mà có dòng chảy ngang nối giữa sông Hồng và sông Thái Bình. Sông Luộc chảy qua địa phận hai huyện Hưng Hà và Quỳnh Phụ, với số các di tích thờ Hải thần tương ứng là 6 di tích ở Hưng Hà và 7 di tích ở Quỳnh Phụ. Có thể thấy đây là còn số khá khiêm tốn khi so với những cụm di tích ở phía Nam Thái Bình.
Trong số các Hải thần vùng sông Luộc chiếm lượng di tích nhiều nhất là thần Đông Hải. Sự tích vị thần này thường là không được biết rõ. Duy nhất ở xã Phú Sơn, huyện Hưng Hà có sự tích vị Đông Hải Đà La Đại vương hiển linh vào thời Lý đánh giặc Hồ Tôn Tinh.
Một số di tích khác ở vùng sông Luộc thờ Nam Hải, hiếm hơn có thần Tây Hải, nhưng cũng tương tự, đều không rõ sự tích. Thần Bắc Hải không thấy xuất hiện trong các di tích tín ngưỡng ở khu vực này.
Cụm di tích ven sông Diêm Hộ
Diêm Hộ là một sông nhỏ, bắt nguồn từ phía Nam huyện Quỳnh Phụ nhưng lưu vực của nó chủ yếu nằm ở huyện Đông Hưng và Thái Thụy. Thế nhưng điều lạ là lưu vực sông nhỏ Diêm Hộ lại là nơi có số lượng các vị Hải thần nhiều nhất. Huyện Đông Hưng có khoảng 14 di tích. Huyện Thái Thụy có khoảng 16 di tích. Số liệu này cho thấy mức độ dày đặc các di tích thờ Hải thần ở ven sông Diêm Hộ. Đơn cử như ở 1 xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, là tổng Trừng Hoài xưa, có tới 8 di tích thờ Hải thần. Trong đó 1 làng xưa chia thành vài thôn, mỗi thôn thờ 1 hoặc 2 vị ngay trong cùng 1 làng, với đầy đủ bộ 4 vị Đông Hải, Nam Hải, Tây Hải và Bắc Hải.
Với số lượng và mức độ phong phú đủ Tứ Hải thần như vậy thì có thể nhận định rằng vùng sông Diêm Hộ là nguồn gốc phát sinh của tín ngưỡng thờ Hải thần ở Thái Bình. Cũng ở khu vực này, các thần đã được thờ với sự tích tương đối rõ ràng hơn, mà cụ thể có thể thấy qua một số di tích.
Nam Hải Đại vương ở đình đền An Cố, Thái Thụy là vị thần có sự tích khá đầy đủ, cho biết ngài mang họ Phạm, là một vị tướng thời Hùng Duệ Vương. Khi ngài cai quản đã dẹp yên nạn hồng thủy, trừ thiên tai dịch bệnh cho nhân dân trong vùng. Ngài dạy bảo thần dân làm ăn thịnh vượng. Khi đất nước có giặc Thục xâm phậm, ngài cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn, Quý Minh đánh tan quân Thục. Có thể thấy sự tích về Nam Hải Đại vương ở An Cố không khác gì sự tích về Trung Thành Phổ Tế Đại vương của vùng sông Hồng. Vị thủy thần họ Đào này từng nắm chức vụ là Thổ Lệnh Thống quốc Lạc Long hầu Nam long Trưởng lệnh, tức là cùng hướng Nam trong bộ nhất bào ngũ tử.
Sự tích về Tứ Hải thần rất bất ngờ được biết qua di tích đình Lưu ở xã Đông Phương, huyện Đông Hưng. Theo thần tích của làng cho biết: dưới thời An Dương Vương, vua Thục mắc mưu quân Triệu Đà nên để đất nước rơi và tay giặc. Khi đó Vũ Cao Lỗ tướng công và một số trung thần con vua đã cùng ông Đồng phó tướng luyện binh. Được tin vua Thục thua trận rẽ nước xuống Trấn Thuỷ Phủ, hai ông chỉ còn biết kêu trời lạy đất cho quân sỹ trở về. Hai ông cho lui tới địa đầu vùng an lạc và cho quân nghỉ ở thôn An Vĩnh, nằm nghỉ trong miếu hai ông mộng thấy Thục An Dương Vương than vãn và phán rằng: Thượng đế đã phán xét chuẩn cho được trở lại Long Cung và truyền phong làm Nam Hải trấn trị hoành hợp các cửa sông để xoá đi cho tội lỗi đã qua vì trước đây hiếu thảo phụng sự Động Đình Đại đã có công. Ngoài ra hiện thân đã nhận việc là phối hợp với Đông Tây Bắc Hải các vị Long Vương đi cứu giúp dân cấy trồng được sinh lợi. Nói xong hai ông không thấy bóng dáng Thục An Dương Vương mà thấy một vị quan ở cổ miếu An Lạc xuất hiện. Tay trung thần cầm đao chiến của Thượng đế trao cho 2 ông, 2 ông đọc tờ chiếu, đọc xong trông lên cũng không thấy vị thần quan đâu. Hai ông liền ra sân lạy tạ Hoàng Thiên và quyết tâm thực hiện lời chiếu. Tiếp từ đó về sau các cửa sông, bờ biển nếu có gió bão, thuỷ tai dẫn đến đê điều bị phá huỷ, các vị thần đã luôn giúp dân trấn trị và hoành hợp thu được kết quả khả quan rất lớn. Do vậy các nơi đã lập đền miếu thờ tự – các vua trần gian hạ phối đều nam cấp duệ, hiện theo cửa sông thuộc phương nào là phong sắc với hàm vị: Đông – Tây –Nam – Bắc Hải Vĩnh trấn Đại Vương(sao từ bản gốc ở xã An Lạc trên đề Đình Lưu xã Đông Phương – Huyện Đông Hưng- cùng phụng sự).
Từ thần tích trên ta thu lượm được một số thông tin quý giá:
Thục An Dương Vương khi thua mất nước đã xuống Thủy phủ rồi được phong là thần Nam Hải, trấn trị các cửa sông. Thần tích gốc lấy từ xã An Lạc (nay là xã Đông Vinh cùng huyện Đông Hưng)
An Dương Vương hiển linh “phối hợp với Đông Tây Bắc Hải các vị Long Vương đi cứu giúp dân cấy trồng được sinh lợi”. Đây là thông tin rất then chốt cho biết các vị Hải thần là các Long vương hiển linh làm phúc thần cùng với An Dương Vương.
Các vua đời sau theo cửa sông thuộc phương nào là phong sắc với hàm vị: Đông – Tây – Nam – Bắc Hải Vĩnh trấn Đại Vương.
Như vậy Nam Hải An Dương Vương lại có liên quan đến Thủy phủ Động Đình và Tứ Hải Long Vương.
Một chút manh mối khác về Tây Hải Đại vương là ở đình Bái (Long Bối) xã Đông Hợp, huyện Đông Hưng kể rằng Tây Hải Đại vương là vị thần có công hộ đê thời Hồng Đức, phối thờ ở đây cùng với Đông Hải Nguyễn Phục và Nam Hải An Dương Vương. Sự tích tương tự về Tây Hải Đại vương hiển linh thời Lê còn gặp ở khu vực phía Nam Thái Bình trên lưu vực sông Trà Lý. Còn đối với thần Bắc Hải, là vị thần ít gặp thì không rõ sự tích, chỉ biết là phúc thần.
Sông Diêm Hộ cũng là nơi phát tích của sự tích vua cha Bát Hải Động Đình. Theo thần tích thôn Đào Động (nơi có đền Đồng Bằng thờ vua cha Bát Hải) thì Quý Nương sinh một bọc trứng, nở ra 3 con rắn. Con rắn thứ nhất ở cửa sông trang Đào Động. Con rắn thứ hai chạy về cửa sông trang Thanh Do. Con rắn thứ ba chạy về nằm ở trang Hoa Diêm. Ba địa điểm xuất thế của các vị thủy quan Động Đình này là Đào Động – Thanh Do – Hoa Diêm, đều nằm dọc theo sông Diêm Hộ. Ba con hoàng xà sau hóa thành ba vị tướng quân, giúp vua Hùng đánh Thục và xây dựng làng xóm quê hương miền Đào Động.
Cũng ở Đào Động còn thờ và có thần tích 5 vị hoàng tử con vua Bát Hải Động Đình là 5 vị thủy quan đã giúp vua Hùng đánh Thục rồi 5 vị được cử đi quản trị các cửa biển. Giống như thần Nam Hải ở An Cố, đây cùng là những người anh em sinh cùng bọc dưới thời Lạc Long Quân (vua cha Bát Hải), làm thủy thần trấn trị ngũ phương. Tức cũng là Ngũ vị tôn quan trong Công đồng Thoải phủ.
Sông Diêm Hộ ngày nay là dòng sông nhỏ, nhưng với sự phát tích dày đặc của các vị Hải thần ở đây thì rất có thể trong quá khứ nơi đây đã từng là cửa chính của sông Hồng đổ ra biển Đông. Có như vậy thì đây mới có thể tập trung nhiều nơi thờ Hải thần theo lối cổ như vậy.
Cụm giữa sông Trà Lý và sông Hồng
Khu vực thờ Hải thần ở phía Nam Thái Bình không bám theo 2 dòng sông lớn ở đây là sông Hồng và sông Trà Lý, mà phân bố ở khoảng giữa lưu vực hai con sông này. Có thể thủy văn thời cổ sử khác so với vị trí hiện tại của sông Hồng và sông Trà Lý.
Về số lượng di tích thờ Hải thần có huyện Vũ Thư với 3 di tích, TP. Thái Bình có 2 di tích. Huyện Kiến Xương có 12 di tích, huyện Tiền Hải có 7 di tích. Tuy số lượng di tích không hẳn nhiều như lưu vực sông Diêm Hộ nhưng các di tích ở đây thường là phối thờ 2, 3 vị Hải thần. Thường gặp là thần Đông Hải hoặc Nam Hải phối thờ với Tây Hải. Thần Bắc Hải không gặp ở khu vực phía Nam này.
Điển hình ở khu vực này là đền Vua Rộc tại xã Vũ An, huyện Kiến Xương, là một trong Chân Định tứ linh từ. Đền thờ 2 vị thần Đông Hải và Tây Hải Đại vương. Cho dù có sách cho rằng thần Đông Hải này là Đoàn Thượng thời Lý – Trần, nhưng ngay câu đối trong đền nói:
不記何年跡扥南交雙顯聖 相傳此地名髙真定四靈神 Bất ký hà niên, tích thác Nam Giao song hiển thánh Tương truyền thử địa, danh cao Chân Định tứ linh thần. Dịch: Không biết tự năm nào, dấu thác Nam Giao hai hiển thánh Lưu truyền nơi đất nọ, danh cao Chân Định bốn linh thần.
Câu đối cho biết đây là 2 vị cổ thần đã hiển thánh từ thời Nam Giao – Hùng Vương. Lạ nữa là câu đối khác trong đền đề:
瑞應金龜神爪依依留井上 威揚木馬健蹄隠隠仰橋邊 Thụy ứng Kim Quy, thần trảo y y lưu tỉnh thượng Uy dương mộc mã, kiện đề ẩn ẩn ngưỡng kiều biên. Dịch: Linh ứng Rùa Vàng, móng thần y nhiên nơi giếng cũ Oai dương Ngựa Gỗ, vó hùng thấp thoáng chốn cầu biên.
Không rõ tích thần trảo Kim Quy và dấu chân ngựa gỗ ở đây là nói tới sự tích nào. Rất có thể chỉ mối liên hệ tới vị Nam Hải An Dương Vương như ở huyện Đông Hưng đã kể trên.
Dù thế nào thì đền Vua Rộc chắc chắn là đền thờ các vị Hải thần. Điều này rõ ngay từ cái tên Rộc. Một số tác giả cho biết chữ Lạc có thể phục nguyên âm là Rộc, chỉ ruộng lúa. Tới nay người Mường vẫn gọi ruộng là rộc. Vua Rộc như vậy có thể là Vua Lạc hay Lạc Vương, phù hợp với thời Nam Giao mở nước.
Một sự tích lý giải khác cho đền vua Rộc lại có thể tìm thấy trong các đi tích thờ Hải thần trong cùng khu vực, là các di tích thuộc xã Bình Thanh cùng huyện Kiến Xương. Đây là tổng Đa Cốc xưa. Đình Đa Cốc thờ các vị Đông Hải Đại vương, Tây Hải Đại vương, Cao Sơn Quý Minh, Trưởng Thái Giám. Trong đó sự tích kể rằng Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng là con trai thứ 4 của Lạc Long Quân xuất thế, đã được người em cùng bọc của mình là Tây Hải Đại vương hiển linh phù giúp. Tây Hải Đại vương là con trai thứ năm của Lạc Long Quân. Đáng chú ý là Đa Cốc nằm ở gần sông Hồng nên sự tích có yếu tố của dòng Lạc Long như ở các tỉnh Hà Nam, Hưng Yên.
Như vậy sự tích ở Đa Cốc hoàn toàn tương đồng với đền Vua Rộc từ việc thờ 2 vị Đông Hải và Tây Hải, họ Lạc (Rộc), hiển linh ở thời Lý-Trần. Nói cách khác đây vẫn là các vị Hải thần dòng Lạc Long như ở khu vực sông Diêm Hộ nói trên.
Một số nơi ở Kiến Xương thờ thần Tây Hải với ghi nhận là vào thời Hùng Vương như ở đình Cao Mại Nhân (xã Quang Trung), đình Thượng Hiền (thôn Phú Cốc xã Nam Bình).
Một cụm di tích đáng chú ý khác của Kiến Xương là 3 làng Quân Bác, Bác Trạch, Phương Trạch thuộc tổng Nam Huân xưa, nay thuộc xã Vân Trường và Phương Công của huyện. Nơi đây có sự tích về 3 vị Hải Linh thần là Nam Hải Linh quan, Đông Hải Linh quan, Tây Hải Linh quan với truyền thuyết kỳ vĩ: thân các ngài cao vạn trượng, đầu to trăm thước, lấy sông làm nhà, lấy biển làm vườn, hít thở ngàn dặm, phun nước vạn thùng, tựa có 800 ngôi sao phù giúp sáng rực. Thần quẫy đuôi thành dông bão, đứng hàng đầu trong các vị thủy thần…
Đặc điểm riêng nữa của vùng phía Nam Thái Bình là bên cạnh thờ Tứ Hải Long vương, nơi đây còn thờ những vị hải thần chung khác như Thủy Hải, Đại Hải, Long Vương, đặc biệt là ở huyện Tiền Hải và khu vực gần với sông Hồng. Những vị hải thần này là những vị cũng từng gặp ở vùng sông Hồng phía tỉnh Hà Nam và Hưng Yên. Một số nơi ở Tiền Hải và TP. Thái Bình còn thờ thủy thần Quảng Lợi Bạch Mã, tức là thần Long Đỗ như ở vùng Thăng Long.
Tóm lại, qua việc phân tích các di tích thờ Hải thần ở Thái Bình có thể thấy nơi đây, nhất là vùng sông Diêm Hộ, là nơi phát sinh ra tín ngưỡng này. Bốn vị Đông Hải, Tây Hải, Nam Hải, Bắc Hải là những vị Long hầu thời Hùng Vương, trấn nhậm các vùng cửa sông góc biển, tham gia vào cuộc chiến đánh Thục lập quốc ban đầu của Lạc Long Quân (Bát Hải Động Đình). Đây cũng là bộ Ngũ vị tôn quan của Công đồng Thoải phủ. Trong tín ngưỡng hải thần, các vị được thờ dưới hình thức là các thủy thần hiển linh tạo phúc cho dân. Dấu vết của Tứ Hải Long vương như được nói đến trong các sách đạo Giáo thời Tần Hán không ngờ lại chính là từ vùng cửa sông Hồng đổ ra biển tại Thái Bình.
Nằm ở giữa dòng chảy của sông Cái (sông Hồng), từ ngã ba Việt Trì tới khu vực Hà Nam, Hà Nội mở rộng ngày nay gồm các vùng nội đô Thăng Long xưa; vùng Sơn Tây giáp với chân núi Ba Vì; vùng Thanh Trì, Phú Xuyên ở Hữu ngạn sông Hồng; vùng , Đông Anh, Long Biên ở Tả ngạn sông Hồng. Với một địa bàn rộng lớn dọc theo các con sông lớn như vậy, số lượng các di tích thờ các vị thủy thần ở Hà Nội có lẽ đứng đầu trong các địa phương. Các vị thủy thần ở Hà Nội có những hình tượng như sau:
Linh Lang Đại vương
Linh Lang, vị thủy thần hồ Dâm Đàm là vị thần có nhiều hóa thân ở vào các thời. Số di tích thờ Linh Lang chỉ riêng ở Hà Nội tới nay theo thống kê đã lên đến 96 nơi. Theo thần tích lá cờ soái của Linh Lang khi ngài hóa bay đến đâu, nơi đó lập đền thờ, thì con số 172 nơi thờ thực tế còn hơn thế.
Hóa thân phổ biến nhất là Hoàng tử Linh Lang (Hoàng Lang) giúp vua Lý Thái Tông đánh giặc Vĩnh Trinh ở Nam Hải hay đánh giặc Tống. Di tích thờ Linh Lang thời Lý gặp ở hai bên bờ sông Hồng về phía Nam Hà Nội, rất dày đặc ở Long Biên và Thanh Trì, Thường Tín. Cụm di tích của Linh Lang trấn Tây thành Thăng Long như ở đền Thủ Lệ, Ngọc Khánh, Hào Nam là nơi sinh của ngài. Cùng với cụm này là khu vực Bình Đà, Thanh Oai, Quốc Oai cũng thường là sự tích thời Lý. Còn ở đền Voi Phục, nơi Linh Lang hóa thành con Giao long trườn xuống hồ Tây, trở thành thủy thần hồ Dâm Đàm.
Hóa thân Linh Lang thời Trần tạo nên một loạt các di tích liên quan tới nhau. Linh Lang thời Trần được gọi tên là Uy Đô Linh Lang. Chiến tích của Uy Linh Lang là đánh giặc Nguyên Mông bên sông Bạch Đằng. Yên Phụ là nơi sinh, có đền An Trì bên bờ hồ Trúc Bạch là đền thờ Uy Linh Lang rất lớn xưa kia. Nhật Tân là nơi hiển linh bọc trứng, hóa thành 7 con rồng bay lên bên bến sông Hồng mùa hoa gạo nở tháng Hai. Chùa Vân Hồ ở Hà Nội là nơi Linh Lang tu hành. Nơi hóa của Linh Lang được chép theo thần tích là ở Thanh Cù, Kim Động, Hải Dương.
Trong sự tích Linh Lang thời Trần lại thường nhắc tới thánh Linh Lang bắt đầu từ thời Hùng Vương. Bà phi của Diệu Đế sinh ra một bọc trứng, cho là điềm gở, mang bỏ ra bãi Nhật Chiêu. Đến tối trứng nở ra 7 con rồng, bay lên trời sáng rực một vùng. Đây là vị Linh Lang cùng với 7 giáp Đoài hồ (hồ Tây) hiển thánh. Cách thờ với sự tích nhiều lần hóa thân như vậy thấy rõ nhất ở đình Tây Hồ và qua bản ghi chép Linh Lang thần hóa lục.
Trong các sự tích về Linh Lang, hồ Dâm Đàm được chép là kinh đô của Thủy quốc Động Đình. Hồ Tây cũng là nơi Lạc Long Quân cùng với Lục bộ Thủy phủ dâng nước diệt con cáo chín đuôi Cửu vĩ Hồ, tương ứng với Linh Lang Đại vương và Đoài hồ Thất Giáp như được thờ ở phía Đông của Hồ Tây. Di tích Linh Lang và các bộ thủy phủ nằm bao bọc phía Đông của hồ Tây từ Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm, Yên Phụ.
Còn một hóa thân ít thấy hơn là vị Linh Lang sinh vào thời Hùng Duệ Vương, đã cùng với Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc Thục. Di tích thờ Linh Lang đánh Thục khá hiếm, ở Hà Nội có đình Huyền Kỳ trong Thanh Oai là thờ theo sự tích này.
Quý Minh Đại vương
Đứng thứ hai về số lượng di tích được thờ là Quý Minh Đại vương, thống kê ở toàn Hà Nội cho con số 84 nơi thờ. Sự tích Quý Minh chủ yếu là vị tướng thời Hùng Vương, nhưng cũng có 2 “dị bản” chính. Phổ biến nhất là Quý Minh là Hữu kiên thần trong bộ ba vị Tản Viên Sơn, là tướng thời Hùng Duệ Vương đánh Thục. Rõ nét nhất theo sự tích này là các di tích của vùng Sơn Tây gần núi Ba Vì. Rải rác khắp Hà Nội là những nơi thờ Quý Minh cùng với Cao Sơn, tức là dưới dạng là một vị Sơn thần.
Một biến thể của sơn thần Quý Minh là vị Hùng Lãng Công của làng Quan Nhân. Sự tích Hùng Lãng Công thời Hùng Vương đánh giặc Nam Chiếu ở Quan Nhân là một cách kể khác về sự nghiệp của thần Lãng Nhạc Quý Minh.
Bên cạnh vị sơn thần Lãng Nhạc Quý Minh Hà Nội còn có những di tích thờ thần Quý Minh với sự tích cổ hơn. Cũng là người em của Thánh Tản, nhưng là con của Lạc Long Quân, tức ở thời đầu của thời kỳ Hùng Vương. Vị Quý Minh này thường được thờ độc lập, với sự tích thần đi từ cửa biển Thần Phù qua Hoa Quật, Long Biên rồi đến ở bến Long Đỗ bên bờ sông Cái. Thần hóa tại đây, là nơi đền thờ Quý Minh ở phường Đông Hà xưa. Đền Đông Hà ở phố Hàng Gai nay không còn nữa, nhưng ký ức về ngôi đền và thần Quý Minh ở đây còn lưu lại trong ghi chép về tục tế Xuân ngưu của Thăng Long xưa.
Một khía cạnh thờ Quý Minh như thủy thần là trong tên phong Đông Hải Quý Minh như ở Thượng Đình hay khu vực Mễ Trì. Di tích miếu Đầm là minh chứng rõ ràng cho tính chất thủy thần của vị thần ở đây. Ngoài ra, đáng chú ý là việc thờ Quý Minh ở đình Đông Xã ở trên đường Thụy Khê. Theo sự tích ở đây thì Quý Minh là anh em đồng sinh với Cao Sơn Đại vương, nhưng lại sinh ra ở ven hồ Tây, với vai trò như một vị thủy thần.
Những vị thủy thần đồng bào
Hình tượng các vị thủy thần có bà mẹ mộng ứng điềm rồng sinh ra một bầu nở ra 5 (có chỗ là 3 hoặc 2) người con, có tướng mạo kỳ dị, tài sức hơn người, lớn lên phù Hùng dẹp Thục là sự tích rất phổ biến ở vùng đồng bằng sông Hồng. Nổi bật hơn cả là câu chuyện về 5 anh em con ông Bộ trưởng Đào Công Bột nhất bào ngũ tử, làm các Long hầu tứ hải thời Hùng Duệ Vương. Trong số đó thường thì vị thứ ba là Trưởng Lệnh được phong chức Thủy tào Phán quan quyền chưởng Trung Hoa quốc tể, tức là tể tướng cầm đầu thủy quân của nước Trung Hoa.
Theo thần tích thì Thổ Lệnh Trưởng “sinh Bạch Hạc, thác Ba Lương” nên có 2 dòng sự tích. Một là cách kể về thần hiển linh ở ngã ba Bạch Hạc thời Đường Cao Tông trong cuộc đọ sức giữa Thổ Lệnh và Thạch Khanh. Trong dòng chuyện kể về Bạch Hạc Tam Giang là các di tích ở vùng Hoài Đức, Phúc Yên, Quốc Oai, Phúc Thọ, mà nổi tiếng là khu vực Tây Tựu với lễ hội bơi chải làng Đăm. Cùng với đó là một số di bản truyện Thổ Lệnh – Thạch Khanh như ở đình Viên Châu (Cổ Đô) thờ hai vị Thông Hà và Thủy Giang Linh ứng.
Một dạng sự tích theo nơi hóa của thần Thổ Lệnh Trưởng tại Đa Chất, Phú Xuyên, một làng đặc biệt bên ngã ba Tam Kỳ giang xưa. Các di tích dọc sông Hồng ở Thường Tín thường theo thần tích Trung Thành Phổ Tế Đại vương, tên phong của Trưởng Công Thổ Lệnh khi hóa. Hai cách kể ở Phú Xuyên hay ở Bạch Hạc nhìn chung khá giống nhau, nên nhận định rằng đây là một chuyện, một nhân vật là hoàn toàn hợp lý. Quan trọng hơn, nơi hóa của vị con thứ ba tại Đa Chất nằm không xa đền Lảnh, nơi thờ Quan lớn Đệ Tam của Thoải phủ. Sự tích Quan Đệ Tam cũng tương đồng từ một bọc nở ra 3 con Hoàng xà, rồi biến thành người giúp vua Hùng Duệ Vương đánh Thục. Quan Đệ Tam chính là Thổ Lệnh, vị Long hầu quyền cao nhất trong 5 người anh em.
Cùng sự tích nhất bào ngũ tử là các vị Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Tế, Quảng Xung, Quảng Hóa ở khu vực Thường Tín, Vân Đình như đình Giẽ Thượng, Giẽ Hạ, đền Hữu Vĩnh. Cũng là thủy thần xuất thế thời Hùng Vương đánh giặc, nhưng được kể là thời Hùng Vương thứ 8. Thực ra Hùng Vương thứ Tám, ở đây tương đương với Bát Hải Đại vương hay Bột Hải Đại vương, là người cha Đào Công Bột trong sự tích Thổ Lệnh – Thạch Khanh. Đáng chú ý là thần tích Hữu Vĩnh cho biết vị con cả Quảng Xung là con của Kinh Dương Vương. Nói cách khác đây chính là Lạc Long Quân cùng những người em của mình đã đánh đuổi dòng tộc phía Tây (Thục) lên núi mà lập nước họ Đào (Trung Hoa – Hạ).
Một nhóm thần tích và di tích khác về các vị thủy thần là ở vùng hồ Tây, tức hồ Dâm Đàm xưa. Các sự tích này thường có mối liên hệ với Linh Lang hay Uy Đô Linh Lang được thờ ở vùng này. Đó là hai vị Vương Đôi, Vương Ba thờ cùng với Uy Linh Lang ở đình Yên Phụ, là Thất Giáp Đoài hồ gồm Xích Giáp (Uy Linh Lang), Bạch Giáp, Hoàng Giáp, Hắc Giáp, Thanh Giáp, Chu Giáp, Tử Giáp như ở đình Nhật Tân. Khó nhận ra hơn là bộ ba vị thủy thần Triều Đình, Bảo Trung, Minh Khiết ở các di tích của tổng Hoàn Long, Hà Đông xưa như Nghi Tàm, Quảng Bá, Tây Hồ, Tứ Liên. Ở phía Nam hồ Tây khu vực Hồ Khẩu (nay thuộc đường Thụy Khê) là tích về Cống Lễ và Cá Lễ tại đền Dực Thánh và Vệ Quốc.
Dạng sự tích Ông Dài, Ông Cộc, kể về 2 con rắn là thủy thần xuất thế, từng hộ đê sông Cái cũng là một cách kể về các nhân vật trong nhóm các vị thủy quan thời Lạc Long Quân. Di tích hai vị thủy thần như vậy có thể kể đến đình Yên Phú ở Thanh Trì. Rải rác còn có những cụm di tích thờ các thủy thần cùng bọc tương tự như ở miếu Mạch Lũng (Đông Anh) thờ Ba vị Đại vương thời Hùng Vương.
Thủy Tinh Công chúa
Gắn liền với sự tích nhất bào ngũ tử là bà mẹ đã sinh ra các vị thủy thần đó. Bà được tôn là Thủy Tinh Phu nhân và được thờ ở nhiều nơi. Bà phi sinh ra Uy Linh Lang là Mẫu Hàn Sơn ở Yên Phụ. Bà mẹ sinh ra 5 vị thủy thần thời Hùng Vương thứ 8 ở Thường Tín là mẫu Tiên Dung Châu. Mẫu Thăng Long ở Hồ Khẩu là người vợ của thủy thần Cá Lễ tại đây. Bà Hạo Nương ở Bồng Lai (Đan Phượng), sinh ra Linh Lang thời Lý.
Một vị mẫu khác được gọi đích danh là Mẫu Thoải, con của Động Đình Đế quân trong sự tích Liễu Nghị truyền thư, như đền Dầm tại Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín). Đình làng Xâm Dương thờ các vị thủy thần của Tứ Hải, tức là có ý cho thấy rằng Mẫu Thoải, Xích Lân Long Nữ, là mẹ của các vị Linh Lang, thủy thượng linh thần. Tổng Xâm Thị xưa của huyện Thanh Trì cũng là nơi tập trung các di tích thờ Linh Lang như ở Xâm Hồ, Xâm Xuyên.
Trên vùng Hà Nội ngày nay rải rác ở các khu vực ven có các di tích thờ Mẫu Thủy Tinh ở dạng hiển linh phù trợ các đời sau, không rõ sự tích xuất xứ. Ví dụ như Nữ Bạch Ngọc Hồ Thuỷ tinh Lân tinh Công chúa thờ ở đền Đống Nước (Ngọc Hà) hay như Mẫu Thủy ở đền Giẻ Sen, Hoài Đức.
Thủy phủ Long Vương
Nói về các Thủy thần của thành Thăng Long không thể không nói tới thần Chính khí Long Đỗ. Vị thần này được thờ là thần trấn Đông Thăng Long tại đền Bạch Mã. Nhiều nơi gọi là thần Quảng Lợi Bạch Mã. Tuy nhiên tên gọi Bạch Mã liên quan đến con ngựa trắng trong sự tích hiển linh về sau, còn bản chất thực sự của thần là Long Đỗ, rốn rồng, tức là trung tâm, nơi kinh đô của Thủy quốc.
Người đã khai lập Thủy quốc ở vùng Động Đình, tức vùng sông biển đồng bằng Bắc Bộ, thì phải là Động Đình Đế Quân, cha của Động Đình Long Nữ (Mẫu Thoải). Động Đình Đế Quân có tên cúng trong Đạo giáo là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế, tức là vị Đông Vương Đế Quân, vị thần chủ của các nam thần trong Đạo Giáo. Trên khu vực Hà Nội Thủy phủ Đại đế được thờ ít nhất ở Liễu Châu (Ba Vì) và vạn chài Liên Ngạc (Từ Liêm), theo như thần tích còn lưu lại ở đây.
Trong tục thờ ba vị thủy thần Thủy phủ như ở Liễu Châu thì sau Thủy phủ Đại đế là vị Thủy phủ Vô Biên Trang Nghiêm Vân Hải Long Quân. Vị này tương ứng trong sự tích ở Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) là tên phong của ông Hùng Hải, người sinh ra các vị thủy thần cùng bọc. Như thế tương ứng thì Hải Vân Long Vương sẽ phải là Kinh Dương Vương, được tín ngưỡng theo góc nhìn của Thủy phủ.
Vị thần thủy phủ tiếp theo là Thủy phủ Đại Thiên Long Chủ Bát Hải Long Vương như tên thờ ở Liễu Châu. Đền thờ Bát Hải Động Đình Long Vương nay còn tại phố Hàng Than. Xét thứ bậc và tên gọi thì Bát Hải Long Vương chính là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương – Hải Vân Long Vương và Mẫu Thoải Quý Nương.
Bát Hải Động Đình Long Vương là vị vua được xếp trong bộ ba thần chủ của tín ngưỡng Tam phủ xưa kia. Cùng với Thiên phủ Ngọc Hoàng, Địa phủ Diêm La thì Thủy phủ có Bát Hải vua cha. Tín ngưỡng thờ ba vua Tam phủ vốn từng khá phổ biến, nay còn di tích như như đền Tam phủ ở Thu Quế (Đan Phượng), ở chùa Thầy, hay trong chùa Giang Xá (Hoài Đức).
Cùng bộ với các thần Thủy phủ là Hà Bá Thủy quan, gặp tương đối nhiều (khoảng 7 di tích) ở Sơn Tây, Hà Đông, nhất là ở các vạn chài ven sông như Vạn Đài Thần (Đan Phượng), Vạn Hà Trì (Hoài Đức) hay Thủy Cơ Cấn Xá (Quốc Oai). Tuy được thờ như một dạng “nhiên thần”, đất có thổ công, sông có Hà Bá, nhưng vài nơi có sự tích cho biết Hà Bá là một vị tướng đã giúp vua Hùng đánh Thục. Xét vậy thì có thể Hà Bá chính là Lạc Long Quân (Linh Lang) hoặc Thổ Lệnh Trưởng (Bạch Hạc Tam Giang).
Một “nhiên thần” thực sự là ông Lốt Tam đầu Cửu vĩ Long vương được thờ ở đình Nam Dư Hạ, phường Lĩnh Nam. Đây là hình tượng hệ thống sông ngòi trên đồng bằng Bắc Bộ xưa, với Tam đầu trên nguồn là ba sông Đà, sông Lô, sông Thao, Cửu vĩ là chín nhánh sông Cái đổ ra biển Đông. Rốn rồng Long Đỗ là phần trung tâm của sông nằm ở đất Thăng Long xưa, là hồ Tây vốn nối liền với sông Nhị Hà.
Một dạng thủy thần làm mưa được biết ở vùng Linh Đàm là Bảo Ninh Long Vương, học trò của Chu Văn An. Thật khó biết đây là hóa thân của vị nào từ thời Hùng Vương, nhưng nhiều khả năng nhất đây là một trong các vị của sự tích nhất bào ngũ tử.
Lạc Thị Hồng Bàng
Cũng là dòng “thủy thần” nhưng “thủy” với nghĩa là những người con đã theo cha Lạc Long Quân xuống khai phá vùng đồng bằng Động Đình xưa, tức là những vị được thờ theo góc độ là “nhân thần”. Đầu tiên, chính là Lạc Long Quân được thờ đúng tên, đúng “chức danh” như ở đình Nội Bình Đà, hay đình Trung Văn Ngọc Trục. Sự tích về Lạc Long Quân tất nhiên là xem trong Truyện họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam chích quái.
Ở vùng Đại Mỗ có tín ngưỡng thờ Thủy Hải Long vương, là con của Lạc Long Quân. Vị thần này thường thờ cùng Ả Lã Nàng Đê nên khó xác định đây là “nhân thần” hay thần hiển linh đời Trưng Vương.
Rải rác ở nhiều nơi thờ những người con của Lạc Long Quân đã có công xây dựng làng xã như Giám Sát Đại vương ở Đồng Trúc (Thạch Thất), Thông Đạt Đại vương ở Thịnh Liệt, Đại Long ở Tử Dương (Ứng Hòa), Nam Phổ ở Yên Thường (Gia Lâm), Hải Tế ở Kiều Mộc (Cổ Đô).
Cần chú ý là những người con của Lạc Long Quân không phải là các vua Hùng, vì các vị Hùng Vương là cách gọi của dòng theo mẹ Âu Cơ lên núi. Nói dễ hiểu hơn, Hùng Vương là con cháu, dòng dõi từ Âu Cơ. Còn những người con kế nghiệp Lạc Long Quân được gọi là các Lạc Vương, Lạc hầu, Lạc tướng, cai quản các vùng cửa sông góc biển vùng đồng bằng.
Chử Đồng Tử
Vị thần bất tử đã cùng với công chúa con vua Hùng bay lên cung trăng từ vùng đầm nước Dạ Trạch bên sông Hồng cũng được thờ ở Hà Nội. Ngay trong trung tâm thành phố, không hiểu sao các nơi thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung lại cùng nằm trên phố Thợ Nhuộm. Có thể nơi đây từng là nơi định cư của người dân đến từ vùng Khoái Châu, Hưng Yên chăng?
Ngoại thành phía Nam Hà Nội hai bên bờ sông Hồng có các di tích thờ Chử Đồng Tử như Chử Xá, nơi quê nội của ngài, hay ở Thanh Trì phía đối diện bên kia bờ sông. Đặc điểm của những nơi này là thờ đủ cả 3 vị Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Tây Sa Công chúa. Còn ở các huyện “miền núi” của Hà Nội như Mỹ Đức, Phúc Thọ, rải rác có 1-2 nơi thờ Chử Đồng Tử.
Thông thường những nơi thờ nhà Chử thì không phối thờ cùng các vị thủy thần khác như Linh Lang, Quý Minh, Thủy Tinh, Thổ Lệnh, dường như đây là những vị thần “kỵ nhau”. Điều này dễ hiểu, bởi Chử Đồng Tử được coi là một “loạn thần” của triều Hùng (Lạc triều) đã cướp công chúa và xây dựng quốc gia riêng ở đầm Dạ Trạch. Cái kết là Chử Đồng Tử đành “đi tu”, đắc đạo thành tiên mà bay lên trời, trả lại thiên hạ cho dòng dõi Lạc Thị.
Vào thời kỳ Lạc Long Quân khai phá Động Đình thì Hà Nội là vùng bán ngập nước ven sông biển, đồng bằng Bắc Bộ đang lộ dần ra do bước vào thời kỳ biển thoái. Những vị thủy thần ở đây là những vị thủ lĩnh của cộng đồng người sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, xăm mình, lội nước, đắp đê, mở làng mở xóm từng bước theo mực nước rút. Bãi biển ngàn năm nay đã thành nương dâu, nhưng sự nghiệp của các tiền nhân thời lập quốc còn sống mãi không thể quên trong hàng trăm di tích văn hóa tín ngưỡng trên mảnh đất rồng thiêng này.
Gương đồng dạng trùng liệt thần thú thời Tam Quốc tìm thấy ở di chỉ Óc Eo – Ba Thê.
Thoải phủ hay Thủy phủ trong địa lý văn hóa Việt ứng với hướng Đông, nơi có biển Đông (Động Đình) và đồng bằng sông Hồng (sông Đào). Cội nguồn của đạo Mẫu Tam Tứ phủ xuất phát từ khu vực này nên Thoải phủ đóng vai trò rất quan trọng trong thần điện của Tứ phủ. Xin điểm lại những vị thần chính được ghi chép và thờ phụng trong Động Đình Thoải phủ.
Các vị thần của Thủy phủ được kể đến từ những hướng ghi chép khác nhau. Huyền sử Việt như trong Truyện họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam chích quái được lấy làm căn cứ chính. Truyền thuyết Trung Hoa về các vị thần thời cổ, đặc biệt là trong Đạo giáo, là một góc nhìn khác. Tín ngưỡng thờ cúng các vị thủy thần ở miền Bắc Việt và miền Trung (Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng là những sắp xếp khác của 2 vùng đất cổ Hồng và Lạc từ thời lập quốc Hùng Vương. Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, do Nguyễn tộc ở khu vực Thanh Oai lưu truyền lại là một cách kể, cách sắp xếp khác nữa. Nhưng tất cả đều là hình bóng của một giai đoạn lịch sử của người Việt đã theo cha Lạc Long Quân đi khai phá miền duyên hải.
Động Đình Đế Quân
Khởi đầu của Thủy phủ Động Đình là từ Động Đình Đế Quân, người cha của mẫu Thần Long, được nhắc đến trong Truyện họ Hồng Bàng. Trong các di tích vị này được thờ với tên là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, như ở làng An Nội, thôn Khương Thị, tổng Cổ Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, hay ở đền Thanh Liệt và đền Nghĩa Sơn bên dòng sông Lam của huyện Hưng Nguyên, Nghệ An.
Ở khu vực kinh đô rồng của Thủy quốc Động Đình tại trên đất Thăng Long, Động Đình Đế Quân chính là thần Long Đỗ được kể đã từng hiển linh trước Cao Biền trong Truyện thần chính khí Long Đỗ. Đền thờ thần là đền Bạch Mã, trấn Đông của thành Thăng Long. Chú ý là đền Bạch Mã thờ cả 2 vị thần là thần Long Đỗ và thần Tô Lịch (Bạch Mã), nên thần Long Đỗ không phải là thần Bạch Mã. Một nơi khác thờ 2 vị thần này là ở vạn Liên Ngạc ven sông Hồng trên vùng Từ Liêm, thờ Thủy phủ Chí tôn Long Vương và thần Tô Lịch.
Cổ Lôi ngọc phả của Nguyễn tộc ở Bình Đà cũng cho biết cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch vùng Nghi Tàm, là cha của bà Đỗ Thị Ngoan, tức là mẫu Thần Long trong trong Truyện họ Hồng Bàng.
Trong truyền thuyết Trung Hoa thì Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế là Đông Vương Công hay Đông Hoa Đế quân, vị thần chủ các nam tu trong Đạo giáo. Trên gương đồng thời Đông Hán – Tam quốc thường có đúc hình Tây Vương Mẫu và Đông Vương Quân như hai vị thần chủ các vị thần tiên ở 2 hướng Đông Tây, cho các nam – nữ đạo nhân.
Thần Long Động Đình
Vị mẫu của Thoải phủ là bà Xích Lân Long Nữ, là con gái của Long Vương Động Đình, vợ của Kinh Dương Vương trong Truyện họ Hồng Bàng. Bà là người sinh ra Lạc Long Quân. Mẫu Thần Long đặc biệt có nhiều tên gọi trong các sự tích khác nhau như là Động Đình thánh mẫu Phan Cù Nương trong sự tích ở La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là bà Trang Hoa trong sự tích ở Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là Quý Nương sinh Hoàng xà trong sự tích ở Đào Động, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Bà cũng là Đông Cuông Thánh mẫu ở Tuyên Quang, người sinh ra Linh Uyên Đại vương ở đền Ngọc Tháp, Lâm Thao, Phú Thọ. Bà là bà Diệu Đế trong sự tích Uy Linh Lang ở hồ Dâm Đàm.
Trong sự tích về Tản Viên Sơn Thánh thì bà là con rắn Thủy Tinh, con của Động Đình Long Vương, đã được Sơn Thánh cứu sống bên bãi Trường Sa. Trong dòng sử Cổ Lôi ngọc phả thì đây là con gái của Long Đỗ Hải vương, tức là bà Đỗ Thị Ngoan, người được tôn là Sa Bà giáo chủ. Trong truyền thuyết Trung Hoa bà là Đồ Sơn Thị, người đã kết duyên cùng với vua Đại Vũ khi trị thủy.
Kinh Dương Vương
Một trong những vị vua của Thủy phủ chính là Kinh Dương Vương, được kể đến là vị Liễu Nghị. Di tích về Liễu Nghị cùng với Xích Lân Long Nữ còn dọc theo sông Hồng như ở Thanh Miện, Hải Dương, hay ở vùng Hà Nam, thậm chí còn vào tới Nghệ An như tại đền Nghĩa Sơn, Hưng Nguyên. Trong Hoa sử thì Kinh Dương Vương là vua Đại Vũ trị thủy ở Long Môn.
Với tư cách là cha của các vị Long hầu, Kinh Dương Vương được kể là Hùng Hải ở sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay ông Đào Bột trong sự tích về Thổ Lệnh Trưởng Trung Thành Đại vương. Ở Nghệ An, có sự tích Kinh Dương Vương gặp Thần Long tại cửa biển Hội Thống. Ở vùng này Kinh Dương Vương được thờ là Mạch Sơn Trấn quốc, hay đơn giản là Mạc Sơn trong tên thần Cao Các Mạc Sơn.
Trong Cổ Lôi ngọc phả thì Kinh Dương Vương được gọi là cụ Nguyễn Minh Khiết, người đã ruồng bỏ bà Đỗ Thị Ngoan. Cụ Nguyễn Minh Khiết có 2 anh em nữa là Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Đây là bộ ba Tam vị Tản Viên, được Cổ Lôi ngọc phả gọi thành Tam phủ Công đồng.
Cụ Nguyễn Long Cảnh tuy không phải đứng trong Thủy phủ Động Đình nhưng là người có liên quan mật thiết tới Thủy phủ vì đã theo giúp cháu đánh giặc. Trong tín ngưỡng Việt thì vị này được thờ là Lãng Nhạc Quý Minh, Hữu kiên thần của Tản Viên Sơn Thánh, người từng đi từ cửa Thần Phù lên đến bến Long Đỗ và hóa ở đó. Đền thờ Quý Minh ở Thăng Long là ở phường Đông Hà, huyện Thọ Xương dưới thời Lê là ngôi đền tham gia vào lễ tế Xuân ngưu.
Lạc Long Quân
Vua cha Bát Hải Động Đình, người đứng đầu thủy cung thì không ai khác là cha Lạc Long Quân mà người Việt coi là quốc tổ. Trong Tứ phủ Lạc Long Quân được gọi là vua cha Bát Hải Động Đình, xuất thế nơi biển Động Đình, đánh giặc Thục ở phía Tây, dựng nên nước Đào – Hoa – Hạ. Đền thờ chính là đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ, Thái Bình. Trong Hoa sử thì đây là Hạ Khải, người mở đầu Hoa Hạ.
Ở vùng hồ Tây, Lạc Long Quân là thủy thần hồ Dâm Đàm, người đã cùng Lục bộ thủy phủ dâng nước diệt Cửu vĩ Hồ. Ở đây Lạc Long Quân được thờ với tên là Linh Lang hay Uy Linh Lang, cũng là vị thần rất phổ biến ở ven các dòng sông trên đồng bằng Bắc Bộ.
Trong Cổ Lôi ngọc phả Lạc Long Quân được gọi là Kinh Dương Vương Nguyễn Quảng, mà dẫn chứng cụ thể là bức giá tượng Lạc Long Quân ở đình Nội Bình Đà được ngọc phả này gọi là Kinh Dương Vương.
Trong quan hệ với Động Đình Đế Quân (Long Đỗ) và Bột Hải Vương (Kinh Dương Vương) thì Lạc Long Quân được thờ là Hà Bá Thủy quan. Tục thờ Hà Bá Thủy quan gặp phổ biến ở Hà Nam như ở làng Hàn Mặc – tổng Cổ Viễn, làng An Cước, làng An Thái – tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, làng An Mông, tổng Đọi sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Hà Bá Thủy quan còn gặp ở trong các đền thờ Thủy phủ ven sông Lam ở Nghệ An như đền Thanh Liệt, đền Nghĩa Sơn ở huyện Hưng Nguyên.
Ngũ vị tôn quan
Riêng Thoải phủ với vai trò lập quốc như vậy nên có thêm hàng các vị quan lớn, hợp thành ban Công đồng trong thần điện. Đây là những vị quan tướng đã theo vua cha Bát Hải làm cuộc “kháng chiến” đánh Thục và lập nên quốc gia lịch sử chính thức đầu tiên của người Việt là Hoa Hạ.
Trong số 5 vị thì đáng kể nhất là Quan lớn đệ Tam và Quan lớn đệ Ngũ. Quan đệ Tam là Trưởng Lệnh hay Thổ Lệnh (Thủ Lệnh), đứng đầu quan chức của Thoải phủ. Nơi hiển danh của ông là Lảnh giang hay Yên Lệnh (nơi yên nghỉ của Trưởng Lệnh).
Quan lớn đệ Ngũ còn gọi là Quan tuần Tranh, có lẽ là người “thi hành công vụ” chính (nay ta gọi là hành pháp). Nơi hiển danh chính là ở sông Tranh (Hải Dương). Quan đệ Ngũ còn được gọi là Thạch Khanh trong sự tích các vị thần Tam Giang của ngã ba Bạch Hạc. Vị này nổi tiếng còn bởi nỗi oan khuất, bị đày lên sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn.
Sự tích các vị thủy quan sinh cùng một bọc, lớn lên được cử trấn nhậm các phương đầu sông góc biển có khá nhiều. Như đó là 5 vị Long Vương trong sự tích La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay Tam Công Long Vương trong sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay 5 vị Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Tế, Quảng Hóa, Quảng Xuyên ở vùng Ứng Hòa. Cũng là Tam Lang Long Vương thờ phổ biến ở vùng Hà Tĩnh.
5 vị tôn quan trấn trị 5 phương, được truyền thuyết Trung Hoa gọi là Ngũ đế Thiên hoàng hay Ngũ phương Yết đế. Hình tượng 5 vị này được thể hiện trên những chiếc gương dạng thức trùng liệt thần thú, gặp phổ biến dưới thời Tam quốc.
Cổ Lôi ngọc phả kể 8 người anh em họ Đỗ đi tu trở thành Bát bộ Kim cương, cũng chính là các vị tôn quan của Thoải phủ. Trong sự tích hồ Dâm Đàm thì đây là Lục bộ Thủy phủ của Lạc Long Quân hay Đoài hồ Thất Giáp theo Uy Linh Lang như ở đình Nhật Tân. Phía bên đường Thụy Khuê, là ven sông Tô Lịch trước đây thì các vị Lạc Long hầu là hai vị Cống Lễ và Cá Lễ ở đền Dực Thánh và đền Vệ Quốc.
Tuy không thuộc giai đoạn lập quốc vùng sông nước Động Đình, nhưng lại có liên quan đến thời kỳ này là những vị thần của dòng Lạc Long ở giai đoạn cuối của Kinh triều. Sử Việt gọi là Sùng Lãm (phân biệt khác với Lạc Long Quân ở giai đoạn đầu Kinh triều). Ở vị trí này thì Sùng Lãm là Tản Viên Nguyễn Tuấn. Cổ Lôi ngọc phả gọi là Hùng Lãm, là Pháp Lôi trong Tứ pháp. Trong Hoa sử đó là vị Bắc bá hầu của nhà Ân Thương, được biết dưới tên Sùng Hầu Hổ, đã chống lại cuộc tấn công của Tây bá hầu Cơ Xương, mà sử Việt gọi là giặc Thục. Những người anh em của Tản Viên Nguyễn Tuấn là Cao Sơn và Quý Minh, cũng là trong bộ Tứ pháp của Cổ Lôi ngọc phả. Phân biệt các vị Cao Sơn, Quý Minh họ Sùng ở đời Hùng Vương thứ 18 (đời cuối) với các vị Cao Sơn, Quý Minh trong bộ Tam vị Tản Viên thời lập quốc Kinh triều.
Câu ca dao xưa về dòng dõi Tiên Rồng xuất phát từ cái nôi Đào Hoa Hạ ở vùng Động Đình Thủy phủ: Gió Động Đình mẹ ru con ngủ Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh Tiết trời thu lạnh lành lanh Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông Bống bồng bông, bống bồng bông Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên.
Trung Thành Phổ Tế Đại vương là một vị thần được thờ ở nhiều nơi, rộng khắp dọc theo sông Hồng. Thống kê trong hệ thống bản khai thần tích thần sắc các làng năm 1938 thì có 96 nơi thờ Trung Thành Đại vương, tập trung nhất là ở Hà Đông cũ (chủ yếu ở Thường Tín, Phú Xuyên) gồm 37 nơi, Hà Nam 14 nơi (chủ yếu ở Duy Tiên), Hưng Yên 11 nơi (Kim Động), Kiến An (An Dương, Hải Phòng nay) 11 nơi, Sơn Tây 6 nơi (Quốc Oai và Phúc Thọ, nay thuộc Hà Nội), Phú Thọ 2 nơi (Việt Trì), Vĩnh Yên và Bắc Ninh mỗi chỗ 4 nơi. Đây chắc chắn là thống kê còn chưa đầy đủ, số lượng các nơi thờ Trung Thành Đại vương như vậy lên tới hàng trăm chỗ. Sự tích về Trung Thành Đại vương có thể tóm tắt như sau. Vào đời Hùng Duệ Vương, có ông bộ trưởng Hải Dương là họ Đào tên Bột, lấy vợ thứ, sinh một bầu năm trứng, nở ra 5 người con trai, đặt tên là Cự, Hồng, Trưởng, Thạch Khanh, Quý Lân. 5 người con có hình dung tướng mạo kỳ dị, tính ưa chơi đùa dưới nước, khi trưởng thành sớm có kỳ tài dị thuật. Khi vua Hùng mở trường thi tuyển hiền, 5 người ra ứng thí, được nhà vua phong chức trong, phụ trách 5 phương. Các ông nhận nơi trị nhậm, an yên dân chúng ở đó, mưa nắng thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Khi đất nước có quân Thục đến đánh, các ông cùng với Tản Viên Sơn Thánh dẫn quân chống giặc. 3 vị Cự, Hồng, Quý hóa sớm. Ông Trưởng được thăng chức là Thổ Lệnh Trưởng, cầm đầu thủy quân, phá tan giặc. Rồi ông lại đánh giặc Hồng Châu, chém đầu tướng giặc. Sau ông được phong là chưởng quản thuyền rồng, là Trung Hoa tể quốc, đi tuần hành khắp dọc các sông. Ông xây dựng cung thứ nhất ở ngã ba Bạch Hạc, cung thứ hai ở ngã ba sông Lương giang, và nhiều hành cung các nơi khác. Sau này ông hóa ở cung Tông Chất (tức Đa Chất ở Lương giang), được tôn thờ là Trung Thành Phổ Tế Đại vương. Đến đời Đường Vĩnh Huy, đô đốc Giao Châu là Lý Thường Minh có gặp các ông hiển ứng ở quán Tam Thanh tại ngã ba Bạch Hạc. Khi đó hai ông Thổ Lệnh và Thạch Khanh thi đấu tài nghệ. Ông Thạch Khanh lấy sức nhảy qua bờ bên kia sông thì đã thấy ông Thổ Lệnh ở đó trước. Thế là Lý Thường Minh cho tạc tượng hai ông để thờ trong quán Tam Thanh bên bến Việt Trì. Truyện này được chép trong Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh.
Bài vị Trung Thành Phổ Tế Đại vương ở đình Đồng Văn, Hà Nam.
Phân tích so sánh sự tích về Trung Thành Thổ Lệnh Trưởng có thể thấy:
Ông bộ trưởng Đào Bột:tương tự sự tích Hùng Hải Công ở Đào Xá, Phú Thọ, sau làm bộ trưởng Hải Dương, có tên là Hải Vân Long Vương Động Đình Thủy Đế. Đây cũng là Kinh Dương Vương, với góc nhìn từ Thủy phủ Động Đình.
Nhất bào ngũ tử: Trước khi sinh bà phu nhân của ông bộ trưởng từng gặp điềm 5 quả trứng trên mặt nước trôi đến, vỡ chảy thành nước thấm quanh người, từ đó mang thai sinh ra một bọc 5 trứng. Nở ra 5 người con có hình dáng kỳ dị như thủy thần xuất thế. Sự tích này tương tự việc bà Trang Hoa sinh Tam Công Long Vương ở Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ. Cũng giống chuyện bà Phan Cù Nương sinh ba con rắn ở Thanh Thủy, Phú Thọ, hay chuyện Quý Nương sinh 3 con Hoàng xà ở đền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Cũng giống như sự tích 5 anh em cùng bọc Quảng Bác, Quảng Xung, Quảng Xuyên, Quảng Tế, Quảng Hóa ở khu vực Duy Tiên – Cầu Giẽ – Chương Mỹ, hay chuyện Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh, và nhiều nơi khác, với cốt truyện chung là sinh bọc trứng nở ra 2, 3 hay 5 người con hình dáng như rồng rắn, là thủy thần xuất thế.
Những người con khi trưởng thành được cử đi trấn nhậm các xứ đầu sông góc biển. Ngọc phả làng Phú Nhiêu (Phú Xuyên, Hà Nội) chép: • Ông thứ nhất làm chủ tể quận thành Hải Dương, đóng ở ngã ba sông Hồng • Ông thứ hai làm chủ tể đạo Sơn Tây ở ngã ba hợp lưu của sông Lâm Thao, sông Đà, sông Chiểu, tục gọi là ghềnh Ba Chậu (Triệu). • Ông thứ ba là ông Trưởng là chủ tể quận thành Sơn Nam, đóng tại đất trang Tông Chất, huyện Phù Vân, phủ Thường Tín. Cung điện dựng ngự ở nơi trán rồng chỗ ba sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu. • Ông thứ tư là ông Quý xây thành và cung điện ở thành Kinh Bắc, ngã ba sông Vũ, sông Cẩm, cung đóng ngự ở thế chính đầu vùng đất chim loan. • Ông thứ năm xây thành ở Nam Chân, quận Giao Chỉ, ngã ba sông Vạn và cửa biển, cung ngự đóng ở chính cục đầu con lân. Một trong những nơi các ông trấn nhậm là ghềnh Ba Triệu ở chỗ hợp lưu của sông Đà, sông Thao, chính là khu vực Thanh Thủy, nơi có sự tích các vị thủy thần trấn nhậm trong thần tích Đào Xá hay thần tích La Phù.
Ngũ vị tôn quan: Sự tương đồng trong sự tích về sinh một bầu nở ra nhiều người con và đặc biệt là sự trùng khớp về nơi hiển linh của vị thứ ba Trung Thành Thổ Lệnh Trưởng ở Đa Chất (Duy Xuyên) với Quan lớn Đệ tam Thoải phủ ở đền Lảnh (Yên Lệnh) cho thấy 5 anh em trong sự tích Trung Thành Đại vương cũng là Ngũ vị tôn quan của Tứ phủ.
Trung Quốc Hoa Hạ: Triều đại của ngũ vị long hầu này là thời Lạc Vương, như ngọc phả Phú Nhiêu có gọi Thổ Lệnh Trưởng là Lạc Long hầu. Đây cũng là thời kỳ mở đầu của nhà Hạ của Trung Hoa, được nhắc tới trong họ Đào của ông bộ trưởng Hải Dương vì Đào là màu đỏ, cũng tương ứng với Hoa Hạ. Thổ Lệnh Trưởng còn được phong chức là Trung Hoa tể quốc, càng cho thấy rõ điều này.
Giặc Thục ở Hồng Châu: 5 vị long hầu thủy quốc thường được chép là đánh giặc Thục và/hoặc đánh giặc Hồng Châu. Đây là cuộc chiến lập quốc của nhà Hạ, khi Lạc Long Quân (tức Hạ Khải) đã đánh đuổi chính dòng của Đế Nghi và Đế Lai, dành lấy quyền cai quản Thiên hạ Trung Hoa khi đó. Đế Nghi vốn đóng đô ở đất Hồng Lĩnh nên dòng tộc này được truyền thuyết gọi thành giặc Hồng Châu. Đế Lai bị đánh đuổi phải bỏ chạy về phía Tây lên núi, nên được gọi là dòng Thục (Thục nghĩa là phía Tây).
Ngũ đế thiên hoàng: 5 người con trấn nhậm 5 phương Đông Tây Nam Bắc, là các Long Vương của những khu vực này. Ngọc phả đình Tri Thủy (Phú Xuyên) chép: • Người thứ nhất là Đông Long Thái sư • Người thứ hai là Tây Long Thái phó hầu • Người thứ ba là Nam Long Trưởng lệnh hầu • Người thứ tư là Bắc Long Thái bảo hầu • Người thứ năm là Trung Long Thiếu quý hầu. 5 vị Long hầu ở đây tương ứng với Ngũ đế thiên hoàng trong Đạo giáo Trung Hoa, theo Lão Tử trung kinh: • Thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thương đế, Đông Hải quân; • Thần phương Nam tên là Chúc Dung Tử, hiệu là Xích Tinh Thành Tử, là Nam phương Xích đế, Nam Hải quân; • Thần phương Tây phương tên là Nhục Thu Tử, hiệu là Hạ Lý Hoàng Công; là Tây phương Bạch đế, Tây Hải quân; • Thần phương Bắc tên là Ngu Cường Tử, hiệu là Huyền Minh Tử Xương, là Bắc phương Hắc đế, Bắc Hải quân. • Thần Trung ương tên là Hoàng Thường Tử, hiệu là Hoàng Thần Bành Tổ, là Trung ương Hoàng đế quân. Tứ hải Long Vương (Đông Hải, Tây Hải, Bắc Hải, Nam Hải) như vậy thực ra không phải là 4 vùng biển, mà là 4 khu vực sông nước ở thời kỳ lập quốc, chia theo 4 phương.
Truyện Thổ Lệnh và Thạch Khanh hiển linh và được thờ ở quán Tam Thanh bên bến Việt Trì cho thấy rõ 2 vị này là các thủy thần trấn phương của Đạo giáo. Điều này càng xác chứng rằng việc khắc đúc Ngũ đế thiên hoàng lên những chiếc gương đồng thời kỳ Đông Hán – Tam Quốc, khi Đạo giáo trở thành một tôn giáo chính thống ở phương Đông.
Ngũ phương yết đế: Theo tư liệu về đền thờ Sát Hải Đại vương ở xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu, Nghệ An, nơi đây trong lễ thả thuyền rồng (lễ tống long chu) hàng năm vào ngày 15 tháng Ba âm lịch, pháp sư mở đầu khi nhập đàn đọc chú: • Phụng thỉnh Đông phương Thanh đế Thanh Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung; • Phụng thỉnh Tây phương Bạch đế Bạch Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung; • Phụng thỉnh Nam phương Xích đế Nam Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung; • Phụng thỉnh Bắc phương Hắc đế Hắc Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung; • Phụng thỉnh Trung ương Hoàng đế Hoàng Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung. Có thể thấy, tục thỉnh Ngũ phương yết đế vẫn còn lưu lại được trong lễ tế ở miền Trung. Ngũ phương Long Vương ở đây chính là Ngũ vị tôn quan của Thoải phủ hay 5 anh em trong câu chuyện về Trung Thành Thổ Lệnh Trưởng.
Khởi đầu từ Lạc Long Quân mở Hoa Hạ, thiên hạ lúc này được phân chia thành 5 phương Đông Tây Nam Bắc và Trung ương. Mỗi một phương do một vị hầu tước cai quản. Cách thức chia thiên hạ này còn kéo dài mãi đến cuối thời nhà Ân Thương, khi đó Cơ Xương là Tây Bá hầu phụ trách miền Tây (Tây Kỳ) và Sùng Hổ là Bắc Bá hầu, phụ trách phương Bắc xưa (tức phương Nam nay). Sự tích về Trung Thành Phổ Tế Đại vương như vậy thực sự là một bản tóm lược lịch sử của thời kỳ theo cha xuống biển, khai mở vùng sông nước ven biển Đông.
Trong Đạo Giáo thời Hán – Tam quốc có 5 vị thần cai quản 5 hướng gọi là Ngũ đế Thiên hoàng. Sách Lão Tử trung kinh viết:
– Thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thương đế, Đông Hải quân; – Thần phương Nam tên là Chúc Dung Tử, hiệu là Xích Tinh Thành Tử, là Nam phương Xích đế, Nam Hải quân; – Thần phương Tây phương tên là Nhục Thu Tử, hiệu là Hạ Lý Hoàng Công; là Tây phương Bạch đế, Tây Hải quân; – Thần phương Bắc tên là Ngu Cường Tử, hiệu là Huyền Minh Tử Xương, là Bắc phương Hắc đế, Bắc Hải quân. – Thần Trung ương tên là Hoàng Thường Tử, hiệu là Hoàng Thần Bành Tổ, là Trung ương Hoàng đế quân.
Như vậy Ngũ đế ứng với 5 phương Đông Tây Nam Bắc và Trung tâm, ứng với 5 màu Xanh Đỏ Trắng Đen Vàng. Đặc biệt đây cũng là các vị “thủy thần” mà được gọi là “Hải quân” của 4 biển Đông Tây Nam Bắc.
Ngũ đế Thiên hoàng và Ngũ phương, Ngũ sắc.
Trong Sơn hải kinh, các vị thần bốn phương cũng đều dùng rồng là vật cưỡi. “Phương Nam Chúc Dung, thân thú mặt người, cưỡi hai rồng”, “Phương Tây Nhục Thu, tai trái có rắn, cưỡi hai rồng”, “Phương Đông có Câu Mang, thân chim mặt người, cưỡi hai rồng”, “Phương Bắc Ngu Cường, thân đen có tay chân, cưỡi hai rồng”. Việc các thần linh tứ phương cưỡi rồng cho thấy tính chất Thủy thần của các vị này.
Về Ngũ hành và các vị thần trấn phương trong Lã Thị xuân thu của Lã Bất Vi ghi:
Mạnh Xuân Kỷ: Tháng đầu xuân: Mặt trời ở vị trí sao Doanh Thất. Buổi chiều hôm, sao Sâm ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở Giáp Ất (phương Đông). Vị đế vương tương ứng với tháng này là Thái Cao Thị, dựa vào Mộc Đức mà xưng vương, vị thần đối giúp với tháng này là Mộc thần Câu Mang. Động vật tiêu biểu tháng này là loài có vảy… con số đối ứng với tháng này là số 8, số của Thiếu Dương, … Thiên tử ngồi xe có cờ xanh, mặc áo xanh, đeo ngọc xanh (thuận ứng với Mộc sắc).
Mạnh Hạ Kỷ: Tháng đầu mùa hạ: Mặt trời ở vị trí sao Tất. Buổi chiều hôm, sao Dực ở phương chính Nam, sáng sớm sao Vụ Nữ ở phương Bính Đinh (phương Nam). Vị đế vương tương ứng với tháng này là Viêm Đế, dựa vào Hỏa đức mà xưng vương. Vị thần đối giúp tháng này là Hỏa thần Chúc Dung. Động vật tiêu biểu tháng này là loài có lông vũ…, con số đối ứng với tháng này là số 7… Thiên tử ngồi xe màu đỏ, … trên xe có cờ đỏ, mặc áo đỏ, đeo ngọc đỏ.
Mạnh Thu Kỷ: Tháng đầu mùa thu: Mặt trời ở vị trí sao Dực. Buổi chiều hôm, sao Đẩu ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở phương Canh Tân (phương Tây). Vị đế vương tương ứng với tháng này là Thiếu Hạo, lấy đức Kim mà xưng vương thiên hạ. Vị thần đối giúp của tháng này là Kim thần Nhục Thu, tên là Cai. Động vật tiêu biểu tháng này là loài có lông mao,… con số đối ứng với tháng này là số 9 số của Thiếu Âm, … Thiên tử ngồi xe có cờ trắng, mặc áo trắng, đeo ngọc trắng làm đồ trang sức (thuận ứng với sắc Kim).
Mạnh Đông Kỷ: Tháng đầu mùa đông: Mặt trời ở vị trí sao Vĩ, buổi chiều hôm sao Ngụy ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở phương Nhâm Quý (phương Bắc). Vị đế vương tháng này là Chuyên Húc, lấy đức Thủy mà xưng vương thiên hạ. Vị thần đối giúp của tháng này là Huyền Minh Thủy thần. Động vật tiêu biểu tháng này là loài giáp giới (loài rùa),… Con số của tháng này là số 6… Thiên tử ở trong phòng đầu tây của nhà hướng bắc, ngồi xe đen, trên xe có cờ đen, ngựa kéo xe là ngựa đen, trên xe có cờ đen, đeo ngọc đen.
Đây là bảng kê khá đầy đủ của sự vận dụng Ngũ hành.
1. Thái Cao – Mộc đức – mùa xuân – phương Đông – loài có vảy (rồng) – số 8 – màu xanh – Mộc thần Câu Mang. 2. Viêm Đế – Hỏa đức – mùa hạ – phương Nam (tức phương Bắc của Dịch lý) – loài có lông vũ (chim phượng)– số 7 – màu đỏ – Hỏa thần Chúc Dung. 3. Thiếu Hạo – đức Kim – mùa thu – phương Tây – loài có lông mao (kỳ lân) – số 9 – màu trắng – Kim thần Nhục Thu. 4. Chuyên Húc – Thủy đức – mùa đông – phương Bắc (tức phương Nam của Dịch lý) – loài có giáp giới (rùa) – số 6 – màu đen – Thủy thần Huyền Minh.
So sánh với đạo Tam Tứ phủ ở Việt Nam, một tín ngưỡng rất gần với Đạo Giáo, thì Ngũ đế Thiên hoàng của Đạo Giáo chính là Ngũ vị Tôn quan trong ban Công đồng Tứ phủ. Cũng là 5 vị thủy thần trấn trị 5 phương, ứng đúng với 5 màu của Ngũ sắc.
Trên những gương đồng thời Hán Tam quốc thường gặp loại gương có đúc hình các vị thần và dòng chữ:
Ngô tác minh kính, u luyện tam thương. Chu duyên dung tượng, Ngũ đế Thiên hoàng. Bá Nha đan cầm, Hoàng Đế trừ hung. Chu điểu Huyền vũ, Bạch hổ Thanh long. Quân nghi cao quan, tử tôn phiên xương.
Nghĩa là: Tôi tạo gương sáng, phối luyện ba loại. Quanh viền tạc tượng, Ngũ đế Thiên hoàng. Bá Nha đánh đàn, Hoàng Đế trừ hung. Chu điểu Huyền vũ, Bạch hổ Thanh long. Phong chức quan cao, con cháu vững yên.
Chữ Quân nghi cao quan, thể hiện phép tắc về thứ bậc quan chức, hay tương đương với khái niệm “Công đồng” trong Tứ phủ. Chính chữ “quan” này là trong tên của Ngũ vị tôn quan.
Mẫu gương Trùng liệt thần thú thời Hán.
Điển hình của các vị thủy thần trấn các phương theo màu sắc của Ngũ hành là tại Nhật Tân (Hà Nội), nơi thời Uy Linh Lang và Lục bộ thủy phủ hay Đoài hồ Thất giáp: Đại vương là giống giao long, là trưởng của Xích Giáp, hiệu là Uy Linh Lang, cùng với 6 người được nhận phong ở đó là Bạch Giáp, Hoàng Giáp, Hắc Giáp, Thanh Giáp, Chu Giáp, Tử Giáp. Ngũ phương ở đây là phương Trung ương màu Vàng – Hoàng giáp, phương Nam Đỏ – Xích và Chu giáp, phương Bắc màu Đen – Hắc và Tử giáp, phương Đông màu Xanh – Thanh giáp, phương Tây màu Trắng – Bạch giáp.
Làng Mai Xá, xã Song Mai, Kim Động, Hưng Yên thờ 5 vị thủy thần thời Hùng Vương với sự tích khá giống như truyện về Bạch Hạc Tam Giang. Xưa người đời truyền rằng: Ở quận Động Hải, xứ Hải Dương có người họ Hải tên Bột, tên chữ Văn Tử, lấy vợ người cùng quận, phường Thủy Cơ, tên húy là Trương Thị Đoan… Bà thấy mặt nước có rồng vàng đẻ được năm quả trứng… tự nhiên nứt ra, làn nước biển ngào ngạt hương thơm, hương nước như tan biến vào người… Bà thấy mình có thai… sinh ra một bọc, nở ra 5 người con trai… Đặt tên người con thứ nhất là Cự Lân, người thứ hai là Hống Lý, tên hiệu Cao Minh, người con thứ bà là Thổ Linh, người con thứ tư là Long Hầu, tên hiệu Cao Mang, người con thứ năm là Túc Linh…
Sau đó thần tích kể rằng ở Mai Xá có 2 gia đình là Đổng Công và Nhân Công, hai bà vợ nằm mộng thấy rồng vàng và gặp một sứ giả Thượng đế đến báo tặng cho Đổng Công một vị Thiên thần, cho Nhân Công hai vị Sơn thần. Hai bà vợ mang thai, sinh được 3 người con là Vĩnh Công, Mộc Công và Lại Công. Tới khi vua Hùng mở khoa thi chọn người tài thì Thành Công (Thổ Linh), Mang Công (Cao Mang) được làm Thủy tào Đại phán quan, kiêm quản 50 bộ đứng đầu Thủy thần. Vĩnh Công, Mộc Công và Lại Công được phong kiêm quản 50 bộ đứng đầu Sơn thần.
Khi trong nước có nạn lũ lụt, 5 ông được cử đi tuần hành các nơi, đắp đê, đuổi lui thủy binh phá hoại. Khi có giặc Thục, các ông cùng Sơn Thánh dẫn các đạo quân thủy bộ chống giặc. Thắng giặc, Thành Công và Mang Công hóa ở cung Đa Chất, Vĩnh Công hóa ở huyện Thượng Phúc. Còn Mộc Công và Lại Công hóa ở quê Mai Xá.
Đến đời Đinh Tiên Hoàng phong là:
Thổ Linh Trung Thành Phụ quốc Đại vương
Cao Mang Tế thế Đại vương
Đổng Vĩnh Hộ quốc Đại vương
Mộc Phàm Phù quốc Đại vương
Trấn Lại Trợ quốc Đại vương.
Thần tích làng Mai Xá vừa có bóng dáng của sự tích Bạch Hạc Tam Giang trong tên Thổ Linh Trung Thành Đại vương, vừa có sự tích của đền Đồng Bằng hay ở phủ Ứng Thiên với tên thần Đổng Vĩnh. Đặc biệt là 1 trong năm vị ở đây có tên Cao Mang (cũng như Câu Mang), trùng với tên của vị Đông phương Thương đế trong bộ Ngũ đế Thiên hoàng của Đạo Giáo.
Thật bất ngờ khi nhận ra hình tượng các vị thần Đạo Giáo trên đồng kính thời Hán lại là tiền thân của Ngũ vị Tôn quan trong Công đồng Tứ phủ Việt Nam ngày nay.
Thần Cao Mang (Câu Mang) là vị thủy thần được thờ phổ biến ở các tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. Thần tích thường kể đây là vị tướng thời Hùng Vương, chống giặc Thục cùng với những vị tướng khác. Câu Mang còn là vị thần được làm tượng trong lễ tế Xuân ngưu ở kinh thành Thăng Long thời Lê, bởi phương Đông là phương đại diện cho mùa xuân sinh sôi nảy nở.
Khu vực Thuận Thành, Bắc Ninh cũng có tục thờ Ngũ phương yết đế. Đình làng Nghĩa Vi ở xã Hoài Thượng thờ 3 vị thần:
Tây phương Bạch đế
Bắc phương Hắc đế
Nam phương Xích đế.
Trong đình do đó có 3 con ngựa gỗ cùng màu với mỗi vị Yết đế. Ba vị thần này đã hiển linh khi Trưng Vương lập đàn cầu khấn Tản Viên Sơn Thánh ở Hát Môn và phù trợ Trưng Vương dẹp giặc.
Cạnh làng Nghĩa Vi là làng Bình Cầu thờ vị thần là Đông Hải Đại vương, tức là vị trí phía Đông còn thiếu trong 3 hướng đã có thờ ở đình Nghĩa Vi.
Làng Thiên Lộc, Trung Chính, Lương Tài, Bắc Ninh xưa thờ 5 vị thần hiển ứng phù giúp Tô Hiến Thành phá Tống thời Lý Anh Tông. 5 vị thần hiển mộng, tự xưng là:
Anh em chúng ta vốn là dòng dõi Lạc Long Quân họ Hùng, vâng mệnh thiêng của Thiên đình, núi sông cùng nhau, âm dương hợp đức ở tại miếu trang khu Nhuế Đông, tên gọi thứ nhất là Bản cảnh Thành hoàng Sàng Hoàng Hiển Ứng Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Uy Vũ Linh ứng Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Đô Thiên Đương Đình Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Tam Lang Thuỷ Tế Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Thái Ất Linh Thông Đại vương.
Xét theo Ngũ hành thì vị Sàng Hoàng Hiển Ứng là ở vị trí Trung tâm, màu Vàng (Hoàng). Vị Tam Lang Thủy Tế trong sắc phong được gọi là Linh Lang, chiếm vị trí hướng biển Đông, số 3. Vị Thái Ất còn có tên là Đắc Thủy Thái Ất, chiếm hướng Bắc bởi số 1 (Thái Ất) và hành Thủy (đức Thủy). Còn lại hai vị Uy Vũ Linh Ứng và Đô Thiên Đương Đình sẽ ứng với 2 phương vị còn lại là hướng Nam và hướng Tây.
Các biến thể của Ngũ đế Thiên hoàng hay Ngũ vị tôn quan trong các sự tích và di tích ở miền Bắc Việt còn gặp ở nhiều nơi. Như Tứ vị Lôi Oanh hiển ứng giúp Cao Biền đánh giặc Nam Chiếu ở Hưng Hà, Thái Bình, hay Năm anh em chàng Vịt cầm nghĩa kỳ thời Trưng Vương ở Thanh Lãng, Vĩnh Phúc…
Những ghi chép của tộc phả họ Nguyễn tại tổng Xốm Bình Đà về thời kỳ dựng nước của dân tộc ta khi đọc lên nghe rất kỳ dị, hoàn toàn không giống với những nhân vật trong huyền sử Việt (Truyện Họ Hồng Bàng). Điều này đã dẫn đến không ít những tranh cãi về tính chân thực của dòng sử “độc” truyền này. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của Sử thuyết Hùng Việt, những câu chuyện của Bách Việt triệu tổ cổ lục, rồi Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, đều có thể được lý giải một cách ăn khớp, chính xác với cổ sử Việt.
Tóm tắt các nhân vật theo Bách Việt triệu tổ cổ lục ở tổng Xốm Bình Đà như sau:
Thời kỳ Cực Lạc chia thành 9 họ gọi là Cửu tộc. Thời này có hai vị thủ lĩnh là ông Tứ Tượng và bà Nữ Oa. Ông Tứ Tượng là người nghĩ ra 4 quẻ đơn (Thiếu âm, Thái âm, Thiếu dương, Thái dương), còn có tên là Phục Hy, Đế Hòa hay hy Hòa, Đế Thiên Đế Thích. Sau ông bỏ lên động Tây Thiên đi tu một thời gian với Phật hiệu là A di đà. Bà Nữ Oa còn được gọi là Địa Mẫu. Thời kỳ này còn gọi là Việt Thường.
Tiếp theo là thời Viêm Bang, từ 9 họ ban đầu chia thành 72 họ. Người đứng đầu là Đế Viêm, sau gọi là Thần Nông. Có Hiên Viên ở phương Bắc đến đánh. Hai vị Hữu Sào và Toại Nhân giúp cho vua trẻ đánh giặc. Vị vua trẻ đó lên ngôi là vị Thần Nông cuối cùng tên Đế Khôi. Họ Thần Nông chuyển đến đất Tiên La ở vùng đồng bằng. Người đầu tiên là Đế Tiết đóng đô ở Tiên La. Đế Thừa là em, kế ngôi. Đế Thừa còn gọi là Sở Minh Công, đi chinh phục thêm các vùng đất mới.
Đế Thừa sinh ba người con trai là Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân là 2 anh em sinh đôi, thời trẻ đi đánh cá ở hồ Dâm Đàm, cùng đem lòng yêu thương bà Đỗ Thị Ngoan, người ở Nghi Tàm,là con gái của vị chúa hồ họ Đỗ (Long Đỗ).
Ông Nguyễn Minh Khiết vì nghi ngờ bà Đỗ Thị Ngoan có tư tình với em trai nên bỏ vợ, đi lấy một bà khác ở Khương Đình, nên còn gọi là Thái Khương Công. Bà Đỗ Thị Ngoạn mắc oan, vào động Tiên Phi xuống tóc đi tu. Đời sau gọi là Hương Vân cái bồ tát, Sa bà giáo chủ, Đức Phật Thích ca, mở đầu đạo Sa Môn. Người Mường thì suy tôn bà là Sơn trại chúa Mường.
Ông Nguyễn Nghi Nhân bị nghi ngờ nên phẫn chí đi đến vùng hồ Động Đình, lập ra nước Sở. Đời sau gọi là Đế Nghi.
Ông Nguyễn Minh Khiết kế ngôi Đế Thừa gọi là Đế Minh, đóng ở Phong Châu. Ông Nguyễn Long Cảnh là vua nước Đại Lý nên còn gọi là Lý Long Cảnh, cũng gọi là Nguyễn Nỏ.
Nguyễn Quảng là con trai Đế Minh và bà Đỗ Thị Ngoan trưởng thành, ở vùng Tử Di sơn có giặc Ma Mạc nổi dậy. Nguyễn Quảng cùng với người chú thứ ba là Nguyễn Long Cảnh và 8 người cậu họ Đỗ (Đỗ Xương, Đỗ Triệu, Đỗ Hiệu, Đỗ Cường, Đỗ Chương, Đỗ Dũng, Đỗ Bích, Đỗ Trọng, còn gọi là Bát bộ Kim cương) cầm quân đi đánh giặc. Nguyễn Quảng ở hồ Động Đình gặp gỡ hẹn ước với bà Hồng Đăng Ngàn. Sau khi dẹp giặc xong, Nguyễn Quảng trở về cưới bà Hồng Đăng Ngàn, rồi ở lại cai quản vùng này. Đời sau gọi là Kinh Dương Vương Lộc Tục.
Đến khi Đế Minh qua đời 15 bộ trong nước họp lại, cử người đi đón Kinh Dương Vương trở về kế ngôi, đặt tên nước là Xích Quỷ. Khi về nước bà Hồng Đăng Ngàn cùng chồng mang theo nghề trồng dâu chăn tằm, dệt the lụa sồi đũi, sau được tôn là Bà chúa Lĩnh hay Xích Hậu. Kinh Dương Vương đẩy nhanh việc khai phá đồng bằng, ổn định đời sống nhân dân, đưa các cung cách ứng xử vào nề nếp, quy củ. Sau khi vua hóa được dân chúng suy tôn là Ngọc Hoàng Thượng đế.
Kinh Dương Vương sinh được 5 người con trai, trong đó 1 vị chẳng may lâm bệnh mất sớm. 4 vị còn lại là Nguyễn Nghiêm tự là Pháp Phong, Nguyễn Quyền tự là Pháp Vân, Nguyễn Lãm tự là Pháp Lôi, Nguyễn Huề tự là Pháp Điện (có chỗ ghi là Sùng Nghiêm, Sùng Quyền, Sùng Lãm, Sùng Huề) .
Trong đó có người thứ tư là Nguyễn (Hùng) Lãm có nhiều tài trí nhất, sau kế ngôi là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, là cháu nội của Đế Nghi, con gái Đế Lai, khi cùng vua cha trở về thăm lại nước cũ. Đế Lai có tên là Nguyễn Như Lai. Bà Âu Cơ sau gọi là Mẫu Thoải.
Từ Lạc Long Quân kế đến thời 100 vua Hùng, 18 đời thống nhất được Bách Việt. Lạc Long Quân đổi tên nước là Văn Lang, chia nước là 15 bộ, chia dân thành trăm họ gọi Bách Việt. Con trưởng Hùng Lãm nối ngôi làm Hùng Quốc Vương. 50 vị được thờ là Thủy thần, lấy tên các con vật sinh sống dưới nước để chỉ, xưng là Vương. 50 vị được thờ là Sơn thần (tức lấy các con vật sinh sống trên cạn để chỉ), xưng là Quân.
Để giải thích được những thông tin trong Bách Việt triệu tổ cổ lục trước hết cần gạt bỏ đi sự “ám ảnh” bởi những cái tên, những danh xưng trong huyền sử. Cần nhìn nhận rằng sử Việt thời lập quốc không phải chỉ có 1 vị Kinh Dương Vương hay 1 vị Lạc Long Quân. Tất cả đây là những danh xưng, tên hiệu, nên hoàn toàn có thể là bố của Kinh Dương Vương cũng tên là Kinh Dương Vương, hay con của Lạc Long Quân cũng được gọi là Lạc Long Quân. Như thế thì cùng một tên gọi trong dòng sử ở tổng Xốm và trong huyền sử Việt không nhất thiết chỉ cùng 1 người, mà có thể chỉ những thế hệ nối tiếp nhau, mang đặc trưng của dòng tộc đó mà thôi.
Điều thứ hai cần phải gạt bỏ là việc gán những địa danh cổ sử vào những địa điểm “di tích” lăng mộ, núi sông, bến bãi… được kể tới, bởi vì những địa danh này thực chất cũng là những tên hiệu tượng trưng, chứ không hẳn là tên riêng. Với 2 cách hiểu như vậy mới có thể thoát khỏi “ma trận” của cổ sử do tiền nhân các đời, các dòng tộc trước đây dựng lên và lưu truyền.
Đầu tiên, hai vị thủ lĩnh thời “Cực Lạc”, tức là thời Thần thoại, được Bách Việt triệu tổ cổ lục nhắc đến là ông Tứ Tượng và bà Nữ Oa. Điều này cũng trùng với huyền sử Việt rằng Phục Hy và Nữ Oa là những người đã sáng tạo ra trời đất, được tôn là ông Đùng bà Đà hay Cha Trời Mẹ Đất.
Tiếp theo, sự kiện Đế Khôi, vị vua cuối của dòng Thần Nông đánh nhau với Hiên Viên, được Hữu Sào và Toại Nhân giúp đỡ, sẽ tương ứng với sự kiện trong huyền sử Việt là Đế Minh được bà Vụ Tiên (Tây Thiên) giúp đỡ đánh giặc lập quốc. Đế Minh là cháu 3 đời Viêm Đế Thần Nông, hay là vị Viêm Đế cuối cùng của họ Thần Nông.
Nối tiếp, Đế Khôi có 2 người con là anh em Đế Tiết và Đế Thừa. Điều này tương ứng trong huyền sử Việt là Đế Minh có 2 người con là Đế Nghi và Lộc Tục. 3 vị thủ lĩnh đầu tiên thời Viêm Bang được thờ tại đền Hùng Nghĩa Lĩnh với tên Đột Ngột Cao Sơn (Đế Minh), Viễn Sơn (Đế Nghi) và Ất Sơn (Lộc Tục). Thời kỳ này đóng đô ở Tiên – La, tức là cặp Nam – Bắc hay Hồng – Lạc, chỉ 2 vùng đất lập quốc thời Tam Sơn Hùng Vương Thánh Tổ.
Đế Thừa có tên là Sở Minh Công. Chữ Sở – sủy – thủy cũng là nước – nác – Lạc, chỉ hướng Nam xưa (Bắc nay), nên tương ứng với Ất Sơn Lộc Tục (Lạc tộc), người làm vua phương Nam.
Đế Thừa có 3 người con là Nghi Nhân, Minh Khiết và Long Cảnh. Ông Minh Khiết lấy bà Đỗ Thị Ngoan, là con của cụ Long Đỗ ở hồ Dâm Đàm. Sau đó do mâu thuẫn với ông Nghi Nhân nên ông Minh Khiết đã phế bà Đỗ Thị Ngoan…
Thần Long Đỗ thủy phủ hồ Dâm Đàm là vị thần chủ phương Đông, được gọi là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, hay có chỗ là Phục Hy. Huyền sử Việt gọi vị này là Động Đình Đế Quân. Người con gái của Động Đình Đế Quân là Thần Long, Xích Lân Long Nữ, người đã lấy Kinh Dương Vương.
Như thế chuyện ông Minh Khiết ruồng bỏ bà Đỗ Thị Ngoan trong Bách Việt triệu tổ cổ lục tương ứng với chuyện Liễu Nghị và Xích Lân Long Nữ. Ông Minh Khiết do đó tương ứng với Liễu Nghị – Kinh Dương Vương trong huyền sử Việt.
Kinh Dương Vương được thờ với tên Tản Viên Sơn Thánh. Do đó bộ ba Minh Khiết, Nghi Nhân và Long Cảnh tương đương với tam vị Tản Viên gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Nguyễn Tuấn là chính dòng từ Đế Minh của huyền sử Việt nên trong Bách Việt triệu tổ cổ lục gọi ông là Minh Khiết. Nghi Nhân (Đế Nghi) sau đó bỏ đi về phía Bắc (nước Sở), tương ứng là dòng lên núi của Đế Nghi – Đế Lai, tức là Cao Sơn. Còn Long Cảnh thì chỉ rõ đây là dòng xuống biển (thủy bộ) với biểu tượng là rồng (Long). Trong tam vị Tản Viên thì Quý Minh tương ứng là dòng xuống biển, được biết với tên Đông Hải Đại vương hay Lãng Nhạc Quý Minh.
Một dẫn chứng thú vị là chuyện ở tổng Xốm cho biết bức giá tượng hiện thờ ở đình Bình Đà là tranh tượng của Kinh Dương Vương. Trong khi đó đình nội Bình Đà được biết là thờ Lạc Long Quân. Đây là dẫn chứng cho thấy “Kinh Dương Vương” của Bách Việt triệu tổ cổ lục là Lạc Long Quân trong Truyện họ Hồng Bàng.
Chuyện ở tổng Xốm kể tiếp, người con của ông Minh Khiết và bà họ Đỗ là Lộc Tục Kinh Dương Vương, có tên Nguyễn Quảng, lấy vợ là Hồng Đăng Ngàn của bộ tộc Lộc Y. Bà Hồng Đăng Ngàn được gọi là Bà chúa Lĩnh. Như vậy bà Hồng Đăng Ngàn này không phải bà Xích Lân Long Nữ của Thủy phủ như trong huyền sử Việt. Ngược lại, người đã “lên núi” (Đăng Ngàn) thì phải là bà Âu Cơ trong huyền sử. Từ đó suy luận một cách hợp lý thì người được gọi là Kinh Dương Vương Nguyễn Quảng, con của ông Minh Khiết, sẽ tương ứng với Lạc Long Quân của huyền sử.
Nguyễn Quảng đã cùng với ông chú Lý Long Cảnh và 8 cậu dòng họ bên mẹ (họ Đỗ) đánh giặc Mạc Ma ở Tử Di Sơn. Đây là câu chuyện Long Quân cùng lục bộ Thủy phủ diệt con cáo chín đuôi ở hồ Tây. Cáo chín đuôi là giặc Hồ Di ở phía Tây nên gọi là Tử Di.
Sự thật là Kinh Dương Vương khi chết muốn nhường lại ngôi cho dòng trưởng của Đế Nghi là Đế Lai, nhưng con của ông là Lạc Long Quân nhờ sự giúp đỡ của bên mẹ Thần Long Động Đình đã đánh đuổi Đế Lai cùng phe cánh chạy về phía Tây (Tây Di). Lạc Long Quân nhờ đó lên ngôi, làm chủ nước Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương của tổng Xốm là Lạc Long Quân của huyền sử Việt. Lạc Long Quân của tổng Xốm như vậy sẽ là ai trong sử Việt?
Lạc Long Quân này có tên là Lãm (Sùng Lãm). Vị Sùng Lãm được kể tới này không phải là Lạc Long Quân thời kỳ đầu trong sử Việt, mà là Lạc Long Quân của thời kỳ cuối, khi dòng Kinh triều (Lạc thị) chống lại sự xâm chiếm của giặc Thục từ dòng lên núi của Đế Lai. Trong sử Việt thì đây là sự kiện vua Thục đánh chiếm đất Lạc của họ Sùng dưới thời nhà Ân Thương. Sùng Lãm là Bắc Bá Hầu của nhà Ân, đã chống lại quân Thục (nhà Chu) đến từ Ai Lao (đất Âu).
Chuyện ở tổng Xốm kể Lạc Long Quân Sùng Lãm có 4 người anh em mang họ Hùng (Sùng), ứng với Tứ pháp Vân Vũ Lôi Điện. Chữ Sùng cũng có nghĩa là Cao, nên trong tín ngưỡng Việt gọi đây là Cao Sơn. Đây là vị Cao Sơn hậu duệ của Cao Sơn lên núi thời Tản Viên Sơn Thánh. Cũng là đánh Thục nhưng ở một thời điểm cuối của Kinh triều Lạc thị.
Từ Kinh Dương Vương Việt tộc chia thành 2 nhánh lên rừng, xuống biển. Nhánh lên rừng được gọi là các Sơn thần, theo dòng của Nghi Nhân, Đế Lai, Âu Cơ, Cao Sơn. Nhánh xuống biển được gọi là các Thủy thần, theo dòng của Long Cảnh, Long Đỗ, Lạc Long, Quý Minh. Bách Việt triệu tổ cổ lục có thể coi là sử chép theo dòng xuống biến, lấy Lạc Long Quân làm tổ. Còn Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả là sử chép theo dòng lên núi, lấy người con trưởng theo mẹ làm tổ. Hai nhánh sơn thủy này tới thời Hùng Quốc Vương thì thống nhất mà phân thành trăm nơi đầu non góc biển mà trấn trị, cùng nhau tương trợ, lập nên thiên hạ Bách Việt trăm nước, dân có trăm họ, nước có trăm quan, phong cho trăm thần. Hùng Vương là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Ngọc phả cổ chép về Phụ ký Cương nghị Hùng kiệt Đại vương phò mã Hùng triều Việt Thường Thị Lý Lang Công (lấy con gái thứ sáu của Nghị Vương là Nguyệt Cư Công chúa sinh 12 vị thần quan nhận quản 17 bộ nhánh)
Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh Tổ Nam thiên Đại bảo Tiền Hoàng đế gây dựng cơ đồ, là thủy tổ Việt Nam, lập nước Cổ Việt Thường, họ Hùng 16 đời thánh vương ngự trị trời Nam, khai mở vận đế thánh, vua sáng. Núi xanh vạn dặm dựng nền cung điện đô thành. Mở vật giúp dân, thống quản 15 bộ
(Khi ấy vua Hùng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm chính cung, ở tại núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ mang thai 33 năm, sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm tốt trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vương bèn chia hầu, lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Hoan Châu, sáu là Ái Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.
Khi đó Vương nói với Âu Cơ rằng:
Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc.
Vì thế chia tương biệt, chia 50 con theo cha về biển làm Thủy tinh, 50 con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh. Phân rõ các chư vương trấn ở sông núi, cùng là thần thuộc vậy. Sau phân thành trăm họ từ đó.)
Thế mạnh trấn áp phiên chúng, rạng rỡ đất nước Viêm đồ. Có vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi mãi dòng giống vững như bàn đá, hiển ứng linh thiêng nơi Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương nước Nam, ngự muôn năm thánh điện núi Hùng, là Thánh tổ trời Nam, nền móng quốc gia, cơ đồ hùng mạnh, muôn năm còn lưu mãi vạn đời. Bèn lập các cung, lăng, miếu, điện. Con cháu dòng dõi hoàng gia phân ở các đầu núi, trị ở quận Giao Chỉ tại các nơi xứ phủ, huyện, dân trang, động, sách. Phụng thờ hương khói lưu truyền vạn đời. Phối cùng với nhật nguyệt rạng soi. Sánh với trời đất cao dày vậy. Sau Vương tiên sinh có bài tán rằng:
Nam thiên khởi tạo tự Hùng Vương
Vạn cổ trường lưu lập kỷ cương
Nhất thống tương truyền thập bát diệp
Nhị thiên dư tải ức niên hương
Nhất bào bách noãn giai sinh thánh
Lưỡng tế thăng thiên bất tử phương
Hoàng tử vương tôn thiên vạn tải
Thần tiên tương phối dữ tài lương.
Lại nói, triều Kinh truyền 17 đời đến thời Nghị Vương ở ngôi, đóng đô tại Việt Trì bên sông Bạch Hạc, dựng nước tên gọi Văn Lang, kinh đô gọi Phong thành. Nghị Vương có hùng tài đại lược, chính trực cương nghị, cũng có khí tượng quy mô, kế trị các đời yên bình. Thiên hạ trong nhà vui đủ, giữ bên ngoài được an ninh. Ai ai cũng gọi là vị hiền quân vậy.
Đương khi ấy, tương truyền ở sách [trang] Thủy Vân, phủ huyện Thiệu Thiên, quận Ái Châu có một nhà trưởng bộ (họ Lý húy Tuyên). Khi ông trưởng bộ 29 tuổi đã lấy người cùng trang sách là bà Võ Thị Thiệu. Được 3-4 năm, loan phương tương xứng, cầm sắt giao hòa. Than ôi, đạo trời lại đến bất hạnh. Bà Võ mất sớm. Về sau ông có việc quan đến ở kinh đô (tức thành Phong Châu). Khi ấy có người tại Thời Mại, gia đình ở kinh đô, hàng ngày lấy việc buôn bán làm nghề. Vả lại người chồng trước đây sớm mất, chỉ còn thái bà họ Nguyễn (chồng của bà họ Nguyễn tên Xuân, vốn là người xã Thời Mại, huyện Sơn Vi, phủ Thao Giang, ở tại kinh thành buôn bán, tuổi ngoài 60 thì mất), tuổi gần 70, sinh được một người con gái là Nguyễn Thị Loan. Đến tuổi 21 thật có đạo nữ hiền hòa, dung mạo thanh tú, cùng với mẹ buôn bán ở kinh thành.
Trưởng bộ Lý khi đó có việc quan lên kinh đo, ở tại gia đình của hai mẹ con. Trưởng bộ thấy nàng có đức hạnh như vậy, trong lòng rất yêu quý nên hỏi cưới. Thái bà đồng ý gả cho. Ông ở nhà vợ tại kinh thành cho tiện làm việc quan cùng với việc buôn bán các đồ tơ vải. Vua nghe nói ông có kỳ tài, lại có đức tốt, bèn cho quản trưởng phường tơ vải trong thiên hạ. Ông từ khi yên bề gia thất, vợ chồng duyên đẹp, uyên ương hợp bạn, cầm sắt cùng vui. Được quãng 3-4 năm mà chưa thấy điềm ngọc sáng. Khi đó ông đã hơn 40 tuổi, bà Nguyễn cũng gần 30. Một hôm lúc thanh nhàn ông mới nói với bà Nguyễn rằng:
Nhà ta có phúc, chỉ cố tạo phúc, làm việc nhân, tấm lòng từ thiện. Nay tuổi đã cao mà chưa thấy điềm sinh nở. Liệu hoặc ý trời chưa đạt vì việc người còn khiếm khuyết. Cho nên chi bằng một lần cầu đảo, biết đâu lại được chim yến báo hỉ, như thế mới yên được nguyện ước bình sinh.
Nói rồi hôm đó chuẩn bị làm lễ chay ba ngày, lập một đàn tế tại giữa sân, cầu đảo trời đất quỷ thần. Ba ngày liền cầu nguyện trời đất đến chứng. Chúc xong lại cầu đảo ba ngày. Sau khi câu xong 3 ngày thì đêm ấy thái bà Lý (tức là vợ ông) nằm ngủ mơ màng, bỗng thấy một ông lão ngồi mây lơ lửng trên không, tay cầm một cặp cần câu ở bên sông Tam Kỳ của sông Hạc, câu được một con rồng vàng. Thái bà Lý đứng ở bên bờ sông xem việc đó. Lão ông thấy thái bà bèn nói rằng:
Gia đình nhà ngươi phúc hậu, đến tận Trời cao. Nay ta câu được một con rồng vàng, có thể cho vào nhà bà làm đồ quý báu.
Thái bà Lý nghe ông lão cho vậy trong lòng rất vui mừng, hai tay ôm lấy con rồng vàng rồi bay lên trời. Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là điều mộng. Thái bà đem việc trong mông nói với ông Lý. Ông bèn nói với thái bà rằng:
Nếu đúng như trong mộng vậy thì một là thăng quan, hai là sinh ra quý tử. Việc tồn nghi chưa rõ thì sau này sẽ hay. Hãi cứ mạnh dạn mà đoán như vậy đã.
Sau khi nói, thái bà quả nhiên có mang. 33 tháng đến năm Đinh Mùi tháng 8 ngày 9 sinh hạ một con trai, mặt mũi rất lớn, năm gò chầu trời, hàm én mày hổ, vẻ rồng mắt phượng, tay dài quá gối, trán có điểm sao Bắc đẩu, cao hơn người thường. Thánh chất vốn bẩm thông minh. Cha mẹ cho nhập học với Lã tiên sinh. Được 4-5 năm sách của chư tử trăm nhà đều quán thông hết, lại tinh thông binh pháp Thái Công, không đâu là không biết tiếng thơm, bốn biển uy động 9 tầng, đương thời đều gọi là Thánh đồng.
Khi ông được 5 tuổi, theo mẹ đi chơi ở chợ Phong Châu (tức chợ sông Hạc, khi đó thành đô ở tại lầu thượng, lầu hạ đất Việt Trì, đều là kinh đô của Hùng Vương) để mua giấy sách. Bỗng nhiên thấy một ông lão ở phường chài đem một con cá xanh thân dài 2 thước rưỡi đến gặp lão bà. Mẹ con cùng mua con cá xanh đó bằng 9 mạch tiền của thái bà. Mẹ con đem cá trở về nhà, rồi mổ bụng bên trong được một thanh kiếm thần, cán đều làm bằng ngọc kim cương. Lang công bèn cầm kiếm lên xem, thì nghe trong kiếm có tiếng quỷ khóc thần kêu không dứt. Lang công thấy sự đó cho là lạ, bèn cầm kiếm và nói với kiếm rằng:
Ta vốn có anh tài trời cho, nay có thể lại được thanh kiếm thần này.
Tiếng quỷ khóc, chúng thần đều ngừng bặt. Ông nói xong thì từ đó đều yên lặng, không còn thấy tiếng kêu nữa. Lang công từ khi được kiếm về sau tâm tự thấy khảng khái, có chí tang bồng, có nhiều tài lạ thuật dị, đức lượng hơn người, anh hùng trùm thế. Lang công tuổi 21 uy danh đã lẫy lừng, bốn biển anh hùng đều quy phục.
Khi ấy Nghị Vương đam mê tửu sắc, vui chìm trong yến ẩm, không tu luyện võ nghệ, không phòng bị biên giới. Quốc gia trở nên biến loạn bất thường, những đầu sỏ nổi lên, ở ngoài biên ải thường có trộm cướp. Vua bèn mở khoa tuyển người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài để giúp việc nước.
Vua bèn truyền hịch đi các phủ, huyện, châu quận cho nhân dân ai có tài đức thì đến kinh ứng thí. Khi ấu Lang công ứng tuyển vào trường thi ở kinh (tức trường ở Phong Châu), rồi gặp bệ rồng, hỏi thi văn võ, thật có kỳ tài dị thuật, trí dũng anh hùng, tinh thông võ nghệ, tài văn sâu rộng, đối đáp như nước. Vua cảm thấy đây tất là thiên tài giáng thế để giữ nước giúp dân, không phải người tầm thường, rất xứng đáng được trao chỉ.
Khi ấy Vua có nàng công chúa thứ sáu tên là công chúa Nguyệt Cư (39 cung phi của Nghị Vương sinh được 22 hoàng tử và 15 công chúa. Công chúa Nguyệt Cư chính là do cung phi thứ 5 mộng thấy phượng hoàng bay vào trướng mà có mang. Đến năm Đinh Mão tháng Giêng ngày mồng 3 thì sinh, tên gọi Nguyệt Cư, tính vốn thông minh, là bậc nữ trung Nghiêu Thuấn, có dung mạo chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Khi sinh công chúa được 3 ngày đã có thể thích nghe hát xoan nữ. Xưa các vương tông triều Hùng cùng trăm quan khi có sinh con đều có phường hát của huyện Phù Khang phục vụ). Vua gọi Công đến rồi sau đó gả cho Lang công, trao cho chức quan bồ chính điều phối vũ khí quân đội trong thiên hạ, phong là Phụ ký.
Khi đó có nhiều trộm cướp. Vua sai phò mã dẫn quân đi phòng ngự biên giới, tuần du các đạo. Lúc ấy, Lang công bèn nhận mệnh đường đường từ cổng thành tiến ra, tay cầm kiếm thần, tiến thẳng đến vùng mười châu. Đi đến khu vực xã Thời Mại, hôm ấy (mồng 4 tháng 5) nhân dân dựng hành cung làm lễ bái tiếp.
Ông đóng quân, đi xem xét làng quê bên ngoại. Ông lại xem địa thế dân cư, thấy có hình dáng như rồng và rùa cùng nằm, từ núi Nghĩa Lĩnh phân mạch quay về đất tổ, thật là một thế cục quý. Ông lại thấy phong tục nhân dân thuần hậu, làng xóm hòa thuận, lại chính là làng quê bên mẹ, đâu phải đất xa lạ. Hôm ấy ông nói với nhân dân, phụ lão rằng:
Hôm nay vì còn việc nước, ta tuần xét trộm cướp trong thiên hạ, chinh Đông dẹp Tây, chưa được ở yên. Đến ngày sau khi thiên hạ được bình yên, ta tất sẽ lập cung ở cùng với nhân dân làm nơi đô ấp. Ngày nay thiên hạ sinh ra nhiều trộm cướp, rồi một mặt sông Thao những đảng dữ rất thịnh ở các xứ. Lại còn có quân Thục thường hay xâm nhập vào nước ta, dụ dẫn lòng người đêm tâm mưu phản quốc.
Vì nơi sông Thao xuất quân chống quân Thục rất tiện nên Ông truyền cho binh sĩ, nhân dân lập một đồn lớn ở đất xã Thời Mại để chế ngự đạo tặc. Nhân dân nghe lời rằng sẽ lập một đồn ở đất đó để trấn thủ thì đều rất vui mừng, đồng lòng phục xin làm thần tử. Ông đồng ý. Khi ấy Ông dâng biểu tấu về triều xin được nhận trị ở đất đó (tức đất Thời Mại), chế ngự giặc cướp cùng với quân Thục, lấy làm đồn chính đóng giữ. Vua đồng ý. Ông đến nhận ở đất đó, truyền phân các đạo binh mã đến các nơi quận, huyện, châu, trang, động, sách, phân bổ lập đồn đóng quân để chế ngự đạo tặc.
Sự xong thì đạo quân chính của Ông đi xem xét các nơi đồn binh. Hễ nơi nào có trộm cướp, gian đảng, đầu sỏ nghe đạo quân chính của Lang công tiến đến đều tự nhiên sợ phục mà hàng. Còn nơi nào gặp phải việc chiến trận, Ông lấy kiếm thần giơ lên, đảng gian không đánh tự thấy kiếm mà sợ hại bỏ chạy. Ông đi tuần chế ngự đạo tặc qua ba tháng thì những âm mưu khởi loạn trong thiên hạ đều được Lang công bắt sống hết, đuổi về nơi chốn của chúng. Đạo tặc bị quét sạch, thiên hạ thái bình. Ông phụng chiếu quay trở về thành, dâng biểu tấu, bái tạ trước bệ rồng. Vua rất vui mừng xem đó, ngay hôm ấy lại phong Lang Công là Ninh Hải quận vương (thuộc đất sáu châu), thưởng ban vàng bạc cùng sợi gấm, lụa trắng hơn trăm cân. Ông lại tâu thỉnh lập cung ở làng quê ngoại (tức trang Thời Mại) làm nơi đóng sở. Vua đồng ý cho lấy đất đó làm đất Thang mộc ấp của Ông.
Khi đó Ông khấu tạ trước bệ, xin về đất trang Thời Mại. Ngày hôm ấy (mồng 9 tháng 2) nhân dân làm lễ bái đón. Ông truyền nhân dân lập cung ở nơi có hình trán rồng (đất đó phía sau có động cao dẫn mạch đều như mây phủ rồng chầu, trái phải nhất nhất đều chầu, trước mặt có dòng suối nhỏ, hai bên và trước sau đều có dòng nước chảy quanh, quay về hội ở chính đường, trước có đầm sen bán nguyệt, chợ đối diện trước cung, là nơi anh tài đô hội, lập nơi đó làm phủ trị, một vùng trái phải đều là cách rồng mây đứng chầu, phượng rùa đến chầu ở nơi đất chính cung).
Việc xong, hôm ấy đón công chúa Nguyệt Cư quay về cung ấp mà ở đất ấy (tức đất Thời Mại). Được vài tháng thì cha mẹ ở kinh đô bỗng nhiên đều tạ thế (tức ngày mồng 5 tháng 2). Lang công cùng với công chúa quay về kinh đô, tâu lên vua. Vua nghe tin bèn sai đình thần đến làm lễ an táng cho ông bà tại bên trong thành. Sự xong, Ông cùng công chúa ở tang 3 năm, đến khi mãn tang mới quay trở về cung ấp (tức cung ấp Thời Mại), lại mở một cái chợ ở mảnh đất trước cung để tiện cho việc quân và cùng với nhân dân buôn bán, để làm nơi đóng vương cung đô phủ. Từ đó ông bà ở tại đó đảm nhận việc phụng sự gia tiên các bên nội ngoại, lấy đức giáo hóa nhân dân, chia tài sản tạo phúc.
Ông là người vốn có lòng khoan dung đại độ, thưởng ban dân tình, giúp nghèo, dưỡng lão, lấy nhân nghĩa mà giáo hóa nhân dân đều có được thuần phong mỹ tục, vinh dự đủ đầy có thừa. Công chúa cũng một lòng trung hậu, đức nữ hiền hòa, phong tư tốt đẹp dẫu Tề Khương, Tống Nữ cũng không bằng, con vua dòng tiên một bề kết phối. Vợ chồng đều một lòng trung hậu. Phụ lão nhân dân (tức trang Thời Mại) đều nhất nhất coi như ơn sâu như núi sông, đức lớn như trời đất.
Khi ấy Ông tuổi đã ngoài 30. Công chúa Nguyệt Cư 28 tuổi. Một hôm buổi tối công chúa Nguyệt Cư đang nằm ở chính nơi Tây cung, mơ màng vào mộng đi lên đỉnh núi Thứu Lĩnh, bỗng thấy một áng mây năm sắc bay trên đỉnh núi. Công chúa đến nơi xem xét, mới thấy mây năm sắc đều bay lên trên không. Trong mây lại có một con rồng vàng cũng theo mây mà bay lên trời. Lại thấy ở nơi rồng mây đó có một hang huyệt bên trong có 12 chiếc trứng. Công chúa nhặt trứng bọc vào trong áo, đem về đến đường lớn thì 12 trứng đều đồng loạt nở ra 12 rồng con, tất cả đều có hình như rắn thằn lằn. Công chúa sợ hãi bèn bỏ ở giữa đường. Bỗng nhiên tỉnh lại, mới đem mộng đó nói với Lang Công.
Lang Công bèn nói với công chúa rằng:
Nếu quả như trong mộng thì tất là điềm sinh quý tử, đúng là những anh tài tuất kiệt, nhập làm con trong nhà ta, không phải tầm thường. Sớm như trong mộng, nửa đường đã thả, có thể có ý liên quan, chưa chắc gia đình giữ được lâu dài.
Lang Công nói xong, năm ấy công chúa quả nhiên có mang thai, tới năm Giáp Thìn mồng 6 tháng Giêng sinh ở vọng cung (tức cung Đàm Lã) một người con trai, mặt mũi to lớn, mắt tú mày thanh, thật là kỳ dị, nhân gian không có ai có tướng như vậy. Được trong trăm ngày cha mẹ đặt tên là ông Tràng. Đến năm Bính Ngọ mồng 9 tháng 8 công chúa lại sinh một bọc ba con trai. Đến năm Mậu Thân mồng 3 táng 3 lại sinh một bọc 2 con trai. Đến năm Nhâm Tí ngày 12 tháng 10 lại sinh 1 người con trai. Mỗi lần như vậy trời đất mờ tỏ trong 3 ngày, mưa gió kinh trời, sấm sét khắp đất, mùi hương thơm gió nồng nàn trong phòng sinh nở, khí lành rạng rỡ nơi sinh. 12 người con trai đều có phong tư đẹp đẽ, thể mạo khôi kỳ. Phò mã Lang Công trong lòng suy tưởng mà nói:
Gia đình ta có dư phúc hậu nên trời sinh đám thánh, đất xuất chúng hiền, đều cùng báo nhập vào làm con trong nhà. Nếu như không phải vậy thì tất là yêu đồ, quỷ đảng tác loạn, tự sinh ra kỳ sự vậy.
Liền hôm ấy dâng biểu tâu lên vua thuật lại chuyện sinh nở kỳ lạ, Vua nghe tấu đó bèn thốt lên:
Phúc đó! Phúc đó! Con gái ta đức thật nhiều nên lòng trời đã định, quần hiền các thánh đều đến nhập vào nhà làm con, đúng là những thiên tài giúp nước, những người sẽ trợ vận giúp dân vậy.
Ngay hôm đó Vua mới đặt tên cho các chàng (12 ông đều là con của công chúa Nguyệt Cư, tức cháu ngoại của Nghị Vương). Thứ nhất là chàng Tràng, thứ hai là chàng Tuệ, thứ ba là chàng Dực, thứ tư là chàng Linh, thứ năm là chàng Hải, thứ sáu là chàng Thường, thứ bảy là chàng Khắc, thứ tám là chàng Thành, thứ chín là chàng Lôi, thứ mười là chàng Quý, thứ mười một là chàng Kính, thứ mười hai là chàng Dũng. Đến khi các chàng trưởng thành, người con trưởng tuổi đã 12, còn các em đã 8-9 tuổi, đều rất thông mình, sáng dạ, dũng lược hơn người, anh hùng vượt chúng. Nhân dân đều tận phục, trong nước đều sợ.
Người anh tính vốn thông minh cương trực, đức lớn tài cao, lại thấy có nhiều thuật lạ, độ lượng khoan dung, đều có phong độ rộng rãi, văn chương sâu rộng, tinh thông võ lược, con hiếu anh tốt, đương thế đều xưng rất đúng là người hiền. Còn chàng Quý tính hay hiếu sát, hùng dũng hơn người, rất bạo ngược, một lòng khảng khái. Nhân dân sợ phục mà tránh né (khi ấy xã Thời Mại đều sợ phục chàng Quý hơn những chàng khác). Còn các chàng khác đều anh hùng, dũng lược chế ngự. Các tài tử đều vô cùng kính phục. Khi ấy Lang Công cùng công chúa mua thêm đất đại ruộng vườn, thiết lập các cung sở để phân cho các chàng cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi vạn đời hương khói mà phụng thờ, rạng tỏ lòng hiếu kính, đức lớn sánh với trời đất vậy.
Lại nói khi ấy Thục Vương nghe thấy Trung Quốc ít khi dùng võ, muốn chiếm thành một nơi, nhưng còn sợ phương Nam có thần, do dự chưa quyết. Khi đó có chủ phụ đạo bộ Ai Lao có tài lược lớn, cũng là tông phái Hùng Vương. Thục Vương nghe vậy bèn dẫn quân đến đánh nhằm chiếm bộ Ai Lao.
Chủ phụ đạo Ai Lao đó không thể chống lại, bèn cử người đến tâu cầu cứu với Nghị Vương. Nghị Vương bèn dẫn mười vạn hùng binh và sai Ninh Hải quận vương thống lĩnh quân thủy bộ nhằm thẳng đến thành Ai Lao để ứng cứu. Thục Vương nghe Nghị Vương cùng với con rể phò mã Ninh Hải vương dẫn quân đến cứu viện, lại có kiếm thần, mới sợ hãi mà gửi thư rằng:
Quân Thục từ phía Tây lại chỉ muốn chiếm chủ bộ để truyền lại đất nước, đâu dám giơ càng bọ ngựa chống lại cỗ xe vạn thừa vậy.
Nghị Vương thấy thư đến bèn đem quân về. Thục Vương mới được chủ bộ đem về nước Thục, gả công chúa cho và lại nhường ngôi cho. Rồi sai sứ giả đến tạ Nghị Vương, xin Nam triều là anh, Bắc triều là em, định ước giảng hóa, hai nước kết giao. Nghị Vương đồng ý. Từ đó phía Tây Nam quân tình yên vậy.
Lại nói Ông (tức phò mã Lang Công) từ sau khi đánh Thục trở về cung ấp (tức Thời Mại) bỗng vai trái nổi ung nhọt mà nằm bệnh. Vua thường thân đến thăm hỏi. Khi đó Ông đã ngoài 80. Các chàng con tuổi đã ngoài 20. Thấy Ông tuổi đã cao lại mắc nằm bệnh, đề phòng vạn nhất có thế nào nên bèn lập con trưởng chàng Lý Tràng làm Tá thái tử (chữ Tá do Vua đặt cho) để nối vị trí Ninh Hải vương nhận trị. Còn các chàng khác đều phong làm tướng quân.
Hôm đó Lang Công triệu các con cùng với phụ lão nhân dân lại phân phó thác các nơi đất đai, phụ lão cùng các con và nhân dân tuân theo lời giao phó, không được làm khác. Khi ấy Ông phân đều đất đai, thiết lập thành các trang cho các con để sau này phụng thờ. Lúc đó xã Thời Mại được Ông chia thành 4 trang. Một là trang Đàm Lã, giao cho chàng trưởng Tá thái tử để làm nơi sau này hương khói phụng thờ. Nơi mà Ông đã lập chợ (tức chợ Núi) đều phân làm hai, một phân cho Thái tử để phụng thờ, thuộc về Thái tử. Một phân cho các con khác để thu lấy dùng phụ tế làm lễ các tiết. Về sau thuế chợ cũng được chia đều như vậy.
Một khu gò đã lập cung để ở, sau này ủy phó cho các con cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi đền chính phụng thờ vợ chồng ta. Lại cũng giao cho Thái tử một khoảnh ao ở bên trái trước cung, cho Thái tử lấy làm hương khói phụng thờ.
Còn các gò khác cộng 14 chỗ cùng các vùng đất các trang (đất của trang Đàm Lã, trang Lôi, trang Trung Chính, tranng Miếu, trang Lan, trang Thượng Giáp, trang Vĩnh Ninh) và nhân dân (tức ở vùng đất Thời Mại) Ông chia thành các trang thần tử, cùng cho Thái tử cùng với các con chung nhau mà hưởng đều. Không thể bỏ lời chúc thác nàu mà tranh nhau, thì không phải là đạo hiếu của các con ta.
Các chàng cùng với phụ lão, nhân dân nghe lời Ông dạy đều tuân theo lời ủy chúc mà nhận. Sau khi Ông giao chúc được vài mươi hôm thì cái nhọt ở vai trái tự nhiên khỏi. Ông lai đi vào đất Ái Châu, thăm lăng mộ tổ tiên. Phò mã Lang Công đi theo hầu Vua đến chân núi Bàn Sơn (thuộc đất Ái Châu), bỗng nhiên thấy một đám mây trắng từ trên núi bay ra đến thẳng chỗ Lang Công, quấn quanh người. Kiếm thần theo đó bay lên trên trời. Trong chốt lát biến thành một làn khói đen. Trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên. Khi ấy trong mây có tiếng tụng rõ ràng rằng:
Nhất phiến bạch vân phàm nhiễu lai
Thần long cấp cấp đáo thiên đài
Dương quân dĩ mãn thiên quân triệu
Vân giá phù long thượng đế hồi {đài}.
Tụng dừng thì tự nhiên mây khói một đường thẳng lên trên trời mà tự tan đi. Trời đất sáng tỏ. Phò mã bỗng nhiên mà hóa. Cả thân hình chỉ còn thấy áo cốt, đặt ở trên đất tại đó. Vua lấy làm lạ, ngày hôm đó (18 tháng 10) dừng lại xem xét, rồi truyền nơi đất đó cùng với nhân dân Ái Châu sửa chữa miếu đền, lập phụng thờ. Sự xong quay về đô phủ. Hôm đó bao phong tặng mĩ tự cho hưởng lễ vật hương khói vạn cổ không ngừng, cùng vận với quốc gia mà hưng thịnh vậy.
Phong Phò ký Lang Đại vương.
Khi ấy truyền các nơi nhân dân có thờ phụng đến thành đô để phụng đón sắc chỉ trở về các chốn mà thờ phụng. Vốn xã Thời Mại là nơi đền sống của Ông được cho làm thang mộc ấp, chốn hộ nhi, cùng với Bàn Sơn ở Ái Châu là nơi đền lăng của Ông. Hai đền này được truyền sai quan mang đón sắc chỉ về đền. Trăm quan làm lế tế cùng với Công chúa, Thái tử và các con. Nhân dân các trang cũng làm lễ thờ phụng.
Lại nói, khi ấy Tá Thái tử lại nhậm chức Ninh Hải, nối trị quận vương. Còn các ông con trai cùng ở nơi cung ấp (tức Thời Mại) để phụng dưỡng mẹ già (tức công chúa Nguyệt Cư). Các nơi mà Ông đã phân chia thành các cung để ở (khi đó các trang của đất Thời Mại và các xứ gò đều đã được các ông con trai lập làm nơi đô phủ. Ở nơi đó nhân dân đều phục làm thần tử), đều làm các đô phủ anh em cùng nhau quý hiền, dân ấp đều được vinh dự ơn lộc của nhà vua, danh tiếng vang xa, bốn biển anh hùng đều hướng phục.
Lại nói, khi Nghị Vương ở ngôi đã 160 năm thì mất, mới lập Thái tử Hùng Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương tư chất thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ nghiệp tổ tông 17 đời thịnh trị, trong tu luyện võ lược, ngoài ngự trấn biên cương, dốc lòng hưng bình mà yên Trung Quốc. Bèn theo gương của tiên vương mà trị, tôn sùng thiên đạo, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, xuân về trong nước. Đương thời đều gọi là vị hiền quân vậy.
Khi đó công chúa Nguyệt Cư tuổi đã ngoài 70. Một hôm (ngày 12 tháng 12) bỗng nhiên bị đau đầu mà hóa ở nơi ở chính, làm lễ an táng tại chính cung (tức cung Đàm Lã của Thái tử). Trăm quan đến tế, lại bao phong mĩ tự, truyền cho nhân dân cùng triều đình tu sửa cung miếu phụng thờ, cùng với quốc gia hưng thịnh vậy.
Duệ Vương bao phong là:
Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa.
Phong Phụ Ký Linh ứng Lang Đại vương.
Các trang của xã Thời Mại phụng thờ ở nơi chính đền (khi đó Nguyệt Cư đã thiết lập một du cung ở chợ Núi, người ở chợ đó đều xưng là thần tử. Công chúa hóa về sau, đất chợ Núi đều phụng thờ, sự tích còn ở bộ sau).
Lại nói khi cơ đồ họ Hùng đến cuối thế nước cáo chung. Duệ Vương ở ngôi sinh được 20 hoàng tử, đều lần lượt theo nhau về cố hương, 6 vị công chúa cũng chỉ còn 2 vị nữ công chúa. Một tên là công chúa Mị Châu Tiên Dung. Một tên là Mị Nương Ngọc Hoa. Rất được yêu mến. Vua sau gả Mị Châu cho Chử Đồng Tử (quê ở xứ Sơn Nam, xã Đa Hòa, huyện Đông yên, phủ Khoái Châu). Còn công chúa thứ hai là Mị Nương Vua muốn cầu người anh tài để gả kết hôn, bèn lập 2 lầu ở cửa thành Việt Trì, đằng trước treo biên là Đãi hiền lầu. Sai công chúa ở đó. Gửi hịch đi bốn phương, hễ ai có là văn nhân tài tử thì hội về thành để thi tài, sau gả công chúa cho. Thế là hào kiệt bốn biển đều vui mừng, mau chóng quy tập về quốc đô. Vua ngự ra đề thi. Người thì ngàn kinh vạn cuốn không thiếu trong tường Khổng Mạnh, bốn khóa ba truyện chẳng kém thao lược Tôn Ngô. Hiền tại trong Thiên hạ đến ở một trường thi trận,
Đều là tầm thường mà đi, không phải người toàn tài đương thời. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Tinh và Động Đình Thủy Tinh là hai người bạn đồng học có nhiều phép thông thiên, thật là anh hùng. Vua bèn nói:
Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, mà hai khanh đều là bậc anh hùng. Ngô vui thì Sở buồn, Hán ca thì Tần khóc. Thôi thì đành định xem trong hai người ai có khả năng đem sính lễ đến trước thì Trẫm sẽ gả con gái cho.
Thế là hai tướng Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng hẹn rằng:
Chúng thần cùng nhau về đem sinh lễ đến thi, xem ai đến trước.
Thủy Tinh về cung Động Đình mà cầu kỳ các vật lạ. Sơn Tinh đi thẳng ra ngoài lầu lấy gậy trúc chỉ trời xin được sính lễ. Bỗng thấy voi trắng chín ngà, ngọc kỳ vật lạ từ trời rơi xuống. Sơn Tinh nhặt lấy đến đêm gờ Tý đem lễ vào lầu rồng. Vua bèn gọi công chúa đến mà gả cho Sơn Tinh (Sơn Tinh tức Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng), bèn đón về núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thủy Tinh đem sính lễ đến. Vua nói:
Sơn Tinh đã đến lễ trước rồi.
Thủy Tinh tức giận mà quay về (thế là Sơn Thánh và Thủy Tinh do việc hôn nhân mà thành thâm thù, mỗi năm cứ đến tháng 6-7 lại giao chiến, mưa gió nổi lên to lớn, nhân dân thiệt hại nhiều, còn xem trong sự tích về Sơn Thánh).
Lại nói khi Duệ Vương 150 tuổi mới nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh. Tản Viên không nhận, Duệ Vương nói:
Cơ đồ họ Hùng đã đến cuối, con có thể thay thế được.
Tản Viên do dự chưa quyết. Khi đó Thục Vương (là chủ phụ đạo nước Ai Lao, cũng là dòng dõi Hùng Vương) nghe tin Duệ Vương tuổi trời đã đến kỳ mà 20 hoàng tử đều đã về trời, không có người lập nối dõi, định nhường ngôi cho con rể Tản Viên. Thục Vương mới âm thầm khởi binh muốn đến đánh để chiếm lấy nước. Biên phương cấp báo, Duệ Vương cùng với đình thần bàn bạc. Triều đình có quan Liêu tiến ra rằng:
Bệ hạ nghỉ ngơi đã lâu, quân thần tướng sĩ ở trong thời không có chiến loạn, nên hàng ngày quân luyện không tinh. Nay có động đến tất nhân dân xã tắc sẽ muốn cầu phòng thủ để các bậc Thái tổ Thái tông trên trời linh thiêng không gặp hoạn nạn. Vạn nhất mà sự quân xấu đi, quân Thục tất sẽ phá tổ tông cùng làm tổn thương dân chúng con đỏ vậy. Chẳng bằng nhân đây dùng mưu thận trọng bí mật hối lộ tướng giặc, gửi thư cho Thục Vương để xem có thê hoãn việc động binh, từ đó xem cơ sự sau này ra sao.
Vua nghe vậy, muốn theo kế này, bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh đến hỏi. Sơn Thánh tâu rằng:
Hơn hai ngàn năm qua 17 vị thánh quân có ơn sâu đức dày, đã khắc sâu vào cốt tủy nhân dân.
Hiện nay nước giàu quân mạnh. Oai đức của bệ hạ lan xa bốn biển. Chẳng qua quân Thục không biết tự giữ mà dám quật cường, thất bại đã rõ, tất đúng như vậy. Xin bệ hạ xử tội mà thảo phạt, lấy nghĩa mà phục, tất dân ta đều theo bệ hạ. Nước giặc đánh đến không khắc gặp họa. Xin được lĩnh ba vạn quân hùng ra vào, một xe độc tiến, đất Thục sẽ yên.
Vua nghe vậy rất mừng bèn chọn ngày trai giới, lập đàn cầu đảo trời đất. Đang khi làm lễ bỗng thấy trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi tới. Việc xong, đêm ấy Duệ Vương ngự ở chính điện, mơ màng nằm mộng, bỗng thấy Hùng Anh Vương (tức là tổ năm đời của Duệ Vương) cùng binh sĩ tiến đến nói với Duệ Vương rằng:
Cơ đồ họ Hùng đã tận, thế nước cáo chung. Thục Vương làm loạn, nên lòng trời đã định, sai những anh tài xuất thế để trợ giúp nước nhà khi tận cuối. Có 4 vị thần quan trên thiên đình, 1 vị thần quan của thủy quốc, 7 vị thần quan thổ địa đều đầu nhập vào làm con của công chúa Nguyệt Cư, theo giúp Tản Viên Sơn Thánh để trị loạn này vậy. Không phải là vô minh đâu.
Duệ Vương trong mộng tâu lại với Anh Vương rằng:
Dám hỏi các vị thần quan tên như thế nào, xin được chỉ giáo.
Anh Vương nói:
Thứ nhất Tá Thái tử (là Thông phán sự của Thiên đình sai xuống). Thứ hai là Thái Ất. Thứ ba là Thiên Cương. Thứ tư là thần quan Áng Na (tức là thần quan nơi gò đất). Thứ năm là thần quan Thủy (là vị Linh quan của Thủy đình). Thứ sáu là thần quan Đương niên hành khiển (là vị Thiên quan). Thứ bảy là thần quan Phú. Thứ tám là thần quan Khắc. Thứ chín là thần quan Miếu. Thứ mười là thần quan Lôi. Thứ mười một là thần quan Dòng. Thứ mười hai là Đương cảnh bản thổ thành hoàng Đại vương. 7 vị thổ thần là khí lành của núi Hùng, Thời Mại đúc thiêng, cùng mang tên hiệu gò sinh ra vậy (Khi ấy Thời Mại có các gò Áng Na, gò Phú, gò Khắc, gò Miếu, gò Lôi, gò Dòng ở tại nơi cao, cùng với Đương cảnh thành hoàng quản lý nơi đó).
Anh Vương dứt lời thì xa giá tự quay đi. Duệ Vương khấu tạ, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là mộng này là Anh Vương chỉ dạy, bèn sai quan sứ truyền hịch gọi các ông đến, cùng bái làm các tả hữu tướng quân, nhận lệnh của Tản Viên Sơn Thánh đi đánh nước Thục. Khi đó Thái tử Tràng đang nhận chức Ninh Hải vương, chống đánh với một mặt quân Thục. Còn 11 ông tuân phụng mệnh vua, khấu tạ trước bệ, quay về cung ấp (xã Thời Mại), làm lễ từ đường.
Việc xong lại chiêu mộ được các gia thần, nhân dân địa phương được ngoài 700 người khỏe mạnh làm thủ túc cầm đao cho các ông (khi ấy Đàm Lã của xã Thời Mại thuộc thủ túc của Thái tử có 121 người, còn trang Bình Chính, trang Trung Thượng, trang Lan, trang Vĩnh Ninh cộng là 276 người đều theo các ông đi chinh phạt. Còn người ở chợ Núi thì theo thần quan Thủy cùng làm thủ túc gia thần được 68 người. Còn các nơi quận huyện cũng theo các ông, cộng được 743 người).
Khi đó (mồng 10 tháng 8) mổ trâu khao đại hội binh sĩ ở cung ấp. Xong việc các ông tiến quân mã đến bệ rồng. Vua sai làm tả hữu đốc lĩnh tướng quân, cùng cho 5000 hùng binh nhập theo lệnh của Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Thánh cùng các ông khấu tạ trước bệ, lĩnh mệnh đường đường từ cửa thành tiến đi, thẳng đến đồn chính của quân Thục tại đất Mộc Châu, Quỳnh Nhai, đánh một trận đại phá, chém các tướng nước Thục cùng quân sĩ hơn ngàn đầu. Quân Thục thua to tứ tán (trận này có thiên thần là Tá thánh từ trời xuống giúp nước nhà, còn có tích riêng). Còn các dư đảng đều bị bắt sống, dẫn về kinh, một xe không thoát, một ngựa không lọt, quét sạch không yên bình vậy. Tức tốc sai tâu báo tiệp. Vua bèn chia các chiếu truyền về. Sơn Thánh cùng các ông và các tướng phụng mệnh quay về thành, đến tận cổng bái tạ.
Vua rất vui mừng bèn mở yến tiệc khao quân sĩ, thưởng cho ba quân, gia phong các công thần lớn nhỏ. Từ đó non sông thanh bình. Các ông khấu tạ bệ rồng xin trở về cung ấp (cung ấp Thời Mại). Vua đồng ý. Các ông ngày hôm đó (mồng 5 tháng 3) quay về cung. Nhân dân làm lễ bái đón. Các ông mở yến tiệc lớn, khao các tướng sĩ, gia thần.
Việc xong khi đó Quý Công (tên là Dũng) vốn tính hiếu sát, rất cường bạo, ngỗ nghịch nhưng lại cũng có lòng nhân lượng, nên nhân dân sợ phục, yêu mến hơn các ông khác. Hôm đó Quý Công biết giết người là quá đáng mới lập riêng một cảnh chùa, tạo làm tượng Phật để giải oan những tội lỗi cho mọi người (chùa tên là chùa Sùng Ninh) ở đất trang Vĩnh Ninh, cũng là nơi đất có hình rồng vậy. Việc xong từ đó các ông anh em thiết lập đồn dinh, tu sửa đền miếu, cùng nên quý hiển, nhận được ân lộc nước nhà, trong môn hộ có thêm người bốn biển làm gia thần, nổi tiếng một phương ở ấp tại đất Thời Mại. Nhân dân đều làm thần tử, cha con anh em một nhà thế lớn, ân sâu đức dày, mở mang mĩ tục nhân dân, người trước mở, người sau đắp, công đức rạng rỡ sánh cùng trời đất vậy.
Lại nói được gần hết 2 năm thì Thục chúa ôm hận, cầu viện các nước láng giềng tám vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, tàu thuyền 2 ngàn chiếc, thủy bộ cùng tiến thẳng đến đất Nam Giao đánh lấy nước ta. Quân bộ theo chân núi từ thập châu Hoàng Khiếu [Tùng], Quỳnh Nhai, Lượng Sơn, Văn Lãng, Châu Đại Man, Văn Bàn, An Lập, Thuỷ Vĩ, Bố Chính, Minh {Linh} 5 đạo tiến ra. Đường thủy tàu thuyền theo La Châu, cửa biển Thần Phù, cửa biển Hội Thống. Cờ xí rợp đất, chiêng trống vang trời, tiếng quân chấn động như sấm sét vạn dặm.
Vua rất lo lắng mới hỏi đình thần, tất cả đều dương mắt nhìn nhau không có một kế khả thi. Trước đó các ông đã được cử đến trấn nhậm các nơi. Tá thái tử nhận Ninh Hải quận vương. Ông thứ hai đến nhận ở Tuyên Quang. Ông thứ ba đến Hưng Hóa. Ông thứ tư đến Ô Châu. Ông thứ năm đến Hải Dương. Ông thứ sáu đến Mộc Châu. Ông thứ bảy đến Chu Diên. Ông thứ tám đến Mai Châu. Ông thứ chín đến Việt Châu. Ông thứ mười đến Thái Nguyên. Ông thứ 11 đến Lạng Sơn. Đều cùng nhau đến nhận việc các chủ trưởng phụ đạo. Còn lại ông thứ 12 ở tại cung ấp để giữ coi đền miếu (đất Thời Mại). Khi đó Vua gọi các ông về cùng Sơn Thánh để hỏi mưu kế. Sơn Thánh cùng các ông một lòng đánh dẹp giặc, xin nhận mười vạn quân.
Vua rất vui mừng, bèn trao nỏ thần cho Sơn Thánh, phong làm Nhạc phủ kiêm thượng đẳng thần. 12 ông đều được phong là tả hữu thần quan, giao cho mỗi ông một thanh Kim đao, một bộ áo chiến bào, một mũ trăm sao, một con tuấn mã, theo thánh giá đi dẹp giặc. Sơn Thánh cùng các ông bái tạ, nhận mệnh phân binh thành các đạo, tiến thẳng đến các đồn quân Thục, đánh một trận lớn, lấy được dấu ấn tín của giặc. Bèn mới làm giả một bức thư của Thục chúa gửi cho tướng Thục yêu cầu giữ nguyên quân trong đồn, không được đánh. Tướng Thục nhận được thư phòng thủ không ra.
Sơn Thánh cùng các ông mới ngày đêm tiến đến thành Thục, chia quân thành các đạo đánh một trận lớn, bắt sống nước Thục dẫn về kinh sư. Các đồn nghe biến không kịp cứu. Quân Thục bị phá tan, thua to, dẹp sạch vậy. Sơn Thánh cùng các ông làm lễ dâng biểu tâu, quay trở về thành làm lễ bái tạ.
Vua rất vui mừng, bèn mở yến tiệc. Đang trong lúc ăn uống 11 vị ngồi ở trên triều hai bên trái phải trước bệ. Đang giữa ban ngày bỗng thấy trên trời có 3 tiếng sấm vang đất, trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên, ban ngày hóa như đêm. Mười ông bỗng nhiên cùng hóa trước bệ rồng trong chính điện. Được một lúc thì mây gió tự tan, gió to dần dần thổi đi. Trời đất sáng lạn. Thì thấy các ông đều đã hóa. Chỉ còn Thái tử và Quý Công còn ở trước triều.
Duệ Vương lấy làm sự lạ, ngày hôm đó (mồng 1 tháng 2) làm lễ an táng các ông ở nơi đất trong thành, rồi cứ theo lời dạy của Anh Vương trong mộng mà bao phong mĩ tự, cho đón về đất nơi cung ấp (xã Thời Mại) để phụng thờ. Duệ Vương phong vậy (phong Thái tử Ất thần quan, phong Thiên Cương thần quan, phong Áng Na thần quan, phong Thuỷ thần quan, phong Đương niên hành khiển thần quan, phong Gò Phú thần quan, phong Gò Khắc thần quan, phong Gò Miếu thần quan, phong Gò Lôi thần quan, phong Ông Dòng thần quan). Còn 4 trang của xã Thời Mại cùng phụng thờ. Trang chợ Núi (theo riêng Thủy thần quan) phụng thờ riêng hai vị (Thánh mẫu cùng với Thủy thần quan), cùng cho làm làng hộ nhi cho đền chính.
Lại nói còn Thái tử cùng với Quý Công thấy các ông cùng ngày đều hóa, tất là vận nước nhà đến cuối nên các ông trở vê cung mây, không ham muốn lợi lộc của dương gian, tránh nhiễm bụi trần. Hai ông khấu bệ rồng xin được trở về cung ấp nghỉ ngơi trả lại chức trách. Vua đồng ý, ban cho một trăm hốt vàng ròng cùng với một trăm súc vải gấm. Hai ông quay trở về. Hôm đó (mồng 6 tháng 3)
Nhân dân làm lễ bái đón. Hai ông bái yết gia tiên, tu sửa đền miều các cung tòa ở các nơi đất trong các trang. Lại cho các gia thần cùng nhân dân một trăm thỏi vàng ròng, mở yến tiệc. Hai ông gọi phụ lão nhân dân và các thần tử cùng đến ăn uống. Nhân lúc ăn uống vui vẻ hai ông nói với nhân dân rằng:
Nhà ta cùng với nhân dân (4 trang của Thời Mại) vốn có ân sâu đức dày đã nhập vào xương tủy. Một nhà thần tử, vạn cổ cương thường tất thành nghĩa cũ, đâu phải là tình ngày một ngày hai. Nay có một tòa nơi cung mà hai vị tiên tổ đã lập ra (là cung đền ở nơi dân cứ, bên ngoài đối diện với nơi chợ). Nay lấy đó làm đền chính phụng thờ hai bậc gia tiên. Còn các tòa dựng về sau ở các nơi trong các trang thì để là cung thờ vọng. Hôm nay chúng ta ủy phó giao cho nhân dân làm nơi sau này cùng phụng thờ cha mẹ nhà chúng ta với các anh em, để nêu cao phong tục tốt đẹp trong nhân dân, đề cao tình thầy trò, làm thịnh thêm đức này vậy.
Phụ lão nhân dân, thần tử, đều cùng lòng nhận ủy chúc này. Việc xong thì đến mùa hè ngày 11 tháng 5, hai ông đi dạo chơi săn bắn, trở về cung. Quý Công cho quân binh về và ngồi nghỉ ở chùa Sùng Ninh, ngắm xem địa hình cảnh thiền. Thái tử đem quân trở về nơi cung chính. Bỗng nhiên mưa to gió lớn nổi lên, giữa trời có một đám mây đỏ như ánh lửa màu hồng, cuốn tròn như hình mặt trời, bay đến quấn quanh dân ở nơi đó, như vạn chiếc nón úp đất, môi ngậm yên lặng một vùng. Dân ở đó kinh sợ không dám ra khỏi nhà.
Hôm ấy (mồng 10 tháng 5) Quý Công hóa ở chùa Sùng Ninh. Thái tử hóa ở nơi cung đền chính (trong 12 người con chỉ có ông Thái tử là nhận chức Ninh Hải quận vương, lấy vợ con chủ trưởng châu Bố Chính, sinh được 3 nam 2 nữ, sau sinh được các cháu còn nhận chức phò giúp Trưng nữ vương. Sau này cháu 10 đời lại lấy con gái vua Trần Thuận Tông).
Hai ông hóa xong thì đám mây hình ô tự biến đi, quạ bay đến thành đám, mưa gió tự nhiên hết. Gia thần, nhân dân đều ra đến chỗ các ông hóa để làm lễ an táng, nhưng đều thấy mối đã đùn thành mộ. Nhân dân bèn dâng biểu tâu về triều đình. Vua nghe vậy, nhớ tới lời báo trong mộng quả đúng nên rất kinh hãi.
Vua thân ngự giá về nơi cung ấp, truyền nhân dân lập đền miếu phụng thờ. Lại lập một miếu ở nơi chùa Sùng Ninh thờ Quý Công. Còn Tá thái tử thờ phụng ở đền chính phối thờ cùng cha mẹ cùng các ông được truy hưởng. Hôm ấy (12 tháng 2) việc xong, Vua bao phong hai vị cùng 12 ông mĩ tự cùng áo mũ, truyền các quan cùng nhân dân làm lễ tế, cho phép 4 trang của xã Thời Mại làm nơi hộ nhi, miễn lệ các thuế dịch.
Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa (theo như quyền chính của quân nữ chi ở trên)
Phong Phò Ký Lang Cương nghị Đại vương
Phong Tá thái tử Tràng
Phong Thái Ất thần quan
Phong Thiên Cương thần quan
Phong Áng Na thần quan
Phong Thuỷ thần quan
Phong Đương niên hành khiển thần quan
Phong Gò Phú thần quan
Phong Gò Khắc thần quan
Phong Gò Miếu thần quan
Phong Gò Lôi thần quan
Phong Gò Dòng thần quan
Phong Đương cảnh thành hoàng bản thổ Đại vương.
Trang Đàm Lã xã Thời Mại là nơi thờ trưởng phụng thờ Thái tử nên việc tế khấn có ngọc phả, lưu giữ thần hiệu truyền làm căn cứ. Còn trang Bình Chính, Trung Công, Lan cùng có các tiết làm lễ phụ, hưởng cỗ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng trời đất không mất vậy. Từ đó quốc đảo dân cầu có nhiều điều linh ứng. Mỗi năm hai kỳ xuân thu làm quốc tế. Bốn mùa hương hỏa không ngơi. Sau Lê tiên sinh có thờ rằng:
Tự cổ tòng lai vị kỷ nhân
Thê vi vương tử, tử vi thần
Đồng bào thập nhị giai hiền triết
Vạn cổ lưu truyền tại xã dân
Phụ đức càn khôn giai bất mẫn
Thần công sơn hải tỷ vô ngân
Phu thê phụ tử thiên xuân tại
Danh đức như tư nhật nguyệt tân.
Lại nói, trải Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 349 năm đến khi nước Nam có 4 họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có anh linh hiển ứng, giúp nước cứu dân, nên nhiều thời các đế vương gia phong mĩ tự, hương khói không ngừng. Đến khi Lê Đại Hành dẫn quân phạt Tống, tiến quân đi qua đền (tức cung đền Thời Mại), dừng ở đây một đêm, cầu đảo âm phù giúp nước dẹp được giặc, tới khi thanh bình sẽ bao phong là Thượng đẳng phúc thần. Chúc xong đêm đó vua Lê ngự ở điện chính, nằm mơ bỗng thấy công chúa cùng phò mã và 12 người con là thần quan đều cầm Kim đao, mũ ngọc xán lạn, áo bào giáp rồng huy hoàng, quân mã đường đường tiến đến. Hai vị đều đứng trái phải trước Vua. 12 thần quan đều đứng chầu bên trái phải, quân binh mang áo giáp đứng thành 2 hàng. Vua hỏi rằng:
Các vị đến là thế nào?
Trả lời rằng:
Thần vốn là phò mã nhà Hùng, nghe vua Lê phạt Tống qua đây gọi trợ chiến, nên dẫn binh mã đến yết kiến.
Dứt lời thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ, biết là có nhiều điều linh ứng. Hôm ấy làm lễ rồi dân quân tiến thẳng, sau dẹp sạch được giặc, vua Lê bao phong mĩ tự Thượng đẳng phúc thần, hưởng lễ vạn cổ, hương khói vô cùng, cùng hưởng vận với quốc gia, thịnh sao!
Phong Nguyệt Cư công chủ Trinh thuận Minh mẫn thần vị
Phong Phò ký Lang Cương nghị Uy dũng Hùng kiệt Đại vương
Phong Tá thái tử Tràng Đại vương.
Còn 11 vị tuân theo như mĩ tự của triều trước, gia phong hai chữ Đại vương. Đền chính hộ nhi của xã Thời Mại mỗi năm hai kỳ quốc tế. Từ Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều vị đế vương truy phong mĩ tự, hương hỏa vô cùng.
Lại nói thời hậu Trần, Giản Định đế khởi nghĩa hưng binh để lập phục lại nhà Trần (là con thứ của Trần Nghệ Tông). Khi đó có quan phò mã là Lý Thái Bảo (cũng là cháu thứ hai đời thứ mười bốn của Tá Thái tử từ Lý Lang Công), đi qua đền trang Đàm Lã, xã Thời Mại, kính nghe rằng đền thờ tổ tiên có tiếng nhiều linh ứng. Khi đó quan phò đang tiến quân truy đuổi Hồ Quý Ly cùng Hán Thương, mới tiến quân đến nơi đền, cầu đảo xin được âm phù để dẹp được họ Hồ, khôi phục lại quốc gia nhà Trần. Sau này được thanh bình xin tâu với vua, tất có bao phong mĩ tự, hưởng lễ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng nhật nguyệt, trường tồn mãi mãi.
Khi vừa chúc xong bỗng thấy gió to nổi lên thổi thẳng vào trong cung đền, làm gẫy cây, cát đá bay mù mịt, trời đất mờ tỏ. Trong đền nghe tiếng động như tiếng sấm. Phò mã lại làm lễ bái xin. Thì mưa gió tự nhiên dừng lại. Quan phò mã (vì lấy con gái của vua Trần Giản Định) nói với phụ lão nhân dân rằng:
Tiên tổ của ta đều rất linh thiêng, tất là vì vận hưng quốc mà âm phù vậy.
Dứt lời hôm đó cất quân thẳng đến đánh một trận với quân Hồ. Quân Hồ thua, chạy tán. Vua Giản Định phục được quốc gia, lên ngôi hoàng đế, bèn gia phong tuân như sắc chỉ của triều trước, lệnh quan đem sắc chỉ về đền (đền Đàm Lã) mà làm lễ tạ. Ch xã Thời Mại được một năm hai kỳ xuân thu quốc tế, lại lập ở trong ấp (tức xã Thời Mại) 7 nơi miếu để cùng phụng thờ. Các chữ húy cùng các tiết sinh hóa và các ngày lệ tiệc khánh hạ cùng các sắc phục được khai cụ thể như sau:
Lệ ngày sinh của cha mẹ cùng các ông: làm lễ ở miếu chợ chính sở, cùng xã làm lễ cỗ thịt lợn, xôi, rượu, bánh trôi. Trước đó 1 ngày là lễ tắm rửa. Ca hát một ngày đêm đến mười giờ sáng thì đón trở về các nơi làm lễ.
Mồng 3 tháng Giêng chính lệ ngày sinh Thánh mẫu: làm lễ chay 3 mâm, trà, bánh chay, ngũ vị hương, làm lễ tại miếu chính ở cung chợ, lúc thờ đó làm lễ tắm rửa, tới ngày mồng 4 nghênh giá Thánh phụ, Thánh mẫu về cung Thái tử Đàm Lã. Đến mồng 5 dùng lợn đen, rượu ngọt, chọn gia đình vợ chồng song toàn làm lễ. Đến mồng 6 làm lễ thịt lợn, xôi ngũ sắc, hát xoan thì có phường hát của cung tạo lệ 4 xã Phù Khang, ngâm chúc phụng thờ. Sau 3 ngày làm lễ tạ quay về cung miếu. Các giáp phụ giúp tế ở chợ Núi và các miếu ca hát.
Mồng 6 tháng Giêng là ngày chính lệ sinh nhật của Thái tử Đại vương: làm lễ ở cung Thái tử Đàm Lã, lợn đen tuyền, chọn gia đình có đủ vợ chồng song toàn, rượu ngọt, xôi, hát xoan do phường của 4 xã tạo lệ huyện Phù Khang cùng đến cung hát vịnh tụng chúc. Ngày Thái tử sinh nhật cũng là ngày khánh hạ của Thánh phụ, Thánh mẫu.
Ngày 11 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: làm lễ lợn đen, xôi, rượu tòa xã tại chính miếu chợ.
Mồng 3 tháng 3 là ngày sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn đen, xôi, rượu cùng ca hát ở cung Đàm Lã và Trung Công.
{12 tháng 10 ngày lệ sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn, xôi, rượu, ca hát một ngày đêm ở Đàm Lã và trang Lan.
20 tháng 12 là ngày hóa của Đại vương: làm lễ lợn, xôi, cơm, rượu, 7 nơi vọng cung cùng làm lễ, 12 giáp cắt cử người phụ tế ở cung Đàm Lã.
12 tháng 12 là ngày hóa của Thánh mẫu: làm lễ lợn đen, các mâm gà, xôi, cơm, rượu ở cung Đàm Lã, cùng xã phụ tế và các nơi cũng làm lễ.
Ngày 10 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: lợn đen, xôi, rượu, cùng xã làm lễ tại chính miếu chợ.}
10 tháng 5 là ngày hóa của hai vị Thái tử và thần bản thổ: lợn, xôi, cơm, rượu làm lễ ở cung Đàm Lã và chùa Sùng Ninh.
10 tháng 8 là ngày khánh hạ sinh thần của Đại vương và ngày phân 12 giáp (12 giáp này đều là gia thần của 12 vị thần quan được Duệ Vương phân làm 12 giáp để phụng thờ): Trước một ngày làm lễ khánh hạ ở miếu cung tại xứ chợ đến ngày 9 thì đón giá về các vọng cung làm lễ lớn, ca hát, đánh cờ. Làm lễ lợn đen, xôi, rượu, bánh dày trắng, mỗi giáp làm bánh dày trắng 100 viên, ngày mồng 8 tế ở chính miếu chợ, ca hát một ngày đêm, quét dọn từ miếu chợ đến các nơi. Mồng 9 các giáp đón về các vọng cung làm lễ, ca hát, đánh cờ. Ngày mồng 10 toàn 12 giáp làm lễ.
Khai sắc khánh hạ ngày 10 tháng Giêng: lợn đen, xôi, rượu, ca hát ở cung Thái tử Đàm Lã.
Còn các tiết hai kỳ xuân thu quốc tế đều làm lễ tam sinh, ca hát ở chính xứ miếu chợ (12 tháng 2, 20 tháng 6).
Niên hiệu Hồng Đức thứ nhất, mồng 1 tháng 3.
Các chữ húy: Lang, Tràng, Nguyệt Cư, Tuệ, Dực, Linh, Hải, Thường, Khắc, Thành, Phú, Quý, Kính, Dũng, Lôi, 10 chữ húy nhất thiết cấm. Sắc phục vàng, tía, xanh tuyền nhất thiết cấm.
Còn các lệ nhỏ thì xem ở trong sự tích (làm lễ xôi gà), khi làm lễ thì trang Đàm Lã là trưởng lễ trước, sau lùi.
Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn.
Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 ngày tốt 10 tháng 5 Quản giám bách thần tri điện Thiếu khanh chức tuân như bản cũ của triều triều mà phụng chép (32 trang).
Niên hiệu Bảo Đại thứ 13 ngày 10 tháng 3, hương lý xã Cao Mại thừa sao phụng.
Đình Cao Mại.
Chạm khắc đình Cao Mại.Đền Nhà Bà Cao Mại.Bia đền Nhà Bà Cao Mại.
Câu đồng dao tưởng như nói chuyện vu vơ, nhưng lại là một câu chuyện lịch sử thật sự cách đây 4.000 năm từ khi cha Rồng Lạc Long Quân dẫn những người con xuống chia trị miền duyên hải.
Sách Nghệ An phong thổ ký chép: “Xưa ở Chỉ Châu có hai vợ chồng ông Mái, mụ Mái đã luống tuổi mà chưa có con. Một hôm người vợ nhặt được ba quả trứng về nhà, chồng đem bỏ vào cái chậu. Ít lâu sau ba quả trứng nở thành ba con rắn, ông bèn thả xuống ngã ba sông, bỗng mưa gió nổi lên ầm ầm lúc sau mới lặng. Nhưng hôm sau thì ba con rắn trở về quấn quýt bên ông bà, ông đi đâu rắn cũng theo đi.
Một hôm, ông ra bờ cuốc ruộng, ba con rắn bò lượn xung quanh tỏ ý rất vui vẻ, nhưng không may ông vô tình cuốc nhằm một con làm đứt đuôi. Ba con rắn cùng bỏ đi ẩn dưới vực Đan Hai. Về sau ba con rắn thành Thần được dân Chỉ Châu lập Miếu thờ gọi là Tam Lang Long vương”.
Đền Tam Lang Long Vương ở Chỉ Châu nay thuộc xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích này được biết với tên đền Sắc vì tới nay còn lưu giữ được 86 đạo sắc, phần lớn phong cho các vị thần là Ông Cả, Ông Hai, Ông Ba Long Vương. Các sắc phong này có niên đại từ năm Thịnh Đức thứ 5 (1657) thời Hậu Lê đến năm Thành Thái thứ 13 (1992) thời Nguyễn. Đền nằm trong cùng một khuôn viên với di chỉ khảo cổ quốc gia Thạch Lạc trên núi Sò điệp, nơi từng phát hiện được di cốt người tiền sử có niên đại 4.000 – 5.000 năm.
Niên đại trên 4.000 năm lịch sử ở vùng đất ven biển của cư dân sống bằng nghề đánh bắt hải sản (sò điệp) mang tên Thạch Lạc thờ các vị Long Vương thì chắc chắn liên quan đến sự kiện cha Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển. Truyện Họ Hồng Bàng kể: “Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước… Long Quân lấy Âu Cơ, trong năm sinh ra một bọc trứng, cho là điềm bất thường, vứt ra ngoài đồng; qua bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi…”
Đoạn truyền thuyết này rất giống với sự tích Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh như được chép ở Miếu Ao Thạch Trị hay đền Sắc Thạch Lạc. Tiếp theo, khi Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay, Long Quân nói: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc … Ta đem năm mươi trai về thủy phủ chia trị các xứ, nàng đưa năm mươi trai về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên”.
Lạc Long Quân cùng 50 người con trai về Thủy phủ không phải ở một chỗ mà là “chia trị các xứ”, là các nơi đầu khe góc biển. Chính vì thế mà ở rất nhiều vùng sông nước và ven bờ biển còn lưu lại những sự tích về các vị Long Vương Thủy phủ của thời kỳ này. Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh là một trong số đó.
Sự tích Tam Lang Long Vương có thể gặp đầu tiên là tại vùng Ngã ba Việt Trì nơi cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ chia tay lên rừng xuống biển. Thần tích ở làng La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ) kể về Thánh mẫu Động Đình Phan Cù Nương sinh ra 3 con trai được phong làm các vị thủy quan, đi trấn nhậm các nơi. Tương tự ở làng Đào Xá (Thanh Thủy, Phú Thọ) có bà Trang Hoa, vợ của ông Hùng Hải, sinh ra ba bọc trứng, nở ra 3 con rồng, rồi hóa thành 3 người con trai, đặt tên là Đạt Công Long Vương, Mãn Công Long Vương và Uyên Công Long Vương. Ba người con được cử đi trị nhậm ở vùng sông Đà, sông Thao. Vùng Động Đình ở Phú Thọ là chỉ khu vực sông nước quanh Ngã Ba Hạc.
Dòng sông Hồng bắt đầu từ hợp lưu của ba sông Đà, Lô, Thao tại Ngã Ba Hạc đổ ra biển ở vùng Thái Bình. Nơi đây cũng có sự tích về 3 con Hoàng xà ở đền Đồng Bằng (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ). Nàng Quý đi tắm ở sông Đào, cảm động với giao long mà có thai, sinh được một bọc, nở ra 3 con Hoàng xà. 3 con rắn sau hóa thành 3 chàng trai giúp vua Hùng đánh giặc. Con Hoàng xà lớn nhất trở thành Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình, tức là vị đức Vua cha Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Đây cũng chính là hình ảnh của Vua cha Lạc Long Quân, vì Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả ghi rõ, Lạc Long Quân đã “hóa sinh về biển làm đế chủ Thủy Tiên Động Đình Long Quân”. Động Đình ở Thái Bình là vùng đất Đào Động của Vĩnh Công Đại Vương, tức là vùng đất ven biển cửa sông Hồng.
Khi so sánh sự tích Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh với các truyền tích ở vùng sông Hồng thì có thể thấy rõ đây cùng là một sự kiện lịch sử. Hà Tĩnh theo trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả ghi là nơi đã diễn ra cuộc kỳ ngộ giữa cha Tiên Lộc Tục và mẹ Rồng Thần Long tại cửa biển Hội Thống, trên đất Cựu đô Ngàn Hống của vùng núi Hồng sông Lam. Ông Cả Long Vương ở Hà Tĩnh không ai khác chính là người con trưởng của Kinh Dương Vương và Động Đình Long Nữ, tức là vua Lạc Long Quân.
Ở Hà Tĩnh hiện có khá nhiều nơi thờ Tam Lang Long Vương và thường được gọi là đền Cả, như đền ở xã Ích Hậu huyện Lộc Hà, hay xã Xuân Hội huyện Nghi Xuân. Ngay ở xã Thạch Trị huyện Thạch Hà cũng có ngôi miếu thờ Ông Cả Long Vương với tên gọi là Miếu Ao. Nơi đây nổi tiếng với sự linh ứng kỳ diệu qua những câu chuyện như vào các ngày lễ có bóng rồng hiện dưới ao. Ngày chính lễ Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh gọi là ngày “kỳ phúc lục ngoạt”, tức là lễ cầu phúc vào rằm tháng Sáu Âm lịch hàng năm. Người dân địa phương còn lấy nước từ ao để làm thuốc uống chữa bệnh sau đi đã thành tâm thắp hương cầu thần tại Miếu.
Những câu chuyện của 4000 năm trước, khi người Việt đi xuống khai phá vùng sông nước ven biển, xăm mình chài lưới như những con Giao long trên sóng nước, còn lưu lại đậm nét trong các di chỉ khảo cổ và di tích tín ngưỡng ở vùng đất miền Trung như ở Hà Tĩnh.
Bài thơ Nôm về Tam Lang Long Vương ở đền Sắc Thạch Lạc như còn khắc tạc câu chuyện này:
Sắc phong thời Hậu Lê năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783) cho Ông Ba Long Vương ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Sắc phong thời Hậu Lê năm Chính Hòa thứ 5 (1684) cho Ông Cả Long Vương ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Sắc phong thời Hậu Lê năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710) cho Ông Hai Long Vương ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Mảng chạm rồng ở đình Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ.Đền Sắc Thạch Lạc ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.Miếu Ao ở xã Thạch Trị, Thạch Hà, Hà Tĩnh.Mộ tưởng niệm người tiền sử ở di chỉ quốc gia Thạch Lạc.