Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông. (Chinh phụ ngâm)
Câu chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ bị thiên đình chia cách, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày Thất tịch (mùng 7 tháng Bảy) nhờ đàn chim quạ bắc cầu trên sông Ngân Hà tưởng rằng là truyện thần thoại Trung Quốc, nhưng mấy ai biết rằng ông Ngâu, bà Ngâu chính là hai vị Sơn Tinh, Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt.
Làng Ngâu (nay là thôn Yên Ngưu, xã Đại Thanh, Hà Nội) có 2 ngôi miếu cổ có từ thời Lý thờ Ngưu Lang và Chức Nữ. Đó là miếu Mục Đồng thờ đức Tổ Nam Dương, tức ông Ngâu, và miếu Diệu Linh thờ Hương Từ Thanh Vân Thần Nữ, còn gọi là Tổ Mẫu Ngâu. Theo truyền thuyết, miếu Diệu Linh được hoàng hậu của vua Lý Thần Tông là Lệ Thiên tôn tạo và đặt tên chùa Hưng Quốc để thờ Phật. Ngày nay chùa Ngâu vẫn có lối thờ Tam phủ và có tượng Tổ Mẫu Ngâu cầm cành trúc trên tay (Trúc = Chức nữ?). Còn miếu Mục Đồng có tượng Thánh Tổ Yên Ngưu (Ngưu Lang) tay cầm gậy và đang ngồi trên con trâu vàng.
Vị Thánh Tổ Nam Dương cầm gậy thần và cưỡi trâu thì là Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn với cây gậy đầu sinh đầu tử. Nam Thiên Thánh Tổ cũng là Kinh Dương Vương, người đã vâng mệnh vua cha Đế Minh làm vua ở phương Nam. Bà mẫu trồng dâu dệt vải tương ứng như bà Tang Ma bên bãi Trường Sa Động Đình là Mẫu Thần Long, vị mẫu của Thủy phủ (Mẫu Thoải). Thì ra mối tình Ngưu Lang – Chức Nữ chính là sự kiện Kinh Dương Vương gặp mẫu Thần Long Động Đình trong sử Việt. Đây cũng là chuyện giữa Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh) và Thủy Tinh (Mẫu Thoải), dẫn đến mâu thuẫn mà hàng năm vào mùa mưa Ngâu tháng 7 lại dâng nước lên gây lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng.
Chùa Yên Ngưu (Miếu Diệu Linh xưa) có lối thờ Tam Phủ là Thiên, Địa, Thoải nhưng khác với lối thờ của các đền phủ khác. Cung Vua cha Động Đình thay thế cho cung Chúa Sơn Trang. Cung thứ 2 thờ chính giữa Quan lớn Đệ Nhất Tôn Ông. Cùng với Tổ Mẫu Ngâu được thờ ở đây thì lối thờ này rõ ràng nhấn mạnh vào dòng Thủy phủ, trong đó Vua cha Thủy phủ ở đây là Động Đình Đế Quân, Tổ Mẫu Ngâu là Thần Long Động Đình, Quan lớn Đệ Nhất là Lạc Long Quân theo Truyện họ Hồng Bàng.
Miếu Mục Đồng ngoài thờ chính là Tổ Yên Ngưu còn có thờ Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương. Điều này cho thấy, đối lập với miếu Diệu Linh (chùa Yên Ngưu), miếu Mục Đồng nhấn mạnh việc thờ dòng lên núi (Nhạc phủ). Đặc biệt nhất là miếu Mục Đồng lại thờ 10 vị quan lớn của Thủy phủ nhưng dưới tên gọi là 10 vị Kim ô (quạ vàng). Kim ô là hình ảnh con quạ ba chân, biểu tượng của mặt trời, như gặp trên các bức lụa hay tranh tường từ thời Hán. Đàn quạ bắc cầu Ô Thước thì ra chính là 10 vị quan lớn, được biết là những người con của Kinh Dương Vương và mẫu Thần Long. Kim ô hay mặt trời là cách gọi từ góc độ của dòng lên núi (nằm trong miếu Mục Đồng – nơi thờ dòng lên núi) đối với các vị quan lớn Thủy phủ.
Hình Kim ô – quạ vàng ba chân trong mặt trời trên bức lụa ở mộ Mã Vương Đôi thời Hán (ảnh internet)
Theo Sơn hải kinh: ở ngoài Đông Nam Hải, giữa sông Cam Thủy, có một quốc gia gọi là Hy Hòa. Ở nước Hy Hòa có nàng Hy Hòa là vợ của Đế Tuấn, sinh ra mười con trai là mười con kim ô, tức Mặt Trời. Hàng ngày, Hy Hòa tắm cho Mặt Trời ở Cam Uyên. Có truyền thuyết khác kể rằng mười con Kim ô đậu trên cây Phù Tang.
Như vậy nàng Hy Hòa chính là Động Đình Thánh Mẫu hay Đông Quang Thánh Mẫu (Nhật), tức Mẫu Thần Long. Bà lấy Kinh Dương Vương Tản Viên. Sơn hải kinh ghi bà lấy Đế Tuấn là đúng vị Sơn Tinh Nguyễn Tuấn. Hy Hòa là tên gọi theo vị tổ phương Đông là Phục Hy hay theo vị quan Hy Trọng được Đế Nghiêu cử đến phương Đông quan sát mặt trời, xây dựng lịch pháp. Cây dâu Phù Tang cũng chỉ rõ đây là hướng Đông và liên quan đến việc trồng dâu dệt vải của Chức Nữ. Phù Tang và Cam Lâm còn được nhắc tới trong tên gọi của vị thần phương Đông (Đông Vương Công) là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế.
Các vị quan lớn của Thủy phủ là những vị thủ lĩnh được Lạc Long Quân (vua Hạ) phân chia trấn trị các phương. Điều này được hình tượng hóa thành 10 mặt trời chiếu sáng khi đó. Truyền thuyết kể thời Đế Nghiêu, mười mặt trời chiếu nắng cháy bỏng. Đế Nghiêu sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời. Chỉ còn lại 1 mặt trời (Kim ô) sợ quá lẩn trốn mất. Truyền thuyết này diễn tả lại sự kiện lịch sử là Hậu Nghệ – một chư hầu ở phương Bắc xưa của chính dòng Đế Nghiêu – đã đánh diệt các thủ lĩnh của nhà Hạ ở 9 phương, chỉ còn lại 1 phương, sau này trở thành nhà Hạ Trung hưng.
Còn trong thần tích Việt thì đây là câu chuyện ông Nhăng mà lấy bà Nhăng, sinh ra con rắn thằn lằn cụt đuôi. Ông Nhăng bà Nhăng là ông Ngâu, bà Ngâu. Con rắn cụt là vị thủ lĩnh còn lại của nhà Hạ đã bị Chử Đồng Tử – Hậu Nghệ chặn, đuổi lên phương Nam xưa, thể hiện trong chuyện Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh bị đi đày ở Kỳ Cùng (Lạng Sơn).
Như vậy, câu chuyện lễ Thất tịch là lịch sử khởi dựng nước Xích Quỷ (Thủy quốc) được kể từ góc độ của dòng lên núi (Nhạc phủ). Ngưu Lang Sơn Thánh lấy Mẫu Ngâu Thần Long trồng dâu dệt vải bên bãi sông Động Đình, sinh ra 10 con Kim ô, là các thủ lĩnh nhà Hạ, đứng đầu là Hạ Khải Lạc Long Quân. Lạc Long Quân khởi (khải) lập quốc là nhà Hạ, phân cho những người anh em trấn ở các phương, là những vị tôn quan. Hạ Khải mất, một chư hầu của chính dòng Đế Nghiêu là Hậu Nghệ Chử Đồng Tử đã đoạt ngôi chủ thiên hạ (trong hình ảnh công chúa Tiên Dung), dẹp các tôn thất nhà Hạ (các Kim ô) ở 9 phương. Duy nhất còn lại một con Kim ô (con rắn cụt đuôi) chạy lên miền Nam xưa (Bắc nay), rồi sau đó trung hưng lại cơ nghiệp nhà Hạ.
Dòng lên núi của cha Tiên Tản Viên Sơn Thánh (Ngưu Lang) kết hợp với dòng xuống biển của mẹ Rồng Thần Long (Chức Nữ) mà làm nên dòng giống Việt, lưu truyền ngàn đời. Chính sự vận động đối lập lên rừng – xuống biển của 2 dòng người mới đem lại sự phát triển của xã hội người Việt vào thời lập quốc.
Thánh Tổ Yên Ngưu cầm gậy cưỡi trâu (ảnh Nguyễn Huân)Tổ Mẫu Ngâu (ảnh Nguyễn Huân)Các vị Quan lớn – Kim ô ở miếu Mục Đồng (ảnh Nhật Minh)
Trong số các vị thượng đẳng thần được thờ phổ biến ở miền Bắc nước ta thì Quý Minh là một trong những vị thần có số nơi thờ cúng rất lớn. Thống kê theo danh mục thần tích thần sắc trong Viện thông tin khoa học xã hội cho con số 502 nơi có thờ thần Quý Minh. Sự tích về vị thần này ở các nơi thờ xem ra có vẻ tương đối thống nhất, rằng Quý Minh là người em họ của Tản Viên Sơn Thánh, đã cùng Tản Viên và Cao Sơn đánh giặc Thục giúp vua Hùng Duệ Vương. Danh tướng Quý Minh được phong là Hữu kiên thần của Sơn Thánh. Tuy nhiên, cũng nan giải như chuyện về Tản Viên Sơn Thánh, hay sự đa dạng phức tạp các nhân vật có tên Cao Sơn Đại vương, trong cái tên Quý Minh Đại vương không phải chỉ có một nhân vật lịch sử duy nhất được thờ phụng.
Ở một số nơi như ở Bình Lục hay Lý Nhân, Hà Nam, Quý Minh được kể là người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, tương tự như trường hợp của Cao Sơn. Điều này cũng khó giải thích như việc Tản Viên Sơn Thánh chỗ là con của Lạc Long Quân, chỗ lại là ở thời Hùng Duệ Vương đời cuối. Cách hiểu rõ ràng là trong tên gọi Quý Minh Đại vương phải có ít nhất 2 nhân vật sống và lập công nghiệp ở 2 thời điểm khác nhau, một vào đầu thời kỳ Hùng Vương và một vào cuối thời kỳ này.
Rắc rối hơn là ngoài vị Quý Minh Đại vương thuộc dòng Sơn thần (theo Tản Viên Sơn Thánh), thì có khá nhiều nơi Quý Minh được thờ như một vị Thủy thần. Tên hiệu thường được tôn phong của Quý Minh là Đông Hải Đại vương, là dẫn chứng cho bản chất Thủy thần của thần Quý Minh.
Tấm bia Tôn thần sự tích bi chí của đền Nam Lạng ở Trực Tuấn, Trực Ninh, Nam Định ghi: Đại vương húy là Tuấn, tên tự là Quý Minh, là em của thần núi Tản Viên. Vương cùng với Tản Viên Quân từ biển đi từ cửa khẩu Thần Phù mà về qua đất xã ta thì có dừng xe nghỉ. Tiếp đó lại đi đến bến Đông Hải Long Đỗ, rồi yêu thích nơi cao ráo đó nên nghỉ ngơi mà hiển thánh rạng rỡ. Đời sau rất linh dị nên phong là Thượng đẳng thần. Thiên hạ chúng sinh rất sùng kính phụng thờ. Đền chính ở tại hai giáp Đông Đoài, phường Đông Hà, huyện Thọ Xương. Triều trước mỗi năm vào mùa xuân đều sai quan đến tế lễ.
Đền thờ Quý Minh Đại vương ở Hà Nội trước đây là đình Đông Hà ở số 46 phố Hàng Gai. Đây là ngôi đền tham gia vào lễ tế xuân ngưu hàng năm dưới thời nhà Lê (theo Phạm Đình Hổ).
Câu đối đền Nam Lạng nói về tích Quý Minh đi từ cửa khẩu Thần Phù và hiển linh dẹp yên hổ báo ở núi Chúc:
Cửa biển Thần Phù chim bay đến Đầu non Ngọc Chúc hổ chạy xa.
Chi tiết đáng chú ý trong sự tích đền Nam Lạng là việc thần Quý Minh đi từ cửa biển Thần Phù lên bến Đông Hải ở Long Đỗ, rồi hiển hóa tại đó. Chi tiết này cho thấy rất rõ Quý Minh là một vị Thủy thần sông biển, đồng thời cũng giải thích tên gọi Đông Hải Quý Minh và chỉ ra mối liên hệ giữa Quý Minh và vùng Long Đỗ (tức là vùng hồ Tây ngày nay). Di tích thờ Quý Minh ở vùng ven hồ Tây là đình Đông Xã nay nằm trên đường Thụy Khuê ở Hà Nội.
Vị Hữu kiên thần Quý Minh còn có tên là Lãng Nhạc. Chữ Lãng nghĩa là sóng nước, đối lập với tên Nộn Nhạc (Nộn hay non, chỉ núi) của Tả kiên thần Cao Sơn. Như thế trong cặp Cao Sơn – Quý Minh thì Cao Sơn là Sơn thần, còn Quý Minh là Thủy thần.
Kiên thần hiệp lực bình Thục kiến hồng huân, tố tự Hùng triều sổ thiên tải hất kim, Nhạc phủ uy thanh do hách hách. Tây quận hồi sư đằng vân phi hạc giá, ngật nhiên Thiên Nam đệ nhất phong chi hữu, Lãng sơn linh tích tự y y.
Dịch là:
Kiên thần chung sức dẹp Thục dựng cơ đồ, chính từ triều Hùng mấy ngàn năm đến nay, tiếng uy Nhạc phủ còn vang dội Quận Tây rút quân đi mây cưỡi xe hạc, tự nhiên trời Nam một ngọn đầu bên phải, tích thiêng núi Lãng vẫn như nguyên.
Trong Tản Lĩnh ngọc ký kể tới 2 lần Tản Viên dẫn các tướng và quân của Hùng Vương chống Thục. Lần thứ nhất Tản Viên Sơn Thánh chặn quân Thục ở Mộc Châu, được một thiên tướng cầm ốc tù và giáng xuống giúp mà phá tan giặc. Lần thứ hai quân Thục tổng tấn công, chia làm 5 đạo, theo các đường thủy bộ tiến vào. Sơn Thánh chia các tướng ra chống cự theo từng đạo quân. Quý Minh Đại vương thường là phụ trách chống đạo quân thủy của quân Thục tiến vào theo đường cửa Hội Thống ở Hoan Châu. Sau lần chống giặc thứ hai thì Hùng Vương được Sơn Thánh khuyên nhường ngôi cho Thục Vương, chấm dứt 18 đời Hùng Vương.
Điểm qua các sự tích về Quý Minh Đại vương và so sánh với lịch sử của thời kỳ Hùng Vương (Lạc Vương) thì có thể nhận thấy, thực ra có 2 nhân vật Quý Minh ở 2 giai đoạn Hùng Vương khác nhau. Vào đầu thời Hùng Vương, bộ ba Tản Viên Sơn Thánh là đại diện cho 3 dòng tộc. Dòng Tản Viên đứng đầu là Kinh Dương Vương làm chủ toàn bộ thiên hạ sau khi nhận ngôi từ vua Hùng theo cách truyền hiền (truyền ngôi cho con rể). Tả kiên thần Nộn Nhạc Cao Sơn, đại diện cho nhóm người ở vùng miền núi, được gọi là Sơn thần. Hữu kiên thần Lãng Nhạc Quý Minh đại diện cho nhóm người ở vùng sông nước ven biển, được coi là Thủy thần.
Ở giai đoạn đầu, sau khi Kinh Dương Vương Tản Viên Sơn mất, đã xảy ra một cuộc xung đột giữa con của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân với chính dòng vua Hùng (Đế Nghi) để giành vị trí làm chủ thiên hạ. Lạc Long Quân là nhờ vào sự giúp đỡ của bên mẹ là tộc người vùng sông biển (Long Nữ Động Đình) đã đánh đuổi Đế Lai mà lên ngôi Vua cha, làm chủ cả thiên hạ. Đây là cuộc chiến Hùng Thục lần thứ nhất, với thắng lợi của dòng Hùng Vương (Lạc Long Quân).
Trong cuộc chiến lần thứ nhất này Quý Minh là đại diện của nhóm người vùng sông nước nên đã theo phe của Long Quân chống lại quân Thục, đuổi nhóm tộc người miền núi Đế Lai – Âu Cơ phải di rời, chạy đi xa hơn về phía Tây. Thần tích Việt gọi nhóm Thục này là Hồ (Hồ Tôn, Tây Hồ), Di (Tử Di), hay có khi là Chiêm vì chính gốc ban đầu của nhóm trên núi này ở phía Tây Nam nước ta. Sự tích kể thành Hữu kiên thần Quý Minh dẫn thủy quân đánh giặc Chiêm, Hồ ở cửa Hội Thống.
Chú ý là Quý Minh trong giai đoạn này không phải là một trong số những anh em cùng mẹ sinh cùng bọc của Lạc Long Quân, bởi Quý Minh đứng ở bậc cha chú so với Lạc Long Quân, ngang hàng với Kinh Dương Vương (Tản Viên Sơn Thánh). Ngũ vị tôn quan hay Lục bộ thủy phủ cùng sinh với Lạc Long Quân trở thành các vị quan trấn trị các nơi trong Thủy phủ. Còn Quý Minh Đại vương là đại diện chung cho dòng Thủy phủ Động Đình, không đi trấn trị các nơi như các vị tôn quan Thoải phủ. Cao Sơn – Quý Minh là cặp lưỡng nghi Âm – Dương, lên rừng xuống biển, hay bộ Tam Tài – Tam vị Tản Viên. Đây là giai đoạn trước khi phân chia lần nữa thành Tứ tượng hay Ngũ hành như trong bộ Ngũ vị tôn quan.
Khu vực thờ Quý Minh dưới hình thức là Thủy thần, tức là Quý Minh của thời kỳ đầu Hùng Vương, là các vùng sông nước ở Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương. Điển hình, Thủy thần Quý Minh trở thành một trong Hoa Lư tứ trấn, thờ tại đền Trần trong cụm di tích danh thắng Tràng An. Chữ “Trần” ở đây không phải là họ, mà hàm nghĩa là phía Đông (chiết tự chữ Trần là Đông A), tương tự tên gọi Đông Hải Đại vương của Thủy thần Quý Minh.
Ở giai đoạn cuối thời Hùng Vương, trận chiến giữa Hùng và Thục lần thứ 2 là cuộc tấn công của dòng lên núi theo Đế Lai – Âu Cơ đã bị đuổi đi trước đây, quay lại chiếm vùng đất Lạc xưa. Thủ lĩnh vùng đất Lạc lúc này là một trong Tứ bá hầu của nhà Ân Thương, được biết với tên là Bắc Bá hầu Sùng Hầu Hổ. Sùng Hầu Hổ cùng với những người anh em của mình đã đánh chặn cuộc tấn công của Thục Vương Cơ Xương (Âu Cơ), nhưng cuối cùng thất trận. Vua Hùng cuối cùng là Ân Trụ Vương đã buộc phải “nhường ngôi”, trả lại vùng đất Lạc cho dòng Âu lên núi. Thục Vương về lại Phong Châu, lập nên nước Âu – Lạc.
Sùng Hầu Hổ được sử Việt gọi là Sùng Lãm, hay cũng là Sùng Công Cao Sơn, bởi chữ Cao cũng có nghĩa là Sùng. Như thế người anh em họ Sùng của Cao Sơn lúc này là Quý Minh. Có thể thấy vị Quý Minh ở thời điểm sau không có tính chất Thủy thần như thời kỳ đầu, mà là Sơn thần cùng với Cao Sơn. Khu vực các di tích thờ các sơn thần Cao Sơn Quý Minh chủ yếu ở các tỉnh vùng trung du như Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Yên Bái, Lạng Sơn, một phần Hưng Yên, Quảng Ninh.
Một dẫn chứng cho nhận định trên là việc thờ Quý Minh ở đền Phú Mẫn trên núi Hàm Sơn ở thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh. Đền Phú Mẫn còn có mộ Quý Minh Đại vương, tương truyền do ngài đi đánh giặc đã về hy sinh ở đây. Không xa thị trấn Chờ là núi Thất Diệu, nơi có đền Bạch Kê cùng với những “quỷ núi” hiện hình phá Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Truyện Rùa Vàng trong Lĩnh Nam chích quái nói: Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trắng sống lâu ngàn năm, hóa thành yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu. Trong núi có ma, đó là hồn người nhạc công triều trước chôn ở đây. “Tinh khí ở núi” là con vua đời trước, cùng với “Nhạc công triều trước” rõ ràng tương ứng với Cao Sơn, Quý Minh thờ ở đền Chờ gần đó.
Tất nhiên việc phân định Quý Minh nào là Thủy thần thời Kinh Dương Vương, Quý Minh nào là Sơn thần thời Hùng Duệ Vương không phải lúc nào cũng rõ ràng ở các di tích. Vị Quý Minh trong bộ ba vị Tản Viên là cổ thần từ thời dựng nước nên thường được thờ rộng rãi hơn, cả dưới hình thức là Sơn thần lẫn Thủy thần, hay là Nhiên thần nói chung. Vị Quý Minh cuối thời Hùng Vương có phạm vi thờ hẹp hơn, chủ yếu ở những nơi xảy ra cuộc chiến giữa nhà Chu (Âu Thục) với nhà Ân (Hùng Lạc) dưới dạng là Nhân thần.
Nhận định Quý Minh là thủy thần trong Tam vị Tản Viên, từng đi từ Thần Phù về Long Đỗ (hay Long Biên) còn có thể giải mã được vị thần quan trọng khác của miền Bắc Trung Bộ. Đền Nhân Phẩm ở xã Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình là đền Thần Phù Hải Khẩu, thờ Áp Lãng Chân Nhân, Triệu Việt Vương. Ở vùng ven biển Ninh Bình – Nam Định Quý Minh là vị thần đã báo mộng và trao móng rồng cho Triệu Việt Vương trong sự tích đầm Dạ Trạch. Ở đền Nhân Phẩm vị thần này được gọi là Cao Các Quý Minh Đại vương. Đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy vị thần Cao Các được thờ phổ biến ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và cả các tỉnh miền trong chính là Quý Minh, vị thần đại diện cho nhóm người miền sông nước trong bộ ba Tản Viên.
Thần Cao Sơn, Cao Các ở miền Thanh Nghệ như vậy tương ứng là hai vị thần Cao Sơn, Quý Minh như tục thờ ở miền Bắc. Cao Sơn – Cao Các hay Cao Sơn – Quý Minh là cặp đôi lên rừng xuống biển, đại diện cho các nhóm người sinh sống trên đất nước thời dựng nước. Bởi vậy mà các vị thần này trở thành Thượng đẳng thần, được thờ rất phổ biến ở nhiều nơi. Trong sự tích về Tản Viên, Quý Minh đã dẫn quân thủy chống giặc tiến vào ở cửa Hội Thống, Hoan Châu, nên việc Nghệ Tĩnh thờ Quý Minh dưới tên Cao Các là hoàn toàn dễ hiểu.
Ngoài ra, tín ngưỡng ở miền Trung còn có bộ ba Cao Sơn, Cao Các, Mạc Sơn. Bộ ba này tương ứng với ba vị Tản Viên: Cao Sơn, Quý Minh và Tản Viên. Mạc Sơn hay Mạch Sơn, cũng là Lạc Sơn, chỉ Lộc Tục Kinh Dương Vương như trường hợp của đền Hội ở Nghi Lộc, Nghệ An.
Vào thời lập quốc họ Hồng Bàng, 3 nhóm tộc người đã hợp nhất, tôn Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, cùng với đại diện của 2 vùng sông – núi là Cao Sơn và Quý Minh Đại vương. Cao Sơn, Quý Minh hay Cao Sơn, Cao Các đã trở thành biểu tượng thần thánh, tổ tiên của người Việt, mãi được tôn kính phụng thờ trên cả vùng đất Lạc ở miền Bắc và đất Hồng ở miền Trung.
Đình Nhân Phẩm, Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình.Tôn thần sự tích bi chí ở đền Nam Lạng, Trực Ninh, Nam Định.Bia trên mộ Quý Minh Đại vương ở đền Phú Mẫn, Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh.Đền Bàu Lối, Cửa Lò, Nghệ An, một trong những nơi thờ Cao Sơn Cao Các.
Tại làng Vạn Chài Nghĩa Sơn bên dòng sông Lam thuộc xã Hưng Long huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An nay còn ngôi đền thờ Liễu Nghị Đại vương và Động Đình Thủy Tinh Công chúa. Theo Tục thờ thần và thần tích Nghệ An của Ninh Viết Giao cho biết: Tên thần là Liễu Nghị, ngài đậu tiến sĩ. Khi vinh quy đi qua núi Bạt Sơn, ngài gặp công chúa Thủy Tinh. Thủy Tinh là con gái đầu của Long Vương ở hồ Động Đình đã kết duyên với Kính Xuyên. Kính Xuyên lấy thêm vợ hai Thảo Mai. Nàng Thảo Mai đem lòng ghen ghét đặt điều nói xấu vợ cả. Thủy Tinh bị Kính Xuyên hắt hủi, rồi lưu đày đến đất Bạt Sơn. Gặp Liễu Nghị nàng trao cho chàng một bức thư nhờ đưa đến Thủy phủ. Liễu Nghị nói từ hồ Động Đình đi Thủy phủ không có thuyền qua sông. Tức thì nàng đưa cho Liễu Nghị một chiếc kim thoa và dặn đi đến bến có cây Ngô đồng thì gõ ba tiếng, sẽ có đôi rắn to nổi lên mặt nước đưa chàng về Thủy phủ. Sau khi đọc bức thư biết hết sự tình, Long Vương liền sai Thái tử Xích Lân đến Bạt Sơn rước Thủy Tinh về Long cung và cho phép nàng được kết duyên cùng Liễu Nghị. Tại đền Nghĩa Sơn còn lưu được tới 19 đạo sắc phong cho các vị thần sau:
Liễu Nghị Đại Vương chi thần
Thủy Tinh phu nhân chi thần
Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế chi thần
Hà Bà Thủy phủ Động Đình quân chi thần
Tích phúc Thùy hưu chi thần
Bản cảnh Tham thị Trung liệt Hùng Nghị Đại vương
Bản cảnh Thủy đạo Tả tướng quân kiêm tri hà hải chi thần
Tả linh quan Giám đàn Tướng quân.
Trước cửa cung của đền có tấm hoành phi đề: Long ngư biến hóa, nghĩa là: Rồng cá biến hóa. Như đã xác định, Liễu Nghị chính là Kinh Dương Vương Tản Viên Sơn Thánh, người đã kết duyên với Long Nữ Động Đình ở tại cửa Hội Thống, tức là cửa sông Lam đổ ra biển. Đền Nghĩa Sơn nằm chính ở khu vực này của sông Lam. Việc Liễu Nghị và Thủy Tinh Công chúa được thờ ở tại cửa sông Lam càng chứng tỏ thêm nhận định trên và xác định vùng Động Đình được cổ sử nói đến là vùng sông biển ở miền Bắc nước ta. Hiện tại trong đền Nghĩa Sơn còn bức bài vị cổ ghi: Bản cảnh Đệ tam Liễu Nghị Đại vương sắc gia tặng Dực bảo Trung hưng Tối linh Tôn thần thần vị. Ở gian trong là ngai thờ Thủy Tinh Công chúa. Ban trong cùng có ngai thờ có đặt trầm hương trên ngai với dòng chữ phía trên đề Tam phủ Hội đồng. Vị Thủy phủ Cam Lâm Đại Đế không phải là vua cha Bát Hải Động Đình, mà là Phục Hy Đại Đế, vị Đế chủ của phương Đông. Phục Hy mới là “cha” của Thủy Tinh Công chúa. Còn vị Hà Bá Thủy phủ Động Đình Quân mới là đức Vua cha Bát Hải, tức là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương và Động Đình Thủy Tinh Công chúa. Các vị bản cảnh và quan giám khác được nói đến trong các sắc phong thuộc về Tam phủ Hội đồng. Tín ngưỡng thờ Tam phủ ở đây còn giữ được nguyên bản gốc, khác hẳn với tín ngưỡng Tứ phủ thờ mẫu sau này. Câu đối ở đền Nghĩa Sơn: 河海億年鍾秀氣 樓𦥄千古壽中州 Hà hải ức niên chung tú khí Lâu đài thiên cổ thọ trung châu. Nghĩa là: Sông biển muôn năm đúc khí thiêng Lầu đài ngàn đời còn trong bãi. Câu phía trong điện: 福畱神賜能千祀 誠在人心卽萬靈 Phúc lưu thần tứ năng thiên tự Thành tại nhân tâm tức vạn linh. Nghĩa là: Phúc được do thần ban, có thể ngàn đời thờ cúng Thành tín ở lòng người, chính là vạn sự linh thiêng.
Ở đền Nghĩa Sơn hàng năm còn tục rước thuyền rồng và “sái hến” trên sông Lam. Lễ hội này tương tự như ở đền Thanh Liệt, là ngôi đền nằm ở cùng dòng sông Lam ở phía gần cửa Hội hơn, cũng thờ Tam phủ.
Thuyền rồng đền Nghĩa SơnTiền tế đền Nghĩa SơnBài vị Liễu Nghị Đại vươngTam phủ hội đồng.
Tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An từng có một ngôi đền lớn nằm trên con đường thiên lý Bắc Nam, gọi là đền Hội. Theo ghi chép trong cuốn Địa chí Nghi Lộc (2014) thì:
Đền Hội: ở xóm Hoàng Xá, xã Cẩm Trường cũ, bên cạnh quốc lộ 1A có 3 toàn, tòa trong (gọi là thượng điện) 3 gian đặt ngai thần, cao 2 m, rộng 1m. Tòa giữa (trung điện) 3 gian đặt 8 tượng (ông phỗng bằng gỗ, quì hai bên). Tòa ngoài (hạ điện) 5 gian 2 hồi, là nơi hội họp, tế tự. Trước có cổng tam quan 3 gian (1 chính, 2 phụ). Tượng 2 voi đá nằm trong hai gian phụ, hai tường bên có tượng hai ông tướng đứng hầu. Phía trước có hai cây gạo cổ thụ. Toàn bộ cột kèo oai bẩy của đền bằng gỗ lim. Mái lợp ngói mũi hài, trên nóc có hình lưỡng long chầu nguyệt. Phía ngoài có hai bia đá. Đền Hội thờ vị tướng người Tàu có sắc phong là: Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn Trấn quốc lịch đại gia phong Thượng thượng thượng đẳng tôn thần. Hiện nay đền đã bị phá, chỉ còn hai bia đá. Đền Thánh: Thờ Khổng Tử cách đền Hội 300 m về phía Nam có 2 tòa. Phía trước có một bia đá, đền này đã bị phá, bia đá vẫn còn... Đại tế ở đền Hội (gọi là tế Kỳ Yên) hàng năm vào các ngày 17-18-19 tháng Giêng, các thôn rước thần ở thôn mình về hội tế ở đền Hội. Ngày 17 rước ông chủ tế về đền, ngày 18 rước thần các thôn về đền, ngày 19 đại lễ. Ngày tế lễ, có đội bát âm (đội nhạc gồm 8 người). Đêm diễn tuồng chèo…
Di tích đền Hội (ở xóm Hoàng Xá) thờ “Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn trấn quốc, lịch đại gia phong Thượng Thượng Thượng đẳng tối linh tôn thần” cũng được Ninh Viết Giao nhắc đến trong cuốn Tục thờ thần và thần tích Nghệ An. Tác giả cho biết đền này nhiều làng trong tổng Kim Nguyên cũng phụng tự và làng Kim Chi ở xã Nghi Liên có đến Kim Cẩm cũng thờ Mạch Sơn Trấn quốc Thượng đẳng thần (thờ vọng thần ở đền Hội thuộc xã Nghi Trung).
Vị Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn trấn quốc là ai mà được lịch đại gia phong Thượng Thượng Thượng đẳng tối linh tôn thần? Chắc chắn đây không phải “người Tàu” như Địa chí Nghi Lộc chép. Với mức độ gia phong 3 lần Thượng Thượng Thượng đẳng tối linh thì đây phải là một vị thần rất cổ. Cách bài trí trong đền với ngai thần rất lớn (cao 2 m, rộng 1 m), 8 vị phỗng chầu cũng nói lên điều này. Tam quan đền 3 gian, có 2 voi đá và 2 tướng đứng hầu. Đặc biệt có 2 cây gạo cổ thụ, nằm ngay trên con đường thiên lý Nam Bắc đi qua Quán Hành, xưa kia chắc chắn là một điểm dừng quan trọng của tuyến đường này. Hai cây gạo gợi ý về tục thờ các vị thủy thần thời Hùng Vương, như ở nhiều nơi trên miền Bắc.
Đền Hội nằm cách cửa Hội, cửa sông Lam đổ ra biển giữa hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chỉ có khoảng hơn 10km. Cửa Hội là một mạch nguồn quan trọng được nhắc tới trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả: Xưa Kinh Dương Vương vào ngày mùng 5 tháng Hai năm Nhâm Tuất vâng lệnh đem các tướng dời đến Nam Miên, trấn giữ và cai trị đất nước. Trên đường Vua ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa có đại cuộc chân long quý mạch để lập đô ấp, trấn trị thiên hạ. Qua Hoan Châu vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc phong cảnh tươi đẹp như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, xưa gọi là Cựu Đô, nay là Ngàn Hống. Vùng đất này non biển đúc linh, núi sông khe hồ hội chầu, tụ họp ở ven biển tại xã Hội Thống. Ở cửa Hội Thống núi chạy quan co, sông chảy cuốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành cung điện lâu đài cửa ngọc, làm nơi cho bốn phương triều cống.
Cũng tại cửa Hội Thống Kinh Dương Vương đã lạc thuyền rồng đến xứ hồ Động Đình và gặp được Tiên nữ Thần Long, kết duyên mà sinh ra Lạc Long Quân.
Kinh Dương Vương có tên là Lộc Tục, hay Lạc tộc, được vua cha Đế Minh mệnh cho cai quản (thống chế) phương Nam nên được gọi là Nam Thiên Thánh Tổ. Kinh Dương Vương cũng là Lạc Thị và cũng chính là Tản Viên Sơn Thánh. Đền Hội nằm gần cửa Hội Thống thờ Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn Trấn quốc thì rõ ràng đây chính là vị thần của cửa Hội Thống, tức là Kinh Dương Vương. Chữ Mạch có thể là đọc khác của chữ Lạc. Nam Thiên Lạc Sơn trấn quốc không còn ai khác là Nam Thiên Thánh Tổ Lạc thị Tản Viên Sơn.
Đây là phát hiện quan trọng, cho thấy Kinh Dương Vương khi đóng đô ở vùng Cựu Đô ở Nghệ Tĩnh xưa được gọi là Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn Trấn quốc và được thờ tới nay ở khu vực cửa Hội (Nghi Trung, Nghi Liên, xưa là tổng Kim Nguyên). Dấu vết thời đại Hùng Vương ở Nghệ Tĩnh như vậy còn rất đậm nét, từ tục thờ Tam Lang Long Vương (Lạc Long Quân), Thống Chế Nam Thiên Mạch Sơn, hay thậm chí cả Âu Cơ như ở xã Nghi Khánh, Nghi Lộc. Chưa kể đến các vị thần Cao Sơn Cao Các cũng có thể là các vua Hùng thờ rất phổ biến ở vùng này.
Hiện tại Viện NC Hán Nôm còn lưu được bản khai thần sắc của tổng Kim Nguyên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An số hiệu AD.b1/15, trong đó có sắc phong thời Lê cho Mạch Sơn… Đại vương. Còn trong nguồn của Viện thông tin Khoa học xã hội có bản khai thần tích thần sắc làng Kim Cẩm, tổng Kim Nguyên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ký hiệu TTTS007418/19 gồm 3 trang tiếng Pháp cho vị thần Mạch Sơn Trấn quốc. Đền Kim Cẩm nay thuộc xã Nghi Liên như trên.
Hiện tại ở xã Nghi Trung, đền Hội Thống đã bị phá. Ở vị trí đền xưa nay là trạm xăng dầu, chỉ còn lưu lại 2 tấm bia đá và một số đá kê chân cột xưa. Tấm bia lớn còn nguyên vẹn có tiêu đề “Trùng tu Chân Lộc huyện từ vũ bi ký” (Bia ghi chép về việc trùng tu từ vũ huyện Chân Lộc”). Bia này có được giới thiệu và dịch (theo bản viết tay lưu giữ tại Thư viện Nghệ An) trong cuốn Văn bia Nghệ An (2004), nội dung nói việc dời Từ vũ từ ấp Hùng Quần đến thôn Kỳ Cẩm, ca ngợi đất ấy. Bia ghi Thiệu Trị năm thứ hai Nhâm Dần (1842).
Tấm bia nhỏ hơn ở đây đã bị vở, chỉ còn lại một nửa. Đối chiếu theo sách Văn bia Nghệ An thì đây là bia ghi việc dời và làm văn từ huyện Nghị Lộc: Văn từ Nghi Lộc trước ở thôn Kỳ Cẩm thuộc xã Nghi Liên, nay dời đến khu Ba xã, tức ở Quán Hội, thuộc xã Nghi Trung bây giờ. Bia làm năm Đồng Khánh thứ ba (1888).
Như vậy cả 2 tấm bia còn lại đều là bia của văn từ. Một bia ghi văn từ chuyển từ ấp Hùng Quần đến Kỳ Cẩm (Nghi Liên), bia sau đó ghi lại chuyển từ Kỳ Cẩm đến đến Quán Hội xã Nghi Trung. Còn bia của đền Hội được nhắc đến trong Địa chí Nghi Lộc thì chưa rõ ở đâu.
Xã Nghi Trung là nơi có nhà thờ họ Nguyễn Đức, một dòng họ văn học nổi tiếng với các danh nhân như nhà phê bình văn học Hoài Thanh. Nhà thờ họ Nguyễn Đức nằm ngay gần đền Hội xưa, cùng xóm Hoàng Xá, nay đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Đền Hội ở Nghi Lộc thực chất là đền thờ thần cửa Hội Thống, là Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương, gặp Động Đình Long Nữ tại vùng cửa biển này. Đền vốn là nơi làm đại lễ Kỳ Yên của cả tổng Kim Nguyên xưa, nay gồm khu vực xã Nghi Trung và Nghi Liên, hàng năm vào tháng Giêng. Đền cũng từng là nơi có văn từ của huyện Nghi Lộc, nơi cúng bái các bậc tiên hiền, nho sĩ đỗ đạt của cả huyện. Rất cần thiết khôi phục lại ngôi đền cổ của vùng này và tục thờ Thống Chế Nam Thiên – Kinh Dương Vương tại đây.
Hai tấm bia còn lại ở Quán Hội xưaĐá kê chân cột của khu vực đền HộiHoa Gạo trên đất Nghệ AnNhà thờ họ Nguyễn Đức ở xóm Hoàng Xá, Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An.
Ở khu vực huyện Thuận Thành và Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh ven dòng sông sông Đuống có tín ngưỡng thờ các vị thần từ thời Hùng Vương mang tên là Việt Nam Lạc Thị. Những vị “họ Lạc” thủy tổ nước Việt Nam này là ai?
Thần tích về các vị Lạc Thị ở Bắc Ninh như sau (theo thần phả đình làng Nghi Khúc, Gia Bình):
Xưa Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai, dáng vẻ sinh đẹp, trí dũng kiêm toàn, người người đều nể phục. Năm mươi người con theo cha về biển, chia trị các xứ bờ biển. Năm mươi người con theo mẹ về núi chia trị núi rừng đất đai các xứ. Tôn con trưởng danh hiệu Hùng làm vua. Thứ làm Lang. Truyền 18 đời gọi là Hùng Vương. Tên nước là Văn Lang. Tổ thờ ở Á Lữ. Tổ đi chu du thiên hạ, kiến xem hình thế. Một lần qua làng, thấy trước có 3 chẽ sông quanh co. Sau có 3 ngọn núi nhấp nhô đẹp đẽ. Sơn thủy hữu tình. Nhân đó dựng hành cung ở bờ sông, đặt tên là Nghi Giang cung. Chợt thấy 3 con rồng, mình dài vài trượng, lưng to mấy vòng. Trên đỉnh đầu có ấn vàng. Trong ấn nổi lên 2 chữ LẠC VƯƠNG. Lối lên ở ngã ba sông. Cá, tôm, rùa, ba ba đi theo. Sóng to gió dữ không thể kể xiết. Sau đó một đi chơi vùng Đại Đoan (nay là Đại Bái – Đoan Bái sông), một đi chơi sông Nghi Tuyền (nay là Nghi An sông), một đi chơi sông Bình An (nay là Bình Ngô – Yên Ngô sông). Khoảnh chốc trở lại chỗ rồng nổi lên, vua thấy khác lạ, bèn ghi mật chúc rằng: “Đây là nơi rồng ẩn”. Về sau đời đời xa cách, vật đổi sao rời. Chỗ đó chỉ còn nền cung , tre lá, cây cỏ mọc lên thành bụi, rất lấy làm lạ. Sau hơn một trăm năm ở nơi sông này có một ngày mưa gió rất lớn, nghe như biển động chừng 1 canh giờ. Mây mưa chợt tạnh. Nhân dân nhìn thấy nền cung cũ gần nửa biến thành một đầm nước lớn, sâu bao nhiêu chẳng biết mà đo. Tục gọi là “Vực Thiêng”. Dân bèn dựng miếu thờ. Gặp năm tai hạn, dân đốt hương khẩn cầu: Hoạn này hãy qua, yên tạnh như có nắng hạn được mưa, mùa màng tươi tốt. Nhân dân địa phương cảm kích vui mừng, nhân đó dựng đền thờ ở nơi cũ. Thờ cúng hàng năm. Thủy thần ba vị tên chữ gọi là: – Việt Nam Lạc Thị Đệ nhất Đại vương – Việt Nam Lạc Thị Đệ nhị Đại vương – Việt Nam Lạc Thị Đệ tam Đại vương. Trải qua được các triều đại vua ban tặng. Hàng năm cứ đến tháng Hai ngày mùng 4, làng vào đám nhập tịch. Già trẻ nghi lễ khênh rước đến đền thờ, mật xin thần hiệu, múc một bình nước rước về đình (tên đình là đình Phúc Lộc), làm lễ cầu phúc. Năm nào bình nước thơm mát thì được mùa – bình yên tươi tốt. Nước chua thiu – gặp tai. Nước nhạt đục – ấy hạn. Rất có linh ứng. Thường ngày tùy theo dân đến cầu mong điềm lành, điều tốt. Đến năm Cảnh Hưng dân địa phương có nạn binh lửa. Vật quý cũ sắc tặng phong các đạo bị thất lạc. Sau này lại được khâm mông làm: – Tôn thần Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Khai sơ Sáng thủy Khải minh Thùy hiến Uông nhuận Dực bảo Trung hưng Đại Vương. – Hương Mát Hùng tài Đại lược Anh nghị Quả đoán Linh thông Hiển ứng Anh uy Hùng lược Đặc đạt Đại Vương. – Quý Lang Diên hựu Đốc hỗ Tích chỉ Phong công Khải thánh Tập cái Từ tường Đoan chính Tập phúc Chiêu tường Đại Vương.
Đây là khu vực duy nhất có tư liệu nói về Lạc Vương (3 con rồng trên đầu có ấn có chữ Lạc Vương). Tên “triển khai” đầy đủ của Lạc Vương ở đây là Việt Nam Lạc Thị Đại vương. Việt là chỉ tộc Việt, đất Việt. Nam là đất phương Nam, khởi dựng từ Kinh Dương Vương thụ mệnh vua cha làm vua phương Nam. Lạc Thị là họ Lạc, ở đây là Lạc chứ không phải họ Hùng. Lạc Thị là một giai đoạn của thời đại Hùng Vương.
Có 3 vị Lạc Thị là 3 vị thủy tổ của Việt – Nam mang họ Lạc. Các đền đình thờ Lạc Thị ở Bắc Ninh nay thường chuyển thành thờ các vị thủy tổ người Việt, mà cụ thể một số nơi theo tư liệu sắc phong và thần tích cho biết trước đây thờ thần Việt Nam Lạc Thị thì:
Đền Á Lữ, Thuận Thành nổi tiếng được biết đến vì là nơi có lăng Kinh Dương Vương. Ngoài Kinh Dương Vương ở Á Lữ còn thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ và vua Hùng Quốc Vương.
Đình làng Đại Bái (Bưởi Nồi), Gia Bình nay được ghi là thờ Lạc Long Quân.
Đền làng Bình Ngô, Thuận Thành nổi tiếng với cuốn Hùng Vương ngọc phả, tức là thờ chính là Hùng Vương.
Đình làng Đoan Bái (Bưởi Đoan), cùng cụm di tích 4 làng Bưởi với làng Đại Bái, nay trở thành một nơi thờ đủ các vị thủy tổ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Quốc Vương.
Như vậy tục thờ Việt Nam Lạc Thị là thờ các vị vua khai sáng “Việt Nam” và Bách Việt (Bách Noãn), lần lượt có thể xác định là:
Việt Nam Lạc Thị Đệ nhất là Kinh Dương Vương như ở đền Á Lữ.
Việt Nam Lạc Thị Đệ nhị là Lạc Long Quân như ở đình Đại Bái.
Việt Nam Lạc Thị Đệ tam là Hùng Quốc Vương như ở đền Bình Ngô.
3 vị khai sáng tổ của dòng Lạc theo cha xuống biển đã hiển hóa thành 3 con rồng với dấu ấn Lạc Vương tại vùng ven sông Thiên Đức, lưu truyền thành tín ngưỡng thờ Lạc Thị. Sự tích này cũng cho phép giải thích vì sao chữ Lạc 貉 lại viết dùng bộ Trãi. Bộ Trãi 豸 biểu thị loài bò sát không chân, rất có thể gắn với hình tượng những con rồng Lạc trên dòng sông Đuống này.
“Vực Thiêng” ở làng Nghi Khúc (Bưởi Cuốc) vốn là hành cung Nghi Giang thời Lạc Thị, là chốn cực kỳ linh thiêng của nước ta, giống như khu vực “Giếng Việt” của thời sau vậy. Khu vực ven sông Đuống có lẽ chính là nơi xuất phát của truyền thuyết sinh trăm trứng (Bách Noãn) trong huyền sử Hùng Vương.
Sau thời kỳ Sơn triều với Tam vị Hùng Vương Thánh Tổ ở vùng núi Phong Châu, giai đoạn Lạc triều từ Kinh Dương Vương truyền qua Lạc Long Quân rồi các đời Hùng Vương được truyền thuyết hóa bằng con số 18 đời ở vùng đồng bằng ven sông biển.
Câu đối ở đình làng Đại Mão, Gia Bình, nơi thờ Tam vị Lạc Thị:
Thiên đãng thánh thần khai Bách Việt Địa xưng văn hiến ngưỡng tam linh.
Các di tích thờ Việt Nam Lạc Thị ở Bắc Ninh.Sắc phong cho Kinh Dương Vương miếu ở Á Lữ, Thuận Thành: Khai sơ Sáng thủy Khởi minh Thùy hiến Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Trung đẳng thần.Ngai vị ba vị Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Nghi Khúc, Gia Bình.Bia sự tích Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Đại Mão, Thuận Thành.Tượng đồng Lạc Long Quân và Âu Cơ ở đình làng Đoan Bái, Gia Bình.Nghi môn đền Bình Ngô, Thuận Thành.
Thần tích làng Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ là một bản thần tích đặc biệt, khác với những thần tích hay gặp khác vì nó không phải được biên soạn bởi các vị quan của triều đình, mà là tư liệu được ghi chép và lưu giữ bởi những người dân ở địa phương tại vùng đất tổ Phong Châu. Trong thần tích Tiên Cát có rất nhiều chi tiết về thời kỳ Kinh Dương Vương – Hùng Vương và có lẽ đây chính là tư liệu gốc cho việc biên soạn các bản ngọc phả Hùng Vương sau này. Đây cũng là một bằng chứng rõ ràng cho việc các truyền tích Hùng Vương đã được lưu truyền rất lâu từ trước thời Lê.
Thần tích Tiên Cát mở đầu: Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.
Nước ta bắt đầu được dựng nước từ vùng Nghệ Tĩnh, nơi có núi Hồng Lĩnh, được truyền thuyết gọi là Thứu Lĩnh, gần cửa biển Hội Thống. Vị Kinh Dương Vương đầu tiên đã mở nước và đóng đô tại đây.
Thần tích Tiên Cát kể tiếp: Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc….
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang.
Vị Kinh Dương Vương đi tuần thú rồi mở kinh đô tại Phong Châu trên núi Nghĩa Lĩnh thì phải là Đế Minh. Truyện Họ Hồng Bàng cho biết: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ.
Ý nghĩa của đoạn truyện mở nước này là Đế Minh đã hình thành nên một vùng thiên hạ vạn bang với kinh đô đóng ở 2 đầu Nam Bắc. Thời kỳ mở nước Hồng Bàng có 2 phần là Lạc và Hồng (tức Nam và Bắc) với 2 kinh đô là Nghĩa Lĩnh và Thứu Lĩnh, do 2 vị vua chủ trị là Lộc Tục ở đất Lạc và Đế Nghi ở đất Hồng. Đất nước ban đầu được mở theo trục Bắc Nam.
Trong thần tích Tiên Cát, Kinh Dương Vương đã căn dặn con cháu: Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.
Đế Nghi là dòng chính thống của Đế Minh, nên tiếp nối cai quản ở vùng Cựu đô Ngàn Hống trên núi Thứu Lĩnh (dãy Hồng Lĩnh – vùng đất Hồng). Lộc Tục (Lạc tộc) là dòng bà Vụ Tiên, được thần tích Tiên Cát kể là bà Thứ phi của Kinh Dương Vương (Đế Minh), xuất xứ từ vùng miền núi châu Đại Man. Bà Thứ phi là dòng Tiên tộc (tức là dòng trên núi, chữ Tiên là người ở trên núi) nên nơi bà ở và được thờ mang tên là đền Tiên.
Câu kể thường gặp trong các thần tích: “Hoan Châu thắng địa kiến lập kinh đô. Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu miếu điện” diễn tả đúng quá trình mở nước theo hướng Nam Bắc của họ Hồng Bàng.
Thần tích Tiên Cát kể:
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói: – Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây? Thiếu nữ đáp: – Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi. Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Nước Hồng Lạc sau khi phát triển theo trục Nam Bắc thì chuyển sang giai đoạn mở rộng theo hướng Đông Tây, mà được đánh dấu bằng sự kiện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Động Đình là vùng sông nước ven biển phía Đông, do một bộ tộc cư trú gọi là Long tộc. Kinh Dương Vương lúc này là Tản Viên Sơn Thánh đã kết duyên cùng với Thủy Tinh Động Đình, mở rộng dòng giống Lạc Hồng theo hướng tiến về phía Đông.
Tản Viên Sơn Thánh là vị chủ trị vùng Sơn Tây thì đã rõ. Bản thân chữ Tản là tính chất của quẻ Tốn, chỉ hướng Tây. Còn vị vua cai quản miền sông nước phía Đông chính là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương và Thần Long Động Đình. Long Quân được ghi là hóa sinh về biển làm Động Đình Đế Quân.
Đền Tiên Cát cũng thể hiện sự kết hợp của 2 dòng sông và núi, thể hiện ở việc Ngọc Tiên nương (Thứ phi của Kinh Dương Vương) kết nghĩa với 2 người con gái thủy phủ Long cung là Thủy Tinh và Bạch Hoa nương. Lạc Long Quân sau này còn cử thêm 3 hoàng tử trong dòng thủy phủ là Cự Linh, Ất Linh và Thông Thủy Long vương đến hộ giá các vị tiên nương ở cung Tiên Cát.
Như thế, cho tới Lạc Long Quân, người Việt họ Hồng Bàng đã hoàn thành thời mở nước họ Hùng về 4 hướng qua các triều đại Kinh Dương Vương ban đầu là:
Đế Minh, vị Hùng Vương đầu tiên, được thờ ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương, là vị Thái tổ khai sinh họ Hồng Bàng.
Đế Nghi, vị vua Hùng thứ hai, được thờ ở đền Hùng là Viễn Sơn Thánh Vương. Kinh đô chính ở Thứu Lĩnh trên đất Hồng phương Bắc xưa.
Lộc Tục, vị vua Hùng thứ ba, được thờ ở đền Hùng là Ất Sơn Thánh Vương. Lộc Tục là dòng Tiên tộc ở phương Nam xưa, kinh đô đóng tại núi Nghĩa Lĩnh, vùng đất Lạc.
Tản Viên Sơn Thánh, vị vua Hùng thứ tư, thường được gọi là Kinh Dương Vương, chủ trị miền rừng núi phía Tây.
Lạc Long Quân, vị vua Hùng thứ năm, chủ trị miền sông nước Động Đình ở phía Đông.
Thần tích Tiên Cát cho biết, Hùng Vương từ Kinh Dương Vương trải 18 đời tới Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Vương. Thục Vương khi đó đã rời đô về Cổ Loa, còn đất Phong Châu trở thành nơi sinh sống của nhân dân. Tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền, kéo đến bãi đá bên sông cạnh đền Tiên Cát, cho cưa phá những voi đá, ngựa đá chầu về núi tổ tại đây, chạm vào địa mạch linh thiêng từ thời Kinh Dương Vương. Hổ báo, kinh nghê đều nổi giận, tiến vào đất Tiên Cát mà giết đuổi quân nhà Hồ… Chi tiết này cho thấy những di tích bằng đá về Kinh Dương Vương và Hùng Vương đã hiện hữu ít nhất là trước thời nhà Hồ. Chắc chắn các tư liệu ghi chép và di tích thờ phụng Hùng Vương đã có từ rất sớm.
5 vị Kinh Dương Vương mở nước họ Hùng đầu tiên ở 5 phương, khởi đầu cho các nhóm tộc người Bách Việt sau này. Tản Viên Sơn Thánh là Nam Thiên Thánh tổ của Lạc tộc, tức là nhóm người Kinh Mường. Long Quân là Vua cha của Long tộc, sau này là nhóm Tày Thái. Đế Nghi là tổ của Viêm tộc phương Bắc xưa (Nam nay), sau là người La Lồi hay người Chiêm Hồ. Lộc Tục dòng bà Vụ Tiên là tổ của nhóm Miêu tộc, tức người Miêu Dao sau này. Một nhánh dòng Đế Minh là Đế Lai do cuộc tranh chấp với Lạc Long Quân đã phải chạy về phía Tây, sau là người Di Lão hay người Âu (trong Âu Cơ, Âu Lạc).
Ngũ tộc thời lập quốc họ Hùng đã bao trùm đầy đủ các nhóm tộc người của vùng Đông Nam Á. Cho nên vua Hùng là tổ của Bách Việt là chính xác. Thần tích chép: “Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt“.
Thần tích Tiên Cát cũng cho biết ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương vào tháng 3 âm lịch. Mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).
Trăm người con trai họ Hùng đã đồng sinh cùng bọc đồng bào và đồng hóa vào ngày 12 tháng 3. Ngày tháng 3 này chính là ngày giỗ tổ của trăm họ Bách Việt, gồm cả 5 nhóm tộc người đã nói ở trên. Giỗ tổ Hùng Vương không phải chỉ là giỗ tổ người Kinh hay người Mường, mà của trăm tộc người trên mảnh đất Việt, Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc.
Đầu mạch đất này bên trái từ sông Lôi núi chạy sông theo, tới các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương, bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung tiên bên trái là rồng xanh, chạy tới hóa ở xứ Hải Dương thành các núi Đông Triều, Yên Tử. Mạch tới ngoài biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.
Bên phải mạch đất Hán Giang, Nhị Hà, Lô Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Giang, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung tiên bên phải là hổ trắng, đầu Sơn Nam, Ái Châu, núi Chính Đại cửa biển Thần Phù, thoát ra ngoài biển ở núi Chích Trợ, cửa Trà Lý, làm đầu hổ chầu án.
Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy sông Cả ở huyện Nam Xương làm Trung minh đường. Nam Hải, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang (phía Đông tới Nam Hải, phía Tây đến Ba Thục, phía Bắc tới Động Đình, phía Nam giáp Hồ Tôn).
Vua rời giá về cựu đô Hoan Châu. Việc dựng đô thành của Vua trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm chốn đô ấp của Cổ Việt Thường Thị.
Lại nói, đương thời Dương Vương ở châu Đại Man, huyện Yên Bình, xứ Tuyên Quang có một gia đình Trưởng ông (họ Mã tên Sùng), lấy vợ người trong châu (họ Trương tên Man). Khi ông tuổi ngoài 50, bà Trương tuổi hơn 40, một hôm bà Trương lên núi lấy củi. Trên núi có một ngôi đền cổ, đều đã đổ nát. Bên trong có tượng nữ, cũng đã hư hỏng. Bà Trương lại gần xem xét. Bà Trương mới đùa rằng thần linh ở đây ngày đêm nhàn nhã, lấy ai là người cúng tế. Xin hãy về gia đình thiếp để phụng dưỡng cơ huyền.
Tự nhiên bỗng thấy có một con rắn trắng từ trong tượng bò ra. Bà Trương kinh sợ, bỏ chạy về nhà. Ngay hôm đó bà Trương mơ thấy mặt trăng rơi vào trong miệng. Bà Trương bèn nuốt lấy, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mộng. Từ đó thấy có ý động mà có mang thai. Đến khi đầy tháng sinh được một nương tử, phong tư yểu điệu, mẵn phượng lung linh, mặt ngọc đầy đặn sánh với Hằng Nga trên cung trăng, không phải là người có thể có ở trên phàm trần, môi son má phấn, thân người tự có mùi thơm. Cha mẹ rất yêu quý.
Đến khi lên ba tuổi mới đặt tên là nàng Ngọc Hương. Khi tuổi 15 cung thiềm còn khóa, nhị ngọc đương thì, đức nữ nhi trinh hiền, nữ công tinh khéo, đàn cờ thơ phú không gì là không biết. Có lòng hiếu hiền hoà thảo, thật hiếm có trên đời. Khi 19 tuổi như trăng rằm chính độ, hoa xuân vườn thượng uyển.
Khi ấy Dương Vương ngự giá đi thăm các khu tôn lăng, đi qua Man Châu. Ngọc nương ra xem. Dương Vương thấy, thích thú sắc đẹp đó, mới triệu đến cưới, lập làm Cung phi thứ tư. Vua rất sủng ái, mới cho ở thành Phong Châu (nay tức là đất Bạch Hạc, Phù Khang, Việt Trì). Vua cho xây dựng cung dinh, để nàng sống ở cung đó, gọi tên là cung Tiên Cát (sau tức là trang Tiên Cát).
Lại nói, khi ấy Vua đi tuần thú quay về thành Hoan Châu (nay là Nghệ An). Chính cung Thần Long có mang, khí lành đỏ rạng trong nhà, trong màn trướng có hương thơm. Qua tuần Thần Long sinh Lạc Long Quân, có tư chất phi thường, tự có khí tượng của bậc đế vương. Vua bèn lập làm Hoàng thái tử. Khi ấy có con gái của Đế Lai là Âu Cơ về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, đi ra bãi Trường Sa chơi. Long Quân bắt gặp, rất yêu quý sắc đẹp đó mới cưới về lập làm Hoàng phi.
Do đó Kinh Dương Vương sai Lạc Long Quân đến núi Nghĩa Lĩnh ở thành Phong Châu để giúp việc lớn nước nhà, lại cùng tiện cho việc thăm hỏi Thứ phi. Lạc Long Quân tuân theo mệnh chỉ, đến thành Phong Châu nhận việc vua, thiên hạ thái bình, đất nước vô sự. Quân thần đều sùng ngưỡng tiên phật, tin kính quỷ thần trời đất. Vua và dân cùng hội hợp, trăm họ vui ca lạc nghiệp. Bốn dân vinh đủ yên bình, đều là ơn đức lớn vậy.
Lại nói, Thứ phi sống ở nơi đất đó, cứ mỗi năm hai lần xa giá về chầu chính cung cửa đế. Chầu xong lại quay về đất cung dinh cũ (tức cung Tiên Cát), ngày tháng đàn thơ, hội nhạc, cờ vây ở bãi đá bên bờ sông. Khi ấy có hai nàng tiên nữ là con vua thủy cung thường thường đi thuyền rồng lên du ngoạm nơi trần thế, cùng với Thứ phi kết làm nghĩa chị em, tưởng như con cùng bọc mà thân tình như chị em ruột thịt, nguyện cùng với trời cao không đổi (một tên là công chúa Thủy Tinh, một là công chúa Bạch Hoa). Hàng ngày thường xe rồng kiệu phượng lên chơi với Thứ phi cùng đánh cờ, đàn hát làm thơ ở nơi bờ đá bên sông.
Một hôm, Thứ phi nói với hai nàng rằng:
– Ta thấy hai nàng tuy sông núi không cùng, nhưng đều bậc ở cửa vua, dự vào hàng tiên cung thánh nữ, không phải tầm thường. Tục nữ nguyện ước được tình tâm phúc, xin chớ coi nhẹ ý đẹp này.
Hai vị thủy nương đáp rằng:
– Có trời chứng giám, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa, cho dù cơ huyền trước đây như thế nào.
Đời sau có thơ rằng:
Hùng triều Tiên Cát sở cung phi
Thạch xứ tiên nương hợp dụng kỳ
Sơn thuỷ tương đồng do tích tại
Tà tiên chi xứ hữu thuỳ tri.
Lại nói, Dương Vương ở ngôi được 215 năm, thọ 260 năm thì băng. Con là Lạc Long Quân kế vị. Long Quân mới lập, cải hiệu là Hùng Hiền Vương. Khi đó Âu Cơ có mang, mang thai 3 năm 30 tháng, đầu núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc sáng rạng, đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm con trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vua mới dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ (Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn Quảng Đông, mười lăm là Quảng Tây).
Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. Phân 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.
Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng. Các vương tử gọi là Quan Lang. Các vương nữ gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Là thời sung túc, trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, những người làm được cử theo việc, tùy theo khả năng. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hòa mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng.
Lại nói khi ấy Thứ phi dưới triều Tiên đế Dương Vương không có con, dòng tiên trên trần thế không còn vương vấn. Lạc Long Quân tuân theo mệnh vua cha, ngày đêm phụng dưỡng, không dám nhạt lòng. Ngày thường đến cung Tiên Cát xem ngắm địa thế, tu bổ cung lầu. Vua thấy địa hình nơi đây là nơi rất tốt, quang cảnh đất đẹp anh linh. Phía trước có sông Thao án dựa. Phía sau là núi Nghĩa Lĩnh có lân đá, voi đá, ngựa đá, trống đá, người đá, quân đá tùy vị trí mà án dựa, thị tòng hội ở xứ ấy, phong tinh năm ngọn trái phải phụ tá, củng phục chầu ở trước. Vua nhớ đến việc Tiên hoàng tìm đất, xây dựng cung cho Thứ phi ở đây, tên gọi cung Tiên Cát. Cung đó tất có phong cảnh thần tiên, mạch đất linh thiêng, không phải là khu đất thường tình.
Cho đến một năm sau, một hôm Thứ phi bỗng thấy hai nàng công chúa thủy tiên, theo sao là các nàng hầu, thuyền rồng kiệu phượng, tiến vào trong cung, nói với Thứ phi rằng:
– Hôm nay (tức ngày 9 tháng 10) đã đến lúc được như nguyện. Chị phải vào chầu cửa đế, xin chớ trì hoãn. Chị với chúng em tuy âm dương hai ngả, sông núi tách vùng, nhưng lại cùng một nhà lầu mây gác phượng, khí huyết cùng nhau mà hội hợp, dám xin có trước sau, chị cùng với hai em về nơi Thủy quốc.
Nói xong, Thứ phi rời đi xuống thủy phủ. Thứ phi lại sai nội thần tâu lên vua trước sau như sau:
– Hôm nay có hai vị con gái vua Thủy Tinh, là người kết nghĩa với Thứ phi, trước sau đã có hẹn ước, chị em như ruột thịt, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa. Nay thấy hai nương cưỡi xe loan đến triệu Thứ phi về chầu cửa đế. Do đó tiểu thần tuân mệnh vào tâu trước bệ, nguyên cớ là như vậy.
Vua nghe lời tâu bèn ngự giá đến cung (tức cung Tiên Cát, do Tiên hoàng dựng nên, đến cuối triều Hùng đổi thành trang ấp). Vua mới đi được nửa đường bỗng thấy mây mưa đổ xuống, gió sấm nổi lên, một lúc thì tự nhiên hết.
Vua nói Thứ phi đã đi vào cõi trường mộng vậy (tuổi Giáp Tý sinh ngày mồng 5 tháng 5, đến ngày mồng 10 tháng 10 thì hóa), bèn lệnh cho quan đến làm lễ tế khi còn chưa đến lúc an táng. Khi ấy Vua ở lại trong cung đó, mơ màng ngủ thiếp đi bỗng thấy Thứ phi xe loan kiệu phượng huy hoàng đẹp đẽ, tả hữu hai bên là hai vị tiên nương cưỡi xe loan cùng đi vào khu bãi đá bên bờ sông. Tiếp phía sau theo hầu trăm người nữ trinh đồng, khăn hồng đai tía, xe rồng kiệu phượng, theo đến nơi gặp Vua ở xứ đó. Thứ phi nói với Vua rằng:
– Thiếp vốn là thần nữ ở tiên cung, lầu mây gác phượng giáng xuống ở nơi trần thế, năm đó vào hầu Tiên hoàng, được ơn thâm trạch hậu, hưởng lộc đã nhiều. Nhưng hận là trần duyên chưa thỏa, không mảy may chút nào ở trần thế, tất cả đều hư vô. Nay vui vì có được hai vị nương tử cùng là con gái vua thủy cung, trên dương trần hàng ngày có giao du với nhau, nguyện là chị em ruột thịt. Một vị là nàng Thủy Tinh, một là nàng Bạch Hoa, cùng như tay chân gắn bó vậy, đồng lòng kết làm chị em. Nay lầu mây quê trước quay về nơi cảnh cũ, mưa gió ra vào nơi đất tốt.
Lời chưa dứt thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Đến khi làm lễ đưa đám, liền trong 3 ngày mưa to gió lớn, một vùng mờ tỏ, cửa nhà tối mịt. Vua chôn cất bà phi ở nơi đất đó (tức xứ Gò Đá, nơi có lân đá, voi đá, ngựa đá, cờ đá, trống đá, thuyền đá, quân đá, bàn đá theo ở phía sau, hai bên trái phải hướng vào trước huyệt, có năm ngọn phong tinh chầu về hai bên, bên phải có sông Thao làm minh đường).
Nơi đó xưa khi Thứ phi còn sống, tuy Tiên đế lập cung trên vùng đất bên trong, bố trí cho Thứ phi ở đó gọi là cung Tiên Cát, nhưng Thứ phi ngày thường thích ra chơi ở đất đó (tức xứ Ghềnh Đá), cùng với hai vị thủy tiên gặp nhau đánh cờ, làm thơ, chơi nhạc, cũng như quang cảnh chốn Bồng Hồ Lãng Uyển, Đào Nguyên Trúc Lĩnh vậy. Ngày trước Vua ngự giá đến đây xem xét địa hình. Vua từng nói là vùng đất này đều rất linh anh, thật là nơi tốt. Nhân đó Vua cho an táng lăng tại nơi này. Vua nhớ lại giấc mộng khi chưa an táng. Hôm đó bèn truyền cho địa phương lập miếu ở trên khu lăng cùng thờ phụng ba vị, cùng phong là các thần nữ.
– Phong Thứ phi là Đệ nhất A Nương Thần nữ Ngọc Tinh nương Cả Đại vương.
Phong hai vị Tả hữu Thủy tiên Công chúa:
– Phong làm Đệ nhị Thuỷ Tinh Thần nữ Nương Hai Đại vương.
– Phong là Đệ tam Bạch Hoa Thần nữ Nương Ba Đại vương.
Vua lại truyền cho các gia thần ở cung sở địa phương ngày trước đã theo hầu Thứ phi, cộng được ngoài trăm nhà ở đó. Vua cho ở tại đó sớm hôm hương khói để phụng thờ.
Lại nói, khi đó Vua có trăm con cùng một bọc, đều là những vị anh hùng cái thế, sức dũng động trời, làm thần thánh xuất thế, không phải thường nhân trên đời. Vua tuy còn ở tại thế cai trị trần gian nhưng cũng chia trăm con làm hai bộ. Một bộ cai quản sông hồ cửa biển. Một bộ trị các đầu núi non, cùng có chức phong làm thần tử, bố trí các nơi để trị hưởng lộc một phương.
Một hôm, Vua ngự ở cung Phượng Lâu (tức nay là trang Phượng Lâu). Khí đó mùa xuân ôn hòa, khí lành, vạn dặm răng thanh gió mát, một trời phong cảnh an hòa. Vua mới nằm ở chính cung (tức cung Phượng Lâu), bỗng nhiên mơ màng, đi vào thẳng thành Hoan Châu (tức Nghệ An), mới gặp Kinh Dương Vương ngự ở chính điện, hai bên có quan văn võ đứng chầu.
Dương Vương nói với Vua rằng:
– Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.
Lời nói vừa dứt thì gió xuân thổi vào áo long bào, Vua tỉnh dậy biết là nằm mộng. Vương nhớ lại lời căn dặn của Tiên hoàng trong mộng, tuy âm dương hai ngả nhưng đâu dám trái mệnh. Hôm ấy (mùng 10 tháng Giêng) Vua lệnh cho ba vị quan lang một là Cự Linh Thần tướng, hai là Ất Linh, ba là Linh Lang Thông Thủy, đều cùng là những hoàng tử từ bọc trăm trứng nguyên phân làm hai bộ (Cự Linh, Ất Linh, Linh Lang Thông Thuỷ đều thuộc thuỷ bộ), ban cho quản lý đầu sông (tức sông Thao), giữ gìn cung sở của Thứ phi (tức cung Tiên Cát). Ba vị tuân theo ngọc chỉ, quản trị ở đầu sông (tức sông Bạch Hạc ba dòng nước từ ranh giới sông Thao), giữ gìn cung miếu (tức tiên cung Thứ phi của Tiên đế Dương Vương).
Qua hai năm, khi đó Vua đã trị quốc dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt.
Hiền Vương ở ngôi 400 năm, sau về biển hóa sinh bất diệt làm Động Đình Long Quân Đế chủ. Quốc Vương tuân thừa nối đại quyền. Quốc Vương lên ngôi mới được 1 năm thì khi đó mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).
Lại nói, Quốc Vương nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, cung vua có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ,vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.
Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã.
Một ngày (15 tháng 3) Vua đến ngự ở cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát).
Nhàn xem phong cảnh, thăm thú cung lăng, tu bổ các tòa cung sở miếu điện. Vua lại mở một chợ ở bên sông, trước khu cung lăng, gọi là chợ Tiên, cho các phi nhân của vương cung cùng với các nội thần của các phu nhân, vương nữ đến hội sớm tối, những người đánh cá trước sông cũng cùng ở trên chợ, là nơi đô hội của thần tiên. Hôm đó (mồng 3 tháng 3) Vua lại phong cho ba vị hoàng đệ đều là Thuỷ thượng linh thần, cùng với Tiên phi vào cùng một nơi, cùng phối thờ phụng.
– Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long Vương Đại vương.
– Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương Đại vương.
– Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long Vương Đại vương.
Hôm đó (mồng 3 tháng 2) Vua sai quan đế tế, làm lễ bái tạ. Làm lễ chưa dứt thì bỗng thấy gió sấm bỗng nổi lên, mây mù u ám, trên sông sóng đổi vạn nhận, cung đền bốn bên mây phủ. Lại thấy 3 con rắn từ trên đường phân nước tiến thẳng vào trong đền, bò lên giữa gác trái phải. Bên trong đền sáng huy hoàng, mùi hương thơm bao phủ. Trước sông hàng trăm đàn cá hùng dũng nối nhau. Vua lấy làm lạ bèn nói rằng:
– Nay tuy thủy phủ và dương gian khác biệt, nhưng có tương thân khí huyết, sơn thủy một mạch, cảm được sự linh thiêng, cùng đã biết vậy.
Vua vừa dứt lời thì [ba con rắn] tự nhiên biến mất . Mưa gió tự yên, mây tan trời sáng. Làm lễ xong Vua lại tặng phong là Thượng đẳng Phúc thần, bố trí quan cùng với các gia nhân địa phương ở nơi đó bốn mùa hương khói phụng thờ.
Lại nói, Quốc Vương tên Bảo từ lúc lên ngôi được 300 năm, thọ 643 tuổi, mệnh Tân Mùi sinh giờ Mão ngày 16 tháng Giêng, mất giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5, hóa sinh sinh không thành, kim tiên thượng quán cư ở cửa ngọc mà cai quản. Tiên chủ sinh trưởng tử là Huy Vương, kế vị, truyền 8 vua tiếp sau.
Sau này Lý tiên sinh có bài tán:
Sinh vi thánh đế hoá lai tiên
Duy hữu Hùng đồ thập bát truyền
Thánh tử thần tôn cung miếu tại
Đức đồng nhật nguyệt hưởng trường miên.
Lại nói, thời lịch truyền 18 nhánh (từ Kinh Dương Vương chí Hùng Hiền Vương, Quốc Vương, Hy Vương, [Hi Vương], Diệp Vương, Huy Vương, Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Uy Vương, Trinh Vương, Võ Vương, Việt Vương, Định Vương, Triêu Vương, Tạo Vương, Ninh [Nghị?] Vương, Duệ Vương, cộng 18 đời thánh chủ, hưởng nước cộng 2655 năm). Truyền đến Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương có chất thánh triết, tài lớn anh hùng, nối cơ nghiệp tổ tông khai đắp 17 đời thịnh trị, trong lo võ lược, ngoài ngự biên cương, gắng sức hưng bình để yên Trung Quốc. Lại noi gương tiền vương trị vì, sùng trọng đạo trời, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, mến giúp quốc sự. Vì thế Vua ngày càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thiên hạ c sửa thêm đền miếu, vẽ tô nghi vệ trang nghiêm. Khi đó Vua đến cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát), thăm thú lăng mộ, tăng thêm việc tu sửa đền miếu, ngày ngày hiến tế, một tháng hai lần sai quan đến làm lễ.
Than ôi, đạo vốn thịnh nhiều thì sẽ suy, đầy rồi thì sẽ tắc. Cơ đồ họ Hùng trị nước vốn đã lâu dài, ý trời tất có hạn. 20 hoàng tử và 4 công chúa đều phiêu du về nơi Bồng Lãng, thoát gót trần gian, không có ai để trông mong việc nối truyền. Chỉ còn hai người con gái, đều là bậc thần tiên đời (một nàng được gả cho Chử Đồng Tử, một nàng gả cho Tản Viên Quân).
Vua bèn nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh, là con rể mà truyền đại bảo. Nhưng Sơn Thánh vốn có phẩm chất thần tiên, không muốn nhận ngôi cai quản quốc gia. Bèn lại truyền cho Thục chúa, cũng là cháu họ Hùng ở Ai Lao. Từ khi Thục chúa (tức An Dương Vương) nối thừa ngôi báu, đóng đô ở thành Cổ Loa. Còn Phong Châu thành đất của họ Hùng, cùng các cung sở lâu đài được nhân dân các xã động chia nhau ở (đất thành Phong Châu đến Thục Dương Vương rời về ở thành Cổ Loa, từ đó thành Phong Châu đổi thành các xã trang động của người dân).
Trong thời kỳ Thục Vương, đất ngoài cung Tiên Cát có hai trăm nhà ở đó đã di cư. Chỉ còn 17 người ở lại cố giữ đất đó. Lòng người thay đổi, xưa nay là thường. Cảnh tiên cung vua đó đều theo năm tháng mà yên nhàn trôi qua, tích xưa khó thấy dấu tiên còn đọng, chỉ còn nghe tiếng chim chóc hót ca.
Khi Thục Dương Vương ở ngôi được 80 năm mới truyền vị cho Triệu Đà, cha truyền con nối trải 5 đời thánh vương. Đến khi Vệ Vương kế truyền chính thống thì có quân Tô gây loạn. Trưng nữ lại hưng (cũng là cháu gái của Hùng Vương), ở ngôi được 5 năm, tiếng thơm ngàn thủa, cũng là bậc nữ anh hùng.
Từ đó triều Hùng chấm dứt. Tới Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 350 năm cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, đều có giúp nước hộ dân, nên các đời đế vương đề có gia phong mỹ tự, vạn đời hưởng lễ, hương khói vô cùng.
Lại nói, tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền. Một hôm quân Hồ giáo mác tiến đến ở vùng đất này (tức là vùng đất trang Tiên Cát), vào trú ở trong đền (tức đền cung Tiên Cát). Lại thấy địa hình có quý cục, voi đá, ngựa đá đều hướng chầu lên núi Nghĩa Lĩnh. Hôm đó (mồng 6 tháng 6) quân Hồ sĩ tốt bắt dân phu cùng binh sĩ lấy cưa sắt cắt ngựa đá, voi đá ra thành các đoạn, lấy đá đó xếp thành lũy, đồn sở. Đang khi cắt đá chưa được một lúc, bỗng thấy mây gió lớn nổi lên, bốn bề trở nên mờ mịt, mưa dội sương mù, sấm sét vang gầm. Trên sông nổi sóng cuồn cuộn vạn nhận, sấm vang làm rụng rời phách kinh nghê, vạn dặm cuồng phong dữ dội, cá rùa hồn kinh nhảy loạn, giao long nổi đầy sông, đào thông một đường thủy tiến thẳng vào trước cung, trùng trùng hàng ngàn con. Từ trên núi xuống hàng đàn hổ chạy tới, tiếng gầm chấn động, chạy thẳng về nơi đền thờ ở địa phương (tức trang Tiên Cát), vây kín bốn phương xung quanh. Quân Hồ kinh hồn chạy tán loạn. Nhân dân đều mất vía, tất cả đều bỏ chạy khỏi cửa nhà. Nơi đó (tức đất Tiên Cát) đều bị gió lớn thổi đỏ, nước ngập tràn lan ở bên trong, tất cả đều hư hỏng. Rắn hổ tập trung ở đất đó, đuổi hết mọi người, thật là một nơi bị hại lớn, có vào mà không có thoát, chết chóc rất nhiều.
Chỉ còn có 8 người tránh ở nơi đất gần đó (tức là ở đất nội thành), thường thường buổi tối mới dám quay về ẩn phục xem xét nghe ngóng nơi đền. Thấy sáu vị thánh ở chính trong đền (tức xứ Gồ Đá có chính lăng). Ba vị nữ quan ngồi ở trên, truyền lập hai hàng trái phải các thị nữ khăn áo hơn trăm người, huy hoàng đẹp đẽ, áo quần rực rỡ, vẻ rồng mắt phượng, má phấn môi son, tai cầm phiến ngọc, đầu đeo thoa vàng, đi hài lông phượng, lưng thắt khăn hồng. Bên dưới có ba vị quan nam ngồi đó, trái phải đứng hầu hơn ngàn người, áo lân giáp rồng, bào phục huy hoàng, đứng hầu uy lẫm. Cờ xí la liệt, ngựa voi chỉnh tề, xe loan kiệu phương cùng đi, thuyền rồng phân đội.
Tám người đang nấp nghe, thì thấy ba vị nữ quan nói:
– Thật đáng trách bọn cuồng khấu chim chó quân Hồ không biết đất này là nơi Tiên đế mở nền, tạo nên nước Nam. Đất có linh thiêng, khí lành đều do tạo an bài. Do vậy mà các nơi đều hận quân Hồ, nhưng không nên trách dân ta mà gây họa. Nay quân thủy phủ của ta đã trả hận quân Hồ. Còn nhân dân thì không được quấy nhiễu. Quân tôm cá hãy quay về thủy phủ để dân được yên.
Lời nói chưa dứt thì tám người đều phục trước sân mà bái tạ. Bỗng thấy một tiếng động rất lớn tựa như sấm sét giáng xuống mặt đất, rồi dần dần tự biến mất. Từ đó một vùng địa giới đều yên. Tám người quay về đất cũ (tức chợ Tiên Cát), gìn giữ nơi đất đó, năm tháng cùng phụng thờ.
Cho đến khi ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu có người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa, ba ngàn thần hổ Lam Sơn tiễu trừ họ Hồ, bình định người Ngô. Lên ngôi vua ở Lam Sơn, niên hiệu Thuận Thiên (tức Thái tổ Cao Hoàng đế). Khi đó đất trang Tiên Cát chỉ có 8 nhà ở đó, mới làm bài tấu lên vua về việc quân Hồ đục phá ngựa đá, voi đá ở đền, lại thấy việc linh thiêng như thế. Vua nghe lời tâu đó, lệnh cho quan đến nơi làm lễ cầu đảo (làm lễ năm Kỷ Mùi, mồng 9 đến mồng 10 tháng 10). Nhân dân đều đến ở Gò Đá mà tế lễ. Bèn mổ lợn đen, rượu ngọt, bánh dày cùng với trăm trứng. Từ mồng 9 đến mồng 10 làm lễ thì gió sấm nổi lên, mây mưa mù mịt. Trước sông (tức sông Thao) mây nổi bay trên mặt nước, hơn ngàn đám mây bay ngang dọc trên sông, rồi tiến thẳng vào trong cung đền. làm lễ tế xong thì mây mưa tự nhiên ngừng hết. Bốn phương thanh bình, quang đãng. Nhân dân đều sợ phục. Tới ngày 11 lại tế tạ. Ca múa tới ngày 15 làm lễ. Tạ xong thì mưa gió nổi lên một hồi rồi ngừng. Quan quay về tâu lên. Vua bèn gia phong mỹ tự:
– Phong Đệ nhị Thuỷ Tinh nương Hai Uy linh Đại vương
– Phong Đệ nhất Ngọc Tinh nương Cả Linh ứng Đại vương
– Phong Đệ tam Bạch Hoa nương Ba Hiển linh Đại vương
– Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương An dân Đại vương
– Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long vương Hùng tài Đại vương
– Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long vương Đại vương.
Trang Tiên Cát phụng thờ 6 vị.
Lại nói, từ khi Lê Thái tổ Hoàng đế truyền qua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, qua Minh Tông đến Chiêu Tông lên nắm quyền. Khi đó họ Mạc tiếm ngôi xưng vương, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Minh Đức, kế thế con cháu 5 đời làm vua.
Tới Lê Trang Tông cùng với đại thần là Thái úy lại khởi nghĩa binh. Niên hiệu Nguyên Hòa năm Quý tỵ quan Thái úy tôn phù nhà vua, dời đến cảnh Ái Châu, truyền các tì tướng gửi hịch chiêu dụ các xứ ở Bắc thành, lại đi thuyền đến đạo Sơn Tây, giả làm thuyền buôn. Đi tới sông Thao, thuyền qua trước đền (tức đền Tiên Cát) gặp ghềnh chặn, thuyền không thể đi được. Gió lớn thổi đến, sóng to trên sông, làm cho thuyền gần bị lật. Tướng cầm quân ngẩng lên nhìn bỗng thấy đền thờ rực rỡ. Ngay hôm đó (mồng 3 tháng 8) bèn đậu thuyền làm lễ, cầu đảo khấn rằng:
– Gia thần tuân theo mệnh lớn, chiêu dụ người tài, tiễu trừ giặc mạc. nếu phục hồi được nhà Lê Nguyễn, nguyện xin âm phù cho thông đường thủy và bảo toàn quân đội.
Khấn xong tự nhiên yên bình. Các thuyền tự thoát, thuyền đi như bay. Thuyền lên đến trang Tằng Động huyện Thanh Ba thì thấy mưa gió tập trung chỗ dân địa phương. Bèn đóng quân trong ba ngày. Hôm ấy (mồng 6 tháng Giêng) nhân dân ở đó với quân Lê cùng mơ thấy hai cánh binh mã tiến vào trong dân, nói rằng:
– Ta là Chàng Út Long vương Thuỷ thú cùng với Chấn cung Thần quan tuân theo mệnh vua âm phù cho mệnh nước, bảo hộ nhà Lê. Nay đến nơi dân đây còn chưa định làm lễ sao?
Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mơ. Quân sĩ và nhân dân địa phương đều sợ hãi. Hôm đó (mồng 10 tháng Giêng), lập đàn cầu tế (ngày sau ở đất này đều lập miếu phụng thờ).
Một hôm quân Lê lại quay về huyện Tam Nông xứ Hưng hóa, vào ở tại đất trang Thọ Xuyên, bị quân Mạc vây hãm. Ba ngày sau quân Lê trước khi xuất hành mới cầu đảo bách thần phù hộ. Tự nhiên gió Tây lớn nổi lên, mây mưa bao phủ theo dòng nước mà vào cả khoảnh nơi đó, tất cả thành một dòng suối lớn chảy phá vào. Quân Mạc đại bại, chạy tán loạn. Quân Lê cùng xuất toàn quân, quay về Ái Châu (sau trang Thọ Xuyên lập miếu phụng thờ Thủy thần Đại vương, cùng với 5 vị và một vị công thần nhà Lê cúng tế).
Lại nói khi đó vạn dân quản chặt, bốn phương khói bụi, nước có 2 vua trị vì, dân không có ngày nào là yên nhàn, gọi là thời một nước hai vua. Hơn 60 năm sau, Trang Tông lệnh cho Thái úy thống lĩnh hai quân thủy bộ đi dẹp giặc Mạc. Thái úy bái tạ, xuất quân thẳng đến đóng ở các huyện Phù Khang, Bạch Hạc, Phúc Lộc của đạo Sơn Tây, lập các đồn lớn ở châu Trường Sa, vân Thủy, dựng đàn dâng hương cầu đảo trăm thần âm phù trừ Mạc, giúp nước cứu dân. Sau này được thanh bình sẽ tâu lên vua tăng phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, vạn năm hưởng thờ.
Khấn xong tự nhân mây mù nổi lên, mờ mịt trong ba ngày. Thái úy ngồi ở nơi đàn thiếp đi mộng thấy trăm thần nam nữ cùng đến, sơn thủy cùng về, qua giáp khắp trời, cờ xí rợp đất, đến trước Thái úy, hoặc chào hoặc bái, xưng họ xưng tên. Thái uy trong mộng không ghi nhớ hết được. Bỗng nghe ở hướng Đông Nam có một tiếng sét động. Thái úy giật mình tỉnh lại mới biết là mộng. Lại thấy mây mờ bay tản đi, trời ban ngày rạng sáng. Thái úy cho rằng đó là điềm trung hưng, bèn lệnh lấy đồ văn phòng tứ bảo cứ theo trong mộng mà ghi lại tên hiệu các thần lên lụa để chép lại việc này. Hôm đó lệnh cho quân sĩ mổ trâu, khấn tạ trăm thần, khao hưởng tướng sĩ.
Ngày sau chia binh đến dẹp giặc mạc, đại chiến một trận ở đất Phấn Thượng, huyện Phúc Lộc, máu chảy thành sông, xác chất thành núi. Giặc Mạc thua to, chạy lên mạn Bắc, đến nơi mở trường chọn kẻ sĩ, chặn giữ biên phương, không thể dẹp hết được. Thái úy về thành Thăng Long, giải giáp ngừng binh, làm biểu tâu thắng trận, xin vua về thành. Trang Tông hôm đó xa giá đến thành Thăng Long, thưởng cho ba quân, gia phong tướng sĩ. Phong cho ông là Thái úy Hưng Quốc Công thần. Ông tuổi đã già, có ý muốn nghỉ ngơi, bèn dâng biểu tấu với vua xin các việc quốc gia lớn nhỏ giao cho con rể họ Trịnh. Trang Tông đồng ý.
Trang Tông bèn lập Thái tử, sau là Trung Tông Vũ Hoàng đế, niên hiệu Thuận Bình, sau đổi thành Thiên Hựu, là con trai của Trang Tông. Trung Tông kế truyền ngôi cho Tuấn Hoàng đế, húy Hàn trác, ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, niên hiệu Chính Trị. Khi đó có đại thần họ Trịnh phò tá, lập kỷ cương đất nước, bày chế trong ngoài. Sau Thế Tông truyền ngôi cho Nghị Tông, niên hiệu Hồng Phúc, sau đổi là Gia Thái, lại đổi là Quang Hưng, chính là con trai của vua Chính Trị. Khi ấy giặc Mạc trong nước đã diệt. Nhà Lê lại bắt đầu ngôi chính thống.
Từ đó thiên hạ thái bình, triều đình vô sự. Nhà Lê là chủ, họ Trịnh là vương, ban bố hai bộ Công và bộ Lễ đốc lệnh cho huyện doãn cùng các dân phu các xã xây dựng lại điện đình ở địa phương nơi xã Phấn Thượng, cung phụng thờ các vị vua chủ cùng các vị chư thần, lấy xã đó làm trưởng tạo lệ. Lại tiến phong các mĩ tự cho trăm thần sơn thủy nam nữ đã âm phù giúp nước, cùng luận công mà thưởng tước lộc, ban thêm cho những người có công. Công mãi mãi là thức lệ cùng với nước trường tồn. Thật thịnh thay!
Lại nói, khi đó lại phong mỹ tự cho trang Tiên Cát. Lúc ấy chỉ có 8 người về ở đó từ khi cuối họ Hồ, cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi các đời sau của 8 người đó đều sinh con cháu cùng với vợ chồng. Những người sau đều ở phụ đó, phong tục nhân dân chất phác đôn hậu, giàu mạnh, đinh dân khỏe mạnh. Bèn chia đều thành 8 giáp cùng phụng thờ nơi tiền cung khi thần còn sống (tức cung Tiên Cát, nơi Thứ phi ngày trước ở đó, sau đổi thành làng), hậu cung là chính nơi hóa của thần (tức xứ Gò Đá, là lăng của Thứ phi, gọi là đất thủy phủ hội đồng). Sau Lê Trang Tông lại tiến phong nhiều mỹ tự.
Vâng ơn chính triều nay có phong tặng là Đương cảnh thành hoàng Linh phù Thượng thần, gia tặng là Thục diệu Tối linh thần, gia tặng là Hoằng hợp Tối linh thần, gia tặng là Dực bảo Trung hưng chi thần.
Nhất thiết húy cấm các chữ Cả, Hai, Ba, Ngọc, Hương, Bạch, Anh, Cự, Linh, Ất, Thông, Thuỷ, Chàng.
Bảo Đại năm thứ 13 ngày tháng 3 tuân sao chính bản.
Vâng sao đệ trình bởi Lý trưởng làng Tiên Cát Nguyễn Văn Tản.
Truyện Liễu Nghị là một tác phẩm dạng truyện truyền kỳ phổ biến từ thời Đường kể về con gái vua Động Đình bị Kinh Xuyên ruồng bỏ, rồi được thư sinh Liễu Nghị báo tin cứu giúp. Các nhà Nho nước ta dựa vào truyện này mà cho rằng huyền sử về Kinh Dương Vương là sản phẩm sao chép từ truyện Liễu Nghị truyền thư.
Tuy nhiên, di tích và tín ngưỡng thờ Liễu Nghị và Thần Long Thoải phủ ở đất Hải Dương lại cho một nhận thức hoàn toàn khác về ý nghĩa thật sự của truyền thuyết Liễu Nghị, gắn với Tản Viên Sơn Thánh.
Chùa Ông Sộp ở xã Tân Trào, Thanh Miện, Hải Dương, xưa là xã Ngọc Lạp, là nơi thờ đức thánh Liễu Nghị. Thần tích ở đây kể:
“Ngài là sao Liễu giáng sinh. Đức thánh phụ là Liễu Phong, đức thánh mẫu là Hán Thị Miên. Ngày học ông Hàn Tỉnh tiên sinh. Ngài có phép phù thủy, lúc bấy giờ ngài chưa đỗ, ngài đi chu du sơn thủy, gặp một người thiếu nữ kêu khóc ở trong rừng,vừa khóc vừa lậy nói rằng:
Thiếp là con gái vua Động Đình, bị giáng làm người dương thế, lấy Hồ Nghi người Kinh Diên, có vợ bé là Thị Chi. Thị Chi dụng tình làm thư giả nói với chồng là Hồ Nghi rằng thiếp có ngoại tình cho nên người chồng đem đày ở trong rừng này, bắt nuôi dê bao giờ dê đực đẻ mới được về. Thiếp xin viết 1 bức thư nhờ lang quân đem xuống Động Đình, cứ đi đến bên sông Hoàng Giang thấy có cây quất, lang quân đánh vào cây quất 3 tiếng tự nhiên ứng hiện.
Ngài đến bến sông Hoàng Giang cầm thư đánh vào cây quất, quả nhiên thấy đền đài lầu các, đền gọi là đền Hư Linh Đài, chỗ ăn, chỗ ở lạ khác dương trần, thấy vua Động Đình ngồi chỉnh tọa, tay cầm ngọc khuyên. Bấy giờ ngài dâng thư vào. Vua Động Đình xem thư sai Xích Lân Đại tướng đến chỗ sơn lâm đón con gái về, rồi mở tiệc yến. Vua Động Đình cho kết làm vợ chồng nhưng ngài không nghe, từ chối xin để sau này sẽ hay. Vua Động Đình tặng kim ngân châu ngọc cũng không lấy. Bấy giờ vua Động Đình sai Xích Lân Đại tướng tiễn ngài về dương trần. Lúc bấy giờ con gái vua Động Đình tiễn ngài ra ngoài Bích Vân cung, có cần lấy tay ngài đọc bài thơ lưu luyến.
Thiếp nay thoát khỏi kiếp chăn dê
Nhờ ơn sâu nặng báo Thủy Tề
Đức lớn biết bao giờ đền đáp
Nguyện đem tấm thân theo chàng về.
Ngài lại đọc một bài thơ rằng:
Bích Vân lời ấy xin nàng nhớ
Mãi với non cao cùng biển xanh
Một dải âm dương chia tách ngả
Chín trời mây nước mộng ba canh.
Thơ rồi đức bà về long cung, đức ông về dương thế.
Rồi đến đời vua Cao Tôn nhà Đường, ngài thi đỗ, làm quan Khu cơ mật viện. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 6, vua Đường Cao Tôn sai ông Cao Biền sang Nam Việt làm đô hộ đánh giặc Nam Chiếu. Ông Cao Biền thấy đức Liễu Nghị, ngài có anh tài kiêm tinh phù thủy pháp môn, tâu vua Đường cho Ngài làm Phó đô hộ Tướng sĩ. Vua Đường y cho. Ông Cao Biền cùng đức Liễu Nghị tiến binh sang Nam Việt bình được giặc Nam Chiếu lập đô ở Đại La thành. Bấy giờ đức Liễu Nghị ra chơi bên sông Nhị Hà, thấy một người thiếu nữ nhan sắc rất đẹp, hình dung giống con gái vua Động Đình, tự xưng là Lư Thị lại nói rằng:
Thiếp là con gái vua Động Đình, trước bị nhục bởi Hồ Nghi nhờ có lang quân cứu cho. Nay thiếp tâu nhờ với vương phụ để tìm lang quân, sang đến nước Nam Việt này, xin hầu làm khuê phòng.
Đức Liễu Nghị mừng đón về thành. Thời bấy giờ Hải Dương, đạo Hồng Châu bị thủy nạn mất mùa. Ông Cao Biền bảo đức Liễu Nghị đi cứu. Đức Liễu Nghị ngài cùng đức thánh bà đến Hải Dương, Hồng Châu lập đàn trị thủy. Đức Liễu Nghị lập đàn ở xã Ngọc Lạp. Đức Thánh bà là Thủy tinh Công chúa, con gái vua Động Đình, lập đàn ở xã Nhữ Xá, viết thư xuống thủy cung, tự nhiên nước cạn.
Bấy giờ phụ lão xã Nhữ Xá, xã Ngọc Lạp đêm nằm mộng thấy đức thành hoàng của hai làng ấy báo rằng: có 2 vị chủ quan về, dân phải bái hạ. Bấy giờ dân đều tỉnh mộng làm lễ xin làm thần tử đức Liễu Nghị và đức Thủy Tiên.
Sau đức Thánh bà bảo đức Thánh ông rằng thiếp cùng lang quân thủy hỏa tương khắc tử tức khó thành, xin biệt cư. Đức Thánh bà ra tu ở chùa Nhữ Xá, đức Thánh ông tu ở chùa Ngọc Lạp. Cứ lệ 3 năm đức bà mang cho đức ông bộ mũ áo, hội ở chùa Nhữ Xá rồi có một ngày ông bà cùng ra chơi sông Nhị Hà, tự nhiên trời đất tối tăm, 2 ông bà cùng về Động Đình, thủy quốc vân hương. Chùa Ngọc Lạp phụng sự vị hiệu là Thủy phủ Đại đức long cung Liễu Nghị tôn thần. Chùa Nhữ Xá phụng sự vị Động Đình quân nữ Thủy tinh Công chúa”.
Sự tích Liễu Nghị ở Thanh Miện, Hải Dương không chỉ dừng lại ở việc Liễu Nghị cứu được người con gái con vua Động Đình mà còn cho biết ngài có thuật “phù thủy” và có phép trị thủy chống lũ lụt.
Đôi câu đối ở chùa Ông Sộp nói về thánh Liễu Nghị:
Tác vũ hưng vân thiên hữu hạn
Xạ thư trị thuỷ địa vô hồng.
Nghĩa là:
Khởi tạo mây mưa trời còn hạn
Bắn thư trị thủy đất không tràn.
Câu đối nhắc lại tích Liễu Nghị cùng Thần Long đã viết thư gửi xuống Thủy phủ để làm cạn nước chống lũ lụt. Chi tiết đặc biệt này đã cho phép xác định Liễu Nghị chính là Tản Viên Sơn Thánh, người dùng cuốn sách ước trị cơn hồng thủy thời mở nước.
Liễu Nghị gặp Thần Long bị đày đi chăn dê ở Đồng Dã là chuyện Tản Viên Sơn Thánh cứu con rắn, con của Long Vương Động Đình bị lũ trẻ chăn trâu đánh chết bên bãi Trường Sa trong ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh (Tản Lĩnh ngọc ký). Cũng giống như truyện Liễu Nghị, sau khi cứu được con vua Thủy tề, Sơn Thánh đã rẽ nước xuống Thủy phủ gặp Động Đình Đế quân và được tặng một cuốn sách ước thần kỳ. Lúc ra về, Thái tử Long cung tiễn Sơn Thánh tới tận bãi Trường Sa và để lại lời thơ đầy xúc động. Đặc biệt bài thơ này trong Tản Lĩnh ngọc ký lại có 2 câu thơ trùng khớp với bài thơ của Liễu Nghị đọc khi chia tay Thủy Tiên Công chúa:
Tấc sách truyền vùng ngập, sóng lặng ven biển Hồng Châu.
Câu đối nhắc tới 2 lần truyền thư của Liễu Nghị. Lần thứ nhất là bức thư dạng thẻ được Thủy Tiên Công chúa gửi xuống cho vua cha Động Đình. Lần thứ hai là một đoạn thư thả về Thủy phủ khi ông bà đi chống lụt ở đất Hồng Châu. So sánh với Tản Lĩnh ngọc ký có thể thấy rõ “thiên độc” (thẻ trời) và “thốn thư” (tấc sách) trong sự tích Liễu Nghị tương đương với cây Gậy thần và cuốn Sách ước, là 2 pháp khí của Sơn Thánh đã dùng khi trị thủy. “Thư sinh” Liễu Nghị dùng “thư sách” không phải để học hành thi cử, mà là để làm phép “phù thủy” trong công cuộc chống lại thiên tai, an dân lập quốc.
Cách chùa Ông Sộp khoảng 5km là chùa Nhữ Xá, nay là xã Hồng Quang của huyện Thanh Miện. Chùa còn có tên là chùa Dựa, nơi thờ đức Thánh Bà Động Đình Thủy Tinh Công chúa. Sự tích chùa Nhữ Xá còn kể Liễu Nghị được vua Động Đình cho một bầu nước dùng để cứu giúp nhân dân khi thiên tai hạn hán, không có nước cấy cày. Vị Thiên Lôi ở làng An Xá trong cùng xã từng lấy trộm bầu nước này, nhưng không thể sử dụng được như thánh Liễu Nghị. Chi tiết này cho thấy phép thuật của Liễu Nghị còn trên tài phép cả Thiên Lôi, nên Liễu Nghị không chỉ là một thư sinh bình thường.
Gần ngay cạnh chùa Ông Sộp là thôn Thủ Pháp, nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh và người mẹ nuôi Ma Thị Cao Sơn Thần Nữ. Thủ Pháp cũng là tên làng quê của bà Ma Thị ở trên núi Tản Viên. Như thế ở Thanh Miện có đủ quê của Thánh Tản và nơi Thánh cùng Thần Long Động Đình trị thủy.
Tới đây đã có thể kết luận, hình tượng Liễu Nghị là một cách kể khác về Tản Viên Sơn Thánh từ góc nhìn của dân gian miền đồng bằng ven biển xưa. Tản Viên Sơn Thánh cũng đã được biết là vị Kinh Dương Vương như công bố trong ấn phẩm “Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” của Nhóm nghiên cứu di sản Đền miếu Việt biên soạn mới xuất bản gần đây. Truyện Liễu Nghị là một dẫn chứng rõ ràng nữa cho nhận định Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, vì đều là người đã lấy Thần Long Động Đình.
Trong thư tịch cổ cũng đã từng có việc đồng nhất Liễu Nghị là Kinh Dương Vương. Sách Nam sử, một cuốn sử không rõ tác giả, chép: “Kinh Dương Vương đi tuần thú Nam Hải, gặp một người chăn dê, nói mình là con thứ của Động Đình Quân gọi là Thần Long, bị Kinh Xuyên ruồng bỏ. Kinh Dương Vương bèn lấy Thần Long làm Nguyên phi, một năm sau, sinh hạ được một con trai gọi là Sùng Lãm. Kinh Dương Vương sống hơn trăm tuổi, bèn phong Sùng Lãm làm Lạc Long Quân, nối trị phương Nam. Kinh Dương Vương và Thần Long bèn cưỡi rồng lên trời”.
Từ nhận định rõ ràng về thời kỳ Hùng Vương Thánh Tổ khai dân lập quốc thì truyện Liễu Nghị truyền thư, Tản Viên Sơn Thánh cứu Thủy Tinh Động Đình hay Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy phủ lấy mẫu Thần Long nay đã có thể hiểu như sau. Vào thời Đế Nghi, chính dòng Viêm tộc từ Đế Minh, đang làm chủ thiên hạ. Dòng thứ lúc này là Tiên tộc từ bà Vụ Tiên đã gây mâu thuẫn làm cho Đế Nghi đuổi dòng Long tộc Động Đình đi. Thần tích ở Thanh Miện kể thành Hồ Nghi ở Kinh Diên (Kinh Xuyên) nghe lời người thiếp Thị Chi (Thảo Mai) đày Thần Long đi chăn dê (bị nhốt vào cũi trong rừng).
Khi Tản Viên Sơn Thánh, là dòng Lạc tộc (Lộc Tục) lên nắm giữ ngôi chủ thiên hạ, xưng là Kinh Dương Vương, Sơn Thánh – Liễu Nghị đã có chuyến đi xuống Thủy phủ Động Đình ở miền sông biển Hải Dương, kết giao với dòng Long tộc. Từ đó Kinh Dương Vương đã hoàn thành nốt chặng đường hội nhập 4 tộc người thời lập quốc (gồm Viêm tộc, Lạc tộc, Tiên tộc và Long tộc) thành một thiên hạ chung thống nhất. Sơn Thánh với cây gậy thần sách ước được dòng Long tộc gọi là Liễu Nghị truyền thư, kết duyên với con vua Động Đình mà sinh ra Lạc Long Quân.
Khi Kinh Dương Vương cùng Thần Long “cưỡi rồng” đi mất, Lạc Long Quân đã dựa vào thế lực của bên mẹ là Long tộc Động Đình mà chiếm được ngôi vị chủ tể thiên hạ, đánh đuổi và buộc dòng Viêm tộc của Đế Nghi phải di dời đi. Truyện Liễu Nghị kể là Xích Lân Đại tướng đã giết Hồ Nghi ở Kinh Xuyên. Xích Lân là con rồng đỏ, bởi Lạc Long Quân là vị cha Rồng đã nối tiếp làm Xích Đế ở nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương. Truyện Liễu Nghị như vậy cũng có đầy đủ nhân vật lịch sử quan trọng là Lạc Long Quân trong vai là Xích Lân Long thần.
Sự tích và tín ngưỡng thánh Liễu Nghị trị hồng thủy ở Hải Dương là câu chuyện thật sự về Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh khai mở vùng ven biển, thống nhất 4 tộc người ở bốn phương, lập nên nước Xích Quỷ và khởi đầu thời kỳ cha truyền con nối trong lịch sử Hồng Bàng – Viêm Bang của người Việt.
Cổng chùa Ông Sộp ở xã Tân Trào, Thanh Miện, Hải Dương.Chùa Ông Sộp với những câu đối về Liễu Nghị truyền thư.Chính điện chùa Ông Sộp và chiếc khám cổ thờ Liễu Nghị.Đắp nề tích Thần Long chăn dê ở chùa Ông Sộp.Lưỡng ngư chầu nhật ở trên nóc chùa Ông Sộp.Chùa Dựa (chùa Nhữ Xá), nơi thờ Động Đình Quân nữ Thủy tinh Công chúa.Ban thờ Mẫu Thoải ở chùa Dựa.Đắp nề tiên tích ở chùa Dựa.Trang sách Nam sử về Kinh Dương Vương. Ảnh: Thư viện Quốc gia.
Truyện họ Hồng Bàng kể: “Cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông tên là Đế Minh… đi tuần phương Nam đến Ngũ Lĩnh… sinh ra Lộc Tục… Đế Minh phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, tức là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước, còn Kinh Dương Vương không biết đi đâu…”
Dòng huyền sử khởi nguồn ngắn gọn này đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi cho người Việt. Vị Nam Thiên Thủy Tổ Kinh Dương Vương là ai? Vùng sơ quốc Ngũ Lĩnh Xích Quỷ, rồi Động Đình Thủy phủ là ở đâu? Kinh Dương Vương “đi về đâu”?
Vấn đề cội nguồn lịch sử Kinh Dương Vương mở nước đã được làm sáng tỏ trong cuốn sách “Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” vừa mới phát hành tháng 12/2022 bởi nhà xuất bản Lao Động. 372 trang sách do 2 tác giả của Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền Miếu Việt sưu tầm, biên dịch và khảo cứu.
Thông qua việc tuyển chọn, biên dịch các thần tích và ngọc phả về Tản Viên Sơn Thánh, kết hợp với khảo sát thực địa hàng trăm di tích đền miếu thờ phụng Thánh Tản cùng các vị thần liên quan, cuốn sách đã đưa ra một nhận định mang tính chất đột phá. Tản Viên Sơn Thánh, vị Thánh Tổ của Trời Nam chính là vua Kinh Dương Vương mở nước Xích Quỷ nơi Ngũ Lĩnh Động Đình. Những sự tích, di tích, tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh là cuốn đại sử thi về vị thánh tổ Kinh Dương Vương của người Việt.
Từ công nghiệp trị cơn hồng thủy thời Đường Nghiêu, tìm ra nguồn lửa, nguồn nước, sáng tạo ra cái ăn, cái mặc cho con người… đến việc thiết lập kinh đô Ngũ Lĩnh, chinh phục Động Đình và những chiến công anh hùng chống giặc giữ nước đã viết nên những trang sử của triều đại Kinh Dương Vương (Kinh triều) sáng rạng trong buổi bình minh của dân tộc. Tất cả công lao, ân đức của đức Nam Thiên Thánh Tổ được ghi chép, tập hợp một cách đầy đủ, sống động và chân thật trong tác phẩm, lấy tên là “Kinh triều bảo lục”. Ghi lại, tôn kính và nhận thức đúng về tổ tiên là điều cần thiết cho mỗi người Việt ngày nay.
Trong cuốn sách còn giới thiệu 2 cuốn kinh quan trọng về Tản Viên Sơn Thánh. Một là phần trùng đính của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho sự tích về Thánh Tản trong cuốn “Đại hóa thần kinh” in năm Thành Thái thứ 18 (1907). Hai là cuốn kinh giáng bút có tên “Nhất thành khả cách chân kinh” in năm Bảo Đại thứ 6 (1931), với chân tượng của Tam vị Tản Viên. Đây là những tư liệu quý về Thánh Tản đã được phiên âm và giới thiệu trong cuốn sách mới xuất bản này.
Sau tác phẩm khảo cứu về các bậc Thánh Tổ Hùng Vương thì cuốn sách “Kinh triều bảo lục – Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn” là một bước đột phá mới trong nghiên cứu về nguồn gốc và lịch sử người Việt thời cổ đại. Hơn 4.000 năm lịch sử của dân tộc đang dần dần được tái hiện từ những di sản văn hóa vật chất cũng như tinh thần mà tiền nhân người Việt để lại.
Tưởng nhớ công lao và sự nghiệp của đức Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn, cuốn sách đã có thơ đề:
Tôi nghe kể chuyện thánh Sơn Tinh
Hiếu thuận cảm thiên tỏ nghĩa tình
Hắc Thủy ước thư khơi nước lũ
Trường Sa thần trượng cứu dân sinh
Động Đình rẽ sóng thâm gia kết
Tản Lĩnh xuất quân phá Thục binh
Nối dòng Sùng Lạc ngàn năm sáng
Miếu điện nguy nga thượng tối linh.
Sách được in bìa cứng.Trang sách về Đại hóa thần kinh.
Khi còn nhỏ thời đi học, tôi từng được đọc bài thơ Sơn Tinh – Thủy Tinh của nhà thơ Huy Cận. Tôi nhớ mãi câu mở đầu của bài thơ tả cảnh núi Tản Viên trong buổi bình minh:
Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ mào đỏ thắp bình minh
Mênh mông gọi nắng cho mùa chín
Từ thuở Sơn Tinh thắng Thủy Tinh.
Lúc đó tôi thực sự chưa hiểu được ý nghĩa của hình ảnh này, nhưng ấn tượng về ngọn núi Tản rực hồng trong ánh mặt trời theo tôi mãi khi lớn lên.
Khi đã lớn khôn hơn, một ngày tôi lên mạng internet, gõ “Sơn Tinh – Thủy Tinh” để tra tìm lại bài thơ yêu thích từ thuở ấu thơ. Duyên số thế nào mà khi đó tôi lại bắt gặp một công trình lịch sử về thời cổ đại của Sơn Tinh, của Thủy Tinh, với tên gọi Sử thuyết Hùng Việt, tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật. Đọc những trang Sử thuyết họ Hùng này tôi mới bắt đầu lờ mờ nhận ra rằng người Việt chúng ta có một lịch sử lâu đời và huy hoàng không thể ngờ, rằng những dấu vết xưa của cuộc sống con người Việt vẫn còn truyền qua nhiều thế hệ ở trong những câu chuyện tưởng chừng là huyền thoại ấy.
Bài thơ của nhà thơ Huy Cận đã dẫn lối cho tôi tìm về với thời đại các vua Hùng, với Sơn Tinh, Thủy Tinh, công chúa Ngọc Hoa Mỵ Nương… tuy huyền ảo nhưng lại rất thật và rất sống động. Để rồi một ngày, tôi chợt nhận ra Tản Viên Sơn Thánh, chàng Sơn Tinh trong truyền thuyết chính là Kinh Dương Vương, vị Thánh tổ nước Nam ta. Vùng núi Ba Vì là kinh đô Ngũ Lĩnh thời mở nước. Ba dòng sông Đà, sông Thao, sông Lô gặp nhau ở Ngã ba Bạch Hạc hợp lưu thành sông Hồng chảy về biển Đông là địa bàn của Thủy Tinh Động Đình. Dải thác Vạn Bờ ở Hòa Bình – Mộc Châu, nơi Sơn Thánh trị thủy, còn ầm vang tiếng nước sông Đà khi chảy qua khe núi đá, là cửa Long Môn Vũ Hóa, nơi cá chép hóa rồng ngàn xưa…
Lúc này tôi mới hiểu, ngọn núi Tản là nơi Kinh Dương Vương đã thắp ánh bình minh chiếu rọi cho người Việt cổ bước đi những bước đi đầu tiên cấy cày, chăn nuôi, săn bắn, dệt vải, chiến thắng thiên tai, gây dựng cuộc sống ấm no cho con cháu ngàn đời sau. Cuộc tao ngộ kỳ lạ giữa Kinh Dương Vương và Long Nữ Động Đình đã diễn ra dưới chân núi này, bên dòng sông Đà. Đó cũng là cuộc hợp và chia của cha Rồng Lạc Long Quân với mẹ Tiên Âu Cơ bên bãi dâu Trường Sa. Cũng là cuộc so tài đọ sức không ngừng giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, giữa hai dòng lên núi và xuống biển. Đấu tranh để cho xã hội từng bước, từng bước tiến lên, để cho Đẻ Đất Đẻ Nước, hình thành nên trăm nơi đầu non góc biển, nơi ngự trị của trăm người con trai Bách Việt.
Có gì kỳ vĩ hơn thế! Tản Viên Sơn Thánh – Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương, người mở đầu công cuộc dựng xây đất nước bằng cây gậy thần đầu sinh đầu tử và cuốn sách ước mọi điều ứng nghiệm. Gậy thần sách ước là Hà đồ Lạc thư, là trí tuệ và thế giới quan siêu việt của Thánh Tản. Đó không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà là một lịch sử chân thực và hùng tráng của dân tộc.
Một lời khó nói hết về vị linh thần bất tử hàng đầu, vị Thánh tổ trời Nam Kinh Dương Vương. Những gì chúng ta biết về tổ về tông thật còn quá ít, quá sai lệch. Góp nhặt sự xưa chuyện cũ, tìm về chốn đền linh miếu thiêng, mong nhận ra cha, gặp lại mẹ từ hơn bốn ngàn năm xưa. Đó là những gì chúng tôi mong muốn ghi lại và gửi gắm tới mọi người dân Việt trong cuốn Kinh triều bảo lục Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn này.
Thay cho lời mở đầu, xin lấy lời thơ của nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, một người sinh ra chính tại vùng núi Tản sông Đà này: “Nước non nặng một lời thề”. Đó là lời thề sông núi từ cha ông trao truyền cho con cháu để muôn đời dòng giống Việt trường tồn.
Tiết Trùng cửu năm Nhâm Dần 2022
Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt
Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu
Sách khổ 16×24, 378 trang, gồm 32 trang màu sơ đồ và ảnh di tích.
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
THAY CHO LỜI DẪN
NAN GIẢI SƠN TINH
SỬ TÍCH SƠN TINH – THỦY TINH
Di tích thờ Tản Viên
Ngọc phả Tản Viên Đinh Phi Thánh Mẫu Hùng triều Việt Thường Thị
Ngọc phả cổ chép về Tản Viên Thánh mẫu Quốc mẫu Vua Bà Tam vị Đại vương triều Hùng Nam Việt
Ngọc phả ba vị Tản Viên Sơn Thánh, Tả Hữu Lưỡng Kiên Thần Cao Sơn, Quý Minh
Ngọc phả cổ chép về Thần nương họ Phan thời Việt Thường Thị sinh một bầu năm vị thủy quan
Linh Uyên Đại Vương ngọc phả
SƠ ĐỒ VÀ ẢNH DI TÍCH I
DI TÍCH TẢN VIÊN SƠN ĐẠI SỬ THI KINH DƯƠNG DỰNG NƯỚC
Vùng di tích Sơn Thánh Ất Sơn ở sông Lô, núi Lịch và hai công chúa Ngọc Hoa, Tiên Dung
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh ở Phong Châu ven các sông Đà, Lô, Thao
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh quanh núi Ba Vì và các hành cung Tản Viên
Vùng di tích phía Đông Thủy quốc Động Đình ven các dòng sông cổ
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh và dòng Âu Cơ ở sông Đà, Hòa Bình, Ninh Bình
Vùng di tích Tản Viên Sơn Thánh ở Hà Nam và Ninh Bình
Các di tích Tản Viên Tam Vị đánh Thục vùng trung du Bắc Bộ
Các di tích Tản Viên Tam Vị đánh Thục vùng đồng bằng Bắc Bộ
Các di tích thờ Cao Sơn, Quý Minh và các vị đánh Thục ở đồng bằng Bắc Bộ
Di tích Thánh Tản – đại sử thi Kinh Dương Vương dựng nước