Luận giải truyền tích Tứ bất tử từ góc độ đạo thần tiên ở Việt Nam

Hiện nay khái niệm Tứ bất tử trong văn hóa dân gian được quan niệm là tên gọi chung của bốn vị thánh là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh Công chúa. Mỗi vị thánh tượng trưng cho sự bền vững, thịnh đạt của một lĩnh vực đời sống nên được coi là “bất tử”. Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì quan niệm cho rằng dân gian đã “bất tử” hóa những ước vọng của mình vào các vị thần không hoàn toàn hợp lý. Đúng hơn, những vị thần phải có phép “bất tử” thì mới có thể gọi là thần bất tử. Một số tài liệu thay vào chỗ của Mẫu Liễu Hạnh là Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là dẫn chứng cho điều này vì Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không là nhà sư, đạo sĩ, không biểu trưng cho lĩnh vực nào của đời sống nhân dân. Không phải dân gian đã đem mong muốn của mình gửi gắm vào các vị thần mà là hành trạng, khả năng của chính những nhân vật này đã cho phép gọi họ là “bất tử”. Bất tử là mục đích tối cao của phép tu tiên trong Đạo giáo nên các thần bất tử là những nhân vật trong quá trình phát triển Đạo thần tiên ở nước ta. Từ nhận thức như vậy có thể xem xét lại ý nghĩa các truyền tích và vị trí của các vị thần trong Tứ bất tử. [i]

Tu bat tu tu phuTranh Tứ bất tử.

Tản Viên Sơn Thánh

Đứng đầu Tứ bất tử là Tản Viên Sơn Thánh vì đây là vị “Đệ nhất phúc thần” nước Nam[ii]. Tản Viên Sơn Thánh cũng là nhân vật có xuất xứ lâu đời nhất trong số các vị thần bất tử được nói đến. Theo thần tích đền Và (xã Trung Hưng, Sơn Tây, Hà Nội) thì Tản Viên đã nhận được cây gậy thần đầu sinh đầu tử của Thái Bạch tử vi thiên tướng trên núi Tản. Từ đó Tản Viên xưng là Thần sư, đi cứu độ nhân gian, dùng gậy thần cứu sống được con rắn là con của Long Vương Động Đình. Khi xuống thăm Long Cung Tản Viên lại được thêm cuốn sách ước có phép nhiệm màu thay đổi trời đất…

Câu đối ở đền Và tóm tắt về sự tích của thần Tản Viên như sau:

神爲之靈地爲之靈亦人崇爲之靈屹爾東宮西鎮
山得其術水得其術卽今欲得其術渺乎僊杖約書
Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân sùng vi chi linh, ngật nhĩ Đông cung Tây trấn
Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, tức kim dục đắc kỳ thuật, diểu hô tiên trượng ước thư.
Dịch:
Thần tôn là thiêng, đất tôn là thiêng, cũng người tôn mà thành thiêng, cung Đông trấn Tây cao ngất
Núi được thành thuật, sông được thành thuật, nay muốn được xem thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ.

Gậy thần sách ước” của Tản Viên là phép thuật gì? Chuyện này có thể hiểu khi so sánh truyền thuyết Tản Viên với chuyện của Đại Vũ trong thần thoại Trung Hoa:

Vũ đang đứng trên bờ quan sát sức mạnh của dòng nước thì thấy một ông già mặt trắng trẻo, mình cá, nhảy lên từ dòng sông… Ông già tự xưng là Hà Bá. Vị thần này cho Vũ một phiến đá to màu xanh… Đó chính là Hà đồ.[iii]

Rồi tiếp theo còn có chuyện Vũ gặp một con rắn thần ở trong hang, rắn dẫn Vũ tới gặp Phục Hy và Phục Hy trao cho Vũ một thanh Ngọc giản, có thể đo đạc được trời đất.

Có thể thấy chuyện Sơn Tinh được gậy thần sách ước và chuyện Đại Vũ được Hà đồ, Ngọc giản chỉ là một. “Ông già mặt trắng” là Thái Bạch Thần Tinh ở núi Tản. Thái Bạch cũng là Thái Hạo (Hạo trong Hoa ngữ nghĩa là sáng, bạch), là tên khác của Phục Hy trong truyền thuyết. Phục Hy tương truyền có mình rắn. Phục Hy là người tìm ra Bát quái nên hoàn toàn có thể Phục Hy cũng là Thái Bạch Tử Vi thiên tướng trong truyền thuyết Tản Viên.

Phục Hy là người đã chép Hà đồ từ lưng con Long Mã (tức là con rồng, rắn thần). Còn vua Vũ vẽ Lạc thư từ lưng con Thần Quy. Có thuyết khác lại cho rằng cả Hà đồ lẫn Lạc thư đều do Đại Vũ nghĩ ra. Dù thế nào thì rõ ràng phép thần của Tản Viên Sơn Thánh chính là Hà Lạc, được tiếp thụ từ tiền nhân và sáng tạo thêm trong quá trình trị thủy.

Gậy thần sách ước của Tản Viên Sơn Thánh xét thực chất chính là Hà đồ Lạc thư, trong đó bao hàm đạo Âm dương (sinh tử), Trời đất (Hà – Lạc). Nhờ những kiến thức khoa học này ở thủa bình minh của dân tộc mà Tản Viên Sơn Thánh đã quy tụ được các bộ tộc ở vùng Nam Giao (2 anh em Cao Sơn, Quý Minh), trị thủy thắng lợi. Thánh Tản do vậy đã trở thành vị thần bất tử đầu tiên của người Việt.

Chử Đạo Tổ

Xét trong Tứ bất tử thì người càng có vị trí thứ tự cao thì khả năng phép thuật linh ứng càng cao. Quan trọng hơn là thời điểm xuất hiện của người đó càng sớm trong chiều dài lịch sử. Vị trí thứ hai trong Tứ bất tử thuộc về Chử Đồng Tử. Sự tích Chử Đồng Tử được tóm tắt trong câu đối ở đền Đa Hòa (xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên):

淳孝格天沙渚幔帷成異遇
至誠通聖瓊林杖笠契真傳
Thuận hiếu cách thiên, Sa Chử mạn duy thành dị ngộ
Chí thành thông thánh, Quỳnh Lâm trượng lạp khế chân truyền.
Dịch:
Hiếu thuận động tới trời, Bãi Chử màn che thành kỳ ngộ
Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền.

Chử Đồng Tử vì hiếu thuận với cha nên đã kỳ ngộ gặp được Tiên Dung công chúa ở bãi Tự Nhiên. Sau đó nhờ thành tâm học đạo đã được tiên ông truyền cho phép màu ở núi Quỳnh Lâm. Phép màu của Chử Đồng Tử là cây gậy và chiếc nón thần. Gậy và nón là hình ảnh của vuông – tròn, âm – dương. Thần tích ở Đa Hòa còn kể tại đây có vị thần Cá (thần Dí) đã vật chết voi của nhà vua, nhưng khi được yêu cầu làm voi sống lại thì không làm được, bởi “phép cải tử hoàn sinh chỉ có Tản Viên Sơn Thần và Đức thánh Chử Đồng Tử là làm được...”. Điều này cho thấy không phải “thần” nào cũng có thể “cải tử hoàn sinh”. Chỉ có 2 vị thần bất tử là Tản Viên Sơn Thánh và Chử Đồng Tử là có phép thuật này.

Khi so sánh truyền thuyết Chử Đồng Tử và Tiên Dung với chuyện của các vị thần trong Đạo Giáo Trung Hoa thì thấy đây cũng là chuyện của Hậu Nghệ – Hằng Nga. Hậu Nghệ có vợ là Hằng Nga, là những vị thần bị đày xuống trần gian. Hậu Nghệ đi tìm thuốc bất tử, trải qua muôn vàn gian khó mới gặp và xin được của Tây Vương Mẫu một viên thuốc để trở thành bất tử. Khi về nhà Hằng Nga vô ý uống thuốc này nên đã bay lên mặt trăng.

Câu chuyện Hằng Nga – Hậu Nghệ trên đã chỉ rõ thế nào là thần bất tử trong quan niệm xưa. Khả năng bất tử là khả năng đặc biệt mà chỉ một số ít các vị thần mới có. Hậu Nghệ – Hằng Nga là những vị thần bất tử như Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng một đêm cũng bay về trời ở đầm Nhất Dạ như chuyện Hằng Nga về cung trăng.

Thần tích ở đền Đa Hòa còn kể Chử Đồng Tử lấy thêm một người vợ nữa là Tây Cung công chúa. Vị công chúa này cũng có phép thuật, giúp Chử Đồng Tử chữa bệnh cho nhân dân. Tây Cung công chúa như vậy ở đây tương đồng với Tây Vương Mẫu trong chuyện Hậu Nghệ tìm thuốc bất tử.

Trong lịch sử Trung Hoa thì Hậu Nghệ là người đã tiếm ngôi, làm gián đoạn nhà Hạ thời Hạ Thái Khang. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử cũng kể về vua Hùng tức giận, đem quân đến đánh vợ chồng Chử Đồng Tử – Tiên Dung, thể hiện một cuộc đụng độ đã xảy ra.

Liên hệ giữa Chử Đồng Tử và Hậu Nghệ rõ nhất là về ngôn ngữ. Có từ Chư hầu, chỉ rõ mối tương thông Chử – Hậu, là chư hầu của nhà Hạ đã tiếm ngôi (lấy con gái vua mà không được phép). Liên hệ Hậu – Chậu – Chử tương tự như trong những từ Hầu (đồng) – Chầu (đồng) – (ca) Trù đều chỉ hình thức xướng ca phục vụ nghi lễ cung đình (triều đình) xưa cả.

Hậu Nghệ có công bắn mặt trời, diệt các loài quái vật nên được nhân dân tôn thờ là thần Tông Bố, tổng quản các loài ma quỷ trong thiên hạ. Chử Đồng Tử tu tiên, có được phép cải tử hoàn sinh đi cứu người, chữa bệnh rồi được tôn là Chử Đạo Tổ. Tông Bố phiên thiết cho chữ Tổ. Như vậy cách gọi Tông Bố Hậu Nghệ trùng cả họ và tên với Chử Đạo Tổ.

Đổng Thiên Vương

Vị trí thứ ba trong Tứ bất tử theo quan niệm hiện tại là Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng cưỡi ngựa sắt đánh thắng giặc Ân. Tuy nhiên, khi xét quan niệm về thần “bất tử” là những vị thần có phép màu nhiệm, có sinh hóa, có liên quan đến đạo thần tiên (Đạo Giáo) thì nhân vật Thánh Gióng hoàn toàn không phù hợp là thần bất tử. Thánh Gióng không có phép màu nào, dùng sức khỏe đánh giặc. Đánh thắng giặc xong là thần “hóa”, bay về trời ở núi Sóc… và không quay trở lại nữa. Như vậy sao có thể gọi là thần “bất tử”?

Ở đây đã có sự nhầm lẫn do mặt chữ. Vị thần bất tử thứ ba là Đổng Thiên Vương, chứ không phải Phù Đổng Thiên Vương. Phù Đổng là từ phiên thiết của chữ Phổng hay Bổng, chỉ Thánh Gióng. Còn Đổng Thiên Vương lại là Huyền Thiên Đại Thánh. Đền thờ Huyền Thiên Đổng Thiên Vương nằm ở làng Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội). Thần phả ở đền Bộ Đầu có tên “Bộ Đầu linh từ sự tích Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh, Thành hoàng nhất vị“. Các sách cũ[iv] đều cho rằng đền này thờ Huyền Thiên Đại Thánh. Bản thân đền được gọi là đền Quán Thánh.

Theo sự tích ở Huyền Thiên quán tại làng Ngọc Trì (xã Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội) thì Huyền Thiên nhiều lần giáng sinh, tu hành, từ đó có phép thuật trấn yêu ma các động. Còn Huyền Thiên ở đền Sái (Đông Anh) là người đã giúp Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Huyền Thiên còn là vị thần được thờ tại Trấn Vũ quán ở Hồ Tây (Hà Nội). Ở những nơi này tượng thờ Huyền Thiên đều được làm dưới hình dạng một người cao lớn, tay bắt quyết và dẫn dụ rắn rùa. Chữ Đổng như vậy thực ra là ký âm của Đùng, chỉ vị thần có thân hình to lớn.

Câu đối ở Quán Thánh (Hồ Tây) kể về sự tích Huyền Thiên Trấn Vũ:

武當山石鍊何年色相俱空真身尚在
玄天觀雲遊此日仙縱偶寄靈蹟長留
Vũ Đương sơn thạch luyện hà niên, sắc tướng câu không, chân thân thượng tại
Huyền Thiên quán vân du thử nhật, tiên tung ngẫu kí, linh tích trường lưu.
Dịch thơ:
Núi Vũ Đương năm xưa luyện đá
Mặc hình nhan thân cả ở cao
Mây bay Huyền quán ngày nào
Dấu tiên chợt hiện, biết bao giờ mờ.

Huyền Thiên không ai khác chính là Lão Tử, vì Huyền Thiên hay Huyền Nguyên là tên sắc phong của nhà Đường cho Lão Tử. Lão Tử, vị giáo chủ Đạo giáo, có khả năng giáng sinh nhiều kiếp, có phép màu trấn yểm yêu quỷ, quy xà nên Huyền Thiên Đổng Thiên Vương là một thần bất tử hoàn toàn hợp lý. Lão Tử hiện còn được thờ làm thành hoàng ở đình Thổ Hà (xã Vân Hà, Việt Yên, Bắc Giang), với công trạng giống như của Huyền Thiên tại đền Sái.

Có thể thấy phép thuật của Huyền Thiên Đổng Thiên Vương hạn chế hơn so với Chử Đạo Tổ. Trong khi Chử Đồng Tử có thể cải tử hoàn sinh, tham dự vào huyền cơ thiên địa, thì phép thuật của Đổng Thiên Vương hạn chế ở khả năng chữa bệnh dịch, diệt yêu trừ quỷ, chỉ hóa sinh chứ không cải tử hoàn sinh. Vì thế Đổng Thiên Vương được xếp ở vị trí thứ ba trong Tứ bất tử, sau Chử Đạo Tổ.

Bắt đầu từ vị thần bất tử thứ ba Đổng Thiên Vương ta thấy xuất hiện thông tin về đạo Phật. Lão Tử được coi trong một thân là thánh thần tiên phật. Quan niệm về luân hồi, chuyển kiếp đầu thai cũng là quan niệm của đạo Phật. Đạo giáo nói đến tu tiên, trường sinh bất lão và cải tử hoàn sinh chứ không đầu thai. Lão Tử ban đầu là một nhân vật trường sinh bất lão, luyện tiên đan (Thái Thượng Lão Quân). Sang đến hình ảnh Huyền Thiên mới thêm việc chuyển kiếp theo quan niệm đạo Phật.

Liễu Hạnh Thánh Mẫu

Khả năng hóa sinh nhiều lần và trong một ngôi gồm cả thánh thần tiên Phật thấy rõ hơn ở thánh mẫu Liễu Hạnh. Câu đối ở lăng mộ Liễu Hạnh tại Vụ Bản (Nam Định) nói về khả năng hóa sinh, chuyển thể của thánh:

五百餘年神故化
再三轉世聖而仙
Ngũ bách dư niên thần cố hóa
Tái tam chuyển thế thánh nhi tiên.
Dịch:
Năm trăm năm lẻ thần hóa cũ
Ba lần chuyển thế thánh là tiên.

Mẫu Liễu được tôn sùng vì trong các lần chuyển hóa thể hiện là người có “hiếu, trinh, từ”:

勝蹟肇仙鄉而聖而神而佛
靈聲振越甸惟慈惟孝惟貞
Thắng tích triệu Tiên hương, nhi thánh nhi thần nhi phật
Linh thanh chấn Việt điện, duy từ duy hiếu duy trinh.
Dịch:
Thắng tích mở Tiên Hương, là thánh là thần là phật
Linh thiêng vang Việt điện, bởi lành bởi hiếu bởi trinh.

Phép thuật cụ thể của Mẫu Liễu là gì thì truyền tích không đề cập đến. Có thể thấy khả năng của Mẫu Liễu hạn chế hơn nhiều so với Huyền Thiên Đổng Thiên Vương. So về năng lực và thời gian xuất hiện (thời Lê) thì Liễu Hạnh xếp thứ tư trong Tứ bất tử là đúng, cho dù Liễu Hạnh là Mẫu chủ của Địa phủ trong đạo Tứ phủ.

Như vậy, Tứ bất tử là 4 nhân vật đánh dấu những mốc trong quá trình hình thành và phát triển Đạo thần tiên ở nước Nam. Thứ tự và phương vị của Tứ bất tử được sắp xếp như sau:

– Đứng đầu là Tản Viên Sơn Thánh, người có gậy thần sách ước, là Hà thư Lạc đồ, những kiến thức khoa học thời sơ khai. Tản Viên là người đã tập hợp các bộ tộc Việt chiến thắng thiên tai trong thời kỳ dựng nước. Phương vị của Tản Viên là hướng Tây (Sơn Tây). Xét trong đạo Tứ phủ thì Tản Viên là thần chủ của Nhạc phủ.

– Thứ hai là Chử Đạo Tổ, cũng là người nắm được thuật Âm dương, có bảo bối là gậy nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Truyền thuyết Chử Đồng Tử là cách kể khác của chuyện Hậu Nghệ thời nhà Hạ. Chử Đồng Tử hay Chử Đông Tử, nghĩa là Người ở bãi phía Đông, là thần nắm hướng Đông và là thần trong Thoải phủ (Thủy phủ).

– Xếp thứ ba là Đổng Thiên Vương Huyền Thiên Lão Tử, là giáo chủ Đạo giáo, là thầy thuốc cứu dân độ thế, có khả năng trường sinh bất lão, có thể trừ yêu dẹp quỷ, trấn quy xà. Lão Tử là người đã giúp vua Chủ An Dương Vương xây thành Cổ Loa vào đầu thời Đông Chu. Đổng Thiên Vương là người trấn phương Bắc (Huyền phương), ứng với Thiên phủ.

– Cuối cùng là thánh mẫu Liễu Hạnh, thần chủ của Địa phủ trong đạo Tứ phủ, có khả năng tái sinh nhiều lần, đắc đạo thánh thần tiên phật, nổi danh hiếu trinh từ ở thời Lê. Liễu Hạnh là người thành Nam (Nam Định), nắm giữ phương Nam.


CHÚ THÍCH:

[i] Bài viết được trích lược từ sách Bước ra từ huyền thoại của tác giả.
[ii] Lĩnh Nam chích quái, Truyện núi Tản Viên.
[iii] Thần thoại Trung Hoa, Dương Tuấn Anh sưu tầm, tuyển chọn, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009.
[iv] Theo Từ điển di tích văn hóa Việt Nam, Ngô Đức Thọ (chủ biên), NXB Văn học, 2003.

Nam thiên Tứ bất tử

Hiện nay thuật ngữ Tứ bất tử được quan niệm là tên gọi chung của bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam, đó là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh Công chúa. Mỗi vị tượng trưng cho một lĩnh vực đời sống của nhân dân nên được coi là “bất tử”. Ví dụ, Tản Viên Sơn Thánh tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Thánh Gióng, hay Phù Đổng Thiên Vương tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Chử Đồng Tử tượng trưng cho tình yêu, hôn nhân, và sự sung túc giàu có. Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, phúc đức, sự thịnh vượng, văn thơ…
Tuy nhiên… suy nghĩ kỹ thì quan niệm cho rằng dân gian đã “bất tử” hóa những ước vọng của mình vào các vị thần không hẳn đúng. Nếu vậy thì vị thần nào chẳng “bất tử” được. Đúng hơn thì trước hết bản thân những vị thánh này phải có khả năng “bất tử” đã thì mới có thể gọi là thần bất tử.
Một số tài liệu thay vào chỗ của Mẫu Liễu Hạnh là Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là dẫn chứng cho điều này vì cũng như Mẫu Liễu, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không liên quan đến việc “hóa sinh” đầu thai. “Bất tử” không phải đồng nghĩa với “bất diệt”. Bất tử nghĩa là “không chết”, đúng với nghĩa đen của nó. Chỉ có các vị thần có thể “cải tử hoàn sinh” hoặc có khả năng chuyển kiếp thì mới được gọi là thánh “bất tử”. Không phải dân gian đã đem mong muốn của mình gửi gắm vào các vị thần mà là hành trạng, khả năng của chính những nhân vật này đã cho phép gọi họ là “bất tử” trong quan niệm dân gian.

Từ nhận thức như vậy ta có thể xem xét từng vị thần trong Tứ bất tử để hiểu tại sao lại gọi họ là những thần bất tử.

Tản Viên Sơn Thánh
Đứng đầu Tứ bất tử là Tản Viên Sơn Thánh vì đây là vị “Đệ nhất phúc thần” nước Nam. Tản Viên Sơn Thánh cũng là nhân vật có xuất xứ lâu đời nhất trong số các vị thần bất tử được nói đến. Sự tích của Tản Viên bắt đầu từ thủa Hồng Bàng dựng nước. Theo thần tích đền Và (Sơn Tây) thì Tản Viên đã nhận được cây gậy thần đầu sinh đầu tử của Thái Bạch tử vi thiên tướng trên núi Tản. Từ đó Tản Viên xưng là Thần sư, đi cứu độ nhân gian, dùng gậy thần cứu sống được con rắn là con của Long Vương Động Đình. Khi xuống thăm Long Cung Tản Viên lại được thêm cuốn sách ước có phép nhiệm màu thay đổi trời đất… Chính vì có những phép thuật này mà Tản Viên Sơn Thánh đã được gọi là thần bất tử.

P1020264Nghi môn Nam cung Tản Viên (Ao Vua).

Câu đối ở đền Và (Sơn Tây), là Đông cung của Tản Viên nói tới những phép thuật của thần:
西傘東宫此地廷遊傳異蹟
左書有仗参天神化福同人
Tây Tản Đông cung, thử địa đình du truyền dị tích
Tả thư hữu trượng, tham thiên thần hóa phúc đồng nhân.
Dịch:
Núi Tản bên Tây, cung điện bên Đông, vua ngao du đất này lưu truyền tích lạ
Sách cầm bên trái, gậy mang bên phải, thần biến hóa cùng trời tạo phúc chúng dân.
Như đã từng xác định, gậy thần sách ước của Tản Viên thực chất là Hà đồ Lạc thư của người Việt, trong đó bao hàm đạo Âm dương (sinh tử), Trời đất (Hà – Lạc). Nhờ những kiến thức khoa học này ở thủa bình minh của dân tộc mà Tản Viên Sơn Thánh đã quy tụ được các bộ tộc ở vùng Nam Giao (2 anh em Cao Sơn, Quý Minh), trị thủy thắng lợi. Thánh Tản do vậy đã trở thành vị thần bất tử đầu tiên của người Việt.

Ca dao:

Nhất cao là núi Tản Viên
Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.

So về độ cao thực tế thì núi Tản rõ ràng là thấp hơn núi Tam Đảo. Việc xếp thứ hạng ở đây như vậy là xếp thứ hạng của 3 vị thần ở 3 ngọn núi này. Tản Viên đứng đầu ở núi Tản. Núi Tam Đảo là địa bàn của Cao Sơn (bộ tộc Lang Tiên Thị của Tây Thiên quốc mẫu). Độc Tôn như vậy phải ứng với Quý Minh, là dòng dõi của vua Hùng Đế Minh, đóng tại núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ).

Chử Đạo Tổ
Câu chuyện về Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa được tóm tắt trong câu đối ở đền Đa Hòa (xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên):
淳孝格天沙渚幔帷成異遇
至誠通聖瓊林杖笠契真傳
Thuận hiếu cách thiên, Sa Chử mạn duy thành dị ngộ
Chí thành thông thánh, Quỳnh Lâm trượng lạp khế chân truyền.
Dịch:
Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ
Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền.
Chử Đồng Tử vì hiếu thuận với cha nên đã kỳ ngộ gặp được Tiên Dung ở bãi Tự Nhiên. Sau đó nhờ thành tâm học đạo đã được tiên ông truyền cho phép màu ở núi Quỳnh Lâm. Phép màu của Chử Đồng Tử là “trượng lạp”, tức là cây gậy và chiếc nón thần. Theo thần tích đền Đa Hòa thì Chử Đồng Tử “học được tiên thuật, có thể cải tử hoàn sinh”, đã cứu sống nhiều người dân.
Một lần nữa ta thấy lý do để gọi Chử Đồng Tử là thần bất tử chính là ở phép cải tử hoàn sinh này. Gậy và nón cũng là hình ảnh của vuông – tròn, âm – dương. Thần tích ở Đa Hòa còn kể tại đây có vị thần Cá (thần Dí) đã vật chết voi của nhà vua, nhưng khi được yêu cầu làm voi sống lại thì không làm được, bởi “phép cải tử hoàn sinh chỉ có Tản Viên Sơn Thần và Đức thánh Chử Đồng Tử là làm được…”. Điều này cho thấy không phải “thần” nào cũng có thể “cải tử hoàn sinh”. Chỉ có 2 vị thần bất tử là Tản Viên Sơn Thánh và Chử Đồng Tử là có phép thuật này.
Chử Đồng Tử còn lấy người vợ thứ là Tây Cung công chúa. Câu đối ở đền Đa Hòa:
東土降生三顯聖
南邦不死四靈神
Đông thổ giáng sinh tam hiển thánh
Nam bang bất tử tứ linh thần.
Dịch:
Đất Đông giáng sinh ba hiển thánh
Nước Nam bất tử bốn linh thần.

IMG_7029Đền Đa Hòa ở Khoái Châu, Hưng Yên.

Ba người (Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Tây Cung công chúa) dùng phép thuật của mình cứu dân, xây dựng lâu đài, để rồi một đêm cùng bay về trời. Câu đối ở đền Đa Hòa:
化境是何年自然為洲一夜成澤
奇緑曠千古人間夫婦天上神仙
Hóa cảnh thị hà niên, Tự Nhiên vi châu, nhất dạ thành trạch
Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên.
Dịch:
Cảnh hóa đó năm nào, đây bãi Tự Nhiên, một đêm thành đầm trạch
Kỳ duyên trùm thiên cổ, vợ chồng nhân gian, lên trời biến thần tiên.
Thần tích Đa Hòa chép: “Cả ba vị từ đó đi thành tiên thành thánh, hóa sinh bất diệt, được xếp vào hàng thứ hai trong Tứ bất tử của nước Việt ta”.
Việc xác định vị trí thứ hai trong Tứ bất tử thuộc về Chử Đồng Tử khá quan trọng vì vị trí này thường bị chép cho Phù Đổng Thiên Vương. Xét trong Tứ bất tử thì người càng có vị trí cao thì khả năng phép thuật linh ứng càng cao. Điều quan trọng hơn là thời điểm xuất hiện của người đó càng sớm trong chiều dài lịch sử. Sau Tản Viên ở thời Hồng Bàng, truyền tích Chử Đồng Tử hay Chử Đạo Tổ đã cho thấy sự ra đời rất sớm của Đạo Giáo (đạo thần tiên) ở Việt Nam. Tứ bất tử thực ra là 4 nhân vật chính, đánh dấu những mốc trong quá trình hình thành và phát triển Đạo Giáo của người Việt ở nước Nam.

Đổng Thiên Vương
Theo quan niệm hiện tại thì Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng cưỡi ngựa sắt đánh thắng giặc Ân là một trong Tứ bất tử. Tuy nhiên, khi xét quan niệm về thần “bất tử” là những vị thần có phép màu nhiệm, có sinh hóa, có liên quan đến đạo thần tiên (Đạo Giáo) thì nhân vật Thánh Gióng hoàn toàn không phù hợp là thần bất tử. Thánh Gióng không có phép màu nào, dùng sức khỏe đánh giặc. Đánh thắng giặc xong là thần “hóa”, bay về trời ở núi Sóc… và không quay trở lại nữa. Như vậy sao có thể gọi là thần “bất tử”?
Ở đây các học giả đã có sự nhầm lẫn do… mặt chữ. Vị thần bất tử thứ ba là Đổng Thiên Vương, chứ không phải Phù Đổng Thiên Vương. Phù Đổng thiết Phổng hay Bổng, chỉ Thánh Gióng. Còn Đổng Thiên Vương là Huyền Thiên Đại Thánh. Đền thờ Huyền Thiên Đổng Thiên Vương nằm ở làng Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội).
Câu đối ở Huyền Thiên quán tại làng Ngọc Trì (Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội), đối diện bên kia sông với đền Bộ Đầu:
南交有國自鴻庞歷陳黎迄今刧局贏輸靈氣依依騰宇宙
北方之星日玄武中天地而立纒度经緯神光赫赫鎭龜蛇
Nam Giao hữu quốc tự Hồng Bàng, lịch Trần Lê hất kim, kiếp cục doanh thâu, linh khí y y đằng vũ trụ
Bắc phương chi tinh nhật Huyền Vũ, trung thiên địa nhi lập, triền độ kinh vĩ, thần quang hách hách trấn quy xà.
Dịch:
Nam Giao lập nước từ Hồng Bàng, trải Trần Lê tới nay, kiếp cuộc thắng thua, linh khí y nguyên bay vũ trụ
Phương Bắc là sao thời Huyền Vũ, giữa trời đất mà nên, bao trùm ngang dọc, ánh thần hiển hách trấn rắn rùa.

Ngoc TriTrấn Vũ quán ở Ngọc Trì, Gia Lâm.

Cũng theo sự tích ở Ngọc Trì thì Huyền Thiên nhiều lần giáng sinh, tu hành, từ đó có phép thuật trấn yêu ma các động. Còn Huyền Thiên ở đền Sái (Đông Anh) là người đã giúp Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Núi Sái là núi Thất Diệu – Vũ Đương, nơi Huyền Thiên – Lão Tử đã tu luyện thành danh. Câu đối ở đền Sái:
自蜀朝顯蹟于兹佛界峙神宫宸極髙瞻星北拱
爲曜嶺揚靈之最民風存帝典福壽齊祝月東來
Tự Thục triều hiển tích vu tư, Phật giới trĩ thần cung, thần cực cao chiêm tinh Bắc củng
Vi Diệu lĩnh dương linh chi tối, dân phong tồn đế điển, phúc thọ tề chúc nguyệt Đông lai.
Dịch:
Từ triều Thục hiển tích tới khi, giới Phật vững cung thần, đài cực cao xem sao Bắc vái
Giúp núi Diệu tỏ linh hết mức, lệ dân lưu sự đế, phúc thọ chỉnh khấn trăng Đông về.
Huyền Thiên không ai khác chính là Lão Tử, vì Huyền Thiên hay Huyền Nguyên là tên sắc phong của nhà Đường cho Lão Tử. Lão Tử, vị giáo chủ Đạo giáo, chuyên về thuật trường sinh bất lão (được tôn phong là Thái Thượng Lão Quân), có phép màu trấn yểm yêu quỷ, quy xà nên Huyền Thiên Đổng Thiên Vương là một thần bất tử hoàn toàn hợp lý. Chú ý thì có thể thấy phép thuật của Đổng Thiên Vương hạn chế hơn so với Chử Đạo Tổ. Trong khi Chử Đồng Tử có thể cải tử hoàn sinh, tham dự vào huyền cơ thiên địa, thì phép thuật của Đổng Thiên Vương chỉ hạn chế ở khả năng chữa bệnh, diệt yêu trừ quỷ, chỉ trường sinh hay hóa sinh chứ không cải tử hoàn sinh được. Vì thế xếp Đổng Thiên Vương ở vị trí thứ ba trong Tứ bất tử sau Chử Đạo Tổ.
Đổng Thiên Vương – Lão Tử đã giúp vua Chu (Thục) xây thành Đông Đô (Cổ Loa) vào lúc giao thời Tây và Đông Chu. Chử Đạo Tổ như vậy phải là nhân vật trước thời kỳ này, vào thời Tây Chu hoặc thời Thương. Tuy định vị được thời gian của Chử Đồng Tử nhưng vấn đề Chử Đồng Tử là nhân vật lịch sử nào vẫn là một câu hỏi cần tiếp tục được tìm hiểu.
Bắt đầu từ vị thần bất tử thứ ba Đổng Thiên Vương ta thấy xuất hiện thông tin về đạo Phật. Lão Tử được coi trong một thân là thánh thần tiên phật như câu đối ở đình Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Ninh):
等釋迦仁濟群生佛法千古神仙千古
與孔聖功垂萬世春秋一經道德一經
Đẳng Thích Ca nhân tế quần sinh, Phật pháp thiên cổ thần tiên thiên cổ
Dữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh Đạo Đức nhất kinh.
Dịch:
Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, Phật pháp nghìn kiếp thần tiên nghìn kiếp
Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một kinh Đạo Đức một kinh.
Quan niệm về luân hồi, chuyển kiếp đầu thai cũng là quan niệm của đạo Phật. Đạo giáo nói đến tu tiên, trường sinh bất lão và cải tử hoàn sinh chứ không đầu thai. Lão Tử ban đầu là một nhân vật trường sinh bất lão, luyện tiên đan (Thái Thượng Lão Quân). Sang đến hình ảnh Huyền Thiên mới thêm việc chuyển kiếp theo quan niệm đạo Phật.
Huyền Thiên là vị thần trấn phương Bắc rất rõ. Trong khi đó Thánh Gióng lại là thần trấn phương Nam với khả năng cưỡi ngựa phun lửa (tượng trưng của phương Nam) và lấy núi Sóc làm nơi hóa (Sóc phương là phương Nam). Nam Bắc bị đảo lộn nên thành ra Thánh Gióng bị gọi nhầm thành thần bất tử. Việc chỉnh lại vị trí Đổng Thiên Vương trong Tứ bất tử cho phép nhận diện đúng hơn về bản chất của quan niệm này.

Liễu Hạnh Thánh Mẫu
Khả năng hóa sinh nhiều lần và trong một ngôi gồm cả thánh thần tiên Phật thấy rõ hơn ở thánh mẫu Liễu Hạnh. Câu đối ở phủ Bóng (Vụ Bản, Nam Định):
仙而佛聖而神事有萬奇留越史
崇以南嵬以北跡傳千古記南書
Tiên nhi Phật, thánh nhi thần, sự hữu vạn kỳ lưu Việt sử
Sùng dĩ Nam, ngôi dĩ Bắc, tích truyền thiên cổ ký Nam thư.
Dịch:
Tiên là Phật, thánh là thần, sự có vạn kỳ lưu sử Việt
Tôn ở Nam, ngôi ở Bắc, tích truyền thiên cổ chép sách Nam.
Hay câu đối ở lăng mộ Mẫu Liễu tại Vụ Bản nói về khả năng hóa sinh, chuyển thể của thánh.
五百餘年神故化
再三轉世聖而仙
Ngũ bách dư niên thần cố hóa
Tái tam chuyển thế thánh nhi tiên.
Dịch:
Năm trăm năm lẻ thần vẫn hóa
Ba lần chuyển thế thánh là tiên.

IMG_4413Lăng mộ Liễu Hạnh ở Phủ Giầy, Nam Định.

Khả năng tái sinh tuy là “bất tử” nhưng so với “thuật trường sinh bất lão” thì còn kém hơn một bậc vì tái sinh tức là vẫn phải chết rồi mới sống lại được ở thân thể khác. Nghĩa là vẫn chưa thoát được vòng “luân hồi” của đạo Phật. Còn người trường sinh bất lão thì đã thoát khỏi sự chi phối của luân hồi, có thể tham dự vào cơ trời.

Mẫu Liễu được tôn sùng vì trong các lần chuyển hóa đều thể hiện là người có “hiếu, trinh, từ”.
勝蹟肇仙鄉而聖而神而佛
靈聲振越甸惟慈惟孝惟貞
Thắng tích triệu Tiên hương, nhi thánh nhi thần nhi phật
Linh thanh chấn Việt điện, duy từ duy hiếu duy trinh.
Dịch:
Thắng tích mở Tiên Hương, là thánh là thần là phật
Linh thiêng vang Việt điện, bởi lành bởi hiếu bởi trinh.
Còn phép thuật cụ thể của Mẫu là gì thì không được đề cập đến. Có thể thấy khả năng của Mẫu Liễu hạn chế hơn nhiều so với Huyền Thiên Đổng Thiên Vương. So về thời gian xuất hiện và năng lực thì Mẫu Liễu Hạnh xếp hàng cuối trong Tứ bất tử là đúng, cho dù Liễu Hạnh là Mẫu chủ của Địa phủ trong đạo Tứ phủ.

Để tóm tắt lại về Tứ bất tử nước Nam xin đọc câu đối ở đền Đa Hòa:
碧漢飛昇桂郊四之一
玄幾参賛天地二可三
Bích hán phi thăng Quế Giao tứ chi nhất
Huyền cơ tham tán thiên địa nhị khả tam.
Dịch:
Bay lên dòng Bích Hán, Quế Giao bốn là một
Tham dự vào huyền cơ, trời đất hai như ba.
Như vậy thần bất tử là những vị thần của Đạo Giáo, có phép tiên có thể cải tử hoàn sinh hay đầu thai chuyển kiếp. Tứ bất tử là tập hợp các vị thần này, thể hiện quá trình phát triển của đạo thần tiên ở Việt Nam. Thứ tự và vị trị của Tứ bất tử được sắp xếp như sau:
–    Đứng đầu là Tản Viên Sơn Thánh, người có gậy thần sách ước, có khả năng cải tử hoàn sinh, là người đã tập hợp các bộ tộc Việt chiến thắng thiên tai trong thời kỳ dựng nước. Phương hướng của Tản Viên là hướng Tây (Tây Tản).
–    Thứ hai là Chử Đạo Tổ, cũng là người nắm được thuật Âm dương, có bảo bối là gậy nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Chử Đạo Tổ có khả năng là một đạo sĩ vào thời Thương hoặc Tây Chu. Chử Đồng Tử là thần nắm hướng Đông (Đông thổ).
–    Xếp thứ ba là Đổng Thiên Vương Huyền Thiên Lão Tử, là giáo chủ Đạo giáo, trường sinh bất lão với cuốn Đạo đức kinh, có khả năng trừ yêu dẹp quỷ, trấn quy xà. Lão Tử là người đã giúp vua Chủ An Dương Vương xây thành Cổ Loa vào đầu thời Đông Chu. Đổng Thiên Vương là người trấn phương Bắc (Huyền phương).
–    Cuối cùng là thánh mẫu Liễu Hạnh, thần chủ của Địa phủ trong Tứ phủ, có khả năng tái sinh nhiều lần, đắc đạo thánh thần tiên phật, nổi danh hiếu trinh từ ở thời Lê. Liễu Hạnh là người thành Nam (Nam Định), nắm giữ phương Nam.

Ba câu chuyện của nước Âu Lạc

Thời kỳ An Dương Vương trong lịch sử nước ta hiện nay đang được xem là “nửa thật, nửa hư”. “Thật” vì An Dương Vương đánh Hùng Vương, lập ra nước Âu Lạc, chấm dứt các “huyền thoại thời Hùng”. Lại còn có cả chứng tích là thành Cổ Loa do An Dương Vương xây dựng vẫn còn. “Hư” vì Thục An Dương Vương không hề được thư tịch cổ nào ghi chép ngoài các truyền thuyết Việt. Và hơn nữa, những câu chuyện về An Dương Vương có nhiều chi tiết thật khó hiểu khi so với chính sử hiện tại.

Thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc có 3 câu chuyện hay được kể đến. Thứ nhất là chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa sau khi thắng Hùng Vương. Thứ hai là mối tình ngang trái của Mỵ Châu – Trọng Thủy. Cuối cùng là chuyện Lý Ông Trọng được cử làm tướng Tần chống Hung Nô. Xem xét thời kỳ nước Âu Lạc của An Dương Vương không thể không đi tìm sự thật lịch sử của 3 câu chuyện này.

XÂY THÀNH CỔ LOA

Ai đã giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa? Có lẽ đến đứa trẻ học cấp 1 cũng biết đó là thần Kim Quy. Có ý kiến còn cho rằng thành Cổ Loa là thành Rùa, theo mô hình của Quy Thành xây bên nước Thục… Do đó Thục An Dương Vương là con cháu dòng Thục Khai Minh “thiên di” tới nước Văn Lang… Nhưng không hẳn vậy…

Điểm tất cả các di tích tín ngưỡng còn lại trong dân gian thì thần Kim Quy không được thờ ở đâu cả. Thay vào đó, người được thờ trong chuyện này là Huyền Thiên Trấn Vũ. Vị thần này không xa lạ gì vì đây là một trong Thăng Long tứ trấn mà Trấn Vũ quán là Quán Thánh ở đầu đường Thụy Khuê cạnh Hồ Tây bây giờ.

Nơi thờ gốc của Huyền Thiên là ở đền Sái tại làng Thụy Lôi, Đông Anh, gần thành Cổ Loa. Núi Sái tương truyền là có lối thông với núi Thất Diệu, nơi quỷ tinh Gà Trắng quấy nhiễu việc xây thành đã bị chém chết. Thậm chí cách đó không xa ở Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh còn có cả đền thờ Bạch Kê. Huyền Thiên đại thánh mới là người đã giúp An Dương Vương xây thành bằng cách cử thần Kim Quy đến giúp trừ yêu diệt quỷ.

Từ núi Thất Diệu đi thêm một đoạn, qua đò ngang dòng sông Cầu là tới làng Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang). Người được thờ làm thành hoàng ở Thổ Hà là Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử. Tương truyền Lão Tử đã tu hành, đắc đạo và “hóa” ở trang Thổ Hà. Nhưng kỳ lạ hơn thần tích Thổ Hà cho biết Lão Tử mới là người đã điều thần Kim Quy đến giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa.

Câu đối ở đình Thổ Hà:

Quy giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỷ
Long năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên.

Dịch:

Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỷ
Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên.

Như vậy Lão Tử là Huyền Thiên đại thánh, người đã giúp An Dương Vương xây thành ở núi Sái. Vào thời Đường, Lão Tử được tôn phong là Thái Thượng Lão Quân Huyền Nguyên hoàng đế. Do vậy Lão Tử được gọi là Huyền Nguyên hay Huyền Thiên ở các đạo quán.

Lão Tử, vị giáo chủ Đạo giáo của Trung Hoa sao lại có mặt ở nước Nam, lại còn giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa nữa. Chuyện này phải hiểu như thế nào?

Sách Lão Tử minh cho biết: Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.

Vùng ba sông – Tam Xuyên là đất của nhà Chu vì khi Tần diệt Chu đã lấy đất nhà Chu lập quận Tam Xuyên. U Vương là vị vua cuối cùng của nhà Tây Chu. Sau đó tới Chu Bình Vương, nhà Chu chuyển về Lạc Dương, bắt đầu thời kỳ Đông Chu.

Cơn địa chấn lúc giao thời Tây và Đông Chu trên chính là cái nền thật của chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa ở Việt Nam. Nhà Chu khi dời đô từ Tây sang Đông đã gặp một trận động đất lớn, Đông Đô Lạc Dương bị rung chuyển. Lão Tử nhân cơ hội đó bày đàn thờ ở núi Sái giả chuyện trừ yêu diệt quỷ của đời trước để răn dạy vua Chu. Câu đối ở đình Thổ Hà:

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Dịch:

Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng nắm chốn thanh hư, mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một truyền phép màu nhiệm, tạo thần tiên.

Thời là thời Đông Chu, còn đất là đất Nam Việt. An Dương Vương xây thành ở Đông Đô (tên cũ của Hà Nội) chính là thiên tử Chu của Trung Hoa. Đạo Giáo của Trung Hoa khởi đầu bởi Lão Tử – Huyền Thiên ở núi Vũ Đương (Võ Đang), là tên của núi Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh. Sự thần kỳ của Đạo Giáo chính là bắt đầu từ chuyện trừ quỷ tinh để xây thành cho Đông Đô.

MỴ CHÂU – TRỌNG THỦY

Một câu chuyện cười: Thầy giáo hỏi học sinh: “Ai đã đánh cắp nỏ thần của An Dương Vương”. Học sinh sợ hãi đáp: “Dạ, không phải em ạ!”…

Lẫy nỏ thần, vũ khí lợi hại mà thần  Kim Quy trao cho Thục An Dương Vương đã bị Trọng Thủy đánh cắp. Tuy nhiên, nếu hỏi Trọng Thủy là ai thì có lẽ cả các giáo sư ngày nay cũng phải lúng túng chứ nói gì đến các em học sinh.

Truyền thuyết kể Trọng Thủy là con trai của Triệu Đà đã cầu hôn con gái An Dương Vương là Mỵ Châu và xin ở rể. Họ Triệu đây là Triệu nào?

Ở thành Cổ Loa trong am thờ Mỵ Châu nay có bài thơ đề trên bảng gỗ:

Thành hoang khuất khúc xanh rì cỏ
Việc cũ đau lòng biết hỏi ai?
Tần Việt nhân duyên thành cập oán
Non sông vận kiếp tới mày ngài
Quyên kêu nước cũ trời sương muộn
Trai nở dòng băng biển biếc hay
Mờ mịt nỏ thần đâu biệt mất
Rùa vàng lầm lỡ tới ai đây.

Cụm từ “Nhân duyên Tần Việt” cho thấy Mỵ Châu là Việt, còn Trọng Thủy là Tần. Nhà Tần có họ Triệu, như Tần Thủy Hoàng tên Triệu Chính. Chuyện nhà Tần cho con trai đi ở rể trên đất Việt này là thế nào?

Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn lời bình của Ngô Sĩ Liên khi nói tới chuyện Nhã Lang – Cảo Nương thời Triệu Quang Phục: Đàn bà gọi việc lấy chồng là “quy” thì nhà chồng tức là nhà mình. Con gái vua đã gả cho Nhã Lang thì sao không cho về nhà chồng mà lại theo tục ở gửi rể của nhà Doanh Tần để đến nỗi bại vong?

Trong lịch sử nhà Tần thì chỉ có một chuyện “gửi rể” duy nhất là việc công tử Dị Nhân làm con tin ở đất Triệu, lấy nàng Triệu Cơ, thiếp của Lã Bất Vi… Câu chuyện Lã Bất Vi “buôn vua” nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa này chỉ là sự bịa đặt bóp méo sự thực về nhân duyên Tần Việt của chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy ở Việt Nam.

Nàng Triệu Cơ trong ngôn ngữ xưa được gọi là Châu Cơ. Như Đại Nam quốc sử diễn ca kể:

Bấy giờ gặp hội cường Tần
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam
Châu Cơ muốn nặng túi tham
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi.

Châu Cơ chính là nàng Mỵ Châu họ Cơ. Họ Cơ là họ của các vua Chu. Mỵ Châu là con gái vua Châu (Chu), rất rõ ràng.

Trọng Thủy là công tử Dị Nhân – Doanh Tử Sở, cháu của Tần Chiêu Tương Vương, đi ở rể ở nước Chu, bị tráo đổi thành ở nước Triệu. Tần Chiêu Tương Vương, người đã diệt nhà Chu năm 256 TCN, mới là Triệu Đà trong Truyện Rùa Vàng. Năm này cũng là thời điểm được xem là Thục An Dương Vương đánh Hùng Vương. Sử Việt đã chép gộp hai sự kiện: việc Thục Phán – Cơ Phát phát động chư hầu diệt Ân Trụ Vương và việc Tần Chiêu Tương Vương đánh Chu Noãn Vương, vị vua cuối cùng của nhà Chu. Sự kiện đầu mở màn cho cơ nghiệp thiên tử của nhà Chu. Sự kiện sau kết thúc vương triều này của Trung Hoa, kéo dài gần 1000 năm.

LÝ ÔNG TRỌNG

Dựa vào chuyện Lý Ông Trọng là tướng của An Dương Vương nhưng lại giúp Tần Thủy Hoàng trấn giữ Hung Nô mà các sử gia ngày nay cho rằng đã có một sự “hòa hoãn” giữa Thục Phán và Tần, để sau đó Thục Phán lãnh đạo nhân dân Việt trường kỳ kháng chiến, đã dành lại được nước Âu Lạc sau khi Thủy Hoàng mất…

Về cuộc tấn công của nhà Tần vào đất Việt sách Hoài Nam tử chép: Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người Tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư.

Quân trưởng Tây Âu Dịch Hu Tống là ai? Có người đoán đó là bố của Thục Phán (Thục Vương), để Thục Phán thành người Tuấn kiệt làm thủ lĩnh kháng Tần những năm này…

An Dương Vương hay Âm Dương Vương, chỉ vị vua đã làm nên Dịch học (Âm dương). Người tác dịch của Trung Hoa là Chu Văn Vương. Truyền thuyết Việt kể là Lang Liêu nghĩ ra bánh chưng bánh dày. “Bánh chưng báy dày” hay “bánh trăng bánh giời” là hình ảnh của trời tròn đất vuông, âm dương mà thôi.

Các vị vua Chu do vậy được gọi là An Dương Vương (Âm Dương Vương), là những người đã nắm bắt được Kinh Dịch (do thần Kinh Quy – Kim Quy trao tặng) mà cai quản cả thiên hạ Trung Hoa. Khi xác định vậy thì cái tên Dịch Hu Tống có thể được giải nghĩa như sau:

–          Hu = Hậu
–          Tống = Tông.

Dịch Hu Tống = Dịch Hậu Tông, nghĩa là dòng dõi cuối cùng của Dịch Vương. Quân Tần đã đánh diệt hậu duệ của Dịch Vương, tức là đánh Chu Noãn Vương, vị vua Chu cuối cùng ở thành Cổ Loa, “quân trưởng” của nước Âu Lạc.

Trở lại chuyện Lý Ông Trọng. Như đã trình bày ở trên, nhà Tần xuất phát từ hướng Tây (Thục) đánh nhà Chu ở hướng Đông (Đông Chu) nên sự kiện Tần diệt Chu còn được chép là An Dương Vương đánh Hùng Vương của nước Văn Lang (Lang Văn Cơ Xương). An Dương còn có nghĩa là “dẹp yên phương Đông” nên An Dương Vương ở đây chỉ nhà Tần. Lý Ông Trọng làm tướng của An Dương Vương, không phải là làm tướng cho nhà Thục (Chu) mà là cho nhà Tần, đúng như truyền thuyết đã kể. Ông Trọng đỗ Hiếu Liêm, được Tần Thủy Hoàng phong làm chức Tư lệ hiệu úy và gả con gái cho.

Sách Từ Nguyên viết: Nguyễn Ông Trọng đời Tần, người Nam Hải, thân dài một trượng ba thước, khí chất đoan dũng, khác với người thường. Vua Thủy Hoàng sai cầm quân giữ đất Lâm Thao, thanh thế chấn động Hung Nô. Ông Trọng chết. Vua sai đúc tượng đồng để ở của Tư Mã, coi giữ cung Hàm Dương.

Sách này không hề đả động gì tới Thục Phán hay Hùng Vương mà nói rõ Ông Trọng người Nam Hải làm tướng Tần ở đất Lâm Thao.

Đại Nam quốc sử diễn ca kể về Lý Ông Trọng:

Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân
Làm quan hiệu úy đem quân ngữ Hồ
Uy danh đã khiếp Hung Nô
Người về Nam quốc hình đồ Bắc phương.

Hung Nô trong khổ thơ này là từ tương đương với quân Hồ. Thực vậy, bởi vì khi dùng phép thiết thì Hung Nô thiết Hồ. Lý Ông Trọng trấn giữ quần Hồ, Hồ là người ở phía Nam nước Văn Lang (nước Hồ Tôn), tức là người Chiêm Thành sau này.

Ông Trọng sinh ra ở Từ Liêm. Từ Liêm thiết Tiêm hay Chiêm, đọc sai thành Chèm. Đức thánh Chèm (Lý Ông Trọng) như vậy là đức thánh Chiêm, chỉ rõ thành tích trấn giữ Chiêm – Hồ của Ông Trọng. Lâm Thao là Lâm Ấp, tức là miền Tây Bắc và Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay, chứ không phải ở tận Cam Túc.

Nơi đặt tượng Lý Ông Trọng là Hàm Dương. Hàm Dương thiết Hương. Làng Thụy Hương là quê của Lý Ông Trọng. Tượng của Lý Ông Trọng không đặt ở kinh đô của Tần mà ở làng Hương, tức là ở Chèm – Từ Liêm, bên bờ sông Hồng ngày nay. Phải đặt tượng ở đó thì uy danh mới khiếp quần Hồ – người Chiêm được.

Ba câu chuyện cổ của nước Âu Lạc đã ghi lại những sự kiện chính của thời kỳ Chu – Tần với những địa danh trên đất Việt. Có 2 An Dương Vương. Một là Thục An Dương Vương, hay Âm Dương Vương là vua Dịch học, tức là vua Chu. Vua Dịch học đầu tiên là Chu Văn Vương hay Lang Văn (Văn Lang). Chu U Vương – Chu Bình Vương xây thành Cổ Loa ở Đông Đô được sự trợ giúp của Lão Tử, bắt đầu thời kỳ Đông Chu. Dòng dõi Dịch vương cuối cùng bị Tần diệt là Dịch Hu Tống hay Dịch Hậu Tông là Chu Noãn Vương.

An Dương Vương thứ hai với nghĩa là vị vua đã dẹp yên phương Đông, chỉ nhà Tần. Trọng Thủy là con của vua Tần lấy nàng Châu Cơ – Mỵ Châu và ở rể trên đất của nhà Chu. Tần Chiêu Tương Vương diệt Chu, tới Tần Thủy Hoàng dời kinh đô về quãng giữa hai nhà Chu, ở gần biển hơn. Đó cũng là nơi giáp với người Chiêm Hồ (Hung Nô), nơi mà đại tướng nhà Tần là Lý Ông Trọng trấn giữ.

Hương Bổng Đổng Đằng

Văn bia đình Chèm do tiến sĩ Cao Dương Trạc (đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi năm 1715) chép: “Hương, Bổng, Đổng, Đằng là bốn vị tối linh của nước ta vậy.
Thường người ta nói đến Tứ bất tử Việt Nam là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh. Vậy còn “bốn vị tối linh” này là những ai, có thành tích gì mà nhân dân tôn làm “tối linh” thần?
Cũng tại đình Chèm, chủ đề tứ linh được đề cập khá nhiều, từ những bức chạm trên mái đình đến bài thơ trong chính điện:
Tu linh thiBức chạm Phượng hàm thư với bài Tứ linh thi ở đình ChèmBài Tứ linh thi chạm ở mái đình Chèm (tương truyền làm từ thời Cao Biền):
Thụy vật tương toàn hữu tứ linh
Hiếu bằng khắc họa kiến văn minh
Vũ mao lân giáp tề xưng trưởng
Kim bích đan thanh các tiếu hình
Bính nhĩ thần cung phương tích tại
Hoảng nhiên thánh thế mỹ tường trình
Phù trì thượng ngưỡng vô cùng đức
Tái tục phù ê vịnh thái bình.
Hoàng đồ củng cố

Dịch (theo sách Danh nhân Lý Ông Trọng với di tích và lễ hội đình Chèm, năm 2011):
Vật đẹp trong đời có tứ linh
Hãy xem khắc họa thấy văn minh
Cánh lông mai vảy cùng khoe đẹp
Vàng biếc son xanh đủ mọi hình
Rực rỡ cung thần lưu dấu tốt
Nguy nga đất thánh rạng điềm lành
Chở che ngưỡng vọng bền ân đức
Lại thấy chim ca khúc thái bình!
Giữ vững non sông

Thử lần theo dấu vết các đền thờ và truyền tích để xem tứ linh thần nước Nam là những ai.

Hương – Thụy Hương Lý Thân
Vị thứ nhất “Hương” thì khá rõ, chính là người được thờ ở nơi có văn bia trên, là đình làng Thụy Hương, tức là Lý Ông Trọng. Làng Thụy Hương không hiểu sao ngày nay lại chép thành Thụy Phương. Tên làng như vậy đã có, vậy cái tên Chèm hẳn chỉ một sự tích khác.
Trong bài trước đã nêu Chèm là từ đọc sai của Chiêm (Từ Liêm thiết Chiêm). Vị tối linh thứ nhất của nước ta là đức thánh Chiêm, người đã có công đánh giặc Chiêm Hung Nô – Hồ vào thời nhà Tần. Lý Ông Trọng có tên thánh là Hy Khang Thiên Vương. Hy là từ phiên thiết của Hoa Di. Hy Khang nghĩa là “Uy trấn Hoa Di”, như bức hoành phi trong đền Chèm còn lưu.
Bên cạnh công trạng lịch sử khá rõ Lý Ông Trọng còn có công … giúp Sơn Tinh đánh Thủy Tinh. Thần tích đình Chèm ghi việc Lý Ông Trọng chém thuồng luồng, là đại tướng của Thủy Tinh, ở đoạn sông Hồng chảy qua làng.
Hay trong bản thần tích bằng thơ đình Vật Lại Sự tích thánh tản viên diễn ca cũng kể về việc quân của Thủy Tinh khi tấn công Sơn Tinh đi qua Chèm đã ăn thịt mẹ Lý Ông Trọng. Do vậy Đức thánh Chèm nổi giận, chăng lưới đón lõng quân của Thủy Tinh:
Ông Chèm báo oán Long Vương
Lưới giăng ngăn khúc bến giang đón về.
Thuở ấy Long tộc Thủy tề
Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Khi quân Thủy Tinh bị Sơn Tinh đánh thua chạy rút về thì:
Thủy quân nẻo cũ quen về
Ngày sau tức thì đến xã Từ Liêm.
Tiên binh xung lưới ông Chèm
Ai hòa chẳng được càng thêm lo lường.
Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trả ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
Bủa vây mọi khúc biên giang
Rắn rồng bắt lấy bật ngang vào đồi.
Thủy Tinh buộc phải chạy trốn theo đường sông Hát mà ra biển, không dám qua sông Hồng nữa.
Đoạn sông Hồng gần Chèm nay còn có bãi bồi lớn giữa sông tên là Võng La, có lẽ nhắc tới tích Lý Ông Trọng giăng lưới bắt thủy quái ở đây.
Câu đối ở đình Chèm tóm tắt sự tích Lý Ông Trọng như sau:
Đồng ảnh khiếp cường di, chung cổ thần uy dương Bắc tái
Thiết la tiêu thủy quái, ức niên thánh lực hộ Nam bang.

Dịch:
Tượng đồng khiếp cường di, ngàn xưa oai thần vang ải Bắc
Lưới sắt trừ thủy quái, vạn năm sức thánh giúp nước Nam.

Thành tích trừ thủy quái của Lý Ông Trọng xem ra… không ăn nhập gì lắm với việc ông trấn quần Hồ thời Tần. Một đại tướng, phò mã của Tần Thủy Hoàng, một nhân vật lịch sử rõ ràng, lại có truyền thuyết gắn với Sơn Tinh – Thủy Tinh. Thật chưa hiểu thế nào…

Bổng – Phù Đổng Thiên Vương
Rà hết truyền thuyết, lịch sử Việt chẳng thấy có vị thần nào có tên hay sinh ra ở làng “Bổng” cả. Chỉ có mỗi Phù Đổng thiết Phổng. Âm “ph” và âm “b” có thể đổi cho nhau trong cổ âm (ví dụ phòng – buồng, phật – bụt) nên Phổng còn đọc là Bổng. Hoặc chữ Phù nếu đọc là Bồ thì Phù Đổng = Bồ Đổng thiết Bổng.
Phép phiên thiết cho thông tin: thần “Bổng” là Thánh Gióng. Làng Phù Đổng là làng Bổng ở Tiên Du xưa. Gọi là Bổng vì Thánh Gióng mới 3 tuổi, ăn cơm cà của làng mà lớn “phổng”, nhanh như thổi, cưỡi ngựa sắt đánh giặc Ân ở Vũ Ninh. Thắng giặc ngài bỏ mũ áo lên núi Sóc Sơn rồi bay… “bổng” về trời…
Đúng là từ Thánh Gióng đã mở ra một thời đại “bay bổng” tuyệt vời của người Việt. Cùng với Ninh Vương Cơ Phát (Vũ Ninh) mở đầu nhà Chu kéo dài thiên thu, hình thành nền tảng văn hóa xã hội Trung Hoa rực rỡ.
Câu đối ở đền Phù Đổng:
Kiếm mã phấn Vũ Ninh, Hùng Lạc sơn hà kinh tái tạo
Miếu đình sâm Tiên Phổ, Viêm Giao vũ trụ ngưỡng dư linh.

Dịch:
Gươm ngựa động Vũ Ninh, Hùng Lạc non sông gây dựng lại
Sân miếu quang Tiên Phổ, Viêm Giao trời đất ngưỡng oai linh

Tiên Phổ ở đây là huyện Tiên Du.
Ngu monĐền Phù Đổng ở Bắc NinhĐổng – Huyền Thiên Trấn Vũ
Nếu “Bổng” là Phù Đổng thiên vương thì “Đổng” là ai?
Đền Bộ Đầu ở bên sông Hồng thuộc Thường Tín – Hà Nội hé lộ thân thế của vị thần này. Đền này tương truyền thờ Đổng Sóc thiên vương nhưng lại với những ghi chép sự tích hoàn toàn khác vị Phù Đổng thiên vương đánh giặc Ân ở trên. Thần tích kể có người đàn bà trong làng ra bờ sông gánh nước, bị thuồng luồng lôi tuột xuống sông. Bỗng thấy người con từ trên trời sà xuống cứu mẹ, giẫm chết hai con thuồng luồng. Người con cũng hóa luôn, để lại trên bờ sông một vết chân to lớn. Vì thế nên gọi là xã Bộ Đầu.
Den Bo DauĐền Bộ ĐầuVết chân lớn của thánh cũng gặp trong truyền thuyết Phù Đổng ở Tiên Du, mẹ Gióng đi làm đồng giẫm phải dấu chân lớn về nhà có mang sinh ra Thánh Gióng… Còn chuyện giết thuồng luồng trả thù cho mẹ thì đã gặp trong chuyện của Thánh Chèm ở trên.
Nay ở đền Bộ Đầu còn bức tượng đất nung của thần Đổng cao 7-8 mét, một tay cầm long đao, một tay cầm mộ tháp mẫu thân, chân giẫm giao long. Trước đây đền có mái cao, mở như gác chuông, đứng từ bến sông có thể chiêm ngưỡng được tượng thánh oai phong lẫm liệt, đang hướng mắt nhìn ra sông Hồng.
Câu đối ở đền Bộ Đầu:
Tự đa đào chú thành chân tượng
Trực thướng phi thăng sính dị long.

Dịch nghĩa:
Đúc bằng đất nung thành chân tượng
Bay từ trời xuống giết dị long.

Dong thien vuongTượng đất ở đền Bộ Đầu
Có thể thấy chữ Đổng ở đây là chỉ sự to lớn của thần. Thần Đổng là vị thần khổng lồ. Đổng là chép từ “Đùng” của tiếng Nôm.
Chữ Đổng 董 và chữ Trọng 重 viết và đọc gần như nhau nên chắc một phần sự tích của thần Đổng đã chép sang thành của thần Hương (Lý Ông Trọng). Từ đó mới có chuyện Lý Thân người to lớn, cao hai trượng, dày mười gang … Ông Trọng là mang nghĩa kính trọng, vì là đại tướng phò mã nhà Tần, chứ không phải nghĩa là to lớn về hình thể.
Phần khác vì chữ Đổng nằm trong phiên thiết của Phù Đổng nên sự tích ông Đổng lại lẫn nốt vào sự tích của thần Bổng Thánh Gióng.
Theo thần phả đền Bộ Đầu, thủa ấy, ở động Xích Thủy do Hùng Vương trị vì có thần tướng Đằng Xà nổi lên cướp bóc suốt từ rẻo Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa đến Thái Nguyên. Quân giặc được mô tả mặt thú hình yêu, đầu rắn mặt cá… như là hiện thân của những cơn lũ và những loài thủy quái làm hại dân lành.
Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa đến Thái Nguyên” là địa bàn trấn giữ giặc Hồ của Lý Thân (đất Lâm Thao). Thần tích này đã chép lẫn chuyện của Thánh Chèm vào đây. Tuy nhiên thần tích đền Bộ Đầu cho thấy rõ thần Đổng như vậy là một vị thần trị thủy, diệt thủy quái.
Lạ hơn nữa thần phả ở đền Bộ Đầu có tên “Bộ Đầu linh từ sự tích Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh, Thành hoàng nhất vị“. Các sách cũ (theo Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Ngô Đức Thọ) đều cho rằng đền này thờ Huyền Thiên Đại Thánh chứ không phải Phù Đổng thiên vương.
Nằm đối diện bên kia sông Hồng có Trấn Vũ quán ở thôn Ngọc Trì – Thạch Bàn – Gia Lâm. Ở đó thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, người có công giúp An Dương Vương dẹp yêu quái xây thành Cổ Loa. Nhưng ở đây Huyền Thiên lại là vị thần chuyên thu phục yêu quái các sơn thủy động, “trấn qui xà”. Tượng Huyền Thiên ở Ngọc Trì làm bằng đồng to lớn nặng tới 4 tấn…
Huyen ThienTượng đồng Huyền Thiên ở Ngọc Trì – Gia Lâm
Thì ra thần Đổng có thân hình, dấu chân to lớn, có công trừ yêu, trấn thủy quái chính là Huyền Thiên, tức là Lão Tử. Vị tổ của Đạo Giáo này thì rõ là phải giỏi nghề hàng yêu phục quỉ, nổi bật nhất là khiển thần Kim Qui giúp Thục An Dương Vương diệt yêu gà trắng Bạch Kê Tinh xây thành Cổ Loa.
Đằng – Vua Mây họ Phạm
Vị thần Đằng ở Kim Động tưởng là rõ nhưng cũng nhiều tồn nghi. Lĩnh Nam chích quái chép nguyên một chuyện về vị thần xứ Đằng Châu hiển linh trước nhà vua làm nửa sông mưa, nửa sông tạnh… Các sách chép không giống nhau là thần đã hiển linh với vị vua nào, chỗ là Lý Thái Tổ, chỗ là Lý Thái Tông, chỗ lại là Lê Long Đĩnh. Sự lộn xộn này nay cũng sáng tỏ vì Lý Thái Tổ cũng chính là Lê Long Đĩnh – Đinh Bộ Lĩnh (Long Đĩnh thiết Lĩnh).
Den vua MayĐền vua Mây ở Hưng YênĐền Đằng Châu ở Kim Động còn gọi là đền Vua Mây, thờ sứ quân Phạm Phòng Ất (Phạm Bạch Hổ) thời Đinh Tiên Hoàng. Nhưng theo tộc phả họ Phạm:
Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân – Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là Ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu (gọi là xứ Lâm Ấp) – tức là Nam Trung bộ ngày nay…
Như vậy nếu thần Hương là Lý Thân thì thần Đằng phải là Phạm Duy Minh. Có thể Phạm Duy Minh cũng chính là sứ quân Phạm Phòng Ất vì thời 12 sứ quân Việt Nam chỉ là bản chép của thời Chiến Quốc. Khai thiên trấn quốc Đằng Châu họ Phạm có thể là tướng trấn giữ vùng phía Đông ven biển thời nhà Tần. Con cháu họ Phạm sau này kế nghiệp trấn giữ vùng duyên hải ven biển miền Trung (Lâm Ấp).
Hương, Bổng, Đổng, Đằng – bốn vị tối linh của nước ta là 4 vị tướng có công lớn vào thời Chu Tần (Văn Lang – Âu Lạc):
Hương là Lý Thân, đại tướng phò mã trấn Chiêm Hồ của nhà Tần.
Bổng là Thánh Gióng, người cùng Chu Vũ Vương đánh Trụ dẹp Ân.
Đổng là ông khổng lồ Huyền Thiên Lão Tử, người giúp vua Chu dời đô từ Tây sang Đông về Lạc Ấp Cổ Loa, chuyên nghề trừ yêu diệt quái.
Đằng là vị họ Phạm, trấn giữ vùng ven biển, giỏi chuyện hô mây gọi gió.
Từng đoạn, từng sự tích của các vị này bị chép lẫn vào nhau, dẫn đến mỗi nơi chép một kiểu, người này nhầm vào người kia.
Tu linhBức chạm tứ linh ở đền ChèmNếu xét về phương hướng thì:
Hương là thần trấn phương Tây như Lý Thân giúp Tản Viên Sơn Thánh hay màu trắng trong tên Bạch Tĩnh công chúa. Hướng Tây có linh vật là chim phượng, nên thánh có tên là Chèm (Chim – Chiêm), người làng Hương thơm (Thụy Hương), rất giỏi chữ nghĩa, đỗ Hiếu liêm, đọc Tả truyện Xuân thu, … Đây rõ là một “văn tướng”, còn cái phần “khổng lồ” của Ông Trọng là chép nhầm từ ông Đổng mà ra.
Bổng là thần trấn phương Nam ngày nay, hướng Sóc phương của núi Sóc, nơi thần hóa. Bổng cũng là tính chất nhẹ, bay của phương Nam (như các từ “bốc”,”bức”). Phương Nam có linh vật là con Ly hay con Hổ (Hỏa). Thánh Gióng rõ là một Hổ tướng, cưỡi ngựa sắt phun ra lửa (hỏa)…
Đổng (Đùng) là thần trấn phương Bắc màu đen của Huyền Thiên. Linh vật là còn rùa, rất rõ trong hình ảnh của Huyền Thiên Trấn Vũ trấn qui xà, cử thần Kim Qui tới giúp An Dương Vương trừ yêu quái…
Đằng là thần trấn phía Đông ven biển, trong chuỗi liên hệ Đằng -> Đường -> Thương, Thương là tính chất từ ái của phương Đông, là màu xanh (Thanh). Linh vật phương Đông là con rồng, có tài cưỡi mây phun mưa. Vua của Mây thì chính là rồng…
Cả bốn vị tối linh Hương Bổng Đổng Đằng đều có thân thế sự nghiệp được ghi rõ trong Lĩnh Nam trích quái. Truyền thuyết Việt đúng là những câu chuyện “cổ tích”, tức là dấu tích của chuyện cổ, của lịch sử thật sự…

Huyền Thiên Trấn Vũ

Truyện Rùa vàng trong Lĩnh Nam chích quái chép:
“(An Dương Vương) xây thành ở đất Việt Thường, nhưng hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy, vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo. Ngày mồng 7 tháng 3, bỗng thấy một cụ già từ phương đông tới trước cửa thành, than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ mới xong được!”. Vua đón vào trong điện, vái và hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã nhiều lần nhưng cứ bị sập đổ, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?”. Cụ già đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới, cùng nhà vua xây dựng mới thành công”, nói xong từ biệt ra về…
Đối chiếu với thần tích và các câu đối ở đình Thổ Hà có thể thấy “cụ già” từ phương đông tới giúp An Dương Vương ở đây chính là Lão Tử. “Cụ già” mà đọc bằng tiếng Nho thì rõ ràng là Lão Tử.
Lão Tử không phải là “ông lão” nhưng lại là “trẻ con”, mới sinh ra mà râu tóc đã bạc phơ như vẫn được giải thích. Lão = Lửa, là ánh sáng, là trí tuệ. Lão Tử nghĩa là người thông tuệ, hiểu biết.
Thường Lão Tử hay được vẽ cưỡi trên lưng trâu. Nếu Lão Tử xuất xứ ở tận bên bờ Hoàng Hà thì chắc ông phải cưỡi … bò mới đúng. Người phương Bắc không có trâu đến nỗi trong mười hai con giáp phải thay bằng con bò (hoàng ngưu). Hình ảnh Lão Tử cưỡi trâu cho thấy ông là người của nền nông nghiệp lúa nước. Trâu = Sửu = Thủy = Lạc. Lão Tử người Lạc Việt.
Con trâu theo Dịch lý là biểu tượng của sự tòng thuận. Đó cũng là chỗ cốt yếu của Đạo Lão, thể hiện trong Đạo Đức kinh:
Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên.”
Câu chuyện về Lão Tử ở Việt Nam không dừng lại ở đó. Trong truyền thuyết Việt thì người đã cử Kim Qui tới giúp vua Thục là … Huyền Thiên. Vị thần này đã được lập thành một trong Thăng Long tứ trấn ở Quán Thánh cạnh Hồ Tây ngày nay. Quán là nơi thờ cúng của Đạo Giáo. Câu đối ở đền Quan Thánh:
Đĩnh nhạc độc chước chung, tố An Dương ngật Đinh Lê Lý Trần Lê, hộ quốc tí dân tinh linh cái cổ
Trung thiên địa nhi lập, đương Chu Tần lịch Hán Đường Tống Nguyên Minh, siêu nhân nhập thánh thanh tích truyền kim.
Dịch:
Một ngọn núi vượt lên, ngược từ An Dương tới Đinh Lê Lý Trần Lê, giúp nước che dân, linh thiêng bao trùm thời cổ
Cùng trời đất mà thành, ngang thời Chu Tần sang Hán Đường Tống Nguyên Minh, hóa thần nhập thánh, tiếng tích còn truyền tới nay.
Nhà Đường mở đầu triều đại đã tôn Lão Tử là Thái Thượng Huyền Nguyên hoàng đế, coi là thủy tổ của mình. Có thể thấy Huyền Nguyên và Huyền Thiên chỉ là một. Huyền Thiên Trấn Vũ của Thăng Long cũng chính là Lão Tử, là tên xưng khi nhà Đường tôn lập vị tổ sư này của Đạo Giáo mà thôi. Huyền Thiên Trấn Vũ không phải là vị thần “ngoại quốc” chen chân vào truyền thuyết Việt, mà ông chính là người Việt.
Trong phần chép về gốc tích Quán La ở Hồ Tây sách Tây Hồ chí có viết: “Quán ở trên một gò lớn nhất trong bảy gò Thất Diệu, bên con sông nhỏ thuộc động Già La. Quán thờ Huyền Nguyên đại đế, tức Thái Thượng Lão Quân. Khoảng giữa niên hiệu Đường Khai Nguyên …”.
Truyền thuyết về Huyền Thiên tại làng Ngọc Trì – Gia Lâm:
Ngài giáng sinh vào vương quốc Tĩnh Lạc, hoàng hậu đặt tên là Huyền Nguyên, năm 14 tuổi vào núi Vũ Đương tu hành, tới năm 42 tuổi thì đắc đạo”.
Ở đây gọi rõ tên thần là Huyền Nguyên, là tên nhà Đường tôn cho Lão Tử. Vương quốc Tĩnh Lạc theo sách Tử Quang Kínhlà nơi tiên ở, nằm giữa biển phía Tây nước Nguyệt Chí …”. Thời Đường, vương quốc ở phía Tây biển thì chỉ có… đất Tĩnh Hải Lạc Việt mà thôi. Lại một lần nữa cho thấy Huyền Thiên – Lão Tử là người Lạc Việt.
Câu đối ở đền Quán Thánh ở Hồ Tây (Hà Nội):
Vũ Đương sơn thạch luyện hà niên, sắc tướng câu không, chân thân thượng tại
Huyền Thiên quán vân du thử nhật, tiên tung ngẫu kí, linh tích trường lưu.
Dịch thơ:
Núi Vũ Đương năm xưa luyện đá
Mặc hình nhan thân cả ở cao
Mây bay Huyền quán ngày nào
Dấu tiên chợt hiện, biết bao giờ mờ.
Quả núi Vũ Đương hay Võ Đang chẳng phải là ngọn “Thái sơn” của Đạo Giáo đó hay sao? Núi Vũ Đương không ở đâu xa tận Hồ Bắc Trung Quốc mà … ở ngay chính nơi có sự tích về Huyền Thiên, tại làng Thụy Lôi – Đông Anh – Hà Nội.
Vũ Đương cung khuyết tăng tiên giới
Âu Lạc sơn hà tráng đế cư.
Dịch:
Cung khuyết Vũ Đương cửa lên tiên giới
Non sông Âu Lạc thêm vững đất vua.
Núi Võ Đang ở Hồ Bắc mới là “hàng nhái”, là nơi thờ vọng Huyền Thiên, mới có vào thời Nguyên mà thôi.

NgumonNgũ môn đền Sái

Ngọn núi Vũ Đương ở Đông Anh còn có tên là núi Sái (Sái = Thái, chứ không phải sư sãi gì cả). Trên núi có đền Sái hay “Huyền Thiên đại quán”, là nơi có các dấu vết của Huyền Thiên tu luyện (ao tiên, giếng tiên, dấu ngựa tiên). Núi này nối với núi Thất Diệu, nơi Huyền Thiên giúp vua Thục diệt Bạch Kê tinh xây thành Cổ Loa.
Diệu Lĩnh Loa Thành linh tích thiên niên truyền tín sử
Tiên trì mã tích sùng từ nhất thốc trấn hoàn âu.
Dịch:
Núi Diệu thành Loa, dấu linh nghìn năm truyền sử sách
Ao tiên dấu ngựa, đền cao một ngọn trấn đất vua.
Vũ Đương có thể hiểu là “vua sống” hay “ngang hàng với vua”. Huyền Thiên là một vị thần rất được các vua chúa phong kiến thời xưa coi trọng. Ở làng Thụy Lôi tới nay hàng năm vẫn tổ chức hội rước “vua sống” đến bái yết Huyền Thiên tại đền Sái. Thời phong kiến mà lại cho người dân được đóng làm vua thì mới thấy vị thần thờ ở đây được nhà nước phong kiến xem trọng như thế nào. Bởi vì Huyền Thiên chính là Huyền Nguyên hoàng đế, là Thái Thượng Lão Quân (tức là còn trên cả Thái Thượng Hoàng, bố của vua), là tổ của họ Lý (Đường). Lý Công Uẩn khi lên ngôi cũng đến đền Sái và rước Huyền Thiên về làm Trấn Vũ cho kinh thành có thể cũng vì coi Huyền Thiên Lão Tử là tổ của mình.
Câu đối ở đình Thụy Lôi:
Hà nhạc an dân, kê sùng tận quỉ tinh trừ, bái giang sứ
Thục Ngô kiến quốc, Loa thành thụ xuân hội trí, tạ sơn thần.
Dịch:
Núi sông yên dân, gà trắng chết quỉ tinh trừ, bái Thanh Giang sứ
Thục Ngô dựng nước, Loa thành đắp hội xuân bày, tạ Cao Sơn thần.
(Ngô ở đây có thể là Ngô Quyền, cũng đóng đô ở Cổ Loa).
Ngọn núi Sái (Thái Sơn) hay Vũ Đương ở Đông Anh gắn với truyền tích Lão Tử – Huyền Thiên giúp vua Thục diệt Bạch Kê Tinh ở Thất Diệu, xây thành Cổ Loa. Đây phải được coi là một nơi cực kỳ linh thiêng với người Hoa Việt vì chính là nơi khởi sinh Đạo Giáo của phương Đông. So với đền Gióng và tục thờ Phù Đổng Thiên Vương thì đền Sái với tục rước vua sống và thờ Huyền Thiên phải xứng đáng được nhận danh hiệu “di sản văn hóa thế giới”. Đạo Giáo là tín ngưỡng gốc của toàn bộ văn hóa Trung Hoa xưa, có xuất xứ chính từ Việt Nam.

Lão Tử hóa … Việt kinh

Dinh Tho Ha
Đình Thổ Hà – xã Vân Hà – Việt Yên – Bắc Giang

Bên bờ sông Cầu, quê hương của những làn điệu quan họ, di sản văn hóa thế giới, có một ngôi đình làng cổ nổi tiếng. Đình Thổ Hà đã có trong danh sách xếp hạng di tích của Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thời Pháp. Đình này nổi bật bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc rất tinh xảo của xứ Kinh Bắc. Có điều khi xem đến vị thành hoàng được thờ ở đây thì mới thực sự là điều bất ngờ. Thành hoàng làng Thổ Hà tên là … Lão Tử, Thái Thượng Lão Quân. Trích thần tích chép từ văn bia Cung sao sự tích thánh tại  đình:
Đời vua Thục An Dương Vương phả lục chép rằng có một vị đại vương cấp bậc Thượng đẳng thần thuộc bộ Càn Hào. Sau khi Hùng Vương thứ 18 mất ngôi, vua An Dương Vương nối ngôi. Có một người từ Bắc quốc đến đạo Kinh Bắc, phủ Bắc Hà, huyện An Việt và ở nhờ chùa Đoan Minh Tự của trang Thổ Hà. Ngày đêm giảng kinh đọc sách, có sức màu nhiệm như thần, trong trang có nhiều con em theo học.
Một hôm Người bảo học trò rằng: ta sinh ra từ thủa Hồng Mông, trời đất mới mở mang, cho nên ta thông minh khác thường. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng giêng năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng.
Quanh vùng nơi ở của người không ai xảy ra tật bệnh, nên người trong trang thường bảo nhau rằng: đó là khí sinh thánh tổ, chẳng phải người thường, các nơi cũng đến xin làm thần tử. Từ đó danh vang thiên hạ, người đến theo học càng đông. Lúc bấy giờ trong nước có giặc Quỷ mũi đỏ, một vị quan thị hầu vua bị bệnh ngã nhào xuống đất và sau đó bệnh tật lan khắp mọi nơi, trong nước nhiều nơi mắc bệnh, người ốm người chết thiệt hại rất nhiều. Nhà vua vội truyền hịch đi các nơi: nếu ai trừ được giặc Quỷ vua sẽ gia phong tước lộc. Lão Tử liền vâng mệnh đến nơi có giặc Quỷ, người liền niệm chú rằng: “Đạo pháp bản vô đa, nam thần quán Bắc Hà, đô lai tam thất tự, tận diệt thế gian ma”. Đọc chú xong, Người lại thư phù vào gậy trúc và phóng đi bốn phương, các nơi đều yên ổn.
Quan địa phương tâu với triều đình, vua liền mời Lão Tử đến ban thưởng, mở tiệc khoản đãi và phong người là Đệ nhất nhân (người tài nhất). Lại cho ngài được hưởng thực ấp ở vùng An Việt huyện. Người bái tạ đức vua và trở về Thổ Hà trang. Về tới nơi Người liền cho xây dựng cung doanh trị sở. Khi xây xong Người cho mời các bô lão trong trang và tất cả học trò đến mở tiệc ăn mừng. Lúc sắp sửa ăn bỗng thấy đám mây năm sắc từ từ sa xuống đất, trong mây thấp thoáng có bóng người mặc áo đỏ, Lão Tử liền theo đám mây cưỡi rồng đỏ mà biến mất. Bấy giờ là năm Giáp Tý ngày 22 tháng 2 (đời vua An Dương Vương) Người đã hóa…
Mặc dù thần tích không hề nói Thái Thượng Lão Quân của làng Thổ Hà là Lão Tử nổi tiếng của Trung Hoa, nhưng tên của vị thành hoàng này hoàn toàn trùng với tên Lý Lão Đam – Lý Bá Dương. Lão Tử Trung Hoa lập công nghiệp rồi hóa thần ở Việt Nam, chuyện này phải giải thích sao đây?
Xem vào câu đối cổ trong đình Thổ Hà:
Đẳng Thích Già nhân tế quần sinh, phật pháp thiên cổ / thần tiên thiên cổ
Dữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh / Đạo Đức nhất kinh.
Dịch:
Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, phật pháp nghìn đời kiếp / thần tiên nghìn đời kiếp
Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một bộ kinh / Đạo Đức một bộ kinh.
Câu đối này dùng hình thức trình bày khá hiếm gặp. Trong một vế đối có đoạn được tách làm 2 một cách song song. Hình thức và nội dung này nêu bật quan niệm Tam giáo đồng nguyên: Đạo giáo của Lão Tử, Nho giáo của Khổng Tử và Phật giáo của Thích Ca sánh cùng nhau, song hành trong dân gian.
Một câu đối khác:
Huyền tham Thích điển công tỉ Vô Sơn, Đạo Đức nhất kinh truyền chí bảo
Quyết bản Khương công thuật khai Hoàng Thạch, thần tiên chung cổ hiển linh tung.
Dịch:
Huyền diệu vào tích Thích Ca, công đức như núi Vô Sơn, Đạo Đức kinh một bộ truyền báu vật.
Phù quyết gốc từ Khương Công, pháp thuật mở tảng Đá Vàng, thần tiên tự cổ xưa sáng dấu linh.
Câu đối nói tới sự hiện diện của Lão Tử trong phật điển. Đây là truyện “Lão Tử hóa hồ kinh”, kể rằng Lão Tử sau khi xuất quan ải đã đi sang Ấn Độ mở đầu phật giáo ở đó. Chuyện “Lão Tử hóa hồ” đã là đề tài tranh cãi của hai phái Đạo và Phật trong nhiều thời đại.
Vế sau ở câu đối trên còn nêu một điển tích khác, nói tới pháp thuật của Khương Thái Công Lã Vọng, người giúp Chu Vũ Vương nên nghiệp thiên tử ngàn năm. Khương Thái Công sau lại hóa hình là Hoàng Thạch Công, truyền sách binh pháp cho Trương Lương phò trợ Lưu Bang lập nhà Hiếu (Sử ký).
Qua những câu đối trên thì không còn nghi ngờ gì nữa: vị thành hoàng thờ ở Thổ Hà chính là Lão Tử, người mở đầu Đạo giáo, viết Đạo Đức kinh, cùng Khổng Tử dựng nên nền văn hóa tín ngưỡng Trung Hoa xưa. Thực ra đình Thổ Hà không chỉ là đình của làng mà đây là nơi từng được xuân thu quốc tế, tức là Thái Thượng Lão Quân ở đây là một vị thần mang tầm quốc gia của các triều đại Việt Nam xưa.
Theo Hoa sử thì Lão Tử sống muộn lắm cũng là vào đầu thời Đông Chu (thời Xuân Thu). Nhà Chu bị Tần Chiêu Tương Vương diệt vào năm 256 TCN. Còn nhà Thục của Việt Nam theo sử sách chép sớm lắm cũng chỉ bắt đầu từ năm 257 TCN. Từ thời Xuân Thu tới thời Thục An Dương Vương có cả vài trăm năm. Vậy làm thế nào Lão Tử của nhà Chu lại có thể giúp vua Thục ở nước Việt trừ yêu dẹp quỉ được?

Nam VietDong Chu

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.
Vế đầu câu đối trên cho biết Lão Tử, người mở đạo Giáo sống vào thời “Đông Chu” của Hoa sử. Còn vế dưới lại nói rõ “Nam Việt” là nơi “duy thử địa”, vùng đất duy nhất mà Lão Tử đã hóa thần tiên. Kết hợp hai vế đối này thì chỉ có cách hiểu hợp lý duy nhất là: nhà Chu của Hoa sử chính là nhà Thục của Nam Việt. Chỉ có vậy mới có thể giải thích vì sao Lão Tử Trung Hoa lại có mặt trong một triều đại ở Việt Nam.
Xem lại tiểu sử của Lão Tử được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên, nguyên văn như sau:
Lão tử giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử…
Thường được dịch là:
Lão Tử là người thôn Khúc Nhân, làng Lệ  huyện Khổ, nước Sở. Ngài họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy là Đam. Làm quản thủ thư viện nhà Chu. Khổng Tử đến Chu, hỏi Lão Tử về lễ…
Phần dịch trên đã không theo sát nguyên văn về quê hương của Lão Tử. Sử ký chép “Lão Tử người huyện Sở Khổ”, chứ không hề nói Lão Tử là người nước Sở. Đọc phần tiếp theo, Lão Tử “làm quản thủ thư viện nhà Chu”. Nhà Chu là thiên tử, là triều đại chính của thời Lão Tử nên trong đoạn văn không cần nêu “trong triều Chu” thì vẫn phải hiểu Lão Tử là người nước Chu, huyện Sở Khổ. Vì Lão Tử ở nước Chu nên Khổng Tử mới đến Chu tìm gặp.
Một sách khác là Lão Tử Minh chép về xuất xứ của Lão Tử, nguyên văn như sau:
Lão tử tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên.
Dịch:
Lão Tử tính Lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ. Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng này là một khu đất cao cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân tài đức.
Tương tự như Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử Minh cũng không nói Lão Tử người “Sở quốc” mà nói Lão Tử người “Sở Tương huyện”. Câu tiếp theo ở xuất xứ này lại một lần nữa nói tới nhà Chu. Rõ ràng phải hiểu Lão Tử là người nước Chu ở huyện Sở Tương.
Đoạn trên trong Lão Tử Minh còn có nói “Sở tự xưng vương”, thế mà “huyện Tương” lại “trở nên hoang vu”? Nước Sở xưng vương thì huyện Tương nước Sở phải thịnh vượng mới đúng chứ sao lại trở nên hoang vu?… Huyện Tương hoang vu bởi vì huyện này không nằm ở Sở, mà nằm ở Chu.
Chữ Sở trong Sở Khổ hay Sở Tương huyện có thể chỉ là từ chỉ phương hướng: Sở = Sủy = Thủy = nước là tượng của phương Bắc ngày nay. Như vậy lai lịch của Lão Tử theo Sử kýLão Tử Minh trùng với thần tích của đình Thổ Hà về việc có một nhà hiền triết đến từ phương Bắc. Mạnh dạn hơn nữa, có thể Sở Khổ hay Thủy Khổ phiên thiết cho chữ Thổ, chính là Thổ Hà, tên làng thờ Lão Tử ngày nay. Làng này có con sông Cầu chảy qua đúng như sách Lão Tử Minh chép.
Câu đối ở đình Thổ Hà:
Do Chu ngật kim, nhất kinh truyền đạo đức
Tại hà chi tứ, vạn cổ chấn anh linh.
Dịch:
Từ thời Chu tới nay, một bộ kinh truyền đạo đức
Cạnh sông Cầu bên bến, chục ngàn đời chấn linh thiêng.
Về hàng trạng của Lão Tử trong Lão Tử Minh chép:
Lão tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương.
Dịch:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.
Nhà Chu có vùng Tam Xuyên (ba sông) như trong sách dẫn trên. Tam Xuyên là đất Đông Chu, nơi Tần Thủy Hoàng sau khi diệt Chu đã lập quận Tam Xuyên. Nhưng: Tam Xuyên = Tam Giang. Tên này còn lưu trong tên thánh Tam Giang, tức Trương Hống – Trương Hát, hai vị thần bên dòng sông Như Nguyệt, con sông chảy qua làng Thổ Hà.
Thần tích ở đình Thổ Hà về Lão Tử:
Vua (Thục An Dương Vương) xây thành (Cổ Loa) có những u hồn và tà ma quấy nhiễu, cứ xây xong lại đổ. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo vua rằng: xin vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi Người sai Thanh giang sứ (tức thần Kim Quy) đến giúp, giết Bạch kê tinh trong núi Thất Diệu, lại đào được hài cốt Bạch kê đem đốt đi, từ đó yêu ma tan hết, lại đào thấy nhạc khí thời cổ (như chiêng trống đồng).
Có thể thấy truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa và cơn “địa chấn” lúc giao thời Tây – Đông Chu chỉ là một. Diễn biến việc này có thể như sau: Lão Tử sống vào cuối thời Tây Chu (Chu U Vương) sang tới đầu thời Đông Chu. Khi nhà Chu chuyển về phía Đông, tới vùng Tam Xuyên – Tam Giang, thì gặp trận động đất lớn. Thanh lang thành (Lạc Dương) bị rung chuyển. Lão Tử nhân đó nói là âm khí của thời Hạ Thương phát hại, nhằm răn khuyên thiên tử Chu. Truyền thuyết Việt chép thành vua Thục (vua Chủ) xây thành Cổ Loa bị đổ, phải nhờ Lão Tử phái Thanh Giang sứ giả (Thương sứ) tới giúp dẹp yêu quỉ thì thành mới xây được.

Cua vong

Cửa võng đình Thổ Hà

Câu đối ở cửa võng đình Thổ Hà:
Qui giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỉ
Long năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên.
Dịch:
Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỉ
Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên.
Thần tích, câu đối trong dân gian Việt chính là những “bộ kinh” còn truyền thiên thu về lịch sử Hoa Việt chói ngời. Nhà Chu từ lúc Khương Thái Công câu cá bên sông … Tô Lịch,  Chu Vũ Vương cùng … Thánh Gióng đánh giặc Ân, tới Lão Tử người … “huyện Thổ Hà” khai mở Đạo giáo, Chu Bình Vương dời đô về Cổ Loa… Tất cả đều còn lưu trong bia đá, bia gạch, bia gỗ, bia giấy, bia miệng … ở Việt Nam.

Văn nhân góp ý:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu, kinh đô phía đông nhà Chu gọi là Đông đô. Đông đô là tên gọi khác của Hà thành … vì thế … mới có …
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.