Đánh Tây Âu bắt Dịch Hu Tống Rể Lạc Ấp diệt quốc Đông Chu.
Thiên hạ của nhà Thục khởi từ Thục chủ Âu Cơ, lập bởi Thục Phán Hùng Quốc Vương, chia đất nước làm 15 bộ, phân trăm anh em cùng bọc đồng bào ra trấn giữ trăm nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, quan lang thổ tù phụ đạo, phò trợ Thiên tử giữ một Thiên hạ an bình. Nước Văn Lang trải qua thời kỳ Tây Thục đô đóng ở đất Âu – Ai Lao, Đông Thục xây thành tại Lạc ấp. Huyền Thiên Lão Tử cưỡi trâu đề cao Đại Đạo. Vạn thế sư biểu Khổng Tử đúc kết Ngũ Kinh. Cửu đỉnh từ thời Kinh Dương Vương là bảo vật truyền quốc đặt ở thế miếu nhà Thục, tượng trưng cho quyền lực vô song của Thiên tử với Thiên hạ họ Hùng. 800 năm vương triều Thục truyền đến Chu Noãn Vương.
Bấy giờ gặp hội cường Tần Tằm ăn lá Bắc toan lần cành Nam.
Tần quốc do họ Triệu thế tập, vốn là một công hầu của vua Thục được phong ở vùng Tây Bắc là đất Xuyên Thục (Tứ Xuyên). Thời Triệu Cừ Lương nhờ có biến pháp của Thương Ưởng, Tần đã trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thời loạn các sứ quân.
Dưới thời Triệu Tứ, nước Tần bỏ tước Công mà xưng Vương. Huệ Văn Vương xua quân chiếm đất Ba Thục, tức đất gốc của Bá Thục Cơ Xương ở Quý Châu. Con của Triệu Tứ là Triệu Đảng nối ngôi cha, tự xưng là Vũ Vương, vào kinh đô Cảo của Tây Thục ở Vân Nam mà “hỏi thăm” Cửu đỉnh. Nhưng thời vận của nhà Tần chưa đến lúc, Triệu Đảng bị đỉnh rơi gãy chân, rồi chết sau mới có 4 năm tại vị.
Triệu Tắc lên tân chính thay anh trai, tiếp tục ý đồ vương nghiệp. Chiêu Tương Vương chiếm vùng đất Tây Âu của nhà Thục ở Vân Nam, bắt được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hậu Tông, tức vị vua dòng dõi cuối cùng từ Dịch Vương Lang Liêu là Chu Noãn Vương. Sử Việt gọi Chu Noãn Vương là Hùng Nghị Vương.
Nước Văn Lang còn lại phần đất phía Đông là Lạc Ấp ở Cổ Loa do Đông Chu Quân nắm giữ. Là con của Thục chủ Ai Lao (Tây Chu) nên Đông Chu Quân cũng được gọi là An Dương Vương.
Tần Chiêu Tương Vương Triệu Tắc tiếp tục lập mưu, cho cháu trai của mình là Trọng Thủy sang làm con tin ở Lạc Dương, lấy một công chúa của Đông Chu An Dương Vương là Mỵ Châu. Trọng Thủy sau đó về nước kế vị, là Tần Trang Tương Vương. Nhờ thông thạo đất Âu Lạc từ khi còn ở rể tại Lạc Ấp, Trang Tương Vương tiến quân chiếm nốt đất Đông Chu, đuổi Đông Chu Quân chạy ra biển, cầm sừng văn tê bảy tấc đi gặp thần Kim Quy bên bờ Đông Hải. Quý tộc của nhà Thục được Trang Tương Vương cho an trí ở thành Châu Sa, nay thuộc Quảng Ngãi.
Nhà Thục từ Âu Cơ – Thục Phán kết thúc. Nhưng vì dòng họ Triệu Tần vốn cũng là con cháu công hầu của nhà Thục, lại bắt đầu từ phía Tây, từ đất Xuyên Thục (Tứ Xuyên), chiếm Ba Thục (Quý Châu) rồi Tây Âu (Vân Nam) và Lạc Dương (Lạc Việt) nên Tần Vương cũng đã được gọi là Thục An Dương Vương. Tới khi đứa con của 2 dòng Thục giữa Trọng Thủy và Mỵ Châu là Triệu Chính lên ngôi, dẹp loạn các sứ quân, chấm dứt cục diện 9 chúa tranh vua, xưng là Tần Thủy Hoàng Đế, dời kinh đô về giữa đất 2 nhà Thục. Thiên hạ họ Hùng bước sang thời kỳ quốc gia thống nhất, lập chế độ quận huyện, quân chủ tập quyền.
Chiêu lăng tùng bách kim hà xứ Thục quốc sơn hà tự cố cung.
Nghi môn đền Thượng Cổ Loa
Tượng An Dương Vương ở đình Xuân Ái, Nghệ An
Đền Cuông, nơi thờ An Dương Vương về biển ở Diễn Châu, Nghệ An
Đền Vĩ, Cao Viên, Thanh Oai, Hà Nội thờ Vũ Chiêu Tâm, tướng chống Tần
Các ngọc giản có chữ Tín lễ Tần Vương chi chủ
Mặt trống đồng có chữ triện thời Tần
Đức Thánh Chèm Lý Thân và Bạch Tĩnh Công chúa, con gái Tần Thủy Hoàng
Tượng Mỵ Châu thờ trong đền tại Cổ Loa
Ban Tứ trụ triều đình An Dương Vương ở đền Thượng Cổ Loa
Nghi môn nội đền Thượng Cổ Loa
Đình làng Đình Vĩ, Gia Lâm, Hà Nội, thờ Quý Minh Trọng Thủy
Nội điện đình Hương Triện, Gia Bình, Bắc Ninh, quê ngoại của An Dương Vương
Rước kiệu trong lễ hội đình Chèm, Từ Liêm, Hà Nội
Kim Quy trong đình Thư Cưu, Đông Anh, Hà Nội
Tượng An Dương Vương bằng đồng trong đền Thượng Cổ Loa, bảo vật quốc gia
Trống đồng dạng Tần Thục
Những chiếc kiếm Thục trong bảo tàng Hoàng Long, Thanh Hóa
Khuyên bạo quân Huyền Thiên cầu Thất Diệu Cứu nhân thế Khổng Tử soạn Thư Kinh.
Từ khi Khương Thái Công câu cá bên bến Việt Trì, Thục Phán dời đô về Cảo kinh đất Âu, Thục triều trải qua mấy trăm năm, truyền đến đời Chu U Vương. U Vương bản tính quái dị, sủng ái người đẹp Bao Tự. Để mua tiếng cười của mỹ nhân, U Vương đã cho nổi lửa Ly Sơn, kinh động các nước chư hầu anh em mà làm trò vui. Đánh mất đạo trời, không bao lâu sau Cảo kinh bị Khuyển Nhung tấn công. U Vương phải bỏ kinh thành mà chạy trốn. Hùng Tạo Vương nối ngôi buộc phải dời kinh đô về đất Lạc. Từ đó, thế vận nhà Thục đã suy, chư hầu tự nổi lên xưng hùng xưng bá thiên hạ.
Huyền Thiên Trấn Vũ vốn là một vu sư, quê ở đất Kim Bảng (Hà Nam), làm quan thủ thư của nhà Thục ở Lạc Ấp. Trước cảnh U Vương bạo ngược, lại thêm khi dời đô vùng Tam Giang gặp cảnh động đất liên tục. Thành Lạc Dương cứ xây lại đổ. Huyền Thiên nhân đó bèn lập đàn trên núi Võ Đang ở Cổ Loa, tế cầu trời đất.
Trên núi Thất Diệu, sau khi đăng đàn tế lễ, Thục An Dương Vương đã đào được các chiêng trống, xương cốt cổ, vốn là di tích của cuộc chiến Hùng – Thục dưới thời Vũ Vương và Thánh Gióng diệt Trụ. Huyền Thiên Lão Tử dựa vào đó đã bày chuyện yêu quỷ Ma Lôi, Bạch Kê là hậu duệ của Hùng Duệ Vương phá hại, nhằm mục đích khuyên răn Thục U Vương.
Huyền Thiên Lão Tử còn giảng đạo ở Lạc Dương. Trước khi ra đi, ngài đã ghi những điểm cốt yếu trong học thuyết của mình trong cuốn Đạo Đức kinh và để lại cho quan lệnh doãn Kim Quy làm báu vật thấu suốt nhân gian. Học thuyết “móng rùa” của tiên nhân Huyền Thiên truyền lại cho Thục An Dương Vương, góp phần củng cố Thục triều kéo dài thêm hơn 400 năm nữa.
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo Giáo Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Nối tiếp tư tưởng Đại Đạo của Lão Tử, một triết gia khác đến từ nước Lào là tên là Trọng Ni. Ông đi bôn ba khắp các nước chư hầu để giảng về Lễ, nhưng không được trọng dụng. Cuối cùng ông quay về quê hương bên dòng sông Lam, mở trường thu nhận đệ tử, soạn kinh san định lại lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, âm nhạc của thời Văn Lang, viết bằng chữ Khoa đẩu. Điển chế lễ nhạc từ Cao Lỗ Vương, Kinh Dịch âm dương bánh chưng bánh dày từ Lang Liêu, lịch sử Xuân Thu chép đến đời Lỗ Ai Công thì dừng bút, phong dao của những bậc tiền hiền như Chu Công, Thiệu Công cùng với lời hay ý đẹp trong dân gian đã được Khổng Tử biên chép, tuyển soạn. Nền tảng của Nho Đạo được xây dựng, đúc kết tinh hoa văn hóa Hùng Thục từ quốc tổ Hùng Vương mà truyền cho vạn thế.
Sở bang lộc mộng địa chung linh, vạn niên tiên chủ Lỗ ấp lân thư thiên thụy biểu, thiên tải tố vương.
Tượng Lão Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang
Tượng Khổng Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang
Đình Võ Liệt ở Thanh Chương, Nghệ An, từng là nơi thờ Khổng Tử
Cửa võng đình Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang
Ngai vị Thiên Tôn ở đền Đa Giá, Ninh Bình
Hoành phi “Đại Thành miếu” đình Trung Cần, Nam Đàn, Nghệ An
Huyền Thiên Trấn Vũ, tranh thờ người Dao ở Yên Bái
Huyền Thiên Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An
Huyền Thiên Đại Thánh ở đền Huyền Kỳ, Quỳnh Lưu, Nghệ An
Múa nam nữ đồng tử trong lễ hội Thổ Hà, Bắc Giang
Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn và Chu Lăng Độ mạng trên tranh thờ của người Dao
Tượng Khổng Tử ở văn chỉ Minh Hương, Hội An
Văn Thánh miếu ở Hội An
Đình Thượng Lực Giá, Thiên Tôn, Ninh Bình
Đình Tri Lễ, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng.
Đình Thượng Nguyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng
Tam Thanh ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Diệu Thiện Quan Âm ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Trang Vương ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Tam Đa, Song Đồng Ngọc Nữ trong lễ hội Thổ Hà
Trâu xanh ở đình Giáp Nhị, Thịnh Liệt, Hà Nội
Huyền Thiên Trấn Vũ ở động Thiên Tôn, Ninh Bình
Ngũ môn đền Sái trên núi Võ Đang ở Đông Anh
Ngọc hư cung khuyết trong đền Huyền Thiên ở Hàng Khoai, Hà Nội
Trăm anh em phân bình thiên hạ Một Dịch kinh đúc kết trống đồng
Sau cuộc Phong thần ở núi Vệ Linh, Thái Công Khương Thượng trở về đất phong của mình là nước Tề, ở vùng ven Biển Hồ. Cơ Phát lên ngôi xưng Thiên tử và dời lại kinh đô về đất Cảo ở Ai Lao (Âu – Vân Nam). Đất Âu với Cảo kinh là vùng phía Tây Văn Lang. Đất Lạc trở thành vùng đất phía Đông của nước Văn Lang.
Các đại công thần lập quốc khác cùng đều được phân phong tương ứng theo công trạng. 2 đại thần lớn nhất lúc này là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích.
Chu Công Đán là một trong trăm người em của Hùng Quốc Vương Cơ Phát. Ông được phong ở đất Lào (Lỗ) nhưng không về nước mà ở lại triều đình. Võ Vương mất, con trai lên ngôi là Chu Thành Vương, thì Cơ Đán được giữ chức Thái bảo, còn gọi là Lỗ quốc Thái sư, tức thần Cao Lỗ.
Cao Lỗ dùng chiếc “móng rùa” Dịch lý mà chế thành trấn bảo của nước Văn Lang là trống đồng. Ông là người đã phát triển Dịch học từ thời Lang Liêu Văn Vương, đặt ra các lời hào cho 64 quẻ của Kinh Dịch. Cũng Chu Công là người đã lập nên khu vực Lạc thành ở Đông Ngàn Cổ Loa, làm nơi an trí đám ngoan dân dòng dõi nhà Ân tại đây.
Lỗ quốc lúc này bao gồm vùng đất hai bên bờ sông Mã, mà trung tâm của nó là vùng Thanh Hóa. Cao Lỗ được thờ ở đây dưới tên Đồng Cổ Sơn thần, nghĩa là vị thần tổ trống đồng (Sơn = tổ). Vùng đất trống đồng Đông Sơn chính là nước Lỗ của Chu Công.
Người anh em cùng bọc khác là Thiệu Công Thích, được phong ở đất Yên. Nước Yên nay ở quãng miền Trung Việt. Cũng như Chu Công Đán, Cơ Thích ở lại trong triều phụ giúp Chu Thành Vương, dẹp phản loạn. Ông làm đến chức Thái phó trong Thục triều. Nói về ông có điển tích cây “Cam đường bất phạt” lấy từ Kinh Thư thiên Thiệu Cáo, khi Thiệu Công dùng đạo trời khuyên vua hãy nhân từ mà tha cho dân đất Lạc (tức hậu duệ của Hùng Vương được an trí tại đây).
Thời Thành Vương nước Việt Thường, là con cháu nhà Hạ Trung hưng ở vùng cửa sông Dương Tử cử sứ giả qua ba lần thông dịch vào Cảo kinh cống Chim trĩ trắng, chính thức gia nhập vào thiên hạ của nhà Chu. Chu Công ban cho sứ giả Việt Thường cỗ xe chỉ Nam dẫn đường. Sứ giả Việt Thường đi dọc sông Mê Kông qua các nước Tề (Phù Nam), Lỗ (Lâm Ấp) rồi men theo bờ biển Đông mà về nước.
Người anh em khác trong bọc trăm trứng của Hùng Quốc Vương là Cơ Cao. Khi Hùng Quốc Vương phạt Đế Tân, Cơ Cao cầm búa nhỏ, Cơ Đán cầm búa lớn đi hộ vệ. Sau này Cơ Cao tiếp quản việc cai trị ở Lạc Ấp và có công ổn định được đám ngoan dân tại đây. Vì thế nên ông được phong là Tất Công (tất trong hoàn tất, lấy ý của thiên Tất Mệnh trong Kinh Thư). Cơ Cao là tổ của Phan tộc, đất phong ở Phù Nam. Ngày nay ông được thờ ở vùng Thị Cấm Xuân Canh tại Hà Nội với tên Phan Tây Nhạc.
Trăm anh em của cùng một mẹ Âu Cơ đã chia nhau nơi đầu núi góc biển, an định Thiên hạ, đồng tôn Hùng Quốc Vương là Thiên tử. Chế độ phong kiến thị tộc phân quyền chính thức được khởi đầu. Các dòng họ người Việt cha truyền con nối cũng bắt đầu từ đó.
Ngôi vị thiên tử nhà Chu truyền được mấy đời, tới Chu Mục Vương cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn tìm cung điện của Hoàng Đế và gặp được Tây Vương Mẫu. Đó là chuyện Lang Liêu cầu tiên ở núi Tam Đảo và kết duyên với nàng Lăng Thị Tiêu, thần núi ở Tây Thiên.
Nếp gấp phân phong, lễ nhạc của nước Văn Lang đã định hình văn hóa xã hội Việt, mãi đi vào chính sử nước nhà với tên Văn Lang – Âu Lạc của các vị vua Hùng, vua Thục.
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Tranh sứ tế lễ thời Hùng Vương ở Bảo tàng đền Hùng, Phú Thọ.
Cung thờ Cao Lỗ ở Cao Đức, Bắc Ninh.
Đền thờ Cao Lỗ trong cụm di tích Thành Cổ Loa
Đền Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa
Núi Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa
Mặt trống đồng Gia Phú, bảo vật quốc gia ở Lào Cai
Mặt trống đồng Pha Long, bảo vật quốc gia ở Lào Cai.
Đền Cao Lỗ ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Nội điện đình Nghi Tàm, Hà Nội thờ Lỗ quốc Thái sư
Đền Trần Đăng, Ứng Hòa thờ Cao Lỗ
Trống đồng
Đình Tri Cẩn thờ Cao Lỗ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Bình đồng với bài minh văn nhắc tới tên của 10 vị vua thời Tây Chu
Cự thạch Thạch Bàn trên đỉnh Phù Nghi, Tam Đảo
Đình Dữu Lâu, Việt Trì, nơi từng có phủ Lang Liêu
Đình Hòe Thị ở Xuân Phương, Hà Nội thờ Phan Tây Nhạc
Thi nấu cơm trong lễ hội làng Thị Cấm, Xuân Phương, Hà Nội tưởng nhớ Phan Tây Nhạc (ảnh Nguyễn Vinh Việt)
Sưu tầm đồ đồng Đông Sơn ở nhà nghệ nhân họ Thiệu tại Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Bến Việt Trì Thái Công câu cá Núi Vệ Linh Thánh Gióng phong thần.
Thục Vương Cơ Xương là người ở vùng đất Âu, đánh bại Lạc hầu Sùng Lãm, dời đô từ đất Âu về đất Lạc, dựng nước Âu Lạc, lập kinh thành Phong Châu. Sử Việt gọi Cơ Xương là Âu Cơ. Mặc dù Âu Cơ Xương đã chiếm được 2 vùng Tây và Bắc (Nam nay) của thiên hạ, nhưng đe dọa từ Hùng Duệ Vương Đế Tân vẫn không ngừng tăng lên.
Lo lắng trước vận nước khó khăn, một hôm Âu Cơ đi dạo ngoài thành Phong Châu, cạnh chùa Hoa Long ở bến Việt Trì. Chợt thấy một lão ông tuổi ngoài 80, cầm một cây cần trúc đứng trên bàn thạch bên bến sông Việt Trì, dáng vẻ ung dung, có cốt cách của thần tiên. Âu Cơ lấy làm lạ tiến đến hỏi chuyện, thì thấy quả đúng đây là người hiền tài hiếm có, có thể phò tá gây dựng vương nghiệp thiên thu. Cơ Xương bèn phong cho ông lão làm Thái Công, giao phó hết trọng trách trong nước cho Lã Vọng.
Một ngày đẹp trời Cơ Xương về bên đất Hiền Lương ở Hạ Hòa, Phú Thọ mà hóa về trời. Con trai Cơ Xương là Cơ Phát hay Thục Phán lên nối tiếp sự nghiệp, tôn phong cho cha mình là Văn Lang (Văn Vương). Lập đền thờ ở xã Hiền Lương (Hiền vương), ngàn năm hương hỏa không cùng.
Cơ Phát khi chưa kế vị có tên là Ninh Vương. Người Việt thờ ông là Hùng Linh Công ở vùng Việt Yên (Bắc Giang). Cũng từ tên gọi này mà vùng Bắc Ninh xưa được gọi là Vũ Ninh, chỉ Ninh Vương Cơ Phát. Khương Thái Công được sự cầu hiền của Văn Vương, dốc lòng phò trợ Cơ Phát, phát loa gọi khắp bốn phương tám hướng, chiêu hiền tuyển tướng, kết tập chư hầu, hẹn ngày phạt Trụ. Sứ giả đi đến làng Phù Đổng ở Vũ Ninh thì gặp được thiên thần giáng thế trong một cậu bé 3 tuổi làng Gióng, vươn vai phút chốc đã thành một đại tướng. Thái Công lấy Na Tra làm tướng tiên phong, gấp rút chuẩn bị quân đội đối phó với giặc Ân.
Lúc này Đế Tân sai Thạch Linh Thần tướng cùng các nữ tướng Ân là Ma Cô Tiên, Bạch Kê dẫn quân Bắc chinh (Nam nay). Thạch Linh kéo quân tới vùng núi Châu Sơn ở Vũ Ninh, đại chiến với Thánh Gióng dưới chân núi. Lửa cháy rực trời, khói bụi tung mù mịt. Na Tra nhổ tre đằng ngà quét sạch quân Ân. Thạch Linh Thần tướng tử trận ở vùng Yên Vệ.
Tiêu diệt được cánh quân chủ lực của Đế Tân, Thục Phán cùng Khương Thái Công giao hẹn chư hầu cùng phát binh đến cánh đồng Mục Dã, quyết một trận sống mái với Duệ Vương. Đế Tân thất thế, nổi lửa thiêu Lộc Đài rồi tự mình nhảy vào lửa tự vẫn.
Cơ Phát làm chủ được thiên hạ họ Hùng, xưng là Võ Vương. Sử Việt gọi là Hùng Quốc Vương, người con đã theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, đóng đô Phong Châu.
Hùng Quốc Vương lên ngôi Thiên tử, phân phong cho các họ tộc làm chư hầu bình phong phên dậu ở trăm nơi đầu núi góc biển, được quyền thế tập cha truyền con nối, đặt ra trăm họ, định ra lễ nhạc trăm quan. Thiên hạ họ Hùng chưa bao giờ lại rộng lớn như thế này, Đông giáp biển Thái Bình Dương, Tây qua Đại Thực, Bắc quá Hoàng Hà, Nam tới vịnh Thái Lan.
Để tưởng nhớ các tướng sĩ của cả 2 bên hy sinh trong cuộc chiến Hùng – Thục, Thái Công Thánh Gióng về lại đất Lạc, lập đàn tế ở núi Vệ Linh, xướng bảng phong thần cho những anh hùng liệt sĩ. Hùng Duệ Vương Đế Tân vốn là thiên tử của tiền triều nên được tôn làm vua Địa phủ, Trung Nguyên Xá tội, lập đền thờ trên núi Châu Sơn. Tiên phong Na Tra làm thần núi Sóc Sơn, hộ trì đất nước.
Nhớ xưa đương thủa triều Hùng Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa Trời thương Bách Việt sơn hà Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài Lên ba đương tuổi anh hài Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền Một phen khói lửa dẹp yên Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời…
Tượng Ma Bà (Ma Cô Tiên) ở Phùng Dị, Bắc NinhCô tướng Ân trong lễ hội Phù Đổng 2022Phường Ải Lao trong lễ hội Phù Đổng 2022Thạch Linh Thần tướng cưỡi voi ở Việt Yên, Bắc GiangTriệu Nguyên Sư (Triệu Công Minh – tướng của nhà Ân) trong tranh thờ người Dao ở Lào CaiVoi ngựa trong lễ hội Y Sơn, Bắc Giangthờ Hùng Linh CôngHoa tre trong lễ hội Y Sơn (Bắc Giang), nơi thờ Hùng Linh CôngNgai vị thờ Thái Công Khương Thượng ở nghè làng Kiều, Sầm Sơn, Thanh HóaTranh Lão tiên ông bên bến Việt Trì trong chùa Hoa Long, Phú ThọChính cung đền Sóc thờ Phù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Nữ Oa Bộ Thiên, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên VươngPhù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Vu Điền Quốc Vương ở đền Hạ Mã, Sóc SơnTrung Nguyên xá tội, tranh thờ dân tộc Dao ở Yên BáiCự thạch – tế đàn cổ ở Sóc SơnCon Phi liêm ở núi Châu Sơn, Bắc Ninh
Lễ dối trời Duệ Vương hết số Vì sinh linh Thục Chủ khởi binh
Lạc Long Quân chia 50 người con xuống khai phá miền ven biển Đông, vượt qua nhiều sông núi mà khai mở phương Nam xưa (phương Bắc nay). Long Quân truyền ngôi qua nhiều đời, đến Hùng Duệ Vương có tên là Đế Tân, đóng đô ở An Huy.
Duệ Vương là người có hùng tài đại lược, nhưng lại ham mê tửu sắc, bất kính với thiên địa, dâng lễ dối trời, sủng ái vu nữ Đát Kỷ. Trời và người cùng phẫn nộ, dẫn đến tai họa giáng xuống, vận nước cáo chung.
Bộ chủ Ai Lao – Ba Thục lúc này Tây Bá Hầu Cơ Xương, nổi lên là một người nhân nghĩa đại đức, thu phục nhân tâm. Thục chủ Cơ Xương tinh thông Dịch lý, hiểu lẽ trời đạo người. Bị Đế Tân chèn ép, Thục chủ buộc phải phát động binh đao. Nhưng để giữ lễ với Hùng Vương, Cơ Xương đầu tiên dẫn quân tiến đánh vùng đất Lạc của Sùng Hầu Hổ. Quân Thục từ Ai Lao kéo vào đất Hưng Hóa đến châu Quỳnh Nhai. Đất nước của Hùng Duệ Vương rúng động.
Người đứng đầu vùng đất Lạc khi đó là Bắc Bá Hầu Sùng Lãm, là dòng dõi quý tộc triều Hùng từ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân, nên cũng gọi là Lạc hầu Nguyễn Tuấn. Cuộc chiến giữa Ai Lao bộ chủ Cơ Xương và Lạc hầu Nguyễn Tuấn diễn ra rất ác liệt. Trong lần đầu Nguyễn Tuấn phục kích đánh bại được quân Thục ở Mộc Châu. Khải hoàn trở về, tấu cáo Đế Tân.
Vài năm sau, Bá Thục lại kêu gọi các chư hầu tập hợp được hơn 50 vạn quân. Cơ Xương chia quân thành 5 đạo, thủy bộ tịnh tiến, đánh chiếm đất Sùng. Với thế quân mạnh và nâng cao ngọn cờ nhân nghĩa, cuối cùng Sùng hầu Nguyễn Tuấn đã chịu thua, nhường lại đất Lạc cho Thục chủ.
Thục chủ Cơ Xương thu nhận được đất tổ Hùng Vương, đã cho dời kinh đô từ Ai Lao về Phong Châu, xây dựng thành Việt Trì, lên núi Thái Sơn Nghĩa Lĩnh lập điện Kính Thiên, đăng đàn tế cáo trời đất, lập cột đá thề trung thành với quốc tổ họ Hùng, cứu dân giúp nước.
Từ cổ đế vương ức triệu dân Quy thần tất tự điện tinh thần Thử truyền vị biện chân tướng ảo Hồi tưởng Sơn danh phảng phất chân.
Chân tượng Cao Sơn Đại vương trong Nhất thành khả cách chân kinh.Nha chương Phùng Nguyên, niên đại cuối thời nhà Ân Thương, bảo vật quốc gia ở Phú Thọ.Cúng Bàn Vương của người Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang.Hải Bá Lạc Long Quân, tranh thờ người Dao.Tượng đồng Hổ hai đuôi thời Thương.Tượng thờ Long khuyển Bàn Hồ của người Dao ở Chù Lìn, Lai Châu.Long tranh Hổ đấu, sách cúng người Dao ở Yên Bái.Tượng mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương, Phú Thọ.
Người Dao ở vùng Mộc Châu – Sơn La dùng một bộ tranh thờ gồm 3 bức tranh lớn vẽ các vị thần và 2 bức nhỏ vẽ chân dung thần. Bộ tranh này được gọi là Hành say, dùng trong các nghi lễ thờ cúng, tín ngưỡng của người Dao tại đây.
Bức tranh đầu tiên có hình một vị thần cưỡi ngựa là bức Thái Úy. Theo các nhà nghiên cứu thì Thái Úy là ông Đại Vũ, người khởi đầu nhà Hạ bởi trên một số tranh Thái Úy khác có thể hiện hình một cậu bé theo tích Đại Vũ sinh ra Khải trong quá trình trị thủy. Thái Úy cưỡi ngựa, cầm kiếm và ấn lệnh, làm chủ miền rừng núi. Phía dưới là các vị quan lại cưỡi ngựa. Tương ứng trong lịch sử người Việt thì Đại Vũ là Tản Viên Sơn Thánh hay Kinh Dương Vương, người khởi đầu dòng lên núi. Trong Tứ phủ người Dao thì Thái Úy ứng với Dương gian, là phủ nơi con người sinh sống.
Bức tranh đối diện thể một vị thần mặt đỏ cưỡi rồng, gọi là Hải Bá. Hiện tại các nhà nghiên cứu cho rằng thần cưỡi rồng là Hiên Viên Hoàng Đế đã cưỡi rồng mà về trời. Tuy nhiên như vậy không hợp lý vì Hiên Viên không phải là “Hải Bá”, thần của miền biển. Đúng hơn thì Rồng biểu trưng cho Thủy phủ. Người cưỡi rồng phải là vị thần chủ của Thủy phủ, tức là Thủy Tinh Bát Hải Động Đình hay Lạc Long Quân. Thần chủ của Thủy phủ ở trên tranh còn cầm tù và, khá giống với hình tượng Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt. Phía dưới bức Hải Bá là hình ảnh các thầy tào và cảnh Thượng đao sơn trong lễ cấp sắc của người Dao.
Bức tranh ở chính giữa được gọi là Tổng đàn hay Tổ tiên. Bức tranh này thể hiện có 9 tầng từ trên trời xuống đất. Trên cùng là Tam Thanh cung thờ 3 vị Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn (ở giữa), Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn (bên phải) và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (bên trái). Ba vị Tam Thanh được Đạo giáo thờ như những người đã sáng tạo ra vũ trụ.
Ở tầng thứ hai là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người cai quản Thiên đình. Hai bên là các vị Thiên Vương, có ánh hào quang. Tầng thứ ba là Tây Vương Mẫu, vị thần cai quản các tiên thánh trên núi Côn Lôn. So với sử Việt thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị vua Hùng đầu tiên, tức Đế Minh. Tây Vương Mẫu là Tây Thiên Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo hay là bà Vụ Tiên trong Truyện họ Hồng Bàng.
Ở tầng thứ tư là Bắc Đẩu Tinh Quân. Hai bên là các vị nguyên soái, như Đặng Nguyên Soái mặt đen như thiên lôi ở bên trái, Triệu Nguyên Soái mặt đen ở bên phải. Ở tầng thứ năm là Nam Tào và các vị phụ thần hai bên. Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vị thần nắm sổ sinh và sổ tử của Thiên đình. So với sử Việt thì đây là hai vị Hùng Vương Thánh Tổ được thờ ở đền Hùng, là Viễn Sơn Thánh Vương (Đế Nghi) và Ất SơnThánh Vương (Lộc Tục).
Tầng thứ sáu, bảy và tám là các quan Tam Nguyên. Tầng thứ sáu vẽ Thượng Nguyên Thiên Quan có hình nhật nguyệt ở 2 bên, tiết Thượng Nguyên Tứ Phúc vào rằm tháng Giêng. Tầng thứ bảy là Trung Nguyên Địa Quan, tiết Trung Nguyên Xá Tội vào rằm tháng Bảy. Tầng thứ tám là Hạ Nguyên Thủy Quan, tiết Hạ Nguyên Giải Ách vào rằm tháng Mười.
Ở tầng cuối cùng (thứ chín) vẽ hình Thổ Địa thần nơi miếu thổ thần và các loài vật sống trên mặt đất như hổ báo, trâu voi, rắn rết. Thần Thổ Địa cai quản vùng đất đai và những sinh vật sinh sống ở đó.
Trong bộ tranh này thì bức Tổng đàn ở giữa thể hiện cảnh theo trục đứng gồm Thiên phủ – Địa phủ, nơi các thần linh ngự trị. Còn hai bên là Thủy phủ và Dương gian, nơi con người sinh sống. Tổng hợp 3 bức tranh có đủ Tứ phủ theo tín ngưỡng của người Dao.
Hai bức vẽ nhỏ là chân dung (mặt nạ) của hai vị thần chủ cai quản con người, cũng là hai vị thủy tổ của người Việt: Thái Úy – Kinh Dương Vương và Hải Bá – Lạc Long Quân. Thái Úy Kinh Dương Vương thể hiện như một vị quan mặt trắng, hiền từ như mặt trăng mùa thu (Chu). Hải Bá Lạc Long Quân thể hiện mặt đỏ như mặt trời mùa hè (Hạ).
Hải Bá Lạc Long QuânThái Úy Kinh Dương Vương
Có thể thấy tín ngưỡng thờ của người Dao tương đồng với tín ngưỡng của người Việt về các vị thần, về cách chia Tứ phủ. Cũng như người Việt, các vị thần được thờ của người Dao là “Tổ tiên”, tức là những vị vua, quan đã có công lao gây dựng nên dân tộc, nên đất nước ở thời cổ sử. Đó là ba vị Hùng Vương Thánh Tổ như thờ ở đền Hùng và hai vị thủy tổ Sơn Tinh, Thủy Tinh của 2 dòng lên núi và xuống biển.
Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới… Không theo vết xe cũ mà nhiều người trước đã đi trong việc tìm hiểu quá khứ Việt, nhóm Hùng Việt sử quán đã mở ra hướng khảo cứu mới, tìm thông tin lịch sử Việt trong dân gian như: ngôn từ, ca dao tục ngữ, thần tích thần phả… Dòng sử dân gian này do không hay rất ít ảnh hưởng bởi tư liệu lịch sử Tàu nên chắc chắn là chân thực. Có chăng chỉ là một chút sai lạc do thời gian uốn nắn… Văn nhân Nguyễn Quang Nhật
Cuốn sách Lạc Hùng chính thống Thánh tích ký truyền của nhóm tác giả Hùng Việt sử quán vừa xuất bản tháng 7 năm 2025 đã khắc họa lại lịch sử dựng nước của các vua Hùng một cách chân thật, hùng tráng dựa trên những khảo cứu, đúc kết của nhóm trong suốt hơn 10 năm qua. Cuốn sách tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương dưới hình thức dễ đọc, dễ hiểu, không đi vào khảo cứu mà giới thiệu các thông tin dưới dạng hình ảnh, phả đồ, bản đồ, giúp người đọc có thể nhanh chóng tiếp cận được nội dung nhưng cũng không kém phần cuốn hút bởi những câu chuyện lịch sử thực tế và những cảm xúc thăng trầm qua văn thơ trên con đường tìm về nguồn cội.
Cuốn sách mở đầu bằng phần LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG TÂN BIÊN, tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương thành một mạch xuyên suốt từ khi mở trời mở đất cho đến vị vua Hùng cuối cùng qua những sự kiện, những mốc phát triển chính. Từ thuở Hoàng Đế mở muôn nước, Kinh Dương Vương trị thủy thống nhất bốn phương, Lạc Long Quân cùng các vị Thủy thượng Linh thần khai phá miền sông biển, mẹ Âu Cơ Văn Lang cùng vua Hùng Lang Liêu thắng Trụ diệt Ân, đặt ra trăm quan, phong cho trăm họ mà sinh Bách Việt cho đến khi Triệu Vũ Hoàng Đế thống nhất đế quốc, Triệu Việt Vương lập nước Nam Việt, quang phục nền văn hóa Đông Sơn huy hoàng, Trưng Lữ Vương dựng cờ khởi nghĩa bên sông Hát và những vị Nam Giao học tổ hy sinh quên mình vì nước.
Lịch sử Hùng Vương tân biên không tham vọng khảo chứng lịch sử, mà là chia sẻ sự nhìn nhận có được qua việc tìm hiểu quá khứ từ những dữ kiện và góc nhìn khác nhau. Đó là việc đối chiếu các nguồn tư liệu thành văn của Hoa sử và Việt sử. Là những thông tin chắt lọc từ những sự tích thờ cúng, lễ hội cho những anh hùng, những nhân vật trong suốt chiều dài sử Việt. Là sự suy ngẫm trước những hiện vật khảo cổ biết nói đã được phát hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn trong cõi trời Đông. Là góc nhìn địa văn hóa, sử văn hóa từ những dấu vết ngôn ngữ, triết học cổ.
Tiếp theo là phần NIÊN BIỂU VÀ THÁNH TÍCH 18 TRIỀU HÙNG VƯƠNG. 18 triều đại Hùng Vương được sắp xếp theo 4 giai đoạn phát triển của xã hội Việt là thời kỳ Thủ lĩnh cộng đồng, thời kỳ Thị tộc phụ đạo, thời kỳ Phong kiến phân quyền và thời kỳ Phong kiến tập quyền. Mỗi triều đại được ghi rõ tên gọi từ các nguồn tư liệu khác nhau, niên đại, kinh đô, dấu vết khảo cổ, các truyền thuyết và đặc biệt là thống kê đầy đủ các di tích lịch sử văn hóa liên quan đến mỗi triều đại này trên đất Việt. Kèm theo đó là hình ảnh màu thực tế của hàng trăm di tích và hiện vật được giới thiệu trong sách.
Cuốn sách cung cấp rất nhiều phả đồ xuyên suốt các thời kỳ Hùng Vương hoặc chuyên sâu cho mỗi giai đoạn quan trọng, giúp bạn đọc nhanh chóng nắm bắt được nội dung diễn biến chính của mỗi thời kỳ. Các phả đồ không chỉ chỉ rõ mối quan hệ giữa các nhân vật, các sự kiện lịch sử mà còn là sự đối sánh giữa các tư liệu của các góc nhìn lịch sử khác nhau. Phả đồ và lịch sử tân biên được xây dựng với quan niệm: Không có tư liệu sai, chỉ có sự nhìn nhận và hiểu biết của chúng ta còn chưa đủ, chưa phù hợp. Chính sự so chiếu này làm nên tính phổ quát của niên biểu. Phả đồ cùng với các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ và niên biểu tên gọi là bộ bản đồ dẫn đường cho mọi người Việt chúng ta trên con đường tìm về quá khứ và tổ tiên.
Lịch sử làm nên văn hóa của một xã hội, và ngược lại văn hóa là kết tinh của lịch sử. Mặc dù cuốn sách được biên soạn theo hình thức “sử ký”, tức là ghi chép lại các sự kiện lịch sử và giới thiệu các nguồn tư liệu, dấu tích, nhưng phần bàn luận về VĂN HÓA THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG là những bài viết ngắn đi sâu khảo chứng cho những vấn đề, những chủ đề cụ thể. Đó là về quan niệm minh triết người Việt cổ, các hình tượng vật tổ, chữ viết của người Việt thời Hùng Vương, về các cuộc chiến thay đổi thời vận, về các gương hiếu của thời Hùng Vương, các vị tiên nữ, các vị thần bất tử, và một số nhân vật quan trọng như Na Tra Đổng Thiên Vương, Khương Thái Công Lã Vọng, Đức Thánh Chèm Lý Thân, An Dương Vương…
Trên bìa những cuốn lịch sử Hùng Vương xưa (ngọc phả Hùng Vương) được soạn bởi các bậc Hàn lâm Học sĩ đương thời có đề đôi câu đối: Vấn lai dĩ sự tu vi sử Tế nhận như đồ dục mệnh thi. Tức là: Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử Thấy rành như vẽ mới làm thơ.
Xem kỹ những gì đã biết về các vua Hùng, thấy sự việc rõ rành thì tất có cái hứng để làm thơ, để ca ngợi công đức tiền nhân, để cảm sự nỗ lực của người Việt dựng nên nền tảng văn hóa xã hội ngàn đời cho con cháu. Sau phần biên diễn lịch sử là những bài thơ VỊNH SỬ LẠC HÙNG xuất phát từ những cảm hứng này.
18 vương triều Hùng bất diệt. 3.000 năm xã hội Việt phát triển qua 4 giai đoạn từ thấp đến cao. Không gian lịch sử bao trùm khắp phương Đông. Những vị anh hùng đã hóa thần trong sử Việt. Đó là những gì cuốn sách muốn gửi gắm đến các bạn đọc ngày hôm nay.
Hồn sông núi nước Nam còn mãi Để hôm nay ta lại là ta Xé mây trời sáng bao la Anh linh tiên tổ, Hùng ca đời đời.
Nhóm tác giả Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân đã thực sự làm người đọc bất ngờ bởi những phát hiệnđộc đáo và những kiến giải táo bạo, công trình đã mở ra nhiều hiểu biết mới trong nghiên cứu tín ngưỡng và lịch sử cổ đại Việt Nam, ví dụ như:
Chứng minh Liễu Nghị là Tản Viên Sơn Thánh (Kinh Dương Vương), đồng thời liên hệ với Đại Vũ của nhà Hạ, tạo nên một hệ thống thần thoại thống nhất giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Giải mã danh tính các vị thần Thủy phủ như Long Đỗ, Bát Hải Long Vương, Quý Minh… những danh tính vốn bị lãng quên vì không ai có thể giải mã, hoặc bị hiểu sai trong nhiều nghiên cứu trước đây. Việc giải mã này không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu Đạo Mẫu mà cả tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung.
Giải thích và xác định một số địa danh then chốt như: “Động Đình”, “Bãi Trường Sa”, “cánh đồng Tương”…các kiến giải này đã thực sự giúp giới nghiên cứu cổ sử và văn hóa có cơ sở để xác định các không gian văn hóa khi nghiên cứu tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Chẳng hạn việc xác định Động Đình là vùng biển Đông, chứ không phải hồ nước ở Hồ Nam (Trung Quốc) là một cách khẳng định lại không gian văn hóa – chính trị của hệ Thủy phủ của dân tộc Việt. Đánh đổ các khuôn mẫu truyền thống, các biểu tượng và định kiến (không nhiều nhà nghiên cứu vượt qua) trước đây về mối liên hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa.
Đưa ra các biểu tượng văn hóa-sinh thái giúp các nhà nghiên cứu về sau có căn cứ để nhận diện, giải mã các biểu tượng liên quan đến thủy thần như: cây hoa gạo, hoa đào, biểu tượng rắn, rồng, bọc trứng,…. Những biểu tượng này không nhiều nhà nghiên cứu biết được bởi bị phủ lên bởi diễn trình lịch sử quá xa xưa, cũng như bị rời rạc và mờ nhạt bởi thiếu các cơ sở liên kết, xâu chuỗi về thần tích và biểu tượng. Đây là một đóng góp quan trọng về mặt biểu tượng học, nó sẽ giúp ích cho công tác điền dã, xử lý tư liệu cho các nhà nghiên cứu về sau.
Những phát hiện này không chỉ đảo lộn nhận thức cũ mà còn đặt nền móng cho một cách tiếp cận mới, khẳng định tính độc lập và bản sắc của văn hóa Việt, phá vỡ tư duy “dĩ Hoa vi Trung” bấy lâu nay khi nghiên cứu về Đạo giáo và thần phổ Việt Nam.
2. CÔNG TÁC ĐIỀN DÃ CÔNG PHU & TƯ LIỆU QUÝ HIẾM
Để có được nguồn tư liệu tham khảo đồ sộ như đa công bố trong công trình này, có lẽ nhóm tác giả đã phải dành nhiều năm lăn lộn thực địa mới có được. Những tư liệu này không chỉ phản ánh việc chú trọng công tác điền dã thực địa, lấy tư liệu thực địa làm cơ sở nghiên cứu và luận giải. Tính dân tộc học cũng đậm nét khi nhóm tác giả thu thập rất nhiều chuyện kể, truyền thuyết dân gian, ghi chép các dư liệu văn tự tại các nơi đến. Việc thu thập, biên dịch những tư liệu này trở nên có giá trị vô giá không chỉ bởi độ hiếm, độ quý về mặt tư liệu mà còn thể hiện ở chỗ nội dung đắc giá, phục vụ đúng các mục tiêu và vấn đề nghiên cứu. Hầu hết những tài liệu đắc này là những tài liệu mà các học giả trước đây chưa từng tiếp cận được, hoặc tiếp cận lẻ tẻ, chưa tập hợp thành hệ thống:
Thần tích, ngọc phả, khoa nghi, bi ký từ các chùa, đền miếu cổ, thư viện,… giúp khôi phục lại hệ thống thần điện Thủy phủ một cách hệ thống. Những nguồn tư liệu mà nhóm tác giả dày công biên dịch, khảo cứu đã làm cho cuốn sách chứa đựng thêm nhiều giá trị mà các công trình nghiên cứu đi trước không làm được. Những Ngọc Phả Lạc Long Quân, Thần tích về các vị thần Lạc Thị, thần tích xã Liễu Châu, Phả lục năm vị Đại vương Thủy thần triều Hùng, Ngọc Phả chép về một vị thủy thần xuất thế triều Hùng, … cung cấp thêm các cứ liệu về cổ sử và phả hệ dòng Lạc Thị.
Cùng các Thần tích làng Tiên Cát, thần tích làng Nghi Khúc, Ngọc phả xã Xối Đông, ngọc phả làng Đa Chất…cung cấp thêm hành trạng của hệ thủy thần Việt Nam ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Đặc biệt thông tín từ một số tư liệu văn tế, bi ký ở hải ngoại như: bia về Đạt Lặc Giáp, bia về Bố Lạc Đà, bia về Mạc Nhất Đại vương đã giúp cho người đọc hình dung được sự phân bố, diện mạo của dân tộc Lạc Việt xưa. Nó giúp cho người đọc nhận thức được vùng văn hóa Việt và tính liên quốc gia của vấn đề nghiên cứu về Lạc Việt.
Câu đối, văn bia, câu chuyện truyền thuyết dân gian ở những làng xã, chùa miếu, đền ít được biết đến, như đền Đồng Bằng (Thái Bình), đền Hội (Nghệ An), đền Á Lữ (Thái Bình), đền Nhân Phẩm (Ninh Bình)…củng cố thêm cho các luận cứ để nhóm tác giả đưa ra các nhận định và kiến giải mới.
Đối chiếu với Đạo giáo Trung Hoa nhưng không sao chép máy móc, mà luôn đặt trong bối cảnh bản địa, giúp làm rõ sự giao thoa và khác biệt.
Hệ thống tư liệu và dữ liệu mà nhóm tác giả có được, chứng minh rằng một công trình không ngồi trong máy lạnh mà rất dày công, nghiêm túc, kết hợp được các nguồn sử liệu, dữ diệu điền dã di tích, dân tộc học, phân tích văn bản học,… xứng đáng là tài liệu tham khảo quý, hiếm và rất pro cho các nhà nghiên cứu sau này.
3. ĐÓNG GÓP HỌC THUẬT CÓ GIÁ TRỊ: TINH THẦN “DĨ VIỆT VI TRUNG”
Cuốn sách không chỉ là một nghiên cứu chuyên sâu, mà còn là một tuyên ngôn học thuật lấy dân tộc Việt làm trung tâm, phá bỏ tư duy “dĩ Hoa vi Trung” (lấy Trung Hoa làm trung tâm) vốn thống trị giới nghiên cứu trước đây. Nhóm tác giả đã:
Khẳng định sự độc lập của thần thoại, truyền thuyết, thần tích Việt: cuốn sách chứng minh rằng các vị thần như Lạc Long Quân, Tản Viên, Thủy Tinh không phải là “phiên bản sao” của thần thoại Trung Hoa, mà có nguồn gốc và logic riêng.
Phác thảo lại cấu trúc quốc gia gắn bó mật thiết với nước (từ sông ngòi, hồ đầm, ao, biển) thời cổ đại, cho thấy người Việt đã có một hệ thống chính trị – tín ngưỡng phức tạp từ rất sớm, không thua kém các nền văn minh khác.
Công trình này cũng đặt lại vấn đề về cách tiếp cận sử học theo lối truyền thống, vốn thường xem nhẹ yếu tố biển đảo và thủy tộc. Cách tiếp cận này mở ra hướng tiếp cận mới về lịch sử Lạc Việt, văn hóa nước, tín ngưỡng dân gian Việt.
4. TINH THẦN NGUỒN CỘI VÀ SỰ KHAI KHÓNG
Không chỉ dừng lại ở học thuật, nhóm tác giả còn tạo cảm hứng về ý thức dân tộc, giúp người Việt hiện đại tự hào về cội nguồn thay vì nghĩ mình ít nhiều gì cũng “là phiên bản của Trung Hoa”. Tôi nghĩ, công trình này đã:
Khẳng định tư duy độc lập, không chạy theo các số đông nghiên cứu phổ biến, mạnh dạng đưa ra nhiều kiến giải độc lập, mới và có thể gây tranh cãi.
Kết nối quá khứ với hiện tại, gợi mở về một “tư duy về văn hóa nước” trong bối cảnh học thuật quá chú trọng đến các vấn đề khác, đặc biệt nó cũng kết nối với các vấn đề về văn hóa biển.
Truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ tiếp tục khám phá lịch sử và văn hóa dân tộc với tinh thần phản biện và sáng tạo.
5. MỘT SỐ CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu hỏi về phương pháp luận và xử lý nguồn tư liệu
Câu hỏi 1: Nhóm tác giả đã sử sử dụng tiêu chí nào làm cơ sở phân loại và liên kếtsự tương đồng khi so sánh hệ Thủy phủ Việt Nam với các vị thần Đạo giáo Trung Hoa, hoặc diễn giải về tên gọi hoặc biểu tượng để xác định sự nguồn gốc, sự tương đồng trong các câu chuyện về thủy thần?
Câu hỏi 2: Khi thần tích địa phương mâu thuẩn với hướng giải quyết vấn đề của nhóm tác giả thì nhóm cân nhắc yếu tố nào để ưu tiên diễn giải? Ví dụ như trường hợp Quý Minh vừa là Sơn thần lẫn Thủy thần thì nhóm tác giả có thể nói rõ hơn về cách xử lý như thế nào để thuyết phục người đọc chấp nhận một diện mạo thủy thần của ngài?
Câu hỏi về diễn giải nhân vật và thần điện
Câu hỏi 3: Nhóm tác giả có thể cho biết thêm một số bằng chứng để làm rõ thêm nhận định thần Long Đỗ là Thủy phủ Phù Tang Đại Đế? Liệu có khả năng đây là hai vị thần riêng biệt, được hợp nhất do ảnh hưởng Đạo giáo thời Lý-Trần hay không?
Câu hỏi về bối cảnh lịch sử và văn hóa
Câu hỏi 4: Với giả thuyết Thủy phủ Lạc thị như một mô hình phản ánh cấu trúc quyền lực thời Hùng Vương có được bổ trợ bằng những minh chứng khảo cổ học nào (ví dụ: khảo cổ học văn hóa Đông Sơn) hay không? Làm sao giải thích sự vắng mặt của biểu tượng Rồng trong nghệ thuật Đông Sơn nếu Rồng là biểu tượng trung tâm của Lạc Thị?
LỜI KẾT
Cuốn sách không chỉ là một công trình nghiên cứu xuất sắc, mà còn là một bước ngoặt trong tư duy viết sử ở Việt Nam. Nhóm tác giả xứng đáng được ghi nhận như những người tiên phong, dám đi ngược lại lối mòn, dám đặt câu hỏi lớn, và quan trọng nhất – dám khẳng định chân giá trị của văn hóa Việt. Hy vọng rằng, tương lai nhóm tác gải sẽ có nhiều nghiên cứu tiếp nối với nhiều phát hiện mới. Chúc mừng nhóm tác giả vì đã có thêm một tác phẩm để đời!
Có người hỏi tôi rằng: Dựa vào đâu để có thể viết nên cuốn sách Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị?
Tôi đáp rằng: Tiêu chí để nhận diện các vị thủy thần Việt là từ nhận thức về lịch sử…
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả mở đầu đã ghi rõ: Xưa tại Đại quốc Trung Hoa, đô đóng ở thành Thiên Thọ Bắc, lăng phần mộ tổ trời táng ở núi Côn Lôn, cùng năm hồ, biển lớn, núi Nam hội chầu chính đường. Ban đầu là từ cháu ba đời Viêm Đế dòng Thần Nông Thị, từ Hy Hoàng tới đó, truyền ngôi quốc bảo chính thống Nam Bang, để lại cho con cháu đời sau vậy.
Vua Minh Mạng cho lập miếu Lịch đại đế vương tại kinh thành Huế ở gian chính giữa đã đặt bài vị thờ Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn, Chu Vũ.
Nước ta là Đại quốc Trung Hoa, mộ tổ Hùng Vương ở núi Côn Lôn. Đế vương trải các đời Hữu Hùng Hiên Viên Hoàng Đế là Đế Minh mở muôn nước. Đường Nghiêu Ngu Thuấn là Đế Nghi và Lộc Tục của 2 nhánh Hồng – Lạc. Kinh Dương Vương là Đại Vũ trị thủy. Lạc Long Quân là Hạ Khải, mở đầu Hoa Hạ.
Do đó, các vị cổ thần từ tín ngưỡng Trung Hoa như Đạo giáo hay shaman giáo của người Dao sẽ tương đồng với các vị thần cổ của người Việt.
Cách diễn giải, hay cách nhận định về các nhân vật trong huyền sử Việt là được tính đến các khả năng sau:
– 1 nhân vật của thần tích và truyền thuyết là hình tượng của 1 triều đại, 1 dòng tộc nên có thể gồm nhiều nhân vật lịch sử có quan hệ dòng tộc với nhau ở các thời gian khác nhau.
– Thời gian của truyền thuyết không tính bằng năm tháng mà tính bằng sự kiện. Chỉ có những sự kiện quan trọng mới được ghi chép truyền lại.
– Hình tượng văn hóa trong mỗi truyền thuyết được kể theo một góc nhìn mang tín chất địa phương và dòng tộc. Cho nên 1 nhân vật có thể được kể dưới những tên gọi khác nhau tùy theo góc nhìn, góc kể.
Trường hợp của Quý Minh Đại vương là ví dụ, có 2 nhân vật đều được kể là Quý Minh. Một là Quý Minh vào đầu của thời kỳ Hùng Vương, anh em của Tản Viên Sơn Thánh. Một là Quý Minh ở vào giai đoạn cuối của thời kỳ Hùng Vương chống Thục.
Câu chuyện về Quý Minh được nhận diện theo Cổ Lôi ngọc phả, ghi rằng 1 trong người chú là Lý Long Cảnh đã giúp Kinh Dương Vương đánh giặc. Như vậy vẫn là 1 nhân vật Quý Minh nhưng có 2 cách kể. Kẻ theo dòng lên núi thì đó là Sơn thần phụ trách Lãng Nhạc. Kể theo dòng xuống biển thì đó là vị Thủy thần đi ngược từ cửa biển Thần Phù về Long Đỗ.
Đối với thần Long Đỗ từ trước tới giờ không có sự tích khi thần còn sống, chỉ có kể về sự hiển linh nên không thể nhận diện được nhân vật này. Tuy nhiên, nhờ Cổ Lôi ngọc phả cung cấp thông tin quan trọng rằng thần Long Đỗ là cha của bà Đỗ Quý Thị ở hồ Dâm Đàm, tức là Mẫu Thoải hay Thần Long Nữ. Từ đó cho thấy thần Long Đỗ là Động Đình Đế Quân trong Truyện họ Hồng Bàng. Đây là dòng Long tộc, ở phía Đông, tức là vùng ven biển Đông.
Vị cổ thần của phương Đông là Đông Vương Công hay Đông Hoa Đế Quân trong Đạo giáo. Và cũng từ thông tin của Đạo giáo cho biết Đông Vương Công là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế. Phù Tang là phương Đông. Như vậy vị vua Thủy phủ, xưng Đế, ở phương Đông thì rõ ràng là Động Đình Đế Quân. Suy ra Long Đỗ (theo sử dân gian) = Động Đình Đế Quân (theo họ Hồng Bàng) = Đông Vương Công (theo Tiên đạo thời Tần Hán) = Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế (theo Đạo giáo Tam phủ). Đây là nhận định mới của cuốn sách, nên không liên quan gì đến thời Lý Trần. Mà là tên gọi của những dòng tín ngưỡng và dòng chép sử khác nhau.
Thời kỳ Lạc Thị bắt đầu từ 4.000 năm lịch sử, không tương ứng vời thời Đông Sơn ở thiên niên kỷ 1 TCN, nên hiển nhiên không thể so sánh. Trong văn hóa Đông Sơn cũng có hình tượng Giao long, chính là rồng Lạc. Thời kỳ Lạc Long Quân khai phá miền biển được khẳng định bằng các di tích khảo cổ cồn sò điệp gặp rất nhiều nhất là ở ven biển miền Trung. Điển hình là di chỉ khảo cổ quốc giaThạch Lặc tại Hà Tĩnh, phát hiện cả xương người cổ tuổi 3500- 4000 năm. Di chỉ này năm ngay cạnh đền Sắc Thạch Lặc thờ Tam Lang Long Vương, là 3 vị thủy thần Lạc Thị, với hàng chục sắc phong từ thời Lê.
Mô hình phát triển xã hội ở thời kỳ Lạc Thị không phải là mô hình nhà nước quan chế đầy đủ, mà đó là thời kỳ Thị tộc phụ đạo, ngôi vị thiên tử được cha truyền con nối nên Lạc Long Quân được gọi là Vua cha. Thiên hạ chia thành các phương, mỗi phương được 1 vị quan chư hầu phụ trách cai quản, nên thời này có Ngũ phương yết đế, hay Ngũ vị Tôn quan.
Thay cho lời cuối, xin dẫn lời của Hồ Tông Thốc trong Việt Nam thế chí: Độc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì sẽ rõ ngọc đá, thấy được tiếng vang hình bóng của lịch sử, tôi đâu tự dám cho ý mình là thoả đáng.
Biên chép về thời kỳ Long Quân Lạc Thị qua tổng hợp từ Truyện họ Hồng Bàng và các di tích, thần tích tín ngưỡng thủy thần trên đất Việt.
Xưa, cháu ba đời của Viêm Đế thuộc họ Thần Nông là Đế Minh, Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Một lần đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp được nàng Vụ Tiên, lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh, sớm trưởng thành. Đế Minh bèn lập Đế Nghi cai quản đất Bắc, phong Lộc Tục trị vì phương Nam.
Đế Minh được tôn là đời Hùng Vương đầu tiên với tên thờ là Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Đột Ngột Cao Sơn. Bà Vụ Tiên lấy vua Hùng ở Ngũ Lĩnh là Tây Thiên Quốc mẫu, đã gặp Đế Minh ở ngọn núi Phù Nghĩa trên dãy Tam Đảo. Đế Nghi là người kế tục Đế Minh, được tôn là đời Hùng Vương thứ hai với tên là Viễn Sơn Thánh Tổ, cai quản vùng đất Hồng Lĩnh ở phương Bắc xưa gần Xích đạo.
Lộc Tục nối tiếp ngôi vua, đóng ở vùng đất phương Nam xưa, tức vùng đất Lạc trên miền Bắc Việt ngày nay. Lộc Tục được tôn là Ất Sơn Thánh Tổ, là đời Hùng Vương thứ ba. Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục là 3 vị Hùng Vương Thánh Tổ được người Việt tôn thờ ngàn đời trên núi Hùng ở miền đất tổ Phong Châu.
Kế ngôi vị của Ất Sơn Thánh Tổ theo lối truyền hiền (truyền cho con rể) là Tản Viên Sơn Thánh, nhờ có công lớn trong quá trình trị thủy thời Đường Nghiêu, khi nước lũ ngập ngang trời. Sơn Thánh lên ngôi gọi là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, lấy hiệu là nước Xích Quỷ, tức là Thủy quốc. Người Mường gọi Sơn Thánh là Lang Cun Cần, lưu truyền ngàn đời trong sử thi Đẻ đất Đẻ nước về sự kiện Kinh Dương Vương khởi đầu lịch sử người Việt với hai dòng sơn thủy. Hùng Vương Ngọc phả gọi ông là Hùng Việt Vương, đời Hùng Vương thứ tư trong Cổ Việt Hùng Thị Thập bát thế. Lịch sử Trung Hoa gọi ông là vua Đại Vũ trị thủy bên bờ Long Môn tại Thác Bờ (Hòa Bình).
Kinh Dương Vương thường dạo chơi dưới Thủy phủ, sau lấy con gái Động Đình Quân Long Vương. Long Vương Động Đình Đế Quân cũng là Long Đỗ hay Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, là người mở đầu của Thủy quốc Động Đình ở vùng ven sông biển. Kinh Dương Vương được dòng Thủy phủ gọi là Long cung Liễu Nghị, người đã kết duyên cùng Xích Lân Long Nữ của Thoải phủ. Kinh Dương Vương theo đó còn được gọi là Bột Hải Long vương.
Hai người sinh ra Lạc Long Quân bên bờ hồ Động Đình. Lạc Long Quân được kể là hoàng tử Linh Lang ở hồ Dâm Đàm, vốn là nơi rốn rồng của Thủy quốc Động Đình.
Lúc ấy, ở vùng đất Hồng Lĩnh phương Bắc xưa Đế Nghi đã truyền ngôi cho con là Đế Lai. Khi Kinh Dương Vương mất, Đế Lai muốn nhòm ngó nước Xích Quỷ nên đã xâm nhiễu phương Nam xưa, người dân địa phương không được yên. Dân chẳng thể làm ngơ liền dắt nhau gọi Long Quân rằng:
– Bố ơi! Chúa xứ Bắc quấy nhiễu nhân dân khổ lắm!
Long Quân vội đến, có thần thuật ẩn hiện biến hóa ra muôn trạng, yêu tinh quỷ mị, rồng rắn, tê giác, voi. Những kẻ tìm đến đều sợ hãi không dám tiếp tục. Đế Lai đành phải bỏ về.
Đế Lai được dòng Lạc thị kể là quân Thục tấn công đất nước của Hùng Vương. Linh Lang cùng với Lục bộ Thủy phủ dâng nước đánh đuổi quân Thục, chiếm được vị trí chủ thiên hạ, đóng đô nơi hồ Dâm Đàm, đất Thăng Long.
Lạc Long Quân lên ngôi, là Vua cha của Thủy phủ, tức Bát Hải Động Đình Long Vương trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Lạc Long Quân lập quốc lấy tên là Đào Hoa trang hay Hoa Hạ, lấy màu đỏ tượng trưng cho vùng đất ở gần miền Xích Đạo. Hùng Vương Ngọc phả gọi Lạc Long Quân là Hùng Hoa Vương, đời Hùng Vương thứ năm trong 18 đời vua họ Hùng.
Trong cuộc chiến này Lạc Long Quân được sự giúp đỡ của cả bên dòng Lạc của cha (Kinh Dương Vương) và dòng Long của mẹ (Thần Long Động Đình), nên khi lên ngôi vua lấy danh xưng là Lạc – Long Quân, tức là thủ lĩnh của cả 2 tộc người Lạc và Long.
Thủy quốc do Lạc Long Quân cai quản là khu vực các tộc người sinh sống dọc các nhánh của hệ thống sông Hồng và ven biển Đông thời cách nay trên 4.000 năm. Tên gọi Động Đình do đó gặp từ ngọn nguồn ba sông Đà Lô Thao, hợp lưu tại ngã Ba Hạc Việt Trì, rồi chia 9 nhánh theo cha Lạc Long về biển. Biểu tượng của Thủy quốc Động Đình là Long vương Tam Đầu Cửu Vĩ, hình tượng của dòng sông Hồng trên đất Việt cổ.
Trong cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân, đứng đầu bên dòng Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh là người chú Quý Minh đã cùng cháu đánh giặc và yên dân ở khắp nơi. Còn đứng đầu các bộ Thủy phủ Long cung là những người anh em sinh cùng bọc (cùng mẹ) của Lạc Long Quân. Do nước của Lạc Long Quân là Đào Hoa nên các vị Thủy quan này thường được chép mang họ Đào.
Trong số những vị Long hầu này vị có quyền hành lớn nhất là Thổ Lệnh Trưởng, quyền chưởng Trung Hoa Quốc tể, được gọi là Quan lớn Đệ Tam trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Người anh em có quyền lực thứ hai là Thạch Khanh, được gọi là Quan lớn Đệ Ngũ. Hai vị “sinh Bạch Hạc”, nên được gọi là các thần Bạch Hạc Tam Giang. Còn nơi thực ấp của Trung Thành Thổ Lệnh là ở vùng ngã ba Lảnh (Thường Tín – Hà Nam – Hưng Yên). Thạch Khanh hay Quan Tuần Tranh ban đầu tuần thú ở vùng sông Tranh (Hải Dương), sau bị dời lên miền sơn cước Lạng Sơn bên sông Kỳ Cùng.
Lạc Long Quân dạy dân cấy lúa trồng dâu, định tôn ti thứ bậc vua tôi, vợ chồng cha con theo đạo luân thường, khi về nơi sông nước, trăm họ sống vui vẻ tự nhiên, gặp việc cất tiếng gọi Long Quân bằng bố (tục phương Nam gọi cha là bố):
– Bố ơi! Ở đâu sao không ở đây sống với chúng con?
Tức thì Long Quân đến, dáng vẻ uy linh, cảm ứng khó lường.
Bắt đầu từ Lạc Long Quân, ngôi vị thủ lĩnh thiên hạ được định đoạt theo dòng phụ đạo, tức là cha truyền con nối. Vì vậy Lạc Long Quân được gọi là “Bố”, hay đức Vua cha của Thủy quốc.
Lại đặt tướng văn là Lạc hầu, tướng võ là Lạc tướng; con trai Vương là Quan lang, con gái Vương gọi là Mỵ nương; các ty gọi là Bồ chính, đầy tớ gọi là Xảo xứng. Đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo, chủ tướng tương truyền đều lấy hiệu là Hùng Vương mà không đổi.
Đất nước được chia thành nhiều vùng, mỗi vùng do một vị Long hầu phụ trách cai quản như lời Lạc Long Quân nói:
– Nay ta chia ra năm mươi người con quay về Thủy phủ mà chia trị các nơi, năm mươi người con theo nàng lên núi chia nước mà trị vì, lên non xuống biển có việc nghe được cùng giúp đỡ lẫn nhau, chớ được quên hẹn ước.
Bấy giờ, người ở trong rừng, chân núi đi bắt cá dưới nước thường bị giao long làm hại, liền nói với Vương bảo:
– Người Man ở núi với Thủy tộc khác biệt nhau, có kẻ xấu người tốt cho nên xâm hại lẫn nhau.
Vương liền lệnh cho thích mực vào người các hình trạng Long Quân, thủy quái thì giao long không dám cắn. Vì vậy, người Bách Việt có tục xăm mình.
Những vị thủy quan phụ trách cai quản các xứ do đó được thể hiện là những vị thần rắn hay Long vương. Suốt chiều dài thời gian của Lạc triều gần ngàn năm đã có nhiều vị thủy quan ở các khu vực. Tên tuổi, công nghiệp của họ do đó thường được gắn với sự tích sinh ra cùng bọc trứng, trưởng thành có khí chất như rồng như rắn, đánh giặc, trị thủy. Lúc hóa được tôn thờ là các vị thủy thần.
Thủa sơ khai, dân làm không đủ ăn nên lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy cây quan lang đồ lên ăn, bắt chim thú, cá tôm làm chất mặn, củ gừng làm chất cay, lấy dao, lửa canh tác (tức là đốt nương làm rẫy), phần lớn là lúa nếp, lấy ống tre bắn chim, gỗ làm nhà tránh thú dữ, cắt tóc để tiện đi vào núi rừng, sinh con thì bọc bằng lá chuối, chết thì lấy dùi đánh mõ làm hiệu, làng xóm nghe thấy chạy đến giúp. Nam nữ lấy chồng, lấy vợ trước tiên phải có gói trầu cau, rồi sau mới giết bò, dê làm lễ, lấy cơm nếp cùng nhau ăn cho hết mới thành thân. Về sau đường lối thông suốt. Trăm người con trai chính là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Dưới triều đại Lạc Thị, người Việt phát triển nghề nông tang, trồng lúa, trồng khoai, săn bắt chim thú, đánh cá ở sông biển, chăn nuôi bò dê, làm nhà gỗ, sống thành làng xóm, kết hôn lập gia đình, hình thành phong tục, lễ nghi, đường lối thông suốt. Lạc Long Quân cùng các vị Lạc hầu, Lạc tướng trở thành những vị thần tổ phù hộ người dân an cư lạc nghiệp ở miền đồng bằng.
Vào giữa thời Lạc triều, một vị quan Hầu đến từ vùng xứ Nghệ là Chử Đồng Tử đã tiếm ngôi dòng Lạc Thị, chặn đường Lạc Vương ở bãi Tự Nhiên bên bờ sông Hồng. Chử Đồng Tử lập nước riêng, gọi là Trạch quốc, đóng đô ở Khoái Châu (Hưng Yên), có nhiều quan quân theo về. Chử Đồng Tử xây dựng lâu đài, phát triển giao thương đường thủy, kết nối hai vùng đất Hồng và Lạc của thiên hạ. Chử Đồng Tử cũng phát huy lý thuyết Âm dương Ngũ hành, tròn vuông từ thời Tản Viên Kinh Dương Vương, học Tiên đạo từ vùng đất phía Tây (Tây Vương Mẫu – Tây Thiên Quốc mẫu) chữa bệnh, chữa lành cho nhân dân. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử “một đêm về trời”. Nước Đào Hoa Hạ dòng Lạc Thị lại trung hưng.
Lạc quốc không chỉ phát triển ra phía Đông ven biển mà còn lên phía Nam xưa (tức phương Bắc nay) sang vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông. Người Choang ở vùng này là dòng dõi Lạc Thị, tới giờ vẫn làm lễ tôn thờ Lạc Vương và Long Mẫu. Người Choang cùng nhóm dân tộc với người Tày Nùng ở miền Bắc Việt, nên việc thờ thần Rồng và Long Mẫu vẫn còn in đậm trong bản sắc những dân tộc này cho tới ngày nay. Thủ lĩnh Lạc Vương ở thời này đóng đô ở Dương thành tại Phiên Ngung (Quảng Đông). Giai đoạn Lạc thị Trung Hưng Hoa Hạ, mở nước về phía Đông Nam xưa được Hùng Vương Ngọc phả gọi là thời Hùng Uy Vương, triều đại Hùng Vương thứ sáu theo phả đồ.
Nhà Hạ Trung Hưng được thay thế bằng Bàn Vương trong tích Long Khuyển Bàn Hồ của người Dao. Nhóm tộc Miêu Dao là một trong những tộc người Bách Việt ở phương Nam đã làm nên nhà Thương trong lịch sử Trung Hoa. Trung tâm của giai đoạn này là vùng đất Kinh, tức là vùng Hồ Nam, phía Nam sông Dương Tử. Bàn Vương được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Huy Vương, tức là đời Hùng Vương thứ bảy theo phả đồ.
Một trong những vị Bàn Vương là vua Bàn Canh, đã thực hiện việc di dời dân chúng, tiến xa hơn về phía Nam xưa, vượt qua sông Trường Giang, lập nên nhà Thương thứ hai, gọi là nhà Ân. Các vua nhà Ân được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Duệ Vương, chỉ thời kỳ cuối của giai đoạn Lạc Thị theo cha xuống biển.
Vào thời Hùng Duệ Vương, trên miền Bắc Việt là đất Lạc cổ xưa, có các Lạc hầu, Lạc tướng làm chủ. Sử cũ còn ghi thời kỳ này xảy ra cuộc đụng độ giữa dòng Lạc họ Hùng và dòng Thục đến từ phía Tây. Sự tranh đấu giữa 2 nhánh lên núi – xuống biển, Hùng – Thục, Âu – Lạc này bắt đầu từ thời Lạc Long Quân dựng nước, kéo dài suốt giai đoạn Lạc Thị cho tới Hùng Duệ Vương. Các sự tích ở miền Bắc Việt ghi nhận là những vị Long hầu đất Lạc đã nhiều lần chống lại các cuộc tấn công của quân Thục. Kết quả cuối cùng là vua Hùng nhường ngôi cho Thục chủ, chấm dứt thời kỳ Lạc Thị theo cha khai phá miền biển, mở ra giai đoạn lịch sử mới khi 2 dòng Âu và Lạc tái hợp và sự lên ngôi của người con theo mẹ Âu Cơ ở Phong Châu là Hùng Quốc Vương. Qua bốn ngàn năm lịch sử từ cha Rồng xuất thế nơi Đào Động, 50 người con chia trị Ngũ phương, miền sông nước Động Đình đã vươn xa hơn ra biển. Thủy quốc Long Quân còn in đậm trong tín ngưỡng Tam tứ phủ, trong tục thờ thành hoàng ở hàng trăm, hàng ngàn ngôi làng ở Bắc Bộ, trong những bản thần tích, những bài sử thi dẫn đường cho linh hồn con cháu về với tổ tiên của người Kinh, Mường, người Tày, người Dao… Lịch sử cha ông không thể nào quên. Hỡi ôi, tiền nhân bất vong!