Tục cúng xá tội vong nhân, một đạo lý từ thời Hùng Vương

Từ bao đời nay, cứ vào đầu tháng Bảy người Việt lại có tục cúng ngày Xá tội vong nhân. Theo quan niệm dân gian vào ngày 2/7 âm lịch hằng năm, Diêm Vương mở cửa Quỷ Môn Quan để cô hồn dạ quỷ được trở về nhân gian. Rồi đến ngày rằm tháng 7 âm lịch, ma quỷ sẽ bị gọi trở lại địa ngục. Đây được coi là ngày “âm khí xung thiên”, nên người ở trần gian sẽ phải cúng cháo, gạo hay muối cho các vong linh, gọi là cúng cô hồn… Nguồn gốc của lệ tục này bắt đầu từ khi nào và liệu có liên quan gì đến lịch sử của người Việt?

Trong kho tàng huyền sử Việt có một câu chuyện vô cùng kỳ dị nói tới Diêm Vương và các hồn ma bóng quỷ. Đó là Truyện Giếng Việt, bắt đầu như sau:

Giếng Việt ở miền Trâu Sơn huyện Vũ Ninh. Đời vua Hùng Vương thứ ba, nhà Ân cử binh sang xâm chiếm nước Nam, đóng quân ở dưới núi Trâu Sơn. Hùng Vương cầu cứu Long Quân, Long Quân truyền đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ thì sẽ dẹp được giặc. Sóc Thiên vương ứng kỳ mà sinh, cưỡi ngựa sắt đánh giặc. Tướng sĩ nhà Ân đều bỏ chạy. Ân Vương chết ở dưới chân núi, biến thành vua Địa phủ, dân phải lập miếu thờ, lâu năm suy dần đền miếu bỏ hoang.”

Truyện Giếng Việt cung cấp một thông tin hết sức quan trọng, Ân Vương chết biến thành vua Địa phủ. Như thế, vua Ân chính là Diêm Vương, người cho mở Quỷ Môn Quan thả các vong hồn lên Dương thế vào tháng 7 hàng năm. Tục cúng cô hồn vào tháng 7 do đó liên quan tới cái chết của vua Ân trong cuộc chiến với Phù Đổng Thiên Vương.

Truyện Giếng Việt kể tiếp, đến đời Tần, có quan Ngự sử là Thôi Vĩ đã cho trùng tu lại miếu Ân Vương. Con trai của Thôi Vĩ là Thôi Lượng, sau đó đã đi lạc đường trên núi Trâu Sơn, đến được Ân Vương Thành và gặp mặt Ân Hậu. Ân Hậu tiếp đãi Thôi Vĩ một cách ân cần rồi cho Dương Quan dẫn Thôi Vĩ về. Sau đó Dương Quan nhân biến thành một con dê đá, đứng sau đền Việt Vương trên núi Trâu.

Núi Trâu Sơn nay thuộc địa phận huyện Quế Võ. Trên núi từng có đền thờ Ân Vương rất cổ xưa. Con “dê đá” ở đền Ân Vương là một bức tượng hình nửa thân của một con linh thú kỳ dị nằm trên núi ở thôn Cựu Tự thuộc xã Ngọc Xá. Bức tượng thú bằng đá sa thạch, rất lớn, cao khoảng hơn 1,5m, khắc hình con thú có cổ dài, thân có vảy như rồng, có 2 sừng cong như sừng dê, nhưng lại có mỏ như mỏ phượng và trên thân có 2 cánh và có chân.

Phi LiemTượng Phi Liêm ở thôn Cựu Tự trên núi Trâu Sơn.

Đây là tượng con thần thú Phi Liêm, loại thú kết hợp giữa Rồng và Phượng. Dạng tượng Phi Liêm bằng đá lớn như thế này thường được thấy từ thời Tần Hán, đặt cạnh các lăng mộ hay miếu thờ các vương tôn quý tộc. Phi Liêm cũng là tên một vị trọng thần của vua Ân trong Phong thần diễn nghĩa. Thần thú Phi Liêm là tiền thân cho hình tượng Thiên Lộc, Tỳ Hưu, những linh vật cát tường phổ biến về sau này.

Truyện Giếng Việt còn kể, Ân Vương đã sai vị Ma Cô Tiên đến trao cho Thôi Lượng thuốc ngải chuyên chữa bệnh u bướu và ban cho một người con gái để kết làm vợ, lại ban cho một viên ngọc Long Tụy, trong cặp ngọc báu thư hùng mà vua Ân mang theo người khi chết ở Trâu Sơn. Ma Cô Tiên được biết là một vị thọ thần và phúc thần trong văn hóa phương Đông, là từ câu chuyện Giếng Việt này.

Vùng núi Trâu Sơn nay còn có một ngôi chùa cổ khá lớn mang tên chùa Ma Cô Tiên, nằm ở thôn Châu Cầu, xã Châu Phong. Chùa còn lưu được nhiều bia ký từ thời Lê, nhưng đặc biệt các chữ Ma có trên bia đều bị đục bỏ. Rải rác ở các thôn quanh núi Trâu như ở Phùng Dị, Hữu Bằng có những ngôi miếu nhỏ thờ Ma Cô Tiên.

IMG_4000

Tượng Ma Cô Tiên ở Phùng Dị, xã Ngọc Xá.

Liên quan đến các âm hồn tác quái, truyền thuyết Việt còn có truyện Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thành cứ xây lại đổ. Vua chay giới cầu đảo, thì có Rùa Vàng hiện lên xưng là sứ giả Thanh Giang. Thanh sứ cho biết, đây là bởi vong hồn của Vương tử đời trước báo thù. Vong hồn này ẩn náu trong núi, cùng với yêu quái nguyên là tinh con gà trắng (Bạch Kê Tinh) hóa thành ở quán Ma Lôi bên núi, tụ tập gây hại. An Dương Vương cùng thần Kim Qui đi đánh yêu quái, bắt được Bạch Kê Tinh đem giết đi.

Ở núi Thất Diệu, nay thuộc khu vực xã Yên Phụ, Yên Phong, Bắc Ninh, có ngôi miếu Bạch Kê, trong đó thờ một vị “Mẫu Nghi Thiên Hạ” gọi là Mẫu Bạch Kê. Cùng trên núi đó có đình làng Yên Phụ và ngôi đền Núi cùng thờ đức Vua Bà Ma Vương. Ở đây còn có một cái ao được gọi là Giếng Cô Tiên, gắn với truyền thuyết Bạch Kê và việc xây thành Cổ Loa.

Từ những di tích tín ngưỡng ở núi Yên Phụ có thể thấy Bạch Kê Tinh ở Cổ Loa chính là Ma Cô Tiên, một phi nhân của Ân Vương hay của “Vương tử đời trước” đã báo oán Thục Vương khi xây thành. Làng Ma Lôi có quỷ tinh gà trắng hiện hình vào người con gái chủ quán cũng chính là nói đến vị Ma Cô Tiên.

Truyền thuyết kể, An Dương Vương sau khi diệt được Bạch Kê Tinh liền sai đào núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Xương người chết xưa kia chất đầy trong núi, tạo nên oan khí vô cùng, nên mới hình tượng thành Ma Cô Tiên – Bạch Kê Tinh gây hại. Những địa danh như ngã ba Sọ, chợ Chờ, đò Lo ở vùng Yên Phong cũng gắn nỗi ám ảnh của người dân xưa kia khi phải đi qua vùng núi này.

Lịch sử Trung Hoa kể, khi bị quân đội của Vũ Vương nhà Chu, cầm đầu bởi đại tướng là Khương Tử Nha tấn công vào kinh đô Triều Ca, Ân Trụ Vương đã đốt cháy Lộc Đài và nhảy vào biển lửa tự vẫn, chấm dứt thời kỳ nhà Ân Thương kéo dài khoảng 600 năm và đồng thời chấm dứt cuộc chiến giành giật thiên hạ hàng chục năm giữa 2 nhà Ân và Chu với bao nhiêu đổ máu cho cả 2 bên.

Kết thúc cuộc chiến này, các tướng lĩnh đã hy sinh của cả 2 bên đã được vào đưa vào bảng phong thần, trở thành các vị thần có thờ tự. Còn bao nhiêu sinh linh đã thiệt mạng trong cuộc chiến, mà bi thảm nhất chính là cái chết của Trụ Vương, thì được cúng tế trong tục cúng cô hồn. Ngày cúng cô hồn là ngày kinh thành của Ân Vương thất thủ, nước mất, nhà vong.

Tháng 7 là tháng đầu mùa thu theo Âm lịch. Thục Vương hay Chu Vương là thủ lĩnh khu vực phía Tây thiên hạ, lấy mùa thu làm tháng biểu tượng cho triều đại. Khởi đầu mùa thu cũng nghĩa là khởi đầu triều đại phía Tây của nhà Thục hay nhà Chu trong lịch sử.

Cúng cô hồn tháng Bảy hàng năm thực chất là ngày cầu siêu cho nhân dân đói khổ vì chiến tranh loạn lạc, binh sĩ nơi sa trường, đã chết trong cuộc chiến khốc liệt giữa nhà Chu và nhà Ân hay Thục Vương và Hùng Vương của 3000 năm trước. Cũng vì lẽ đó mà nó được gọi là ngày xá tội vong nhân. Sau chiến tranh, những tử sĩ dù là của bên nào cũng đều được xá tội, được hương khói cho siêu thoát các vong hồn. Việc xá tội cho cả kẻ thù bên kia chiến tuyến để có được lòng người, có được sự đại đoàn kết của toàn dân là cái đức của người làm vua, là thiên mệnh giúp quốc gia bền vững. Thiên hạ đại xá để bắt đầu một triều đại mới.

Xã hội phương Đông phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ (thời Ân Thương hay Hùng Vương) sang chế độ phong kiến (nhà Chu hay nhà Thục nước Âu Lạc) đã phải trải qua một cuộc “cách cổ đỉnh tân”, thay cũ đổi mới, thật đắt giá với hàng vạn người đã đầu rơi máu chảy. Tục cúng xá tội vong nhân tháng Bảy thể hiện đạo lý nhân bản, vị tha, cầu sinh, chán ghét chiến tranh. Nó nhắc nhở mọi người không quên những người nghèo khổ đã khuất, những binh sĩ bỏ mình vì nước, bởi không có sự hy sinh của họ thì xã hội đã không thể tiến lên phía trước, chúng ta cũng không thể có cuộc sống an lành ngày hôm nay.

IMG_5360

Chiếc Dữu đựng rượu thời Ân Thương.

Đạo lý này cũng thể hiện qua bài thơ mà Ngự sử đại phu Thôi Vĩ đã đề ở miếu Ân Vương trên núi Trâu:

Thắng thua một cuộc không Ân đức

Vạn thế linh thiêng trấn Việt Thường

Trăm họ một lòng cùng thờ phụng

Xin phù tổ quốc mãi yên phương.

Xa toi vong nhan

Tê giác, loài Kỳ lân của cổ văn hóa sử phương Đông

Kỳ lân là biểu tượng của văn hóa và lịch sử cổ truyền ở Việt Nam cũng như Trung Quốc. Tương truyền, khi Khổng Tử sinh ra ở nước Lỗ thì thấy Kỳ lân xuất hiện, báo hiệu thánh nhân ra đời. Khổng Tử chép Kinh Thư từ thời thượng cổ đến khi Lỗ Ai Công săn được Kỳ lân thì dừng lại. Vì thế Kinh Thư còn được gọi là Lân Kinh, là cuốn sách về lịch sử Trung Hoa cổ đại. Thế nhưng, liệu ai có thể ngờ được rằng, nguyên mẫu của Kỳ Lân, con vật đứng đầu trong Tứ linh, lại là con Tê giác, một loài vật chỉ gặp ở xứ nhiệt đới phương Nam.

Trong Kinh Thi phần Chu Nam có bài thơ Quyển nhĩ như sau:

Trèo lên trái núi
Ngựa ta mệt rồi
Bình ta rót rượu hủy quang
Để mà tránh khỏi đau thương lâu dài.”

Bà Chu hậu nhớ chồng đi xa, lên núi cao, uống rượu trong một chiếc “hủy quang” để mong quên đi nỗi nhớ thương.

Hủy quang là một loại đồ vật bằng đồng, mô phỏng hình dáng con Tê giác, dùng để đựng rượu, thịnh hành ở thời Tây Chu. Một chiếc Hủy quang bằng đồng xanh của thời kỳ này được thấy ở Lào.

Te giac

Chiếc quang đựng rượu hình Tê giác thời Tây Chu.

Chiếc quang hình con Tê giác này có phần đầu rất lớn, một sừng to, cong, vươn ra phía trước. Sừng khác nhỏ hơn ở trên trán. Tai Tê giác nhọn. Phần sau của nắp quang là hình mặt lợn, mõm rộng, tai cong. Con mắt của chú Tê giác này to tròn, rất sống động. Phần thân chiếc quang Tê giác được trang trí bằng những hoa văn nổi. Dài theo thân quang ở mỗi bên là hình một con chim lớn, cách điệu, mỏ tù, đuôi dài, mào cong như con chim phượng trên chiếc quang chim thú ở trên. Phần ngực Tê giác hai bên có hình con quỳ long nhỏ, có sừng, đang há miệng, quay đầu về phía con chim phượng.

Tê giác vốn là một loài thú lớn, chỉ sống ở vùng nhiệt đới nóng ẩm. Vậy mà hình tượng Tê giác đã đi vào trong kinh sách và hiện vật văn hóa Trung Hoa hàng ngàn năm trước. Suy xét sâu hơn nữa thì Tê giác còn hiện hữu trong văn hóa phương Đông ở trong bộ linh vật là Tứ linh.

Sách Lễ ký của Khổng Tử, tài liệu sớm nhất nói về Tứ linh, cho một trật tự 4 con vật này như sau: “Lân, Phụng, Quy, Long”. Theo đó, con Lân hay Kỳ Lân là loài linh vật đứng đầu Tứ linh.

Khái niệm Tứ linh liên quan trực tiếp đến học thuyết Ngũ hành trong văn hóa phương Đông. Bảng kê đầy đủ về Ngũ hành được tóm tắt thấy trong sách Lã Thị Xuân Thu của Lã Bất Vi đời Tần như sau:

– Mộc đức: mùa Xuân, phương Đông, màu xanh. Động vật tiêu biểu là loài có vảy, tức là chỉ con Rồng (Long)

– Hỏa đức: mùa Hè, phương Nam, màu đỏ. Động vật tiêu biểu là loài chim có lông vũ, chỉ chim Phượng hoàng (Phụng).

– Kim đức: mùa Thu, phương Tây, màu trắng. Động vật tiêu biểu là loài thú có lông mao, tức là chỉ Kỳ lân (Ly).

– Thủy đức: mùa Đông, phương Bắc, màu đen. Động vật tiêu biểu là loài giáp giới, chỉ con Rùa (Quy).

Theo bản kê trên, Lân là con thần thú đứng đầu các loài có lông mao và là biểu tượng của hướng Tây. Điều này trùng khớp với tên của loài Tê giác vì bản thân chữ Tê còn có âm đọc là Tây.

Một câu hỏi là trong Tứ linh tên gọi đúng là con Ly hay là con Lân? Phép phiên thiết Hán Nôm giúp giải đáp câu hỏi này. Kỳ lân đọc phản thiết là Ly. Tức là “Kỳ lân” là từ ghi âm của chữ Ly. Gọi là Lân hay Ly đều là về một con vật, một hình tượng.

Bàn về nguyên mẫu và ý nghĩa của con Lân có thể xem bài phong dao Lân chi chỉ (Chân con Lân) trong Kinh Thi (phần Chu Nam):

Kìa là chân của Kỳ lân. Con Văn Vương cũng hậu nhân rõ là. Ôi, như Kỳ lân thật mà!
Kìa là trán của Kỳ lân. Cháu Văn Vương cũng hậu nhân vô cùng. Ôi, như Kỳ lân, một lòng!
Kìa là sừng của Kỳ lân. Họ Văn Vương cũng hậu nhân xiết nào. Ôi, như Kỳ lân làm sao!

Về con Lân trong bài thơ này tác giả Chu Hy (thế kỷ 12 thời Nam Tống) đã chú giải như sau: “Lân, loại thú mình giống con chương, đuôi bò, móng ngựa, thú đứng đầu trong các loài có lông… Chân con Lân không đạp lên cỏ tươi, không dẫm lên côn trùng còn sống.

Ngày nay cả ở Việt Nam và Trung Quốc đều thể hiện Kỳ lân ở dạng loài động vật bốn chân móng guốc, đầu rồng, thân có vảy. Nhưng như vậy hóa ra Kỳ lân là con Long mã (đầu rồng chân ngựa). Điều này hoàn toàn không phù hợp vì trong bộ Tứ linh đã có riêng con rồng (Long) là loài có vảy. Ở vị trí con Lân phải là loài có lông mao.

Bài Lân chi chỉ trong Kinh Thi ca ngợi dòng dõi Chu Văn Vương, có lòng nhân hậu, có thánh đức như con Lân không dẫm lên côn trùng, không ăn sinh vật… Con Lân hay con Ly là con thần thú biểu tượng của nhà Chu, cho lòng nhân đức của Văn Vương, người khởi dựng nhà Chu trong lịch sử.

Gom Cay Mai Tượng Kỳ lân trong dòng gốm Cây Mai Nam Bộ.

Ở miền Nam Việt Nam trước đây có dòng gốm Cây Mai cũng thường tạo hình Kỳ lân dưới dạng con thú có râu dài, có một sừng và có hai bông hoa lớn, ý chỉ là loài không ăn thịt, cũng là có nghĩa ca ngợi tính nhân hậu của Kỳ lân. Con vật có lông mao, hình dáng như con hươu lớn, có móng guốc như ngựa, đuôi như đuôi bò, ăn hoa lá, có một sừng, lại biểu tượng cho hướng Tây thì chắc chắn phải là con Tê giác.

Trong cuốn Hoa văn Việt Nam, tác giả Nguyễn Du Chi có bàn như sau: Ở Việt Nam hình tượng Kỳ lân cũng được du nhập vào rất sớm. Từ thời Lý đã được chú ý đến loại đề tài này. Tuy nhiên, đọc sách vở thấy Kỳ lân có nhiều nét giống Tê giác, nên năm 1057 triều đình nhà Lý đã mang hai con này qua Quảng Châu định cống vua Tống và nói là Kỳ lân. Vì người Trung Quốc tin rằng chỉ có thánh nhân ra đời mới có Kỳ lân xuất hiện nên các quan nhà Tống đã cãi nhau sôi nổi về việc con vật được cống nạp này. Sách Tục tư trị thông giám trường hiện của Lý Đảo đời Tống còn chép rõ hình dáng con vật: “Hình như trâu, mình có da dày từng mảnh như giáp, đầu mũi có sừng, hay ăn cỏ, quả, dưa, cho ăn phải lấy gậy đanh nó mới ăn”.

Có thể nhận ra rằng vì các loài Tê giác chỉ có ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nên những người phương Bắc (Trung Quốc) không biết nguyên mẫu con Lân là con Tê giác. Do đó đã biến con Lân trong văn hóa Trung Hoa thành một con vật hoàn toàn tưởng tượng (Long mã), không phù hợp với những mô tả về Kỳ lân trong thư tịch cổ.

Te giac chua Phat Tich 2Tượng Tê giác thời Lý ở chùa Phật Tích, Bắc Ninh.

Tê giác là loài vật vốn rất được tôn trọng ở nước ta không chỉ bởi sừng Tê là vật quý. Với ý nghĩa cát tường, hình Kỳ lân – Tê giác một sừng đã được vẽ màu trên những chiếc đĩa gốm Chu Đậu nổi tiếng khắp thế giới. Tê giác cũng bắt gặp trong những cặp tượng linh thú thời Lý đặt trước sân chùa Phật Tích ở Bắc Ninh, hay chầu bên lăng mộ các vua Lê ở Lam Kinh, Thanh Hóa.

Tê giác trong văn hóa phương Đông là tượng trưng cho sức mạnh tinh thần, trí tuệ và văn hóa. Vua Minh Mạng khi lên ngôi, cho đúc Cửu đỉnh đặt ở Thái miếu tại Hoàng thành Huế, cũng đã cho khắc hình con Tê lên Chương đỉnh, như một biểu tượng của văn chương.

Con Tê giác cuối cùng ở Đông Dương đã tuyệt chủng năm 2010 tại Vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai), nhưng hình tượng Tê giác – Kỳ lân sẽ không thể mất trong văn hóa Việt vì nó đã hóa thành loài vật linh thiêng bất diệt trong Tứ linh, biểu tượng cho một nền văn minh sớm, đầy rực rỡ của người Việt.

IMG_5027Hình con Tê trên Chương đỉnh ở Huế.

Với việc phục hồi nguyên mẫu của Kỳ lân là loài Tê giác, linh vật của hướng Tây, thì định vị của Trung Nguyên thời kỳ nhà Chu chắc chắn phải dời xa hơn về phương Nam, nơi có loài thú này sinh sống. Bởi Trung Nguyên có nghĩa là chỗ giữa của thiên hạ bốn phương. Thần thú Kỳ lân nay đã hiện nguyên hình là con Tê giác thì lịch sử phương Đông cổ đại, gắn liền với sự khởi lập thiên hạ của nhà Chu, với triết lý Âm dương Ngũ hành, với biểu tượng Tứ tượng Tứ linh… rồi cũng sẽ trở nên sáng tỏ, trở về bản căn vốn có của sự thật lịch sử.

MINH THI

(Báo Lao động cuối tuần số 35 từ 28.8 đến 30.8.2020. Trang 4-5.)

Tháng Bảy cô hồn là sự kiện gì trong lịch sử?

Theo quan niệm dân gian cứ vào ngày 2/7 âm lịch hằng năm, Diêm Vương sẽ cho mở cửa Quỷ môn quan để cô hồn dạ quỷ được trở về nhân gian. Rồi đến ngày rằm tháng 7 âm lịch, ma quỷ sẽ bị gọi trở lại địa ngục. Đây cũng là ngày “âm khí xung thiên”. Người ở trần gian sẽ phải cúng cháo, gạo hay muối cho các vong linh…
Còn Truyện giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái cho biết: Đời vua Hùng Vương thứ ba, nhà Ân cử binh sang xâm chiếm nước Nam, đóng quân ở dưới chân núi Trâu. Hùng Vương cầu cứu với Long Quân, Long Quân hóa thành Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc, quân nhà Ân đều thua chạy. Vua nhà Ân chết trận dưới chân núi, biến thành vua ở địa phủ, dân phải lập miếu thờ, bốn mùa đều phải hương khói.
Theo đó, vua Ân chết biến thành vua Địa phủ, tức chính là Diêm Vương, người cho mở Quỷ Môn quan thả các vong hồn lên dương thế vào tháng 7 hàng năm. Từ dữ liệu này có thể nhận định rằng tục cúng cô hồn vào tháng 7 liên quan tới cái chết của vua Ân trong cuộc chiến với Phù Đổng Thiên Vương.
Ở núi Trâu Sơn, hay núi Vũ Ninh nay thuộc Quế Võ, Bắc Ninh vẫn còn những dấu vết trực tiếp của câu chuyện Giếng Việt, với những “hang nhà Ân” như những cung điện ngang dọc trong lòng đất (các mộ gạch cổ). Khu vực núi Vũ Ninh thờ Triệu Vũ Đế, nhưng nhiều khi tượng thờ vua Triệu lại được dân địa phương gọi là “tượng người Ân”.
20191124_092438 (2)
Tượng Triệu Vũ Đế xưa thờ ở Trâu Sơn.
Liên quan đến các âm hồn, truyền thuyết Việt còn có truyện Bạch Kê tinh ở Cổ Loa: Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trắng sống lâu ngàn năm, hóa thành yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu. Trong núi có ma, đó là hồn người nhạc công triều trước chôn ở đây.
Tinh Gà trắng hại người ở quán bên chân núi, hàng đêm lại hóa thành con cú bay đậu lên cây chiên đàn, ngậm lá thư kêu Trời, làm cho thành Cổ Loa cứ xây xong lại đổ. Nhờ có Huyền Thiên Lão Tử cử thần Kim Quy đến diệt trừ thì mới dẹp yên.
Miếu Bạch Kê ở núi Thất Diệu nay vẫn còn. Câu đối ở cổng miếu:
千秋鈥鈿前王澤
百越山河故國恩
Thiên thu hỏa điền tiền vương trạch
Bách Việt sơn hà cố quốc ân.
Dịch:
Hỏa điền ngàn năm lộc vua trước
Núi sông Bách Việt ơn nước xưa.
Câu đối này coi Bạch Kê là “tiền vương” của Bách Việt.
Bach Ke
Miếu Bạch Kê ở thị trấn Sọ, Yên Phong, Bắc Ninh.  
Đền Bạch Kê nằm ở thị trấn Sọ, cho thấy xương người chết xưa kia ở đây đã chất đầy trong núi, tạo nên oan khí vô cùng… Lĩnh Nam chích quái kể lại việc “khai quật” này khi Thục An Dương Vương xây Cổ Loa: Vua liền sai đào núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông.
Trong lễ tục mở cửa mả, siêu thoát cho người đã khuất cũng có dùng một con gà trống kêu quanh mộ người chết. Kê tinh như thế là biểu tượng cho âm hồn. Mà cụ thể trong truyện ở Cổ Loa, là hiện thân của “con vua đời trước” muốn báo thù cho nước.
Môt liên hệ nữa là bản thân gà trống là chữ Hùng 雄 trong tên Hùng Vương. Kê tinh như thế chỉ oan hồn của vị vua Hùng “đời trước”, đã bị mất nước bởi Thục Vương. Thục An Dương Vương ở Cổ Loa là triều đại mà đã đánh dẹp nhà Ân. Như thế Bạch Kê tinh tức chính là âm hồn của Ân Vương.
Lịch sử kể, khi bị quân đội của Vũ Vương nhà Chu, cầm đầu bởi Khương Tử Nha tấn công vào kinh đô Triều Ca, thì Ân Trụ Vương đã đốt cháy Lộc Đài và nhảy vào biển lửa tự vẫn, chấm dứt thời kỳ nhà Ân Thương kéo dài khoảng 600 năm, chấm dứt cuộc chiến giành thiên hạ hàng chục năm giữa Ân và Chu, với bao nhiêu đổ máu cho cả 2 bên.
Kết thúc cuộc chiến này, các tướng lĩnh đã hy sinh của cả 2 bên đã được vào đưa vào bảng phong thần, trở thành các vị thần có thờ tự. Còn bao nhiêu sinh linh đã thiệt mạng trong cuộc chiến, mà bi thảm nhất chính là cái chết của Trụ Vương, thì được cúng tế trong tục cúng cô hồn.
Ngày rằm tháng 7 theo Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả là ngày hóa của Hùng Huy Vương, húy là Long Tiên Lang. Triều đại tiếp theo là Hùng Ninh Vương, húy là Thừa Văn Lang. Thông tin này khẳng định thêm nhận định về Thương – Chu ở trên. Long Tiên Lang là dòng vua Hùng theo cha Lạc Long Quân ở phía Đông, tức là nhà Ân Thương. Còn Ninh Vương chính là tên của Cơ Phát hay Chu Vũ Vương, người kế thừa nước Văn Lang của Chu Văn Vương, nên có tên là Thừa Văn Lang.
Cúng cô hồn tháng Bảy hàng năm thực chất chính là ngày cầu siêu cho nhân dân đói khổ vì chiến tranh loạn lạc, binh sĩ nơi sa trường, đã chết trong cuộc chiến khốc liệt giữa Chu – Thục Vương và Ân – Hùng Vương của 3000 năm trước.
Xã hội phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ (thời Ân Thương) sang chế độ phong kiến (Chu Văn Lang) đã phải trải qua một cuộc “cách cổ đỉnh tân”, thay cũ đổi mới, thật đắt giá với hàng vạn người đã đầu rơi máu chảy, sọ chất thành núi như ở Cổ Loa.

Tết Đoan Ngọ là ngày lễ gì trong sử Việt?

Câu ca dao lưu truyền:
Tháng năm là tết Đoan Dương
Nhớ ngày giỗ mẹ Việt Thường Văn Lang.
Vậy tế Đoan Dương hay Đoan Ngọ ngày 5 tháng 5 là ngày giỗ ai?
Cuốn Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả đem lại câu trả lời rõ ràng.
Phần Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền tự điển ghi:
Hùng Quốc Vương… giờ Ngọ ngày 5 tháng 5 năm Canh Ngọ cùng sinh với trăm vương năm Canh Ngọ.
Phần Nam Việt Hùng Thị sử ký ghi:
Tới đầy tuần sinh nở, vào năm Canh Ngọ ngày 5 tháng 5, đúng ban ngày giờ Ngọ, mặt trời chiếu thẳng. Cái thai thần của Âu Cơ chuyển động, rồng mây đầy nhà, ánh sáng loé lên. Trong trướng, hoàng phi sinh ra một bọc ánh như ngọc trắng, hương lạ thơm nức.
NVHVNP040
Trang Nam Việt Hùng Thị sử ký ghi giờ Ngọ ngày 5 tháng 5 năm Canh Ngọ Âu Cơ đĩnh sinh bào ngọc trăm trứng.
Ngày 5 tháng 5 là ngày mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở ra trăm trai. Người con trưởng là Hùng Quốc Vương lên làm vua, lập nước Văn Lang. Đây chính là sự kiện đĩnh bách nam khai Bách Việt như câu đối ở đền Hùng nói tới.
Số 5 là con số trung tâm của Hà Lạc, chỉ thủ lỉnh. 5 là Ngũ, cũng là Ngọ. Do đó giờ Ngọ, ngày Ngọ, tháng Ngọ, năm Canh Ngọ đều có ý chỉ vua, chỉ thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc Bách Việt.
Ngày Đoan Ngọ là ngày “giỗ mẹ Việt Thường“, tức là bà Âu Cơ. Khi bà mẹ của triều đại trước mất (ngày giỗ) thì cũng là ngày triều đại kế tiếp bắt đầu. Mẹ Việt Thường tên là Văn Lang tức là Chu Văn Vương.
A03 den Au Co
Đền Hiền Lương nơi thờ Âu Cơ tại Hạ Hòa, Phú Thọ.
Ngày Đoan Ngọ cũng là ngày sinh của Hùng Quốc Vương và trăm người con trai, nên mới có tên Văn Lang trong câu ca dao. Ý chỉ là ngày khởi đầu của Bách Việt với nước Văn Lang là vua chủ.
Tết Đoan Ngọ do đó là lễ ngày lập nước Văn Lang, dựng nên cơ đồ Bách Việt từ bà mẹ Âu Cơ. Đối chiếu Hoa sử thì đây là ngày Chu Văn Vương (tức Âu Cơ) mất, Chu Vũ Vương (tức Hùng Quốc Vương) lên ngôi, mở đầu thiên hạ nhà Chu, phân phong các chư hầu trăm nước (Bách Việt).
Câu đối ở đền Hiền Lương, nơi thờ quốc tổ Âu Cơ:
遡鴻厖締結以來僊種永傳留國祖歷家郡肇修而後人群緬慕播炎邦
Tố hồng mang đế kết dĩ lai, tiên chủng vĩnh truyền lưu Quốc tổ
Lịch cô quận triệu tu nhi hậu, nhân quần miễn mộ bá Viêm bang.
Dịch:
Nhớ thủa hồng mang gắn kết tới nay, nòi tiên mãi lưu truyền là Quốc tổ
Trải đất cô quận dựng sửa sau về, bầy dân luôn ngưỡng mộ khắp Viêm bang.

Tháp Báo Thiên – trấn Nam thành Thăng Long

Bản đồ khu vực Thăng Long thời Hồng Đức cho thấy phía Bắc hoàng thành có quán Chân Vũ bên hồ Tây, phía Đông là đền Bạch Mã, phía Tây là đền Linh Lang. Tuy nhiên, ở phía Nam hoàng thành lúc đó còn rất xa đàn Nam Giao, không hề có đền Kim Liên – trấn Nam Thăng Long theo quan niệm hiện nay. Thay vào đó ngay gần Nam môn là ngọn tháp Bảo Thiên cao lớn.
(Tên thường gọi là tháp Báo Thiên là theo tên ngôi chùa. Còn tên đầy đủ của tháp là Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp (大勝資天寳塔). Do đó bản đồ Hồng Đức gọi là tháp Bảo Thiên)
Từ bản đồ này có thể thấy, trong Tứ trấn của kinh thành Thăng Long thì vị trí trấn Nam thời Lê sơ không phải là đền Kim Liên với thần Cao Sơn, mà là chùa Báo Thiên. Chùa Báo Thiên là ngôi chùa đóng vai trò trấn Nam của Thăng Long khi đó.

Hong Duc

Bài thơ của Đề Báo Thiên tháp của Phạm Sư Mạnh thời Trần góp phần khẳng định thêm nhận định này: 
Trấn áp Đông Tây giữ đế kỳ 
Một mình cao ngất tháp uy nghi 
Chống trời cột trụ non sông vững 
Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy 
Chuông khánh gió đưa vang đối đáp 
Đèn sao đêm đến rực quang huy 
Đến đây những muốn lưu danh tính 
Mài mực sông xuân viết ngẫu thi.
Câu đầu tiên của bài thơ “Trấn áp Đông Tây củng đế kỳ đã cho thấy tháp Báo Thiên chính là vật trấn cho kinh đô (đế kỳ).
Hướng Nam kinh thành là hướng quan trọng nhất vì quan niệm xưa vua quay mặt về phương Nam mà trị vì. Tháp Báo Thiên được dựng ở chính đối diện Nam Môn càng cho thấy ý nghĩa của nó đối với tâm linh của kinh thành. Nhưng chùa/tháp Báo Thiên thờ vị thần nào, hay vị thần nào là thần trấn Nam Thăng Long lúc này?
Quan niệm cho rằng đã là “chùa” thì thờ Phật, không hẳn luôn đúng. Thờ Phật thì đã không gọi là Báo Thiên – báo ơn Trời. Hơn nữa người xưa không dùng Phật để làm thần trấn giữ kinh thành.
Chùa – tháp Báo Thiên là nơi từng nhiều lần dưới thời Lý dùng để cầu mưa. Cổ Châu Phật bản hạnh ngữ lục ở chùa Dâu (Bắc Ninh) chép:
Bằng đời vua Lý Nhân Tông
Ba năm mưa gió đùng đùng đã rân
Vua phán rước Bụt Pháp Vân
Ra Báo Thiên tự minh quân chúc kỳ.
Đại Việt sử ký toàn thư chép dưới thời Lý Thần Tông: Vua ngự đến chùa Bảo Thiên, làm lễ phật Pháp Vân để cầu mưa. Đêm hôm ấy mưa to.
Chùa Báo Thiên hay Bảo Thiên tháp lễ phật Pháp Vân mà cầu mưa. Chùa này như thế nằm trong hệ thống thờ Tứ pháp.
Ở khu vực tháp Báo Thiên xưa từng tìm thấy bức tượng đá, gọi là Bà Đá và được lập thành chùa. Chùa Bà Đá nay vẫn còn. Cách gọi “Bà” là cách gọi tương tự đối với Tứ pháp. Rất có thế pho tượng Bà Đá này là tượng Pháp Vân (Bà Dâu).
Các chùa thờ Tứ pháp thực ra thờ chính là Thạch Quang Phật hay hình tượng Linga, biểu trưng của thần Shiva/Indra. Trong văn hóa Việt ở miền Bắc xưa thần Shiva/Indra được gọi dưới tên Vua Trời Đế Thích. Đây là lý giải cho chữ Thiên trong tên của tháp Báo Thiên.

20190720_182713 (2)Tranh vẽ tháp Báo Thiên trong chùa Lý Quốc Sư.

Dưới thời Lý, vị thần được tôn thờ trong các chùa thường không phải Phật Thích Ca, mà lại là Đế Thích. Ví dụ, thời Lý Thánh Tông, Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Mùa đông tháng 12 làm hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ, đúc hai pho tượng Phạn Vương và Đế Thích bằng vàng để phụng thờ.
Còn thờ Lý Thần Tông: Dựng hai chùa Thiên Ninh, Thiên Thành và tô tượng Đế Thích. Vua ngự đến xem.
Các chùa có thờ Đế Thích này đều có chữ Thiên.
Như thế, chùa Báo Thiên thực ra là thờ Vua Trời Đế Thích, nằm trấn ở hướng Nam của Thăng Long. Vua là thiên tử, quay mặt về phương Nam mà trị vì, nên ở hướng Nam đặt Vua Trời làm trấn là hợp lý.
Tháp Báo Thiên còn liên quan đến vị thiền sư nổi tiếng thời Lý là Nguyễn Minh Không, mà nay còn chùa Lý Quốc Sư, vốn là đền thờ Nguyễn Minh Không ở khu vực phường Báo Thiên xưa. Đại Việt sử ký toàn thư chép vào thời Lý Thần Tông:
Tháng 5, đại hạn, cầu đảo được mưa to. Chủ đô Nhiễm hoàng là Hà Nhi dâng chim sẻ trắng. Dựng nhà cho đại sư Minh Không.Đọc đoạn này ta có thể hiển đại sư Minh Không đã được Lý Thần Tông cho dựng nhà vì đã cầu đảo được mưa to khi đại hạn. Nguyễn Minh Không được biết là được vua ban cho khu ấp gần tháp Báo Thiên làm Tịnh xá, trước kia gọi là làng Tiên Thị, nay là nơi có chùa Lý Quốc Sư. Như thế, đại sư Minh Không đã lập công cầu mưa ở chùa Báo Thiên nên được ban nhà ban đất ở vùng này.
Sau đó, khi Lý Thần Tông mắc bệnh, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm quốc sư. Tha phú dịch cho vài trăm hộ.
Việc tha phú dịch cho vài trăm hộ này là liên quan đến sư Minh Không, tức là các hộ dân ở vùng đất ban trước đó được miễn phú dịch do ơn đức của sư Minh Không và để phục dịch cho nhà chùa nơi sư ngụ.
Tháp Báo Thiên xây gạch nhưng chóp tháp lại bằng đồng. Đỉnh tháp này tương truyền là một trong An Nam tứ đại khí. Các tháp thời Lý Trần thường ở trên đỉnh có hình hoa sen, có chức năng để đốt đèn (dùng dầu lạc). Như thế chức năng của cái chóp đồng trên đỉnh tháp Báo Thiên khả năng cũng là một hình Sen Đăng, biểu tượng của ánh sáng hay mặt trời.

IMG_4725Cây Thiên hương ở chùa Lý Quốc Sư.

Hiện ở chùa Lý Quốc Sư còn một cây Thiên hương cổ dựng trước cửa chùa. Khả năng Thiên hương là hình tượng phát triển lên từ những cây cột đèn đá hoặc tháp gạch trước đây.
Chùa Lý Quốc Sư vốn là đền Tiên Thị thờ thiền sư Nguyễn Minh Không. Tên làng Tiên Thị, đất tịnh xã của Nguyễn Minh Không, nghĩa là chợ Tiên. Chữ Tiên này hẳn là chỉ thiền sư Minh Không.
Câu đối ở chùa Lý Quốc Sư nói tới tháp cổ và chợ Tiên ở nơi am của thiền sư:
古寺塔流餘苨址
真僊市在闢師庵
Cổ Tự Tháp lưu dư nễ chỉ

Chân Tiên Thị tại tịch sư am.
Dịch:
Chùa tháp xưa còn nơi rậm rạp 
Chợ tiên thực ở cửa am sư.
Tự Tháp và Tiên Thị là đều tên của làng ở chân tháp Báo Thiên xưa.
Trong chùa Lý Quốc Sư còn có tượng các vị Từ Đạo Hạnh và Giác Hải làm bằng đá ở dạng phù điêu, giống phong cách các tượng đá ở miều Trung dùng cho các đền thờ thần Hindu. Cùng với việc thờ Đế Thích – Tứ Pháp ở chùa Báo Thiên, thì các phù điêu đá này cũng là dẫn chứng khác cho mối liên hệ giữa đạo Phật thời Lý của thiền sư Nguyễn Minh Không với Hindu giáo.

20190720_182204
Ban thờ chính ba vị thiền sư với các tượng phù điêu chùa Lý Quốc Sư.

Thiên Cang Bắc Đẩu Tinh quân ở Đồng Kỵ

IMG_4821
Nghi môn đình Đồng Kỵ.
Làng Đồng Kỵ ở Từ Sơn, Bắc Ninh từng nổi tiếng với hội thi pháo vào mồng 4 tháng Giêng hàng năm. Hội thi này có nguồn gốc cũng từ vị thần Thiên Cang là thành hoàng làng này như sau:
Thời Hùng Vương có ông Cang Công, con trai ông Kinh Bắc quận vương, có công dẹp giặc Xích Quỷ, được vua phong là Thiên Cang. Trên đường dẹp giặc, Thiên Cang đã về Đồng Kỵ tuyển quân chọn tướng. Vào ngày mồng 4 tháng Giêng, ông ra lệnh xuất quân đánh giặc. Thiên Cang chia quân làm 4 tốp và giao cho 4 tướng chỉ huy. Trong buổi xuất quân, mọi người tổ chức đốt pháo hò reo, tạo không khí náo nhiệt hào hùng để động viên quân sĩ. Khi dẹp xong giặc, Thiên Cang trở về Đồng Kỵ mở hội ăn mừng.

Để nhớ ơn Thiên Cang, làng Đồng Kỵ thờ đức Thiên Cang làm thành hoàng làng tại đình và hàng năm mở hội thi đốt pháo, tái hiện ngày Thiên Cang ra lệnh xuất quân đánh giặc.

Theo thần tích thì thần Thiên Cang đã có công dẹp quỷ Xích và sau đó là đánh giặc Ân.

IMG_4905
Đình Đồng Kỵ.
Câu đối ở đền Đồng Kỵ:
前伐鬼後破殷恒恒維烈
古生祠今清廟濯濯厥靈
Tiền diệt quỷ, hậu phạt Ân, hằng hằng duy liệt
Cổ sinh từ, kim thanh miếu, trạc trạc quyết linh.
Dịch:
Trước diệt quỷ, sau phá Ân, mãi mãi còn rạng
Xưa đền sinh, nay miếu thanh, ngời ngời khí thiêng.
Câu đối khác ý tương tự ở đình Đồng Kỵ:
氣奪殷師赫赫殸名垂北地
力撑雄運巍巍功德配南天
Khí đoạt Ân sư, hách hách thanh danh thùy Bắc địa
Lực sanh Hùng vận, nguy nguy công đức phối Nam thiên.
Dịch:
Khí giành Ân binh, hiển hách tiếng danh trùm đất Bắc
Sức nâng Hùng vận, nguy nga công đức khắp trời Nam.
IMG_4852
Cửa võng đình Đồng Kỵ.
Tuy nhiên, cũng có chỗ 2 công tích dẹp quỷ và phá giặc Ân này được gộp vào một, như trong câu đối ở đình:
神武掃清殷鬼賊
宗城永奠貉鴻基
Thần võ tảo thanh Ân quỷ tặc
Tông thành vĩnh điện Lạc Hồng cơ.
Dịch:
Võ thần quét sạch giặc Ân quỷ
Thành tổ lập dài nền Lạc Hồng.
Từ đó có thể nhận định, trong trận chiến với Hùng Vương, giặc Ân đã từng tạo ra dịch bệnh, hoặc cùng lúc đó đã xảy ra dịch bệnh. Đây là nạn dịch hạch hoặc đậu mùa, làm cho thân thể người mắc bệnh bị nổi đỏ. Vì thế các thần tích mới gọi là quỷ Xích.
Vị thánh Thiên Cang ở Đồng Kỵ như vậy vừa giúp chữa bệnh dịch cho dân, vừa đánh giặc Ân xâm lược. Trong sắc phong vị này được tôn làm Thiên Cang Đế:
Cao minh Bảo quốc Hộ dân Sóc giang Linh ứng Hiển hữu Thuần nhạ Thông triết Phù vận Tế thế Hộ quốc An dân Thiên Cang Đế Hiển linh Thông duệ Minh triết Trì đạt Anh mẫn Tế dân Đại vương.
IMG_4885
Bản chụp sắc phong Thiên Cang Đế ở Đồng Kỵ.
Điều đáng chú ý là tên “Thiên Cang” 天罡 vốn là từ để chỉ sao Bắc Đẩu. Thiên Cang Đế do đó tương ứng với Bắc Đẩu Tinh quân.
Mặt khác, theo Nam Việt Hùng Thị sử ký (Ngọc phả Hùng Vương) thì Phù Đổng Thiên Vương được phong: Sau lại phong là Xung Thiên Thần Vương (ngày xưa thần Bắc Đẩu Tinh Quân giáng sinh làm Xung Thiên Thần Vương).
Như vậy, Thánh Dóng là Bắc Đẩu Tinh quân giáng sinh. Từ đây suy ra, Thiên Cang Đế ở Đồng Kỵ cũng chính là Phù Đổng Thiên Vương.
Trong truyện Phong Thần diễn nghĩa, Khương Thái Công khi lập bảng Phong Thần cũng có phong cho các vị thần Bắc Đẩu Tinh quân, mà vị thần đứng đầu tên cũng là Thiên Cang.
Một câu đối khác ở đình Đồng Kỵ:
天造英威弌陣成功光鐵馬
地鍾神秀千秋靈蹟在同江
Thiên tạo anh uy, nhất trận thành công quang thiết mã
Địa chung thần tú, thiên thu linh tích tại Đồng giang.
Dịch:
Trời tạo oai tài, một trận thành công bừng ngựa sắt
Đất hun nét thánh, ngàn thu dấu diệu ở sông Đồng.
Câu đối lại kể vị thần tướng nhà Trời ở Đồng Kỵ đã đánh trận bằng “ngựa sắt”. Rõ ràng vị thần Thiên Cang này cũng chính là Thánh Dóng.
Các câu đối nói tới địa danh “Đồng giang”, “Đồng thủy”, cho thấy “Đồng” là tên riêng, chứ không phải Đồng Kỵ là cùng nhau làm giỗ. Rất có thể chữ “Đồng” ở đây là âm sai của Đổng trong Phù Đổng Thiên Vương.
Phù Đổng là tên phiên thiết. Phù ký âm cho âm “Ph”, đổi với các âm “B” và “D”. Do đó Phù Đổng đọc thiết có thể thành Bổng hoặc Dổng, từ đo cho tên Nôm là Dóng.
IMG_4940
Đền Đồng Kỵ.
Câu đối khác ở đình Đồng Kỵ
持地廠神皋西望峰州天日近
斯民陶聖武南来桐水雨膏流
Trì địa xưởng thần cao, Tây vọng Phong Châu thiên nhật cận
Tư dân đào thánh võ, Nam lai Đồng thủy vũ cao lưu.
Dịch:
Đất đó chỗ ở thần, Phong Châu gần mặt trời Tây hướng
Dân đây đúc võ thánh, sông Đồng nước đẫm chảy bên Nam.
Hội pháo làng Đồng Kỵ trước đây làm những quả pháo lớn bằng tre, nứa, rơm, cót, giấy và được trang trí cầu kỳ bằng các hình tượng Tứ linh Long Ly Quy Phượng. Khi rước pháo trong lễ hội có 4 ông quan đám mặc quần áo đỏ, chít khăn đỏ, tượng trưng cho 4 tướng tiên phong. Có thể thấy việc chia quân làm 4 đội là theo mô hình Tứ tượng mà được biểu trưng bằng Tứ linh – 4 linh vật. Mô hình Tứ tượng còn được thể hiện bằng tên gọi khác là Nhật nguyệt tinh thần, tạo thành hình Thái cực đồ.
Trong hội Đồng Kỵ còn có trò “ôm cột Thái Bạch” khi 4 ông quan đám đua nhau ôm được cây cột chính. Tên “Thái Bạch” cũng là biểu tượng của Dịch học, có thể là hình tượng cho vua giặc (vua Ân).  4 ông đám đua nhau ôm cột Thái Bạch là 4 tướng tiên phong của Thánh Dóng đua nhau bắt tướng/vua giặc Ân.
IMG_4879
Pháo lễ ở đình Đồng Kỵ với Tứ linh.
Với nhận định Thiên Cang Đế Đồng Kỵ là Phù Đổng Thiên Vương thì có thể tóm tắt diễn biến thời này như sau. Khi giặc Ân sang xâm chiếm nước của Hùng Vương, chúng còn gieo rắc dịch bệnh, làm người mắc bệnh nổi đỏ nên gọi là quỷ Xích. Khương Thái Công Lã Vọng (tức Thánh Dóng – Thiên Cang Đế) vừa cầm quân chống giặc Ân, vừa tìm cách chữa trị đẩy lùi bệnh dịch. Sau khi thắng được dịch bệnh, Khương Thái Công chuyển từ thế thủ sang thế công, xuất quân tấn công nhà Ân. Đội quân phạt Ân được chia làm 4 đạo tiên phong theo Tứ tượng Long Ly Quy Phượng. Dùng pháo làm hiệu lệnh.
Từ sự kiện lịch sử Khương Thái Công phát binh diệt Ân, làng Đồng Kỵ đã lưu thành phong tục, như câu đối ở đình làng:
聖澤流兮故里化成仁厚俗
神君至止斯民喧唱太平歌
Thánh trạch lưu hề, cố lý hóa thành nhân hậu tục
Thần quân chí chỉ, tư dân huyên xướng thái bình ca.
Dịch:
Ơn thánh truyền chừ, hóa nên làng cũ tục Nhân Hậu
Đức thần tới đó, vang hát dân đây khúc thái bình.
Nhân Hậu là tên làng Đồng Kỵ trước đây. Ở Bắc Ninh cũng từng có cả tổng Nhân Hậu.
IMG_4843
Cửa đình với hoành phi: Thánh trạch lưu hề.
Câu đối khác ở đình Đồng Kỵ:
基圖千古壯前島山後常領俱降
俎豆億年香左祠宇右春臺並壽
Cơ đồ thiên cổ tráng, tiền Đảo sơn, hậu Thường lĩnh câu giáng
Trở đậu ức niên hương, tả từ vũ, hữu xuân đài tịnh thọ.
Dịch:
Cơ đồ ngàn đời vững bền, trước Tam Đảo, sau núi Thường cùng giáng
Mâm bàn muôn năm hương lửa, trái mái đền, phải đài xuân lâu dài.

Truyền thuyết con Niên và hoa Đào, đốt pháo, treo câu đối đỏ ngày Tết

Tương truyền rằng, ngày xửa ngày xưa ở Trung Quốc có con thú dữ gọi là “Niên”, trên đầu mọc sừng, hết sức hung dữ. Thú “Niên” quanh năm suốt tháng sống dưới đáy biển, cứ đến đêm giao thừa thì nó mới lên bờ để giết súc vật và hại người.
Vì vậy, cứ đến ba mươi Tết, già trẻ gái trai trong các làng trại đều phải chạy vào rừng sâu núi thẳm khỏi bị thú dữ “Niên” làm hại.
Có năm vào ba mươi Tết, giữa lúc bà con trong thôn Hoa Đào đang dìu già dắt trẻ lên núi lánh nạn…
Hóa ra, thú dữ “Niên” rất sợ mầu đỏ, ánh lửa và tiếng nổ…
Thế là cứ vào ba mươi Tết, nhà nào nhà nấy đều dán câu đối đỏ, đốt pháo hoa, thắp đèn rực rỡ sáng trưng, đón chào Đêm giao thừa. Sáng mồng một Tết, mọi người đi thăm lẫn nhau, chúc mừng nhau. Chính vì thế tập tục này ngày càng được phổ biến rộng rãi và trở thành ngày Tết cổ truyền long trọng nhất của người dân Trung Quốc.

Đọc đoạn sự tích ngày Tết trên dễ dàng nhận ra đây là bối cảnh ở Việt Nam:
– Con Niên ở dưới đáy biển: ở bên Tàu thời cổ có biển không?

– Thôn Hoa Đào: ở Việt Nam có địa danh này, đó là vùng Thái Bình với tên Hoa Đào trang, nơi thờ đức vua cha Bát Hải Động Đình. Hoa Đào trang nằm giáp biển, thật quá chính xác.

– Bản thân hoa Đào nở vào dịp Tết. Thử hỏi ở bên Tàu hoa Đào có nở vào đúng dịp Tết hay không? Hoa “anh đào” của Tàu phải tới tháng 4-5 mới là mùa nở hoa. Tháng Giêng ở Tàu đang là giữa mùa Đông, lấy đâu ra hoa Đào?

Dong BangNghi môn đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ Thái Bình.

Câu đối ở đền Đồng Bằng, nơi thờ vua cha Bát Hải Động Đình:
Đào giang Động khẩu kỳ thiên tích
Sinh hóa thần tiên vạn cổ truyền.
Trong đền Đồng Bằng có bức chạm một loài thú lạ thân đuôi cá, nhưng mặt thú. Phải chăng đây chính là hình con Niên trong truyền thuyết, sống ở đáy biển, chỉ lên bờ vào đêm Giao thừa?

Con Nien

Con Niên (?) ở đền Đồng Bằng.

Sự tích con Niên với tục đón Giao thừa bằng pháo nổ, hoa đào và câu đối đỏ cho thấy đây chính là phong tục cổ truyền của người Viêt, xuất phát từ vùng đất ven biển Đông. Tết của người Hoa Hạ chính là Tết Việt vì Hoa – Hạ chỉ vùng phương Nam, nơi có Hoa Đào trang với đức vua cha Lạc Long Quân.

Giải nghĩa bài thơ thần vua Hùng cầu tiên trên núi Tây Thiên

Trong bản Ngọc phả Hùng Vương do Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn năm Hồng Đức thứ nhất (1470) có đoạn kể vua Hùng thứ bảy lên núi Tam Đảo lập Vọng Tiên đàn thành tâm cầu khấn được gặp tiên, nhưng sau ba ngày vẫn không thấy tung tích của thần tiên. Tối hôm đó Vua nằm mộng thấy có thần linh hiện lên đọc cho một bài thơ bốn câu…
Bài thơ này liên quan đến sự xuất hiện của vị tiên ở núi Tây Thiên. Tuy nhiên nó lại khá khó hiểu và ở các bản sao ngọc phả khác nhau chép có hơi khác nhau. Bản Ngọc phả ở xã Hy Cương (Phú Thọ) chép là:
西大山人上,
不見心下相,
會東足名人
尹 居上口旺
Tây đại sơn nhân thượng
Bất kiến tâm hạ tướng
Hội đông túc danh nhân
Doãn cư thượng khẩu vượng.
Taythien 2
Trang bản sao Ngọc phả ở Hy Cương có bài thơ thần trên núi Tây Thiên.
Bài thơ này xưa nay chưa thấy ai dịch và giải nghĩa vì câu từ của nó trúc trắc, khó hiểu. GS Ngô Đức Thọ khi dịch bản ngọc phả Hùng Vương của xã Hy Cương cũng đã không dịch bài thơ này.
Nay xin thử giải mã lời nhắn của thần linh cho vua Hùng trên núi Tây Thiên.
Ở câu thứ nhất, có bản sao ngọc phả khác chép là Tây Thiên 西天 chứ không phải Tây đại 西大. Tây Thiên là địa danh nơi vua Hùng gặp tiên nên khả năng dị bản Tây Thiên là đúng hơn.
Ở câu thứ ba, có bản chép là “túc các” 足各 chứ không phải “túc danh” 足名. “Túc các” mới là đúng, lý do xin xem giải thích ở dưới đây.
Tay Thien
Bản chép bài thơ với mở đầu Tây Thiên.
Ngoài chi tiết chỉ địa danh Tây Thiên thì bài thơ thần báo mộng này thực ra dùng phép “chiết tự” chữ Nho ở tất cả các câu. Chính vì thế nó trở nên đánh đố các bậc túc Nho xưa nay, bí hiểm như lời giáng xuất của thần linh. Các chữ chiết tự trong từng câu như sau:
 – Câu 1: “sơn nhân” 山人 là chiết tự của chữ Tiên 仙. Như thế ý câu đầu là: Tiên ở trên Tây Thiên.
– Câu 2: “tâm hạ tướng” 心下相 là chữ Tưởng 想. Ý câu 2 là: Không thấy được như mong tưởng.
– Câu 3: “túc các” 足各 là chiết tự chữ Lộ 路. Đông Lộ là nơi sau đó vua Hùng gặp bà Ngọc Tiêu.
– Câu 4: “doãn“尹 cư thượng (ở trên) “khẩu” 口 là chữ Quân 君 chỉ vua Hùng.
Như thế đã có thể dịch cả bài thơ này như sau:
Trên Tây Thiên tiên đó
Không thấy điều mong chờ
Gặp người nơi Đông Lộ
Vua sẽ được như mơ.

Vua Hùng thứ bảy sau khi được bài thơ thần này đã xuống núi Tây Thiên, tới chân núi thì gặp được một người con gái tuyệt đẹp tên là Ngọc Tiêu, nhà ở thôn Đông Lộ, là Tiên giáng thế đợi kết duyên với nhà vua. Vua cưới bà Ngọc Tiêu sinh được hoàng thái tử. Về sau vua Hùng thứ bảy cùng vương phi Ngọc Tiêu đã đắc đạo thành tiên, hóa sinh bất diệt…

IMG_1139.JPGBan thờ Tây Thiên quốc mẫu ở đền Sinh tại Đông Lộ, Đại Đình, Tam Đảo.

Nguồn gốc biểu tượng Lưỡng long chầu Thái cực

Có một hình tượng được sử dụng rất rộng rãi trong các công trình kiến trúc cổ đó là hình Lưỡng long chầu nhật/nguyệt. Hình tượng này có thể gặp ở khắp nơi, từ trên nóc mái kiến trúc, tại chính điện những nơi thờ cúng, trên cửa võng, hương án,… Một hình tượng phổ biến như vậy chắc chắn phải có nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa.

IMG_1509Lưỡng long chầu Thái cực trong kiến trúc hiện đại.

Trong bài trước đã xác định, hình cầu bốc lửa ở giữa mà đôi rồng chầu vào là Thái cực đồ, bao gồm 4 yếu tố trong Tứ tượng là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương. Hình tượng này còn có tên khác là Nhật nguyệt tinh thần, là 4 vì tinh tú biểu tượng cho Tứ tượng trong Thái cực đồ. Vậy thời xưa, Thái cực đồ được thể hiện như thế nào?

NNTTNhật nguyệt tinh thần trên Thái cực đồ.

Triết gia đời Tống Chu Đôn Di (1017-1073) viết “Thái Cực Đồ thuyết”: “Vô cực” là chưa thành “thái cực”. “Thái cực” hoạt động tạo ra dương, khi chuyển động đến giới hạn, nó trở nên tĩnh. Trong tĩnh, nó tạo ra âm, tới cực đại, nó lại hoạt động. Động và tĩnh chuyển hóa, cái này là nền của cái kia. Khi âm và dương đã phân hóa, hai trạng thái xuất hiện. Sự chuyển hóa và kết hợp của âm và dương tạo ra kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Với ngũ hành, các thời kỳ biến đổi của khí được sắp xếp hài hòa, qua đó bốn mùa được tiếp diễn. Ngũ hành đơn giản là âm và dương, âm và dương chẳng qua chính là thái cực, thái cực có nền tảng từ vô cực. Do vậy, trong quá trình tạo ra ngũ hành, mỗi hành đều chứa đựng bản chất riêng của nó.
Chu Đôn Di cung cấp đồ hình Thái cực lúc đó ở dạng các vòng tròng đen trắng xen lẫn nhau. Có thể thấy, trong Thái cực gắn liền với Ngũ hành. Cách thể hiện Thái cực đồ này cũng có gặp ở Việt Nam, trên một số viên gạch dùng để trang trí chùa thời Trần .

thai-cuc.png
Thái cực đồ của Chu Đôn Di

Trong thời kì nhà Minh (1368-1644) bắt đầu xuất hiện các đồ hình vòng xoáy thể hiện Thái cực rồi trở thành hình Thái cực hiện đại như ngày nay.
Vậy trước thời Tống liệu đã có Thái cực đồ chưa và Thái cực đồ lúc trước được thể hiện như thế nào?
Thái cực đồ của các thời kỳ trước nữa có thể tìm thấy thông qua hình ảnh của 2 con rồng chầu đồ hình ở giữa. Một đồ hình tròn, với 1 chấm nổi ở giữa và 4 chấm chìm xung quanh, được 2 con rồng chầu vào, là hình khắc trên đá mộ thời Bắc Ngụy (thế kỷ V).

Song LongLưỡng long chầu thời Bắc Ngụy.

Hình tròn ở giữa 2 con rồng chầu tương ứng với vị trí của Thái cực đồ , do đó có thể nhận định đây là một dạng thể hiện Thái cực đồ với các chấm tròn là biểu tượng của Ngũ hành như trong liên hệ của Chu Đôn Di ở trên.
Như đã từng biết, các hình tượng trong “Long sinh cửu tử”, những đứa con của Rồng từ Bị hí, Trào phong, Si vẫn, … đều có nguồn gốc từ các trang trí trên đồ đồng thời Thương Chu. Những hình tượng này được sử dụng rộng rãi trong kiến trúc truyền thống của đình đền miếu, cung điện… So sánh một cách hợp lý thì rõ ràng hình tượng Lưỡng long chầu Thái cực cũng sẽ thấy trên đồ đồng thời Thương Chu.

Ngu hanh do.jpgHoa văn Quỳ chầu trên đồ đồng thời Chu.

Hoa văn trên đồ đồng thời Chu có hình 2 con Quỳ (rồng 1 chân) đang hướng vào một vòng tròn với một chấm tròn ở giữa và 5 vòng xoáy xung quanh. Đồ hình này khá phổ biến trên đồ đồng thời Chu, ví dụ như trên một chiếc Vu thời Thương hiện lưu ở Bảo tàng cố cung Đài Loan.

Dai Loan.jpgHình tròn có 5 vòng xoáy trên một chiếc Vu đồng thời Thương.

Với vị trí ở giữa có rồng chầu như vậy, rõ ràng đây chính là biểu tượng của Thái cực đồ với Ngũ hành bên trong (Ngũ hành đồ?).
Hình tượng 2 con Quỳ chầu hình tròn được dùng để trang trí khắp trên một chiếc bình đồng khác của thời Chu. Điểm khác là trong hình tròn này chỉ có 4 vòng xoáy. Có thể nhận định tương đương với đồ hình Tứ tượng, như trong hình khắc đá thời Bắc Ngụy.

IMG_2033.JPGBình đồng có hình 2 con Quỳ long chầu Thái cực đồ.

Như vậy, hình tượng Lưỡng long chầu Nhật nguyệt có nguồn gốc từ thời Thương Chu, ban đầu là các hình tượng trên đồ đồng dùng cúng tế của thời kỳ này. Hình tượng Thái cực đồ ban đầu này có dạng là hình tròn, có 1 chấm ở tâm với 4 hoặc 5 vòng xoáy nhỏ xung quanh. Đây là dạng sơ khai nhất của Thái cực đồ còn được nhận ra.

Nhật Nguyệt Tinh Thần

Có một hình tượng được dùng rất phổ biến trong các đền miếu, được đặt một cách trang trọng ở chính giữa các công trình kiến trúc, điện thờ, vật thờ,… Đó là 2 linh vật đang chầu hay dâng một khối tròn, bốc lửa hoặc hình lá đề. Hình tượng này có ít nhất từ thời Lý, như trên cột đá chùa Dạm, trang trí đầu ống ngói ở Hoàng thành Thăng Long, trán bia chùa Long Đọi… Hai linh vật chầu hai bên có thể là Rồng, Phượng, thậm chí có chỗ là Cá hóa rồng.  Tên gọi và ý nghĩa của hình tượng này là gì?

Den Soc
Đền Thượng Sóc Sơn, với 2 lớp rồng chầu mặt nguyệt trên nóc.

Hình tượng hình tròn bốc lửa hay là đề ở chính giữa có nhiều cách gọi: Mặt nguyệt, Mặt trời, Ngọc, Âm dương, Thái cực. Nói chung tất cả đều thể hiện về một điều gì đó tôn quý, sơ khởi, có thể gọi là “nguyên thần”. 2 linh vật chầu vào “nguyên thần” ở giữa như thế là biểu tượng của tín ngưỡng hướng về nguồn cội, về gốc gác của vạn vật.

Luong long chau NNTT 3
Lá đề lưỡng long dâng châu ở hầm tòa nhà Quốc hội.

Hình tượng này có tên trong thư tịch cổ là Nhật Nguyệt tinh thần 日月星辰. Đây là cụm từ được sử dụng khá nhiều trong Ngọc phả Hùng Vương. Ví dụ các đoạn sau:
– Đoạn kể về thái tử Lạc Long Quân sau khi đi khắp nước về thăm Đế tổ là Đế Minh, Đế bá là Đế Nghi: Đế tổ Đế bá, thị Thái tử vi cốt nhục, quán như nhật nguyệt tinh thần, sí nhược kim bảo châu ngọc, đại vật bất tề. Dịch ý: Đế tổ, Đế bá coi Thái tử như cốt nhục, xem như nhật nguyệt tinh thần, quý như châu ngọc vàng báu, vật quý cũng không bằng.

Quan nhu NNTT
Một trang Ngọc phả Hùng Vương dùng cụm từ Nhật nguyệt tinh thần.

– Đoạn Ngọc phả bàn về thời đầu Hùng Vương thịnh trị: Tứ phương bách tính, dĩ thần thuộc sự. Vạn dân tắc canh điền giám tỉnh, tuế tác nhập tức. Thiên địa nhật nguyệt tinh thần, âm dương dĩ chính, tứ thời tiết hậu. Dịch ý: Bốn phương trăm họ đều thần thuộc. Vạn dân được cày ruộng soi giếng, ăn nên làm ra. Trời đất nhật nguyệt tinh thần đều chính. Bốn mùa khí hậu an hòa.
– Đoạn kể về Lão tiên ông chống gậy trúc ở bến sông Việt Trì được Hùng Hiền Vương mời về đặt định tên cho trăm hoàng tử: Lão hữu thần thư nhất quyển, bốc tri thiên địa nhật nguyệt tinh thần, hô danh tiên pháp. Dịch ý: Lão có một quyển sách thần, là xem mà biết phép tiên, gọi tên trời đất nhật nguyệt tinh thần
– Đoạn về Hùng Vương dùng lễ dối, bị Trời giáng tai họa: Đắc Thân niên Thân nguyệt, nhật nguyệt tinh thần xuất tuệ, phong vũ bất điều, thì khí bất chánh, thử nhân quân đức chánh vị thuần. Dịch ý: Đến năm Thân tháng Thân, nhật nguyệt tinh thần rơi rụng. Mưa gió không điều hòa. Khí thời không chính. Đức của người làm vua không được thuần.
– Đoạn Hùng Huy Vương cho xây dựng điện thờ trên núi Nghĩa Lĩnh: Phát tích tại bản tự, đắc thần bộ chúng, giáng thế phù dực, sơn hà chung linh tú dị, nhật nguyệt tinh thần, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương, Nhị thập bát tú, Bách thần đô hội. Dịch ý: Dấu tích bắt đầu tại chùa này, nơi được các bộ chúng thần giáng thế giúp đỡ, núi sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, Nhật nguyệt tinh thần, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương, Nhị thập bát tú cùng trăm thần tụ hội.

Luong long chau NNTT
Hình tượng Nhật nguyệt tinh thần dưới dạng Thái cực đồ ở một ngôi đình tại Phú Thọ.

Nghĩa cụm từ này không hẳn như vẫn dịch là “Mặt trăng Mặt trời Tinh tú”. Nhật Nguyệt Tinh Thần là cụm từ chỉ 4 trạng thái trong Tứ tượng:

  • Nhật (Mặt Trời) – tương ứng với Thái Dương.
  • Nguyệt (Mặt Trăng) – tương ứng với Thái Âm.
  • Tinh (các vì sao đứng yên, định tinh) tương ứng với Thiếu Âm.
  • Thần (hay Thìn, các ngôi sao chuyển động, hành tinh) tương ứng với Thiếu Dương.
NNTT

Như vậy cụm từ “Nhật nguyệt tinh thần” là tương đương với Thái cực đồ, mà trong đó có cả Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương. Đây là dẫn chứng rõ ràng cho thấy hình ảnh “mặt nguyệt” mà đôi rồng chầu gặp trong đền miếu có tên là Nhật Nguyệt Tinh Thần, là đồ hình Tứ tượng, bao quát hết cả không gian và thời gian.
Đồ hình Thái cực – Tứ tượng – Nhật nguyệt tinh thần này còn trở thành hình lá đề trong các chủ đề được trình bày thời Lý, như trên cột đá chùa Dạm hay trên trang trí nóc Hoàng thành Thăng Long.

Luong long chau NNTT 4
Lưỡng long dâng chầu Nhật nguyệt tinh thần ở chùa Dạm, Bắc Ninh.

Trong lễ tục truyền thống, hình tròn Nhật nguyệt tinh thần còn gặp ở các tục vật cầu, ở Thúy Lĩnh (Lĩnh Nam, Hà Nội) hay làng Vân (Việt Yên, Bắc Giang). Bản thân các quả cầu này cũng là vật được thờ trong đình làng. Ngày hội khi đêm cầu ra cũng làm lễ tế, rước. Ở làng Vân có quan niệm:
Quả cầu ở đây tượng trưng cho mặt trời. Nó được mang, được vác, được tung từ Đông sang Tây theo hướng mặt trời mọc và lặn. Cướp được cầu cũng có nghĩa là cướp được mặt trời, cướp ánh nắng cho lúa khoai.
Nhìn nhận xa hơn thì quả cầu là hình tượng của “Nhật nguyệt tinh thần” hay Thái cực đồ vẫn được dùng cho rồng, phượng chầu trong đền miếu. Quả cầu như thế là sự hội tụ về tinh thần của trời đất vạn vật. Với nghĩa đó nó được thờ cúng và lễ rước.

Cau Thuy Linh.jpg
Các quả cầu trong hội vật cầu làng Thúy Lĩnh (Lĩnh Nam, Hà Nội).